VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BRÍU THỊ NEM
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BRÍU THỊ NEM
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH NHƯ HOÀI
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn
toàn là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Tôi cũng xin cam đoan rằng
số liệu trích dẫn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về luận văn này.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Bríu Thị Nem
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ .................. 9
1.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công
chức người dân tộc thiểu số. .................................................................................. 9
1.2. Quy trình thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức người dân tộc
thiểu số. ................................................................................................................ 17
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách phát triển cán
bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở địa phương. ............................................ 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN TÂY
GIANG, TỈNH QUẢNG NAM .................................................................................. 29
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình cơ cấu cán bộ,
công chức người dân tộc thiểu số của huyện Tây Giang. .................................... 29
2.2. Tình hình thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức người dân tộc
thiểu số ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến 2019. .............. 37
2.3. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công
chức người dân tộc thiểu số ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2011
đến 2019. .............................................................................................................. 47
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU
SỐ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM GIAI
ĐOẠN 2021-2026, TẦM NHÌN 2026-2031 ................................................................. 60
3.1. Một số quan điểm định hướng cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách phát triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở huyện Tây Giang giai
đoạn 2021-2026, tầm nhìn 2026-2031. ................................................................ 60
3.2. Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát
triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Tây Giang,
tỉnh Quảng Nam. .................................................................................................. 63
KẾT LUẬN………………………………………………………………………75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 DTTS Dân tộc thiểu số
2 CB,CC Cán bộ, công chức
3 CBCCVC Cán bộ công chức viên chức
4 CBCCCX Cán bộ công chức cấp xã
5 XHCN Xã hội chủ nghĩa
6 HĐND Hội đồng nhân dân
7 UBND Ủy ban nhân dân
8 THCS Trung học cơ sở
9 THPT Trung học phổ thông
DANH MphH phổ th
Số hiệu Tên bảng Trang bảng
2.1 34
Thống kê cơ cấu trình độ các mặt của cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số cấp huyện và cấp xã ở huyện Tây Giang
2.2 35
Thống kê số lượng cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý ở cấp huyện và cấp xã ở huyện Tây Giang năm 2019
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách phát triển cán bộ, công chức ở mọi giai đoạn cách mạng vốn
là yếu tố nền tảng quan trọng, là một trong những nguyên nhân quyết định đến
chất lượng và hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức. Trong thời kỳ đổi mới,
việc thực hiện chủ trương, chính sách về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức người dân tộc thiểu số được Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan
tâm trên cơ sở tình hình đặc điểm tộc người cụ thể của các địa phương, thực hiện
các chế độ ưu tiên đối với đối tượng là người DTTS trong tuyển dụng (xét tuyển,
thi tuyển), bố trí, phân công công tác đối với các đối tượng cử tuyển sau khi tốt
nghiệp, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS… Đến nay đội ngũ
cán bộ là người DTTS trong hệ thống chính trị ở cấp địa phương được phát triển
cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhất định về yêu cầu và nhiệm vụ ở giai
đoạn hiện nay.
Tuy vậy, chủ trương của Đảng về công tác dân tộc chưa được luật hóa đầy
đủ để đi vào áp dụng thực tiễn của việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ,
công chức là người DTTS; nói cách khác, hành lang pháp lý ở lĩnh vực này còn
chưa đầy đủ và cũng chưa đồng bộ, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong các chính
sách tuyển dụng, quản lý, sử dụng CBCCVC người DTTS ở một số địa phương.
Hơn nữa, hiện nay trong chính sách phát triển cán bộ, công chức người DTTS
còn nhiều bất cập, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với nhóm đối tượng
đặc thù này còn thiếu hiệu quả, chuẩn đầu ra còn chung chung. Mặt khác, việc
thực thi chính sách phát triển cán bộ, công chức người DTTS lại đang gặp phải
vướng mắc là khung năng lực cụ thể cho cán bộ công chức theo vị trí việc làm
hoặc theo chức danh ở nước ta đang xây dựng và chưa hoàn thiện. Công tác đánh
giá thực hiện các chính sách này cũng chưa thường xuyên. Ở các địa phương có
1
đông đồng bào là người DTTS, thì tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người
DTTS còn thấp…
Đối với huyện Tây Giang (tỉnh Quảng Nam) là địa bàn miền núi biên giới
có số dân đang sinh sống là 4.912 hộ/20.186 khẩu (năm 2018), có 16 thành phần
dân tộc anh em cùng sinh sống trên địa bàn huyện với số đông là người DTTS,
trong đó đại bộ phận là đồng bào dân tộc Cơtu chiếm hơn 92% dân số huyện Tây
Giang. Đội ngũ cán bộ, công chức người DTTS trên địa bàn huyện Tây Giang
hiện có: với cấp huyện chiếm khoảng 40% (58/145 người) và cấp xã chiếm
khoảng 92,6% (225/243 người)…
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn nêu trên cùng với việc để triển khai có hiệu
quả Quyết định 402/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2016 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án “Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người
dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới”, đòi hỏi cần có các nghiên cứu sâu và khảo
sát tình hình thực tế lĩnh vực này là cấp thiết. Với lý do này, tác giả đăng ký lựa
chọn đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam”
để thực hiện luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan đến chính sách và thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công
chức người dân tộc thiểu số là nhóm vấn đề được các cơ quan quản lý nhà nước,
các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu khoa bàn luận nhiều, nhất là
trong giai đoạn hiện nay. Điển hình có thể nêu ra một số nghiên cứu sau:
- Lê Hữu Nghĩa (2002), Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên. Nghiên cứu này đã xác định
vai trò, tầm quan trọng cũng như đánh giá khách quan về thực trạng của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên trong giai
đoạn mới hiện nay. Qua đó, đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên.
2
- Lê Mậu Lâm và cộng sự (2017), “Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số”. Nhóm tác giả đã chỉ ra một trong các nguyên nhân hạn chế của đội
ngũ cán bộ DTTS là do công tác đào tạo chưa gắn với nhu cầu sử dụng. Kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; nội dung, chương
trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng chưa thật sự phù hợp. Căn cứ vào thực
trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS ở nhiều tỉnh miền núi, bài
viết này cũng chỉ ra rằng, nếu không được tăng cường về số lượng, nâng cao về
chất lượng, thì đội ngũ này không những không đủ năng lực thực thi nhiệm vụ
mà còn có thể trở thành lực cản đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội cũng
như sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bài viết đã nêu ra vấn đề cấp bách
và lâu dài, phải xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, trình độ, sâu sát và thấu
hiểu đời sống nhân dân. Trong đó, ưu tiên cán bộ các cấp người DTTS, nhất là ở
cấp cơ sở.
- Điêu- Kré (2017), “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở các tỉnh Tây Nguyên”,
bài viết này nhấn mạnh việc cần ban hành một số chính sách thu hút cán bộ, công
chức về công tác tại địa phương, như: Coi trọng về đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc
cho cán bộ người kinh được; Đưa vào giảng dạy ở địa phương các thứ tiếng DTTS
cho cán bộ người kinh; Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở là người DTTS,
ngoài việc truyền đạt kiến thức chung, cần tạo điều kiện cho họ phát triển năng lực
tổ chức thực tiễn…
- Tôn Thị Ngọc Hạnh (2017), Hoàn thiện chính sách phát triển đội ngũ
Hiệu trưởng trường Trung học phổ thông khu vực Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ
chuyên ngành Quản lý giáo dục, Đại học Thái Nguyên. Công trình này tiếp cận ở
góc nhìn quản lý giáo dục và chính sách công để nghiên cứu thực trạng chính
sách phát triển đội ngũ hiệu trưởng trường trung học phổ thông công lập khu vực
Tây Nguyên hiện nay, chỉ ra: mặt mạnh và mặt yếu, thời cơ và thách thức; các
tác động của hệ thống chính sách đến sự phát triển đội ngũ hiệu trưởng trường
trung học phổ thông khu vực Tây Nguyên. Qua đó, công trình đề xuất các giải
3
pháp để hoàn thiện chính sách phát triển đội ngũ hiệu trưởng trường trung học
phổ thông khu vực Tây Nguyên.
- Nguyễn Văn An (2017), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã người dân tộc thiểu số ở tỉnh Điện Biên trong điều kiện mới. Luận án này
cung cấp một số vấn đề lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
và định dạng những đặc điểm của cán bộ, công chức cấp xã người DTTS ở tỉnh
Điện Biên. Đồng thời, trình bày phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã người DTTS ở tỉnh Điện Biên: về cơ cấu, phẩm chất, trình độ,
kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm công tác, về khả năng phối hợp trong công
việc và kết quả thực hiện công tác. Qua đó, luận án đã đề xuất hệ giải pháp nâng
cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã người DTTS ở tỉnh Điện Biên gồm: (i)
Đổi mới nhận thức, cách tiếp cận về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã người DTTS; (ii) Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách cho cán
bộ, công chức cấp xã nói chung và cán bộ, công chức cấp xã người DTTS nói
riêng; (iii) Đổi mới công tác quản lý CBCCCX người DTTS; (iv) Giải pháp khai
thác, phát huy, sử dụng tri thức bản địa các dân tộc trong tăng cường năng lực
CBCC cấp xã người DTTS; (v) Tạo môi trường làm việc tốt, xây dựng văn hoá
tổ chức, nâng cao nhận thức và năng lực tự hoàn thiện của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã người DTTS; (vi) Tổ chức và thực hiện quản lý chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã người DTTS…
Ở Việt Nam đã có nhiều diễn đàn học thuật trao đổi các nghiên cứu xoay
quanh chính sách phát triển cán bộ, công chức người DTTS, mà điển hình gần
nhất ngày 17 tháng 7 năm 2019 có Hội thảo về Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số do Bộ Nội vụ phối hợp cùng Ban Tổ chức Trung ương và Ban Dân vận
Trung ương đồng tổ chức. Tại Hội thảo này có nội dung trao đổi, tập trung vào
một số vấn đề trọng tâm, như: Đánh giá về chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, đãi ngộ đối với cán bộ người DTTS trong xây dựng đội ngũ cán
bộ DTTS, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay; Xây dựng đội ngũ
4
cán bộ, công chức, viên chức DTTS trong thời kỳ mới và công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở ở vùng đồng bào DTTS trên cả nước; Giải pháp xây
dựng đội ngũ CBCCVC ở vùng đồng bào DTTS; Đánh giá kết quả công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, sử dụng và phát triển đội ngũ cán bộ người
DTTS; Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
vùng đồng bào DTTS, đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những công trình kể trên nghiên cứu từ nhiều góc độ về vấn đề cán bộ
vùng DTTS: Nhấn mạnh vị trí và tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số - với tư cách là một bộ phận hợp thành quan trọng để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng trong giai đoạn hiện nay; Đánh giá
chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ đối với cán bộ người
DTTS trong xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS; Đặt ra vấn đề cấp thiết của tạo lập
một đội ngũ cán bộ DTTS đủ mạnh; Đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức người DTTS... Đây là cơ sở tham khảo có nhiều giá trị khi bàn về
vấn đề cán bộ vùng DTTS mà luận văn thạc sĩ quan tâm nghiên cứu. Tuy vậy,
việc đề cập đến nghiên cứu về thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức người DTTS đối với huyện Tây Giang (Quảng Nam) thì đến nay vẫn
chưa có công trình nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển
đội ngũ cán bộ, công chức người DTTS trên địa bàn huyện Tây Giang, tỉnh
Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải và góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận về thực hiện chính
sách đội ngũ phát triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số.
5
- Nghiên cứu phân tích thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ cán bộ, công chức người DTTS ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất định hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người DTTS trên địa bàn huyện
Tây Giang, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc
thiểu số trên địa bàn huyện Tây Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung:
Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc
thiểu số.
- Phạm vi không gian:
Địa bàn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi thời gian:
Từ năm 2011 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa
học của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; và quan điểm chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về thực hiện chính
sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong đó có chính sách phát triển cán
bộ, công chức người dân tộc thiểu số để làm định hướng nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu một số phương pháp cụ thể, đó là:
- Vận dụng phương pháp nghiên cứu quy trình chính sách công và thực thi
chính sách công với sự tham gia của các chủ thể chính sách.
6
- Phương pháp thu thập thông tin từ các tài liệu thứ cấp bao gồm văn kiện,
nghị quyết, chỉ thị và phân tích văn bản quy phạm pháp luật.
- Phương pháp phân tích logic tổng hợp liên quan tới thống kê, so sánh...
để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống: để hệ thống hóa, khái quát hóa cơ sở
lý luận về thực hiện chính sách.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu góp phần hệ thống hóa làm rõ hơn cơ sở lý luận về
thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số từ góc
độ nghiên cứu chính sách công. Đồng thời, đề xuất định hướng cho việc nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức người dân tộc
thiểu số.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ nghiên cứu tình hình thực tiễn, phân tích đánh giá thực trạng thực
hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở huyện
Tây Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến năm 2019, luận văn đề xuất các
giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cán bộ,
công chức người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng
Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà lãnh
đạo, quản lý điều hành ở cấp địa phương và nhà hoạch định chính sách về phát
triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu nội
dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán
bộ, công chức người dân tộc thiểu số.
7
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức người dân tộc thiểu số ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2021-2026, định hướng 2026-
2031.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò thực hiện chính sách phát triển
đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số (CB,CC người DTTS) là thuật
ngữ được đề cập phổ biến trong nhiều công trình tài liệu nghiên cứu liên quan và
hệ thống văn bản của Đảng và Nhà nước ta.
* Dân tộc thiểu số:
Theo Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “dân tộc thiểu số là dân tộc có số
dân ít, cư trú trong cộng đồng quốc gia nhiều dân tộc (có một dân tộc đa số)
sống trong vùng hẻo lánh, ngoại vi, vùng ít phát triển về kinh tế - xã hội” [36;
tr.520].
Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày
14-01-2011 của Chính phủ về công tác dân tộc đã giải thích thuật ngữ: “Dân tộc
thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Còn “Dân tộc đa số” là dân
tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc
gia. [6]
Việt Nam gồm có 54 dân tộc trong cộng đồng các dân tộc, trong đó, dân
tộc Kinh là dân tộc đa số, còn lại 53 dân tộc anh em khác có số dân ít hơn được
gọi là (DTTS).
* Cán bộ, công chức:
Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Cán bộ là người làm công tác có
nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước, cán bộ khoa
học, cán bộ chính trị; người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
9
chức, phân biệt người không có chức vụ [27; tr.109]. Tại khoản 1 Điều 4 Luật
cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định: Cán bộ là công dân Việt Nam, được
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ
quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước [29].
Công chức (theo khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008) là
công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước...
Đối với CB,CC cấp xã, tại khoản 3 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm
2008 quy định: Cán bộ xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND,
UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
Từ các khái niệm, quan điểm về CB,CC nêu trên, các đặc trưng của
CB,CC đó là: (1) CB,CC giữ một chức vụ, trọng trách trong hệ thống chính trị
nói chung; (2) CB,CC phải qua bầu cử, tuyển chọn, đề bạt; (3 CB,CC được sự ủy
thác của Nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và lấy danh nghĩa
của Nhà nước và các tổ chức đó để hoạt động; (4) CB,CC hưởng lương và
hưởng chế độ đãi ngộ căn cứ vào chất lượng lao động của họ.
10
Như vậy, CB,CC người DTTS trước hết là công dân Việt Nam thuộc
DTTS được bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm vào các vị trí việc làm, chức danh
nhất định trong hệ thống chính trị, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và
chế độ đãi ngộ theo quy định của pháp luật.
* Phát triển và phát triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
Phát triển là thuật ngữ dùng để chỉ quá trình sự vật vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ kém hoặc chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phát triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số là quá trình gia tăng
giá trị về kiến thức, trí tuệ, kỹ năng và đạo đức, phẩm chất cho cán bộ, công
chức người dân tộc thiểu số giúp cho họ có những phẩm chất và năng lực cao,
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ phát triển mới.
* Chính sách công:
Chính sách nói chung và chính sách công nói riêng vốn là thuật ngữ được
sử dụng khá phổ biến ở trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; và chúng được
hiểu theo nhiều cách, như:
- Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ
trong một thời gian ngắn nhất trên các lĩnh vực cụ thể nào đó.[35]
- Chính sách được hiểu là sự bao hàm từ những quyết định có tính tương
đối ngắn hạn đến các quyết định chiến lược, có ảnh hưởng lớn đến tổ chức và
quốc kế dân sinh.[25]
- Chính sách công là sự tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau được
ban hành bởi một nhà chính trị hoặc một nhóm các nhà chính trị lựa chọn để giải
quyết các mục tiêu và phương tiện thuộc phạm vi thẩm quyền của họ nhằm đạt
mục tiêu trong một tình huống cụ thể.[43]
- Chính sách công là một đường lối hành động được theo đuổi hoặc thông
qua bởi chính quyền, đảng, nhà cai trị, chính khách (theo Oxford English
Dictionary).
- Chính sách công là bất cứ những gì mà nhà nước lựa chọn làm hoặc
11
không làm (Thomas R.Dye).
- Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của nhà nước,
nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra và đảm bảo
cho xã hội phát triển bền vững, ổn định.[21]
- Chính sách công là chương trình hành động của Nhà nước nhằm giải
quyết các vấn đề cụ thể.[40; tr.114]
Như vậy, từ những đặc điểm về chính sách công thì dấu hiệu tương đối
thống nhất có thể chỉ ra, đó là: (1) Chính sách công do Nhà nước ban hành bởi
những quyết định quản lý gắn kết nhau kèm theo chương trình hành động hướng
vào giải quyết vấn đề công cộng và tác động đến lợi ích của một hay nhiều nhóm
dân cư trong xã hội (thể hiện một cách tập trung về mối quan hệ giữa đảng cầm
quyền, nhà nước và xã hội); (2) Mục tiêu của chính sách công là nhằm vào việc
điều chỉnh hành vi hoặc tạo ra những chuyển biến về hiện trạng vấn đề để hiện
thực hóa các mục tiêu phát triển của xã hội.
Theo đó, có thể hiểu: Chính sách công là tập hợp những quyết định quản
lý do Nhà nước ban hành để lựa chọn mục tiêu, giải pháp, công cụ để giải
quyết vấn đề nào đó trong đời sống thực tiễn, nhằm phục vụ cho lợi ích công và
bảo đảm cho xã hội phát triển theo định hướng xác định.
* Thực hiện chính sách công:
Thực hiện chính sách công, đó là bước chuyển biến ý đồ của chính sách
thành kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức của cơ quan nhà
nước nhằm hiện thực hóa mục tiêu đã đề ra[26; tr.112]). Với học giả Thomas
Dye cho rằng, thực hiện chính sách công là việc tổ chức thiết kế các hoạt động
để thực thi chính sách đã được cơ quan lập pháp phê chuẩn[32; tr.97]. Như vậy,
có thể xác định: Thực hiện chính sách công là quá trình chuyển hóa ý chí của
chính sách công thành hiện thực thông qua tổ chức các hoạt động của cơ quan
12
nhà nước có thẩm quyền có liên quan để tác động lên đối tượng quản lý nhằm
đạt mục tiêu dự kiến.
* Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân
tộc thiểu số.
Chính sách phát triển CB,CC người DTTS là tập hợp những quyết định do
Nhà nước ban hành để lựa chọn mục tiêu, giải pháp, công cụ để giải quyết vấn
đề thực tiễn về CB,CC người DTTS nhằm xây dựng một đội ngũ CB,CC người
DTTS có đủ số lượng và cơ cấu hợp lý, đảm bảo chất lượng được chuẩn hoá
đồng bộ về trình độ và kỹ năng, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong giai
đoạn nhất định.
Như vậy: Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS
được hiểu là quá trình chuyển hóa ý chí của chính sách này thành hiện thực
thông qua tổ chức các hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tác
động lên CB,CC người DTTS nhằm đạt mục tiêu xây dựng một đội ngũ CB,CC
người DTTS có đủ số lượng và cơ cấu hợp lý, đảm bảo chất lượng được chuẩn
hoá đồng bộ về trình độ và kỹ năng, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong
giai đoạn nhất định.
1.1.2. Đặc trưng của chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức
người dân tộc thiểu số
- Chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS là chương trình hành
động của Nhà nước hướng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra đối với
CB,CC người DTTS.
- Mục tiêu của chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS là tạo ra
sự chuyển biến về hiện trạng vấn đề để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một đội
ngũ CB,CC người DTTS có đủ số lượng và cơ cấu hợp lý, đảm bảo chất lượng
được chuẩn hoá đồng bộ về trình độ và kỹ năng, đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội. Trong đó, mục tiêu trước tiên là giúp cho CB,CC người DTTS điều chỉnh
hành vi phù hợp để tạo nên giá trị chất lượng đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ
13
chính trị đã được xác định về vị trí việc làm, vị trí chức danh của họ trong tổ
chức, cơ quan của hệ thống chính trị.
- Chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS gắn liền với nội dung
căn bản, đó là:
(1) Quy hoạch phát triển nhân lực CB,CC người DTTS để tập hợp, đào
tạo và bố trí sử dụng một đội ngũ CB,CC người DTTS như dự kiến có đủ số
lượng và cơ cấu hợp lý, đảm bảo chất lượng về trình độ chuyên môn, trình độ
lý luận chính trị và kỹ năng làm việc;... để đáp ứng yêu cầu;
(2) Thu hút, tuyển dụng CB,CC người DTTS: Nếu chính sách thu hút nhân
sự là người DTTS phù hợp với yêu cầu vị trí việc làm/ chức danh thực tế và đáp
ứng được nhu cầu tối thiểu của họ thì sẽ tuyển dụng được đội ngũ CB,CC người
DTTS đáp ứng nhu cầu, đủ số lượng và có cơ cấu hợp lý, đảm bảo chất lượng về
trình độ và kỹ năng;
(3) Sử dụng và đánh giá CB,CC người DTTS: Nếu việc sử dụng hợp lý và
tuân theo quy định của pháp luật thì việc đánh giá chất lượng CB,CC người
DTTS ắt hẵn sẽ rõ ràng và cụ thể hơn, khắc phục và phòng tránh tình trạng
đánh giá “cào bằng” như hiện nay;
(4) Đào tạo, bồi dưỡng CB,CC người DTTS;
(5) Chế độ đãi ngộ đối với CB,CC người DTTS để chi trả tiền lương và
các khoản hỗ trợ phụ cấp khác tương xứng với sự cống hiến/đóng góp của
CB,CC người DTTS trong quá trình làm việc.
1.1.3. Vai trò của việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức người dân tộc thiểu số
Thực hiện chính sách công là một khâu có vị trí rất quan trọng trong chu
trình chính sách. Quả vậy, chính sách công là công cụ thể hiện ý chí chủ thể
tác động đến các đối tượng bằng các phương thức xác định. Song chức năng,
vai trò của chính sách chỉ có thể thực hiện khi và chỉ khi nó tham gia vào quá
trình triển khai thực hiện trên thực tế. Việc thực hiện chính sách công là một yêu
14
cầu tất yếu để chứng minh sự tồn tại của chính sách là công cụ mà Nhà nước sử
dụng nhằm thể chế hóa các mục tiêu của Đảng lãnh đạo thành hiện thực. Theo
Wayne Hayes [44] chỉ ra, trong thực hiện chính sách có bốn trường hợp thường
xảy ra, đó là: (1) Chính sách tốt và thực hiện tốt đem đến thành công; (2)
Chính sách tốt nhưng thực hiện lại tồi, dẫn đến thất bại; (iii) Chính sách tồi
song thực hiện tốt, có thể đem lại thành công; (iv) Chính sách tồi và thực hiện
cũng tồi, dẫn đến thất bại kép.
Nói cách khác, nếu chính sách công không thực hiện đúng thì sẽ khiến sự
sụt giảm lòng tin và sự phản ứng của dân chúng đối với Nhà nước, kéo theo
những bất lợi ở cả khía cạnh chính trị và xã hội.
Đối với thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS cũng vậy.
Xuất phát từ vai trò: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Công việc thành công
hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém[22; tr.309 & 273]. Như thế, thực hiện
chính sách phát triển CB,CC người DTTS có tác động đặc biệt đối với chiến
lược phát triển CB,CC. Đây là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước ta được chú trọng hiện nay. Đúng vậy, chính sách phát triển CB,CC người
DTTS là một hợp phần cấu thành của chính sách cán bộ, là công cụ chính để
Nhà nước định hướng trong hoạt động quản lý, sử dụng và phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh quốc phòng của vùng đồng bào DTTS nói riêng và của quốc gia
nói chung.
Thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS là công cụ có tầm
quan trọng đặc biệt để giải quyết các vấn đề thách thức và hạn chế đang đặt ra từ
thực tiễn CB,CC người DTTS ở các vùng miền nhằm kỳ vọng phát triển đội ngũ
này đảm bảo chất lượng đồng bộ và cơ cấu hợp lý đáp ứng ngang tầm yêu cầu
nhiệm vụ mới. Việc hình thành và đảm bảo nâng cao chất lượng của đội ngũ
CB,CC người DTTS luôn gắn liền và chịu sự chi phối của hệ thống chính sách
phát triển CB,CC trong quá trình thực hiện. Bởi điều quan trọng hơn cả, đó là
15
cùng với hệ thống văn bản chính sách phát triển CB,CC người DTTS được ban
hành, thì việc thiết lập chương trình hành động phải khả thi để tiến hành tổ chức
thực hiện với các kế hoạch cụ thể gồm mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp, công cụ và
tiến độ thực hiện phù hợp với thực tiễn ở các địa bàn mà chính sách nhắm đến.
Thông qua thực thi chính sách phát triển CB,CC người DTTS để thực hiện các
chính sách cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, quy hoạch, sử dụng CB,CC
người DTTS tại các địa phương: một mặt vừa để nâng cao trình độ giác ngộ, bồi
dưỡng phẩm chất chính trị, rèn luyện đạo đức lối sống; một mặt khác quan trọng
không kém đó là vừa trau dồi hình thành kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ để
nâng cao năng lực hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ CB,CC người DTTS,
đồng thời khai thác tốt lợi thế lớn ở khía cạnh văn hóa, tập quán của vùng DTTS,
góp phần lớn vào việc tạo nên sự cân bằng, hài hòa về chất lượng hoạt động của
hệ thống chính trị các cấp ở địa phương; cũng như hiện thực hóa chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn xã hội.
Thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS thông qua việc bố trí
và sử dụng họ đúng tiêu chuẩn, đúng người - đúng việc (phù hợp với sở trường
của CB,CC người DTTS). Qua đó, đội ngũ CB,CC người DTTS phát huy tốt
chất lượng và hiệu quả trong công tác thực tiễn, tạo sự ảnh hưởng tích cực có sức
thuyết phục, tạo sự đoàn kết - đồng thuận và gia tăng niềm tin trong nhân dân
vùng DTTS đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vai trò này
vừa là động lực tích cực, vừa là phát huy bản lĩnh và năng lực công tác để hoàn
thành chức trách nhiệm vụ được giao phó. Hơn nữa, chất lượng, hiệu quả hay
tính đúng đắn của chính sách phát triển CB,CC người DTTS chỉ có thể được
kiểm chứng xác thực thông qua thực hiện chính sách này và chúng được đo
lường khi cộng đồng xã hội và đối tượng người DTTS thụ hưởng thực sự hài
lòng.
Thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS là chẳng những thực
hiện chuẩn hóa, mà còn trẻ hóa đội ngũ CB,CC người DTTS cả trước mắt và
16
trong tương lai, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trọng yếu của Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng và nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII.
Thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS là cơ sở thực tiễn
thuyết phục (vào thực tiễn mới thuộc bài) để điều chỉnh hoàn thiện chính sách
này tốt hơn. Theo đó, việc không ngừng hoàn thiện quá trình thực hiện chính
sách phát triển CB,CC người DTTS là nhân tố mở đường tích cực để tạo nhiều
điều kiện và cơ hội (thu hẹp sự chênh lệch khoảng cách về trình độ giữa CB,CC
ở các vùng miền trong phát triển), thiết lập môi trường bình đẳng cho mọi
CB,CC người DTTS phát huy tối ưu năng lực sáng tạo của mình trong công tác;
cũng như góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, bảo đảm cho mọi người
sống trong bình đẳng, phát triển hài hòa.
1.2. Quy trình thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức người dân tộc thiểu số
Quá trình thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS
được tổ chức tiến hành ở nhiều cấp từ trung ương đến cơ sở. Cùng với chính
sách quốc gia về phát triển CB,CC người DTTS được ban hành thì Ban Tổ chức
Trung ương, Chính phủ và Bộ ngành chức năng (Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Ủy
ban Dân tộc…) sẽ có các văn bản hướng dẫn chương trình/ đề án thực hiện chính
sách này. Từ cơ sở đó, từng địa phương căn cứ vào đặc điểm tự nhiên – kinh tế -
xã hội của mình để cụ thể hóa phù hợp với chương trình/ đề án trong quá trình tổ
chức thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS.
Quá trình thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS chính vốn
dĩ là giai đoạn hiện thực hoá chính sách, nên chúng bao gồm sự cấu thành của
các nội dung cơ bản được tiến hành theo trình tự thực hiện chính sách phát triển
CB,CC người DTTS: (1) Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách;
(2) Phổ biến, tuyên truyền chính sách; (3) Phân công, phối hợp thực hiện chính
sách; (4) Duy trì và điều chỉnh chính sách; (5) Theo dõi, đôn đốc thực hiện
17
chính sách; (6) Tổng kết đánh giá thực hiện chính sách.
1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển
đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
Việc xây dựng kế hoạch chương trình thực hiện chính sách phát triển
CB,CC người DTTS là cơ sở tổ chức định hướng cho hệ thống các cơ quan Nhà
nước có liên quan từ Trung ương đến địa phương chủ động trong việc đưa
chính sách này vào thực tiễn đời sống. Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
phát triển CB,CC người DTTS cần cụ thể, chi tiết, rõ ràng:
+ Kế hoạch về tổ chức, điều hành đối với các cơ quan tham gia, lực lượng
nhân sự và cơ chế thực hiện chính sách:
Việc lập kế hoạch tổ chức, điều hành chính sách phát triển CB,CC người
DTTS gồm các nội dung: Bảng dự kiến phân công nhiệm vụ, công việc cụ thể
đối với cơ quan chủ trì đầu mối, các cơ quan thực hiện, các đơn vị phối hợp thực
hiện chính sách này; dự kiến trách nhiệm đối với phần hành công việc nhiệm vụ
của từng cơ quan, đơn vị, của cán bộ lãnh đạo quản lý và công chức, viên chức
thực hiện; cơ chế tác động giữa các cấp trong tổ chức thực hiện chính sách phát
triển CB,CC người DTTS. Yêu cầu của việc lập kế hoạch tổ chức, điều hành
chính sách này, đó là phải tránh sự chồng chéo, trùng lặp nhiệm vụ hoặc bỏ sót
nhiệm vụ giữa các cơ quan.
+ Kế hoạch về các nguồn lực phục vụ cho việc đáp ứng tổ chức thực hiện
chính sách phát triển CB,CC người DTTS: (1) Dự kiến về quy mô nhân lực và
chất lượng đội ngũ này theo yêu cầu nhiệm vụ trong thực hiện chính sách phát
triển CB,CC người DTTS; (2) Dự kiến về cơ sở vật chất, tài chính, phương tiện,
trang thiết bị kỹ thuật, các vật tư văn phòng phẩm... Việc dự kiến kế hoạch bố trí
nguồn lực phải đủ, không quá chậm trễ hoặc lùi thời hạn triển khai thực hiện.
+ Xác định khung thời gian dự kiến triển khai thực hiện và tiến độ thực
hiện theo giai đoạn: thời gian tuyên truyền phổ biến; thời gian tổ chức thực hiện
chính sách, duy trì chính sách phát triển CB,CC người DTTS; mốc thời gian sơ
18
kết, mốc thời gian tổng kết đánh giá. Dự kiến mỗi nhiệm vụ phải gắn theo mục
tiêu xác định cần đạt (phải phù hợp với một chương trình, đề án cụ thể của
chính sách) và thời gian dự kiến hoàn thành mục tiêu.
+ Dự kiến kế hoạch kiểm tra đôn đốc tiến độ, kiểm tra nội dung thực
hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS. Dự kiến về phương pháp, hình
thức kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách này.
+ Xây dựng quy chế thực hiện chính sách phát triển CB,CC người
DTTS: quy chế về tổ chức, điều hành thực hiện chính sách; về trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền hạn của CB,CC và các cơ quan nhà nước tham gia điều hành
chính sách; về biện pháp khen thưởng, kỷ luật trong tổ chức thực hiện chính
sách...
Kế hoạch thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS do thẩm
quyền lãnh đạo, quản lý cùng cấp xem xét phê duyệt. Sau khi được phê duyệt,
kế hoạch thực thi chính sách phát triển CB,CC người DTTS một khi đã được
duyệt thì nó có hiệu lực pháp lý phải thực hiện. Việc điều chỉnh kế hoạch thực
hiện chính sách này cũng do thẩm quyền lãnh đạo, quản lý cùng cấp xem xét
quyết định.
1.2.2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách phát triển đội ngũ cán
bộ, công chức người dân tộc thiểu số
Đây là nhiệm vụ trước tiên phải tiến hành ngay sau khi Kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách được duyệt, các cơ quan nhà nước tiến hành triển
khai tổ chức thực hiện theo kế hoạch này. Công tác tổ chức tuyên truyền phổ
biến, vận động CB,CC, đối tượng thụ hưởng chính sách và cộng đồng DTTS
tham gia thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS.
Căn cứ kế hoạch chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS đã
được duyệt, các chủ thể chính sách là các cơ quan trong hệ thống chính trị và đội
ngũ CB,CC,VC, các cơ sở đào tạo bồi dưỡng được phân công tiến hành tuyên
truyền, phổ biến đến đối tượng của chính sách này và người dân DTTS bằng các
19
hình thức đa dạng như: tiếp xúc trực tiếp, tuyên truyền miệng trao đổi với các đối
tượng tiếp nhận; tuyên truyền, phổ biến qua báo chí, website và các phương tiện
thông tin đại chúng khác. Thông qua đó giúp đối tượng thụ hưởng hiểu rõ về
mục đích, yêu cầu, ý nghĩa quan trọng về tính đúng đắn, và lợi ích đem lại khi
thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS để họ tự giác thực
hiện; đồng thời để chính sách triển khai thuận lợi và hiệu quả.
1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán
bộ, công chức người dân tộc thiểu số
Việc tiến hành hoạt động phân công, phối hợp thực hiện chính sách
phát triển CB,CC người DTTS, các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị
cùng với đội ngũ CB,CC,VC, các cơ sở đào tạo bồi dưỡng... phải căn cứ vào kế
hoạch chương trình hành động đã duyệt để triển khai.
Lực lượng tham gia thực hiện chính sách phát triển CB,CC người
DTTS bao gồm các đối tượng thụ hưởng chính sách, hệ thống các tổ chức
trong hệ thống chính trị cùng với đội ngũ CB,CC,VC, các cơ sở đào tạo bồi
dưỡng... Hơn nữa, do việc thực hiện chính sách này diễn ra trên phạm vi toàn
quốc, đặc biệt là tập trung nhất là áp dụng cho các địa phương khu vực miền
núi có đặc thù là đa dạng các DTTS, nên quy mô về số lượng tổ chức và cá
nhân tham gia thực hiện chính sách này là khá lớn. Nên tất yếu đòi hỏi phải có
trách nhiệm trong quá trình phân công, phân cấp, phối hợp chặt chẽ giữa các
cấp, ngành cũng như tạo lập môi trường ổn định thuận lợi để thực hiện chính
sách phát triển CB,CC người DTTS có kết quả như mục tiêu dự kiến. Sự phân
công và phối hợp thực hiện chính sách này phải tránh chung chung, phải đảm
bảo yêu cầu về tính chặt chẽ, khoa học và hợp lý, cụ thể, rõ ràng trong việc xác
định vai trò chủ trì, điều phối thuộc cơ quan, cá nhân nào; cơ quan, cá nhân nào
là thành viên tham gia; cơ quan, cá nhân nào có chức năng phối hợp. Qua đó,
mới phòng chống tình trạng đùn đẩy, né tránh hoặc ôm đồm, không rõ trách
nhiệm… thường xảy đến, nhằm đảm bảo môi trường thuận lợi trong quá trình
20
thực hiện chính sách ngay sau khi kế hoạch thực hiện chính sách phát triển
CB,CC người DTTS đã được phê duyệt.
1.2.4. Duy trì và điều chỉnh chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức người dân tộc thiểu số
Duy trì phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS cần thỏa mãn ít nhất với
ba điều kiện căn bản, đó là: (1) Phải bảo đảm đầy đủ yêu cầu về tài chính, cơ sở
vật chất kỹ thuật, phương tiện, nhân lực, để thực thi chính sách này; (2) Các cơ
quan, tổ chức đảm nhiệm thực hiện phải có đủ thẩm quyền và khả năng triển
khai mục tiêu chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS thành kế
hoạch, chương trình hành động một cách chi tiết, cụ thể; (3) Sự phân công và
phối hợp được thiện hiện theo một cơ chế/ quy chế rõ ràng giữa các cơ quan,
đoàn thể nhằm duy trì hoạt động chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người
DTTS.
Vì vậy, việc duy trì được chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người
DTTS thuận lợi hay không còn tùy thuộc vào mức độ hiệp lực, đồng thuận
của nhiều yếu tố: (1) Đối với chủ thể là các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và
người tổ chức thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS phải
thiết lập môi trường điều kiện cần để thực thi tốt chính sách; (2) Đối với người
chấp hành chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS (đối tượng thụ
hưởng) thì phải tham gia tích cực vào quá trình thực hiện chính sách.
Hoạt động điều chỉnh chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS
là công việc rất quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách. Hoạt động này
cần phải được tiến hành thận trọng, suy tính thấu đáo và chính xác để không
được làm biến dạng chính sách ban đầu. Hơn nữa, hoạt động điều chỉnh chính
sách tập trung chủ yếu vào cơ chế và các biện pháp sáng tạo, phù hợp, chủ động
kịp thời giải quyết các vấn đề thực tiễn phát sinh để hiện thực hóa mục tiêu
nhằm đáp ứng giữ vững mục tiêu ban đầu của chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS, chứ không làm biến dạng dẫn đến thay đổi mục tiêu chính
21
sách này.
1.2.5. Theo dõi, đôn đốc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức người dân tộc thiểu số
Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS là hoạt động của cơ quan Nhà nước và CB,CC có thẩm
quyền thông qua các công cụ, phương pháp tiến hành theo dõi, đôn đốc, kiểm
tra nhằm giúp cho các chủ thể thực hiện chính sách đề cao ý thức trách nhiệm,
nghĩa vụ để sử dụng hiệu quả các nguồn lực và triển khai thực hiện đúng các
yêu cầu, nguyên tắc, quy trình, kế hoạch; cũng như hiệp lực thống nhất triển
khai tốt các giải pháp định hướng chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người
DTTS.
Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS là hoạt động cần thường xuyên để kịp thời nắm chắc hiện
trạng thực hiện chính sách nhằm đưa ra các kết luận xác đáng. Qua đó, hoạt động
này có vai trò rất quan trọng: (1) đưa ra các khuyến nghị cảnh báo để giúp cho
các chủ thể tổ chức thực thi chính sách rà soát các hạn chế bất cập thúc đẩy sự
nỗ lực nhằm điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ; (2)
giúp cho việc phòng, chống kịp thời đối với các ý đồ/ hành vi vi phạm trong quá
trình thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS.
1.2.6. Tổng kết đánh giá thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức người dân tộc thiểu số
Tổng kết đánh giá thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người
DTTS được tiến hành bởi các cơ quan có thẩm quyền trong thời gian duy trì
chính sách này trên tất cả các mặt: từ việc lập kế hoạch thực hiện chính sách
đến phê duyệt; lãnh đạo, chỉ đạo điều hành triển khai thực hiện và điều chỉnh
chính sách; công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách; công tác phối hợp tổ
chức thực hiện; kiểm tra, giám sát...
Việc đánh giá thực hiện chính sách có thể đánh giá toàn thể sau khi kết
22
thúc chính sách phát triển CB,CC người DTTS hoặc đánh giá từng phần về kết
quả thực hiện chính sách này chia theo các giai đoạn (xem xét đánh giá cuối
kỳ hoặc giữa kỳ). Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết thực hiện chính
sách phát triển CB,CC: không chỉ là các cơ quan trong hệ thống chính trị các
cấp, nhất là các cơ quan chỉ đạo điều hành chính sách; mà còn xem xét đánh
giá việc thực hiện vai trò tham gia của các cơ sở đào tạo bồi dưỡng ngoài khu
vực Nhà nước, của cơ quan liên kết tài trợ, của CB,CC, cộng đồng người DTTS
đối với chính sách.
Về tổng kết đánh giá việc chỉ đạo, điều hành thực hiện chính sách phát
triển đội ngũ CB,CC người DTTS, căn cứ hiệu lực của các văn bản liên tịch
giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy phạm khác,
căn cứ vào kế hoạch được duyệt và quy chế hoạt động để xem xét đánh giá
tình hình chỉ đạo, điều hành, phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền và chức
năng trong tổ chức thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người
DTTS.
Về việc xem xét, đánh giá tình hình thực hiện của các đối tượng tham
gia thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS gồm có: các
nhóm đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách này, nghĩa
là tất cả CB,CC người DTTS và cộng đồng người DTTS. Thước đo để đánh giá
kết quả thực hiện chính sách này của các nhóm đối tượng thụ hưởng - đó là
thái độ hưởng ứng đối với mục tiêu chính sách và ý thức tuân thủ về chế độ
chính sách quy định, về cơ chế, biện pháp do cơ quan nhà nước ban hành để
thực hiện mục tiêu chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS xét trong
điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
Nhìn chung, tổng kết đánh giá thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS cần được tiến hành liên tục và thường xuyên, để rút kinh
nghiệm kịp thời trong tổ chức thực hiện nhằm đạt định hướng mục tiêu chính
sách này mong đợi trên thực tế.
23
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách
phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở địa phương.
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
- Nhân tố lịch sử - văn hóa địa phương:
Chính sách công nói chung và chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người
DTTS nói riêng chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi hoàn cảnh lịch sử, sự đa dạng
dân tộc, văn hóa, tôn giáo, nghề nghiệp, nhóm xã hội của địa phương. Đây là
nhân tố khách quan đặc thù quy định đặc điểm người CB,CC người DTTS ở các
địa phương có nhiều DTTS. Nhận thức của xã hội và người dân ở khu vực đặc
thù này luôn gắn liền và chịu sự chi phối của truyền thống tập quán văn hóa của
người DTTS. Điều này ảnh hưởng khách quan đến sự nhận thức của người
DTTS có giới hạn nhất định, cùng với trình độ dân trí ở khu vực này là thấp và
không đồng đều… Đây là mặt khó khăn, thách thức lớn trong triển khai thực
hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS.
Yêu cầu đặt ra trong điều kiện hoàn cảnh này, bên cạnh phải không ngừng
nâng cao dân trí thì cần chú ý kiên trì triển khai hiệu quả công tác tuyên truyền
phổ biến chính sách bằng nhiều phương thức phù hợp để từng bước mở rộng sự
hiểu biết, nhận thức ngày càng rõ hơn về mục tiêu, lợi ích mà chính sách phát
triển đội ngũ CB,CC người DTTS đem lại… Có như vậy, từng bước tranh thủ sự
đồng tình và ủng hộ rộng rãi của cộng đồng người DTTS (nhất là các nhóm đối
tượng trực tiếp thụ hưởng chính sách) sẽ đem lại tầm ảnh hưởng rất lớn đến sự
đóng góp tích cực tự giác của họ vào kết quả thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ CB,CC người DTTS. Ngược lại, nếu một khi cộng đồng DTTS còn mơ hồ,
chưa nhận thức rõ và nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách vẫn chưa hiểu được
mục tiêu, lợi ích của chính sách thì sẽ khiến cho chính sách chậm đi vào thực
tiễn cuộc sống hoặc mục tiêu chính sách sẽ đối diện nguy cơ phá sản là có thể.
- Nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội:
24
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng địa phương có tác động ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS.
Điều kiện kinh tế - xã hội của các địa phương, nhất là địa phương ở khu
vực miền núi thường gắn liền với số đông DTTS có đặc điểm là hầu hết các hộ
dân có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, vì chủ yếu phụ thuộc vào tự nhiên, kinh tế
nương rẫy… Nhân tố này có tác động ảnh hưởng rào cản không nhỏ đến nhận
thức, thói quen và ý thức học tập của đồng bào DTTS nói chung và nói riêng
CB,CC người DTTS.
Mặt khác, yếu tố khoa học công nghệ, kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế cũng là cơ hội để gia tăng hiệu quả trong thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ CB,CC người DTTS, nếu biết và sử dụng tốt các ưu thế tích cực của nó,
như: (1) Tranh thủ hiệu quả của cơ chế hợp tác, liên kết để khai thác; đồng thời
tiếp thu có chọn lọc các giá trị mà yếu tố thời đại đưa lại để rút ngắn thời gian
nhằm không ngừng nâng cao dân trí, thay đổi nhận thức và thói quen sinh hoạt,
thu hẹp khoảng cách trong phát triển (cải thiện kinh tế và huy động nguồn
lực…), truy cập thông tin điện tử, đổi mới phương thức, ứng dụng khoa học công
nghệ, xây dựng chính quyền điện tử, … trong thực hiện chính sách này; (2) Khắc
phục các khía cạnh bị chi phối của tập quán lạc hậu của người DTTS nói chung
và CB,CC người DTTS nói riêng.
1.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan
- Nhân tố chính trị, pháp lý
Sự phát triển CB,CC người DTTS phụ thuộc trước tiên và xuyên suốt vào
đường lối chính trị lãnh đạo của đảng cầm quyền của quốc gia về lĩnh vực này.
Đường lối của đảng lãnh đạo thể hiện qua các chủ trương, Cương lĩnh, nghị
quyết, trong đó thể hiện các định hướng về mục tiêu chiến lược của chính sách
và định hướng cả cơ chế thực hiện chính sách. Hơn nữa, thông qua đảng cầm
quyền lãnh đạo, chỉ đạo nhà nước thể chế hóa đường lối chính trị thành hệ thống
25
luật pháp để quản lý. Đây là nhân tố bao trùm cho việc định hướng, mở đường
trong cả hoạch định chính sách và thực thi chính sách.
Đối với điều kiện nước ta đã có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo duy
nhất là nhân tố chính trị hết sức thuận lợi: Đảng vừa đề ra chủ trương, lãnh đạo,
chỉ đạo triển khai chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS ở các cấp
(chính sách được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng); vừa thiết
lập tốt môi trường chính trị, pháp lý ổn định, đảm bảo an ninh quốc phòng để tổ
chức thực thi chính sách này. Nhờ vậy, quá trình thực hiện chính sách này đã
nhận được từ đầu đến cuối về sự thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo điều
hành của các cấp của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp xã.
Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước với công cụ quản lý chủ chốt là
hệ thống pháp luật, trong đó Hiến pháp là đạo luật gốc, cơ sở pháp lý nền tảng
cho mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Theo đó, hệ thống các chính sách công nói chung và chính sách
phát triển CB,CC người DTTS nói riêng là hướng vào giải quyết các vấn đề mâu
thuẫn và bất công xã hội trong phát triển đặt ra nhằm rút ngắn khoảng cách trong
phát triển trên các mặt giữa các thành phần dân tộc, giữa các vùng miền… Như
vậy, sự phát triển đội ngũ CB,CC nói chung và phát triển đội ngũ CB,CC người
DTTS nói riêng chịu sự tác động của hệ thống cơ chế, chính sách mà Nhà nước
ban hành khi thể chế hóa chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
Chính mức độ chất lượng của hệ thống cơ chế, chính sách này sẽ tác động theo
chiều thuận lợi trong thực thi chính sách phát triển đội ngũ người CB,CC người
DTTS. Một vấn đề quan trọng nữa, các cơ quan Nhà nước có chức năng thẩm
quyền (địa vị pháp lý) phải xử lý gắn kết thống nhất mối quan hệ giữa ý chí Nhà
nước với nguyện vọng, nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân làm nguyên
tắc ban hành và thực thi chính sách nói chung và chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS nói riêng.
- Năng lực của các chủ thể tham gia tổ chức thực hiện chính sách:
26
Thông qua hệ thống quản lý Nhà nước gắn liền với các chủ thể chính sách
đóng vai trò chủ động cốt lõi trong quá trình cả hoạch định và tổ chức thực thi
chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS. Trong đó:
Năng lực của các cơ quan có thẩm quyền, chức năng trong chỉ đạo điều
hành triển khai sự phân công - phối hợp thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS đóng vai trò tác động quyết định cũng như đảm bảo cơ chế
thuận lợi nhất để đạt mục tiêu chính sách này. Yêu cầu đặt ra là năng lực chỉ đạo
điều hành sự phân công - phối hợp thực hiện chính sách phải đảm bảo tính khoa
học và hợp lý, tính chủ động, tính đồng bộ chặt chẽ, rõ ràng để điều phối tốt các
yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan trong công tác tổ chức điều hành thực hiện
chính sách. Nếu khả năng chỉ đạo điều hành sự phân công - phối hợp thực hiện
chính sách yếu kém, chung chung không rõ trách nhiệm thì sự tác động ảnh
hưởng sẽ đi theo chiều ngược lại bởi hệ lụy của tình trạng ôm đồm hoặc đùn đẩy,
né tránh trách nhiệm, dẫn đến chính sách không đạt mục tiêu, chính sách nguy cơ
bị phá sản.
Năng lực và phẩm chất của đội ngũ CB,CC,VC thực hiện chính sách phát
triển đội ngũ người CB,CC người DTTS có vai trò trực tiếp tác động ảnh hưởng
đến kết quả của tổ chức thực hiện chính sách này. Yêu cầu đặt ra đối với
CB,CC,VC phải: (1) Đề cao trách nhiệm công vụ, đạo đức nghề nghiệp trong
thực hiện chính sách này; (2) Có đủ trình độ chuyên môn, trình độ chính trị và
phương pháp, kỹ năng tổ chức thực hiện quá trình chính sách.
27
Tiểu kết chương 1
Từ cơ sở trình bày làm rõ khái niệm, đặc trưng và vai trò thực hiện chính
sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS, quy trình thực hiện chính sách phát
triển đội ngũ CB,CC người DTTS gồm có: (1) Xây dựng kế hoạch triển khai
thực hiện chính sách; (2) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách; (3) Phân
công, phối hợp thực hiện chính sách; (4) Duy trì và điều chỉnh chính sách; (5)
Theo dõi, đôn đốc thực hiện chính sách; (6) Tổng kết đánh giá thực hiện chính
sách phát triển CB,CC người DTTS. Đồng thời, phân tích các nhân tố ảnh
hưởng chủ yếu đến quá trình thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS ở địa phương, đó là: (1) Nhóm nhân tố khách quan (lịch sử - văn hóa
địa phương, đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội); (2) Nhóm nhân tố chủ quan
(nhân tố chính trị - pháp lý, năng lực của các chủ thể tham gia tổ chức thực hiện
chính sách).
Nội dung trên là cơ sở lý luận để luận văn phân tích quá trình thực hiện
chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS ở huyện Tây Giang, tỉnh
Quảng Nam và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách này
ở giai đoạn 2021-2026, tầm nhìn 2026-2031.
28
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình cơ cấu
cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số của huyện Tây Giang
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Tây Giang
Tây Giang là một huyện miền núi biên giới nằm phía Tây của tỉnh Quảng
Nam, được chia tách từ huyện Hiên theo Nghị định số 72/2003/NĐ-CP ngày
20/6/2003 của Chính phủ.
Toàn huyện có 10 đơn vị hành chính cấp xã: Anông, Atiêng, Avương,
Axan, Bha lêê, Ch'ơm, Dang, Gari, Lăng, Tr'hy (với tất cả có 63 thôn). Trong đó,
có 8/10 xã có đường biên giới giáp Lào với tổng chiều dài 67 km. Huyện Tây
Giang có vị trí ở phía tây giáp Lào, phía bắc giáp các huyện ALưới và Nam
Đông (Thừa Thiên Huế), phía đông giáp huyện Đông Giang và phía nam giáp
huyện Nam Giang của tỉnh Quảng Nam. Tổng diện tích tự nhiên của huyện có
902,97 km². Địa hình huyệnTây Giang chủ yếu là đồi núi hiểm trở và có nhiều
sông suối. Với vị trí như vậy, huyện có tầm quan trọng về chính trị, an ninh, quốc
phòng của tỉnh Quảng Nam, của khu vực miền Trung – Tây Nguyên và quốc gia.
- Về lĩnh vực kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của huyện 15,49%. Cơ cấu kinh
tế đang chuyển dần tích cực. Giá trị sản xuất nông-lâm nghiệp-thuỷ sản ước tính
năm 2018 (theo giá so sánh 2010) là 123.929 triệu đồng, tăng 25,72% so với
năm 2014 (98.575 triệu đồng). Giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp
và xây dựng ước đạt 161.795 triệu đồng, tăng gấp 8 lần so với năm 2014
(19.269,47 triệu đồng).[38; tr.04-05]
Về phát triển dịch vụ, chính quyền Tây Giang tận dụng được lợi thế thiên
nhiên ưu đãi để phát triển theo hướng du lịch dịch vụ trở thành ngành kinh tế
29
mũi nhọn của huyện. Thông qua Trung tâm xúc tiến đầu tư và phát triển du lịch
được huyện thành lập đã kết nối với các tour du lịch từ Hội An, Đà Nẵng đến
tham quan các điểm du lịch văn hóa trên địa bàn huyện, như: Làng truyền thống
Cơtu, khu du lịch sinh thái Đỉnh Quế, thôn văn hóa Pơr’ning, cụm Địa đạo
Axòo, ruộng bậc thang Chuôr, quần thể Cây di sản Việt Nam Pơmu, quần thể
rừng cây hoa Đỗ Quyên trên đỉnh K’lang …; cùng thưởng thức đặc sắc các di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia như: điệu múa Tân’tung Da’dá; Nói lý; hát lý; nghề dệt
thổ cẩm… Nhờ đó, Tây Giang trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn đối với du
khách trong và ngoài nước. Bình quân đã đón từ 8.000-10.000 lượt
khách/năm[20; tr.04]; chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2018[30], huyện Tây Giang đã
đón trên 4.250 lượt khách đến tham quan.
Hệ thống điện lưới trên địa bàn huyện về cơ bản đã từng bước đảm bảo
phục vụ sinh hoạt và phát triển kinh tế , với10/10 xã đã có điện lưới quốc gia. Tuy
nhiên, còn một số thôn, khu dân cư chưa có điện lưới quốc gia. Về đường giao
thông, đã có đường ô tô đến được Trung tâm của 10/10 xã vào mùa nắng với
8/10 xã trong cả năm, 62/63 thôn có đường ô tô đi được vào mùa nắng (thôn
Aur, xã Avương chưa có đường ô tô); hệ thống giao thông nội đồng được đầu tư,
góp phần phục vụ đi lại và sản xuất cho nhân dân.
Mặt khác, cùng với việc tập trung chỉ đạo triển khai quy hoạch phát triển
kinh tế-xã hội, quy hoạch ngành, vùng sản xuất, quy hoạch xây dựng nông thôn
mới, nhiều năm qua cấp ủy và chính quyền các cấp trên địa bàn Tây Giang đã
từng bước quan tâm triển khai công tác giảm nghèo từ thôn đến huyện thông qua
chương trình 30a (các chính sách hỗ trợ, điển hình như: đầu tư cơ sở hạ tầng;
phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo; hỗ
trợ cho lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào DTTS đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài .v.v..). Huy động nhiều nguồn vốn đa dạng, nhất là
nguồn vốn hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững, chính quyền các cấp đã tích
cực phát triển sản xuất, nhất là dựa vào lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên
30
thuận lợi của Tây Giang ở từng xã, từng thôn để tập trung phát triển cây dược
liệu (khuyến khích chuyển dần một phần từ mô hình trồng keo có giá trị kinh tế
không cao sang nhân rộng mô hình phát triển cây dược liệu có giá trị kinh tế cao,
như: trồng đảng sâm, ba kích, cao su…); đồng thời kêu gọi các hợp tác xã, các
công ty dược liên kết sản xuất, tạo thành chuỗi liên kết, mở ra một hướng đi cụ
thể để ổn định cuộc sống. Nhờ đó đã “kích thích” được nền kinh tế của Tây
Giang, giúp hàng nghìn hộ dân có thu nhập ổn định, giúp người dân giảm nghèo,
có ý thức vươn lên làm giàu. Từ năm 2014 đến năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo theo
chuẩn nghèo đa chiều của Tây Giang giảm từ 51,98% (năm 2014) xuống 46,32%
(năm 2016) và chỉ còn 43,14% (năm 2018). Chỉ tính riêng năm 2018, hộ nghèo ở
huyện giảm 206 hộ, giảm 5,26% so với năm 2017[41]. Nhờ đó, thu nhập đầu
người của huyện đạt 20,63 triệu đồng năm 2018, tăng 33,29% so với năm 2014
(15,478 triệu đồng)[38;tr.04-05].
Tuy vậy, nền kinh tế của địa phương đang còn phổ biến có quy mô sản
xuất nhỏ lẻ - manh mún cùng với trình độ dân trí thấp và kỹ thuật chủ yếu là thủ
công, lao động giản đơn và ảnh hưởng bởi tập quán sản xuất trong sản xuất nông
nghiệp. Chưa có nhiều mô hình trang trại hoặc gia trại áp dụng khoa học kỹ thuật,
công nghệ sinh học vào trong sản xuất; quy mô sản xuất công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp cũng còn nhỏ; chương trình phát triển dịch vụ du lịch chưa gắn kết
với phát triển bền vững, các ngành dịch vụ phụ trợ cho du lịch (hàng lưu niệm,
thủ công mỹ nghệ, ẩm thực Cơtu Tây Giang, dịch vụ khác) phát triển chưa tương
xứng. Nhìn chung, nền kinh tế của huyện chưa phát huy được tiềm năng thế
mạnh của Tây Giang, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, nguồn thu ngân sách
thấp,chất lượng tăng trưởng không cao, sức cạnh tranh thấp.
Về lĩnh vực văn hóa - xã hội:
Tây Giang là huyện ít dân nhất Quảng Nam và là một trong những huyện
có số dân thấp nhất nước ta. Dân số hiện đang sinh sống trên địa bàn huyện (tính
đến hết năm 2018) gồm có 4.912 hộ/20.186 khẩu với 16 thành phần dân tộc anh
31
em cùng sinh sống trên địa bàn huyện, trong đó chiếm đại bộ phận là đồng bào dân
tộc Cơtu chiếm hơn 92% dân số toàn huyện[38; tr.01]; trước đây người Cơtu
thường sinh sống rải rác trên những sườn núi cao với tập quán sinh hoạt và canh
tác truyền thống chủ yếu dựa vào tự nhiên, du canh - du cư. Trước thực trạng đó,
các cấp chính quyền huyện Tây Giang đã xác định "có an cư mới lập nghiệp”
qua hơn 15 năm xây dựng và phát triển từ 2003 đến nay, nhất là trong việc chăm
lo xây dựng nông thôn mới, đầu tư cơ sở hạ tầng, huyện đã tập trung quy hoạch,
sắp xếp lại dân cư với sự hoàn thành 84/95 điểm tái định cư mới, ổn định cuộc
sống cho hơn 4.100 hộ dân xuống ở vùng thấp và tập trung, có khu nhà ở và khu
sản xuất riêng biệt, nhà ở của người dân được xây dựng theo mô hình truyền
thống của đồng bào Cơ - tu theo hình vòng cung (Gươl ở giữa làng, xung quanh
Gươl là các nhà Moong - nhà của các dòng họ) và người dân ở trong những ngôi
nhà mái tôn chắc chắn, sạch sẽ; cuộc sống của đồng bào Cơ - tu dần ổn định,
không còn tình trạng sinh đẻ tại nhà, ốm đau dựa và thầy mo, thầy cúng; công
tác an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được tăng cường nên không có điểm
nóng xảy ra.
Tuy vậy, dân cư ở Tây Giang sống phân tán, phần lớn họ tập trung dọc
ven suối trong những khu rừng sâu. Hiện nay, huyện vẫn còn đến 06/10 xã khu
vực III, 03/10 xã khu vực II, 01/10 xã khu vực I; 39 thôn/10 xã đang thuộc diện
đặc biệt khó khăn [34]; thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao
43,14% năm 2018.
Lĩnh vực xây dựng nông thôn mới chưa đảm bảo lộ trình nghị quyết đề
ra[20; tr.11], cụ thể: không hoàn thành chỉ tiêu về đích Nông thôn mới giai đoạn
2015- 2018 ở các xã Atiêng, Bhalêê, Avương, Axan, Dang; khả năng các xã
Tr’hy, Gari, Ch’ơm về đích Nông thôn mới giai đoạn 2019-2020 và huyện Tây
Giang thành huyện Nông thôn mới cuối năm 2020 khó hoàn thành. Hơn nữa,
việc rà soát, bổ sung quy hoạch, kế hoạch xây dựng Nông thôn mới có nơi chưa
sát với tình hình thực tế; cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ.
32
Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, cả huyện có 11 cơ sở khám chữa
bệnh; cùng với các chương trình y tế quốc gia, Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
được triển khai đồng bộ, công tác khám và điều trị bệnh được chú trọng duy trì;
tuy vậy, đội ngũ bác sĩ tuyến xã còn mỏng, chất lượng khám và điều trị chưa đáp
ứng được yêu cầu. Về giáo dục, Tây Giang có 24 trường (07 trường Mầm non; 09
trường Tiểu học; 06 trường Trung học cơ sở; 02 trường Trung học Phổ thông), đã
hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập
THCS đạt 100%; đang tập trung các điều kiện để duy trì chất lượng giáo dục,
hoạt động của các loại hình trường nội trú, bán trú. Tuy vậy, việc xây dựng
trường đạt chuẩn Quốc gia chưa đạt theo lộ trình; tình trạng học sinh bỏ học hoặc
không chuyên cần đi học còn xảy ra. Tình trạng tảo hôn vẫn còn xảy ra.
Về việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa trên địa bàn huyện Tây
Giang, hiện nay đã khôi phục được 04 làng truyền thống Cơtu, bảo tồn các loại
nhạc cụ truyền thống như: Trống, chiêng, abel, tămbréh, ahen, atuốt, gârnưna,
câldool, aluốt, khèn,… cùng với các di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như: điệu
múa Tân’tung Da’dá, Nói lý, hát lý; bảo tồn và phát triển trang phục, nghề dệt thổ
cẩm, nghề đan lát, nghề rèn,… của đồng bào Cơtu. Đồng thời, huyện đã tổ chức
thành công các sự kiện quan trọng như: Lễ hội khai năm tạ ơn rừng, 15 năm tái
lập huyện và các lễ hội khác mừng ngày lễ lớn trong năm... Phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục phát triển.
33
2.1.2. Tình hình cơ cấu cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số của
huyện Tây Giang
Bảng 2.1: Thống kê cơ cấu trình độ các mặt của cán bộ, công chức người
dân tộc thiểu số cấp huyện và cấp xã ở huyện Tây Giang
Trình độ Học vấn Trình độ chuyên môn LLCT
CB,CC,VC người DTTS Cấp Cấp Cấp Trung CĐ, Sơ Trung Cao SĐH I II III cấp ĐH Cấp cấp Cấp
Cấp huyện 61 1 3 18 47 1 16 16 65 (93,8%) Nhiệm kỳ (100%)
2011- 2015 201 Cấp xã 205 0 4 77 44 115 6 (98%) (100%)
Cấp huyện 58 53 3 2 58 (100%) (91,4%) Nhiệm kỳ (100%)
Cấp xã 2016- 2021 4 171 1 183 7 3 225 (1,8%) (76%) (0,4%) (81,3%) (3,1%) (100%)
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Văn kiện Đại hội Đảng bộ và Báo cáo của UBND huyện Tây Giang
34
Bảng 2.2: Thống kê số lượng cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở huyện Tây Giang năm 2019
Trong đó cán bộ, công chức DTTS là
Cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý
Cán bộ, công chức DTTS lãnh đạo, quản lý
Trong đó
Trong đó Cấp ủy huyện
STT Dân tộc
Tổng số
Tổng số
Nam Nữ
Nam Nữ
HUV
T.trực BTV
Bí thư, PBT, Chủ tịch, PCT HĐND,UBN D cấp xã
Trưởng Phó các Ban Đảng cấp huyện
Trưởng Phó các Đoàn thể CT-XH cấp huyện
Chủ tịch, PCT HĐND UBND cấp huyện
Trưởng Phó phòng & tương đương cấp huyện
1
2
3
4
5
6
7
8
9
11
12
13
14
15
10
Tổng số
266
219
47
118
93
25
5
6
4
15
8
53
25
1
Cơtu
261
215
46
115
90
25
5
6
4
14
8
51
25
2
Tà riềng
1
1
0
1
1
0
1
3 Vân kiều
1
1
0
1
1
0
1
4
Cadong
1
1
0
1
1
0
1
5 Mơ nông
1
0
1
0
6
Tày
1
1
0
0
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của Ban Tổ chức và Phòng Nội vụ huyện Tây Giang
35
Từ thống kê ở Bảng 2.1 và Bảng 2.2 cho thấy, tình hình CB,CC người
DTTS của huyện Tây Giang có cơ cấu cụ thể như sau:
- Nhiệm kỳ 2011-2015:
+ Đội ngũ CB,CC,VC người DTTS cấp huyện quản lý: có 65/173 người
chiếm 37,6%. Cơ cấu: Trình độ học vấn: Tiểu học 01 người (1,53%), THCS 03
người (4,61%), THPT 61 người (93,84%); Trình độ chuyên môn: Trung cấp 18
người (27,69%), cao đẳng, đại học 47 người (72,30%), sau đại học 01 đồng chí
(1,53%); Trình độ lý luận chính trị: Trung cấp 16 người (24,61%), cao cấp và cử
nhân 16 người (26,22%). Trong đó:
Khối Đảng: Tổng số cán bộ DTTS là 10/34 người (29,41%, thấp hơn so
với quy định 0,59%). Trong đó, trình độ học vấn: THCS 01 người (10%), THPT
09 người (90%). Trình độ chuyên môn: Trung cấp 02 người (20%), đại học 07
người (70%). Trình độ lý luận chính trị: Trung cấp 02 người (20%), cao cấp 04
người (40%). Cán bộ DTTS giữ chức vụ lãnh đạo là 05 người.
Khối chính quyền: Tổng số cán bộ DTTS là 41/114 người (35,96%).
Trong đó, trình độ học vấn: THPT 41 người (100 %). Trình độ chuyên môn:
Thạc sĩ 01 người (2,63%), trung cấp 15 người (36,58%), cao đẳng 01 người
(2,63%), đại học 23 người (60,53%). Trình độ lý luận chính trị: Trung cấp 8
người (21,05%), cao cấp và cử nhân 07 người (18,42%). Cán bộ DTTS giữ chức
vụ lãnh đạo là 12/41 người (29,26%).
Khối Mặt trận – Đoàn thể: Tổng số cán bộ DTTS là 17/25 người (68%).
Trong đó, trình độ học vấn: Tiểu học 01 người (5,88%), THCS 02 người
(11,76%), THPT 14 người (82,35%). Trình độ chuyên môn: Trung cấp: 04 người
(23,53%), cao đẳng, đại học: 10 người (58,82%). Trình độ lý luận chính trị:
Trung cấp 06 người (35,29%), cao cấp 05 người (29,41%). Cán bộ DTTS giữ
chức vụ lãnh đạo là 10 người.
+ Đội ngũ CB,CC,VC người DTTS cấp xã: có 205/237 người chiếm
86,49% . Trong đó, cơ cấu trình độ học vấn: THCS 04 người (1,95%), THPT
36
201 người (98,05%); cơ cấu trình độ chuyên môn: Trung cấp 77 người (37,56%),
cao đẳng, đại học 44 người (21,46%); cơ cấu trình độ lý luận chính trị: Trung
cấp 115 người (56,09%), cao cấp, cử nhân 06 người (2,92%). Đạt 3 chuẩn 121
người (47,14%).
- Nhiệm kỳ 2016- 2021:
+ Đội ngũ CB,CC,VC người DTTS cấp huyện quản lý: có 58/145 người
chiếm 40%. Trong đó, cơ cấu trình độ chuyên môn: Thạc sĩ 03 người, Đại học
52 người, Cao đẳng 01 người, Trung cấp 02 người; cơ cấu trình độ chính trị: Cử
nhân 03 người, Cao cấp 14 người, Trung cấp 11 người, chưa qua đào tạo 31
người.
+ Đội ngũ CB,CC,VC người DTTS cấp xã: có 225/243 người chiếm
92,6% (chuyên trách 103 người, chuyên môn 122 người); trình độ chuyên môn:
Thạc sĩ 01 người, Đại học 170 người, Cao đẳng: 01 người, Trung cấp: 47 người,
sơ cấp: 01 người, chưa qua đào tạo: 05 người; trình độ chính trị: Cao cấp: 07
người, trung cấp: 183 người, sơ cấp: 03 người, chưa qua đào tạo: 32 người.
Như vậy, hiện nay tính đến đầu năm 2019, tổng số CBCC cấp huyện là
145 người, trong đó CB,CC người DTTS là 58 người chiếm 40%; tổng số CBCC
cấp xã là 243 người, trong đó CB,CC người DTTS là 225 người chiếm
92,6%.[38; tr.07-08]
2.2. Tình hình thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức người dân tộc thiểu số ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm
2011 đến 2019
2.2.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
Từ việc nhận thức vị trí chiến lược của một huyện miền núi biên giới và là
vùng đồng bào có đặc điểm DTTS của tỉnh Quảng Nam; cùng với việc bám sát
Nghị quyết số 06-NQ/HU ngày 15/10/2011 của Huyện ủy Tây Giang về công tác
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí cán bộ giai đoạn 2011-2015, định
37
hướng đến năm 2020; Kết luận số 12-KL/HU ngày 18/11/2016 của Huyện ủy
Tây Giang về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/HU ngày 15/10/2011 và
Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 12/8/2016 của Tỉnh ủy Quảng Nam về “nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, kiện toàn tổ chức bộ máy giai đoạn 2016-2020 và
định hướng đến năm 2025”, cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Quảng Nam và
huyện Tây Giang đã từng bước quan tâm việc thực thi chính sách phát triển đội
ngũ CB,CC người DTTS thông qua công tác tổ chức cán bộ, mà trước hết được
thể hiện cơ bản ở các kế hoạch chương trình hành động của huyện Tây Giang
được ban hành gắn liền với nội dung công việc phải thực hiện, dự kiến cơ quan
chủ trì, cơ quan tham gia và cơ quan phối hợp, lộ trình và tiến độ thực hiện
nhiệm vụ chính sách này theo từng năm và giai đoạn, dự toán việc phân bổ
nguồn lực để tổ chức thực hiện, dự kiến kết quả sẽ đạt được.
Mặt khác, Ban Tổ chức và Phòng Nội vụ huyện Tây Giang đã tham mưu
Ban Thường vụ huyện ủy và lãnh đạo UBND huyện trong việc phối hợp với
ngành dọc ở cấp tỉnh Quảng Nam về việc hướng dẫn các biểu mẫu cụ thể, hướng
dẫn kỹ năng lập kế hoạch cho các cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện và UBND
ở các xã.
Đây là cơ sở thuận lợi để triển khai chính sách phát triển CB,CC người
DTTS trên địa bàn huyện Tây Giang. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn
còn một số vấn đề đặt ra như:
Một số cấp ủy Đảng nhất là ở một số xã trên địa bàn huyện Tây Giang
thiếu sự quan tâm đến kế hoạch xây dựng đội ngũ CB,CC người DTTS; kế hoạch
triển khai chính sách này còn chậm, chưa chủ động chuẩn bị nguồn cán bộ hoặc
cử CB,CC người DTTS chưa đủ tiêu chuẩn tham gia các khóa đào tạo, bồi
dưỡng lâu dài, thậm chí còn khá sơ sài, khó khả thi.
Việc nắm bắt tình hình dư luận, tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng
viên ở một số tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị chưa kịp thời[19; tr.13], nên ảnh
38
hưởng đến chất lượng của quá trình xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách phát
triển CB,CC người DTTS.
Trong xây dựng kế hoạch nhu cầu đào tạo theo chế độ cử tuyển ở Tây
Giang còn chưa gắn kết tốt với kế hoạch đào tạo với nhu cầu sử dụng, cơ cấu
ngành nghề đào tạo cũng chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn địa phương đòi hỏi.
Chỉ tiêu đào tạo chưa cân đối, phù hợp vớ biên chế CB,CC người DTTS được
giao.
2.2.2. Thực trạng phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
Trên cơ sở kế hoạch triển khai chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS, hàng năm Huyện ủy, HĐND và UBND huyện Tây Giang đã chỉ
đạo các ngành, các địa phương tuyên truyền phổ biến quán triệt chính sách này
khá thường xuyên thông qua lồng ghép các nội dung Luật Cán bộ, công chức;
Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển
dựng, sử dụng và quản lý công chức, các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của
tỉnh và huyện về công tác cán bộ và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Việc tuyên truyền phổ biến chính sách được triển khai dưới nhiều hình
thức, như: tuyên truyền trên các bản tin của Đài Truyền thanh - Truyền hình
huyện; đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của huyện; tổ chức hội nghị tập
huấn; niêm yết công khai, đầy đủ tại trụ sở cơ quan, đơn vị; lồng ghép với các
nội dung pháp luật về cán bộ, công chức trong các buổi sinh hoạt ở cơ quan, đơn
vị… Nhờ vậy, góp phần nâng cao nhận thức của CB,CC,VC và người lao động
trên địa bàn huyện hiểu biết rõ dần về ý nghĩa, vai trò, mục tiêu thực hiện chính
sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS.
Một số vấn đề được đặt ra:
Công tác tuyên truyền vận động chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS của các cấp, các ngành chưa sâu rộng và còn mang tính thời vụ vì
chưa thường xuyên.
39
Chưa xác định được trọng tâm nội dung tuyên truyền chính sách phát triển
đội ngũ CB,CC người DTTS, nên quá trình tuyên truyền phổ biến chính sách
này còn chung chung. Một số văn bản hướng dẫn, phổ biến thực hiện chính sách
này còn chưa cụ thể, dẫn đến quá trình nhận thức về vai trò ý nghĩa của thực hiện
chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS ở các xã trên địa bàn huyện
chưa đồng đều, gây ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thực hiện chính sách.
Phương thức tuyên truyền cả phương pháp và hình thức lựa chọn còn
chưa phù hợp đối tượng người DTTS và điều kiện thực tế từng địa phương; chưa
kích thích được ý thức tự lực, tự cường họ thực hiện chính sách này. Hơn nữa,
trong tuyên truyền phổ biến chính sách còn chưa nắm chắc diễn biến tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng của đồng bào cũng như chưa tạo lập được niềm tin tâm thế
cho đồng bào DTTS trong việc tham gia thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS.
2.2.3. Thực trạng phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển
đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
Căn cứ vào kế hoạch triển khai chính sách ban hành, Ban Thường vụ
Huyện ủy và chính quyền huyện Tây Giang tiến hành lãnh đạo, điều hành sự phân
công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS
những năm gần đây ngày càng đi vào nề nếp, ổn định trên cơ sở chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị và Đảng ủy cấp
xã, chính quyền các xã trên địa bàn huyện. Trong quá trình triển khai chính sách
này, các cấp ủy Đảng và chính quyền trên địa bàn huyện Tây Giang về cơ bản đã
thực hiện khá tốt quy chế làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách; mối quan hệ giữa cấp ủy Đảng và chính quyền ngày
càng được xác định rạch ròi, ít có sự chồng chéo hoặc trùng lắp trong điều hành
chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS.
Một số kết quả tiêu biểu đáng kể đến: UBND huyện Tây Giang thường
niên cùng phối hợp với Sở Nội vụ tỉnh Quảng Nam lập danh sách nhu cầu
40
CB,CC tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng, như: Kỹ năng soạn thảo văn bản,
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lãnh đạo, quản lý nhà nước; bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ đối với các chức danh công chức và người đứng đầu các tổ chức Hội -
đoàn thể, an ninh - quốc phòng. Trong năm 2017, UBND huyện Tây Giang cùng
phối hợp với Sở Nội vụ và Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam mở lớp bồi dưỡng
quản lý nhà nước chương trình chuyên viên tại huyện, với 99 học viên là người
DTTS tham gia; Cũng năm 2017, thông qua Trung tâm Ngoại ngữ - Tin học Đại
học Quảng Nam mở lớp Tiếng Lào giao tiếp trên địa bàn huyện, trong đó có 34
học viên là người DTTS tham gia học; cùng năm này huyện Tây Giang mở lớp
bồi dưỡng cho đại biểu HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, với 156 đại biểu tham
dự là người DTTS. Đến năm 2018, UBND huyện tiếp tục phối hợp với Sở Nội
vụ và Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam mở lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước
chương trình chuyên viên tại huyện với 89 học viên người DTTS tham gia.[39;
tr.02]
Dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của Huyện ủy đã giải quyết cơ bản về mối quan
hệ giữa luân chuyển CB,CC để đào tạo, bồi dưỡng với ổn định, phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS tại chỗ. Việc điều động, luân chuyển CB,CC lãnh đạo, quản lý
là người DTTS đã khắc phục được tình trạng cục bộ, khép kín; đồng thời, tăng
cường, bổ sung nhiều cán bộ trẻ, được đào tạo cơ bản; từng bước trẻ hóa và nâng
cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo, quản lý.
Nhờ những nỗ lực trong lãnh đạo, điều hành quản lý việc triển khai chính
sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội vùng DTTS trên
địa bàn Tây Giang.
Một số vấn đề đặt ra hiện nay:
Một số chỉ đạo của cấp ủy chưa cụ thể, triển khai chính sách phát triển
đội ngũ CB,CC người DTTS hàng năm còn chậm. Việc quản lý, điều hành chính
sách này của chính quyền các cấp trên địa bàn huyện Tây Giang nhiều lúc bị
41
động, lúng túng ; trong khi phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối với HĐND,
UBND, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội huyện chậm đổi mới,
đôi lúc có sự chồng lấn giữa “lãnh đạo” với “chỉ đạo điều hành”, ảnh hưởng
đến thực hiện chính sách ở một số mặt hoạt động có hiệu quả thấp. Ngoài ra, cấp
ủy Đảng và người đứng đầu ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa phát huy
hết tinh thần trách nhiệm, nên công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách
này với hiệu quả có giới hạn. Nội bộ trong cấp ủy, chính quyền có lúc, có nơi
biểu hiện “bằng mặt, không bằng lòng”, cấp trên ít tin cấp dưới, cấp dưới tham
mưu qua loa, không trọng tâm. Chưa phát huy tốt dân chủ ở cơ sở trong công tác
cán bộ.
Quá trình phân công và phối hợp trong triển khai chính sách phát triển đội
ngũ CB,CC người DTTS trên địa bàn huyện Tây Giang vẫn còn thiếu chặt chẽ,
thiếu cụ thể, chưa phân định rõ chức năng và nhiệm vụ, chưa làm rõ trách nhiệm,
hoặc chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm của từng cơ quan (cấp ủy đảng, chính
quyền, các ban ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân); vẫn chưa có
sự đồng bộ trong phối hợp giữa các tổ chức để thực hiện chính sách phát triển
CB,CC người DTTS; khâu tổ chức thực hiện chưa gắn với tăng cường kiểm tra,
giám sát chính sách. Trong việc thực hiện công tác tổ chức cán bộ trên địa bàn
huyện vẫn còn có biểu hiện của tính cục bộ. Điển hình đó là: sự phối hợp giữa
các ban, ngành của huyện và các xã có lúc chưa kịp thời, thiếu đồng bộ. Cơ chế
điều hành của huyện còn chồng chéo, các ngành chưa chủ động tham mưu điều
chỉnh, gây khó khăn trong công tác chỉ đạo, điều hành[38; tr.09].
Nói cách khác, các chủ thể tham gia ban hành và thực thi chính sách
phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS trên địa bàn huyện Tây Giang, nhất là
các tổ chức, cơ quan phòng, ban cấp huyện chưa có sự phân công - phối hợp
đồng bộ, chưa có sự thiết lập tốt quan hệ tương tác hỗ trợ nhau để kết nối chặt
chẽ trong quá trình triển khai chính sách. Dẫn đến việc triển khai chính sách này
có biểu hiện theo kiểu “đánh trống bỏ dùi”, các nguồn lực đầu tư chính sách phát
42
triển đội ngũ CB,CC người DTTS bị dàn trải, phân tán và chưa chủ động. Biểu
thị ở chỗ:
(1) Chưa có sự kết nối tốt giữa công tác tạo nguồn và công tác tuyển dụng
CB,CC người DTTS trong các cơ quan, đơn vị ở địa phương. Nói cách khác,
chưa có sự thống nhất đồng bộ giữa cơ quan có thẩm quyền cử với cơ quan có
trách nhiệm đào tạo, xem xét, tuyển dụng theo vị trí việc làm sau khi sinh viên
tốt nghiệp ra trường;
(2) Công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán
bộ người dân tộc thiểu số chưa có sự gắn kết đồng bộ nên hiệu quả chưa cao.
Chẳng hạn, công tác tạo nguồn CB,CC người DTTS chỉ dừng lại ở việc đào tạo
học sinh, sinh viên người DTTS ở các trường nội trú dân tộc, tạo nguồn từ xa
nhưng lại chưa có quy chế/ quy định để tuyển chọn, bố trí, sử dụng sau khi họ tốt
nghiệp. Hay giữa số lượng và chất lượng qua đào tạo, bồi dưỡng đối với nhóm
đối tượng CB,CC người DTTS đang có sự mất cân đối;
(3) Bản thân đối tượng thụ hưởng chính sách phát triển CB,CC người
DTTS là con em đồng bào DTTS và CB,CC người DTTS trên địa bàn Tây Giang
còn thụ động trong việc tham gia chính sách này. Đây là những minh chứng.
2.2.4. Thực trạng duy trì và điều chỉnh chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
Trong lãnh đạo, điều hành của Huyện ủy và chính quyền huyện Tây Giang
được tập trung hơn để duy trì tính ổn định của chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS, biểu hiện cụ thể: chính quyền địa phương cũng như các cơ
quan, tổ chức trong hệ thống chính trị từ huyện đến xã đã nhận thức cơ bản về ý
nghĩa, tầm quan trọng của tổ chức thực hiện chính sách và đề cao trách nhiệm
trong tổ chức thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS.
Mặt khác, trong lãnh đạo điều hành việc duy trì chính sách này ở những
năm qua đã từng bước triển khai lồng ghép ngày càng đồng bộ với chính sách
dân tộc và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS.
43
Mặc dù, trước môi trường thực tế địa phương có những biến động khó
khăn, để duy trì chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS, Tỉnh ủy,
chính quyền tỉnh Quảng Nam và huyện Tây Giang đã từng bước chủ động tổ
chức sử dụng các công cụ quản lý để tạo lập môi trường thuận lợi cho việc triển
khai thực hiện chính sách trên địa bàn huyện. Hơn nữa, trong quá trình tổ chức
thực hiện chính sách khi gặp khó khăn, phần lớn huyện Tây Giang cũng đã chủ
động đề xuất tỉnh Quảng Nam và các cấp có thẩm quyền về kiến nghị sửa đổi, bổ
sung để khắc phục những bất cập của chính sách sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS.
Một số vấn đề hạn chế:
Trước nhiều vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn địa phương, nhưng các điều
chỉnh chính sách thiếu linh hoạt, bị động, còn chậm trễ hoặc chưa phù hợp với
đặc thù của huyện Tây Giang do một số chủ thể thực hiện chính sách còn yếu về
năng lực đánh giá tình hình thực tế và tổng kết thực tiễn địa phương, làm hạn chế
đến việc triển khai các công cụ, giải pháp định hướng cho hoạt động tổ chức
thực thi chính sách CB,CC người DTTS nơi đây. Hơn nữa, minh chứng về việc
chậm bổ sung, điều chỉnh chính sách này trước thực tiễn phát triển của địa
phương Tây Giang còn được thể hiện ở chỗ: đó là có không ít sinh viên con em
đồng bào DTTS sau khi ra trường thực tế qua vài năm vẫn không xin được việc
làm... Đây là vấn đề cấp bách đặt ra từ thực tiễn đòi hỏi phải có sự điều chỉnh
thích hợp đối với chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS hiện nay.
Nhiều quy định, thủ tục trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách phát
triển đội ngũ CB,CC người DTTS còn phức tạp, khiến cho việc triển khai thực
hiện chính sách cũng bị ảnh hưởng về tiến độ.
Quá trình duy trì thực hiện chính sách trên thực tế gặp một số khó khăn do
không đề xuất được các biện pháp linh hoạt, dẫn đến tình trạng thời gian thực
hiện bị chậm trễ. Hơn nữa, bản thân các chủ thể thực hiện chính sách phát triển
đội ngũ CB,CC người DTTS chưa thực sự chú trọng nhiều các kênh tham vấn,
44
chưa coi trọng việc lắng nghe ý kiến phản biện để đề xuất các kiến nghị hợp lý
về mục tiêu, giải pháp thực hiện chính sách này.
2.2.5. Thực trạng theo dõi, đôn đốc thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
Sự chỉ đạo, điều hành thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS của Huyện ủy và chính quyền huyện Tây Giang đã từng bước được
tập trung hơn gắn liền với cam kết chương trình hành động. Theo đó, các hoạt
động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra được quan tâm tăng cường trong quá trình tổ
chức thực hiện những nhiệm vụ theo kế hoạch thực hiện chính sách phát triển
đội ngũ CB,CC người DTTS trên địa bàn huyện. Qua đó đã góp phần tạo lập cơ
sở quan trọng để cơ quan, người có thẩm quyền nâng cao trách nhiệm của mình
trong việc đảm bảo chất lượng trong thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS ở huyện Tây Giang thời gian qua.
Qua theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS đã có những chỉ đạo kết luận kịp thời giúp các cơ quan
huyện và các UBND xã khắc phục một phần hạn chế, bất cập và định hướng gợi
ý giải pháp cần thiết để duy trì chính sách này nhằm tăng cường thực hiện công
tác phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS tại các cơ quan và địa phương.
Nhờ việc tổ chức theo dõi, kiểm tra, đôn đốc được thực hiện khá tốt nên
quá trình thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS đã cơ bản
kịp thời đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò quan trọng của chính sách này
trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển huyện Tây Giang.
Một số vấn đề hạn chế:
Công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát của cấp ủy, Ủy ban Kiểm
tra, nhất là cấp xã về việc thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS
còn nhiều lúng túng, chưa thường xuyên, chưa đảm bảo quy trình, số lượng ít và
chất lượng kiểm tra hạn chế, chưa sâu sát, chưa cụ thể và thiên về hình thức
45
Sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền ở một số xã và người đứng đầu cơ
quan đơn vị này chưa tập trung cao. Qua kiểm tra thực hiện chính sách phát triển
đội ngũ CB,CC người DTTS chưa đề xuất nhiều biện pháp chấn chỉnh vi phạm,
tháo gỡ vướng mắc, khó khăn nhằm xây dựng, nâng cao chất lượng thực hiện
chính sách này. Dẫn đến hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính
sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS là có hạn. Hơn nữa, việc theo dõi,
đôn đốc thực hiện chính sách này ít gắn với kiểm tra, giám sát, chỉ đạo theo cách
“cầm tay chỉ việc”...
Một số nghị quyết, chỉ đạo của cấp ủy liên quan đến chính sách này triển
khai chậm, chưa cụ thể và thiếu kiểm tra, giám sát, đôn đốc trong quá trình thực
hiện.
Công tác giám sát, kiểm tra việc thực thi công vụ đối với cán bộ, công
chức chưa thường xuyên; kỷ luật, kỷ cương hành chính có lúc có nơi còn chưa
nghiêm.
2.2.6. Thực trạng tổng kết đánh giá thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
Trong quá trình tổ chức thực thi chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS trên địa bàn Tây Giang, Huyện ủy, chính quyền huyện và chính
quyền các xã trên địa bàn định kỳ đã có sự cố gắng trong việc tiến hành khảo sát
thực tiễn cơ sở, đánh giá sơ – tổng kết việc thực hiện chính sách này đối với từng
cơ quan, các chủ thể thực hiện chính sách và các nhóm đối tượng thụ hưởng
chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS trên địa bàn huyện.
Huyện ủy, chính quyền huyện Tây Giang những năm trở lại đây trong
đánh giá sơ – tổng kết việc thực hiện chính sách này đã quan tâm chú ý bước đầu
về sự kết hợp cả đánh giá quá trình điều hành, phân công phối hợp thực hiện
chính sách (đánh giá trong); và đánh giá kết quả thực hiện chính sách phát triển
đội ngũ CB,CC người DTTS.
Một số vấn đề hạn chế:
46
Một số cơ quan Đảng, chính quyền tuy chủ trì hoặc giữ vai trò điều phối
việc tổ chức thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS còn
chưa chú trọng đánh giá sâu chương trình hoạt động của mình (như là một
nguyên nhân của kết quảy triển khai chính sách), thậm chí là chưa đưa nội dung
đánh giá chính sách vào chương trình nghị sự của mình.
Nhiều cán bộ hiểu chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS đơn
giản chỉ là những chủ trương, chế độ hỗ trợ chung chung của Nhà nước dành cho
CB,CC người DTTS, mà chưa thấy được hết vị trí, ý nghĩa vai trò và đặc điểm
của chính sách này. Nên quá trình tổng kết, đánh giá thực hiện chính sách phát
triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số còn bị xem nhẹ, mới chỉ
dừng lại ở khía cạnh tổng kết đánh giá khái quát mà chưa làm rõ nguyên nhân
cốt lõi của vấn đề chính sách.
Trong đánh giá tổng kết thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS ở một số mặt còn ở lăng kính chủ quan, thiếu tính khách quan, đánh
giá chưa toàn diện, thậm chí một số xã đánh giá thiếu chính xác. Hơn nữa, sự
tham gia ý kiến của người dân và hoạt động tư vấn, giám định và phản biện của
các tổ chức đối với chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân
tộc thiểu số chưa được coi trọng.
2.3. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở huyện Tây Giang, tỉnh
Quảng Nam từ năm 2011 đến nay
2.3.1. Kết quả đạt được
Trên cơ sở triển khai Nghị quyết số 06-NQ/HU ngày 15/10/2011 của
Huyện ủy Tây Giang về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí cán bộ
giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020; Kết luận số 12-KL/HU ngày
18/11/2016 của Huyện ủy Tây Giang về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 06-
NQ/HU ngày 15/10/2011 của Huyện ủy về “công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng và bố trí cán bộ”; và triển khai thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày
47
12/8/2016 của Tỉnh ủy Quảng Nam về “nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
kiện toàn tổ chức bộ máy giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2025”;
đồng thời kết hợp với việc lồng ghép thực hiện chính sách vùng đồng bào DTTS,
các chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế-xã hội vùng miền núi, quá trình
thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS những năm qua đã được
Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung triển khai khá tốt thông qua công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và điều động, luân chuyển cán
bộ. Điển hình, Ban Thường vụ Huyện uỷ đã chủ động xây dựng, hoàn thành Quy
hoạch ban chấp hành, ban thường vụ, các chức danh chủ chốt của huyện, các
ngành và các xã nhiệm kỳ 2020-2025 (với kết quả là Ban chấp hành đảng bộ
huyện: 75 đ/c, Ban Thường vụ 19 đ/c, Bí thư 04 đ/c, Phó Bí thư 05 đ/c; trưởng
ngành huyện 109 đ/c, Phó ngành huyện 124 đ/c; Bí thư và Phó Bí thư xã 69
đ/c)[20; tr.10]; trong đó hằng năm quan tâm rà soát, bổ sung kịp thời CB,CC
người DTTS với số lượng, cơ cấu đảm bảo theo quy định; việc đề bạt, bổ nhiệm,
giới thiệu cán bộ người DTTS ứng cử đáp ứng cơ bản theo quy hoạch được cấp
có thẩm quyền phê duyệt, đa số phát huy chức trách, vai trò nhiệm vụ được giao.
Từ năm 2015 đến nay, UBND huyện đã quyết định điều động và bổ nhiệm công
chức, viên chức là người DTTS– với 05 Trưởng phòng và tương đương; 10 Phó
Trưởng phòng và tương đương; biệt phái 01 viên chức là người DTTS.[39; tr.05]
Chính sách cử tuyển đào tạo có địa chỉ đối với con em người DTTS cũng
đã được Huyện ủy và chính quyền Tây Giang quan tâm từng bước, vận dụng hợp
lý các quy định của pháp luật trong xét tuyển, tạo điều kiện thuận lợi cho người
DTTS có việc làm ở nhiều cơ quan, đơn vị cấp huyện và cấp xã. Để tạo nguồn
nhân lực tại chỗ cho Tây Giang, Ban Thường vụ Huyện ủy, HĐND và UBND
huyện đã chỉ đạo các ngành bám sát Nghị định số 134/2006/NĐ-CP, Nghị định
số 49/2015/NĐ-CP quan tâm đến công tác cử tuyển cho các em là người DTTS,
quan tâm bố trí sinh viên là người DTTS trên địa bàn sau khi tốt nghiệp đại học,
cao đẳng, trung cấp và trên thực tế một số em đã được tuyển dụng công tác tại
48
các phòng, ban, ngành, huyện, xã theo đúng chuyên ngành đào tạo[37; tr.06].
Ngoài ra, thực hiện Đề án tuyển chọn, đào tạo, nguồn cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2016 (theo Quyết định số
2398/QĐ-UBND ngày 28/7/2011 của UBND tỉnh Quảng Nam), huyện Tây
Giang đã hoàn thành việc triển khai bố trí 13 học viên là người DTTS giữ các
chức danh cán bộ chủ chốt cấp xã theo Đề án 500 (năm 2015 bố trí 05 học viên;
năm 2016 bố trí 08 học viên)[39; tr.05].
Hơn nữa, việc triển khai thực hiện các chế độ, chính sách ưu tiên trong
phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS cũng đã kịp thời và đầy đủ. Điển hình
gần đây, đã vận dụng kịp thời cho CB,CC người DTTS trên địa bàn huyện là đối
tượng được thụ hưởng các chế độ trợ cấp tham quan, học tập, bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ theo quy định của Nghị định 76/2019/NĐ-CP (với nội dung là
các trường hợp được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền cử đi học bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tham quan, học tập trao đổi kinh
nghiệm thì được hỗ trợ tiền mua tài liệu học tập và hỗ trợ 100% tiền học phí, chi
phí đi lại từ nơi làm việc đến nơi học tập. Đặc biệt là các trường hợp công tác tại
vùng dân tộc ít người tự học tiếng dân tộc để phục vụ nhiệm vụ được giao thì
được hỗ trợ tiền mua tài liệu và tiền bồi dưỡng cho việc tự học tiếng dân tộc ít
người bằng số tiền hỗ trợ cho việc học tập ở các trường, lớp chính quy)… Nhờ
đó đã động viên, khuyến khích CB,CC người DTTS tham gia đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ về chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ,
tin học để đạt chuẩn chức danh. Trên thực tế, nhiều CB,CC người DTTS tại Tây
Giang đã được cử tham gia các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, tập huấn, cập nhật kiến
thức tại tỉnh, huyện - Với kết quả cụ thể tính đến thời điểm tháng 6 năm 2018 đạt
được[20; tr.10]: Trình độ chuyên môn: Sau đại học 07 người, Đại học 52 người,
Cao đẳng 01 người và Trung cấp 03 người; Trình độ chính trị: Cao cấp và cử
nhân 22 người, Trung cấp 94 người.
49
Huyện ủy Tây Giang đã thực hiện phối hợp liên kết với Trường Chính trị
Quảng Nam mở lớp Trung cấp Lý luận chính trị hành chính tại huyện, cụ thể: Năm
2014-2016 mở 01 lớp có 56 học viên là người DTTS, năm 2017-2018 mở 01 lớp có
60 học viên là người DTTS[39; tr.02]. Bên cạnh đó, Trung tâm bồi dưỡng chính trị
huyện mở 21 lớp với 1.455 học viên; trong đó 8 lớp đối tượng kết nạp đảng với
552 học viên, 6 lớp đảng viên mới với 420 học viên, 6 lớp bí thư chi bộ và cấp
ủy viên cơ sở với 437 học viên, 01 lớp cán bộ chủ chốt xã với 46 học viên[20;
tr.10].
Sau khi tập huấn và tốt nghiệp các khóa học, việc thu hút, tuyển dụng, sử
dụng và đãi ngộ CB,CC người DTTS đã được Huyện ủy và chính quyền huyện
Tây Giang: (1) Chú trọng trong việc xem xét, bố trí vào những vị trí, chức danh
phù hợp phát huy kiến thức đã học, đồng thời cũng đã bố trí sinh viên là người
DTTS tốt nghiệp đại học có trình độ loại khá, giỏi được ưu tiên bố trí công tác
tại các cơ quan, đơn vị, góp phần tăng tỷ lệ cơ cấu người DTTS so với tổng số
CBCC đang tham gia công tác tại huyện; (2) Để tăng cường hỗ trợ nhau nâng
cao năng lực và hiệu quả công tác, huyện còn tiến hành sắp xếp, bố trí sử dụng
bằng giải pháp đan xen giữa cán bộ người Kinh và người DTTS; ngoài ra, huyện
còn chủ động tổ chức Hội thi Phó Bí thư thường trực Đảng ủy và Bí thư chi bộ giỏi
nhằm trang bị kỹ năng, kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác Đảng ở huyện,
xã[13; tr.09]. Tình trạng CB,CC người DTTS ỷ lại vào chính sách của Nhà nước
cũng đã giảm đi rất nhiều.
Có thể nói, nếu so sánh thời điểm năm 2015[19; tr.08] cả số lượng và chất
lượng đội ngũ CB,CC người DTTS còn nhiều thiếu hụt, buộc huyện phải điều
động cán bộ huyện tăng cường giữ các chức danh chủ chốt cho 06/10 xã và tăng
cường bộ đội biên phòng cho 08/10 xã nhằm tăng cường cấp bách cho cán bộ
chính quyền cấp xã, thì đến nay (tính đến năm 2018) công tác quy hoạch phát
triển CB,CC người DTTS trên địa bàn huyện Tây Giang đã có bước gắn kết với
đào tạo bồi dưỡng, tuyển dụng, sử dụng. Số lượng và chất lượng của đội ngũ
50
CB,CC người DTTS từ huyện đến các xã trên địa bàn Tây Giang tăng lên qua
các năm gần đây, đóng góp chung vào thành quả [20; tr.10]: Ở cấp huyện, tỷ lệ
cán bộ trẻ đạt 31,18%, tỷ lệ cán bộ nữ đạt 27,13%; cán bộ trưởng, phó phòng của
huyện đạt 03 chuẩn (03 chuẩn gồm: học vấn, trình độ chuyên môn và trình độ
chính trị) chiếm tỷ lệ 90,29%; CB,CC xã đạt 03 chuẩn: 226/254 người chiếm
88,98%; trong đó: trình độ đại học 133 người chiếm 52,37%; cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp: 93 người chiếm 36,62%; lý luận chính trị: Cao cấp 17 người
chiếm 6,7%; trung cấp 205 người chiếm 80,71%; cấp ủy viên xã 90,21% đạt 03
chuẩn.
Với đội ngũ CB,CC nói chung và CB,CC người DTTS nói riêng từ huyện
đến các xã trên địa bàn Tây Giang được tạo dựng như vậy; cùng với việc đề bạt,
bổ nhiệm CB,CC người DTTS có tuổi đời khá trẻ, có trình độ đại học đang công
tác tại các cơ quan, đơn vị và địa phương đang tăng về số lượng (để tinh giản
biên chế đối với các trường hợp không qua đào tạo, năng lực hạn chế, lớn
tuổi…), họ đã từng bước cơ bản đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ công tác, đã góp
phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - chính trị,
trật tự xã hội của địa phương. Kết quả này cũng cho thấy sự quan tâm của các
cấp trong việc sắp xếp, bố trí công tác và xây dựng nguồn nhân lực tại chỗ là
người DTTS; nguồn nhân lực này ngày càng được đánh giá có trình độ, năng lực
và trách nhiệm tăng lên trong thực thi nhiệm vụ được giao. Qua đó, tạo niềm tin
đối với người dân trong việc thực thi chính sách của Đảng và pháp luật Nhà
nước trong cơ chế tuyển dụng đối với con em là người DTTS.
2.3.2. Mặt hạn chế đặt ra
Công tác cụ thể hóa chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS
của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương (tỉnh Quảng Nam và huyện Tây
Giang) trong việc lồng ghép thực hiện chính sách dân tộc và công tác tổ chức
cán bộ trên địa bàn huyện Tây Giang còn lúng túng và chậm đi vào cuộc sống.
Tuy đã nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ở nhiều năm qua,
51
nhưng hệ thống văn bản quản lý quy định về công tác tuyển dụng và quản lý
CB,CC vẫn còn thiếu tính cụ thể đối với nhóm CB,CC người DTTS, chậm đổi
mới so với yêu cầu thực tiễn hiện nay. Một số minh chứng đã cho thấy: Tại Điều
13 Quy chế đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC được ban hành (kèm theo Quyết định
số 4314/QĐ-UBND ngày 12/12/2017 của UBND tỉnh Quảng Nam) chưa quy
định rõ thẩm quyền cử đi đào tạo đối với công chức không thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện ủy quản lý. Điển hình hơn cả, Nghị quyết 04-NQ/TU, ngày
12/8/2016 của Tỉnh ủy Quảng Nam đã và đang quy định các trường hợp bố trí
cán bộ sinh sau 1975 nhưng có trình độ Đại học chuyên môn hệ tại chức thì
không đủ điều kiện đảm bảo tiêu chuẩn quy hoạch, đề bạt, giới thiệu ứng cử các
chức danh lãnh đạo huyện và xã. Quy định này cũng áp dụng cho cả CB,CC
người DTTS khiến cho công tác quy hoạch, đề bạt, giới thiệu CB,CC người
DTTS ứng cử các chức danh lãnh đạo huyện và xã đang gặp nhiều vướng mắc.
Nhìn chung, các văn bản hiện hành của Đảng và Nhà nước tuy đã quy
định khá đầy đủ về đào tạo, bồi dưỡng, chế độ, chính sách cho CB,CC người
DTTS, thế nhưng việc triển khai hướng dẫn, việc cụ thể hóa thành chương trình
hành động trên địa bàn Tây Giang còn bất cập, chưa sát với từng loại đối tượng
cán bộ ở từng vùng dân tộc trên thực tế. Biểu hiện ra là:
(1) Việc xây dựng đội ngũ CB,CC người DTTS ở cả huyện Tây Giang và
các xã trên địa bàn huyện không đồng đều cả số lượng và chất lượng, nhất là về
trình độ các mặt. Số lượng CB,CC người DTTS cấp huyện trong các cơ quan nhà
nước và các đơn vị sự nghiệp ở Tây Giang vẫn còn thấp so với tỷ lệ dân số người
DTTS trên địa bàn.
(2) Đội ngũ cán bộ DTTS chưa qua đào tạo, bồi dưỡng còn chiếm tỷ lệ
khá lớn trên địa bàn huyện, nhất là cán bộ cấp xã. Ở một số chuyên ngành thiếu
cán bộ DTTS nhưng chưa có nguồn để tuyển dụng (bác sĩ, kinh tế, kỹ thuật...).
Một bộ phận đáng kể CB,CC người DTTS của huyện có trình độ hạn chế trong
tiếp thu và thực hiện một số chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước xuống
52
cấp cơ sở, chưa khai thác được năng lực và hiệu quả công việc của họ. Bên
cạnh đó, vẫn có tình trạng chưa coi trọng đúng mức vai trò năng lực tổ chức thực
tiễn để lựa chọn, bố trí cán bộ phù hợp; cùng với đại bộ phận cán bộ chủ chốt cấp
xã trên địa bàn huyện Tây Giang hiện nay còn yếu về kỹ năng, tác phong chưa
chuyên nghiệp, thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ và quản lý nhà nước để tổ
chức chỉ đạo, quản lý của thời kỳ mở cửa và hội nhập. Minh chứng là khả năng
của họ trong thu thập và xử lý thông tin, bao quát, đánh giá, dự báo tình hình,
cũng như việc xác định nhiệm vụ, điều hành công việc là còn yếu.
(3) Sự thiếu hụt cán bộ DTTS trong nhiều vị trí cơ bản, bởi phần nhiều các
chức danh chính đảm nhận trong hệ thống chính trị cấp xã trên địa bàn huyện
chiếm tỷ lệ thấp, nhất là các xã ở khu vực khó khăn vẫn chủ yếu phải điều động
và sử dụng cán bộ tăng cường từ nơi khác đến hoặc từ trên xuống.
Với hiện trạng về hạn chế, khó khăn kể trên, cùng với hiện tại trên địa bàn
huyện vẫn chưa có cơ sở đào tạo đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tạo nguồn và
chất lượng CB,CC người DTTS trong thực hiện chính sách. Nói cách khác, việc
thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS chưa hoàn toàn xác
lập môi trường, điều kiện làm việc thuận lợi.
Các chủ thể thực hiện chính sách yếu về khả năng nắm bắt, đánh giá tình
hình thực tế và tổng kết thực tiễn địa phương dẫn đến chậm kịp thời phát hiện
các vấn đề mới nảy sinh, điều chỉnh chính sách phù hợp với đặc thù của huyện
Tây Giang, nên hạn chế trong triển khai các công cụ, giải pháp định hướng cho
hoạt động tổ chức thực thi chính sách CB,CC người DTTS nơi đây. Trong đó,
năng lực tổ chức thực hiện chính sách CB,CC người DTTS của một bộ phận cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở Tây Giang vẫn còn nhiều hạn chế.
Thiếu sự chú ý đúng mức đến công tác dự báo, quy hoạch phát triển cán
bộ và chiến lược đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn CB,CC người DTTS ở huyện
Tây Giang, vì còn biểu hiện sự chắp vá hoặc chủ yếu xử lý tình huống vì đã bổ
nhiệm. Trên thực tế đã cho thấy, việc đào tạo, bồi dưỡng tại một số xã chưa gắn
53
liền với vị trí việc làm, quy hoạch lâu dài và không đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ đặt ra; vẫn còn tình trạng đào tạo đại trà, chưa sát với nhiệm vụ, thực tế của
địa phương... Mặt khác, việc tuyển dụng, sử dụng CB,CC người DTTS chưa gắn
với nhu cầu sử dụng. Do đó, việc bố trí sử dụng CB,CC người DTTS thường bị
động, thiếu cả số lượng và chất lượng.
Việc đánh giá CB,CC theo tiêu chuẩn như hiện nay với các tiêu chí
thành phần chưa rõ ràng, chung chung khiến việc đánh giá đang còn tính hình
thức. Công tác đánh giá cán bộ còn thiếu chính xác vì chưa gắn với kết quả và
sản phẩm cụ thể, chưa phản ánh đúng thực chất, còn nặng tính cục bộ, khép kín
trong đánh giá. Chưa chú trọng công tác sau đánh giá (bởi công tác quản lý,
giám sát, kiểm tra còn nhiều yếu kém/ bất cập), nên chưa sàng lọc, bảo vệ, chăm
lo tốt đội ngũ CB,CC người DTTS... Dẫn đến việc đề bạt, bổ nhiệm mang tính
hình thức, thiếu thực chất, đúng quy trình nhưng không đúng người có thực tài.
Chưa có quy định cụ thể về ưu tiên tuyển dụng, đặc cách CB,CC đối với
đối tượng thuộc các DTTS ít người. Sự bất cập trong quá trình thực hiện chính
sách ưu tiên cử tuyển, ưu tiên tuyển sinh tại các huyện miền núi, biên giới (theo
Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ
cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân); bởi trên thực tế tình trạng sinh viên là người DTTS
được cử đi đào tạo theo chế độ cử tuyển hoặc tạo nguồn nhưng sau tốt nghiệp
vẫn không được bố trí công tác với số lượng còn nhiều, gây áp lực lớn cho công
tác tuyển dụng CB,CC người DTTS trong các cơ quan, đơn vị ở các địa phương.
Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng CB,CC người DTTS chưa được đảm bảo,
nhất là chuẩn đầu ra về kỹ năng công vụ. Bởi trong đào tạo, bồi dưỡng CB,CC
thiếu tính cụ thể, ít chú ý đến rèn luyện kỹ năng tình huống thực hành công tác
cho CB,CC người DTTS, đặc biệt là các kỹ năng về đối thoại với nhân dân, xử lý
tình huống chính trị, xử lý khủng hoảng truyền thông,… Hơn nữa, các hoạt động
tham quan, nghiên cứu thực tế trong đào tạo, bồi dưỡng còn mang tính hình thức,
thiếu mục tiêu rõ ràng, nên chưa gắn kết tốt giữa nội dung kiến thức học tập với
54
liên hệ thực tế cho học viên là CB,CC người DTTS để trau dồi rèn luyện bản lĩnh
chính trị, kỹ năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội cho họ.
Một số chương trình còn trùng lặp về nội dung và chưa thường xuyên cập
nhật, bổ sung kiến thức mới. Sự lạc hậu/ chậm đổi mới nội dung, phương thức,
hình thức đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh và Trung tâm bồi dưỡng
chính trị huyện; cùng với phần nhiều cán bộ, giảng viên còn ít đi cơ sở, chậm
cập nhật kiến thức mới, nên giảng dạy chỉ thiên lý luận và thiếu thực tế (chưa
bám sát thực tiễn địa phương ở vùng miền núi, biên giới để liên hệ chuyên đề bài
giảng) làm cho họ yếu về phương pháp giảng dạy chưa đáp ứng được yêu cầu về
chất lượng đào tạo bồi dưỡng CB,CC.
Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng CB,CC người DTTS về cập nhật kiến thức
mới, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và trau dồi kỹ năng là rất lớn; song công
tác đào tạo bồi dưỡng CB,CC hiện nay phần lớn là chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ thực tiễn. Bởi đào tạo bồi dưỡng CB,CC chưa đảm bảo chuẩn chất
lượng đầu ra, đào tạo bồi dưỡng các vị trí chức danh dường như đang chạy theo
phong trào (có biểu hiện giải ngân dự án), đào tạo bồi dưỡng cũng chưa hoàn
toàn gắn với quy hoạch. Một số minh chứng khá rõ: tình trạng CB,CC người
DTTS tham gia bồi dưỡng ngắn hạn phần nhiều là do yêu cầu cần đủ các chứng
chỉ để hợp lý hóa đủ điều kiện để thi nâng ngạch - bậc/ chuyển ngạch - bậc mà
chưa hoàn toàn thật sự xuất phát từ nhu cầu nâng cao trình độ năng lực làm việc
theo chức danh, vị trí việc làm đang hoặc sẽ đảm nhiệm... Từ một số tồn tại này
làm chậm chuyển biến/ hạn chế về khả năng tổ chức thực tiễn của CB,CC người
DTTS trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa phương huyện Tây Giang.
Hệ thống các chính sách đãi ngộ hiện hành đang theo hướng dàn trãi hàng
ngang, không chú ý đến kết quả thực tế và năng lực thực hiện chuyên môn
nghiệp vụ trong công tác, dẫn đến nảy sinh tư tưởng bình quân, cào bằng.
Những hạn chế đặt ra nêu trên dẫn đến vấn đề của chính sách phát triển đội
ngũ CB,CC người DTTS ở huyện Tây Giang hiện nay là chưa thật sự hình thành
55
được một đội ngũ CB,CC người DTTS đảm bảo về chất lượng để có thể trở
thành một lực lượng chủ chốt trong công cuộc đổi mới ở địa phương.
2.3.3. Nguyên nhân chủ yếu của mặt hạn chế
- Nhóm nguyên nhân khách quan:
Huyện Tây Giang ở khu vực vùng miền núi của tỉnh Quảng Nam, là
huyện biên giới giáp Lào còn nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội, đang được ngân sách trung ương cấp bù cùng với sự ưu tiên của chính
quyền tỉnh Quảng Nam dành cho huyện. Mặc dù đây là sự thể hiện mối quan tâm
rất lớn đối với Tây Giang, song nó cũng phản ánh rằng bản thân nguồn thu ngân
sách địa phương huyện là không đủ bù chi và chưa thể đảm bảo thực thi chính
sách phát triển CB,CC người DTTS. Hơn nữa, chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS đang mang tính bình quân “cào bằng” và chậm sửa đổi nên
chưa đáp ứng thực tiễn đặt ra bởi sự biến động trượt giá chi phối mà kinh tế thị
trường tác động. Điều này khiến cho việc vận dụng linh hoạt về cơ chế chính
sách đang là khó khăn và bị động trước yêu cầu thực tiễn phát triển CB,CC
người DTTS của địa phương.
Ở địa bàn huyện chưa có trường bồi dưỡng về các lĩnh vực như quản lý
Nhà nước, quản lý kinh tế… chủ yếu đưa đi các nơi khác để đào tạo.
Mặt khác, đại bộ phận các hộ dân người DTTS có hoàn cảnh kinh tế - xã
hội khó khăn, vì thu nhập của họ phụ thuộc dựa vào tự nhiên là chủ yếu – với kỹ
năng lao động còn đơn giản bởi chi phối truyền thống tộc người về tập quán
canh tác lạc hậu, nên năng suất thấp. Trong điều kiện dân trí còn thấp và sự nhận
thức và thói quen bị chi phối bởi tập quán tộc người đã in sâu vào tiềm thức
đồng bào và người cán bộ DTTS; cùng với giao thông đi lại vừa xa cách vừa khó
khăn vào mùa mưa. Nên nó tác động ảnh hưởng gây khó khăn trong việc nhận
thức và thói quen trong học tập của CB,CC người DTTS.
Hơn nữa, các thế lực thù địch đã dựa vào sự khó khăn của một huyện
miền núi biên giới, dựa vào sự chênh lệch về mặt bằng trình độ phát triển giữa
người Kinh với đồng bào DTTS các dân tộc để xuyên tạc gây chia rẽ dân tộc.
56
- Nhóm nguyên nhân chủ quan:
Các văn bản hướng dẫn thi hành chính sách thiếu thống nhất, nên chính
quyền địa phương gặp khó khăn trong triển khai thực hiện. Luật Cán bộ công
chức 2008 chưa có quy định ưu tiên dành cho CB,CC người DTTS ở các địa
phương.
Các tiêu chuẩn về năng lực và phẩm chất của cán bộ còn “cứng”, khung
tiêu chuẩn chưa phản ánh đầy đủ các khía cạnh đặc thù về năng lực CB,CC người
DTTS, nên chưa phù hợp với điều kiện thực tế địa phương vùng đồng bào DTTS.
Trong chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS, hiện đang thiếu
cơ chế, chính sách tiếp nhận, tuyển dụng đối với con em đồng bào DTTS sau khi
tốt nghiệp ở các cơ sở đào tạo. Mặc dù hàng năm huyện đã triển khai tốt các quy
định về chỉ tiêu cử tuyển/ tuyển sinh người DTTS của các trường đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp và trường dạy nghề, nhưng việc quy định về
chính sách hậu cử tuyển đang bị bỏ ngỏ, dẫn đến không có sự kết nối đảm bảo
liên thông giữa công tác tạo nguồn và công tác tuyển dụng CB,CC người DTTS
trong các cơ quan, đơn vị ở địa phương xảy ra ở nhiều trường hợp.
Mặc dù Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có quy định về
quy trình lấy ý kiến của các bên, song trên thực tế quy trình hoạch định chính sách
phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS chủ yếu vẫn do cấp có thẩm quyền quyết
định ở phạm vi có giới hạn, mà chưa mở rộng để nhiều chủ thể tham gia, nhất là
đối tượng thụ hưởng và các chuyên gia trong quá trình xây dựng trước khi ban hành
chính sách.
Công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh (Quảng Nam) và huyện Tây Giang vẫn
còn thiếu sót, bất cập trong việc phát triển CB,CC người DTTS. Một trong minh
chứng khá rõ là, công tác quy hoạch, đề bạt, giới thiệu CB,CC người DTTS ứng
cử các chức danh lãnh đạo huyện và xã còn gặp nhiều khó khăn, nhất là việc bố
trí cán bộ sinh sau 1975 nhưng có trình độ Đại học chuyên môn hệ tại chức,
không đảm bảo tiêu chuẩn theo Nghị quyết 04-NQ/TU, ngày 12/8/2016 của Tỉnh
ủy Quảng Nam. Mặt khác, cơ chế xin - cho vẫn còn chi phối lĩnh vực công tác
57
cán bộ, chưa tạo được sự bình đẳng trong thực hiện chính sách phát triển CB,CC
người DTTS; trong khi thiếu cơ chế, chính sách đồng bộ để ưu đãi trọng dụng
nhân tài đối với cán bộ người DTTS.
Do ảnh hưởng của cách thức điều hành/ mô hình quản lý cũ, phương thức
triển khai chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS vẫn còn áp đặt từ
trên xuống, thiên về phương pháp hành chính khiến cho các chủ thể thực hiện
hoặc nghĩa vụ phải tham gia không phát huy được tính chủ động (chưa kích thích
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm).
Việc thực hiện các chế độ ưu tiên trong chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS mới chỉ tác động bề ngoài với lợi ích ngắn hạn trong khi
chưa đầu tư vào phương thức tác động có chiều sâu để thay đổi nhận thức và thói
quen của đối tượng CB,CC là người DTTS; cùng với chính sách biên chế suốt
đời đã tạo ra sức ỳ lớn và tính ỷ lại của CB,CC người DTTS.
Một số cấp uỷ hiện nay còn chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò trọng
yếu của chính sách phát triển CB,CC người DTTS cũng như chưa có sự quan
tâm và đầu tư đúng mức của các cấp lãnh đạo, nên việc thực hiện chính sách
này chưa được quan tâm đúng mức. Biểu hiện cụ thể là: còn xem nhẹ công tác
tuyển dụng, quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo bồi dưỡng và sử dụng đề bạt cán bộ;
tại một số xã chưa gắn liền giữa đào tạo, bồi dưỡng với vị trí việc làm, quy
hoạch lâu dài; tình trạng đào tạo thì đại trà nhưng lại chưa sát với nhiệm vụ, thực
tế của địa phương; tâm lý họ tộc, tư tưởng cục bộ địa phương, ỷ lại, áp đặt chủ
quan còn tồn tại chi phối mạnh trong thực hiện chính sách phát triển CB,CC
người DTTS.
HĐND huyện Tây Giang và HĐND cấp xã trên địa bàn huyện chưa phát
huy hiệu quả trong vai trò giám sát thực hiện chính sách phát triển CB,CC người
DTTS.
Vai trò, trách nhiệm của một số cán bộ, đảng viên chưa được phát huy đúng
mức. Nhiều trường hợp năng lực chưa đáp ứng yêu cầu, khả năng vận dụng triển
khai chính sách chưa phù hợp với điều kiện riêng từng vùng, từng xã, từng cơ
58
quan, đơn vị còn hạn chế. Mặt khác, bản thân CB,CC người DTTS còn thiếu tự
giác học tập, rèn luyện, tu dưỡng; một số còn có tâm lý dựa dẫm vào các chế độ
chính sách.
Tiểu kết chương 2
Từ việc khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và phân tích tình
hình cơ cấu CB,CC người DTTS của huyện Tây Giang, chương 2 đã phân tích
khá rõ tình hình cụ thể quá trình thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến 2019. Qua
đó, đưa ra đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến 2019 trên cả
hai mặt kết quả đạt được và vấn đề hạn chế chủ yếu đặt ra cùng nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến các hạn chế, đó là: (1) Nhóm nguyên nhân chủ quan, như: Thiếu cơ
chế chính sách tiếp nhận, tuyển dụng đối với con em đồng bào DTTS hậu cử
tuyển. Khung tiêu chuẩn chưa phản ánh đầy đủ các khía cạnh đặc thù về năng lực
CB,CC người DTTS. Quy trình hoạch định chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS chưa mở rộng sự tham gia của nhiều chủ thể. Một số cấp uỷ hiện
nay còn chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò trọng yếu của chính sách này. Một
số mặt của công tác tổ chức cán bộ ở địa phương vẫn còn bất cập. Chính sách
biên chế suốt đời đã tạo ra sức ỳ lớn và tính ỷ lại của CB,CC người DTTS…;
(2) Nhóm nguyên nhân khách quan: Huyện Tây Giang còn nhiều khó khăn, vì
thuộc vùng miền núi biên giới của tỉnh Quảng Nam. Điều kiện dân trí còn thấp
và sự nhận thức cũng như thói quen bị chi phối bởi tập quán tộc người đã in sâu
vào tiềm thức đồng bào và người cán bộ DTTS. Các thế lực thù địch luôn xuyên
tạc, chống phá gây chia rẽ dân tộc...
59
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂY GIANG,
TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2021-2026, TẦM NHÌN 2026-2031
3.1. Một số quan điểm định hướng cho việc nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
ở huyện Tây Giang giai đoạn 2021-2026, tầm nhìn 2026-2031
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 BCHTW khóa XI của Đảng đã định
hướng: Phát triển hài hòa, hỗ trợ… giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát
triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng DTTS...
Khoản 4 Điều 5 của Hiến pháp năm 2013 đã xác định: Nhà nước thực hiện chính
sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội
lực cùng phát triển với đất nước. Hơn nữa, Đảng ta cũng xác định rõ việc xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng
được yêu cầu của địa phương[10; tr. 36]. Tại Đại hội lần thứ XII Đảng ta khẳng
định: …Tăng tỉ lệ cán bộ lãnh đạo, cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ,
cán bộ trẻ..[12; tr. 206]. Thể chế hóa chủ trương Nghị quyết của Đảng, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 402/QĐ-TTg, ngày 14-3-2016 về
Phê duyệt Đề án Phát triển đội ngũ cán bộ công chức, viên chức người DTTS
trong thời kỳ mới, tróng đó xác định mục tiêu: … Đối với huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) có tỷ lệ cán bộ DTTS tham gia vào
các cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp huyện tối thiểu là 5% đến 35% trên tổng biên
chế được giao, tùy thuộc vào tỷ lệ người DTTS trên tổng dân số của huyện. Đối
với xã, phường, thị trấn (gọi chung là xã) có tỷ lệ cán bộ DTTS tham gia vào các
cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp xã tối thiểu là 10% đến 50% trên tổng biên chế
được giao”.
Với huyện Tây Giang, việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
60
CB,CC người DTTS giai đoạn 2021-2026, tầm nhìn 2026-2031là nhằm hiện
thực hóa mục tiêu xây dựng được đội ngũ CB,CC người DTTS chẳng những
phải đủ về số lượng và hợp lý về cơ cấu, mà còn phải đảm bảo chất lượng chuẩn
hoá đồng bộ về trình độ, kỹ năng, phẩm chất để đủ khả năng và bản lĩnh đáp ứng
tốt yêu cầu phát triển nền công vụ ở thời kỳ đổi mới. Theo đó, một số quan điểm
định hướng chủ yếu cần đề xuất, cụ thể là:
- Việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS phải trên cơ sở đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của các cấp
ủy Đảng, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành trong triển
khai chính sách này; gắn với Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh; kết hợp với triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày
25/10/2017 của BCH TW Đảng về Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đồng
thời, tăng cường phát huy dân chủ trong thực hiện chính sách phát triển CB,CC
người DTTS, nhất là trong công tác tổ chức cán bộ cần thực hiện nghiêm nguyên
tắc, quy trình, thủ tục công tác này.
- Bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của các khâu, các bước trong quá trình
thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS trên địa bàn huyện
Tây Giang từ xây dựng kế hoạch chương trình thực hiện chính sách này của các
phòng, ban cấp huyện, chính quyền cấp xã cho đến việc tổng kết đánh giá. Trong
đó, phải chú trọng vai trò trách nhiệm của cơ quan chủ trì, cơ quan điều phối
thực hiện chính sách.
- Việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển CB,CC người
DTTS bên cạnh phải trên cơ sở tham chiếu, rà soát hệ thống cơ chế chính sách
của Nhà nước hiện hành có liên quan để xác lập môi trường tốt nhất cho các chủ
thể tham gia thực hiện, thì đồng thời phải đổi mới hướng vào sự chú trọng tính
thực tiễn để vận dụng thích hợp, phòng tránh sự lạc hậu của chính sách trên thực
tế cũng như tạo được động lực cho mỗi cá nhân nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới
và mục tiêu phát triển bền vững.
61
- Việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS phải hạch toán đầy đủ về đặc điểm của người CB,CC người DTTS
ở các khu vực đặc thù. Yêu cầu tính khả thi trong thực thi chính sách này đòi hỏi
các chủ thể thực hiện chính sách phải triển khai phù hợp đối với các địa phương
có đặc điểm quan hệ đa dạng tộc người, văn hóa tộc người ở vùng miền núi, vấn
đề nhạy cảm tôn giáo và đặc điểm vị trí của khu vực địa chiến lược an ninh chính
trị, quốc phòng (nhất là vấn đề biên giới), đối ngoại và bảo vệ môi trường sinh
thái; cũng như phải gắn liền với sự phối hợp hài hoà nhu cầu thực tiễn của địa
phương và mục tiêu tổng thể trong phát triển của địa phương. Nói cách khác,
các chủ thể chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS trong quá trình
triển khai phải chú ý đến sự tác động kích thích hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội
Tây Giang thông qua thông qua các chương trình, dự án để cải thiện thu nhập và
mức sống của đồng bào các dân tộc, giảm nghèo bền vững, phải giữ gìn đoàn kết
dân tộc và nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu lợi dụng
vấn đề dân tộc, tôn giáo, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc của các
thế lực thù địch, bảo đảm an ninh chính trị, quốc phòng, nhất là đối với các địa
bàn xung yếu vùng sâu, giáp biên giới của huyện.
- Cần xác định chính sách đãi ngộ vật chất và động viên tinh thần là yếu tố
rất quan trọng tạo ra động lực làm việc của đội ngũ CB,CC người DTTS. Bởi
chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS có mối quan hệ biện chứng
với đổi mới chính sách phát triển kinh tế, nó chịu sự tác động quyết định về
nguồn lực của các chính sách phát triển kinh tế trong triển khai thực hiện chính
sách phát triển CB,CC người DTTS. Mặt khác, một thực tế là, thực trạng đời
sống và thu nhập của CB,CC người DTTS ở khu vực đặc thù hiện nay còn rất
thấp, nên cần thiết tập trung nguồn lực thích đáng đủ để giải quyết được lợi ích
vật chất và tinh thần cho họ một cách hài hòa, giảm bớt sự ràng buộc và lệ thuộc
vào kinh tế gia đình. Thông qua chính sách đãi ngộ hợp lý và thỏa đáng, thì
không chỉ giúp đội ngũ CB,CC người DTTS toàn tâm toàn trong công tác, mà
còn nhân tố quan trọng nữa đó là đóng góp vào việc tăng cường ý thức phục vụ
62
nhân dân, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí hay sự phân biệt kỳ thị,
quan liêu, để vừa làm trong sạch đội ngũ CB,CC,..., vừa tạo mối đoàn kết, tập
hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng những người có đức, có tài trong và
ngoài Đảng tham gia các hoạt động ở cơ sở, để họ đóng góp vào công việc chung
của đất nước. Vấn đề cốt lõi còn lại chính là biện pháp triển khai nó.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số trên địa
bàn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam
3.2.1. Nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy Đảng và
chính quyền trong điều hành phân công phối hợp thực hiện chính sách phát
triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở địa phương
Trong điều hành lãnh đạo, quản lý phân công phối hợp thực hiện chính
sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS, chính quyền tỉnh Quảng Nam và
huyện Tây Giang cần vận dụng linh hoạt về hướng dẫn của Thông tư số
02/2014/TTLT-BNV-UBDT, ngày 11-9-2014, của Bộ Nội vụ, Ủy ban Dân tộc
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành chính sách đối với cán bộ, công chức,
viên chức người DTTS.
Quá trình lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy Đảng và chính quyền Tây
Giang trong thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS phải
tiếp tục chú trọng phối hợp lồng ghép đồng bộ với triển khai các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của các cấp, các ngành trên địa bàn huyện (nhất là gắn liền
với thực hiện chính sách vùng đồng bào DTTS, các chính sách hỗ trợ đầu tư phát
triển kinh tế-xã hội vùng miền núi), nhằm hội tụ các nguồn lực và giảm thiểu sự
phân tán/ dàn trãi lãng phí… để gia tăng hiệu quả chính sách. Giải pháp cấp thiết
hiện nay với nguồn lực hiện có, các phòng ban của huyện và UBND các xã cần
tăng cường sự tương tác và phối hợp chặt chẽ để lồng ghép tốt chính sách phát
triển CB,CC người DTTS trên địa bàn mình nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
chính sách này. Bởi một khi nếu còn có tình trạng sự việc thiếu coi trọng đúng
mức sự tương tác và phối hợp giữa các cơ quan với nhau (trách nhiệm và thẩm
63
quyền của mỗi cơ quan còn chưa rõ dẫn đến sự chồng chéo, trùng lắp về nhiệm
vụ cũng như không rõ về trách nhiệm), giữa cấp trên với cấp dưới (cấp trên thiếu
sâu sát với cấp dưới) và thiếu sự phối hợp tích cực giữa cơ quan thực thi chính
sách với đối tượng chính sách này thì sẽ có thể là một trong nguyên nhân quan
trọng làm cho hiệu quả thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS khó
đạt được như dự kiến cũng như tính khả thi của nó.
Tăng cường chú trọng năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của
cấp ủy, chính quyền từ huyện đến xã trong triển khai chính sách phát triển đội
ngũ CB,CC người DTTS; kết hợp với việc thiết lập cơ chế đề cao trách nhiệm
giải trình của cấp ủy, chính quyền ở các cấp này.
Tăng cường phát huy dân chủ trong thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ cán bộ, nhất là CB,CC người DTTS để tăng cường sự tiếp nhận và ủng hộ
của đối tượng chính sách cũng như phòng tránh/ khắc phục các biểu hiện áp đặt
chủ quan trong tuyển chọn, bổ nhiệm. Theo đó, công bố công khai các tiêu chí,
tiêu chuẩn về đối tượng tuyển dụng, quy hoạch, tạo nguồn, tiêu chuẩn bổ nhiệm
cũng như quy trình của các khâu.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về tuyển dụng, quản lý và sử dụng đội ngũ
CB,CC người DTTS theo Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức và các văn
bản hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện. Đổi mới quy trình tuyển dụng và bổ
nhiệm CB,CC người DTTS bằng việc thực thi cơ chế chính thức về việc mở rộng
thu hút sự tham gia ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan ở khu vực có sự
đa dạng tộc người. Có như vậy, sự tham gia của các chủ thể chính sách được
tăng cường giúp cho chính sách sát với thực tiễn hơn và quá trình thực thi chính
sách được thuận lợi và đồng bộ hơn.
Huyện ủy Tây Giang cần chủ động kế hoạch tạo nguồn CB,CC người
DTTS trên cơ sở chú trọng công tác khảo sát nhu cầu thực tiễn, phân tích các vị
trí tuyển dụng, quy hoạch phát triển CB,CC người DTTS ở địa phương. Quy
hoạch này không chỉ phải thỏa mãn về điều kiện cơ cấu (tuổi, giới tính, ngành
nghề, dân tộc...), mà điều kiện cốt lõi quan trọng là phải đảm bảo tiêu chuẩn đối
64
với từng vị trí quy hoạch. Đồng thời trong quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn
nhiệm và luân chuyển CB,CC người DTTS phải dựa vào yêu cầu thực tiễn công
tác của các cơ quan đơn vị trong HTCT ở địa phương. Để nâng cao hiệu quả
trong tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm và luân chuyển CB,CC người DTTS
phải chú trọng dựa vào sự đánh giá kết quả khách quan và toàn diện phải gắn
liền với trách nhiệm, hiệu quả công tác của CB,CC và mức độ triển vọng đóng
góp của họ đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các khu vực có địa phương đặc
thù; qua đó để tạo nguồn và lựa chọn CB,CC người DTTS khi có nhu cầu sử
dụng. Trong triển khai chính sách này cần cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách thông qua quy định rõ phạm vi nội dung thuộc thẩm
quyền trách nhiệm tập thể và phạm vi nội dung thuộc thẩm quyền trách nhiệm cá
nhân người đứng đầu.
Chất lượng, hiệu quả trong tổ chức thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS đặt ra yêu cầu cốt lõi là phải đạt tới sự đồng thuận thống
nhất về nhận thức và hành động của các chủ thể chính sách trong quá trình triển
khai thực hiện. Theo hướng này, trong lãnh đạo chỉ đạo thực hiện chính sách
phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS cần: (1) Tăng cường phân cấp, phối hợp
giữa Ban Tổ chức – Nội vụ với các phòng, ban, đoàn thể của huyện và giữa các
phòng, ban với các xã trên địa bàn Tây Giang. Đồng thời, gắn liền với việc đề
cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan ; (2) Các cơ quan chức năng có
thẩm quyền cần tăng cường cơ chế phối hợp trong rà soát, kiểm tra, đánh giá
hàng năm, để kịp thời tổng kết và đề xuất các phương án có tính khả thi đến cấp
ủy Đảng và chính quyền của địa phương để nâng cao trình độ, năng lực cho
CB,CC người DTTS, phù hợp với từng địa bàn vùng DTTS.
Cần chú ý xác lập môi trường làm việc và ứng xử công bằng, minh bạch,
thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng từng cán bộ, đảng viên người DTTS, phòng tránh
các biểu hiện tâm lý họ tộc, cục bộ địa phương hay kỳ thị dân tộc. Đồng thời,
xây dựng tốt mối quan hệ phối hợp giữa cán bộ người DTTS với cán bộ lãnh
đạo đồng cấp, cán bộ người Kinh từ việc triển khai đồng bộ chính sách phát triển
65
CB,CC người DTTS cho đến quá trình xây dựng và phát triển tiến bộ của địa
phương.
Trong quá trình rà soát, điều chỉnh chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS, để đảm bảo tính khả thi và phù hợp thực tiễn thì cần có cơ chế thu
hút được sự tham gia đầy đủ và có trách nhiệm của các chủ thể có liên quan,
trong đó việc lấy ý kiến của đối tượng thụ hưởng của chính sách là bắt buộc và cần
chú trọng lĩnh hội các khuyến nghị của các nhà quản lý, giảng viên và chuyên gia.
Để thực thi hiệu quả trên địa bàn huyện Tây Giang về “… kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cơ sở và cấp huyện là người dân tộc
thiểu số;... sử dụng có hiệu quả số học sinh, sinh viên đã được đào tạo từ các
trường, số thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự là con em đồng bào
dân tộc thiểu số làm nguồn cán bộ bổ sung cho cơ sở” [33], Ban Tổ chức và
ngành Nội vụ tỉnh cần phát huy vai trò chủ đầu mối kết nối giữa Trường chính trị
tỉnh (cùng với Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện) với Huyện ủy và chính
quyền huyện Tây Giang để triển khai đúng lộ trình và tiến độ kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng CB,CC người DTTS. Đồng thời, Ban Tổ chức, ngành Nội vụ tỉnh và
trường Chính trị tỉnh cần tranh thủ phối hợp với mạng lưới hệ thống Học viện
Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính quốc gia đóng trên địa bàn khu
vực Miền Trung – Tây Nguyên để triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo chủ chốt người DTTS cấp huyện, cấp xã. Mặt khác, Ban Tổ chức,
ngành Nội vụ tỉnh và Trường Chính trị cần có cơ chế định kỳ xác lập Ban thẩm
định chuẩn đầu ra chất lượng để tổ chức đánh giá (lập thang đo) về mức độ hiệu
quả của quá trình đào tạo, bồi dưỡng này ở từng khóa học, luôn luôn phải theo
dõi thường xuyên, kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm.
3.2.2. Tăng cường năng lực của các chủ thể trong thực hiện chính sách
phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số; tăng cường trách
nhiệm của người đứng đầu ở địa phương các cấp
Các chủ thể tham gia thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC
người DTTS là lực lượng khá đông với thành phần đa dạng. Các chủ thể này
66
không chỉ có các cơ quan tổ chức cùng đội ngũ CB,CC trong hệ thống chính trị,
mà nó còn bao gồm các chuyên gia, nhà khoa học và đặc biệt là các đối tượng
thụ hưởng chính sách này và nhân dân các DTTS. Trong đó, chất lượng và hiệu
quả thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS phụ thuộc rất
nhiều vào năng lực và trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức ở các cơ quan trong hệ thống Ban Tổ chức và ngành Nội vụ các cấp, hệ
thống Học viện Chính trị quốc gia, Học viện Hành chính quốc gia và khu vực,
Trường Chính trị cấp tỉnh… Thực tiễn nhiều năm qua đã cho thấy, một nguyên
nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả thấp trong thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC, đó là: năng lực và trách nhiệm công vụ còn hạn chế của một bộ phận
chủ thể tham gia thực hiện chính sách này, nhất là yếu về năng lực và kỹ năng
quản lý chính sách, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống là yếu tố
tiêu cực ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực thi chính sách hiện nay. Do đó, để
nâng cao hiệu quả thực thi chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS
hiện nay, cần đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ tất cả các khâu của công tác cán bộ,
công chức để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
- Đối với Ban Tổ chức và ngành Nội vụ các cấp:
Bản thân hệ thống cơ quan này phải chủ công vai trò đầu mối tổ chức thực
thi chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS. Từ cơ sở này, Ban Tổ
chức và ngành Nội vụ các cấp để kết nối chặt chẽ giữa cơ quan sử dụng CB,CC
với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
Nhiệm vụ ưu tiên hơn cả hiện nay, đó là rà soát đánh giá và khảo sát xác
định rõ nhu cầu đào tạo đối với các nhóm đối tượng CB,CC người DTTS các cấp
để tham mưu cấp ủy và chính quyền cùng cấp ban hành kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cụ thể có tính khả thi cao.
Cùng với việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện khung tiêu chuẩn CB,CC
chung, thì phải sớm xác lập làm rõ được khung tiêu chuẩn đặc thù về chất lượng
CB,CC người DTTS (khung năng lực đặc thù). Dựa vào đó, các cơ quan Tổ chức
và ngành Nội vụ các cấp ở địa phương chủ động tổ chức “đánh giá trong” kết
67
hợp chặt chẽ với “đánh giá ngoài” (như kết quả khảo sát khách quan về thái độ
hài lòng của quần chúng đối với CB,CC người DTTS vì quan hệ giữa nhân dân
và cán bộ ở cơ sở ở một số vùng DTTS có liên quan trực tiếp đến việc làm ổn
định hay không ổn định, phát triển hay không phát triển của địa phương đó)
nhằm khắc phục/ phòng tránh sự đánh giá định tính hình thức hoặc có định kiến
trong đánh giá từng xảy ra ở khá nhiều trường hợp trong thực tế. Qua đó, xem
xét rõ ràng năng lực công tác, tác phong sinh hoạt, cách nói, cách làm... nhằm
xác lập căn cứ đầy đủ để xác định được điểm mạnh, điểm yếu của các cá nhân,
giúp cho họ lập kế hoạch phát triển, phát huy giá trị ở mỗi CB,CC người DTTS
nhằm đáp ứng tốt yêu cầu của vị trí việc làm/ chức danh; cũng như có cơ sở để
mạnh dạn cân nhắc, sử dụng CB,CC trẻ là người DTTS tại quê hương của họ.
Ngoài ra, Ban Tổ chức và ngành Nội vụ các cấp cần đặt nhiệm vụ trọng
tâm vào công tác tham mưu hữu ích đến cấp lãnh đạo, quản lý có thẩm quyền
trong việc kiện toàn, đổi mới tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị theo hướng
tinh gọn, hiệu quả và hiệu lực trong vận hành thực hiện chính sách.
- Đối với cơ sở đào tạo bồi dưỡng cán bộ:
Công tác đào tạo, bồi dưỡng không chỉ tập trung ở đội ngũ CB,CC người
DTTS hiện tại mà phải thực hiện ngay từ khâu tạo nguồn cán bộ kế cận theo quy
hoạch. Theo đó, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng theo các nghị quyết,
quyết định, đề án hiện hành của Đảng, Nhà nước, cụ thể là tập trung vào thực
hiện tốt các mục tiêu, giải pháp theo Quyết định số 402/QĐ-TTg, ngày 14-3-
2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt đề án phát triển đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức người DTTS trong thời kỳ mới.
Cần đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng để tổ chức phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu công tác của CB,CC người DTTS, như: (1) Tập
trung đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa; (2) Bồi dưỡng thường xuyên theo định kỳ;
(3) Bồi dưỡng chuyên đề, bồi dưỡng kỹ năng theo yêu cầu thực tế đặt ra thông
qua các lớp tập huấn chuyên đề, hội thảo, đề án...
68
Rà soát đánh giá hiệu quả của các chính sách về công tác đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng CB,CC người DTTS. Trên cơ sở đó: (1) Xây dựng kế hoạch
chương trình riêng về đào tạo bồi dưỡng CB,CC người DTTS để trau dồi kỹ
năng và phát triển năng lực của họ phù hợp với các tiêu chí tuyển dụng nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển. Cụ thể hơn, đó là căn cứ vào các yêu cầu về tiêu
chuẩn cho các vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp của CB,CC người DTTS
để thiết kế chương trình, nội dung sát với thực tiễn “làm việc gì phải học việc
ấy”; (2) Đội ngũ giảng viên của hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng CB,CC
phải đổi mới phương pháp,cải thiện năng lực giảng dạy và nghiên cứu thực
tiễn khu vực vùng có đông DTTS; (3) Cải tiến hệ thống quy trình chặt chẽ đồng
bộ từ khâu cử tuyển, thi tuyển, học tập, nghiên cứu đến kiểm tra, đánh giá đúng
chất lượng khi ra trường.
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng CB,CC tập trung vào đổi mới
chương trình, nội dung để cập nhật tri thức mới, bám sát sự vận động biến đổi
của thực tiễn xã hội và địa phương cho CB,CC người DTTS để họ hiểu rõ và
nắm chắc được chức trách, nhiệm vụ ở vị trí việc làm/ chức danh được giao
nhằm gia tăng tính chủ động và khả năng vận dụng phù hợp, sáng tạo trong thực
tiễn công tác. Đúng vậy, Đảng ta tiếp tục khẳng định tại Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X rằng: Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, tri thức là người DTTS. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số
và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục, tập quán, tiếng nói của đồng bào dân
tộc, làm tốt công tác dân vận[11; tr.122&226].
- Đối với đội ngũ giảng viên Trường Chính trị tỉnh và Trung tâm bồi
dưỡng chính trị huyện:
Một mặt, thường xuyên chú trọng vào đào tạo nâng cao, tập huấn bồi
dưỡng cho đội ngũ giảng viên về các kiến thức mới, về kỹ năng và phương pháp
giảng dạy tích cực phù hợp với tâm lý dân tộc. Bản thân giảng viên phải tăng
cường đầu tư nghiên cứu, biên soạn bài giảng/ giáo án chuyên đề theo đối tượng
CB,CC người DTTS; hàng năm cần tái rà soát, điều chỉnh lại hệ thống các bài
69
giảng để cập nhật tính mới và tính thực tiễn, đổi mới cách ra đề thi theo hướng
mở (Mỗi nội dung câu hỏi lý luận cần gắn liên hệ với các vấn đề thực tiễn nghề
nghiệp từ 40%-50% câu hỏi) hoặc tổ chức thi vấn đáp về kỹ năng thực hành các
tình huống thường gặp trong công tác xây dựng Đảng, trong quản lý điều hành
của chính quyền ở địa phương, tạo điều kiện cho người học trăn trở tư duy và
vận dụng vào công tác hiệu quả, ngăn ngừa được những biểu hiện giáo điều xa
rời thực tiễn trong quá trình giảng dạy hiện nay.
Một mặt khác, cần áp dụng chính sách luân chuyển có thời hạn xuống
huyện và cơ sở (từ 02 năm trở lên) để nghiên cứu hiểu biết rõ tình hình kinh tế -
xã hội, kiểm nghiệm thực tế để bổ sung kinh nghiệm thực tiễn để gắn với lý luận
chính sách truyền đạt hiệu quả cho học viên CB,CC người DTTS.
- Đối với CB,CC người DTTS: Bản thân họ phải không ngừng tự rèn luyện,
học hỏi trong môi trường thực tiễn và tự hoàn thiện nhân cách. Để phát huy ưu
điểm và khắc phục hạn chế của mình, họ cần phải thường xuyên tự phê bình và
phê bình như “rửa mặt hàng ngày” (như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
trở thành nề nếp thì mới có thể chuyển biến thói quen thành ý chí phấn đấu vươn
lên hoàn cảnh để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Tập trung phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể trong lãnh đạo điều hành gắn
với vai trò, trách nhiệm người đứng đầu các phòng, ban chức năng của huyện và
ở địa phương cấp xã.
3.2.3. Tăng cường theo dõi, giám sát, kiểm tra quy trình thực hiện chính
sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
- Tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra quy trình thực hiện chính sách
này để bám sát mọi diễn biến của nó, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách phát triển CB,CC người
DTTS. Bởi nhiều nhiều tồn tại nảy sinh có thể do kế hoạch chương trình tổ chức
thực hiện chính sách này thiếu sót, hoặc cũng có thể do quá trình phân công,
phối hợp giữa các cơ quan chưa hợp lý… Qua đó để có đủ cơ sở thực tiễn tham
mưu cấp ủy và chính quyền để kịp thời điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ, giải pháp
70
phù hợp với yêu cầu thực tiễn địa phương.
- Chú trọng thiết lập chặt chẽ và đồng bộ hệ thống kênh giám sát, kiểm tra
thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS cả giám sát các
bước thực hiện chính sách (giám sát nội bộ, giám sát đầu vào của chính sách,
giám sát phải đi cùng với cả quá trình thực hiện) và giám sát kết quả tác động
thực hiện chính sách (giám sát đầu ra của chính sách). Trong đó, cần tập trung
chú trọng trên hết là giám sát phải đi cùng với cả quá trình thực hiện cơ chế
chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS để thu thập những bằng chứng
để phát hiện kịp thời các vấn đề phát sinh, nhằm kịp thời tham mưu đề xuất lãnh
đạo trong việc điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện quá trình thực hiện chính sách
này.
- Ban Tổ chức và ngành Nội vụ các cấp bên cạnh việc tạo điều kiện cải
cách thủ tục mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng thì điểm cốt lõi là cần tăng cường
theo dõi, gia tăng khả năng giám sát, có cơ chế kiểm tra về năng lực của các cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đóng trên địa bàn; nhất là cần nâng cao năng lực
kiểm soát chuẩn đầu ra của đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh, vị trí việc làm
đối với CBCC là người DTTS.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền chính sách phát triển đội ngũ cán
bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở địa phương
Trong lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy Đảng và chính quyền, cần tập
trung trước hết vào đổi mới nhận thức của các tổ chức, ban, ngành, đoàn thể về
tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người
DTTS nhằm chuyển biến tích cực tự giác về ý thức trách nhiệm khi tham gia
triển khai chính sách này cũng như khắc phục được tâm lý tộc họ, cục bộ địa
phương khi thi hành chính sách. Đây là giải pháp quan trọng để định hướng nhận
thức thống nhất trong quá trình đưa chính sách này vào thực tiễn cuộc sống
Theo đó, phải chú trọng đầu tư vào chất lượng và hiệu quả công tác tuyên
truyền từ việc thiết kế nội dung tuyên truyền đến đổi mới phương pháp tuyên
truyền, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền để lựa chọn phù hợp - trong đó cần
71
chú ý chiều sâu của tuyên truyền miệng, phổ biến chính sách tại các hội nghị, kỹ
năng giải thích, hướng dẫn việc thực hiện chính sách cho các cơ quan thực thi,
các chủ thể có liên quan để sớm có thể đạt được sự định hướng thống nhất về
nhận thức và hành động của các tổ chức, ban, ngành, đoàn thể khi tham gia; cũng
như các chủ thể tham gia xác định rõ được vị trí, vai trò, nhiệm vụ của mình
trong quá trình thực hiện chính sách này.
Việc đẩy mạnh chiều sâu của công tác tuyên truyền phổ biến chính sách
cần phải chú trọng bám sát đối tượng của chính sách, kịp thời thông tin và khảo
sát nhu cầu họ; kết hợp với tăng cường nắm chắc tình hình tư tưởng và định
hướng tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong công tác tuyên
truyền phổ biến chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS cần coi trọng
sự tham gia tích cực của đối tượng chính sách vào quá trình thực thi (nếu một
khi còn có tình trạng chưa nhậ được sự ủng hộ tích cực của đối tượng chính sách
thì cũng đồng nghĩa công tác tuyên truyền phổ biến chính sách này có hiệu quả
thấp). Theo đó, để góp phần nâng cao hiệu quả truyền phổ biến chính sách này,
cần tập trung chú trọng việc nâng cao mức độ tiếp nhận của đối tượng chính sách
đối với chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS thông qua việc thật sự
tôn trọng và đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đối tượng chính
sách.
Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền phổ biến chính sách, cần tăng cường đẩy
mạnh thực hiện phương châm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra” chính sách phát
triển đội ngũ CB,CC người DTTS như là một cơ chế chính thức nhằm minh bạch
hóa; cũng như góp phần gia tăng niềm tin của người dân và cộng đồng DTTS
vào Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo thực hiện chính sách này.
Ngoài ra, để gia tăng hiệu quả tuyên truyền chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS ở địa phương, cần chú trọng kết hợp lồng ghép với việc tuyên
truyền phổ biến các cơ chế, chính sách giảm nghèo bền vững theo Nghị quyết số
13/2017/NQ-HĐND, ngày 19/4/2017 của HĐND tỉnh và Quyết định 2511/QĐ-
UBND ngày 13/7/2017 của UBND tỉnh Quảng Nam; các chế độ hỗ trợ đào tạo
72
nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn theo Nghị quyết số
13/2016/NQ-HĐND, ngày 19/7/2016 của HĐND tỉnh và Quyết định 3577/QĐ-
UBND ngày 14/10/2016 của UBND tỉnh.
3.2.5. Giải pháp khác
V.I.Lênin từng khẳng định: Người không biết chữ là người đứng ngoài
chính trị[41;tr.218]. Do đó, giải pháp dài hạn là phải không ngừng kiên trì nâng
cao trình độ dân trí cho đồng bào DTTS; đồng thời, cần song hành với việc triển
khai các chương trình, dự án phát triển kinh tế trên địa bàn huyện.
Hiện nay theo quy định mới không có chính sách hỗ trợ chi phí đào tạo đại
học và sau đại học đối với CBCC nói chung và người DTTS nói riêng, vì vậy các
cấp có thẩm quyền lãnh đạo, quản lý điều hành của tỉnh Quảng Nam cần có chính
sách linh hoạt, tạo điều kiện và hỗ trợ kinh phí đào tạo đối với cán bộ người DTTS
tại những vùng có hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, cần có chính sách nới lỏng về
tuổi tác đối với cán bộ là người DTTS có nguyện vọng tiếp tục được tham gia
học tập sau đại học.
Đổi mới chính sách tiền lương và thu nhập phải gắn liền với tăng năng
suất lao động của CB,CC người DTTS. Thực hiện chế độ khen, thưởng rõ ràng,
tương xứng đối với những CB,CC người DTTS có năng lực tốt, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ (có thể đặc cách thăng hạng hoặc bổ nhiệm vị trí chức danh cao
hơn, vì tính chất lao động của CB,CC ở vùng DTTS rất vất vả, phức tạp); tránh
tình trạng khen thưởng mang tính hình thức. Ngoài ra, cần cải tiến chế độ, chính
sách ưu đãi đặc biệt để tạo động lực thu hút CB,CC người DTTS giỏi và hết lòng
phục vụ đồng bào và phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS.
Cần tập trung chú trọng vào việc hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý
những ý kiến phản ảnh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân, nhất là của
người có uy tín trong cộng đồng DTTS gửi đến cấp ủy, tổ chức đảng, người
đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị với các hình thức phù hợp.
73
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở đưa ra năm quan điểm định hướng cho việc nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS ở huyện Tây Giang
giai đoạn 2021-2026, tầm nhìn 2026-2031, chương 3 đề xuất sáu nhóm giải pháp
cần triển khai đồng bộ, đó là: (1) Nâng cao hiệu quả của sự lãnh đạo, quản lý của
các cấp ủy Đảng và chính quyền trong điều hành phân công phối hợp thực hiện
chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS ở địa phương; (2) Tăng cường
năng lực của các chủ thể trong thực hiện chính sách này; (3) Tăng cường trách
nhiệm của người đứng đầu ở địa phương các cấp; (4) Tăng cường theo dõi, giám
sát, kiểm tra quy trình thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người
DTTS; (5) Nâng cao hiệu quả tuyên truyền chính sách này ở địa phương; và (6)
nhóm giải pháp khác.
74
KẾT LUẬN
Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS là quá trình
chuyển hóa ý chí của chính sách này thành hiện thực thông qua tổ chức các hoạt
động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tác động lên CB,CC người DTTS
nhằm đạt mục tiêu xây dựng một đội ngũ CB,CC người DTTS có đủ số lượng và
cơ cấu hợp lý, đảm bảo chất lượng được chuẩn hoá đồng bộ về trình độ và kỹ
năng, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong giai đoạn nhất định.
Từ cơ sở khái niệm này cùng với việc làm rõ đặc trưng và vai trò thực
hiện chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS, quy trình thực hiện
chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS gồm có: (1) Xây dựng kế
hoạch triển khai thực hiện chính sách; (2) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính
sách; (3) Phân công, phối hợp thực hiện chính sách; (4) Duy trì và điều chỉnh
chính sách; (5) Theo dõi, đôn đốc thực hiện chính sách; (6) Tổng kết đánh giá
thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS. Đồng thời, phân tích các
nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng chủ yếu đến quá trình thực hiện
chính sách này ở địa phương. Qua đó làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện chính sách
phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS.
Đi từ khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và phân tích tình hình
cơ cấu CB,CC người DTTS của huyện Tây Giang, luận văn phân tích khá rõ tình
hình cụ thể việc thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS ở huyện
Tây Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến 2019 ở các khía cạnh: (1) Thực
trạng xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách; (2) Thực trạng phổ
biến, tuyên truyền chính sách; (3) Thực trạng phân công, phối hợp thực hiện
chính sách; (4) Thực trạng duy trì và điều chỉnh chính sách; (5) Thực trạng theo
dõi, đôn đốc thực hiện chính sách; (6) Thực trạng tổng kết đánh giá thực hiện
chính sách phát triển CB,CC người DTTS ở địa bàn huyện Tây Giang. Qua đó,
đưa ra đánh giá chung về thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
75
CB,CC người DTTS ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến
2019:
Về kết quả đạt được mà tựu trung lại: nếu so sánh thời điểm năm 2015 khi
số lượng và chất lượng đội ngũ CB,CC người DTTS còn nhiều thiếu hụt – nhất
là ở cấp xã (huyện Tây Giang phải điều động tăng cường cấp bách các cán bộ có
trình độ và bộ đội biên phòng về hỗ trợ cho nhiều xã trong việc nắm giữ các
chức danh chủ chốt), thì đến nay (tính đến năm 2018) số lượng và chất lượng của
đội ngũ CB,CC người DTTS từ huyện đến các xã trên địa bàn Tây Giang đã tăng
lên qua các năm gần đây, đóng góp chung vào thành quả: Ở cấp huyện, tỷ lệ cán
bộ trẻ đạt 31,18; cán bộ trưởng, phó phòng của huyện đạt 03 chuẩn (03 chuẩn
gồm: học vấn, trình độ chuyên môn và trình độ chính trị) chiếm tỷ lệ 90,29%;
CB,CC xã đạt 03 chuẩn: 226/254 người chiếm 88,98%; trong đó: trình độ đại
học 133 người chiếm 52,37%; cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp: 93 người
chiếm 36,62%; lý luận chính trị: Cao cấp 6,7%; trung cấp 80,71%; cấp ủy viên
xã 90,21% đạt 03 chuẩn (tính đến tháng 6 năm 2018). Với đội ngũ CB,CC nói
chung và CB,CC người DTTS nói riêng từ huyện đến các xã trên địa bàn Tây
Giang được tạo dựng như vậy; cùng với việc đề bạt, bổ nhiệm CB,CC người
DTTS có tuổi đời khá trẻ, có trình độ đại học đang công tác tại các cơ quan, đơn
vị và địa phương đang tăng về số lượng (để tinh giản biên chế đối với các trường
hợp không qua đào tạo, năng lực hạn chế, lớn tuổi…), họ đã từng bước cơ bản
đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ công tác, đã góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - chính trị, trật tự xã hội của địa phương.
Kết quả này cũng cho thấy sự quan tâm từng bước của các cấp trong việc sắp
xếp, bố trí công tác và xây dựng nguồn nhân lực tại chỗ là người DTTS; nguồn
nhân lực này ngày càng được đánh giá có trình độ, năng lực và trách nhiệm tăng
lên trong thực thi nhiệm vụ được giao. Qua đó, tạo niềm tin đối với người dân
trong việc thực thi chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước trong cơ chế
tuyển dụng đối với con em là người DTTS.
76
Về hạn chế đặt ra, nhất là nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế, đó là: (1)
Nhóm nguyên nhân chủ quan, như: Thiếu cơ chế chính sách tiếp nhận, tuyển
dụng đối với con em đồng bào DTTS hậu cử tuyển. Khung tiêu chuẩn chưa phản
ánh đầy đủ các khía cạnh đặc thù về năng lực CB,CC người DTTS. Quy trình
hoạch định chính sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS chưa mở rộng sự
tham gia của nhiều chủ thể. Một số cấp uỷ hiện nay còn chưa nhận thức đúng về
vị trí, vai trò trọng yếu của chính sách này. Một số mặt của công tác tổ chức cán
bộ ở địa phương vẫn còn bất cập. Chính sách biên chế suốt đời đã tạo ra sức ỳ
lớn và tính ỷ lại của CB,CC người DTTS…; 2) Nhóm nguyên nhân khách quan:
Huyện Tây Giang còn nhiều khó khăn, vì thuộc vùng miền núi biên giới của tỉnh
Quảng Nam. Điều kiện dân trí còn thấp và sự nhận thức cũng như thói quen bị
chi phối bởi tập quán tộc người đã in sâu vào tiềm thức đồng bào và người cán
bộ DTTS. Các thế lực thù địch luôn xuyên tạc, chống phá gây chia rẽ dân tộc...
Từ cơ sở nêu trên, qua nghiên cứu luận văn mạnh dạn đưa ra năm quan
điểm định hướng trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển
đội ngũ CB,CC người DTTS ở huyện Tây Giang giai đoạn 2021-2026, tầm nhìn
2026-2031; đồng thời đề xuất sáu nhóm giải pháp cần triển khai đồng bộ, đó là:
Một là, nâng cao hiệu quả của sự lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy Đảng
và chính quyền trong điều hành phân công phối hợp thực hiện chính sách phát
triển đội ngũ CB,CC người DTTS ở địa phương;
Hai là, tăng cường năng lực của các chủ thể trong thực hiện chính sách
phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS ở địa phương;
Ba là, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu ở địa phương các cấp;
Bốn là, tăng cường theo dõi, giám sát, kiểm tra quy trình thực hiện chính
sách phát triển đội ngũ CB,CC người DTTS;
Năm là, nâng cao hiệu quả tuyên truyền chính sách này ở địa phương;
Sáu là, nhóm giải pháp khác, như: Phải không ngừng kiên trì nâng cao dân
trí cho đồng bào DTTS cùng với việc triển khai song hành các chương trình, dự
77
án phát triển kinh tế trên địa bàn huyện; cần có chính sách linh hoạt, tạo điều kiện
và hỗ trợ kinh phí đào tạo đối với cán bộ người DTTS; đổi mới chính sách tiền
lương và thu nhập phải gắn liền với tăng năng suất lao động của CB,CC người
DTTS...
Hy vọng với việc đề xuất các giải pháp nêu trên nếu được triển khai đồng
bộ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
CB,CC người DTTS trên địa bàn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam hiện nay.
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Ban chấp hành trung ương Đảng (2012), Hướng dẫn số 15- HD/BTCTW, ngày
05/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về
công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, Hà Nội.
2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu nghiên cứu các nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Nội vụ (2005), Quyết định số 104/2005/ QĐ- BNV ngày 3/10/2005 của Bộ
trưởng Bộ Nội Vụ về việc Ban hành quy chế cử cán bộ công chức đi đào tạo,
bồi dưỡng ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước, Hà Nội.
4. Bộ Nội vụ (2005), Thông tư số 05/2005/TT-BNV ngày 05/01/2005 hướng dẫn
thực hiện chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc đối với cán bộ, công chức,
viên chức, Hà Nội.
5. Chính phủ (1999), Quyết định số 11/1998/TCCP-CCVC ban hành ngày 05
tháng 12 năm 1998 của Chính Phủ về Quy chế đánh giá công chức hằng
năm, Hà Nội.
6. Chính phủ (2011), Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14-01-2011 về công tác
dân tộc, Hà Nội.
7. Chính phủ (2013), Quyết định số 27/2003/NĐ-TTg ngày 19/02/2003 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ
chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.
8. Phí Hùng Cường và Lê Thanh Bình - Học viện Dân tộc (2018), Thu hút, tuyển
dụng, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay: Thực trạng và
giải pháp, nguồn http://tcnn.vn/ cập nhật ngày 05/10/2018.
9. Đảng bộ huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam (2015), Văn kiện Đại hội Đảng
bộ huyện lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015-2020.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng bộ huyện Tây Giang (2015), Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ
XVI, nhiệm kỳ 2015-2020.
14. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong Thế kỷ
XXI, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Minh Đường (1996), Chương trình KH&CN cấp nhà nước “Bồi
dưỡng và đào tạo đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới", mã số KX07-14.
16. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển con người thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Hồ Việt Hạnh (2017 và 2018), “Tổng quan về Chính sách công” và “Bàn về
khái niệm Chính sách công”, tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Hội đồng Dân tộc Quốc hội khóa XIII (2014), Báo cáo số 840/BC-HĐDT13,
ngày 05-01-2014 về Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật
trong đào tạo, sử dụng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người
dân tộc thiểu số đến năm 2013, Hà Nội.
19. Huyện ủy Tây Giang (2015), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện khoá XV trình Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XVI, nhiệm kỳ
2015 – 2020.
20. Huyện ủy Tây Giang (2018), Báo cáo số 199-BC/HU ngày 10-7-2018 về Kết
quả giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Tây Giang
lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 – 2020.
21. Nguyễn Hữu Hải và cộng sự (2016), Giáo trình Đại cương về chính sách
công, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5.
23. Phan Văn Kha (2007), Đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
24. Lê Thi Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào
tạo: Kinh nghiệm Đông Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Đặng Bá Lãm, Phạm Thành Nghị (1999), Chính sách và kế hoạch trong quản
lý giáo dục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
26. Lê Chi Mai (2001), Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính
sách, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
28. Mạnh Quang (2012), Giải pháp về chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ người
dân tộc thiểu số, Tạp chí Mặt trận, số tháng 02-2012.
29. Quốc hội (2008), Luật cán bộ, công chức ngày 13/11/2008.
30. Hoàng Tâm và Nam Sương (2018), Sức sống mới ở phố núi Tây Giang,
nguồn https://dantocmiennui.vn/ cập nhật ngày 24/8/2018.
31. Lê Văn Thanh (2007), Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Tây Nguyên, Luận án Tiến sỹ, Hà Nội.
32. Lê Như Thanh, Lê Văn Hòa (2016), Hoạch định và thực thi chính sách công,
. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 122/2003-QĐ-TTg, ngày 12-6-
2003 Về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân
tộc, Hà Nội.
34. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 về
phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, II, I thuộc vùng
DTTS và miền núi giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
35. Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách
khoa Việt Nam, Tập 1, Hà Nội.
36. Trung tâm Từ điển và Ngôn ngữ Hà Nội (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
37. Trung tâm Khoa học XH&NV Quốc gia (1999), Phát triển con người: Từ
quan niệm đến chiến lược hành động, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. UBND huyện Tây Giang (2019), Báo cáo số 74/BC-UBND ngày 19-4-2019
về Báo cáo chính trị đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số huyện Tây giang
lần thứ III năm 2019.
39. UBND huyện Tây Giang (2019), Báo cáo số 94/BC-UBND ngày 16-5-2019
về Tình hình triển khai thực hiện các chính sách đối với cán bộ người dân
tộc thiểu số.
40. Viện Chính trị học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Đề
cương bài giảng Chính trị học (Hệ cao học ngành Chính trị học), Hà Nội.
41. V.I.Lê nin (2000), Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ Matxcơva.
42. Như Yến (2019), Giảm nghèo ở huyện vùng biên Tây Giang, nguồn
https://thoibaokinhdoanh.vn/ cập nhật ngày 26/11/2019.
* Tài liệu tiếng nước ngoài
43. William I. Jenkins (1978), Policy Analysis: A Political and rganizational
Perspective (London: Martin Robertson, 1978).
44. Wayne Hayes (Web,2001), The Public Policy, pp.1