VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN THỊNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYÊN TRUYỀN

PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TRÊN ÐỊA BÀN

HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN THỊNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYÊN TRUYỀN

PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TRÊN ÐỊA BÀN

HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Chính sách công

Mã số : 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. Đỗ Thị Kim Định

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,

đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi

tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực

tiễn. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào

khác.

Tác giả luận văn

Phạm Văn Thịnh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT ................................ 8

1.1. Khái niệm, vai trò của thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật ..................................................................................................................... 8

1.2. Nội dung thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật ............ 16

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chính sách tuyên truyền,

phổ biến pháp luật ........................................................................................... 22

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYÊN

TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TẠI HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH

QUẢNG NGÃI............................................................................................... 25

2.1. Khái quát về huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi ....................................... 25

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại

huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi .................................................................... 30

2.3. Đánh giá chung về thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật

tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi ............................................................... 41

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TẠI

HUYỆN SƠN TÂY,TỈNH QUẢNG NGÃI ................................................. 45

3.1. Quan điểm và mục tiêu thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật ................................................................................................................... 45

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến

pháp luật .......................................................................................................... 49

KẾT LUẬN .................................................................................................... 65

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TTPBPL Tuyên truyền, phổ biến pháp luật

CNH-HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

PBGDPL Phổ biến giáo dục pháp luật

CSC Chính sách công

KT-XH Kinh tế - xã hội

HĐND Hội đồng nhân dân

UBND Ủy ban nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đềtài

Tuyên truyền, phổ biến pháp luật (TTPBPL) là hoạt động truyền tải các

kiến thức pháp luật tới toàn thể nhân dân; đây là hoạt động thuộc kiến trúc

thượng tầng, có vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật.Công tác TTPBPL là quá trình đưa pháp luật đến với nhân

dân, đi vào ý thức, hành động của toàn xã hội.Hay nói một cách khác,

TTPBPL là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống.Quá trình tuân thủ

và thực thi pháp luật của nhân dân, của tổ chức, các chủ thể khác trong xã hội

đều được thực hiện từ khâu thấu hiểu mới đến thực thi và tuân thủ.

Nhận thức được điều đó, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã

xác định rõ công tác TTPBPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư

tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, phải được tiến hành thường

xuyên, liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo nhằm nâng

cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh

tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội. Văn kiện Đại hội Đại

biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu: “Tăng cường

giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và

làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành

một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”.

Tại ĐH ĐB lần thứ 9 của ĐCSVN khẳng định: Phát huy dân chủ, công

bằng XH đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường PC, quản lý XH

bằng PL, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác TTPBPL, để nâng cao ý

thức chấp hành của nhân dân, toàn XH.

Trong bối cảnh hội nhập khu vực, quốc tế ngày càng sâu tộng; yêu cầu

của quá trình CNH - HĐH đất nước; muốn hòa nhập vào sân chơi chung quốc

1

tế thì công tác thực thi pháp luật, hiểu biết pháp luật, tôn trọng pháp luật phải

cấp thiết hơn bao giờ hết. Thực tế, qua hơn 30 năm đổi mới đất nước, Nhà

nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến công tác

TTPBPL, góp phần cụ thể hóa chủ trương của Đảng cũng như xác định đúng

vị trí của công tác TTPBPL trong tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng nhà

nước pháp quyền. Đồng thời, để tiếp tục đưa công tác TTPBPL lên một tầm

cao mới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng

Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngày 09 tháng 12 năm

2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị

số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL,

nhằm khẳng định vai trò của các cấp ủy đảng trong việc định hướng, chỉ đạo

thực hiện các giải pháp thiết thực, hiệu quả trong việc nâng cao ý thức tuân

thủ pháp luật của nhân dân. Chỉ thị đã thể hiện sự đổi mới về nhận thức của

Đảng ta đối với công tác PBGDPL; về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong

công tác TTPBPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân

dân. …

Thực hiện chủ trương trên của Đảng, pháp luật của nhà nước, công tác

TTPBPL ngày càng được chính quyền các cấp quan tâm, chú trọng. Trách

nhiệm triển khai thực hiện công tác TTPBPL nói chung, thực hiện chính sách

TTPBPL nói riêng được ghi nhận tại Điều 27, Luật Phổ biến, giáo dục pháp

luật quy định: “Trách nhiệm của chính quyền các cấp ở địa phương: Hội đồng

nhân dân các cấp có trách nhiệm: Quyết định các biện pháp nhằm nâng cao

hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; phân bổ dự toán ngân sách địa

phương cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; Giám sát việc thực hiện

pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật. UBND các cấp có trách nhiệm: Ban

hành theo thẩm quyền chương trình, kế hoạch, đề án về phổ biến, giáo dục

pháp luật; Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai và kiểm tra công tác

2

PBGDPL; Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ Báo cáo viên pháp

luật, tuyên truyền viên pháp luật; thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy

môn giáo dục công dân, giáo viên dạy môn pháp luật theo quy định của pháp

luật; tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp hỗ trợ cho hoạt động

tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

Đối với huyện Sơn Tây - một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh

Quảng Ngãi, trong những năm qua, công tác PBGDPL nhìn chung đã được

cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm; đã có những hoạt động

phong phú, nội dung, hình thức cũng như phương pháp từng bước được đổi

mới; thu được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Hoạt động PBGDPL

đã góp phần từng bước nâng cao ý thức pháp luật, hình thành dần thói quen

“Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” trong cán bộ và nhân dân

trên địa bàn huyện, đưa pháp luật vào các hoạt động quản lý nhà nước và đời

sống xã hội. Bên cạnh sự chỉ đạo của UBND các cấp, thì các phòng, ban

chuyên môn, các tổ chức chính trị - xã hội căn cứ vào nhiệm vụ chính trị

được giao chủ động triển khai, phổi hợp thực hiện các hoạt động cụ thể nhằm

lồng ghép việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị mình với nhiệm vụ

TTPBPL tại cơ sở hoặc theo nhóm đối tượng phục vụ của đơn vị, địa phương

mình. Trong giai đoạn vừa qua, công tác TTPBPL tại huyện Sơn Tây đã được

Huyện ủy, UBND huyện quan tâm triển khai với nhiều hoạt động thiết thực,

hình thức tuyên truyền phong phú; các nội dung truyền tải mang tính thời sự,

từng bước đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi

pháp luật trên địa bàn huyện; công tác TTPBPL đi vào nền nếp, mang tính

thường xuyên; đã tạo được các đợt truyền thông mang tính cao điểm, tạo điểm

nhấn trong công tác TTPBPL.

Mặc dù vậy, công tác TTPBPL trên địa bàn huyện vẫn còn bộc lộ

không ít khó khăn, hạn chế ở nhiều mặt: Về nhận thức; về kinh phí, cơ sở vật

3

chất; về nhân lực; về nội dung; về phương pháp; về hình thức… đang đặt cấp

ủy Đảng, chính quyền địa phương cũng như đội ngũ làm công tác TTPBPL

của huyện trước những băn khoăn, trăn trở. Thực trạng công tác TTPBPL trên

địa bàn huyện như thế nào? Những mặt đạt được? Những mặt hạn chế?

Giải pháp cụ thể gì cho công tác TTPBPL tại huyện Sơn Tây?... Chất

lượng và hiệu quả thực hiện công tác TTPBPL của huyện Sơn Tây chỉ được

cải thiện, được nâng cao khi tất cả những vấn đề trên được nhìn nhận và giải

quyết một cách có hệ thống, khoa học trên cơ sở thực tiễn.

Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác TTPBPL pháp luật trong bối

cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong công cuộc xóa

đói giảm nghèo (trong đó tiêu chí tiếp cận pháp luật là quy định cần có trong

xây dựng nông thôn mới); đồng thời xuất phát từ thực tiễn địa phương và lĩnh

vực tôi đang công tác; tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách tuyên

truyền phổ biến pháp luật trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi”

là đề tài nghiên cứu tốt nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩchuyên ngành

chính sách công.

2.Tình hình nghiên cứu đềtài

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một vấn đề được nhiều

học giả, nhà nghiên cứu quan tâm, có thể kể đến như:

- Bài viết Bàn về giáo dục pháp luật, của TS Ngọc Đường, TS Thanh

Mai. Trong tác phẩm này, các tác giả đã đưa ra những khái niệm mang tính lý

luận về TTPBPL, cụ thể như: Mục đích; Đối tượng; chủ thể; khách thể;

phương pháp ... trong thực hiện hoạt động TTPBPL.

- Nghiên cứu Giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức và nghĩa vụ

tuân thủ pháp luật, tạp chí Lý luận chính trị, số 10/2006) của tác giả Tống

Đức Thảo đã nghiên cứu vai trò tác động của giáo dục pháp luật đối với việc

hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp dân cư, đồng thời

4

nêu những đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật.

- Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng đã nghiên cứu “Một số vấn đề về

giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay (1997)”. Tác giả đã tiếp cận, tìm

hiểu công tác giáo dục pháp luật, từ đó thấy được những khó khăn, thách thức

trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, song nghiên cứu, phân tích đề

xuất một số giải pháp giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức của nhân

dân trong việc thi hành pháp luật trong giai đoạn hiện nay.

- Tác giả Nguyễn Thị Thu Ba (2012), “Nâng cao chất lượng TTGDPL

cho công nhân tại các doanh nghiệp ở Thành phố Đồng Tháp giai đoạn hiện

nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học.

- Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), ”Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội

ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội”, Luận

văn thạc sỹ Luật học.

Các nghiên cứu trên đã đưa ra ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác

tuyên truyền, phổ biến pháp luật; đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã

chưa sâu vào việc thực thi các chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật;

chưa phân tích rõ quá trình thực thi chính sách TTPBPL, chưa đưa ra các yêu

cầu trong quá trình nâng cao chất lượng thực hiện chính sách tuyên truyền,

phổ biến pháp luật; chưa đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện

chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại một địa bàn khó khăn, tỷ lệ

người dân tộc thiểu số cao như huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi. Xuất phát từ

lý luận và thực tiễn cũng như phù hợp với yêu cầu thực tiễn công tác, tôi lựa

chọn đề tài trên là thực sự cần thiết về cả mặt lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiêncứu

3.1 Mục đích nghiêncứu

Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phổ

5

biến, giáo dục pháp luật tại huyện Sơn Tây trong thời gian tới.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về tuyên truyền pháp luật, chính

sách TTPBPL; ý nghĩa và vai trò của việc thực hiện chính sách TTPBPL, các

nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện chính sách TTPBPL.

- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp

luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi trong những năm gần đây qua đó rút

ra những hạn chế cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân hạn chế đó.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

4.1. Đối tượng nghiêncứu

Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách phổ biến, giáo

dục pháp luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.

4.2. Phạm vi nghiêncứu

Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện phổ biến,

giáo dục pháp luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.

Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện phổ biến,

giáo dục pháp luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013 - 2018.

5. Cơ sở lýluậnvàphươngphápnghiêncứu

5.1. Cơ sở lýluận

Cơ sở lý luận được sử dụng trong luận văn là phương pháp dựa trên

phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các định hướng, chủ trương của Đảng

CSVN, Nhà nước Việt nam về vấn đề TTPBPL.

5.2. Phương pháp nghiêncứu

Các phương pháp cụ thể được sử dụng:

- Phương pháp phân tích các kết quả thực hiện và tổng hợp những ý

kiến đánh giá để phân tích, tổng hợp những vấn đề về phương thức phát huy

quyền lực, nội dung đường lối chính sách và quá trình hiện thực hóa những

đường lối phổ biến, giáo dục pháp luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

6

trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .

- Phương pháp thống kê để tập hợp các số liệu: thống kê tổng hợp số xã

có tủ sách pháp luật; số ấn phẩm về pháp luật..

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luậnvăn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn vận dụng khung lý thuyết về chính sách công, các bước trong

thực hiện chu trình chính sách công để làm tham chiếu để đánh giá việc thực

hiện chính sách TTPBPL. Trên cơ sở vận dung khung lý thuyết để nghiên cứu

thực tiễn sẽ giúp tác giải tìm tòi, phát hiện những bất cập, những độ chệnh giữa

lý luận và thực tiễn thực hiện. Đồng thời mạnh dạn đề xuất các giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách TTPBPL trongt hời gian tới.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn thực hiện chính sách TTPBPL tại

huyện Sơn Tây; tác giả đánh giá và đề xuất các giải pháp thiết thực, hữu hiệu

phù hợp với thực tiễn địa phương trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn huyện Sơn Tây nói

riêng.

7. Cơ cấu của luậnvăn

Nội dung chính của luận văn được cơ cấu theo ba chương cụ thể.

Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách tuyên truyền,

phổ biến pháp luật.

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức

thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn huyện Sơn

Tây.

7

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm, vai trò của thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ

biến pháp luật

1.1.1. Khái niệm thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật

1.1.1.1. Khái niệm tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì: "Tuyên truyền" khái niệm để rộng, có

ý nghĩa miêu tả hoạt động truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng

đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm, cổ vũ đối tượng hành động theo

những định hướng do chủ thể tuyên truyền đặt ra [4,tr16].

Tuyên truyền là phổ biến chính là quá trình cung cấp, cập nhật thông

tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật mới, hoặc được sửa

đổi bổ sung để giúp nhân dân nắm bắt, hiểu, tuân thủ chấp hành những quy

định mới, hoặc sửa đổi bổ sung đó. Đó chính là phương tiện hỗ trợ tích cực để

nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân, là cầu nối để chuyển tải pháp luật

vào cuộc sống. Bởi lẽ, khi pháp luật có hiệu lực thì cần phải có đội ngũ truyền

tải, phương tiện truyền tải, và các nội dung đó phải được cụ thể hóa, tồn tại

dưới các hình thức văn bản cụ thể: bản giấy, bản điện tử.. để nhân dân đọc,

hiểu, tiếp thu, tuân thủ …Như vậy, pháp luật mới đi vào cuộc sống.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì "Phổ biến là hoạt động truyền đạt trực

tiếp hoặc một hình thức cụ thể nào đó làm cho nhiều người biết đến một vấn

đề cụ thể nào đó" [4, tr3].

Hoạt động TTPBGDPL là việc các chủ thể (Cấp ủy chính quyền địa

phương; các cơ quan chuyên môn; các tổ chức chính trị - xã hội...) có trách

8

nhiệm dùng các phương tiện, hình thức khác nhau truyền đạt tới đối tượng

quản lý nhằm cung cấp thường xuyên, bài bản, hệ thống để giúp cho đối

tượng có những nhận thức đầy đủ hơn, trên cơ sở đó thực hiện các hành vi,

các ứng xử chuẩn mực hơn.

Sử dụng những hình thức khác nhau, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác

động một cách có hệ thống, bài bản và thường xuyên đến ý thức của con

người nhằm trang bị những kiến thức pháp lý nhất định để từ đó họ có những

nhận thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng pháp luật và tự giác xử sự theo

yêu cầu của pháp luật.

Theo nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật của Luật Phổ biến, giáo dục

pháp luật năm 2012 (Điều 10) thì phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động

truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật, bao gồm: (i) Quy định của Hiến pháp

và văn bản quy phạm pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và

gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo

dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công

chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành; (ii) Các điều ước

quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa

thuận quốc tế; (iii)Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ

pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt

trong thực hiện pháp luật. Các chủ thể thực hiện các hoạt động TTPBPL là

các cơ quan trong hệ thống cơ quan nhà nước, hệ thống cơ quan hành chính

nhà nước; hệ thống tổ chức chính trị xã hội từ trung ương đến địa phương.

[21].

Từ cách giải thích của từ điển về hai khái niệm “tuyên tryền” và “phổ

biến”, “giáo dục” kết hợp với các nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật mà

Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đưa ra, có thể khái quát lại khái niệm Tuyên

9

truyền, phổ biến pháp luật như sau:

- Theo nghĩa hẹp: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là giới

thiệu tinh thần văn bản pháp luật cho người có nhu cầu; theo đó phổ biến,

giáo dục pháp luật là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao

tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn

trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.

- Theo nghĩa rộng: TTPBGDPL là một khâu của hoạt động tổ chức thực

hiện pháp luật bởi lẽ nó nâng cao các tri thức pháp luật của cá nhân, tổ chức;

từng bước định hướng nhận thức, điều chỉnh hành vi ứng xử cho phù hợp với

chuẩn mức đạo đức, chuẩn mực pháp luật chung mà nhà nước, cộng đồng dân

cư hướng tới, bảo vệ.”

1.1.1.2. Khái niệm chính sách

Hiện nay, có nhiều khái niệm về chính sách.

Theo Từ điển tiếng Việt thì “chính sách” là “sách lược và KH được chủ

thể có thẩm quyền đưa ra, thực hiện nhằm đtạ mục tiêu nhất định theo định

hướng của chủ thể đó”[27].

Qua các khái niệm trên, có thể thấy, chính sách có những đặc điểm cụ

thể:

+ Chủ thể ban hành chính sách là chủ thể được xác định (Xác định dựa

trên Quyền lực hoặc Chủ thể có thẩm quyền Quản lý).

+ Nội dung của chính sách phải dựa trên quan điểm thống nhất, chung

nhất của Đảng cầm quyền; định hướng phát triển; tình hình thực tiễn của địa

phương, tổ chức.

+ Mục đích của chính sách: Chính sách phải có mục đích rõ ràng, cụ

thể (có thể định lượng hoặc định tính bởi những thước đo cụ thể). Do vậy, khi

xây dựng kế hoặc thực hiện chính sách; các chủ thể phải căn cứ và lượng tính

được thước đo và kết quả đo.

10

Qua các định nghĩa trên, khái niệm “chính sách tuyên truyền, phổ biến

pháp luật” được hiểu trong luận văn “Chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật là tập hợp các quyết định có liên quan để lực chọn mục tiêu và giải pháp,

công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề chính sách tuyên truyền, phổ

biến pháp luật theo mục tiêu tổng thể đã xác định”.

1.1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật

Thực hiện chính sách TTPBPL là quá trình đưa chính sách TTPBPL

vào thực tiễn đời sống thông qua việc ban hành các đề án, chương trình, kế

hoạch, dự án .. thực hiện chính sách TTPBPL và tổ chức thực hiện các hoạt

động cụ thể nhằm đạt được mục tiêu mà các kế hoạch, đề án, chương trình, dự

án đề ra.

Các Chương trình, đề án TTPBPL phải được đảm bảo bởi nguồn lực

nhất định; phải có sự phân công rõ rằng trong tổ chức và phối hợp thực hiện...

* Yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện chính sách.

Có thể chia làm 2 nhóm yếu tố cụ thể như sau:

+ Yếu tố khách quan: là các yếu tố bên ngoài, yếu tố mang tính tự nhiên

về điều kiện tự nhiên, đất đai, vị trí địa lý..... Những yếu tố này tác động đến

tổ chức thực thi chính sách từ bên ngoài, độc lập với ý muốn của chủ thể quản

lý, các yếu tố này vận động theo quy luật khách quan nên ít tạo sự biến đổi do

đó cũng khó gây sự chú ý của các nhà quản lý nhưng lại tác động lớn đến

quá trình thực thi chính sách, đó là các yếu tố: Tính chất của vấn đề chính

sách là yếu tố gắn liền với mỗi chính sách nó có tác động trực tiếp đến hoạch

định và thực hiện chính sách có nghĩa là nếu vấn đề chính sách đơn giản liên

quan đến ít đối tượng thì thực thi sẽ dễ dàng và đơn giản hơn.

Môi trường thực thi chính sách tốt để chính sách đạt hiệu quả cáo nhất

đó là một môi trường ổn định ít biến đổi về chính trị sẽ đưa tới sự ổn định về

11

hệ thống chính sách và thực thi thuận lợi. Nếu các bộ phận của môi

trườngổn định thì nó sẽ tạo cho các hoạt động thực thi dễ dàng; còn ngược lại

nếu Môi trường thực thi chính sách có nhiều bất lợi , như: rào cản của phong

tục tập quán lạc hậu; điều kiện tự nhiên..... dẫn đến việc thực thi chính sách

kém hiệu quả, thậm chí không đạt mục tiêu.

Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách: Mỗi đối tượng chính sách

có tiềm năng khác nhau, có thế mạnh, lợi thế, thuận lợi và khó khăn khác

nhau trong quá trình thực hiện TTPBPL. Có thể nhìn nhận tiềm lực này qua

các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội.... Đặc tính của đối tượng chính sách

như tính tự giác, kỷ luật, sáng tạo.... cũng góp nhiều vào việc hiệu quả hay

không trong quá trình thực thi chính sách.

+ Yếu tố chủ quan: là các yếu tố thuộc về chủ thể thực thi chính sách,

cụ thể hơn, đó chính là hệ thống cơ quan thực hiện nhiệm vụ TTPBPL các

cấp; đội ngũ cán bộ công chưc, viên chức trong các các cơ quan thực thi

nhiệm vụ TTPBP:L... các chủ thể này là các chủ thể thực thi chính sách nên

nó có ảnh hưởng lớn đến việc hiệu quả thực thi. Thực thi đúng đầy đủ các

bước trong quy trình tổ chức thực thi chính sách, các bước này được coi là

nguyên lý khoa học được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống, việc tuân thủ quy

trình là một nguyên tắc quản lý.

Bên cạnh đó phải nói đến vai trò của đội ngũ CBCC, mà cụ thể là đội

ngũ thực thi chính sách hay nói cách khác là năng lực thực thi chính sách của

CBCC trong hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ướng đến địa phương. Chủ

thể giữ vai trò quyết định tới sự thành bại của chính sách, bỏi lẽ: người CBCC

tận tâm, có đạo đức công vụ, tâm huyết với nghề nghiệp thì sẽ vượt khó để

thực thi còn ngược lại nếu CBCC có năng lực yếu kém, làm việc thiếu khoa

học, trách nhiệm; sự thờ ơ của cấp ủy chính quyền; của bàng quang của cán

bộ công chức thực thi chính sách .. thì việc thực hi chính sách sẽ gặp nhiều

12

khó khăn, việc triển khai chính sách sẽ không đem lại hiệu quả như móng

muốn.

Cùng với yếu tố CBCC thì phải đề cập đến yếu tố tài chính: nguồn vật

lực quan trọng để thực thi chính sách. Nguồn tài chính sẽ đảm bảo các hoạt

động được triển khai trên thực tiễn; bởi lẽ: Phải trang bị các tài liệu, tư liệu;

phải có phương tiện thực hiện, phải có nguồn lực để chi trả nhân công. Do

vậy, các điều kiện về tài chính là điều kiện thiết yếu để đảm bảo các hoạt

động có thể thực hiện được trên thực tế. Thực tiễn đã chứng minh, nếu không

có nguồn tài chính thì các hoạt động chỉ nằm trên giấy tờ, không có giá trị

thực tế, không có điều kiện hiện thực hóa trên thực tiễn.

Sự hưởng ứng của đối tượng hướng tới của chính sách: Đối tượng

hướng tới của chính sách TTPBPL chính là nhân dân, sự đồng tình của nhân

dân. Nếu chính sách có được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thì việc thực

thi mới có hiệu quả. Bởi lẽ, nếu chính sách không co sự hưởng ứng này thì

mục tiêu hướng tới của chính sách không đạt được; tri thức pháp luật không

được nhân nhân đón nhận, thực thi pháp luật sẽ lệch chuẩn; ý thức pháp luật

không được nâng lên.

1.1.2. Vai trò của thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến phápluật

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thuộc kiến thức

thượng tầng, là công tác tư tưởng quan trọng trong việc định hướng, dẫn dắt

xã hội.

TTPBPL là phương tiện để chủ thể quản lý tác động vào đối tượng

quản lý nhằm hướng đối tượng quản lý thực hiện những giá trị, những chuẩn

mực mà chủ thể quản lý hướng tới. Muốn thực thi, tuân thủ pháp luật đúng và

đầy đủ thì phải hiểu đầu đủ, hiểu đúng, sử dụng đúng và đầy đủ pháp luật đó.

Để thực hiện được mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò hết sức

13

quan trọng là cầu nối để đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu

lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Song song

với nhiệm vụ xây dựng pháp luật là nhiệm vụ đưa pháp luật vào cuộc sống.

Phổ biến, giáo dục pháp luật có những vai trò cơ bản như sau:

- Thứ nhất, phổ biến giáo dục pháp luật có vai trò quan trọng trong việc

hình thành ý thức pháp luật cho nhân dân, tăng cường sự hiểu biết pháp luật,

khuyến khích thói quen ứng xử theo pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nhà nước ban hành hệ thống pháp

luật như ban hành một "hành lang" để mọi công dân, tổ chức, doanh nghiệp

có thể bước đi trong khuôn khổ cho phép.

Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công dân có tri thức pháp lý, tình cảm

pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử dụng quyền

lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự do của mỗi

người góp phần tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội; phòng ngừa có hiệu quả

các hành vi vi phạm pháp luật. Ý thức pháp luật của công dân được hình

thành từ hai yếu tố đó là tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật.

Tri thức pháp luật của mối chủ thể có được qua quá trình tích luỹ kiến

thức của hoạt động thực tiễn và công tác, thể hiện ở sự hiểu biết sâu sắc về

một vấn đề pháp luật cụ thể. Tình cảm PL chính là trạng thái tâm lý của các

chủ thể khi thực hiện và ADPL, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi

thực hiện đúng PLt, lên án các hành vi VPPL. Ý thức tự giác chấp hành PL

của công dân chỉ có thể được nâng cao khi công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật được tiến hành thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục. Phổ biến,

giáo dục pháp luật không đơn thuần là phổ biến các văn bản pháp luật đang có

hiệu lực mà còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các

hành vi thực hiện đúng pháp luật, hình thành dư luận và tâm lý đồng tình ủng

hộ với hành vi hợp pháp, lên án các hành vi vi phạm pháp luật.

Tuyên truyền, phổ biến còn có ý nghĩa củng cố niểm tin vào pháp luật,

14

từng bước nâng cao sự hiểu biết của con người đối với các văn bản pháp luật

và các hiện tượng pháp luật trong đời sống, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp

hành pháp luật của nhân dân.

Thứ hai, tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho công dân góp phần nâng

cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vai trò quan trọng

này của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bắt nguồn từ chính vai trò và

giá trị xã hội của pháp luật là phương tiện hàng đầu để quản lý nhà nước,

quản lý xã hội. Phổ biến, giáo dục pháp luật giúp cho mọi người có tri thức

pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho

việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và

quyền tự do của mỗi người.

Tuyên truyền, phổ biến pháp luật đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các

quan hệ xã hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành

các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã

hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống

đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý.

Quá trình tổ chức thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của Nhà nước (chủ thể chính sách) tới

đối tượng tác động của chính sách (có thể là đối tượng hưởng lợi trực tiếp

hoặc gián tiếp) nhằm đạt được mục tiêu mà chính sách đã đưa ra hoặc dự kiến

sẽ đạt được. Nói cách khác tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL là quá trình

thực hiện trên thực tế các hoạt động để đưa chính sách vào thực tiễn cuộc

sống. Tổ chức thực hiện chính sách được thực hiện bởi những chủ thể xác

định, nguồn lực cụ thể và các mục tiêu rõ ràng.

Tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL là bước kết nối giữa xây dựng

chính sách và thực hiện chính sách. Tổ chức thực hiện chính sách là quá trình

kiểm nghiệm giá trị đích thực, tính đúng đắn, tính khoa học, sự cần thiết của

chính sách; đồng thời cũng là quá trình đánh giá sự tham gia của các chủ thể

15

thực hiện chính sách có tuân thủ tính hệ thống, tính pháp lý, tính mục đích của

chính sách hay không?

Nếu chính sách TTPBPL không được thực hiện đúng sẽ ảnh hưởng đến

quá trình nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, châp hành pháp luật, thiếu hiểu

biết và ý thức tuân thủ pháp luật sẽ gây mất trật tự xã hội, ảnh hưởng tới sự

phát triển kinh tế- xã hội.. là nguyên nhân sâu xa của tệ nạn xã hội; phản ứng

tiêu cực; hành vi lệch chuẩn.. Tất cả nhứng hệ quả đó ảnh hưởng tiêu cực đến

quá trình quản lý xã hội của nhà nước; quá trình xây dựng xã hội công bằng,

văn minh, hiện đại, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Qua tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL mới biết được chính sách có

đúng hay không đúng, chính sách có đi vào cuộc sống hay không đi vào cuộc

sống. Chính sách TTPBPL có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong quá

trình xây dựng NNXHCN hiện nay, là một bộ phận của công tác GDCTTT, là

trách nhiệm của toàn bộ HTCT, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN và sự điều

phối, tổ chức thực hiện của các CQNN và các tổ chức, đoàn thể; là khâu then

chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng, PL của nhà nước thực

sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng chủ thể trong

xã hội.

1.2. Nội dung thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật

1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tuyên

truyền, phổ biến pháp luật

Kế hoạch triển khai là việc xác định phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu,

biện pháp, các hoạt động cụ thể để tiến hành thực hiện nhiệm vụ TTPBPL của

từng ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương nói riêng. Theo nguyên tắc, kế hoạch

mỗi khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì nó bắt buộc các cơ quan,

đơn vị hữu quan triển khai thực hiện và hoàn thành đúng thời hạn. Kế hoạch

đề ra (hoặc được giao) có được hoàn thành tốt và đúng thời hạn hay không là

16

căn cứ chủ yếu để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao của một

cơ quan, đơn vị.

Tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL là nhiệm vụ quan trọng, có sự

tham gia của nhiều ngành, địa phương, đơn vị ... do vậy cần phải có kế hoạch

để các ngành, địa phương căn cứ để thực hiện; cũng như kinh phí phân bổ để

đảm bảo các hoạt động được thực hiện theo đúng tiến độ, yêu cầu. Do đó, kế

hoạch phải đảm bảo các yêu cầu sau:

- Kế hoạch được xây dựng dựa trên chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tổ

chức: Phải dự kiến các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính

sách, số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi chính sách,

quyền và trách nhiệm của cán bộ quản lý và cán bộ thực thi chính sách, cơ

chế tác động của giữa cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực hiện chính sách.

- Kế hoạch phải đáp ứng được chủ trương quyết định của cấp trên.

- Nội dung của kế hoạch cần chỉ rõ danh mục những công việc dự kiến,

nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) và phải thể hiện rõ các mục tiêu, nhiệm

vụ, biện pháp và tiến độ cụ thể đối với từng việc, như: Dự kiến về cơ sở vật

chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ tổ chức thực hiện chính sách, các nguồn

lực tài chính, vật tý văn phòng phẩm…Dự kiến thời gian duy trì chính sách,

dự kiến thời gian thực hiện các bước tổ chức triển khai thực hiện chính sách

từ xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện đến tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm

thực hiện chính sách. Mỗi buớc phải nêu rõ mục tiêu cần đạt được và thời

gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu; Dự kiến về tiến độ, hình thức,

phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện chính sách hoặc có thể

được xem xét điều chỉnh nếu kế hoạch đó không phù hợp với tình hình thực

tế; việc điều chỉnh kế hoạch cũng do cấp có thẩm quyền thông qua kế hoạch

quyết định.

1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ

biến pháp luật

17

Bước tiếp theo trong tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL là phổ biến,

tuyên truyền chính sách. Đây là hoạt động có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ

tuyêntruyền phổ biến chính sách qua các phương tiện thông tin đại chúng, các

điển hình tiên tiến, các bài báo, các chuyên mục... sẽ giúp người dân hiểu về

chính sách; hiểu mục tiêu của chính sách; hiểu nghĩa vụ và quyền lợi khi thực

thi chính … để họ tự giác thực hiện, tích cực hưởng ứng, đáp ứng theo mục

đích của chính sách, thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của nhà nước;

đồng thời còn giúp cho cán bộ công chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện

chính sách nhận thức được đầy đủ tính chất, độ phức tạp, quy mô của chính

sách đối với đời sống xã hội, để họ chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp

thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực hiện có

hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao: Phổ biến, tuyên

truyền chính sách TTPBPL cần được thực hiện thường xuyên liên tục để các

đối tượng thụ hưởng chính sách có thêm niềm tin vào chính sách và tích cực

thực thi chính sách. Phổ biến tuyên truyền chính sách TTPBPL có thể thực

hiện bằng nhiều hình thức khác nhau: như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các

đối tượng chính sách, hoặc gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại

chúng như: các đài phát thanh, đài truyền hình, các báo, tạp chí…

1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ

biến pháp luật

Trên cơ sở Kế hoạch thực hiện chính sách, thì các cơ quan được phân

công trong Kế hoạch phải có trách nhiệm phối hợp với nhau. Bởi lẽ, việc thực

thi kế hoạch là một chuối hoạt động liên hoàn, hoạt động này sẽ tạo tiền đề

cho hoạt động khác được thực hiện.

Chính sách TTPBPL được thực thi trên phạm vi toàn quốc, toàn tỉnh

toàn huyện, toàn xã ... do vậy, các đối tượng, các chủ thể.. của chính sách rất

lớn. Số lượng tham gia bao gồm các đối tượng tác động của chính sách

TTPBPL là: Cấp ủy chính quyền các cấp; các cơ quan chuyên môn thuộc

18

UBND các cấp; các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội ... Bên cạnh đó, các

hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách TTPBPL diễn ra cũng hết

sức phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian, chúng có thể cùng diễn

ra tại một thời điểm, một địa bàn hoặc có giá trị tạo tiền đề cho nhau thực hiện

v.v… Bởi vậy, muốn tổ chức thực thi chính sách công có hiệu quả phải tiến

hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính

quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình

ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách. Do vậy, để có cơ sở đánh giá

trách nhiệm trong thực hiện chính sách, cũng như căn cứ để xác định nguồn

lực .. thì yêu cầu phải phân định rõ cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp…. Hoạt

động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách một

cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần

nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.

1.2.4. Duy trì chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Duy trì chính sách TTPBPL là toàn bộ hoạt động đảm bảo cho chính

sách phát huy tác dụng trong đời sống chính trị xã hội hay nói cách khác duy

trì chính sách TTPBPL là làm cho chính sách tồn tại và phát huy hết tác dụng

trong môi trường thực tế.

Trong quá trình duy trì thực hiện chính sách sẽ có những phát sinh đòi

hỏi chủ thể thực thi chính sách phải bám sát yêu cầu, bám sát mục tiêu chính

sách hướng tới; kiên định với mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, trước những phát

sinh, những bất cập (cả chủ quan và khách quan) thì chủ thể thực hiện chính

sách phải kịp thời có giải pháp khắc phục. Trong điều kiện và thẩm quyền có

thể, cơ quan hành chính nhà nước được phép sử dụng các phương pháp, mệnh

lệnh hành chính .. để đảm bảo các hoạt động được diễn ra đúng tiến độ, hiệu

qủa về mặt xã hội, về mặt kinh tế.

Tuy nhiên, cũng cần phải nói đến sự duy trì của chủ thể này sẽ được

các chủ thể khác cùng triển khai thực hiện trên nguyên tắc đồng bộ, bởi lẽ, có

19

như vậy thì việc thực thi chính sách mới có ý nghĩa; không gây ra sự khác biệt

giữa các địa phương, vùng miền.

1.2.5. Điều chỉnh chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Ðiều chỉnh chính sách được thực hiện với cơ quan nhà nước có thẩm

quyền để chính sách phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Theo

quy định cơ quan nào ban hành chính sách thì cơ quan đó có quyền điều

chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế việc điều chỉnh các biện pháp

cõ chế chính sách diễn ra rất năng động, linh hoạt vì thế cơ quan nhà nước các

ngành, các cấp, chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực

hiện có hiệu quả chính sách miễn là không làm thay đổi mục tiêu chính sách.

Một nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính sách là: Ðể

chính sách TTPBPL tiếp tục tồn tại chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cõ chế

thực hiện mục tiêu, hoặc bổ sung hoàn thiện mục tiêu theo yêu cầu thực tế.

Nếu điều chỉnh làm thay đổi mục tiêu, nghĩa là làm thay đổi chính sách thì coi

như chính sách đó thất bại. Trong quá trình điều chỉnh chính sách, đồi hỏi vẫn

phải đi trên "hành lang pháp lý" cho phép. Bởi lẽ, hệ thống văn bản QPPL, hệ

thống đề án chính sách, kế hoạch .. điều chỉnh chính sách đều yêu cầu tính

pháp lý, tính chính xác.

1.2.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách tuyên

truyền, phổ biến pháp luật

Ðôn đốc, theo dõi, kiểm tra là công cụ của quản lý. Theo dõi, kiểm tra

thực thic hính sách có thể phát hiện bất cập để kịp thời có giải pháp tháo gỡ;

theo dõi, kiểm tra có thể hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình triển khai thực hiện để

tránh có những "lệch chuẩn" trong quá trình triển khai.

Qua phân tích tại phần trên cho thấy, việc thực hiện chính sách

TTPBPL diễn ra trên địa bàn rộng lớn, trong cả nước và do nhiều cơ quan, tổ

chức, cá nhân tham gia, các điều kiện về khác nhau, cũng như trình độ, năng

lực, tổ chức điều hành của các cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước

20

không đồng đều. Việc kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phải được

thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền ( có thể được quy định về chức năng

nhiệm vụ; có thể được phân công trong Kế hoạch..). Qua đôn đốc, theo dõi

kiểm tra các mục tiêu và giải pháp chủ yếu của chính sách; đôn đốc, theo dõi,

kiểm tra các hoạt động đã được phê duyệt; tình hình các tổ chức, cá nhân có

trách nhiệm thực hiện đảm bảo có hiệu quả….

Bên cạnh hoạt động theo dõi, giám sát, kiểm tra để kịp thời điều chỉnh

những tồn tại, khắc phục những khăn thì các hoạt động này còn có giá trị

nhằm mục đích đôn đốc các chủ thể, cán bộ công chức thực thi chính sách.

Bên cạnh đó, việc đôn đốc còn giúp cho CBCC thực thi chính sách có cơ hội,

trách nhiệm xem xét lại quá trình thực thi chức trách của mình; cách làm hay,

cách hiểu đúng sẽ giúp nhân dân, đối tượng hướng tới hưởng úng; còn nếu

không sẽ bị nhân dân phản ứng, không hợp tác trong quá trình triển khai. Mặt

khác, việc đôn đốc, kiểm tra cũng giúp chủ thể quản lý nắm bắt được sự đồng

tình, sự ủng hộ của đối tượng quản lý.

1.2.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính

sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách TTPBPL là

bước cuối cùng trong chu trình thực hiện chính sách công nói chung, nhưng

hết sức quan trọng và cần thiết trong tổ chức thực hiện chính sách. Tổng kết,

đánh giá, rút kinh nghiệm quá trình thực hiện chính sách được hiểu là quá

trình các chủ thể thực thu chính sách tổ chức xem xét lại, kết luận và chỉ đạo

điều hành thực hiện chính sách là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ

sở. Ngoài ra còn xem xét đánh giá vai trò của các chủ thể tham gia chính sách,

như: các cơ quan, ðơn vị, các cấp chính quyền; các tổ chức chính trị - xã hội ..

Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách là bước cuối,

là nội dung quan trọng trong tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL.Chỉ trên

cơ sở tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách một

21

cách nghiêm túc mới biết được chính xác kết quả thực hiện chính sách cũng

như khó khăn khi thực hiện, tồn tại, vướng mắc trong tổ chức thực hiện chính

sách, xác định được nguyên nhân chủ quan và khách quan của tồn tại, hạn chế

trong quá trình thực hiện chính sách.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chính sách

tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Hoạt động TTPBPL cũng giống như các dạng hoạt động xã hội khác,

luôn luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Trong các

yếu tố đó, việc đảm bảo về tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất và phương tiện cho

công tác TTPBPL; cũng như đảm bảo kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật là

các yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất đến công tác TTPBPL cho cán bộ, công

chức cấp huyện, xã.

1.3.1. Yếu tố đảm bảo về tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất và phương

tiện cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Để công tác TTPBPL đạt được chất lượng và hiệu quảcao, việc xây

dựng và kiện toàn về tổ chức, phát triển một hệ thống các cơ quan trực tiếp

thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng hoạt động chuyên

nghiệp là khâu đầu tiên quan trọng. Đối với cấp tỉnh HĐPHPBPL cần phát

huy vai trò của mình trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân

dân nói chung, và các đối tượng đặc thù nói riêng. Có như vậy, công tác

TTPBPL mới thực sự mang lại hiệu quả.

Đội ngũ cán bộ làm công tác TTPBPL là nhân tố không thể thiếu trong

quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây là đội ngũ CBCC trực tiếp triển

khai các hoạt động cụ thể do vậy số lượng và chất lượng đội ngũ CBCC là

yếu tố quyết định trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động TTPBPL.

Cơ sở vật chất và các phương tiện phục vụ cho công tác TTPBPL cho

đội ngũ cán bộ, công chức các cấp cũng là một phần quan trọng của công tác

này. Cơ sở vật chất và phương tiện hiện đại sẽ giúp cho công tác TTPBPL

được diễn ra thuận lợi, dễ dàng, thông tin, kiến thức pháp luật được truyền đạt

22

nhanh chóng. Ngược lại, cơ sở vật chất và các phương tiện lỗi thời, lạc hậu sẽ

làm giảm đi đáng kể hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

1.3.2. Yếu tố đảm bảo kinh phí dành cho công tác tuyên truyền, phổ

biến, pháp luật

Để công tác TTPBPL đạt hiệu quả cao và được tiến hành thông suốt,

cần có một nguồn kinh phí thích đáng dành riêng cho công tác này. Để tiến

hành các hoạt động quản lý như: Họp triển khai, họp đánh giá; hoạt động triển

khai như: Tổ chức hội nghị, tổ chức hội thi, tổ chức tập huấn, hội thảo, tọa

đàm; biên soạn, in ấn và phát hành tài liệu, hoạt động kiểm tra, giám sát, hoạt

động đánh giá ....đều cần có kinh phí để thực hiện. Chính vì thế, việc đảm bảo

kinh phí dành cho công tác TTPBPL là vô cùng cần thiết. Căn cứ vào Chỉ thị

số 32 và các Chương trình, Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính

phủ, việc đầu tư nguồn lực về bộ máy, cán bộ và kinh phí cho công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật được tăng cường; các thiết chế về tài chính được ban

hành nhằm đảm bảo nguồn lực cho cac shoạt động; như: Thông tư số

63/2005/TT-BTC ngày 05/8/2005 của Bộ Tài chính, Thông tư số

73/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 14/5/2010 hướng dẫn việc quản lý và sử dụng

kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Thông tư số

14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27/1/2014 quy định việc lập dự toán, quản lý,

sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác

TTPBPL và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở, các bộ, ngành,

địa phương đều bố trí kinh phí cho công tác TTPBPL trong kế hoạch ngân

sách hàng năm của mình. Việc các địa phương được quyền chủ động trong bố

trí ngân sách hàng năm cho công tác TTPBPL sẽ là điều kiện thuận lợi để

công tác TTPBPL được tiến hành dễ dàng hơn. Ngoài ra, sự hỗ trợ của các tổ

chức, cá nhân, dự án; sự đóng góp từ phía doanh nghiệp, cá nhân trong nước

và nước ngoài cũng là một phần quan trọng trong việc đáp ứng kinh phí cho

công tác TTPBPL.

23

Tiểu kết chương 1

Chương 1 luận văn đã làm rõ được những vấn đề lý luận về tuyên

truyền, phổ biến pháp luật. Luận văn đưa ra khái niệm chính sách tuyên

truyền phổ biến pháp luật; thực hiện chính sách TTPBPL; các bước và nội

dung các bước của thực hiện chính sách TTPBPL. Đồng thời, trong chương 1

luận văn cũng làm rõ nội dung của phổ các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình

thực hiện chính sách TTPBPL. Đây là những cơ sở lý luận quan trọng giúp

tác giả nhận định các vấn đề này trên thực tế tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quãng

Ngãi ở Chương 2, và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách TTPBPL ở Chương 3.

24

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYÊN

TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TẠI HUYỆN SƠN TÂY,

TỈNH QUẢNG NGÃI

2.1. Khái quát về huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

Sơn Tây là huyện miền núi, nằm về phía Tây tỉnh Quảng Ngãi; phía

Đông và Đông Nam giáp huyện Sơn Hà, phía Tây Nam giáp với huyện Kon

Plông (tỉnh kontum), phía Bắc giáp huyện Nam Trà My (tỉnh Quảng Nam) và

huyện Tây Trà. Huyện Sơn Tây có 9 xã, gồm: Sơn Bua, Sơn Mùa, Sơn Dung,

Sơn Tân, Sơn Tinh, Sơn Mầu, Sơn Lập, Sơn Long, Sơn Liên.

Qua nhiều lần điều chỉnh, hiện nay (theo số liệu thống kê năm 2018)

huyện Sơn Tây có tổng diện tích tự nhiên là 382,2168 km2 , trong đó diện tích

đất Lâm nghiệp 25.676,2ha, chiếm 67,17%. Địa hình Sơn Tây gắn liền với

bắc Kon Tum, là một khối đá biến chất rất cổ, có nhiều mạch granit cắt

ngang. Các khối đá tạo nên những ngọn núi khá cao như Hoăn Plây 1.900m

(ở Sơn Tân, Sơn Tinh) núi Wang Rét 1.794m, núi Gò Tăng 1.608m (ở Sơn

Mùa), núi Hà Neng 1.483m(ở Sơn Dung Sơn Tây), núi Ain 1.477m (ở Sơn

Mùa giáp với Nam Trà My), núi Và Rẫy 10437m, núi Adin 1.406 (ở Sơn

Tinh, Sơn Dung) và hàng chục ngọn núi khác cao từ 500m đến trên 1.000m.

Các khối núi granit này tuy không bị ảnh hưởng của đợt vận động địa chất ở

đại tân sinh, nhưng bị nhiều nứt gãy, làm bazan trào ra bao phủ một số vùng.

Rừng núi Sơn Tây lại nối liền với dãy Ngọc An, Ngọc Linh ở bắc Kon Tum,

tạo thành thế liên hoàn hiểm trở nên có vị trí chiến lược quan trọng về mặt

Quốc phòng.

Cộng đồng cư dân ở Sơn Tây bao gồm các tộc người Ca Dong, Cor,

Hrê, Kinh. Cư trú lâu đời nhất là tộc người Ca dong, một chi của dân tộc Xơ –

Đăng ở bắc Tây Nguyên. Sách sử đã viết: “Trên sườn Đông dãy Trường Sơn,

25

cao nguyên rộng lớn phía Tây và xen kẽ ở vùng đồng bằng có nhiều thành

phần dân tộc thiểu số thuộc ngôn ngữ môn Khơ – me như: Người Ba Na, Xơ

– Đăng, Mơ – Nông…(miền Tây Nguyên); người Chăm – Rê, Tà Ôi, Cà

Tu...(khoảng giữa trung bộ)”.

Qua 25 năm xây dựng và phát triển (1994 - 2019), huyện Sơn Tây đã

từng bước vững chắc đi lên; các chỉ tiêu kinh tế - xã hội qua các kỳ đại hội

đều đạt và vượt Nghị quyết đã đề ra; điển hình (giai đoạn 2010 - 2015) giá trị

sản xuất tăng bình quân 16,6%; trong đó Nông - Lâm nghiệp 15,9%, Công

nghiệp - xây dựng 27,7%, Thương mại - Dịch vụ 17,3%...Về cơ cấu kinh tế

chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng Nông - Lân nghiệp chiếm 75,1%,,

Công nghiệp - xây dựng chiếm 5,7%, Thương mại - dịch vụ chiếm 19,2%;

lương thực bình quân đầu người 332,5 kg/người/năm. Về kết cấu hạ tầng

thuộc ngân sách nhà nước (giai đoạn 2010 - 2015) 450 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần

so với giai đoạn (2010 - 2005); tập trung chủ yếu trên các lĩnh vực Giao

thông, thủy lợi, diện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế.... Tuy nhiên, đến

nay, huyện Sơn Tây vẫn là 01 trong những huyện nghèo nhất nước (Huyện

nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ).

Về giao thông: Nhiều công trình dự án được Nhà nước đầu tư xây dựng

như đường Đông Trường Sơn đi qua 04 xã có chiều dài trên 33 km đã tạo

điều kiện giao thông thông suôt với các huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam

và huyện Konplong, tỉnh Kon Tum. Thực hiện quy hoạch mạng lưới giao

thông của huyện, tính đến thời điểm này toàn huyện có 27/99 km đường được

cứng hóa, 32 km đường huyện với quy mô đường cấp VI miền núi, mặt

đường thấm nhập nhựa; 52,5 km đường xã, mặt đường thâm nhập nhựa 11

km; trên 145 km đương liên thôn, xóm do dân tự làm.

Về thủy lợi, thủy điện: Đầu tư xây dựng 24 công trình phục vụ tưới trên

292 ha ruộng và hoa màu các loại. Lợi dụng điều kiện tự nhiên, Nhà nước đã

26

tiến hành đầu tư xây dựng các công trình thủy điện có quy mô vừa và nhỏ,

đặc biệt có công trình Thủy điện Đăk D´rinh với tổng công suất thiết kế trên

100 megawatt.

Hoàn thành công tác điều chỉnh mở rộng Quy hoạch chi tiết trung tâm

huyện lỵ Sơn Tây giai đoạn 2010 - 2015 tầm nhìn đến năm 2020 đã được

UBND tỉnh Quảng Ngãi phê duyệt.

Hoạt động văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao có bước phát triển và

đổi mới các hoạt động tuyên truyền phục vụ tốt công tác truyên truyền đường

lối, chủ trương của Đảng, chính sách phát luật của Nhà nước, phục vụ kịp thời

nhiệm vụ chính trị của địa phương. Các phong trào thi đua trong quần chúng

nhân dân được phát huy có hiệu quả, cụ thể là phong trào Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa đã có sức lan tỏa được ảnh hưởng lớn trong cộng

đồng dân cư; phong trào từng bước lớn mạnh, đi vào chiều sâu đảm bảo chất

lượng và hiệu quả; tính đến cuối năm 2015 tổng số hộ gia đình được bình xét

đạt tiêu chẩn gia đình văn hóa là 2.717 hộ, đạt 57,15%/ tổng số hộ đăng ký;

tổng số thôn đạt tiêu chuẩn thôn văn hóa là 13/42 thôn, chiếm 30,95% số thôn

trên địa bàn huyện; tổng số cơ quan đạt tiêu chuẩn cơ quan văn hóa năm 2015

là 46 cơ quan; số cơ quan đạt tiêu chuẩn 3 năm liên tục có 10 cơ quan, số cơ

quan đạt tiêu chuẩn 5 năm liên tục có 30 cơ quan.

Các công trình văn hóa thể thao từ huyện đến xã từng bước được quan

tâm đầu tư, tại trung tâm huyện có Nhà văn hóa huyện, hội trường Nhà văn

hóa được đầu tư khang trang, có sức chứa tối đa là 350 người; tổng kinh phí

đầu tư trên 04 tỷ đồng, ngoài ra đối với các công trình văn hóa ở cơ sở đước

các địa phương quan tâm đầu tư xây dựng; tính đến thời điểm này có 02/9

Nhà văn hóa xã, 12/42 Nhà sinh hoạt văn hóa thôn, 02 khu sinh hoạt văn hóa

thể thao cơ sở. Ngoài ra, huyện cũng đã đầu tư trên 02 tỷ đồng xây dựng Phù

27

điêu di tích lịch sử chiến thắng Tà Mực tại trung tâm huyện và đang đầu tư

xây dựng tượng đài chiến thắng Bãi Màu tại xã Sơn Tân.

Công tác giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến tích cực; tổng số học

sinh các bậc học trong toàn huyện có 5.253 học sinh, cơ sở vật chất, phương

tiện phục vụ dạy và học được đầu tư hiệu quả. Đến nay, toàn huyện có 27 đơn

vị trường học, trong đó có 01 trường trung học phổ thông, 08 trường trung

học cơ sở, 09 trường tiểu học, 09 trường mẫu giáo, trong đó 01 trường đạt

chuẩn Quốc gia; chất lượng dạy và học ngày một nâng cao. Công tác phổ cập

giáo dục Tiểu học, trung học cơ sở, chống tái mù chữ trong độ tuổi được quan

tâm đúng mức; đến cuối năm 2008 huyện được công nhận đạt chuẩn về phổ

cập trung học cơ sở. Đội ngũ giáo viên từng bước đã được bổ sung đủ số

lượng và từng bước được chuẩn hóa.

Công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng từng bước được tăng cường

đầu tư, củng cố, mạng lưới y tế từ xã đến huyện đề có Y, bác sỹ phục vụ; các

chương trình y tế Quốc gia triển khai có hiệu quả nên thời gian qua trên địa

bàn huyện không có xảy ra tình trạng lây nhiễm bệnh trong cộng đồng, tất cả

các hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số đề được cấp thể khám chữa bệnh

theo quy định.

Công tác dân số Kế hoạch hóa gia đình thời gia qua đạt được những kết

quả đáng khích lệ, chất lượng dân số ngày một nâng cao; tỷ lệ hộ gia đình

sinh con thứ 3 giảm đáng kể, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân hằng năm

1,28%;

Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo đạt được những kết quả

đáng kể, tính đến nay tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 43,31%, cao gấp 8 lần so

với tỷ lệ hộ nghèo của cả nước. Các chính sách an sinh xã hội luôn được đảm

bảo, đặc biệt là chính sách hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo theo chương

28

trình 134, 167 của chính phủ đã tạo cho người nghèo có nhà ở ổn định; hiện

nay trên địa bàn huyện cơ bản đã xóa được nhà ở tạm bợ.

Công tác đền ơn đáp nghĩa đối với người có công luôn được chú trọng,

tổ chức điều tra và giải quyết 797 đối tượng được hưởng chính sách theo

Quyết định 22 của Chính phủ, kịp thời giải quyết các chính sách đối với các

nạn nhân nhiễm chất độc da cam. Hiện nay trên địa bàn huyện có 1.124 đối

tượng được hưởng chế độ chính sách hàng tháng; hỗ trợ đầu tư nâng cấp sửa

chữa 141 nhà tình nghĩa; Chương trình 167, hỗ trợ nhân dân xây dựng hoàn

thành 2.220 nhà; giải quyết cho trên 3.500 hộ nghèo được vay vốn sản xuất…

Từ những đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện có những tác động tích

cực và chưa tích cực tới công tác TTPBPL trên địa bàn huyện như sau:

- Công tác TTPBPL được sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền cơ sở

cho nên việc ban hành kế hoạch và các văn bản hướng dẫn được xây dựng và

ban hành kịp thời, bám sát sự chỉ đạo của cấp trên và kịp thời truyền tải các

nội dung mang tính thời sự (các văn bản mới ban hành; các văn bản có ý

nghĩa thực tiễn cao, điều chỉnh các vấn đề nhân dân quan tâm..).

- Là huyện có tỷ lệ người dân tộc thiểu số cao (dân tộc Ca Dong chiếm

85%; dân tộc Hrê chiếm 10%; dân tộc Kinh chiếm 5%) do vậy, để có phương

pháp, cách tiếp cận, cách tuyên truyền trong tình hình thực tế của huyện có tỷ

lệ dân tộc thiểu số cao thì huyện cần có những hình thức, phương pháp tuyên

truyền, nội dung, tài liệu .. phù hợp với nhóm đối tượng đặc thù này.

- Là huyện 30a, có tỷ lệ hộ nghèo còn cao, ngân sách địa phương chưa

tự cân đối do vậy còn có nhiều hạn chế về nguồn lực cho nên công tác

TTPBPL cũng chưa được đảm bảo kinh phí cho xứng tầm nhiệm vụ, mà chủ

yếu do tỉnh cấp.

29

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

2.2.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

Công tác tham mưu xây dựng và ban hành Kế hoạch TTPBPL của

huyện được dựa trên căn cứ và các Kế hoạch, hướng dẫn của UBND tỉnh

Quãng Ngãi, Sở Tư pháp tỉnh Quãng Ngãi và UBND huyện Sơn Tây. Có thể

nói, trong giai đoạn vừa qua, UBND tỉnh, Sở Tư pháp đã hướng dẫn và ban

hành nhiều Kế hoạch, định hướng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật,

như: Kế hoạch số 5344/KH-UBND ngày 26/9/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh

về triển khai thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai

đoạn từ năm 2016 đến năm 2020; Kế hoạch số 5753/KH-UBND ngày

19/9/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh về triển khai thực hiện Chương trình

PBGDPL giai đoạn 2017-2021; Kế hoạch số 7656/KH-UBND ngày

11/12/2017 của UBND tỉnh thực hiện Đề án “Xã hội hóa công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý giai đoạn 2017-2021” trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi; Kế hoạch số 02/KH-UBND ngày 14/01/2019 của UBND tỉnh

Quảng Ngãi về triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL),

hòa giải ở cơ sở và xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi năm 2019; Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật, chuẩn tiếp cận pháp luật và hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi hàng năm..

Thực hiện Kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL, Cơ quan

Thường trực giúp Ủy ban nhân tỉnh chủ trì, là Sở Tư pháp; còn các cơ quan

chuyên môn khác; các địa phương căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình

có trách nhiệm phối hợp triển khai thực hiện kế hoạch và điều phối các nội

30

dung của kế hoạch. Phòng Tư pháp của huyện tham mưu trình UBND các

huyện ban hành Kế hoạch, hướng dẫn các xã triển khai thực hiện.

2.2.2. Thực trạng phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách tuyên

truyền, phổ biến pháp luật

Trong giai đoạn vừa qua, công tác TTPBPL đã ngày càng phủ rộng đến

các nhóm đối tượng, trong đó tập trung vào 05 nhóm đối tượng cần ưu tiên là

nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ; cán bộ, công chức; thanh thiếu

niên; người lao động, người quản lý; cán bộ công đoàn và lực lượng vũ trang

nhân dân. Hình thức tuyền tuyền đa dạng và phong phú, tài liệu tuyên truyền

tương đối đầy đủ…

Mọi đối tượng thuộc các tầng lớp nhân dân thuộc nhiều vùng miền khác

nhau đều được phổ biến các văn bản pháp luật phù hợp với đối tượng đó.

Thông qua PBGDPL, cán bộ, nhân dân được tìm hiểu, học tập pháp luật thuận

lợi, kịp thời hơn; nhận thức pháp luật của nhân dân có chuyển biến rõ nét. Tại

huyện Sơn Tây không để xảy ra tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người, vượt

cấp, sai pháp luật.

Công tác giáo dục pháp luật được lồng ghép trong các nội dung, kiến

thức phù hợp với lứa tuổi, từng đối tượng học. Cụ thể, Huyện Sơn Tây đã tập

trung triển khai tuyên truyền, phổ biến pháp luật cụ thể:

* Về hình thức tuyên truyền:

- Tuyên truyền trực tiếp hay còn gọi là tuyên truyền bằng lời nói giữ

báo các viên và người nghe: Tuyên truyền bằng lời nói là hình thức báo cáo

viên trực tiếp trao đổi, truyền tải, cung cấp các nội dung cụ thể với người

nghe về lĩnh vực pháp luật cụ thể. Tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện Đề

án “Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát

triển của đất nước” trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; từ năm 2015 đến 2018,

31

UBND huyện, Phòng Tư pháp đã tổ chức 10 hội nghị tập huấn cho báo cáo

viên pháp luật, cán bộ tư pháp xã,cán bộ đoàn thanh niên.…

- Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật qua phương tiện báo chí

(bao gồm cả báo viết, báo hình; các bản tin; tờ rơi…). Với hình thức tuyên

truyền pháp luật này thì nội dung truyền tải được nhiều, các nội dung có thể

lưu trữ làm tài liệu sử dụng ở mọi địa bàn. Tuy nhiên, với hình thức này thì

phải có kinh phí đảm bảo thường xuyên; và chỉ có thể cung cấp cho một

nhóm đối tượng nhất định. Nhìn chung, huyện mới chỉ tiếp nhận các sản

phẩm tuyên truyền do Sở Tư pháp cấp (bản tin pháp luật, tờ rơi, tờ bướm ….)

để cấp phát cho các địa phương trong toàn huyện. Từ năm 2015 đến năm

2018, huyện đã tiếp nhận và cấp 5.800 sản phẩm như bản ti, tờ rơi … cấp cho

cơ sở.

- Tuyên truyền các nội dung pháp luật qua hệ thống truyền thanh. Nhìn

chung, trên địa bàn huyện Sơn Tây tỉnh Quảng Ngãi thì hệ thống loa phát

thanh được trang bị tới 100% số xã; Thời lượng tuyên truyền, truyền tải các

nội dung, kiến thức pháp luật được tăng lên.

* Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật qua mạng Internet:Là hình

thức các trang điện tử của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước cập nhật các

văn bản pháp luật trên mạng Internet. Đây là hình thức truyền tải hiện đại, vừa

nhanh chóng, thuận tiện cho việc học tập, khai thác sử dụng khi cần thiết.Hiện

nay, 100% số xã, số cơ quan của huyện đều kết nối Internet và kết nối mạng

nội bộ. Trang thông tin điện tử của huyện thường xuyên đăng tải các nội dung

có tính chất thời sự..

* Tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua các cuộc thi tìm hiểu kiến

thức pháp luật..Nhìn chung, đây là hình thức tìm hiểu thông qua các cuộc thi

theo các chuyên đề cụ thể các cơ quan, tổ chức nhằm nâng cao trình độ, tri

thức pháp luật tới một nhóm đối tượng cụ thể mà cơ quan, tổ chức hướng tới.

32

Các cuộc thi đều gắn với các giải thưởng có giá trị. Những năm gần đây, các

cuộc thi đã từng bước thu hút sự quan tâm của dư luận; thu hút ngày càng

nhiều sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, hưởng ứng;

tạo thêm động lực để nhân dân tực tìm hiểu. Đồng thời, trong những năm qua,

huyện đã tích cực hưởng ứng, động viên cán bộ, nhân dân hưởng ứng các

cuộc thi tìm hiểu pháp luật do tỉnh, Sở Tư pháp phát động như “Hòa giải viên

giỏi ở cơ sở”,"Báo cáo viên và Tuyên truyền viên pháp luật giỏi", "Công chức

Tư pháp - hộ tịch giỏi"... Bên cạnh các cuộc thi tìm hiểu trực tiếp thì việc

hưởng ứng các cuộc thi qua mạng, gửi tin nhắn điện thoại với chủ đề tìm hiểu

pháp luật trở nên phổ biến hơn. Ngoài việc hưởng ứng các cuộc thi trên phạm

vi toàn quốc tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến đông đảo

người dân (thi tìm hiểu Hiến pháp năm 2013, Bộ luật hình sự năm 2015, Luật

hôn nhân và gia đình, Luật giao thông đường bộ, Luật cư trú...), huyện cũng

tích cực hưởng ứng tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan đến việc thực

hiện nhiệm vụ của đơn vị mình, theo nhu cầu của từng nhóm đối tượng cụ thể.

Các cuộc giao lưu văn hoá, văn nghệ lồng ghép nội dung thi pháp luật được tổ

chức giúp cán bộ, nhân dân nắm bắt pháp luật thuận tiện, kịp thời.

* TTPBPL thông qua việc xây dựng và duy trì hoạt động của "Tủ sách

pháp luật". Hiện nay, thực hiện Đề án “Tủ sách pháp luật”theo đúng tinh thần

chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày

25/01/2010 về việc xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật, cho nên

hâu hết các xã của huyện Sơn Tây đều triển khai các hoạt động xây dựng “ Tủ

sách pháp luật”. Hàng năm, số lượng đầu sách được bổ sung, cập nhật đời

sống cho mọi người thông qua việc đọc sách.

Hiện nay, có 9/9 xã của huyện đều đã triển khai xây dựng tủ sách pháp

luật, có từ 200-300 đầu sách....Tủ sách pháp luật, ngăn sách pháp luật, túi

sách pháp luật được xây dựng ở xã, phường, thị trấn, được đặt ở điểm bưu

33

điện văn hoá xã, thôn, làng, ở nhà văn hoá, ấp nhân dân, ở cơ quan, đơn vị,

trường học, doanh nghiệp. Mỗi điểm đèu bố trí cán bộ kiêm nhiệm công tác

quản lý Tủ sách pháp luật của cơ quan, cán bộ này có nhiệm vụ giữ gìn, bảo

quản, theo dõi việc mượn, trả sách báo, tài liệu pháp luật, hàng năm có trách

nhiệm kiểm kê, rà soát Tủ sách và kịp thời cập nhật, bổ sung các tài liệu mới.

Nhìn chung trong thời gian qua tủ sách pháp luật cấp xã đã trở thành

chỗ dựa, là công cụ để cán bộ, công chức tra cứu, tìm hiểu pháp luật, phục vụ

công tác phổ biến pháp luật và các hoạt động điều hành, quản lý của hệ thống

chính trị cơ sở, góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp

luật của người dân.

* Lồng ghép qua hoạt động CLBPL. Câu lạc bộ pháp luật là hình thức

sinh hoạt tự nguyện giữa các thành viên. Các thành viên tham gia câu lạc bộ

có nội quy và quy chế hoạt động và có sự hỗ trợ 01 phần kinh phí từ ngân

sách nhà nước. Các thành viên trong CLB thông qua buổi sinh hoạt, các buổi

giao lưu, các hội thi ...với các hỏa động thiết thực góp phần nâng cao hiểu biết

pháp luật, gây dựng lòng tin đối với pháp luật, nâng cao ý thức tôn trọng và

chấp hành pháp luật, hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật của

các hội viên nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung. Hiện nay, trên địa bàn

huyện có 01 câu lạc bộ pháp luật và có trên 20 hội viên. Câu lạc bộ pháp luật

sinh hoạt hàng tháng hoặc hàng quý.

* Hoạt động Trợ giúp pháp lý. Trợ giúp pháp lý được hiểu là là việc

cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn

trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến giáo dục pháp luật,

bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và

vi phạm pháp luật (điều 3 Luật trợ giúp pháp lý năm 2007). Hiện nay, hoạt

động trợ giúp pháp lý ở huyện Sơn Tây chủ yếu do cán bộ Trung tâm trợ giúp

pháp lý của tỉnh thực hiện. PBGDPL thực hiện lồng ghép qua các hoạt động

34

trên là một cách thức hữu hiệu để thúc đẩy công tác PBGDPL phát triển, đa

dạng hóa các kênh tuyên truyền pháp luật.

* Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở:

Khi có các vụ việc liên quan đến tranh chấp hoặc các sự kiện pháp lý, thì các

hòa giải viên sẽ thăm hỏi bằng tình cảm và lý luận để phân tích và cung cấp

các kiên trức về pháp luật để các bên đương sự hiểu thấu về pháp luật và

lường trước hậu quả xảy ra, những điều được, mất khi tranh chấp tại cơ quan

tố tụng. Hòa giải ở cơ sở đã góp phần hạn chế vi phạm pháp luật, giảm thiểu

số vụ, việc tranh chấp phải đưa lên cơ quan có thẩm quyền và Tòa án giải

quyết; giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm trật

tự, an toàn xã hội.

* Qua hoạt động xét xử công khai của tòa án nhân dân. Đây là hình

thức xét xử công khai hoặc công khai lưu động. Tòa án sẽ chọn những vụ án

mang tính điểm, có tính giáo dục cao. Việc tuyên truyền một mặt khẳng định

sự công minh, rõ ràng của pháp luật; một mặt có giá trị phòng ngừa, răn đe.

Đây là hình thức có giá trị thực tiễn, giá trị pháp lý, bài học thực tiễn sâu sắc

bởi lẽ những nhân chứng, tội phạm, tội danh, hình phạt .. đều cụ thể và rõ

ràng.. Tuy số lượng vụ án xét xử lưu động chưa nhiều nhưng đã phát huy tác

dụng răn đe, giáo dục đối với người phạm tội và những người tham dự phiên

toà. Trong 03 năm vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án nhân dân huyện

đã tổ chức 4 phiên tòa lưu động tại các địa bàn trên huyện để xét xử các vụ

án.

* Hiện nay, hoạt động tư vấn pháp luật được thực hiện phổ biến (đặc

biệt là các đường dây nóng); các buổi tư vấn lưu động, giải đáp nhanh nhằmg

giúp người dân, doanh nghiệp có hành vi ứng xử phù hợp, đúng đắn theo

đúng quy định của pháp luật.

* Việcđưa các nội dung pháp luật vào việc xây dựng, thực hiện quy

35

ước, quy ước của thôn, xóm, bản, các nét văn hóa truyền thống, tiến bộ. Các

bộ, ngành, địa phương triển khai tuyên truyền, phổ biến pháp luật gắn với các

phong trào ở từng địa bàn cụ thể như phong trào "xây dựng nông thôn mới”,

phong trào ;toàn dân BVANTQ; xã, phường lành mạnh, không tệ nạn xã hội,

không mại dâm, ma túy ...

* Các hình thức PBGDPL mới đã được một số địa phương triển khai

như: ký cam kết không vi phạm pháp luật với đối tượng như học sinh, sinh

viên, nhân dân ở tổ dân phố, khu dân cư, cụm dân cư, trường học.Việc xây

dựng và triển khai các hoạt động PBGDPL của đội ngũ cán bộ nòng cốt ở cơ

sở là hình thức cần phát huy trong thời gian tới. Bên cạnh đó, các hình thức

như: "Ngày pháp luật" (đang được triển khai trong cả nước), … đã mang lại

những hiệu quả thiết thực.

* Về công tác TTPBPL trong trường học.

Nội dung pháp luật được thực hiện qua chương trình môn học Đạo đức

ở cấp tiểu học; môn học GDCD ở cấp THCS và THPT; môn học PL,PLĐC,

pháp luật chuyên ngành tại cơ sở GDNN, cơ sở giáo dục đại học; các môn học

trong cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân. Các cơ sở giáo dục

mầm non thì từng bước dạy về pháp luật giao thông, pháp luật quyền trẻ em ...

cho các cháu trong độ tuổi mầm non.

Bên cạnh đó, các nội dung pháp luật liên quan còn được tích hợp ở một

số môn học khác như các môn: Tự nhiên xã hội, Giáo dục quốc phòng, an

ninh ở phổ thông, các môn chuyên ngành ở giáo dục trung cấp chuyên nghiệp

và giáo dục đại học. Phương pháp giáo dục pháp luật đổi mới theo hướng

nâng cao tính tích cực, chủ động của sinh viên, học sinh trong học tập pháp

luật. Bên cạnh đó, các trường học còn coi trọng lồng ghép PBGDPL trong

giảng dạy các môn học, thông qua giáo dục ngoại khóa và các hoạt động giáo

dục ngoài giờ lên lớp như: Sinh hoạt cho học sinh hoạt động giao lưu văn hoá,

36

văn nghệ và các hình thức PBGDPL khác như tập huấn, bồi dưỡng kiến thức

pháp luật cho giáo viên, trên phương tiện thông tin đại chúng, tài liệu pháp

luật, thi tìm hiểu pháp luật, tư vấn pháp luật...

- Về Tài liệu phổ biến pháp luật đã được biên soạn theo hướng phù

hợp với nhu cầu của từng đối tượng, địa bàn, đáp ứng tính thời sự và yêu

cầu phổ biến pháp luật trong từng giai đoạn.Tài liệu pháp luật được biên

soạn, phát hành đa dạng hơn nhiều so với trước đây. Ngoài sách hỏi đáp, sách

chuyên đề, sổ tay pháp luật, sách nghiệp vụ, tờ gấp, đề cương giới thiệu luật,

tài liệu tiếng Việt - tiếng dân tộc còn có các loại tài liệu khác như băng tiếng,

băng hình, trong đó thu băng các cuộc nói chuyện về pháp luật, xây dựng

phóng sự, tiểu phẩm pháp luật, tình huống pháp luật, phim về đề tài pháp luật.

.... Từ năm 2015-2018, Phòng Tư pháp huyện đã tiếp nhận và cấp phát hơn

5.300 bản tài liệu pháp luật các loại.

* Về nội dung tuyên truyền: Hệ thống văn bản Luật mới được ban hành và

có hiệu lực, cụ thể: Luật Căn cước, Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật Bảo hiểm xã

hội của Quốc hội, số 58/2014/QH13, Luật Kiểm toán Nhà nước của Quốc hội,

số 81/2015/QH13; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội,

số 80/2015/QH13; Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân

dân, số 87/2015/QH13; Luật Khí tượng thủy văn của Quốc hội, số

90/2015/QH13; Bộ luật Tố tụng dân sự của Quốc hội, số 92/2015/QH13; Luật

An toàn, vệ sinh lao động của Quốc hội, số 84/2015/QH13Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt của Quốc hội, số

70/2014/QH13; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo của Quốc hội,

số 82/2015/QH13; Luật An toàn thông tin mạng của Quốc hội, số

86/2015/QH13; Luật Thú y của Quốc hội, số 79/2015/QH13…

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của địa phương được ban hành và

có hiệu lực theo từng năm.

37

2.2.3. Thực trạng phân công, phối hợp thực hiện chính sách tuyên

truyền, phổ biến pháp luật.

Trong thực hiện chính sách TTPBPL thì có sự phân công giữa cơ quan

chủ trì, cơ quan phối hợp. Việc phân công phối hợp thông thường được khẳng

định rõ trong kế hoạch. Việc phân công phối hợp còn được thể hiện qua các

quy chế phối hợp giữa các cơ quan với nhau, hoặc có thể phối hợp khi tiến

hành một hoạt động cụ thể tại một địa bàn cụ thể. Trong thực thi chính sách

TTPBPL, trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn, các tổ chức chính trị xã

hội .. được phân công cụ thể trong các Kế hoạch (do Hội đồng phối hợp phổ

biến huyện ban hành).

Bên cạnh đó, công tác phân công còn được cụ thể hóa trong Quy chế

làm việc của Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật của huyện.

Ngoài ra, công tác phân công phối hợp còn được thực hiện bởi các quy

chế phối hợp làm việc giữa các cơ quan chuyên môn; cơ quan chuyên môn

với các tổ chức chính trị - xã hội … (Tại huyện Sơn Tây, việc ký kết Chương

trình phối hợp thực hiện được thực hiện từ cấp tỉnh, do vậy cấp huyện chỉ căn

cứ vào Chương trình đã ký để thực hiện. Ví dụ: Sở Tư pháp ký kết Chương

trình phối hợp với Đoàn thành niên cộng sản HCM tỉnh về công tác phối hợp

công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong Đoàn thành niên. Huyện đoàn

Sơn Tây và Phòng Tư pháp Sơn Tây căn cứ vào các nội dung đã ký kết để

tiến hành các hoạt động phối hợp hoạt động ở cấp mình; hoặc phối hợp với

cấp tỉnh để tổ chức các hoạt động tại địa phương mình).

2.2.4. Thực trạng duy trì chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Thực tế, để duy trì chính sách trong môi trường thực tế thì cán bộ, công

chức, người tham mưu phải đề xuất các giải pháp, biện pháp duy trì bảo đảm

cho chính sách tồn tại và phát huy tác dụng là vô cùng quan trọng trong thực

hiện chính sách. Mỗi cán bộ, công chức phải từng bước rèn luyện kiến thức,

38

kỹ năng, thái độ ... để làm việc có hiệu quả hơn.

Mặc dù, UBND huyện, phòng Tư pháp huyện là cơ quan thực thi chính

sách, xong cũng có những đề xuất, kiến nghị để tăng cường hiệu quả thực thi

chính sách TTPBPL như: Đề nghị cung cấp tài liệu bằng ngôn ngữ người dân

tộc; cấp băng, đĩa hình lồng tiếng dân tộc .. để cấp phát cho bà con.

2.2.5. Thực trạng điều chỉnh chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật

Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, Ủy ban nhân dân tỉnh,

UBND huyện, Hội đồng phổ biến phối hợp huyện đã tổ chức sơ kết, tổng kết

nhằm đánh giá kết quả đạt được và có đúc kết kinh nghiệm chỉ đạo tổ chức

thực hiện chính sách trong những giai đoạn tiếp theo, ví dụ: Đối với hình

thức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng bổ sung và

tăng cường thông qua truyên thông trực tiếp cho phù hợp với huyện có tỷ lệ

dân tộc cao. Từ đó, từng bước thu hút sự quan tâm của dư luận, sự tự học, tìm

hiểu của nhân dân với pháp luật đặc biệt là các nội dung có liên quan đến các

vấn đề sát với đời sống hàng ngày như: chính sách, đất đai ...

Tăng cường và cụ thể hóa trách nhiệm và các nội dung phối kết hợp

giữa các ngành, cơ quan chuyên môn, các chủ thể trong tổ chức thực hiện

chính sách nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cơ quan, cán bộ, công chức,

đặc biệt là trách nhiệm của chủ các doanh nghiệp để góp phần đạt mục tiêu

chính sách một cách tốt nhất, tức là nâng cao chất lượng tham mưu để khắc

phục lỗ hổng của chính sách, pháp luật.

- Ưu điểm của việc điều chỉnh chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật:

Tăng cường quán triệt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước về phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao chất lượng thông tin, tuyên

truyền để toàn xã hội nhận thức đúng vị trí, vai trò của phổ biến, giáo dục

pháp luật. Tăng cường phương pháp thực hiện chính sách theo hướng linh

hoạt, chất lượng, gắn việc phổ biến, giáo dục pháp luật với nhu cầu thực sự

của xã hội.

39

- Hạn chế của việc điều chỉnh chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật:

Công tác rà soát, bổ sung, xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận

lợi để toàn dân chung tay tham gia thực hiện hoặc hổ trợ thực hiện phổ biến,

giáo dục pháp luật chưa thực hiện thường xuyên; chính sách đãi ngộ, thu hút

những người có học hàm, học vị, những người có nhiều kinh nghiệm uy tín,

các già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng ...

2.2.6. Thực trạng theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính

sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Nhằm đánh giá kết quả đạt được trong việc tổ chức thực hiện chính

sách TTPBPL trong thời gian qua, Tỉnh, UBND huyện đã tập trung chỉ đạo các

địa phương cần tiếp tục nâng cao nhận thức về công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật, đề cao trách nhiệm của địa phương mình, thể hiện trách nhiệm chính

trị đối với công tác TTPBPL thông qua việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, quyết

tâm thực hiện có hiệu quả các chương trình, Đề án thực hiện theo đúng mục

tiêu chính sách.

Thực tế, trong thời gian qua, việc thực hiện kiểm tra công tác TTPBPL

của Hội đồng phối hợp công tác TTPBPL các cấp, đoàn thể ở địa phương

được thực hiện đều đặn và thường xuyên hơn. Qua kiểm tra đã kịp thời hướng

dẫn các đoàn thể, địa phương khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong

công tác TTPBPL, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo, hướng dẫn sát hợp

với tình hình ở địa phương, đơn vị, cơ sở. Thông qua hoạt động kiểm tra đã

phát hiện, hướng dẫn nhân rộng các mô hình, cách làm hay trong công tác

TTPBPL. Hàng năm, Sở Tư pháp ban hành Kế hoạch kiểm tra, trong đó có

hướng dẫn các địa phương tiến hành tự kiểm tra và thành lập các đoàn trực

tiếp đi kiểm tra công tác TTPBPL tại một số xã, đơn vị. Từ năm 2015 đến

2018, Hội đồng phối hợp cấp huyện đã tổ chức được 03 đoàn kiểm tra công

tác PBGDPL tại nhiều cơ sở.

Tuy nhiên, việc kiểm tra thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp

luật chưa được thực hiện thường xuyên; chủ yếu theo dõi, kiểm tra gián tiếp

40

thông qua các báo cáo kết quả thực hiện chính sách của các xã trên địa bàn

huyện.

2.3. Đánh giá chung về thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến

pháp luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

2.3.1. Những kết quả đạt được

Trong thời gian qua, công tác TTPBPL đã mang lại những hiệu quả

thiết thực, tạo sự chuyển biến tích cực về mặt nhận thức của nhân dân về vị

trí, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, cơ bản đã nắm được các chính

sách, pháp luật liên quan đến chế độ chính sách, quyền và lợi ích hợp pháp

của gia đình, bản thân trong cuộc sống, về trách nhiệm của mình trong xây

dựng đời sống văn hóa, tuân thủ pháp luật tại nơi cư trú.

Việc triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã có sự phối hợp

giữa các địa bàn, các cơ quan chuyên môn. Nội dung và cách thức tuyên

truyền được kết hợp linh hoạt, khá đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với

nhiều hình thức phong phú đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng

và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.

- Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đã được tổ chức với nhiều

hình thức da dạng, hấp dẫn hơn. Để đảm bảo hiệu quả cao khi phổ biến, giáo

dục pháp luật huyện đã lựa chọn các hình thức phù hợp với từng đối tượng,

địa bàn nhất định. Các hình thức, biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật

truyền thống tiếp tục được vận dụng sáng tạo bên cạnh các hình thức phổ

biến, giáo dục pháp luật mới.

- Lực lượng và đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng, thường xuyên

được tham gia các lớp tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng

tuyên truyền đáp ứng được các yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước trong

giai đoạn hiện nay. Có thể nói, đội ngũ này đã thực sự có những bước trưởng

41

thành, chuyên nghiệp hơn có trình độ cao hơn và đem lại những thành công

đáng kể trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân.

- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục

pháp luật được quan tâm đầu tư, năm sau cao hơn năm trước. Kinh phí chi

cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được quản lý chặt chẽ và sử dụng

hiệu quả hơn.

2.3.2. Khó khăn, tồn tại và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:

- Công tác TTPBPL ở một số nơi chưa được quan tâm thực sự. Một số

ngành, các cấp, chính quyền một số nơi chưa sát sao, chưa gắn kết chặt chẽ

hoạt động chuyên môn với tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

- Công tác tổ chức, cán bộ thực hiện việc TTPBPL.

+ Hoạt động TTPBPL trong thời gian qua vẫn còn mang tính thời vụ,

chưa đi sâu phân tích, chưa xuất phát từ nhu cầu bức xúc của người dân, chưa

mang tính giải đáp pháp luật từ những vụ việc thực tế.

+ Mặt khác, việc phổ biến hiện nay chưa chú trọng tuyên truyền các

văn bản dưới luật; văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành...

+ Hình thức TTPBPL tuy có nhiều đổi mới song vẫn chưa theo kịp tình

hình thực tiễn, nhất là cấp cơ sở. Một số địa phương còn thiếu linh hoạt trong

lựa chọn hình thức, biện pháp TTPBPL phù hợp với trình độ của người được

tuyên truyền và đặc thù của địa bàn. Các hình thức TTPBPL mới, có hiệu quả

chậm được nhân rộng.

+ Nguồn nhân lực hiện có của công tác TTPBPL còn nhiều bất cập,

chưa ngang tầm nhiệm vụ và đáp ứng được đòi hỏi mới của xã hội. Lực lượng

làm công tác TTPBPL tuy đông về số lượng nhưng lại phân tán, số người

chuyên trách không nhiều, mà chủ yếu là kiêm nhiệm; tính chuyên nghiệp

42

trong TTPBPL của cán bộ, công chức chuyên trách làm công tác TTPBPL

chưa cao.

+ Hội đồng phối hợp công tác TTPBPL chưa thực sự tạo được bước đột

phá, tạo cơ chế hữu hiệu để các cấp, các ngành có chương trình hoạt động cụ

thể, biến nhận thức về tầm quan trọng của công tác này thành hoạt động thiết

thực nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác TTPBPL. Hội đồng của một số địa

phương hoạt động còn mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy được vai

trò phối hợp để thực hiện công tác TTPBPL; sự phối hợp chưa thường xuyên,

chưa chặt chẽ; các hoạt động chưa mang tính lồng ghép cao.

-Cơ sở vật chất, phương tiện dành cho công tác TTPBPL chưa đáp ứng

được yêu cầu nhiệm vụ, thiếu phương tiện hiện đại, thiếu tài liệu nghiên cứu;

thiếu kinh phí tổ chức các hoạt động mang tính phổ biến, có quy mô lớn nên

chưa thu hút sự quan tâm nhiều của nhân dân...

* Những nguyên nhân của các hạn chế trên

- Nhận thức của một số cấp uỷ Đảng, địa phương về công tác TTPBPL

chưa thực sự đầy đủ đã cho rằng đây là nhiệm vụ của riêng cơ quan Tư pháp.

- Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL các cấp hoạt động theo cơ chế

phối hợp, các thành viên làm việc kiêm nhiệm nên không thể dành nhiều thời

gian đầu tư cho công tác PBGDPL. Phần lớn thành viên tham gia Hội đồng

phối hợp các cấp giữ vị trí lãnh đạo ở cơ quan chuyên môn, địa phương phải

đảm trách nhiều công việc nên sự chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn và

phối hợp chưa thật đều.

- Đội ngũ cán bộ làm công tác TTPBPL tuy số lượng đông nhưng trình

độ không đồng đều.

- Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, đặc biệt là các phương tiện

truyền thông hiện đại còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là ở vùng

sâu, vùng xa hoặc những địa bàn khó khăn. Các chính sách hỗ trợ về vật chất

43

chưa cao, chưa tạo động lực khuyến khích, thu hút đội ngũ nhiệt huyết với

nghề, tận tâm với côg việc.

- Công tác TTPBPL trong doanh nghiệp còn nhiều hạn chế: Tỷ lệ người sử

dụng lao động và người lao động được tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao

động và các quy định pháp luật liên quan tới quyền và nghĩa vụ của công dân

và người lao động trong các loại hình doanh nghiệp đạt thấp; nhiều người lao

động trong các doanh nghiệp vẫn chưa nắm được các quy định của pháp luật

lao động về Hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, Nội quy lao động,

một số chính sách về tiền lương và bảo hiểm xã hội...

Tiểu kết chương 2

Trong Chương 2, tác giải đã phân tích cụ thể các bước của chu trình tổ

chức chính sách TTPBPL tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quãng Ngãi, tác giả đã

đánh giá và nhận xét những kết quả được của thực trạng thực hiện chính sách.

Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách cũng phát sinh nhiều

hạn chế, bất cập bao gồm cả những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân

khách quan. Trên cơ sở những hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện chính

sách đặt ra yêu cầu phải đề ra các giải pháp hoàn thiện thực hiện TTPBPL

trên địa bàn huyện trong thời gian tới, đây là những vấn đề tác giả sẽ trình bày

tại Chương 3 của Luận văn.

44

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TẠI

HUYỆN SƠN TÂY,TỈNH QUẢNG NGÃI

3.1. Quan điểm và mục tiêu thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ

biến pháp luật

3.1.1. Quan điểm

Công tác TTPBPL là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và

có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ

nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân

dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Các quan điểm để thực hiện công tác này bao gồm:

Thứ nhất, xác định TTPBPL là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính

trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Nhà nước bảo đảm nguồn lực cần

thiết cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; quan tâm phổ biến, giáo dục

pháp luật cho một nhóm đối tượng đặc thù (nhân dân ở vùng dân tộc thiểu số,

miền núi, vùng sâu, vùng xa; người lao động trong các doanh nghiệp; nạn

nhân bạo lực gia đình; người khuyết tật; người đang chấp hành hình phạt tù,

người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục

bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người đang bị áp dụng biện pháp giáo

dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo.

Thứ hai, nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin về pháp luật.

Thứ ba, Chiến lược giải quyết các vấn đề giáo dục pháp luật phải xuất

phát từ chương trình, nội dung giáo dục pháp luật. Hướng tới việc phát huy

những truyền thống tốt đẹp của quá khứ, phát huy truyền thống dân tộc; có

những nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật phù hợp.

45

Thứ tư, Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện

đối với các cá nhân, tổ chức tham gia thực hiện TTPBPL, huy động các nguồn

lực đóng góp cho công tác TTPBPL. Nhà nước là nòng cốt quản lý công tác

TTPBPL, bên cạnh đó, việc huy động nguồn lực của nhân dân, của toàn xã

hội tham gia thực hiện PBGDPL là rất cần thiết. Điều đó đồng nghĩa với việc

nhà nước chuyển một phần công việc trong lĩnh vực TTPBPL cho xã hội để

huy động và tận dụng các nguồn lực trong xã hội nhằm đạt hiệu quả cao trong

hoạt động TTPBPL. Mục đích của hoạt động TTPBPL là hình thành nhận

thức pháp luật, nâng cao tri thức pháp luật và củng cố niềm tin vào pháp luật,

đưa pháp luật thực sự đi vào cuộc sống. Đối tượng TTPBPL ở đây chính là

các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Vì vậy, nếu đối tượng thụ hưởng kết quả

TTPBPL chính là chủ thể của hoạt động TTPBPL thì hiệu quả đạt được sẽ cao

hơn. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật không chỉ là công việc của một cơ

quan, một bộ phận riêng lẻ nào đó mà nó là công việc của từng cá nhân, tổ

chức và của toàn xã hội.

- Hệ thống các văn bản thể hiện quan điểm về công tác TTPBPL như:

Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác

TTPBPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân., như:

Quyết định số 2160/QĐ-TTg ngày 26 tháng 11 năm 2010 phê duyệt Đề án

tăng cường công tác PBGDPL nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh

thiếu niên giai đoạn 2011 – 2015; Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09 tháng

4 năm 2012 ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-

KL/TW ngày 19 tháng 4 năm 2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa

XI), trong đó có nhiều đề án về PBGDPL. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã

ban hành Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 về kết quả thực hiện Chỉ thị

số 32-CT/TƯ; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; Thông tư số 63/2005/TT-

BTC ngày 05/8/2005 của Bộ Tài chính, Thông tư số 73/2010/TTLT-BTC-

46

BTP ngày 14/5/2010 hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm

cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Thông tư số 14/2014/TTLT-BTC-

BTP ngày 27/1/2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết

toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác TTPBPL

Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta, trong những

năm qua Đảng, chính quyền huyện Sơn Tây, tỉnh Quãng Ngãi đã quan tâm,

lãnh đạo, chỉ đạo và tạo mọi điều kiện, quan tâm tới công tác tuyên truyền,

phổ biến pháp luật thể hiện qua các quan điểm sau:

Một là: Coi việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật và góp phần nâng cao

dân trí, xây dựng con người mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, là thể thống nhất giữa

vật chất và tinh thần. Chỉ khi nào các mặt này được chăm lo, giáo dục và phát

triển thì năng lực con người mới phát triển được, con người trở thành nhân tố

hoạt bát nhất trong sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền sản xuất và tiến bộ xã

hội. Do vậy, quan điểm nâng cao dân trí, xây dựng con người mới phải trên

cơ sở giữ vững những giá trị truyền thống dân tộc đồng thời phát triển dược

những giá trị của thời đại và nhân loại: Tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng

… qua đó kịp thời cung cấp và trang bị cho mỗi cá nhân những công cụ pháp

lý để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống, những tình

huống pháp luật, giúp mỗi cá nhân có tầm nhìn sâu sắc, bao quát để chủ động

trong quá trình học tập, làm việc, sinh sống …

Hai là: Tuyên truyền, phổ biến pháp luật phải mang tính liên tục, đảm

bảo tính hệ thống, thống nhất.

Pháp luật là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc được quy định bởi

cơ sở hạ tầng, nghĩa là khi các yếu tố thuộc cơ sở hạ tâng có sự thay đổi thì

pháp luật phải có sự thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp. Xuất phát từ những lý

do này mà công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cũng phải mang tính liến

47

tục và hệ thống.

Tính liên tục đòi hỏi công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật phải

được thực hiện thường xuyên, hàng tuần, hàng tháng. Điều này được thể hiện

qua việc ban hành các Kế hoạch thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến

pháp luật của tỉnh, của huyện.

Tính hệ thống của việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật được thể hiện ở

vị trí của nó trong cơ cấu nền giáo dục quốc dân. Do đó, mối quan hệ của nó

được đặt trong việc lồng ghép với tất cả các hoạt động lao động sản xuất, hoạt

động bảo vệ môi trường, hoạt động xây dựng đời sống văn hóa, văn minh..

Ba là: đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong công tác TTPBPL.

Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với hoạt động TTPBPL được thể

hiện qua đường lối, chính sách của Đảng. Đó là cơ sở lý luận để định hướng,

chỉ đạo các hoạt động thực tiễn TTPBPL.

3.1.2. Mục tiêu thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp

luật của huyện Sơn Tây, tỉnh Quãng Ngãi.

- Đảm bảo 100% đoàn thể, địa phương đều tổ chức phổ biến, thông tin

rộng rãi các văn bản quy phạm pháp luật trước và sau khi được ban hành liên

quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao với nội dung và

hình thức phù hợp theo quy định của pháp luật.

- Phấn đấu 90% - 100% các chương trình, kế hoạch, đề án bồi dưỡng

kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức có nội dung phổ biến,

cập nhật thông tin về chính sách pháp luật mới ban hành được tổ chức định

kỳ, thường xuyên.

- Phấn đấu hàng năm có từ 80% trở lên báo cáo viên pháp luật, tuyên

truyền viên pháp luật, giáo viên dạy môn giáo dục công dân dạy môn pháp

luật được cung cấp, cập nhật thông tin, tài liệu pháp luật, tập huấn, bồi dưỡng

nghiệp vụ cần thiết để tham gia TTPBPL theo yêu cầu nhiệm vụ.

48

- Phấn đấu 100% các trường đều triển khai TTPBPL theo chương trình

giáo dục chính khóa và hoạt động ngoại khóa, có giáo viên dạy môn giáo dục

công dân và môn pháp luật theo quy định.

- Phấn đấu từ 70% - 90% đối tượng đặc thù được TTPBPL chuyên biệt

theo quy định của pháp luật.

- Khuyến khích, huy động các tổ chức tư vấn pháp luật, tổ chức cung

cấp dịch vụ pháp lý thực hiện tư vấn, hướng dẫn, cung cấp thông tin, tài liệu

pháp luật miễn phí cho Nhân dân; khuyến khích các phương tiện thông tin đại

chúng, cơ quan báo chí xây dựng, duy trì chương trình, chuyên mục về pháp

luật; phấn đấu hầu hết các cơ quan, đơn vị đều lồng ghép, kết hợp TTPBPL

thông qua hoạt động chuyên môn, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,

xử lý vi phạm hành chính, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

- Bảo đảm triển khai sâu rộng, toàn diện, đồng bộ các hình thức

TTPBPL; cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đầy đủ trách nhiệm được giao

theo Luật PBGDPL; xây dựng và nhân rộng các mô hình, cách làm mới, hiệu

quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn và nhu cầu của Nhân dân, chú

trọng ứng dụng công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông vào hoạt

động TTPBPL.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tuyên

truyền, phổ biến pháp luật

3.2.1 Công tác xây dựng Chương trình, kế hoạch về TTPBPL.

Xây dựngchương trình, kế hoạch về phổ biến, giáo dục pháp luật. Giải

pháp đầu tiên có tính quyết định cho việc nâng cao hiệu quả của công tác

TTPBPL chính là việc thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, ban hành văn

bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về phổ biến, giáo dục pháp

luật. Theo đó, các giải pháp đưa ra là:

Thứ nhất, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật - tạo môi trường thuận lợi

49

để pháp luật đi vào cuộc sống, cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật

diễn ra hiệu quả. Tuy vậy, hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều hạn chế,

như: văn bản luật chủ yếu vẫn mang tính chất định khung, khó áp dụng trực

tiếp vào các trường hợp cụ thể mà phải thông qua các văn bản hướng dẫn, giải

thích. Vì vậy, khi có quy định liên quan đến chức năng của nhiều ngành thì

mỗi ngành lại có những cách hiểu khác nhau, dẫn đến tình trạng cùng một vấn

đề nhưng lại có nhiều văn bản hướng dẫn khác nhau. Mặt khác, do có quá

nhiều loại văn bản, được nhiều cấp ban hành, nhưng lại thiếu cơ chế cân nhắc

toàn diện các lĩnh vực pháp luật liên quan, nên mâu thuẫn và chồng chéo là

khó tránh khỏi, tuổi đời của các VBQPPL ở Việt Nam thường không dài;

nhiều VBQPPL có tính quy phạm thấp; Các văn bản pháp luật đều có khiếm

khuyết chung như: Thiếu cụ thể, rõ ràng; trùng lặp chồng chéo, thậm chí mâu

thuẫn nhau; nhiều văn bản thiếu tính khả thi; tính ổn định của hệ thống quy

phạm còn yếu, nhiều đạo luật, bộ luật liên tục bị sửa đổi, thay thế, bổ sung.

Công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật cũng chưa thực sự

được chú trọng. Hệ thống pháp luật như vậy làm cho nội dung của phổ biến,

giáo dục pháp luật cũng thường xuyên phải sửa đổi, cập nhật cho phù hợp,

công tác tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật phải lặp đi lặp lại nhiều lần gây

lãng phí không ít tiền của và công sức. Chính vì vậy, cần đổi mới, nâng cao

chất lượng hoạt động lập pháp, đảm bảo các văn bản được ban hành phải cụ

thể, dễ hiểu, dễ thực hiện và có tính áp dụng lâu dài, hạn chế việc sửa đổi, bổ

sung. Đồng thời, phải chú trọng hơn nữa việc lấy ý kiến nhân dân trong quá

trình xây dựng pháp luật, mở rộng dân chủ và thu hút mọi tầng lớp nhân dân,

các chuyên gia pháp lý tham gia đóng góp ý kiến cho dự thảo luật. Đây là

những biện pháp thiết thực tạo nên một hệ thống pháp luật ổn định – là môi

trường thuận lợi để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được diễn ra trên

thực tế. Là đơn vị hành chính cấp huyện, bên cạnh việc thực thi pháp luật thì

50

huyện có thể có trách nhiệm góp ý vào các chương trình TTPBPL của tỉnh; đề

xuất các kiến nghị trong quá trình thực thi chính sách ...

Thứ hai, cần khẩn trương hoàn thiện các văn bản pháp luật, chương

trình, kế hoạch về phổ biến, giáo dục pháp luật cho các nhóm đối tượng đặc

thù. Để làm được điều này, cần rà soát lại hệ thống pháp luật đã ban hành liên

quan đến các nhóm đối tượng đặc thù. Sau đó, cần có các văn bản pháp luật,

chương trình, kế hoạch quy định cụ thể về hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật cho đối tượng đặc thù. Theo đó, ở Trung ương thì Bộ Tư pháp cần ban

hành các chương trình, đề án, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; các quy

định về chuyên môn, nghiệp vụ, tiêu chuẩn, quy tắc nghề nghiệp phổ biến,

giáo dục pháp luật; ban hành Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật. Sở Tư pháp cần rà soát để tham mưu, kiến nghị, đề xuất

với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn

bản quy phạm pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, phổ biến,

giáo dục pháp luật cho đối tượng đặc thù; trong đó, chú trọng các chế độ,

chính sách đối với Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật huyện đội

ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, hòa giải viên ở cơ sở.

Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành nghị quyết về công tác phổ PBGDPL

cho đối tượng đặc thù trên địa bàn. Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành theo thẩm

quyền chương trình, kế hoạch, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa

bàn.

Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh, huyện chịu trách

nhiệm tư vấn cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân

tỉnh, huyện việc xây dựng chương trình, kế hoạch trung hạn, dài hạn về phổ

biến, giáo dục pháp luật. Nội dung pháp luật trọng tâm cần phổ biến, gắn với

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất

nước và địa phương, với xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy

51

phạm pháp luật, cải cách thủ tục hành chính địa phương.

3.2.2. Tăng cường trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với công

tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Thứ nhất, cần đổi mới nhận thức của một số cấp ủy, lãnh đạo địa

phương về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu của thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác này nói riêng cần

nhận được sự quan tâm, đầu tư và tham gia tích cực, chủ động của toàn xã

hội, đặc biệt là của các cấp ủy, lãnh đạo ở địa phương. Các hoạt động liên

quan công tác này cần được triển khai thực chất, có kế hoạch riêng và thước

đo sự thành công phải được thể hiện bằng ý thức chấp hành pháp luật của

nhân dân trong thực tế cuộc sống.

Thứ hai, nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung

ương đến địa phương giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng góp phần đưa chủ

trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc

sống. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính

quyền địa phương đối với phổ biến, giáo dục pháp luật là một vấn đề cần thiết

trong giai đoạn hiện nay.

Các cấp ủy đảng tỉnh Quảng Ngãi nói chung, huyện Sơn Tây nói riêng

cần có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền các cấp tổ chức thực hiện công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật với nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp

với từng đối tác khác nhau. Xây dựng kế hoạch, chương trình phổ biến, giáo

dục pháp luật thiết thực cho các cấp, các ngành, các cơ quan, các địa phương

đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ.

Thứ ba: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa

52

phương có vị trí, vai trò rất quan trọng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật, đưa pháp luật đến với mỗi người dân. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là

từng bước phải nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND trong

công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong quá

trình hoạt động của mình, cơ quan này không chỉ chú ý tới việc ban hành các

văn bản pháp quy khác nhau mà điều quan trọng là phải lãnh đạo, chỉ đạo tốt

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, xem đây

là một phần không thể thiếu được trong nghị quyết về các phương hướng bảo

đảm thi hành hiến pháp, pháp luật. Hội đồng nhân dân cũng cần làm tốt việc

giám sát đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương mình. Uỷ

ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, việc đổi mới

lãnh đạo, chỉ đạo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục

pháp luật trong những năm tới cần làm tốt những việc sau:

Uỷ ban nhân dân các cấp cần quan tâm củng cố, kiện toàn, nâng cao

hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật các

cấp. Chỉ đạo Hội đồng tăng cường đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động

phổ biến, giáo dục pháp luật. Xây dựng văn bản chỉ đạo, điều hành về hoạt

động phổ biến, giáo dục pháp luật. Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị tổ

chức triển khai thực hiện Đề án; xây dựng văn bản phối hợp hoạt động phổ

biến, giáo dục pháp luật. Hàng năm, Uỷ ban nhân dân huyện cần chủ động

xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật trước khi trình ra Hội đồng

nhân dân huyện tại kỳ họp gần nhất.

Uỷ ban nhân dân cấp cơ sở cần dựa trên cơ sở kế hoạch và sự chỉ đạo,

hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân tỉnh để xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo

dục pháp luật của cấp mình sao cho phù hợp với đặc điểm của từng địa

phương và trình ra Hội đồng nhân dân cùng cấp tại kỳ họp đầu tiên của mỗi

năm. Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp cần

53

xác định rõ nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cụ thể và

ngân sách chi cho công tác này. Uỷ ban nhân dân các cấp phải đặc biệt quan

tâm lãnh đạo, chỉ đạo cử đi đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ

cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương

mình đồng thời có chế độ thỏa đáng đối với đội ngũ này để họ yên tâm công

tác, hoàn thành nhiệm vụ của một người làm công tác tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật. Định kỳ 6 tháng hoặc một năm, Uỷ ban nhân dân các cấp

nhất là Uỷ ban nhân dân phường cần kiểm tra, tổng kết đánh giá rút kinh

nghiệm và khen thưởng kịp thời những cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc

trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương. Tạo điều kiện cho

tổ chức chính trị- xã hội ở cơ sở nâng cao năng lực, chất lượng cán bộ để

tham gia hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đối với hội viên, đoàn viên ..

thuộc tổ chức mình.

Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với các cơ quan có liên quan tham mưu

giúp Ủy ban nhân dân tỉnh và Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật ban hành các văn bản để chỉ đạo triển khai hoạt động phổ biến, giáo

dục pháp luật trên địa bàn toàn tỉnh. Phòng Tư pháp chủ trì phối hợp với các

cơ quan chuyên môn, đoàn thể cấp huyện phối hợp triển khai thực hiện theo

phân công, phân cấp.

Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo của hệ thống tổ chức chính trị -

xã hội đặc biệt là phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc, Đoàn Thanh niên

cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ .. trong công tác chỉ đạo hoạt

động phổ biến, giáo dục pháp luật, đưa giáo dục pháp luật vào nội dung sinh

hoạt của các cấp Đoàn, Hội, cụ thể hóa trong các phong trào do tổ chức mình

chủ trì tổ chức.

3.2.3. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng và hướng dẫn việc thực hiện

công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật.

54

Thứ nhất, Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật huyện thực

hiện công tác tập huấn, hướng dẫn các địa bàn thực hiện nhiệm vụ trọng tâm

về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật như: đổi mới một cách cơ bản, toàn

diện nội dung và hình thức TTPBPL, chú trọng vào chiều sâu, thực chất, hiệu

quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn xây dựng lực lượng báo

cáo viên và tuyên truyền viên pháp luật; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng

mắc, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật tại Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ hai, Uỷ ban nhân dân, Phòng Tư pháp, Hội đồng phối hợp phổ

biến giáo dục, cán bộ Tư pháp thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các nhiệm vụ

trọng tâm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian tới và báo cáo

kết quả thực hiện về Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật huyện cụ

thể: Kết hợp phổ biến pháp luật với giáo dục ý thức chấp hành pháp luật; Đổi

mới, đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với đặc

điểm, nhu cầu từng nhóm đối tượng; Tăng cường hoạt động phổ biến, giáo

dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng; thường xuyên cập

nhật, đăng tin, bài có nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật trên các Báo, Đài,

trang thông tin điện tử, hệ thống phát thanh của cơ quan, đơn vị, địa phương.

Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động của các loại

hình câu lạc bộ pháp luật. Uỷ ban nhân dân các cấp phải thường xuyên chỉ

đạo các ngành, đoàn thể lồng ghép nội dung pháp luật vào sinh hoạt các loại

hình câu lạc bộ khác, thường xuyên đổi mới nội dung sinh hoạt pháp luật theo

chuyên đề, trao đổi, giải đáp những tình huống pháp luật từ thực tế. Đôn đốc,

các cấp, các ngành tổ chức các hoạt động thiết thực tạo điểm nhấn truyền

thông nhân dịp „Ngày pháp luật“, phổ biến sâu rộng các văn bản quy phạm

pháp luật, đặc biệt là các lĩnh vực có liên quan đến các vấn đề nổi cộm, được

nhân dân quan tâm Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật phải phát

55

huy vai trò trách nhiệm từng thành viên trong Hội đồng, làm cho hoạt động

của Hội đồng trở nên chủ động, tích cực, theo sát yêu cầu, đòi hỏi của công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật chứ không còn là hình thức.

Hàng năm, các cấp nghiên cứu bố trí nguồn kinh phí để tổ chức các

hoạt động TTPBPL hiệu quả. Việc bố trí ngân sách dựa trên số lượng văn bản

mới ban hành, lồng ghép các hoạt động chuyên môn để thực hiện công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật; thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực làm công tác TTPBPL trên địa bàn.

Thứ ba, Hội đồng nhân dân các xã căn cứ theo thẩm quyền quyết định

các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác TTPBPL; phân bổ dự toán

ngân sách địa phương cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Uỷ ban nhân

dân các xã bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức phổ biến, giáo

dục pháp luật đối với cán bộ, công chức mà đơn vị mình trực tiếp quản lý; xây

dựng, tập huấn, định kỳ mời báo cáo viên tham gia tuyên truyền, phổ biến

pháp luật cho cán bộ, công chức trong Uỷ ban.

3.2.4. Từng bước đa dạng hóa, đổi mới hình thức, phương pháp, nội

dung TTPBPL.

Xây dựng, lựa chọn nội dung TTPBPL tốt sẽ góp phần nâng cao hiệu

quả của công tác giáo dục pháp luật. Bởi lẽ, nội dung giáo dục pháp luật

không chỉ đóng vai trò quy định đối với nhận thức, ý thức pháp luật mà còn

chi phối đến công tác tổ chức, hoạt động giảng dạy pháp luật, hình thức, biện

pháp giáo dục pháp luật. Nhưng, mặt khác, với tư cách là kết quả của quá

trình nhận thức, nghiên cứu phương pháp chuyển tải nội dung luật thực định

vào giảng dạy trong nhà trường, kết quả của sự đúc rút kinh nghiệm tiến hành

giáo dục pháp luật, khái quát thực trạng hiểu biết pháp luật, hành vi pháp luật,

nên nội dung giáo dục pháp luật, ở mức độ tổng thể, phải được xây dựng sao

cho mục đích của giáo dục pháp luật trở thành hiện thực. Nói như vậy để thấy

56

rằng việc đổi mới, hoàn thiện nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật là một

quá trình liên tục, một công việc to lớn, đòi hỏi sự đầu tư về trí tuệ không chỉ

của những nhà tổ chức, nghiên cứu mà cả những người trực tiếp làm công tác

TTPBPL.

Để đổi mới nội dung phổ biến giáo dục, pháp luật cần tổ chức phổ biến,

giáo dục pháp luật theo từng nhóm đối tượng. Công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật đối với cần tập trung vào đối tượng có nguy cơ vi phạm pháp luật

cao. Đối tượng có nguy cơ vi phạm pháp luật cao thường là đối tượng sống

trong gia đình, khu vực đặc biệt như: thanh niên không có trình độ văn hóa

(do bỏ học sớm); gia đình có bố mẹ ly hôn, bố mẹ phạm tội, hoặc bố mẹ là

những “con buôn”, chủ lô đề, cờ bạc; thanh niên không có việc làm...đây là

những đối tượng rất dễ vi phạm pháp luật do bị tác động bởi hoàn cảnh.

Các cơ quan chuyên môn, UBND cấp xã căn cứ chức năng nhiệm vụ

được giao tổ chức triển khai các hoạt động TTPBPL theo các nhóm đối tượng.

Các đối tượng khác nhau thì nhu cầu tìm hiểu, quan tâm cũng khác nhau, do

vậy TTPBPL cũng phải lựa chọn nội dung phù hợp, đặc biệt là nội dung phải

đang có hiệu lực thi hành, tránh các nội dung lạc hậu, cũ kỹ.

Tổ chức triển khai tài liệu nghiệp vụ, hướng dẫn kỹ năng phổ biến, giáo

dục pháp luật; cung cấp tài liệu pháp luật phổ thông cấp cho Tủ sách pháp

luật, các Câu lạc bộ pháp luật. Sở Tư pháp phối hợp với các Sở, Ban, ngành

có liên quan biên soạn cung cấp và phát hành các tài liệu pháp luật với hình

thức phù hợp, nội dung dễ hiểu, gần gũi với việc học tập, công việc của từng

nhóm đối tượng trên địa bàn để cấp huyện, xã có tài liệu phục vụ hoạt động

chuyên môn.

Việc đưa ra các vụ việc, cách ứng xử khi các các vụ việc và hậu quả

pháp lý khi giải quyết các vụ việc không dựa trên căn cứ pháp luật.. để nội

dung bài giảng sinh động, sát thực tiễn và thu hút sự chú ý, quan tâm, tìm hiểu

57

của học sinh, sinh viên. Việc lựa chọn, áp dụng hình thức giáo dục pháp luật

phải dựa trên cơ sở phù hợp với nội dung và điều kiện sinh hoạt của địa bàn

dân cư, tâm lý, lứa tuổi, nghề nghiệp... Các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật cần được triển khai thường xuyên, thực chất, có kế hoạch, có mục đích,

phải xác định kết quả đầu ra rõ ràng.

Đa dạng hoá các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, chú trọng sử

dụng các phương tiện thông tin đại chúng, mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn

kiến thức và nghiệp vụ, biên soạn tài liệu pháp luật, thi tìm hiểu pháp luật,

thông qua Câu lạc bộ pháp luật, tý vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, xét xử lưu

động; biên soạn các tài liệu pháp luật phổ thông ngắn gọn, dễ hiểu, phát động

phong trào đọc sách pháp luật; gắn với quyền, nghĩa vụ, học tập, công việc và

địa bàn cư trú; xây dựng Tủ sách pháp luật, ngăn sách pháp luật; các chuyên

trang, chuyên mục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng dành

cho các đối tượng khác nhau để thu hút sự quan tâm; ký cam kết không vi

phạm pháp luật.

Tạo đợt truyền thông cao điểm và điểm nhấn là tổ chức “Ngày pháp

luật” thật tốt; đây được xem là một kênh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật khá hiệu quả. Tạo sự thu hút của đông đảo quần chúng nhân dân

nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật,

nâng cao và phát huy ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ,

công chức, viên chức và nhân dân trong thực hành “Sống và làm việc theo

Hiến pháp và pháp luật”, nâng cao ý thức bảo vệ pháp luật, góp phần tạo

chuyển biến mới về chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng

cao hiệu quả thực thi pháp luật trong tình hình mới. Việc tổ chức “Ngày pháp

luật” phải bám sát chủ đề từng năm, ví dụ trên cơ sở chủ đề Ngày Pháp luật

năm 2018: “Nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, thực thi, bảo vệ pháp

luật, ý thức tuân thủ pháp luật, góp phần xây dựng nhà nước liêm chính,

58

hành động, kỷ cương, sáng tạo, hiệu quả; xã hội dân chủ, công bằng, văn

minh; các địa phương có thể nghiên cứu, lựa chọn những khẩu hiệu phù hợp

với điều kiện đặc thù của cơ quan, đơn vị, địa phương mình đồng thời bám sát

nội dung chủ đề Ngày Pháp luật năm 2018, sau: Sống và làm việc theo Hiến

pháp và pháp luật; Tích cực hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng, thi hành và bảo

vệ pháp luật; Tích cực tìm hiểu pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật

là trách nhiệm của mọi công dân; Thượng tôn pháp luật góp phần xây dựng

nhà nước liêm chính, hành động, kỷ cương, sáng tạo, hiệu quả; Cán bộ, công

chức, viên chức nêu cao tinh thần gương mẫu, chủ động học tập, tìm hiểu,

tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật; Hiểu biết và chấp hành pháp luật

là bảo vệ chính mình và cộng đồng, vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn

minh….

Tổ chức các hội nghị tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ, trao đổi kinh

nghiệm và nội dung các văn bản pháp luật cho báo cáo viên, tuyên truyền viên

pháp luật và cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong quá

trình tập huấn, cần lựa chọn các hình thức, nội dung phù hợp với từng đối

tượng, địa bàn, huy động và sử dụng lực lượng thanh niên tình nguyện trong

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Để nâng cao hiệu quả công tác TTPBPL, ngoài việc đổi mới nội dung

và hình thức, còn phải đổi mới cách thức tiến hành công tác phổ biến giáo dục

pháp luật, trong đó cần chú ý đến việc xã hội hoá công tác phổ biến giáo dục

pháp luật, kết hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với tổ chức thực hiện

pháp luật, kết hợp giáo dục pháp luật với các loại hình giáo dục khác. Trước

hết là đẩy mạnh “xã hội hoá” công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: phải tạo

ra cộng đồng trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội

nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị dân cư, gia đình và của mọi công dân đối

59

với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (xã hội hóa về chủ thể), nội dung và

hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phải bắt nguồn từ nhu cầu, lợi ích và

đặc điểm của từng đối tượng, từng vùng và của toàn xã hội trong từng giai

đoạn nhất định (xã hội hóa về mặt nội dung và hình thức).

Từ tình hình chung của cả nước, từng địa phương, từng đối tượng, từng

giai đoạn khác nhau mà nghiên cứu, khảo sát, chọn lọc những nội dung, huy

động các hình thức đa dạng, phong phú, thích hợp và có tính khả thi. Nội

dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật có phù hợp và xuất phát từ nhu

cầu, lợi ích mới kích thích động cơ bên trong của mọi người khi tiếp nhận

thông tin về pháp luật và tích cực tham gia hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật.

Đẩy mạnh xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong đó,

phải tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền và vai trò tham

mưu của ngành Tư pháp thông qua việc thành lập Hội đồng phối hợp tiến

hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh, huyện, xã

Thực hiện hiện sự "lồng ghép" phổ biến, giáo dục pháp luật với các

chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội đang triển khai trên địa bàn như: xây

dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, xây dựng xã, phường văn hoá, gia đình văn

hoá; chương trình phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; chương trình dân

số - kế hoạch hoá gia đình... Tuỳ theo tính chất của từng chương trình, phong

trào để đưa vào nội dung giáo dục pháp luật phù hợp. Như vậy, trong quá

trình phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải tính toán sự tác động đan xen nhau

giữa các loại hình giáo dục khác nhau. Tính toán sự tác động tổ hợp này khi

lập kế hoạch, khi tổ chức thực hiện chắc chắn sẽ có các biện pháp phối hợp

hữu hiệu nhằm đạt mục đích cuối cùng là hình thành hành vi hợp pháp.

3.2.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật.

60

Từng bước và cấp thiết phải nâng cao hơn nữa trình độ, năng lực và

phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật.

Cán bộ phổ biến, giáo dục pháp luật là chủ thể của mọi hoạt động, do

đó, nếu không xây dựng được một đội ngũ cán bộ am hiểu sâu sắc về chuyên

môn, tinh thông về nghiệp vụ, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giàu nhiệt tình

cách mạng thì khó mang lại hiệu quả mong muốn cho công tác này trong thời

kỳ đất nước đổi mới. Công việc này phải đáp ứng hai yêu cầu cơ bản: có đủ

lực lượng cán bộ làm công tác giảng dạy pháp luật với các phương thức khác

nhau và lực lượng này phải được đào tạo, tái đào tạo bài bản để có một trình

độ, kiến thức chính trị, xã hội, pháp luật cần thiết cũng như có kỹ năng sư

phạm, phương pháp giáo dục pháp luật hiệu quả nhất. Cho nên, việc nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ công chức là yêu cầu cấp thiết. Cơ quan nội vụ, cơ

quan chuyên môn định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng

lực, nghiệp vụ cho giáo viên dạy các môn có liên quan đến pháp luật, cho báo

cáo viên pháp luật các cấp, tuyên truyền viên pháp luật trên địa bàn tham gia

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở.

Các đoàn thể, Ủy ban nhân dân xã, thị trấn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng

chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật,

giáo viên dạy các môn có liên quan đến pháp luật và cán bộ Đoàn, Đội, Hội…

tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật Hội viên, Đội viên, Hội viên … thuộc

thẩm quyền quản lý. Hàng năm Phòng Tư pháp (cơ quan thường trực của Hội

đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật) cần phối hợp với các cơ

quan chuyên môn và các địa phương trong huyện tổ chức các cuộc thi báo cáo

viên, tuyên truyền viên pháp luật giỏi về một nội dung pháp luật cụ thể như

Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia đình, Luật lao động, Luật khiếu nại tố

cáo… nhằm nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ này. Có thể thấy ý thức

61

chấp hành pháp luật của người dân nói chung hiện nay còn thấp, mức độ hiểu

biết và tự giác chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ chức chưa cao. Ðiều đáng

nói là không chỉ người dân bình thường vì trình độ hiểu biết pháp luật kém

dẫn đến ý thức tuân thủ pháp luật không cao mà ngay cả những người dân có

trình độ học vấn cao nhưng ý thức tuân thủ pháp luật cũng không cao. Vấn đề

đặt ra là phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao ý thức tôn trọng và tuân

thủ luật pháp.

Ðiều dễ nhận thấy ở xã hội ta là người dân luôn nhìn vào thái độ ứng

xử của đội ngũ cán bộ để làm căn cứ cho thái độ ứng xử của mình trong

những hoàn cảnh tương tự. Trong việc tôn trọng và tuân thủ luật pháp cũng

vậy. Do đó, chính mỗi cán bộ, công chức phải là một tấm gương trọng tuân

thủ thi hành pháp luật.

3.3.6. Quan tâm đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất và điều kiện bảo đảm

việc tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

Công tác TTPBPL nói chung là một loại hình hoạt động vì lợi ích lâu

dài, kết quả cuối cùng của nó không thể đo đếm trực tiếp, tức thời sau khi tiến

hành các hoạt động giáo dục. Trong những năm qua, nguồn kinh phí cho hoạt

động TTPBPL chủ yếu từ NSNN do HĐND tỉnh xem xét quyết định hoặc một

phần kinh phí từ các chương trình dự án do Bộ Tư pháp, các bộ chuyên ngành

phân bổ. Hiện nay, kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc dành cho

đội ngũ thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhìn chung còn rất

hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Đối với hoạt động phổ biến, giáo dục

pháp luật và cơ sở sự đầu tư kinh phí cho hoạt động này chưa đáp ứng yêu

cầu, chưa có sự quan tâm thỏa đáng đối với đội ngũ làm công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật; việc đầu tư cho tủ sách pháp luật còn hạn chế, các đầu

sách còn thiếu chưa đáp ứng được nhu cầu tìm đọc của nhân dân. Số lượng tài

liệu, sách báo, tờ rơi phục vụ cho công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật

62

vẫn còn ít, hệ thống loa đài ở nhiều cơ sở còn chưa đảm bảo về chất lượng. Vì

vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong thời gian qua vẫn còn gặp

nhiều khó khăn dẫn đến hiệu quả, chất lượng chưa được như mong muốn.

Đồng thời, để đảm bảo hiệu quả của hoạt động tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác

này thì cần cung cấp đủ kinh phí theo quy định tại Thông tư liên tịch số

14/2014/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và

quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác PBGDPL và

chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở. Cần phải đảm bảo các

phương tiện làm việc tối thiểu cho các cơ quan và cán bộ làm công tác giáo

dục pháp luật, quan tâm kiện toàn và luôn bổ sung những đầu sách cần thiết

cho tủ sách pháp luật ở cơ sở để có thể khai thác, sử dung một cách có hiệu

quả thiết thực, đảm bảo chế độ thù lao, cung cấp các tài liệu, sách báo, đề

cương đầy đủ cho đội ngũ làm công tác PBGDPL.

Song song với các biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật còn cần các

biện pháp hỗ trợ hiệu quả như hướng nghiệp, dạy nghề, giải quyết việc làm,

từng bước thoát nghèo.. Có như vậy, người dân mới không để tình trạng

“nhàn cư vi bất thiện”.

63

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện phổ biến

giáo dục pháp luật, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện

công tác phổ biến giáo dục pháp luật như sau: (1)Xây dựng, ban hành văn bản

quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về phổ biến, giáo dục pháp luật;

(2) tăng cường trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật; (3) chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật (4) đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp phổ

biến, giáo dục pháp luật; (5) củng cố, phát triển, nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; (6) tăng cường đầu tư

kinh phí, cơ sở vật chất và điều kiện bảo đảm triển khai công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật.

64

KẾT LUẬN

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vấn đề tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò, vị trí và ý nghĩa quan trọng. Pháp luật

là công cụ chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội, là phương tiện cho mỗi người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, phổ biến, giáo dục pháp

luật là công việc quan trọng hơn cả trong quy trình tổ chức thực hiện pháp

luật, là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống. Mục tiêu của công tác này là làm

cho mỗi cá nhân nói riêng, cộng đồng xã hội nói chung không chỉ nắm vững

pháp luật mà phải hiểu và làm theo pháp luật.

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm làm cho mọi tầng lớp nhân

dân hiểu rõ, đúng tinh thần pháp luật và nội dung pháp luật là một trách

nhiệm hết sức quan trọng của Đảng và nhà nước ta. Phổ biến, giáo dục pháp

luật đối là công tác mang tính cần thiết khách quan nhằm hình thành ý thức

sống và làm việc theo pháp luật.

Trong phạm vi luận văn, những kết quả nghiên cứu mà đề tài triển khai

như sau: Dưới góc độ lý luận, chương 1 của luận văn đã giải quyết những nội

dung sau: đưa ra khái niệm: Luận văn đã làm rõ khái niệm, yêu cầu, các yếu

tố ảnh hưởng tới việc thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật. Luận văn phân tích các bước của chu trình thực hiện chính sách

công mà cụ thể là thực hiện chính sách TTPNPL từ bước: lập kế hoạch, tuyên

truyền, phân công, đôn đốc, tổ chức thực hiện... tại huyện Sơn Tây.

Trên cơ sở khái quát tình hình kinh tế - xã hội của huyện Sơn Tây, tỉnh

Quảng Ngãi, chương 2 luận văn đã đánh giá thực trạng thực hiện chính sách

tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Trên cơ sở đó chỉ ra những ưu điểm cũng

như những hạn chế về tổ chức thực hiện chính sách và đội ngũ nhân sự làm

65

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, về nội dung, hình thức, phương pháp

phổ biến, giáo dục pháp luật và nguyên nhân của hạn chế.

Chương 3 luận văn đã xác định các quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả

thực hiện chính sách, Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra các giải pháp để nâng

cao hiệu quả thực hiện chính sách TTPBPL.

Với những kết quả nghiên cứu trên sẽ đóng góp một phần vào khoa học

lý luận cũng như hoạt động thực tiễn thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ

biến pháp luật tại huyện Sơn Tây nói riêng và tỉnh Quảng Ngãi, địa phương

khác nói chung.

66

1. Ban Bí thư (2003) Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 về tăng cường sự

TÀI LIỆU THAM KHẢO

lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý

2. Ban chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân

24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà

3. Bộ Tư pháp (2002), Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp

Nội.

4. Đại từ điển Tiếng Việt (1998), Nxb Văn hoá thể thao.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

luật, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Nghị quyết Hội nghị Ban

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

chấp hành Trung ương IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đỗ Phú Hải (2012), Những vấn đề cơ bản về chính sách công.

10. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ,

hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Báo cáo về kết

Đặc sản tuyên truyền pháp luật số 8/2012;

quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2014, tỉnh Quảng Ngãi.

12. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Báo cáo về kết

13. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Báo cáo về kết

quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2015, tỉnh Quảng Ngãi.

14. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Báo cáo về kết

quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2016, tỉnh Quảng Ngãi.

15. Kế hoạch số 5344/KH-UBND ngày 26/9/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh

quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2017, tỉnh Quảng Ngãi.

về triển khai thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

16. Kế hoạch số 5753/KH-UBND ngày 19/9/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh

giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020;

17. Kế hoạch số 7656/KH-UBND ngày 11/12/2017 của UBND tỉnh thực hiện

về triển khai thực hiện Chương trình PBGDPL giai đoạn 2017-2021;

Đề án “Xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp

18. Kế hoạch số 02/KH-UBND ngày 14/01/2019 của UBND tỉnh Quảng

lý giai đoạn 2017-2021” trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;

Ngãi về triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), hòa

giải ở cơ sở và xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trên địa bàn

19. Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, chuẩn tiếp cận

tỉnh Quảng Ngãi năm 2019;

20. Lê Chi Mai (2001), Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính

pháp luật và hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;

21. Luật Phố biến giáo dục pháp luật;

22. Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng đã nghiên cứu “Một số vấn đề về

sách, NXB Đại học Quốc gia TP. HCM.

23. Luận án tiến sĩ của Dương Thanh Mai (1996), Công tác tuyên truyền giáo

giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay (1997)”.

dục pháp luật ở nước ta;

24. Nguyễn Quốc Sửu, (2010), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức

hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

25. Nguyễn Thị Thu Ba (2012), “Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục

nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật

pháp luật cho công nhân tại các doanh nghiệp ở Thành phố Đồng Tháp

26. Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), ”Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội

giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học.

ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội”,

27. Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán,

Luận văn thạc sỹ Luật học.

quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho

28. Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật;

29. Trần Ngọc Đường (1998), Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường

luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Trần Thị Bích Hạnh (2016), Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên ở

pháp chế xã hội chủ nghĩa, Luận án Phó tiến sĩ luật, Matcơva.

đô thị - từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và

31. Tống Đức Thảo, Giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức và nghĩa

Luật Hành chính.

32. Vũ Cao Đàm (2011) Giáo trình khoa học chính sách. H.: NXB Đại học

vụ tuân thủ pháp luật, tạp chí Lý luận chính trị, số 10/2006;

quốc gia Hà Nội.