ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

………………………………………….

LÊ HUY ĐỨC

CỘNG ĐỒNG NGƢỜI HOA Ở THÀNH PHỐ

HẢI PHÕNG (1888-1980)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

………………………………………….

LÊ HUY ĐỨC

CỘNG ĐỒNG NGƢỜI HOA Ở THÀNH PHỐ

HẢI PHÕNG (1888-1980)

Chuyên ngành Lịch sử văn hóa Việt Nam

Mã số: 8229040.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương

Hà Nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:

Luận văn này là sản phẩm nghiên cứu của tôi. Các ý kiến tham khảo, trích dẫn của các tác giả khác đều được dẫn nguồn đầy đủ. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về nghiên cứu của mình

Tác giả

Lê Huy Đức

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình, những lời động viên khích lệ của các thầy cô, gia đình và bạn bè. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thày cô giáo trong Khoa Lịch sử cũng như Bộ môn Văn hóa học và Lịch sử Văn hóa Việt Nam- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập tại Khoa cũng như khi nghiên cứu đề tài.

Tôi xin gửi lời tri ân tới TS. Nguyễn Thị Hoài Phương, người đã khơi mở ý tưởng về đề tài cũng như tạo điều kiện cho tôi về tư liệu, định hướng cách tiếp cận và nghiên cứu vấn đề trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.

Tôi xin trân thành cảm ơn sự giúp đỡ của lãnh đạo và cán bộ Trung tâm Lưu trữ thành phố Hải Phòng, Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hải Phòng, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch thành phố Hải Phòng, Sở Xây dựng Thành phố Hải Phòng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hải Phòng, Cục Thống Kê Thành phố Hải Phòng, Ban Dân vận Thành ủy Hải Phòng, Bảo tàng thành phố Hải Phòng đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi khi tiếp cận và khai thác các nguồn tư liệu tại địa phương.

Tôi xin cảm ơn Đảng ủy, Ủy ban nhân dân các phường Phạm Hồng Thái, phường Phan Bội Châu, phường Hoàng Văn Thụ đã giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát tại đại bàn nghiên cứu. Đồng thời, tôi xin cảm ơn tất cả ông/bà đã giúp đỡ và tham gia phỏng vấn tại Hải Phòng, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều nơi khác để tôi có được những nguồn tư liệu quý giá phục vụ cho luân văn này.

Chân thành cảm ơn!

Tác giả

Lê Huy Đức

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài. ............................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ................................................................................ 2

3. Mục đích nghiên cứu. ......................................................................................... 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ..................................................................... 8

5. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu. ................................................................. 8

6. Đóng góp của luận văn. .................................................................................... 11

7. Cấu trúc của luận văn. ...................................................................................... 11

CHƢƠNG 1: CỘNG ĐỒNG NGƢỜI HOA Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG, LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI ............................... 12

1.1. Cơ sở lý thuyết ............................................................................................. 12

1.1.1. Khái niệm “người Hoa” ............................................................................ 12

1.1.2. Một số vấn đề về lý thuyết di cư. ................................................................ 15

1.1.3. Nguyên nhân quá trình di dân của cộng đồng người Hoa vào Việt Nam. . 18

1.1.4. Chính sách của các chính quyền đối với người Hoa di cư vào Việt Nam. 21

1.2. Tổng quan quá trình hình thành và phát triển thành phố Hải Phòng .. 32

1.2.1. Điều kiện tự nhiên của thành phố Hải Phòng ............................................ 32

1.2.2. Tổng quan quá trình hình thành và phát triển đô thị Hải Phòng .............. 33

1.2.3. Đặc điểm kinh tế, dân cư, văn hóa – xã hội. .............................................. 40

1.3 Lịch sử hình thành và quá trình biến đổi của cộng đồng ngƣời Hoa tại thành phố Hải Phòng. ........................................................................................ 42

1.3.1. Lịch sử hình thành ...................................................................................... 42

1.3.2. Dân số, các nhóm dân cư. .......................................................................... 44

1.3.3. Tổ chức hành chính, thiết chế xã hội ......................................................... 45

Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................... 46

CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA NGƢỜI HOA TẠI HẢI PHÕNG 48

2.1. Thể chế tổ chức kinh tế của cộng đồng ngƣời Hoa tại Hải Phòng .......... 48

2.2. Hoạt động thƣơng mại – dịch vụ ............................................................... 49

2.3. Kinh tế thủ công nghiệp – công nghiệp. ................................................... 64

2.4. Tác động của hoạt động kinh tế Hoa kiều vào nền kinh tế chung của thành phố Hải Phòng. ........................................................................................ 68

Tiểu kết chƣơng 2. .............................................................................................. 70

CHƢƠNG 3: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA – XÃ HỘI CỦA CỘNG ĐỒNG NGƢỜI HOA TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG ............................................ 72

3.1. Văn hóa vật chất. ......................................................................................... 72

3.1.1. Kiến trúc đô thị. .......................................................................................... 72

3.1.2. Nhà ở. ......................................................................................................... 74

3.1.3. Cơ sở tín ngưỡng tôn giáo. ........................................................................ 76

3.1.4. Cơ sở sinh hoạt cộng đồng. ........................................................................ 80

3.1.5. Trang phục. ................................................................................................ 81

3.1.6. Ẩm thực. ..................................................................................................... 82

3.1.7. Phương tiện đi lại. ...................................................................................... 88

3.2. Văn hóa tinh thần ........................................................................................ 89

3.2.1. Tôn giáo, tín ngưỡng .................................................................................. 89

3.2.2. Các phong tục, nghi lễ truyền thống. ......................................................... 95

3.2.3. Văn hóa nghệ thuật. ................................................................................. 105

3.2.4. Giáo dục ................................................................................................... 108

3.3. Đời sống và mối quan hệ xã hội. .............................................................. 110

3.3.1. Quan hệ hôn nhân, gia đình và dòng họ. ................................................. 110

3.3.3. Các quan hệ xã hội trong và ngoài cộng đồng người Hoa. ..................... 114

Tiểu kết chƣơng 3. ............................................................................................. 117

CHƢƠNG 4: NHỮNG BIẾN ĐỘNG VÀ QUÁ TRÌNH HỒI HƢƠNG CỦA CỘNG ĐỒNG NGƢỜI HOA CUỐI THẾ KỶ XX ....................................... 119

4.1. Những biến cố lịch sử và nguyên nhân.................................................... 119

4.2. Quá trình hồi hƣơng. ................................................................................ 123

4.3. Sự tác động của cuộc hồi cƣ tới hoạt động kinh tế, đời sống xã hội tại thành phố Hải Phòng. ...................................................................................... 134

4.4. Mối quan hệ giữa cộng đồng ngƣời Việt gốc Hoa ở Hải Phòng với ngƣời thân, gia tộc, họ hàng ở nƣớc ngoài. ............................................................... 137

Tiểu kết chƣơng 4. ............................................................................................ 142

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 145

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 149

PHỤ LỤC .......................................................................................................... 156

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài. Việt Nam là một quốc gia đa tộc người với một nền văn hóa đa dạng, phong phú và giàu bản sắc. Trải qua quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời, cộng đồng các tộc người sinh sống ở Việt Nam đã xây dựng lên những giá trị văn hóa tốt đẹp, góp phần tạo sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam. Trong nhiều năm qua đã có rất nhiều công trình khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề cộng đồng các tộc. Hướng nghiên cứu di dân, dịch chuyển, hồi cư của cộng đồng các tộc người luôn được quan tâm và tập trung nguồn lực cho các công trình nghiên cứu. Trong số đó, những nghiên cứu về cộng đồng người Hoa cũng không phải là số lượng nhỏ. Tuy nhiên các công trình khoa học hầu hết tập trung chủ yếu nghiên cứu về cộng đồng người Hoa ở khu vực miền Trung và Nam Bộ, mà ở Bắc Bộ lại ít được quan tâm hơn.

Hải Phòng là một đô thị cảng biển trẻ, ra đời vào cuối thế kỷ XIX với vai trò là khu vực nhượng địa của người Pháp. Không bắt đầu từ một lũy trị sở của chính quyền phong kiến, Hải Phòng gắn liền với quá trình tạo lập và phát triển của một vùng cửa sông ven biển, với một quân cảng kiêm thương cảng lớn nhất xứ Bắc Kỳ. Từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, chỉ trong vòng nửa thế kỷ, Hải Phòng đã vươn mình trở thành một trong ba trung tâm kinh tế lớn nhất của miền Bắc. diện mạo đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đô thị Hải Phòng đã thay đổi hoàn toàn. Ngoài chính quyền người Pháp và những cư dân bản địa, không thể không nhắc đến những công sức đóng góp của cộng đồng người Hoa cư trú tại nơi đây trong việc xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng.

Trước năm 1979, cộng đồng người Hoa sinh sống tại Hải Phòng có trên 10 nghìn người [28, 105], tuy nhiên do những biến cố lịch sử, đặc biệt là dưới sự ảnh hưởng của quan hệ hai nước Việt – Trung từ những năm 70 của thế kỷ XX, hiện nay những người gốc Hoa chỉ còn hơn 2000 người[43]. Cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng đã để lại những dấu ấn mạnh trong mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố mà hiện nay vẫn còn hiện hữu. Tuy nhiên, có thể nói hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ, cụ thể và chi tiết về cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng nói riêng và ở Bắc Bộ nói chung. Với quan điểm văn hóa là nền tảng vật chất và tinh thần của xã hội, là mục tiêu và độc lực của sự phát triển, vì thế nghiên cứu về văn hóa của cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng để thấy được vai trò của những Hoa kiều trong sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố trong từng giai đoạn cũng như sự tác động của các yếu tố bản địa đến đặc điểm văn hóa của cộng đồng người Hoa. Đó

1

là những lý do khiến tôi chọn đề tài “Cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng (1888-1980)” làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 2.1. Các công trình nghiên cứu về người Hoa ở Việt Nam. Có rất nhiều tư liệu, công trình nghiên cứu về người Hoa ở Việt Nam nói chung. Ngay từ thời phong kiến đã xuất hiện các tư liệu. Các sách “Đại Nam thực lục”, “Gia định thành thông chí”, “Khâm Định Việt Sử thông giám cương mục”… đều đề cập đến sự có mặt của người Hoa ở Việt Nam. Không chỉ trên phương diện chính trị, quan hệ bang giao giữa hai quốc gia, các nhà viết sử các vương triều phong kiến cũng đã đề cập tới đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Hoa khi sinh sống tại Việt Nam.

Trong nhiều năm qua đã có nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu về cộng đồng người Hoa sinh sống tại Việt Nam cũng như đề tài về quá trình di dân, di cư. Năm 1924, lần đầu tiên ở Việt Nam một công trình nghiên cứu mang tính chất chính luận của Đào Trinh Nhất về cộng đồng người Hoa: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ. Trong khi mô tả quá trình di cư của người Hoa vào Nam Kỳ, Đào Trinh Nhất có quan tâm đến các yếu tố hình thành các nhóm cộng đồng của họ, nhưng chủ yếu đề cao vai trò của người Hoa trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế hành hóa ở miền Nam Việt Nam.

Trong những năm 40 của thế kỷ XX, trên các tập san của trường Viễn Đông Bác Cổ và Đô Thành Hiếu Cổ xuất hiện một số các bài viết của các học giả trong đó có cố giáo sư Đào Duy Anh, đáng chú ý nhất là bài nghiên cứu “Phố Lở, người Trung Quốc ở Huế trước thời kỳ thuộc địa”, đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam đi sâu mô tả cấu trúc và các giai đoạn phát triển của cộng đồng người Hoa nói chung.

Từ những năm 60 của thế kỷ XX, vấn đề người Hoa ở Việt Nam được các nhà nghiên cứu trong nước quan tâm đến nhiều hơn. Trên các tạp chí chuyên ngành cũng như trong các cuộc hội thảo được tổ chức tại Hà Nội năm 1985 và 1989, nhiều ý kiến khoa học bàn về vấn đề người Hoa ở Việt Nam được đưa ra thảo luận sôi nổi. Đã có một số công trình tổng hợp của một số học giả đã giúp chúng ta hiểu khá đầy đủ về người Hoa như công trình nghiên cứu Người Hoa tại Việt Nam (Nguyễn Văn Huy, 1993). Nội dung của công trình nghiên cứu này nhấn mạnh đến khía cạnh có tính chính trị và ảnh hưởng của những thành quả kinh tế mà cộng đồng người Hoa phát triển trong đời sống xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó, các sinh hoạt khác như văn hóa, xã hội cũng được đề cập đến. Với công trình nghiên cứu này, tác giả đã nghiên cứu một phần sinh hoạt của cộng đồng người Hoa như chuyên đề về lịch sử, văn hóa, kinh tế. Qua đó tác giả cũng khẳng định đây không phải là một tài liệu nghiên cứu về xã hội học, chủng tộc học hay sắc tộc học mà là đóng góp để khám phá và hiểu rõ thêm những đặc tính về một cộng đồng. Cũng trong tác phẩm này, tuy không có một chương riêng

2

cho cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng, nhưng tác giả đã cung cấp những thông tin có giá trị về nguồn gốc hình thành, vai trò, vị trí của người Hoa ở thành phố này; đồng thời cung cấp các tư liệu, số liệu về dân số, đời sống dân cư, ngành nghề, những hoạt động trước và sau cuộc di cư những năm 70 – 80 của thế kỷ XX…, đặc biệt tại phần 2 Qua các thời đại…, các mục II Thực dân Pháp đến Việt Nam, mục III Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1954-1975), mục V Dưới chế độ cộng sản (sau 1975).

Luận án tiến sĩ Tìm hiểu sự hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trong bối cảnh lịch sử Đông Nam Á (1989) của tác giả Châu Thị Hải đã nghiên cứu các vấn đề của quá trình di dân, định cư của người Minh Hương và các lớp cư dân Hoa kiều. Luận án đã góp phần xác định một số khái niệm và thuật ngữ trong hệ thống đề tài nghiên cứu, phân loại các hình thức di cư của cộng đồng người Hoa, các loại hình liên kết cũng như tính chất và đặc điểm của các loại hình liên kết đó. Góp phần đánh giá đúng vai trò và vị trí kinh tế, xã hội của người Hoa ở Việt Nam nói riêng và trong mối quan hệ quốc tế của khu vực Đông Nam Á cuối thế kỷ XX. Thông qua công trình nghiên cứu này, người nghiên cứu đã tiếp thu được cách phân loại các hình thức di cư, tụ cư của cộng đồng người Hoa cũng như lý do họ di cư đến Việt Nam. Đồng thời tại công trình nghiên cứu Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam của TS. Châu Thị Hải, tác giả đã đề cập tới loại hình liên kết của cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, các tổ chức như “bang”, “hội”,.. trong hoạt động kinh tế, xã hội.

Công trình nghiên cứu Hôn nhân và gia đình của người Hoa ở Nam Bộ (Nguyễn Duy Bính, 1999, tp. Hồ Chí Minh) đã khái quát về người Hoa ở Nam Bộ, cộng đồng, dân số, hoạt động kinh tế văn hóa; những quan niệm trong hôn nhân, quy tắc và nghi lễ; hình thức và cấu trúc gia đình người Hoa ở Nam Bộ; chức năng và những nghi lễ gia đình. Đây là nền tảng để so sánh, phân tích sự giống nhau và khác nhau của Hoa Kiều ở miền Bắc và cộng đồng người Hoa ở miền Nam.

Sách Vai trò người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2000) của tác giả Trần Khánh cố gắng tập trung phân tích những yếu tố và quá trình xã hội tác động đến sự thay đổi các hình thức kinh doanh, hoạt động thương mại của người Hoa và vai trò của họ trong sự hình thành và phát triển ngành kinh tế then chốt của các quốc gia Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt từ sau khi các nước trong khu vực giành độc lập đến cuối những năm 1980. Tác giả cũng đã phân tích nguyên nhân, lý do người Hoa ở Việt Nam di cư về nước hoặc các nước lân cận, đề cập một phần nhỏ quá trình di cư của cộng đồng này khu vực phía bắc Việt Nam.

3

Công trình nghiên cứu khoa học Người Hoa trong xã hội Việt Nam: thời Pháp thuộc và dưới chế độ Sài Gòn (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2002) của tác giả Trần Khánh đã phân tích, nghiên cứu đầy đủ bức tranh toàn cảnh về sự hình thành và phát triển của cộng đồng người Hoa ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử; đi sâu phân tích các hoạt động của người Hoa, vai trò của họ trong đời sống kinh tế, xã hội và chính trị cũng như tiến trình hội nhập của họ vào xã hội Việt Nam tử nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1979.

Đồng thời còn có rất nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu người Hoa ở Nam và Trung bộ của các học giả trong và ngoài nước, đây là những cơ sở khoa học giúp cho tác giả định hướng được cách thức tiếp cận cũng như so sánh sự khác biệt giữa cộng đồng Hoa kiều và người Hoa Minh hương, cộng đồng người Hoa ở Bắc Bộ với cộng đồng người Hoa ở Trung và Nam Bộ,… Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ: từ thế kỷ XVII đến năm 1945 (2000) của nhóm tác giả Nguyễn Cẩm Thúy, Nguyễn Quang Chuyền, Võ Văn Sổ, Cao Tự Thanh; Người Hoa ở Nam Bộ (2005) của tác giả Phan An, Đề tài nghiên cứu khoa học Người Hoa ở Bình Dương – lịch sử và hiện trạng (2010) của Hội khoa học Lịch sử tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ Văn hóa của cộng đồng người Hoa ở Bạc Liêu (2016) của Th.S Lưu Thị Liên;…

Tựu chung lại, các công trình nghiên cứu chuyên khảo kể trên và đa phần các công trình nghiên cứu khác phần nhiều tập trung vào người Hoa ở Nam Bộ, khu vực có nhiều người Hoa cư trú nhất trong cả nước. Còn cộng đồng người Hoa ở khu vực Bắc Bộ cũng như tại Hải Phòng nói riêng chỉ được đề cập một cách khái quát.

Đề cập tới cộng đồng người Hoa trong lịch sử tại khu vực phía bắc cũng có một số công trình nghiên cứu nổi bật như bài viết Những vị khách được nuông chiều hay những người yêu nước tận tụy? Người Hoa ở Bắc Việt Nam thời kỳ 1954-1978 của tác giả Xiaorong Han (2009) trên tạp chí International Journal of Asian Studies (tập 6, số 1, trang 1-36) đã đánh giá quan hệ cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam đối với chính quyền Việt Nam và Trung Quốc. Đặc biệt bài viết tập trung vào việc phân tích mối quan hệ bản sắc quốc gia và dân tộc của Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam, trong thời kỳ 1954 đến năm 1978. Công trình nghiên cứu đã chỉ ra các đặc điểm, địa vị công dân và cung cấp các số liệu liên quan tới cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam và ở Hải Phòng. Phân tích vị trí, sự ảnh hưởng của chính quyền Trung Quốc, chính quyền Việt Nam giai đoạn 1954 – 1978 tác động tới đời sống của cộng đồng cư dân này, cũng như phục dựng lại quá trình di cư của cộng đồng người Hoa về nước hoặc đi tới các quốc gia trong khu vực từ năm 1977-1978

4

Công trình nghiên cứu Người Hoa trong xã hội Việt Nam, nửa đầu thế kỷ XIX (Dương Văn Huy, 2011, Hà Nội) đã trình bày, phân tích hoạt động kinh tế của người Hoa và vị trí của người Hoa trong nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XIX. Bằng phương pháp lịch sử, tác giả đã cung cấp một cái nhìn toàn diện về người Hoa trong xã hội Việt Nam thời kỳ này để phục vụ cho những nghiên cứu giai đoạn sau.

Luận văn thạc sĩ Diện mạo khu phố người Hoa ở Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX qua tư liệu địa chính (Trần Thị Mai, 2014 Hà Nội) nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng người Hoa tại Hà Nội. Cách thức tiếp cận của tác giả ở đây là qua tư liệu địa chính, địa bạ, đây là một cách tiếp cận rất hữu ích cho luận văn nghiên cứu cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng cũng như giúp người viết có cái nhìn tổng quát hơn quá trình hình thành và phát triển của người Hoa ở Bắc Bộ.

2.2. Các công trình nghiên cứu về cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng. Theo tổng hợp của tác giả luận án, hiện nay có khá ít công trình nghiên cứu trực tiếp về cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng. Tuy vậy đây là một cộng đồng mạnh, có vai trò lớn trong việc hình thành và phát triển thành phố nên được đề cập nhiều trong ghi chép của các thương nhân, giáo sĩ, những nhà quân sự phương tây, tại các văn bản hành chính của các chính quyền; trong các công trình nghiên cứu chuyên khảo về thành phố Hải Phòng.

Từ cuối thế kỷ XIX, mặc dù xuất phát từ những mục đích chính trị, những ý định về quân sự, kinh tế nhưng tại các báo cáo, các văn bản hành chính của người Pháp tại khu vực Hải Phòng có những ghi chép giá trị nhất định về cộng đồng người Hoa tại đây. Trong đó có thể kể tới những ghi chép của Jean Dupuis in trong Một chuyến du hành lên Vân Nam và việc mở cửa sông Hồng cho thương mại; của Raymond Bonnal trong cuốn Ở Bắc Kỳ, 1872-1881-1886: ghi chép và kỷ niệm; Thư của Jules Harmand gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa ngày 30/11/1883; Người Pháp ở Bắc kỳ và miền Nam Trung Quốc của Alfred Cunningham (1903),…; các báo cáo, biên bản cuộc họp của Phòng Thương mại Hải Phòng các năm 1899-1929. Các ghi chép này không chỉ giúp ta hình dung về vùng đất Hải Phòng cuối thế kỷ XIX, đầy thế kỷ XX mà còn giải thích, cung cấp nhiều thông tin giá về quá trình hình thành cộng đồng người Hoa tại thành phố Hải Phòng, hoạt động kinh tế, đời sống văn hóa, xã hội, chính trị của họ.

5

Những nghiên cứu về Hải Phòng chỉ thực sự nở rộ vào những năm 80 của thế kỷ XX. Những cuộc hội thảo khoa học đã tập hợp nhiều nghiên cứu của các học giả trong nước về nhiều chủ đề liên quan tới Hải Phòng, trong đó có một số nghiên cứu về cộng đồng người Hoa nói riêng. Có thể kể đến tờ Nghiên cứu Lịch sử Hải Phòng ra đời. Đây là một tạp chí chuyên ngành hiếm hoi của một địa phương. Mặc dù thời gian tồn tại của tạp chí này khá ngắn ngủi (từ năm 1985-1988), nhưng nó đã trở

thành một diễn đàn bổ ích – nơi đăng tải nhiều nghiên cứu quan trọng về lịch sử Hải Phòng, Nổi bật trong số này có các bài viết Vài nét về sự ra đời của thành phố Hải Phòng số 3/1986 của hai tác giả Nguyễn Thừa Hỷ, Trịnh Ngọc Viện; Quá trình hình thành và phát triển không gian đô thị Hải Phòng số 1-/1986 của Nguyễn Ngọc Quỳnh. Cũng trong những năm 80, hội thảo khoa học Hải Phòng – Bước ngoặt lịch sử đầu thế kỷ XX (1988) của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành ủy Hải Phòng được thực hiện, trong đó có bài nghiên cứu Bước đầu tìm hiểu về tư bản Hoa kiều và Việt Nam ở Hải Phòng của tác giả Đoàn Trường Sơn. Bài nghiên cứu đã nêu nên vai trò quan trọng của cộng đồng người Hoa trong nền kinh tế ở Hải Phòng trong những năm đầu thế kỷ XX.

Trong hai cuốn sách Địa chí Hải Phòng (1990) và Lược khảo đường khố Hải Phòng (1990) của Hội đồng lịch sử thành phố Hải Phòng đã đề cập tới địa bàn tập trung cư trú của cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng, các địa điểm, công trình kiến trúc được người Hoa xây dựng với mục đích hoạt động thương mại, buôn bán, sinh hoạt xã hội.

Luận án tiến sĩ Đô thị Hải Phòng giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của tác giả Nguyễn Thị Hoài Phương đã tập trung nghiên cứu, phân tích những nhân tố hình thành và phát triển của đô thị Hải Phòng trong đó nhấn mạnh đến các lĩnh vực: thể chế chính trị, hoạt động kinh tế, đời sống xã hội, các đặc trưng văn hóa, diện mạo đô thị,... Trong luận án, tác giả đã đề cập tới cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng nhưng chỉ là một phần nội dung của luận án, chưa nghiên cứu chuyên sâu và thời gian mới dừng lại ở năm 1945 mà chưa tìm hiểu về cộng đồng người Hoa ở giai đoạn sau, đặc biệt là những biến động cuối thế kỷ XX.

Đối với các công trình nghiên cứu về Hải Phòng ở nước ngoài, phải nhắc đến học giả người Pháp Gilles Raffi Bắt đầu từ một nghiên cứu vào niên khóa 1987-1988 tại trường Đại học Provence với tiêu đề Monographie de la cite portuaire de Haiphong des origines a 1940 (Chuyên khảo về cảng thị Hải Phòng từ khởi thủy đến năm 1940), cung cấp những thông tin căn bản về đời sống kinh tế cũng như diện mạo của thành phố cảng Hải Phòng từ thuở sơ khai đến thập niên 40 của thế kỷ XX. Trên cơ sở những nghiên cứu này, đến năm 1994, ông viết luận án tiến sĩ với tiêu đề Haiphong: Origines, conditions et modolités du dévelopment Juquén 1921 (Hải Phòng - nguồn gốc, điều kiện và thể thức phát triển cho đến năm 1921). Đây là công trình nghiên cứu cho thấy cái nhìn toàn thể đối với cảng Hải Phòng trong sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội và đại lý của thành phố xét trong mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của các tác nhân phát triển. Trong đó, vấn đề cộng đồng người Hoa được đề cập tới nhiều, cung cấp một lượng lớn thông tin có giá trị, số liệu cụ thể về kinh tế, đời sống dân cư, các hoạt động, mối quan hệ với chính quyền và người dân bản địa của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng giai đoạn này.

6

Một nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến Hải Phòng là The French in Tonkin and South China của Afred Cunningham, Hongkong Daily Press năm 2004, trong đó lịch sử, kinh tế, xã hội của Hải Phòng bước đầu được giới thiệu trong hệ thống các đô thị ở Bắc Kỳ và Nam Trung Quốc thời cận đại. Về cộng đồng người Hoa và vai trò của thương nhân người Hoa ở Hải Phòng có bài viết của Julia Martinez với tựa đề Chinese Rice Trade and Shipping from the North Vietnamese Port of Hải Phòng, in trên tạp chí Chinese Southern Diaspora Studies, Volome 1, năm 2007. Năm 2011, nhóm tác giả Nola Cooke, Li Tana, James A. Anderson công bố một nghiên cứu tổng hợp The Tonking Guft through History do Đại học Pennsylvania, Philadelphia, Hoa Kỳ xuất bản, đã đặt đời sống kinh tế của Hải Phòng trong mối quan hệ kinh tế với các đô thị khác trong khu vực vịnh Bắc Bộ cũng như trong mối giao thương quốc tế.

Tóm lại, các nghiên cứu trong và ngoài nước đã phục dựng được bức tranh về lịch sử hình thành của đô thị Hải Phòng, cũng như tìm hiểu về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng người Hoa tại nơi đây. Tuy vậy, một nghiên cứu có hệ thống về lịch sử hình thành và phát triền của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng cũng như bức tranh toàn cảnh về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội họ trong từng giai đoạn lịch sử thì chưa có.

3. Mục đích nghiên cứu. 3.1. Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát, phục dựng bức tranh toàn diện về lịch sử hình thành, phát triển của cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; từ đó xác định vị trí, vai trò, đóng góp của cộng đồng người Hoa với sự hình thành và phát triển của thành phố Hải Phòng trong Lịch sử. Đồng thời luận văn còn tập trung khảo tả về biến động chính trị và cuộc hồi hương của cộng đồng người Hoa trong những thập niên 70 – 80 của thế kỷ XX cũng như tìm hiểu về mối liên hệ thân tộc của những thế hệ người Việt gốc Hoa còn ở lại thành phố Hải Phòng với gia tộc, họ hàng ở Trung Quốc trong thực tế cuộc sống hiện nay; khẳng định tính đa dạng, phong phú trong đời sống văn hóa của các nhóm cư dân của thành phố Hải Phòng trong thế kỷ mới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu tổng thể, hệ thống về quá trình hình thành, phát triển của cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng, từ lịch sử các cuộc di cư, quá trình tụ cư đến đời sống kinh tế, xã hội và các đặc trưng văn hóa của cộng đồng này từ khi hình thành đến cuối thế kỷ XX.

- Phục dựng lại cuộc di cư của cộng đồng người Hoa vào những năm 70 - 80 của thế kỷ XX và mối liên hệ của họ với các thế hệ con cháu ở lại thành phố Hải Phòng.

7

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng, từ quá trình hình thành và phát triển đến đời sống kinh tế, văn hóa xã hội của họ; nhằm mục đích làm rõ được các yếu tố văn hóa cũng như sự tác động qua lại giữa văn hóa của cộng đồng Hoa kiều với những cộng đồng dân cư khác sinh sống tại Hải Phòng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu: 4.2.1 Phạm vi không gian: đề tài nghiên cứu cộng đồng người Hoa trong khu vực địa giới của thành phố Hải Phòng hiện nay, đặc biệt được giới hạn tại các tuyến phố Quang Trung, Lý Thường Kiệt, Phan Bội Châu và khu vực quận Lê Chân.

4.2.2. Phạm vi thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu cộng động người Hoa ở Hải Phòng từ năm 1888 (năm thành lập thành phố) đến cuối những năm 70 - 80 của thế kỷ XX (giai đoạn xảy ra xung đột biên giới Việt – Trung và diễn ra phong trào hồi cư của cộng đồng Hoa kiều). Tuy nhiên, khung thời gian của luận văn có thể kéo về phía trước hoặc về phía sau để có được cái nhìn hệ thống và các mối quan hệ tương quan.

5. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu. 5.1. Nguồn tư liệu: Luận văn sử dụng 3 nguồn tư liệu chính: tư liệu tiếng Việt, tư liệu phương

Tây (tiếng Anh và tiếng Pháp) và tư liệu điền dã thực tế của tác giả.

Nguồn tài liệu tiếng Việt, đầu tiên phải kể đến những bộ chính sử của các triều đại phong kiến Việt Nam như: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,… Các bộ chí như: Dư địa chí, Hải Dương phong vật chí, Hải Dương toàn hạt dư địa chí… Bên cạnh đó là kế thừa những kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, tập trung chủ yếu trong các công trình: Quá trình hình thành phát triển thành phố và đặc tính người Hải Phòng, Hải Phòng bước ngoặt lịch sử đầu thế kỷ XX (đều dưới dạng kỷ yếu), Địa chí Hải Phòng, Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng, Lược khảo đường phố Hải Phòng, Hải Phòng – di tích lịch sử văn hóa của Hội đồng lịch sử thành phố Hải Phòng… Các công trình nghiên cứu về Hải Phòng và dân cư có: Lịch sử Đảng bộ thành phố Hải Phòng, Lịch sử Đảng bộ quận Hồng Bàng, Lịch sử Đảng bộ quận Lê Chân, Luận án tiến sĩ Đô thị Hải Phòng giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của TS. Nguyễn Thị Hoài Phương, Luận văn thạc sĩ Đặc điểm và giá trị kiến trúc công cộng tại khu phố Pháp Hải Phòng của TS. Nguyễn Như Khánh, Hải Phòng cũ và mới của tác giả Phạm Hiền, Kỷ yếu Hội thảo “Hải Phòng bước ngoặc lịch sử đầu thế kỷ XX” của Hội đồng nghiên cứu lịch sử Hải Phòng.

8

Về các công trình nghiên cứu về cộng đồng người Hoa có thể kể tới: Người Hoa trong xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX của tác giả Dương Văn Huy; các công trình nghiên cứu Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, Người Hoa với đôi bờ biên giới Việt – Trung thời mở cửa, Người Hoa trong đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á của tác giả Châu Thị Hải; các công trình nghiên cứu Vai trò người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á, Người Hoa trong xã hội Việt Nam (thời Pháp thuộc và dưới chế độ Sài Gòn), Nguyên nhân di cư và các dạng di trú của người Hoa trong lịch sử, Những yếu tố văn hóa và sự hội nhập của người Hoa vào xã hội Việt Nam hiện đại, Phân tích dân số học tộc người cộng đồng người Hoa ở Việt Nam của tác giả Trần Khánh, Chính sách của Bắc Kinh đối với người Hoa ở Đông Nam Á của tác giả Lê Văn Khuê; Một số vấn đề trong nghiên cứu người Hoa ở Đông Nam Á của Hoàng Kim; Cộng đồng người Hoa một thế lực kinh tế và chính trị hùng mạnh của tác giả Hoàng Giáp.

Về nguồn tư liệu tiếng Pháp, luận văn tập trung khai thác các ghi chép, các báo cáo của người Pháp từ những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, các văn bản nghị định, sắc lệnh về quá trình tổ chức hành chính xã hội của thành phố. Đây là các tài liệu lưu trữ về dân số dân cư, quản lý hành chính – xã hội, quy hoạch đô thị, các báo cáo về kinh tế. Hầu hết các tài liệu gốc được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, một số lượng nhỏ ở Thư viện Quốc gia và phòng Địa chí, Thư viện thành phố Hải Phòng. Ngoài ra tác giả còn khai thác các văn bản, văn thư, các bài báo, mẩu tin vắn quảng cáo, bản đồ địa bạ… của chính quyền thực dân và người dân thời kỳ Pháp thuộc được khai thác từ trang thư viện điện tử http://gallica.bnf.fr/ của Trung tâm Lưu trữ quốc gia Pháp. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng một số các tài liệu nghiên cứu của các học giả phương Tây như The Overseas Chinese of South East Asia – History, Culture, Business của tác giả Ian Rae và Morgen Witzel, Nhóm tộc người Trung Quốc ở Đông Nam Á của các tác giả G.F. Kim, G.I. Chufrin, G.I. Levinson công bố năm 1986,…

Với một đề tài nghiên cứu rộng, việc khảo sát điền dã thực tế là rất cần thiết, không chỉ cung cấp thêm những tư liệu mới mà còn kiểm tra, bổ sung cho những tư liệu thành văn đã có.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp tiếp cận khu vực học có vai trò quan trọng đối với nghiên cứu mang tính tổng hợp, giải quyết các vấn đế tồng hợp về kinh tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng người. Vận dụng phương pháp tiếp cận khu vực học, người viết sẽ khoanh vùng phạm vi nghiên cứu là thành phố Hải Phòng mà tập trung nhất là nơi từng có đông người Hoa sinh sống; từ đó nghiên cứu, tìm hiểu về điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, dân cư, văn hóa, xã hội và mối liên hệ,

9

tác động qua lại giữa khu vực nghiên cứu và các khu vực xung quanh, các khu vực rộng lớn hơn bao trùm lên nó.

Tiếp cận liên ngành là phương pháp nghiên cứu rất cần được áp dụng trong nghiên cứu văn hóa. Tiếp cận liên ngành là việc sử dụng cách tiếp cận các khoa học chuyên ngành khách nhau để cùng nghiên cứu một đối tượng mà ở đây là cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng. Trong đó tiếp cận liên ngành với khoa học lịch sử có vai trò quan trọng đối với nghiên cứu văn hóa, bởi lịch sử luôn là một phần, thậm chí là phần quan trọng trong văn hóa. Các giá trị văn hóa và đặc điểm văn hóa được hình thành trong lịch sử và được bồi đắp theo thời gian. Lịch sử không chỉ chứa đựng căn nguyên văn hóa, mà còn là nguồn cung cấp các yếu tố chi phối văn hóa đương đại. Vì vậy phương pháp liên ngành giữa khoa học lịch sử và văn hóa học rất cần thiết trong việc nghiên cứu cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng.

Phương pháp nghiên cứu Nhân học là phương pháp bao gồm cả điều tra xã hội học và điền dã dân tộc học, là một phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu dân tộc học và văn hóa học. Nhằm khảo sát đặc điểm văn hóa, xã hội của cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng, tác giả sẽ tiến hành phỏng vấn các thế hệ người Hoa ở lại Hải Phòng cũng như tìm kiếm cầu nối liên lạc phỏng vấn với cộng đồng người Hoa đã hồi cư. Tất cả các câu hỏi đều hướng tới xác định về đời sống kinh tế, văn hóa xã hội của cư dân Hoa kiều sinh sống tại Hải Phỏng trong mỗi giai đoạn. Điều tra điền dã dân tộc học nhằm tiếp cận vấn đề một cách trực quan sinh động, kiểm tra đánh giá xác thực, bổ sung đầy đủ hơn những hiểu biết về đối tượng nghiên cứu, đồng thời cũng là cách kiểm chứng lại các tài liệu đã tổng hợp được.

Phương pháp lịch sử có vai trò quan trọng trong nghiên cứu văn hóa, bởi lịch sử luôn là một phần quan trọng trong văn hóa. Văn hóa là những hiện tượng xuyên thời gian và là quá trình được xây đắp trong lịch sử. Các giá trị văn hóa và đặc điểm văn hóa được hình thành trong lịch sử và được bồi đắp theo thời gian. Lịch sử không chỉ chứa đựng căn nguyên văn hóa, mà còn cung cấp các yếu tố chi phối văn hóa đương đại.

Vận dụng phương pháp lịch sử để nghiên cứu, sử dụng các tư liệu lịch sử để trình bày lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Hải Phòng; quá trình hình thành cộng đồng người Hoa và các bước vận động, phát triển… Từ đó thấy được tính liên tục, phát hiện ra các đặc điểm văn hóa, xu hướng phát triển của các yếu tố văn hóa đó.

Tác giả tổng hợp, phân tích và sử dụng những số liệu thống kê về người Hoa ở Hải Phòng trên các phương diện dân số, địa bàn phân bổ, tình hình sản

10

xuất kinh tế, phong tục tập quán,… để từ đó đánh giá xác thực đặc điểm văn hóa của cộng đồng cư dân này, đề xuất bảo tồn các yếu tố văn hóa của cộng cư dân người Hoa. Số liệu thống kê được khai thác từ nhiều nguồn như: Trung tâm lưu trữ Pháp, Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, Sở văn hóa Thể thao và Du lịch thành phố Hải Phòng, Cục thống kê Thành phố Hải Phòng,…

6. Đóng góp của luận văn. Luận văn là một nghiên cứu tổng quan về cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội… từ khi định cư cho đến khi những biến động cuối thế kỷ XX.

Trình bày một cách có hệ thống các thành tố văn hóa của cộng đồng người

Hoa ở Hải Phòng từ văn hóa vật chất đến văn hóa tinh thần.

Phân tích, xác định vai trò, vị trí, đóng góp của người Hoa đối với sự phát

triển kinh tế - văn hóa - xã hội của thành phố Hải Phòng.

7. Cấu trúc của luận văn. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn được chia thành 4 chương:

Chương 1: Cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng, Lịch sử hình

thành và quá trình biến đổi.

Chương 2: Hoạt động kinh tế của người Hoa ở thành phố Hải Phòng. Chương 3: Đời sống văn hóa xã hội của cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải

Phòng.

Chương 4: Những biến động chính trị và quá trình hồi hương của cộng

đồng người Hoa cuối thế kỷ XX

11

CHƢƠNG 1:

CỘNG ĐỒNG NGƢỜI HOA Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG, LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI

1.1. Cơ sở lý thuyết

1.1.1. Khái niệm “người Hoa”

Người Hoa là một trong những cộng đồng có dân di trú lớn nhất, lâu đời nhất, có tiềm lực kinh tế mạnh nhất và dân số phát triển nhanh nhất so với các cộng đồng người di trú trên thế giới. Do người Hoa có mặt ở khắp các quốc gia trên thế giới nên có nhiều cách gọi về họ. Khái niệm “người Hoa” là một khái niệm rộng, có nội hàm phức tạp bởi nó có sự thay đổi đối với từng giai đoạn lịch sử và từng mục đích sử dụng khác nhau. Ở Việt Nam có rất nhiều cách gọi liên quan tới người Hoa. Có những cách gọi dựa theo tên các triều đại phong kiến thống trị ở Trung Hoa trong từng giai đoạn lịch sử như: người Hán, người Đường, người Tống, người Minh, người Thanh,… Cũng có thể gọi người Hoa theo các nhóm địa phương như người Quảng Đông, người Phúc Kiến, người Hải Nam, người Hẹ,… Đó là tên của một vùng đất, quê hương, nơi xuất phát điểm của từng nhóm cộng đồng người Hoa ở Trung Hoa. Cũng có một có cách gọi khác như người Tàu, Khách Trú, Hoa Kiều dùng để gọi cộng đồng này.

12

Tại công trình nghiên cứu The Chinese diaspora: The current distribution of the overseas Chinese population của hai tác giả Dubley.L. Poston và Juyin Helen Wong (đại học Texas, Mỹ, 2006) đã đưa ra một khái niệm về người Hoa tương ứng với khái niệm người Hoa hải ngoại hay Hoa Kiều (Chinese overseas) như sau: là những người có huyết thống hoặc xuất phát từ Trung Hoa lục địa, Hồng Kông, Macao và Đài Loan , ra nước ngoài vì lý do kinh tế, chính trị, xuất khẩu lao động,… sinh sống ổn định ở nước ngoài nhưng không còn quốc tịch Trung Quốc, sinh sống lâu đời giữa nhiều thế hệ [54, 349]. Còn trong công trình The Encyclopedia of the Chinese Overseas (tạm dịch: Bách khoa thư về người Hoa hải ngoại) của trung tâm di sản Trung Hoa (Singapore), học giả Li Tana đã có một bài viết chuyên đề về người Hoa ở Việt Nam [65]. Bà đã đưa ra phân tích hai tên gọi người Hoa ở Việt Nam là “Chú Khách” (Uncle Guest) và “Tàu” (Tau people) đều xuất phát từ quá trình di cư, buôn bán của người Hoa tới Việt Nam bằng đường biển. Do đi lại trên biển nên phương tiện chủ yếu là tàu thuyền, chính vì vậy người Việt thường gọi là Tàu, người bên Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu,… Tuy nhiên, theo Li Tana cho rằng thuật ngữ Tàu thường mang ý nghĩa miệt thị hơn bởi nó mang cả ý nghĩa mang đến cho người Việt cơ hội (làm ăn buôn bán) và cả tai họa khi gắn với nạn cướp biển (Tàu Ô). Thuật ngữ “Khách Chú”, “Chú Khách” hay “Các Chú” xuất phát từ người Minh Hương ở vùng Nam Bộ. Người Hoa coi nhau như là anh em nên

thường gọi nhau là các chú trong cách xưng hô thân mật. Dần dần, người Việt bắt chước mà và đọc chệch đi thành Khách Chú.

Theo tác giả Châu Hải trong công trình Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam (1992) khái niệm người Hoa bao gồm “tất cả những người di cư từ đất nước Trung Hoa đến các nước trong khu vực, và khái niệm đó thuộc phạm trù biến đổi chứ không phải là một phạm trù ổn định. Đó là khả năng chuyển từ khái niệm “Hoa kiều” đến khái niệm “người Hoa” và đến một thời điểm lịch sử nào đó họ không còn là Hoa nữa. Và cùng với nó, những hình thức liên kết cộng đồng cũng biến đổi theo và mang ý nghĩa của một thực thể chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội” [13, 15]. Ý kiến này đã đặt ra hai đối tượng cần được lý giải là “người Hoa” và “Hoa kiều” rất đáng lưu ý trong phương pháp tiếp cận, nghiên cứu về cộng đồng người Hoa.

Tác giả Trần Khánh trong sách Cộng đồng người Hoa, Hoa Kiều ở châu Á (2018) cho rằng hai thuật ngữ “người Hoa” và “Hoa kiều” được sử dụng bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XIX. “Người Hoa” được chính quyền phong kiến Mãn Thanh sử dụng để chỉ những người Hoa sinh sống bên trong lãnh thổ của Trung Quốc, những người sinh sống ngoài lãnh thổ Trung Quốc là những công dân của các vương quốc khác. Còn thuật ngữ “Hoa kiều” sử dụng chính thức trong văn bản Hiệp định ký kết giữa Pháp và chính quyền Mãn Thanh tại Thiên Tân năm 1858. Thuật ngữ này ám chỉ những chính khách của triều đình Mãn Thanh làm việc ở nước ngoài chứ không bao hàm tất cả những người Trung Hoa di trú sống tạm thời ở nước ngoài [88, 226]. Phải đến Hiệp định Hòa bình và Thương mại ký giữa Pháp và Trung Quốc tại Thiên Tân trong những năm 1885-1887, thuật ngữ Hoa kiều được sử dụng để chỉ tất cả những người Trung Hoa di trú và sống tạm thời ở nước ngoài. Trần Khánh đã đưa ra nội dung khái niệm về “người Hoa” như sau: “người Hoa là những người gốc Hán hay bị Hán hóa, sống tương đối ổn định, thường xuyên tại các quốc gia Đông Nam Á, đã nhập tịch nước sở tại, còn giữ được những nét đặc trưng nền văn hóa Trung Hoa và tự nhận mình là người Hoa. Họ là những cộng đồng dân nhập cư có nguồn gốc Trung Hoa ít hoặc chưa bị đồng hóa, là những nhóm tộc người đang trong quá trình liên kết hóa dân tộc, một bộ phận dân tân tộc của các quốc gia Đông Nam Á, đang từng bước điều chỉnh, hội nhập vào các thể chế kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa của từng quốc gia – dân tộc, khu vực và quốc tế” [28, 35].

13

Đối với một số cộng đồng người Hoa sinh sống ở nước ngoài luôn sử dụng từ “người Hoa” thay thế từ “Hoa kiều” để gọi về cộng đồng mình. Theo ý kiến của nhiều học giả trên thế giới, họ tự gọi mình là người Hoa để tránh né những vấn đề chính trị liên quan đến Trung Quốc, luôn ý thức về dân tộc cho dù lấy vợ gả chồng với người bản địa, hoặc trở thành người Hoa lai. Cùng với thuật ngữ người Hoa, những người Hoa sinh sống ở nước ngoài có nguồn gốc lâu đời, những người Hoa lai cũng có những danh xưng tại bản địa như người Minh Hương ở Việt Nam, người

Peranakan ở Indonesia, người Baba ở Malaysia và Singapore, người Lukin ở Thái Lan hay người Mestizo ở Philippines [30,22]. Ở Việt Nam, thuật ngữ “người Minh Hương” được triều đình nhà Nguyễn sử dụng để chia người Hoa thành hai nhóm: Minh Hương và Hoa kiều. Sự phân chia này nhằm mục đích đánh thuế chứ không có mục đích phân biệt đối xử. Minh Hương là tên gọi những người Hoa còn trung thành với nhà Minh (Trung Hoa) lánh nạn nhà Thanh, đến Việt Nam tị nạn, tuân phục triều đình Việt Nam và nhận Việt Nam là quê hương thứ hai. Họ là những người tị nạn chính trị. Mặc dù vẫn giữ phong tục, tập quán văn hóa Trung Hoa, những người này từ lâu được xem là người Việt Nam. Đến đời Tự Đức (1847- 1883), người Minh Hương được coi là người Việt Nam toàn diện. Danh từ Minh Hương sau đó bao gồm tất cả con cái những người Hoa đến Việt Nam lập nghiệp: những người mang hai dòng máu Việt-Hoa hay những trẻ em Hoa kiều sinh ra tại Việt Nam bất kể ý muốn của cha mẹ.

Trong Chỉ thị 10/CP-TW ngày 17-11-1982 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa V về “Chính sách đối với người Hoa trong giai đoạn mới”, người Hoa bao gồm những người gốc Hán và những người thuộc dân tộc ít người ở Trung Quốc đã Hán hóa di cư sang Việt Nam và con cháu của họ sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, đã nhập quốc tịch Việt Nam, nhưng còn giữ được những đặc trưng văn hóa, chủ yếu là ngôn ngữ, phong tục tập quán của dân tộc Hán và tự nhận mình là người Hoa… Hoa kiều là những người có cùng nguồn gốc dân tộc với người Hoa, nhưng không nhập quốc tịch Việt Nam”.

“Người Hoa” là khái niệm trung tâm của nội dung nghiên cứu trong luận văn này, khái niệm đó được dùng để chỉ những người Hoa ở Việt Nam. Từ việc tham khảo và vận dụng các định nghĩa, khái niệm người Hoa của các tác giả trong và ngoài nước, có thể tóm đưa ra nội dung khái niệm “người Hoa” một cách sơ bộ như sau:

- Là những người có gốc Hán (hoặc đã bị Hán hóa), đến từ Trung Quốc di cư xuống Việt Nam; sống ổn định, thường xuyên, lâu dài hoặc trải qua nhiều thế hệ sinh sống ở Việt Nam; bao gồm cả những nhóm người Hoa vì nhiều lý do di cư, chạy loạn sang Việt Nam như yếu tố từ chiến tranh và biến động chính trị; những thương khách người Hoa thường xuyên buôn bán, trú ngụ dài ngày ở Việt Nam; những người Hoa đi biển gặp nạn, phải lên bờ và sống dài ngày ở Việt Nam,…

- Được nhập tịch, được hưởng những quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ do

chính quyền sở tại quy định;

- Ít hoặc nhiều hoặc chưa bị đồng hóa; vẫn giữ được ngôn ngữ, phong tục tập

quán nét, đặc trưng các giá trị văn hóa truyền thống Trung Hoa;

14

- Tự ý thức, tự nhận mình là người Hoa.

Đối với “Hoa kiều”, đây những người là người nước ngoài, mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài, có nguồn gốc dân tộc với người Hoa, nhưng không nhập quốc tịch Việt Nam. Là những người ngoại quốc đến Việt Nam tìm việc, phải đóng thuế cư trú, phải gia hạn thời gian cư trú; hưởng và thực hiện theo quy chế, nghĩa vụ của người nước ngoài tại Việt Nam.

Những người Hoa hay Hoa kiều ở Hải Phòng trong quá trình hình thành và phát triển đến nửa cuối thế kỷ XX bao gồm những thành phần được kể trên. Họ cư tụ lại trong những hình thức tổ chức cộng đồng, thuộc nội hàm khái niệm “người Hoa” được hiểu trong luận văn này.

1.1.2. Một số vấn đề về lý thuyết di cư.

Di cư hay di dân là sự thay đổi chỗ ở của các cá nhân hay một cộng đồng để tìm chỗ sinh kế tốt hơn, phù hợp hơn nơi ở cũ để định cư, cư trú thường xuyên. Những cá nhân tham gia vào việc di chuyển chỗ ở được gọi là dân di cư. Các lý thuyết về di cư được phân chia thành nhiều loại khác nhau để phản ánh các nguyên nhân, các hình thức di cư vốn rất phong phú, đa dạng của nhiều cộng đồng dân tộc. Công tác nghiên cứu di cư trên thế giới bắt đầu dưới thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa ở phương tây với sự hợp tác của nhiều ngành khoa học khác nhau. Các lý thuyết về di cư thường tập trung trả lời cho các câu hỏi: Tại sao diễn ra hiện tượng di cư? Các nhân tố dẫn đến sự di cư? Quá trình di cư và sinh sống của di dân tại nơi cư trú mới ra sao? Có sự khác biệt cơ bản nào giữa di dân và người ở lại, mối liên hệ giữa các cộng đồng dân cư?

Trong quá trình nghiên cứu về cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng,

chúng tôi tiếp cận, tham khảo và vận dụng một số lý thuyết về di cư, di dân sau:

a. Quy luật di dân của EG. Ravenstein.

Ông là nhà khoa học đóng vai trò mở đường cho việc phát triển lý thuyết về di dân, di cư. Trong tác phẩm Các quy luật di dân (Laws of migration), ông đã đưa ra bảy quy luật động thái dân số:

- Di cư và khoảng cách: Sức thu hút của nơi hấp thụ người nhập cư sẽ giảm dần tỷ lệ với khoảng cách, nói cách khác địa điểm di cư càng xa thì sức hấp dẫn đối với di dân càng giảm. Khi tiến hành di chuyển xa, họ thường hướng tới các thành phố, trung tâm thương mại lớn.

- Sự di cư theo các giai đoạn: Dân cư của một quốc gia sẽ tập trung di chuyển từ nông thôn tới các thành thị phát triển, từ các trung tâm nhỏ sẽ chuyển tới các trung tâm lớn hơn. Cứ như vậy, quá trình di cư sẽ diễn ra theo nhiều giai đoạn kế tiếp nhau theo hướng di chuyển về trung tâm đô thị lớn, có sức hấp dẫn cao.

- Dòng di cư xuôi và ngược: Mỗi dòng di dân chính đều tạo ra một dòng di

15

dân ngược để bù đắp lại khoảng trống dân cư của một vùng.

- Sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn trong xu hướng di cư: Người sinh ra

trong các đô thị thường ít di cư hơn so với những người sinh ra ở vùng nông thôn.

- Sự vượt trội của phụ nữ trong số người di cư khoảng cách ngắn: do đặc thù tính cách và thể trạng, người phụ nữ luôn có ưu thế trong việc di cư khoảng cách ngắn, ngược lại với sức khỏe tốt và tính độc lập cao, nam giới lại chiếm ưu thế trong những chuyến đi dài ngày.

- Công nghệ và di cư: sự gia tăng các phương tiện di chuyển và sự phát triển

kỹ thuật trong sản xuất và thương mại tác động đến gia tăng di cư.

- Ưu thế của động cơ kinh tế: những bộ luật mang tính áp bức, bất công, phân biệt đối xử, sự phân biệt chủng tộc, việc đánh thuế nặng, khí hậu không thích hợp, môi trường xã hội không tốt... tất cả đều có ảnh hưởng nhất định, nhưng yếu tố kinh tế mới chính là động lực quyết định thúc đẩy quá trình di cư.

Từ lý thuyết về di dân của Ravenstein đã trở thành nền tảng cho một số tác giả khác dựa vào nghiên cứu và phát triển tới. Ví dụ nhà nghiên cứu Rielly đã xây dựng nên lý thuyết hấp dẫn (1931), hay nhà nghiên cứu Evertt S. Lee đã phát triển thành lý thuyết về “các nhân tố hút – đẩy” (1966).

b. Lý thuyết về các nhân tố hút – đẩy (Push - Pull Factors)

Evertt S. Lee trong tác phẩm Lý thuyết di dân (A Theory of Migration) (1966) đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến di dân và chia thành các nhóm nhỏ như:

- Nhóm nhân tố gắn liền với nơi xuất phát, nơi gốc của di dân;

- Nhóm nhân tố gắn liền với nơi đến của người di dân;

- Nhóm những trở ngại, trở lực giữa nơi xuất phát và nơi đến mà người di

dân phải vượt qua (trở ngại trung gian);

- Nhân tố mang tính cá nhân, tính cách riêng của mỗi di dân.

16

Theo lý thuyết của Evertt S. Lee, quyết định rời khỏi nơi sống hiện tại của một cá nhân hay một cộng đồng xuất phát từ nhiều lý do. Đó có thể là lý do chính trị, đời sống khó khăn, lý do hôn nhân, gặp trở ngại trong pháp luật, về phong tục lối sống,... Mỗi lý do đều có thể diễn ra ở vùng gốc nơi họ đang sinh sống khiến người ta phải di chuyển đến nơi có điều kiện hấp dẫn hơn so với cuộc sống hiện tại. Ví dụ như trường hợp của người Minh Hương ở Việt Nam, do bất đồng chính trị, không cam chịu thuần phục nhà Thanh, còn trung thành với nhà Minh đã di cư xuống Việt Nam. Họ xin tị nạn, tuân phục triều đình Việt Nam, xin khai hoang vùng đất mới và lập nên những nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam. Những yếu tố đó được Evertt S. Lee gọi là yếu tố đẩy. Ngược lại, vùng mới có thể có những điều kiện tác động tới di dân quay trở lại vùng quê gốc, ví dụ như lý do tuổi tác dẫn tới

những người lớn tuổi thường khó thích nghi vùng mới hơn những người ở độ tuổi thanh niên, những người chưa có tình cảm sâu sắc với vùng quê gốc.

Yếu tố hút là những yếu tố thuận lợi cho người di dân chọn làm nơi đến. Các yếu tố hút có thể là vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, chính sách của chính quyền sở tại, yếu tố phát triển kinh tế, nâng cao cuộc sống sinh hoạt,…

Bên cạnh đó còn có các yếu tố cá nhân như gia đình, cộng đồng, sức khỏe, tuổi tác, con cái,… là những nhân tố tác động quan trọng tới quyết định di cư, có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở quá trình di cư. Mỗi cá nhân đều có những hoàn cảnh sống khác nhau, nhận thức khác nhau, dẫn tới thái độ khác nhau đối với quyết định chuyển cư. Điều này góp phần giải thích tại sao trong cùng một hoàn cảnh và một điều kiện sống khác nhau, có người di cư nhưng lại có người lựa chọn ở lại.

Yếu tố trung gian cũng là các yếu tố trở ngại trung gian có thể xuất hiện trong quyết định di cư. Theo Evertt S. Lee, yếu tố trung gian bao gồm: Chi phí trong quá trình vận chuyển giữa nơi gốc và nơi đến. Chi phí phải trả về mặt tinh thần (mối quan hệ gia đình, bạn bè, hàng xóm láng giềng,..). Tác động của những trở ngại này phụ thuộc vào những khó khăn mà người di cư phải đối mặt. Đối với một số người, việc khắc phục những trở ngại (ví dụ chi phí vận chuyển) là tương đối dễ dàng. Nhưng đối với những người khác khó khăn trong việc khắc phục các trở ngại trung gian này là không nhỏ, khi họ không chỉ di cư một mình mà kèm theo đó là những đứa con hoặc một vài trách nhiệm liên quan khác như việc chăm sóc bố mẹ già. Điều này làm tăng các khó khăn gây ra bởi các trở ngại trung gian. Do đó, có thể nhận thấy rằng quyết định di chuyển không bao giờ là hoàn toàn hợp lý, và đối với một số người đôi khi các yếu tố hợp lý lại ít hơn nhiều so với các yếu tố bất hợp lý. Điều đó dẫn tới một hệ quả là chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều trường hợp ngoại lệ, nó khác với các trường hợp phổ biến, bắt nguồn từ những cảm xúc thoáng qua, hay những giai đoạn mà tâm lý không ổn định (có thể do trải qua một cú sốc về tâm lý) hay những yếu tố bất ngờ - cái mà được cho là nguyên nhân đáng kể của việc dẫn tới di cư.

c. Lý thuyết về các mạng lưới di cư (Migrant Networks).

17

Nhà nghiên cứu J.E. Taylor trong bài viết “Differential Migration, Networks, Information and Risk” (1986) [64. 147] đã chỉ ra tầm quan trọng của quan hệ xã hội, nhất là trong cộng đồng di cư, giữa nơi đi và nơi đến. Đó là những mối quan hệ dòng họ, bạn bè và cùng chung nguồn gốc ở nơi đến. Các mạng lưới di cư này thu hút những người di cư bằng nhiều cách khác nhau như: giảm chi phí, giảm rủi ro và tạo các điều kiện, cơ hội cần thiết trong cuộc sống. Các nhân tố đó có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp thông tin, hỗ trợ về mọi mặt đối với người di cư tới một vùng đất mới. Một khi đã hình thành, mạng lưới xã hội ngày càng phát triển, và quá trình di cư được duy trì mà không cần đến sự can thiệp của các yếu tố cấu trúc bên ngoài.

f. Lý thuyết di cư xuyên quốc gia (Transnational Migration Theory)

Lý thuyết này được đề cập trong cuốn sách Cẩm nang di cư quốc tế: kinh nghiệm của người Mỹ (1999) của các tác giả C. Hirschman, P. Kasinitz, và J. DeWind. Đây cũng là lý thuyết được nhiều học giả trên thế giới gần đây nghiên cứu và phát triển. Theo đó, người di cư luôn tìm kiếm, thỏa thuận nhằm gìn giữ bản sắc giữa hai cộng đồng đi và đến. Lý thuyết đã giải thích được thực tế người di cư gìn giữ bản sắc như thế nào trong mối liên hệ giữa các chuẩn mực xã hội tại nơi đi và đến.

Những lý thuyết trên được tham khảo, vận dụng vào việc nghiên cứu vấn đề cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng dưới góc độ một cộng đồng di cư ra nước ngoài, định cư, sinh sống làm ăn và có mối quan hệ chặt chẽ với Việt Nam.

1.1.3. Nguyên nhân quá trình di dân của cộng đồng người Hoa vào Việt

Nam.

Trong tiến trình lịch sử, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có đường biên giới chung, có mối quan hệ bang giao lâu đời. Chính vì đó mà người Hoa di cư đến Việt Nam từ rất sớm. Đó là quá trình diễn ra liên tục trong suốt các thời kỳ lịch sử, gắn với các biến động hoạt động chính trị, xã hội của cả hai quốc gia.

Sự hình thành cộng đồng người Hoa ở Việt Nam nói chung là kết quả của nhiều đợt di cư, của các quá trình tộc người phức tạp và lâu dài. Vào thế kỷ II TCN, nhà Hán đã sắp nhập nước Nam Việt vào miền Nam Trung Hoa, đặt tên là Giao Chỉ Bộ và cai trị hơn một nghìn năm. Trong quá trình cai trị, đã có rất nhiều dòng người với nhiều thành phần di cư vào nước ta. Ban đầu là những quan lại và binh lính Trung Hoa sang công cán và đồn trú. Sau đó là dân chúng được chính quyền phương Bắc tổ chức đưa sang khai phá và sinh sống, cuối cùng là những tù binh bị lưu đày. Đây cũng là chính sách của các triều đại phong kiến Trung Hoa lúc bấy giờ nhằm thực hiện chính sách đồng hóa người Việt. Cũng có nhiều viên quan, dân chúng do các biến động chính trị trong nước, họ đã chạy sang tỵ nạn ở Việt Nam. Trong Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ khi viết về Sĩ Nhiếp, thái thú Giao Chỉ, có đoạn: “Kẻ sĩ người Trung Quốc đi lánh nạn sang nhờ cậy ông có tới hàng trăm” [43, 81]. Ngoài ra còn có những tầng lớp Nho sĩ, sư sãi, người tu hành, đạo sĩ tìm về phương Nam để mở mang đạo học. Đây là những tầng lớp đặt nền móng cho nền Hán học ở nước ta. Những dòng người di cư vào nước ta trong thời kỳ này chủ yếu là những cư dân Bách Việt cũ. Đa số họ sinh sống ở vùng Quảng Đông, Phúc Kiến. Họ dễ dàng hòa nhập vào các cộng đồng người Việt nơi định cư mới. Các thế hệ người Hoa sinh sống trên đất Việt thời kỳ Bắc thuộc dần dần hòa nhập và bị “Việt hóa” ngược lại. Cũng chính họ đã gắn kết cùng cộng đồng cư dân bản địa kiên trì đấu tranh, đánh đổ sự cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc, giành lại độc lập, tự chủ.

18

Từ sau khi Ngô Quyền lập nên nền độc lập năm 938, các dòng người di cư người Hoa xuống nước ta vẫn tiếp tục diễn ra. Trong những dòng người di cư đó, đa số

là những người tị nạn chính trị, thương nhân và dân chúng nghèo khổ. Những cuộc di dân đó thường tập trung vào những giai đoạn chuyển giao giữa các triều đại phong kiến phương Bắc như: cuối Đường - đầu Tống (960 - 1279), cuối thời Tống – đầu thời Nguyên (1279 – 1368), cuối thời Nguyên – đầu thời Minh (1368 – 1644). Giai đoạn đầu, dưới các vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê không đặt nặng vấn đề quốc tịch vì coi đó là vấn đề không cần thiết, dân chúng của hai quốc gia vẫn trao đổi hàng hóa dọc biên giới một cách dễ dàng. Đến thời nhà Lý (1010-1225) đã có sự phân biệt người Hoa với người Việt. Các làng, xã vùng biên giới có các hỗ thị, các cửa khẩu giao thương ở những cửa sông là nơi tập trung những người Hoa đến buôn bán và định cư. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi có nhắc đến những điểm tập trung định cư của người Hoa như Vạn Ninh (Móng Cái), Tam Kỳ (Tuyên Quang), Trúc Hoa (Sơn Tây),…

Lý do di cư của người Hoa vào Đại Việt chủ yếu là lý do chính trị và kinh tế. Ví dụ như trường hợp Hoàng Bình, quan trấn nhậm phủ Tư Minh của nhà Tống đã đem 1200 bộ thuộc sang quy phục nhà Trần năm Quý Hợi (1263) khi chạy trốn quân Mông – Nguyên. Hay năm Giáp Tuất (1274), do bị người Nguyên tấn công nhiều lần, những người Tống khu vực Giang Nam cùng của cải và vợ con vượt biển xuống nước ta tự xưng là người Hồi Kê [38,39].

Thời kỳ nhà Minh cai trị nước ta (1407-1427), nước ta lại bị đổi tên thành Giao Chỉ, người Hoa lại di cư về phương Nam giống thời kỳ Bắc thuộc, đông đảo nhất là quan lại và binh lính. Sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi thành công, và chính sách của nhà Hậu Lê đối với người Hoa khá nghiêm khắc nên số nhập cư mới không đông. Tuy nhiên họ vẫn tập trung chủ yếu tại các thương cảng, cửa khẩu ở biên giới hai nước.

Sang đến thời Lê – Trịnh và giai đoạn Trịnh – Nguyễn phân tranh, do nhiều lý do và chủ yếu là lý do chính trị, người Hoa tỵ nạn hoàn toàn bị cấm cửa ở Đàng Ngoài. Không có nhóm di dân của nhà Minh nào được triều đình Lê - Trịnh công khai thừa nhận và che chở ở Đàng Ngoài. Người Hoa sinh sống ở Đàng Ngoài phải tuân theo luật lệ, lối sống, thậm chí cả cách ăn mặc của người Việt. Họ không được thay đổi nơi cư trú nếu như không được phép của chính quyền. Các thương nhân Trung Quốc bị đánh thuế khá cao. Các biện pháp ngặt nghèo đối với người Hoa di cư mà triều đình nhà Hậu Lê và sau này là nhà Trịnh thi hành chủ yếu bắt nguồn từ mục đích bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Tuy nhiên, Đàng Ngoài vẫn là miền đất hứa với rất nhiều người Hoa. Thăng Long, Phố Hiến là những nơi tập trung nhiều cộng đồng người Hoa đến buôn bán và sinh sống.

19

Tuy nhiên ở Đàng Trong thì ngược lại. Và đây chính là lý do phát triển mạnh mẽ cộng đồng người Hoa ở vùng đất Nam miền Trung và Nam Bộ trong lịch sử. Những di dân người Hoa đầu tiên đặt chân đến Nam Bộ là vào cuối thế kỷ XVII. Đây là thời kỳ Nam Bộ vẫn còn là một vùng đất hoang vu, dân cư thưa thớt, chính

quyền nhà Nguyễn chưa có điều kiện để kiểm soát, quản lý. Trong khi đó, ở Trung Quốc, phong trào “phản Thanh phục Minh” nổ ra ở nhiều nơi đều thất bại. Triều Thanh tiến hành truy lùng, đàn áp gắt gao các thế lực chống đối. Điều này dẫn đến một thực trạng là người Hoa di cư sang các nước trong khu vực Đông Nam Á nhằm tránh sự trừng phạt và cai trị của triều Thanh càng thêm đông. Trong bối cảnh ấy, một bộ phận người Hoa đã di cư sang nước ta. Đây cũng là đợt chuyển cư có tổ chức lớn nhất của người Hoa đến Trung Bộ và Nam Bộ vào cuối thế kỷ XVII. Trong đó cuộc di cư đến Đàng Trong của Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch (1679) và sự kiện đánh dấu mốc lớn là việc thành lập xứ Hà Tiên với vai trò nổi bật của Mạc Cửu (1708). Xét tổng thể, người Hoa di dân vào Đàng Trong chủ yếu là những người chán ghét chế độ và chính sách cai trị của nhà Thanh. Họ có thể là thương nhân, các nho sĩ, binh lính,…. Nhưng số đông là dân nghèo tìm vùng đất mới để an cư lạc nghiệp. Họ hợp thành các cộng đồng người Hoa lớn, tạo dựng nên các làng Thanh Hà, Hội An, Cù Lao Phố,…

Kể từ sau phong trào Tây Sơn nổi dậy cho tới khi Nguyễn Ánh lên ngôi, do những biến động chính trị, chiến tranh xảy ra liên tiếp đã khiến di dân người Hoa không chọn đất Việt là điểm đến định cư nữa. Đặc biệt là sau sự tan rã của cộng đồng người Hoa ở Cù Lao Phố (Biên Hòa). Phải đến khi Nguyễn Ánh lên ngôi (1802), mới xuất hiện những đợt di dân nhỏ của người Hoa. Trong giai đoạn 1802- 1884, triều đình Huế đã thi hành các chính sách vừa mềm mỏng vừa nghiêm khắc với người Hoa. Bên cạnh những quy định về pháp luật xác định quốc tịch, phân biệt người Minh Hương và Hoa kiều, nghiêm cấm tham gia phản loạn chống lại triều đình…, nhà Nguyễn tỏ ra khoan dung đối với di dân người Hoa. Triều đình cho phép người Hoa được nhập cư khi có sự bảo đảm tiếp nhận của người bang trưởng trong một bang của người Hoa. Vai trò bang hội của người Hoa lúc này cũng được đề cao hơn. Với chính sách như vậy, di dân người Hoa nhập cư vào Việt Nam khá đông về số lượng, đều đặn qua các thời kỳ và rải đều ở các địa phương trên cả nước. Các đợt di dân này chỉ ít đi khi người Pháp tấn công vào nước ta (1858).

20

Năm 1886, người Pháp ban hành chính thức quy chế các bang hội của người Hoa. Theo đó, khi đã định cư, mỗi Hoa kiều phải gia nhập vào các bang hội được quy định trong quy chế. Các công ước, các hòa ước ký kết giữa triều nhà Thanh với Pháp đã thu hút di dân người Hoa đến Việt Nam nhiều hơn. Khi tiến hành khai thác thuộc địa, để có nguồn nhân công làm thuê giá rẻ lại ít chống đối về chính trị, người Pháp đã ban hành các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho Hoa kiều nhập cư vào Việt Nam. Một số lượng lớn người Hoa vào làm việc tại các hầm mỏ, đồn điền, nhiều thợ thủ công, nông dân người gốc Quảng Đông, Phúc Kiến và các vùng duyên hải phía Nam Trung Hoa dễ dàng nhập cư. Đã xuất hiện thêm những khu vực mới của cộng đồng người Hoa tại các thành phố lớn như tại Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Sài Gòn,… Quá trình di cư đó diễn ra liên tục cho đến năm 1945.

Trong giai đoạn 1945-1975, số lượng người Hoa di cư từ Trung Hoa vào Việt Nam ít đi. Nguyên nhân chính là do đây là giai đoạn Việt Nam đang trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chính vì vậy người Hoa coi đây là mảnh đất không an toàn. Trong thời kỳ miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa, chỉ có những người Hoa đã sinh sống định cư ở đây lâu năm hoặc đến nhập cư bằng con đường chính trị, các chuyên gia Trung Quốc đến hỗ trợ và sinh sống. Ở miền Nam, thời kỳ này thì khác hơn đôi chút, do Sài Gòn được coi là hòn ngọc Viễn Đông, là nơi có đủ điều kiện để phát triển kinh tế và có cộng đồng người Hoa lớn mạnh, chính vì vậy có rất nhiều dòng di cư người Hoa đổ về đây, đặc biệt là trong giai đoạn 1953-1955.

Trong giai đoạn 1975-1979, do những bất động chính trị giữa hai quốc gia Việt – Trung, nhiều nhóm người Hoa, đặc biệt là khu vực phía bắc đã tiến hành cuộc di cư hồi hương lớn nhất trong lịch sử. Họ di cư vì lo sợ cuộc chiến tranh Việt – Trung sẽ xảy ra, sợ bị chỉ trích, đả kích, gây khó dễ bởi cộng đồng người bản địa. Trong số những dòng người di cư hồi hương đó, có rất nhiều dòng người di cư đến các trại tị nạn, rồi từ đó sang các nước thứ ba, chủ yếu là Mỹ và các nước phương Tây.

1.1.4. Chính sách của các chính quyền đối với người Hoa di cư vào Việt Nam.

Như ở trên đã đề cập, do Việt Nam và Trung Quốc có đường biên giới chung, có một quá trình lịch sử phát triển tác động qua lại lẫn nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, qua từng thời kỳ, từng vương triều hay các chính phủ có những nội dung chính sách đối với người Hoa thích ứng với những đặc điểm chính trị - kinh tế - xã hội đương thời. Chính sách thực thi đó luôn có sự kế thừa và phát triển. Chính sách đối với người Hoa của các chính quyền Việt Nam vừa phản ánh ý thức hệ của luật pháp, vừa liên quan trực tiếp đến đường lối đối ngoại của các chính quyền Việt Nam mà trong đó, suốt chiều dài lịch sử, nhân tố Trung Hoa luôn giữ vai trò chi phối quan trọng.

a. Chính sách của các vương triều từ năm 939 đến năm 1400.

Kể từ sau chiến thắng quân Nam Hán (938), nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ, các vương triều đã xây dựng nên hệ thống chính sách pháp luật nhằm đảm bảo cuộc sống và hạn chế các hành động tiêu cực có thể diễn ra trong xã hội. Một trong số đó có những chính sách về người Hoa, đặc biệt là trong giai đoạn Lý – Trần.

21

Trước hết, các vương triều trong thời kỳ này luôn duy trì chế độ kiểm soát và hạn chế nhập cảnh đối với người Hoa nhưng cũng có những ưu tiên nới lỏng với những đối tượng đặc biệt. Do nhu cầu bức thiết của một nhà nước mới giành được độc lập hoặc trải qua những cuộc chiến tranh với các vương triều phong kiến phương Bắc nên cần có sự kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên sau các cuộc chiến luôn cần những nguồn hàng hóa, lương thực để kiến thiết đất nước nên nhà nước cũng mở cửa cho một số thương nhân phương Bắc vào nước ta với mục đích trao đổi hàng hóa. Đặc biệt hơn,

sau mỗi thời kỳ chuyển giao của các vương triều phong kiến phương Bắc đa số sẽ có những nhóm người xin nhập cư dạng tỵ nạn chính trị ở nước ta. Như trường hợp đoàn nạn dân do Hoàng Bính xin đến tỵ nạn ở Đại Việt được đón tiếp và ứng xử như những người bản địa. Hay như một số tù binh, hàng binh bị bắt giữ trong các cuộc chiến tranh được nhập cư một cách đặc biệt. Trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục có viết: “nhà Tống đòi ta trao trả một nghìn người bị bắt, đến đây ta thả về hai trăm hai mươi mốt người mà thôi”[39, 373]. Như vậy thì số tù binh ở lại nước ta nhiều hơn so với số được trao trả. Trong số tù binh mà ta bắt được có nổi bật nên những con người mà sau này họ đã giúp sức trong việc xây dựng đất nước như nhà sư Thảo Đường, Lý Nguyên Cát, Trâu Tôn,...

Đối với chính sách cư trú, các vương triều thường áp dụng hình thức tập trung cư trú. Ở các vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, đã xuất hiện các làng mà cư dân ở đó là người Hoa hoặc gốc Hoa dọc đường biên giới hai quốc gia. Sang đến thời Lý – Trần, nhà nước Đại Việt đã thực hiện việc cư trú tập trung và bắt buộc đối với người Hoa mới đến. Tuy nhiên lại cho tự do cư trú, đi lại đối với các thế hệ con cháu họ, những người Hoa sinh sống ổn định lâu dài ở Đại Việt [10. 48]. Ngoài ra còn có sự đặc cách đối với tầng lớp tri thức Nho giáo, Phật giáo. Các địa điểm cư trú đông người Hoa như Vân Đồn, Vạn Ninh, Tam Kỳ, Trúc Hoa, Cầu Hải, Hội Thống,... được hình thành. Nơi cư trú thường là vùng ngoại ô, không ở trong kinh thành để đề phòng biến loạn, nhưng cũng không quá xa kinh đô để luôn có thể kiểm soát được. Trường hợp này cũng giống như cộng đồng người Chăm bị bắt ra làm tù binh ở Đại Việt.

Các vương triều thời kỳ này tuy có sự kiểm soát đối với người Hoa trong việc nhập cảnh và cư trú nhưng không kỳ thị và áp chế về mặt văn hóa. Các phong tục tập quán của cộng đồng người Hoa vẫn được duy trì, không bị cấm đoán. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có viết “người Tống có các hàng vải lụa, dược phẩm, bày hàng mở chợ buôn bán riêng” [38, 39]. Trong sử sách có ghi trường hợp ở phường Giai Tuân (Thăng Long), những người Tống xin tị nạn vẫn giữ cung cách sinh hoạt, buôn bán, hoạt động văn hóa văn nghệ được duy trì. Trong ngôn ngữ giao tiếp, người Hoa vẫn sử dụng tiếng nói của mình chứ không hề bị cấm đoán. Các điệu hát từ phương Bắc cũng được đưa vào Đại Việt và được người dân đón nhận, trong số đó có các vở diễn tuồng.

Chính sách đối với người Hoa của các vương triều thời kỳ này là chính sách đối nội, thống nhất nhưng không lệ thuộc vào chính sách đối ngoại đối với các vương triều phương Bắc. Nhìn chung các chính sách đó có nội dung tích cực, không áp chế hay có những cách ứng xừ hà khắc đối với cộng đồng người Hoa.

b. Chính sách của các vương triều từ năm 1400 đến năm 1802

22

Sau khi nhà Hồ bị tiêu diệt, đất nước rơi vào tay nhà Minh, bị sáp nhập và trở thành một quận của Trung Hoa. Chính sách cai trị của nhà Minh thực chất là áp bức, cướp đoạt của cải về mặt kinh tế, thi hành chính sách ngu dân, hủy diệt văn hóa, tiến tới mưu đồ đồng hóa về mặt văn hóa. Chính vì vậy, sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-

1427), tâm lý bài Minh được hình thành mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân và ngay trong chính triều đình nhà Lê. Tâm lý này được thể hiện ở hai mặt: quy kết toàn bộ người phương Bắc (người Hoa) là người Minh, là quân xâm lược; quy kết văn hóa Trung Hoa là văn hóa nô dịch. Do đó, trong nội dung chính sách đối với người Hoa của triều đình nhà Lê cũng xuất hiện những điều luật nghiêm khắc đối với người Hoa.

Đối với người Hoa, nhà Lê thi hành chính sách khá cứng rắn, người Hoa không được phép tự do đi lại trên đất Việt, không được phép ra vào kinh đô. Họ chỉ được đến tạm trú ở một số điểm quy định để buôn bán như Vân Đồn, Vạn Ninh, Cần Hải, Hội Thống, Hội Triều, Thống Lĩnh, Phú Lương, Trúc Hoa. Trong Lê triều hình luật có những quy định chặt chẽ về việc kiểm soát tàu thuyền, hàng hóa Trung Quốc vào nước. Trong lĩnh vực văn hóa, vương triều Lê thi hành chính sách đồng hóa bắt buộc đối với người Hoa ở lâu năm hay muốn đến định cư, “Người Minh phải mặc quần áo như người Kinh và cắt tóc ngắn”[38, 347]. Nghiêm cấm bắt chước ngôn ngữ và y phục các nước. Trong công trình nghiên cứu Chính sách đối với dân Trung Hoa di cư của các triều địa Việt Nam, tác giả Furiwara có nhận xét: “Một chính sách chú trọng về hình thức như vậy chưa bao giờ được áp dụng ở đây. Nó cho thấy biểu dương một chính sách đàn áp đối với người Trung Hoa ở Việt Nam” [82, 127]. Có thể nói đây là chính sách cứng rắn, không thân thiện và áp chế cộng đồng người Hoa.

Trong thời kỳ Lê Trung Hưng và Trịnh – Nguyễn phân tranh đã có sự khác biệt trong chính sách đối với cộng đồng người Hoa tại hai khu vực: Đàng Trong và Đàng Ngoài. Kế thừa các luật lệ của triều Lê, ở Đàng Ngoài đã có sự kiểm soát chặt chẽ đối với các thương nhân buôn bán, các trường hợp nhập cảnh cả ở đường biển và đường bộ. Về sau, do nhu cầu kinh tế, xã hội của mình, Đàng Ngoài đã nới lỏng một phần chính sách nhập cư, khu vực các thương nhân được phép vào buôn bán được mở rộng, những phu mỏ và người dân gốc Hoa có thể vào khai thác các mỏ kim loại. Tuy nhiên triều đình vẫn thực hiện chính sách kiểm soát chặt chẽ về số lượng, nhân thân và hoạt động của họ. Trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục có ghi: “… Triều đình e rằng sẽ sinh sự biến động, bèn định thể lệ: số phu mỗi mỏ nhiều nhất 300 người, thứ đến 200 người, và ít là 100 người, không mỏ nào được dùng quá số đã định. Từ đó số phu làm ở các mỏ mới hạn chế” [39,410].

23

Việc người Hoa cư trú trong thành Thăng Long được chính quyền nghiêm cấm. Tuy nhiên, việc kinh doanh buôn bán và định cư của người Hoa vẫn được diễn ra ở một số địa điểm được triều đình cho phép, trong số đó xuất hiện nổi bật địa điểm Phố Hiến. Đây là nơi tập trung đông đảo cả người Hoa và các thương nhân người phương Tây đến Đại Việt buôn bán làm ăn. Những người mới đến, không định cư lâu dài sẽ bị khu biệt về nơi cư trú, không được phép sống chung lẫn với người Việt. Những người ở lại làm ăn sinh sống lâu năm, hoặc là người gốc Hoa sẽ được chính quyền cho chung sống với người Việt ở bất cứ nơi đâu, nhưng phải tuân theo phong tục của người Việt. Năm

1666, vua Lê Huyền Tông có lệnh, nếu là người nước ngoài “quần áo và cách cư xử cũng theo như quốc tục ta thì cho các xã, thôn, trang, sách khai vào hộ tịch” [8, 224].

Việc đồng hóa văn hóa người Hoa đã gắn liền với vấn đề hộ tịch. Người Hoa sinh sống lâu năm ở Đại Việt thì được phép nhập hộ tịch và khi đã được nhập tịch thì người đó phải theo văn hóa Đại Việt. Chính vì vậy có thể thấy tâm lý bài Minh mà xa hơn là tâm lý bài Hoa vẫn diễn ra mạnh mẽ trong các vương triều phong kiến ở miền bắc Việt Nam thời kỳ này. Xét về các khoản thuế, những người Hoa định cư lâu năm vẫn phải đóng các khoản thuế như thuế thân, thuế thóc, thuế ruộng đất,… giống như người Việt. Các thương nhân nước ngoài, trong đó có thương nhân người Hoa phải chịu các thuế về thương mại như thuế sản vật, thuế tuần ty và thuế chợ. Việc đánh thuế này tạo nguồn thu cho chi tiêu của triều đình, song cũng tạo nên những quy định phiền hà, thủ tục thuế phức tạp đã làm cho các thương nhân nước ngoài tìm đến các địa điểm buôn bán mới như khu vực Quảng Đông của Trung Hoa hay khu vực Hội An ở Đàng Trong.

Khác với chính quyền Đàng Ngoài, với mục tiêu xây dựng lực lượng, mở rộng vùng đất kiểm soát, chính quyền Đàng Trong đã sáng suốt và khôn khéo thực hiện các chính sách thu hút các nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc khai hoang ở phía nam. Bên cạnh những lực lượng người Việt đi theo chúa Nguyễn vào phía nam, lực lượng người Hoa đã trở thành một nguồn lực quan trọng cho chiến lực phát triển của chính quyền Đàng Trong. Chính quyền Đàng Trong đã khéo lôi kéo, cởi mở đối với các tầng lớp người Hoa. Từ những thương nhân chỉ dám tạm trú để những nhóm người tránh nạn đến cư trú lâu dài, mỗi tầng lớp, thành phần đều có cách xử trí riêng để họ có thể hòa nhập với cộng đồng dân cư bản địa cũng như có thể tận dụng tốt các thế mạnh của họ trong việc phát triển chính quyền Đàng Trong. Bên cạnh đó, để tránh những rắc rối từ nhà Thanh, có được những lực lượng đông đảo, các chúa Nguyễn đã tìm cách biến họ thành dân có hộ tịch, cư trú thường xuyên trong vùng kiểm soát của mình. Các chúa Nguyễn còn thực hiện cách đồng hóa dựa trên việc tôn trọng văn hóa, đồng thời cũng ra sức tạo cho văn hóa đó hòa hợp với văn hóa bản địa. Kết quả không những không xảy ra các cuộc xung đột về văn hóa, trái lại di dân và dân bản địa sống hòa hợp với nhau, hợp tác và tạo nên một cơ sở vững chắc trong đời sống dân cư. Với các chính sách được đãi ngộ đặc biệt, có thể nói cộng đồng người Hoa ở Đàng Trong có thể phát huy được hết những sở trường của mình để phục vụ cho sự phát triển chính trị, kinh tế, xã hội lúc bấy giờ.

c. Chính sách của triều Nguyễn với người Hoa.

24

Do có công lao lớn trong việc giúp sức lật đổ vương triều Tây Sơn, chính quyền nhà Nguyễn luôn có cái nhìn thiện cảm, trân trọng đối với cộng đồng người Hoa. Hơn nữa, sau khi thành lập chính quyền mới, thiết lập mối quan hệ ngoại giao với nhà Thanh của triều đình Huế là mối quan tâm hàng đầu. Điều đó tạo nên những thuận lợi cho cộng đồng người Hoa ở Việt Nam cũng như những người Hoa muốn di cư sang

Việt Nam. Tuy nhiên trong chính sách của triều Nguyễn cũng có những hạn chế, những thành công và cả thất bại trong việc quản lý, kiểm soát người Hoa.

Trước hết, nhà Nguyễn đã đưa ra các chính sách nhằm phân biệt rõ rệt giữa người Minh Hương và người Thanh hay nói cách khác là người Hoa định cư lâu đời ở Việt Nam và người Hoa mới di cư vào. Để nhập cảnh vào trong nước ta, theo các chỉ dụ của Minh Mạng được viết trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ [41, 434], người Hoa phải thực hiện các quy định:

- Phải được ghi tên và điểm mục vào sổ đăng ký hành khách ở trạm cửa khẩu.

- Phải được bang trưởng tại địa phương đứng ra bảo kết vào bang đó. Điều kiện

này đã bao gồm cả việc đăng ký ấn định quản lý về hành chính và cư trú.

- Phải chịu ghi tên vào sổ bộ thuế và đóng thuế theo lệ. Thủ tục và quy định nhập

cảnh gắn liền với tổ chức thu thuế, trước hết là đối với những người Hoa có vật lực.

Các điều kiện trên phần nào đó làm cho việc nhập cảnh của di dân người Hoa khá chặt chẽ, chính quyền đã nắm bắt thông tin và quản lý người nhập cư ngay từ đầu. Những quy định đó cũng đã nâng cao vai trò của người bang trưởng, di dân phải được bang trưởng bảo lãnh và kết nạp họ vào bang hội của mình thì mới được nhập cư. Tuy nhiên cũng có rất nhiều người không đăng ký và ẩn lậu. Chính sách nhập cư của triều Nguyễn với người Hoa có phần ưu ái hơn với các nhóm người, các thương nhân ngoại quốc khác. Các thuyền buôn Trung Hoa lui tới đông đảo cho dù triều đình Huế đã đưa ra chính sách “bế quan tỏa cảng”. Người Hoa vào Việt Nam vào thời kỳ này ngoài các thương nhân buôn bán có những phu mỏ, những nạn dân tìm nơi lánh nạn, những đám đông có vũ trang của các nhóm tàn binh trong các cuộc chiến, đặc biệt là những nhóm tàn binh của Thái Bình Thiên Quốc và cả những kẻ buôn lậu. Trong những cuộc di cư đó, có nhiều cuộc di cư bất hợp pháp mà nhiều lần triều đình nhà Nguyễn phải lên tiếng với chính quyền Mãn Thanh về những cuộc xâm nhập trái phép đó.

Ngoài ra, khi người Hoa được chấp nhận cư trú tại Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn lại có những quy định cư trú cụ thể để phân biệt các đối tượng người Thanh ở các bang hội và người Minh Hương ở các Minh Hương xã. Việc phân chia này nhằm bố trí riêng nơi cư trú của người Thanh với người Việt và những người Hoa cư trú lâu đời ở trong nước, dễ dàng kiểm soát và đánh thuế riêng. Xét về thuế, các mức thuế đối với người Hoa của triều Nguyễn là sự tùy tiện và thiếu thống nhất, có sự thay đổi trong mỗi đời vua, mỗi giai đoạn. Nhìn chung người Hoa chịu mức thuế cao hơn so với người Việt; đặc biệt giữa người Thanh và người Minh Hương lại có mức thuế khác nhau, nhất là trong thuế biên nạp và thuế nhập cảng. Tuy nhiên trong loại thuế đánh vào đầu người, sau nhiều lần điều chỉnh, triều đình Huế đã tính thuế người Hoa chung nhất trong biểu thuế đối với người Minh Hương.

25

Trong thời kỳ người Pháp tiến hành xâm lược nước ta, triều đình Huế đã thực hiện một số ưu đãi rất lớn cho người Hoa nhằm lôi kéo họ, là thế lực đối trọng đối với

Pháp trong kinh tế và xã hội. Trong báo cáo của Turc, viên Lãnh sự Pháp tại Hải Phòng gửi cho Thống đốc Nam Kỳ có viết: “Người Châu Âu bị các hiệp ước giới hạn, chỉ được hoạt động ở Hải Phòng và Hà Nội, không thể đi mua trực tiếp ở người sản xuất. Người Hoa được đi lại tự do trong cả nước, chẳng những giữ được phần họ đã có trong buôn bán xưa và nay, mà sẽ còn chiếm lấy tất cả các ngành mới khi chúng ta được tạo lập thêm” [86, 136]. Tuy nhiên chính ông trong bản báo cáo chỉ sau đó 03 tháng lại cho rằng: “sự hiện diện của họ (người Hoa) ở Hải Phòng là dấu hiệu phát triển và tình hình tốt đẹp của cảng… Người Hoa ở Hà Nội, trở nên mạnh dạn vì những nguồn lợi thu được, đã bắt đầu tranh cãi về các sản phẩm xuất khẩu: họ đã mua với giá rất cao. Thế nhưng ngày nay, giá trị của phần lớn các mặt hàng ở Hồng Kông gần như không cao hơn ở Hà Nội… Những người nắm hàng không dám xuất và chúng ta ở đâu với 4 con tàu gần như trống rỗng, trông chờ một sự chuyển hàng không chắc đã xảy ra…”[86, 142].

Tuy nhiên, triều đình Huế cũng ban hành những sắc lệnh nhằm kiểm soát và cấm những người Hoa buôn bán trao đổi. Theo Huỳnh Ngọc Đáng đã chia các lệnh ra làm hai nhóm lệnh cấm:

- Nhóm lệnh cấm thương nhân đưa thuyền chở hàng hóa trong nước đi buôn ra nước ngoài. Lý do đưa ra các lệnh cấm này vì nạn buôn lậu, đặc biệt là gạo ra nước ngoài ngày càng gia tăng. Đối tượng của các lệnh cấm này không chỉ người Hoa mà còn cả người Việt. Lệnh cấm không chỉ cấm vượt biển buôn bán ở các nước khác mà còn cấm không cho dong thuyền ra biển dù chỉ chở hàng hóa đi các tỉnh Trung Kỳ và Bắc Kỳ.

- Nhóm lệnh cấm buôn lậu. Lệnh cấm này chi phối hai đối tượng: những người Thanh gom mua, chở đi bán ở nước ngoài và bất cứ người dân nào trong nước tiếp tay cho người Thanh gom mua.

Nhìn chung, hai nhóm lệnh cấm trên đã làm nổi nên ý thức gìn giữ nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên lại cản trở sự phát triển của nền kinh tế thương nghiệp, làm nổi bật nên nền kinh tế tự cung tự cấp, bế quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn.

26

Về văn hóa đời sống, triều đình Huế vẫn tôn trọng văn hóa truyền thống của cộng đồng người Hoa. Mọi phong tục, tập quán, tín ngưỡng của người Hoa đều được tôn trọng. Dần dần, các khu phố người Hoa được hình thành, trải dài khắp cả nước. Phong tục tập quán của họ được chính quyền công nhận và cho phép thực hiện trong mọi biểu hiện của cuộc sống sinh hoạt, từ trong ăn, mặc đến kiến trúc, giao tiếp xã hội... Tuy vậy cũng có sự cưỡng bức mang tính tự nhiên như việc cấm để tóc gọt đầu để bím tóc đuôi sam theo phong tục nhà Thanh. Hay việc đứa trẻ người Hoa sinh ra ở Việt Nam được coi là người Minh Hương khi tròn 18 tuổi thì

phải đăng ký vào sổ bộ Minh Hương xã, không được phép đăng khí vào sổ bộ hàng bang. Điều đó nhằm thực hiện hóa quốc tịch Việt đối với người Hoa.

Tóm lại có thể nói chính sách của triều Nguyễn với người Hoa có phần nới lỏng, ưu ái do có công trợ giúp lật đổ vương triều Tây Sơn buổi đầu và là thế lực đối trọng với người Pháp sau này. Tuy nhiên chính sách của triều Nguyễn cũng có những mặt hạn chế. Đó là việc bất lực kiểm soát các hoạt động kinh tế của người Hoa trong quá trình giao thương buôn bán với bên ngoài, bất lực trong việc kiểm soát các thành phần bất hảo người Thanh…

d. Chính sách của chính quyền thực dân Pháp

Với sự xuất hiện của thực dân Pháp tại Việt Nam, người Hoa thời kỳ này dường như có điều kiện phát huy thế mạnh của mình, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Người Hoa được sự trợ giúp, lôi kéo của cả hai chính quyền là triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp với mục đích làm cán cân đối trọng. Hơn nữa, khi người Pháp vào, những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy quá trình hoạt động buôn bán của người bản xứ, đặc biệt là người Hoa, vốn là lợi thế của họ. Trong tác phẩm Thế lực Khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ, tác giả Đào Trinh Nhất cho rằng, nếu trong tổng số vốn tư bản thuộc địa ở Việt Nam là 224 triệu Franc (FRC) tư bản người Hoa chiếm tới 97 triệu FRC [42,29].

Một phần nhờ tính đa dạng nghề nghiệp, tính tổ chức chặt chẽ, tương đồng về ngôn ngữ và nhất quán trong mạng lưới kinh doanh, người Hoa có lợi thế trong việc nắm bắt thị trường. Mặt khác, quan hệ giữa thực dân Pháp và chính quyền nhà Thanh có những chính sách ưu ái người Hoa, thực hiện những chính sách bất bình đẳng với Việt Nam như cấm người Việt vào sâu nội địa Trung Quốc để buôn bán, các lệnh cấm một số hoạt động kinh tế đối với người Việt như khai thác mỏ.

Tư sản Hoa cũng là chỗ dựa xã hội đáng tin cậy cho người Pháp ở Đông Dương. Người Pháp cho rằng Hoa kiều là những người trung gian giữa người ngoại quốc, người Pháp với người bản xứ. Các đời Toàn quyền Pháp ở Đông Dương hầu như đều thừa nhận vai trò, vị trí của người Hoa, cấp cho người Hoa một số ghế nhất định trong chính quyền thuộc địa. Người Hoa được phép thực hiện các hoạt động kinh tế mà người Pháp được coi là độc quyền trong một giới hạn nhất định như hoạt động khai mỏ, hoạt động ngân hàng…

27

Về mặt văn hóa – xã hội, chính quyền người Pháp cũng thực hiện các chính sách giống như triều đình Huế thực hiện, tôn trọng phong tục, tập quán, tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa. Cho phép người Hoa xây dựng trường học, bệnh viện, rạp hát, các công trình công cộng… phục vụ dân sinh. Các tuyến phố, khu phố người Hoa được hình thành, phân khu một cách rõ rệt như tại các thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn,… Trong xã hội, luật pháp được chính quyền người Pháp được xây dựng không phân biệt người Hoa và người Việt mà

được hưởng quyền lợi cũng như nghĩa vụ như nhau; khác hẳn trong lĩnh vực kinh tế, khi người Hoa được coi trọng hơn.

e. Giai đoạn 1954-1975

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và sự kiện ký kết Hiệp định Geneve năm 1954, đất nước tạm chia cắt thành hai phần với hai thể chế chính trị khác nhau. Miền Bắc đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, miền Nam theo thể chế cộng hòa, đứng sau là sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ. Hai thể chế chính trị này cũng tác động tới đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của cộng đồng người Hoa tại hai khu vực.

Tại miền Bắc, quan hệ giữa hai chính quyền của hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc nồng ấm, thân thiết, các chính sách dành cho người Hoa khoan dung và dễ dàng hơn so với miền Nam. Người Hoa có quyền được lựa chọn quốc tịch của mình theo sự thỏa thuận của hai chính quyền. Một số tư thương người Hoa được phép buôn bán nhỏ hoặc mở cửa hàng ăn uống. Nhiều người Hoa hoặc gốc Hoa được làm việc tại các nhà máy, các hầm mỏ tại miền Bắc. Ngoài ra cũng có nhiều người Hoa được kết nạp vào Đảng, giúp chế độ quản lý hành chính tại các xí nghiệp, cơ quan ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Móng Cái, Quảng Ninh,… Tuy nhiên cộng đồng người Hoa ở miền Bắc thời kỳ này không có điều kiện để phát triển mạnh mẽ như ở miền Nam. Kể từ khi thực hiện chính sách kinh tế tập thể, quốc hữu hóa cơ sở kinh doanh tư nhân dưới thời Pháp thuộc, người Hoa có truyền thống thống buôn bán dần trở thành những công nhân trong các nhà máy, nông trường, các hợp tác xã.

Trong việc quản lý hành chính, không có người Hoa nào được giữ chức vụ cao cấp trong đảng, an ninh, quân sự và chính phủ. Tuy nhiên tại mỗi khu dân cư, tổ dân phố có cộng đồng người Hoa sinh sống đều có một người Hoa địa phương trong bộ máy điều hành. Họ là cầu nối giữa người Hoa địa phương với chính quyền. Trong giai đoạn chiến tranh, người Hoa được miễn nghĩa vụ quân sự, nhưng cũng có rất nhiều người Hoa hoặc gốc Hoa tình nguyện đăng ký vào chiến trường. Tuy vậy, người Hoa vẫn phải thực hiện các nghĩa vụ hậu phương, tăng gia lao động sản xuất phục vụ chi viện cho chiến trường.

Cộng đồng người Hoa ở miền Bắc vẫn duy trì lối sống phân khu vực tập trung nhiều người Hoa, sinh sống tách biệt với người Việt, cho dù ở một số khu vực cũng có sự đan xen giữa người Việt và người Hoa. Đời sống văn hóa của họ vẫn được chính quyền tôn trọng, nhiều trường học dành riêng cho con em người Hoa được xây dựng, các đền chùa của người Hoa được giữ nguyên vẹn… Mức sống của người Hoa tương đương với mức trung bình của người dân miền Bắc, tùy theo chức vụ, nghề nghiệp, có nghĩa là được bình đẳng trong chế độ bao cấp.

28

Tại miền Nam, sau Hiệp định Geneve, nhiều người Hoa từ miền Bắc đã di cư vào miền Nam theo sự lôi kéo của thực dân Pháp và nỗi lo sợ sẽ bị chính quyền

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gây khó dễ. Trong những năm đầu, sau khi tạm giải quyết những vấn đề an ninh trật tự trong nước, chính quyền Ngô Đình Diệm đặt trọng tâm vào việc giải quyết những vấn đề an sinh xã hội và phát triển kinh tế, trong đó có vấn đề về cộng đồng người Hoa. Vấn đề hội nhập của người Hoa được xem là vấn đề khó nhất. Trước hết, đại đa số người Hoa không muốn mang quốc tịch Việt Nam, cùng với đó, chính quyền Ngô Đình Diệm cho rằng người Hoa muốn làm loạn và cố tình không muốn hiểu nền kinh tế non nớt của đất nước rất cần sự hợp tác của họ.

Trước vấn đề đó, chính quyền Diệm đã ban hành Dụ số 52 ngày 29/8/1956 và Dụ số 53 ngày 6/9/1956 quy định Hoa kiều sinh sống tại Việt Nam cộng hòa phải mang quốc tịch Việt Nam. Khi có quốc tịch, họ mới có quyền giao dịch, đi lại và buôn bán. Những người không nhập tịch đều được coi là người nước ngoài cư trú tạm thời. Tên địa danh, các cửa hàng buôn bán phải viết bằng tiếng Việt. Cấm người ngoại quốc không được hành 11 nghề: buôn bán cá thịt, chạp phô (tạp hóa), than củi, nhiên liệu, tơ sợi, trung gian mua bán, kim loại, lương thực, chuyên chở, xay gạo và dịch vụ. Qua hai dụ này có thể thấy chính quyền Diệm muốn đưa người Hoa trở thành người Việt, ép các thương nhân người Hoa buộc phải nhập tịch, phục vụ phát triển kinh tế đất nước, không cho họ lựa chọn quốc tịch của mình. Ông (Diệm) cho rằng người Hoa không có lý do gì sống bên lề một xã hội mà trong đó họ (người Hoa) vui hưởng đầy đủ quyền lợi của một công dân như quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, tự do cư trú, tự do đi lại [22.75].

Trước các chính sách của chính quyền Diệm đưa ra, nhiều Hoa kiều, đa số là những thương nhân đã di dời về Hồng Kông, Đài Loan, các nước khu vực Đông Nam Á,… Những Hoa kiều còn lại, đa số là giới bình dân do không thể di chuyển sang các quốc gia khác chậm chạp chấp hành hai đạo dụ trên. Thực ra lý do chính là khi họ mang quốc tịch Việt Nam, họ phải phục vụ đất nước, phải đi lính nghĩa vụ và ra chiến trường, nơi mà họ không muốn. Họ sẵn sàng đóng góp mọi thứ cho chính quyền để miễn sao không phải đi quân dịch. Tuy nhiên sau khi thực hiện hai dụ 52 và 53 cũng như nhiều Hoa kiều dời đi, chính quyền Diệm cũng nhìn nhận vai trò trong lĩnh vực dịch vụ thương mại của người Hoa không phải dễ dàng thay thế. Kinh tế lúc này đã sụt giảm mạnh, lạm phát tăng, lượng người thất nghiệp cũng gia tăng do không có cơ sở sản xuất. Về phía người Hoa chế độ bang trưởng bị bãi bỏ và Hội Ái Liên bị cấm, cộng đồng người Hoa thiếu người trung gian để lãnh đạo tại chỗ.

29

Trước tình hình đó, ngày 1/11/1963, sự kiện chính quyền Diệm bị đảo chính như mở cửa cho Hoa kiều tại miền Nam. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ dễ dàng hơn trong việc cho phép họ buôn bán, kinh doanh, định cư lâu dài. Và đúng như họ mong ước, chính quyền mới của Nguyễn Văn Thiệu đã đưa ra các văn bản cho phép người Hoa tự do đầu tư buôn bán, mở rộng thị trường tại miền Nam Việt Nam. Từ

đầu năm 1964, Hoa kiều quay trở lại mở cửa các cơ sở kinh doanh, sản xuất khắp các vùng Nam Bộ, đặc biệt tại Sài Gòn. Với sự tham chiến của Hoa Kỳ năm 1965, an ninh ở miền Nam được bảo đảm, các thương nhân Hoa kiều đầu tư vào miền Nam không do dự. Ngoài những cơ sở thương mại, sản xuất, người Hoa đã nắm bắt cơ hội khi Hoa Kỳ không ngừng rót tiền cho chính quyền Thiệu, họ đã mở các cơ sở phục vụ giải trí với đầy đủ thể loại ăn chơi. Các cơ sở y tế, trường học hay các cơ sở phục vụ dân sinh khác cũng được người Hoa xây dựng. Các bang hội người Hoa được phép hoạt động trở lại, phát triển mạnh mẽ, tăng cường các hoạt động kinh tế và văn hóa.

Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh chóng của xã hội miền Nam nói chung và của cộng đồng người Hoa nói riêng đã tạo nên sự ngăn cách giữa người giàu và kẻ nghèo, nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội. Nhiều biện pháp của chính quyền ban ra nhằm hạn chế tệ nạn xã hội hay thu ngắn khoảng cách giàu nghèo nhưng không mang lại kết quả. Nhiều tài phiệt người Hoa đã mua chuộc quan chức trong chính quyền để đạt được những mục đích kinh tế của mình. Trong xã hội hình thành nên nhiều băng nhóm người Hoa gây mất trật tự trị an. Sự lũng đoạn gay gắt đến nỗi năm 1965 Hội Đồng Cách Mạng, do tướng Nguyễn Cao Kỳ lãnh đạo, buộc phải thành lập một pháp trường sát ngay chợ Bến Thành để xử bắn gian thương. Một gian thương gốc Hoa tên Tạ Vinh đã bị xử bắn về tội đầu cơ gạo. Mục đích của vụ án này nhằm răn đe nhóm tài phiệt gốc Hoa đang tung hoành trên thương trường miền Nam.

Về đời sống văn hóa, từ sau năm 1963, người Hoa được phép sử dụng chữ Hán để giao tiếp. Báo chí Hoa ngữ cũng xuất hiện nhiều với số lượng phát hành lớn. Có thể kể đến các tờ Viễn Đông nhật báo, Thế Giới nhật báo, Quần Thanh nhật báo, Việt Hoa vãn báo,…. Nhiều trường học được phép dạy chữ Hán, hệ thống trường trung học dành riêng cho người Hoa. Truyền thống văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo vẫn được lưu giữ và được chính quyền cho phép thực hiện. Văn hóa Trung Hoa không những được lưu giữ trong cộng đồng người Hoa còn phát triển, ảnh hưởng tới lối sống của không ít bộ phận dân cư người Việt. Các tiết mục sân khấu, phim ảnh, các tác phẩm văn học, kiếm hiệp,… mang màu sắc văn hóa Trung Hoa không ngừng được trình diễn, xuất bản đưa vào trong xã hội.

f. Chính sách của nhà nước đối với người Hoa từ sau năm 1975 đến nay.

30

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đến đầu năm 1978, tình hình người Hoa trên khắp cả nước có nhiều biến động. Do tác động giữa quan hệ Việt – Trung ngày càng căng thẳng đã khiến cho đại bộ phận người Hoa ở Việt Nam rơi vào tâm trạng hoang mang, lo lắng. Hơn nữa ở các quốc gia khác tại khu vực Đông Nam Á đã xuất hiện các phong trào bài xích người Hoa, nhiều người Hoa bị bắt, tra tấn và giết hại lại càng kiến cho người Hoa trong nước trở nên lo sợ. Vì vậy nhiều gia đình người Hoa đã quyết định rời bỏ Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau để trở về Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông hoặc sang nước thứ ba xin tị nạn.

Trước tình hình đó, ngày 27/5/1978, Bộ ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ra tuyên bố chính thức về chính sách đối ngoại với người Hoa ở Việt Nam nhằm ổn định tình hình người Hoa trên toàn lãnh thổ. Tuy nhiên đến cuối năm 1978, tình hình chính trị giữa hai nước Việt – Trung xung đột ngày càng leo thang, đồng thời dưới sự tác động lôi kéo của chính quyền Trung Quốc đối với Hoa kiều ở Việt Nam, có rất nhiều người Hoa đã bỏ nhà cửa để trở về cố hương. Các dòng di cư trở về nhiều nhất ở miền Bắc. Ở miền Nam, do cộng đồng người Hoa sinh sống ở đây qua nhiều đời; cùng với đó người Hoa là một thế lực kinh tế mạnh mẽ giúp phát triển kinh tế của khu vực nên chính quyền ta ra sức tuyên truyền, phân tích tình hình, ra sức giúp đỡ cộng đồng người Hoa ổn định cuộc sống và tăng cường tinh thần đoàn kết trong quần chúng nhân dân. Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng ra chỉ thị số 214 nhằm theo dõi và tham gia tăng cường công tác bồi dưỡng lực lượng cốt cán trong người Hoa, quan tâm tới các cơ sở có đông người Hoa và thực hiện tốt chính sách Hoa vận.

Khi cuộc xung đột biên giới Việt Trung đầu năm 1979 nổ ra, chính quyền ra đã tổ chức nhiều cuộc nói chuyện, tiếp xúc với bà con Hoa kiều hoặc người gốc Hoa, thuyết phục họ yên tâm ở lại Việt Nam sinh sống, chỉ rõ âm mưu của giới cầm quyền Trung Quốc, vận động người Hoa thực hiện các kế hoạch đảm bảo an toàn tính mạng. Một số người dân muốn trở về nước cũng được chính quyền ta hỗ trợ thuyền và các trang bị thiết yếu, tuy nhiên đây chỉ là số ít.

Kể từ năm 1979, chính quyền ta siết chặt tình hình hộ tịch đối với người Hoa, buộc họ phải nhập tịch Việt Nam để đảm bảo tình hình an ninh quốc gia. Tuy nhiên khác hẳn với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước, người Hoa ở lại Việt Nam không phản kháng mà ngược lại đồng tình đi đăng ký. Chính quyền ta cũng không gây khó dễ hay ngăn cấm trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội chính đáng của cộng đồng người Hoa. Giống như những công dân Việt Nam khác, người Hoa khi nhập tịch Việt Nam được phép tham gia bầu cử, gia nhập Đảng Cộng sản cũng như được làm mọi nghề nghiệp tại các cơ quan, xí nghiệp…

31

Từ sau năm 1991, khi quan hệ Việt – Trung thực hiện bình thường hóa, tuy còn nhiều mặt hạn chế do sự tác động của nền kinh tế bao cấp, nhưng cộng đồng người Hoa đã ổn định kinh tế, tinh thần. Đại đa số bộ phận người Việt gốc Hoa, Hoa kiều có khuynh hướng ủng hộ lập trường và quan điểm của chính phủ Việt Nam trong mọi lĩnh vực của đời sống. Chính phủ cũng luôn quan tâm, chăm lo cho đời sống của họ, hướng dẫn, tuyên truyền, vận động cộng đồng người Hoa chấp hành các chính sách và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tạo mọi điều kiện nhằm thu hút các nhà đầu tư Trung Quốc đến Việt Nam. Có rất nhiều người Việt gốc Hoa đã trở thành những doanh nhân lớn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Trong Thông báo số 125/TB-VPCP, ngày 13/6/2007 của Văn phòng Chính phủ về thực hiện một số chính sách đối với người Hoa, Phó Thủ tướng

Trương Vĩnh Trọng đã khẳng định: “người Hoa là một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Tóm lại, chính sách của Nhà nước đối với người Hoa ở Việt Nam hiện nay như

sau:

- Về chính trị: người Hoa được gia nhập các đoàn thể chính trị, kinh tế, được

kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Về kinh tế: người Hoa được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ như mọi

công dân khác.

- Về văn hóa: được gìn giữ và phát huy tinh hoa văn hóa của người Hoa.

Người Hoa đã trở thành một thành viên trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Đó là một thực tế, là sự phát triển tất yếu, khách quan của quy luật xã hội, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của bất cứ chính quyền nào trong xã hội Việt Nam

Ở mỗi giai đoạn lịch sử, các chính quyền đều có những chính sách khác nhau đối với cộng đồng người Hoa. Những chính sách đó đều nhằm mục đích quản lý người Hoa, khuyến khích họ hội nhập vào xã hội Việt Nam, cũng như tận dụng những ưu thế của họ trong công cuộc xây dựng đất nước.

1.2. Tổng quan quá trình hình thành và phát triển thành phố Hải Phòng

1.2.1. Điều kiện tự nhiên của thành phố Hải Phòng Thành phố Hải Phòng ngày nay nằm trong hệ tọa độ địa lý từ 20o30’39” đến 21o01’15” vĩ độ Bắc và 106o23’39” đến 107o08’39” kinh tuyến Đông, với các điểm cực: điểm cực Đông là ranh giới biển giữa Hải Phòng và Quảng Ninh qua đảo Cát Bà; điểm cực Tây qua thôn Đại Nỗ, xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo; điểm cực Nam qua xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Bảo; điểm cực Bắc qua thôn Phi Liệt, xã Lại Xuân, huyện Thủy Nguyên. Ngoài ra, Hải Phòng còn có đảo Bạch Long Vĩ nằm gần giữa vịnh Bắc Bộ, có tọa độ 20o08 vĩ độ Bắc, 107o44 kinh độ Đông.

Hải Phòng là một vùng đất có lịch sử thành tạo địa hình khá đặc biệt. Về cơ bản, địa hình Hải Phòng có thể chia thành 3 kiểu chính: địa hình vùng lục địa và các đảo, địa hình bờ biển hiện đại và địa hình đới bờ cổ bị ngập nước. Trong đó, phần lớn địa hình trên cạn của Hải Phòng là địa hình đồng bằng bằng phẳng được thành tạo bởi quá trình tích tụ sông - biển với vật liệu là các trầm tích cuội, sỏi, cát bộ và bùn sét. Còn phần địa hình bờ biển hiện đại là đồng bằng bằng phẳng hoặc dạng sóng, thành tạo chủ yếu là do tác động của sóng và thủy triều. Phần địa hình đới bờ cổ ngập nước là đồng bằng bằng phẳng hoặc dạng sóng được tạo ra bởi hoạt động xâm thực của sóng, hoạt động tích tụ của thủy triều, hải lưu kéo dài từ xưa đến nay.

32

Bên cạnh đó, hệ thống sông cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình thành tạo vùng đất này. Đồng bằng Bắc Bộ được tạo ra bởi phù sa tích tụ của sông

Hồng và sông Thái Bình, song vai trò của sông Hồng quan trọng hơn, còn sông Thái Bình chỉ giới hạn ở một phần lãnh thổ nhỏ thuộc rìa Đông Bắc, bao gồm cả Hải Dương, Hải Phòng ngày nay. Như vậy, vùng đồng bằng Hải Phòng là sản phẩm trực tiếp của quá trình bồi đắp phù sa từ hệ thống sông Thái Bình; đó là các con sông nhánh cấp 2 hoặc cấp 3 của nó như sông Bạch Đằng, sông Cấm, sông Lạch Tray, sông Văn Úc… Cùng với sự hoạt động của biển và hệ thống sông thực sự đóng vai trò quyết định trong việc hình thành vùng đồng bằng thấp ven biển, bao gồm cả vùng đô thị Hải Phòng xưa và nay. Hệ thống sông ở Hải Phòng đã tạo nên một thể liên kết thống nhất trên địa bàn của thành phố, cho phép thuyền bè có thể đi lại thông thương trong vùng đất này dễ dàng, thuận tiện. Theo kết quả khảo sát của J.L de Lanessan thì “thành phố Hải Phòng ở vào khoảng 11km về phía trên cửa Cấm. Nó được xây dựng trên hữu ngạn của sông và trên hai bờ của một nhánh sông gọi là sông Tam Bạc. Nhờ có con sông này mà thuyền bè có thể đi khắp thành phố rất ích lợi cho việc buôn bán” [53]. Tuy nhiên hệ thống sông ngòi nhiều cũng có mặt hạn chế trong việc phát triển đô thị. Nhà báo Paul Beur trong bài viết Từ Paris tới Bắc Kỳ đã nhận xét: “Tôi đã trông thấy một số nhà tranh, nước dồi dào nhiều hơn đất. Những ao hồ bị cắt quãng bởi những con đê. Hải Phòng đã vượt lên từ một nơi hoang vắng bùn lầy”. Có thể thấy rõ hệ thống sông ngòi và những ao hồ đã làm ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng thành phố.

Một yếu tố tự nhiên quan trọng tác động đến lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Hải Phòng là biển. Quá trình biển rút trong quá khứ diễn ra trong thời gian dài đã dần tạo ra một sự định hình tương đối rõ nét các cửa sông hình phễu ở ven biển Hải Phòng. Sự tồn tại của các cửa sông này đã tạo nên ưu thế về mặt giao thông cho các khu vực cửa sông ven biển Hải Phòng so với các cửa sông ven biển ở vùng hạ châu thổ Bắc Bộ. Chính yếu tố này đã chi phối toàn bộ quá trình phát triển địa mạo bờ biển Hải Phòng hiện đại cũng như vai trò của nó trong hệ thống giao thông thương mại ở Bắc Bộ. Hệ thống sông chính và các nhánh chi lưu của nó và địa hình của một vùng duyên hải ven biển dù được tạo thành muộn đã trở thành tiền đề tự nhiên quan trọng, thúc đẩy cho quá trình khai phá và làm chủ vùng đồng bằng châu thổ.

1.2.2. Tổng quan quá trình hình thành và phát triển đô thị Hải Phòng

a. Đô thị Hải Phòng thời kỳ phong kiến.

Hải Phòng theo định nghĩa trong Hán Việt từ điển của GS. Đào Duy Anh là “việc phòng giữ ở cửa biển và dọc bờ biển”. Như vậy, ngay từ tên gọi, Hải Phòng đã được nhắc đến với vị trí quốc phòng quan trọng của một vùng đất có cái nhìn hướng biển.

33

Trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử hình thành vùng đất Hải Phòng, các nhà khảo cổ học đã chứng minh được sự tồn tại và phát triển ở nơi đây một cuộc sống phong phú của cư dân Việt cổ - những chủ nhân đầu tiên của vùng đất nơi “đầu sóng ngọn gió” này. Những vết tích xưa cũ ấy chủ yếu được thể hiện trong ba tầng văn hóa chính: văn hóa Hạ

Long, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đông Sơn. Đây được coi là những bước khởi thủy của lịch sử khai phá đất đai và con người Hải Phòng.

Thời kỳ Bắc thuộc, vùng đất Hải Phòng ngày nay thuộc đất của châu Giao Chỉ. Thời nhà Tùy đổi gọi là Giao Châu, là vùng đất ở khoảng giữa của sông Thái Bình và sông Hồng, chủ yếu thuộc về huyện Câu Lậu, mà GS Đào Duy Anh đã lý giải vùng đất đó ở miền Hải Dương [2,9]. Thời kỳ này, ở khu vực nội thành có thể đã xuất hiện hai làng cổ là Gia Viên và An Biên. Làng Gia Viên (nghĩa là khu vườn dừa) có tên nôm là Cấm. Làng An Biên có tên nôm là Vẻn, gắn liền với truyền thuyết về nữ tướng Lê Chân. Bà là người đầu tiên đã ghi danh vùng đất này vào lịch sử nước nhà với những chiến công lẫy lừng thời Hai Bà Trưng và trong tâm thức dân gian bà được xem như người sáng lập ra vùng đất Hải Phòng. Cũng trong cuộc chiến đấu đó mà xuất hiện cụm từ “hải tần phòng thủ”, có ý kiến cho rằng đó là khởi nguồn của tên gọi Hải Phòng ngày nay, song cũng có ý kiến cho rằng tên gọi thành phố bắt nguồn từ đơn vị “nha Hải Phòng” hay “sở Hải Phòng” trong thời phong kiến.

Hải Phòng dưới thời phong kiến gắn liền với sự biến động của lộ - trấn - tỉnh Hải Dương. Trong mỗi giai đoạn lịch sử lại có những thay đổi về diên cách hành chính. Tuy vậy, vùng đất này luôn được nhắc đến gắn với những chiến công hiển hách trên sông Bạch Đằng, những con người khí phách chống lại những thế lực bạo tàn, những cuộc nổi dậy khiến triều đình phải nhiều phen tiễu phạt. Tuy nhiên, tại đây thời kỳ phong kiến cũng đã hình thành nên một đô thị, một kinh đô tồn tại song song với Thăng Long, đó là Dương Kinh dưới thời nhà Mạc. Dương Kinh được xây dựng như một kinh đô thu nhỏ, với vai trò là kinh đô thứ hai của nhà Mạc sau trung tâm quyền lực ở Thăng Long. Dương Kinh thời Mạc còn có vai trò như một trung tâm kinh tế, giao thương quan trọng nằm sát biển cùng với Thăng Long, Phố Hiến nằm khá sâu trong đất liền. Ngày nay, các nhà sử học Việt Nam có chung nhận định Dương Kinh thời Mạc không chỉ là kinh đô hướng biển mà còn là đô thị cảng biển lớn trong lịch sử Việt Nam.

34

Với vị trí án ngữ hệ thống đường sông thuộc hệ thống sông Thái Bình, Hải Phòng là một cửa ngõ của vùng đồng bằng Bắc Bộ, cửa ngõ của những luồng giao thương quốc tế ngay trong thời kỳ phong kiến. Trong quan hệ với Trung Hoa, vùng châu thổ Bắc Bộ từ sớm đã trở thành điểm đến của các thương thuyền Trung Hoa. Con đường từ vùng phía Nam Trung Hoa đến vùng Bắc Bộ Việt Nam bằng đường biển đã được sử sách Trung Quốc ghi chép. Năm 1617, Trương Nhiếp soạn sách Đông Tây dương khảo có viết, giao thông giữa Trung Quốc và Đông Nam Á theo hai tuyến đường chính: Tây dương châm lộ - Tuyến Đường biển chạy từ các thương cảng phía Nam Trung Quốc qua vùng biển Giao Châu đến Chămpa, Chân Lạp và hướng tới Tây Nam Á; Đông Dương châm lộ: tuyến đường biển dọc theo các quốc gia Đông Nam Á hải đảo như Philippines, Indonesia, Malaysia, vùng eo biển

Malacca,… Điều đó chứng tỏ đến thông thương tới các vùng khác xa hơn thì người Trung Hoa buộc phải đi qua vùng biển hay cửa sông của Hải Phòng [25,24].

Đối với các thương thuyền phương Tây vào thế kỷ XVII – XVIII, khi nền ngoại thương Việt Nam khá phát triển, các thương nhân phương Tây cũng như các nhà truyền giáo đã tới vịnh Bắc Bộ, tiếp tục tiến sâu vào vùng đồng bằng, đặc biệt là tiến đến kinh thành Thăng Long để buôn bán và truyền giáo. Có hai tuyến đường chính từ biển Đông vào đồng bằng Bắc Bộ, đó là tuyến sông Hồng qua cửa Lác, cửa Đáy và tuyến sông Thái Bình qua cửa Thái Bình, Văn Úc, Cấm, Nam Triệu. Song nhà nước phong kiến vì lý do an ninh đã cho phép các tàu buôn ngược sông Hồng qua trạm kiểm soát quốc gia ở phố Hiến vào Thăng Long, Bắc Kỳ buôn bán, đồng thời ngăn cản tuyến giao thương của sông Thái Bình.

Đại Nam thực lục chép: “thuyền buôn, thuyền đánh cá và thuyền giúp việc dẹp giặc của nước Thanh dừng đậu ở sông Cấm, xin được mở cửa cảng để thông thương, vua từ chối không cho” [42, 8]. Song thực tế, các hoạt động buôn bán lén lút của các tàu buôn trên tuyến đường này vẫn diễn ra vì đó là con đường ngắn nhất, lại không phải qua các trạm thuế quan lớn. Sau này, nhà Nguyễn cho đặt ty thuế quan để thu thuế các loại tàu thuyền qua lại vùng sông Cấm. Mặt khác, khi cửa Lác, cửa Đáy bị bồi lấp thì các cửa Cấm, Nam Triệu càng phát huy được ưu thế của mình.

Nói tóm lại, Hải Phòng ngay từ đầu đã trở thành vùng đất chiến lược về chính trị - kinh tế do địa hình tự nhiên mà tạo nên. Cũng chính vì đó mà sau này, người Pháp đã nhìn nhận được những lợi thế của Hải Phòng, mong muốn phát triển vùng đất này để tạo bàn đạp cho những cuộc khai thác thuộc địa của mình cũng như là nơi gần nhất để có thể khai thác Trung Quốc gần nhất.

b. Đô thị Hải Phòng thời kỳ Pháp thuộc

Trong những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XIX, những thương nhân Hoa, Pháp, Anh … đã đến xin buôn bán ở bến Ninh Hải, ngã ba sông Tam Bạc - Cửa Cấm, ngày một nhiều vì họ thấy rằng đường từ Ninh Hải có thể đi ngược lên LaoKay sang Côn Minh, Vân Nam Trung Quốc để khai thác vùng Vân Nam - Quý Châu - Tứ Xuyên rộng lớn, giàu tài nguyên. Trước tình hình ấy, vua Tự Đức phải đồng ý cho đặt Nha Hải Phòng để kiểm soát thông thương và thuế quan. Cũng nhìn nhận thấy tiềm năng to lớn để phát triển thành một vùng kinh tế - quân sự mang tính chiến lược, thực dân Pháp đã có dã tâm biến vùng đất này thành khu nhượng địa của mình.

35

Ngày 20/11/1873, thực dân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội, ngay sau đó đánh chiếm luôn các tỉnh thành xung quanh, trong đó có Hải Dương. Thành Hải Dương thất thủ, ngay lập tức thực dân Pháp chiếm bến Ninh Hải. Ngày 15/3/1874, triều đình Huế ký với Pháp Hòa ước Giáp Tuất, trong đó có một số điều khoản liên quan đến Hải Phòng. Triều đình Huế phải cung cấp cho người Pháp khu vực phía Nam sông Cấm 2ha (5 mẫu ta) và sau đó nhân rộng lên thành 13ha đất nhượng địa.

Bản đồ năm 1874 đã cho thấy sự phân chia khu vực khá rõ ràng, người Pháp đã chọn lấy vùng đất cao ráo, sát với phía nam của sông Cấm, tiếp giáp với ngã ba sông Tam Bạc và sông Cấm; các làng gốc nằm rải rác xung quanh. Tuy nhiên trước đó đây cũng là khu vực rất khó cho việc xây dựng, bởi vậy mà ban đầu người ta xây những ngôi nhà tạm bợ bằng bùn sét trộn rơm. Cũng cần nói thêm rằng trong giai đoạn này Hải Phòng được xây dựng có mức độ cầm chừng bởi có rất nhiều ý kiến phản hồi. Chuẩn Đô đốc Duprre trong báo cáo gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa đã viết: “Sẽ là đáng tiếc nếu như ngay từ bây giờ chọn một địa phương bẩn như Hải Phòng làm trung tâm thương mại và là nơi ở cho các viên chức của chúng ta” [55, 43]. Kỹ sư thuỷ nông Joseph Renaud và các thuyền trưởng Maire (tàu Bourayne), Besnard (tàu Ducouedic), Blot (tàu Surprise) sau khi khảo sát vùng đông bắc Hải Phòng đã nhận xét: “nghiên cứu các điều kiện cho thấy Hải Phòng không tỏ ra thuận lợi cho việc xây dựng một thành phố” [55, 120].

Bản đồ 1.1: Hải Phòng năm 1874 (nguồn: Bảo tàng Hải Phòng).

Năm 1885, người Pháp cho đào một con kênh vành đai nối sông Tam Bạc với sông Cấm, lấy đất lấp các ao hồ và đắp nền làm nhà, đồng thời làm đảm nhiệm chức năng bảo vệ cho khu vực nhượng địa. Thời kỳ này, thành phố Hải Phòng đã được cấu thành bởi hai bộ phận chính: Phía Tây Nam là khu người Việt và người Hoa kiều, được gọi là khu bản xứ. Phía Đông Bắc là khu Tô giới hay khu nhượng địa đặt dưới quyền cai trị của thực dân Pháp mà hạt nhân là sở Thuế đoan, Tòa lãnh sự và đồn binh. Đồng thời trên đó cũng dần xây lên những kiến trúc đô thị. Đời sống kinh tế chủ yếu của đô thị dựa trên một số bến cảng tự nhiên có các tàu thuyền trong và ngoài nước lui tới và một cái chợ tập trung các hoạt động giao thương. Dựa vào hoạt động thông thương mà dân cư ở đây trở nên đông đúc hơn. Triều đình Huế đã cho thi hành một chế độ chiêu tập các thương nhân người Việt và người Hoa để làm ăn buôn bán, mở cửa hiệu và lập phố xá ở Hải Phòng, mục đích là nhằm giảm bớt sự tập trung tư sản Pháp tại khu vực này.

36

Để phục vụ đời sống của mình và tiến hành xây dựng một thành phố hiện đại bậc nhất tại Bắc kỳ, người Pháp đã cho xây dựng một sống công trình dân sinh, cơ

sở hạ tầng đáp ứng đầy đủ cho một đô thị hiện đại. Năm 1892, người Pháp đã xây dựng các nhà máy điện đầu tiên ở Việt Nam tại Hải Phòng như nhà máy điện Cửa Cấm, Thượng Lý. Đến năm 1893, Hải Phòng là tỉnh thành đầu tiên của miền Bắc được sử dụng điện và được lắp đặt đường ống và hệ thống thoát nước. Năm 1894- 1900, nước ngọt được dẫn về từ Uông Bí. Cũng thời gian đó, sông Hạ Lý và sông Lạch Tray được đào và mở rộng. Ngày 31/1/1898, theo nghị định của Toàn quyền, thành phố Hải Phòng được tách ra khỏi tỉnh Hải Phòng, tỉnh Hải Phòng đổi thành tỉnh Phù Liễn. Như vậy tại Hải Phòng lúc này tồn tại hai đơn vị hành chính độc lập là thành phố Hải Phòng và Tỉnh Phù Liễn.

Đến năm 1900, việc phát triển của thành phố đã được mở rộng sang phía bờ nam của kênh Bonnal (sông Lấp). Ngay từ khi Hải Phòng trở thành nhượng địa của người Pháp, họ đã cho tiến hành xây dựng Hải Phòng thành một đầu mối giao thông bậc nhất của Pháp ở Bắc Kỳ. Năm 1902 đường xe lửa Hải Phòng – Hà Nội bắt đầu được xây dựng, các tuyến đường 5, đường 10 được rải nhựa đi các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Thái Bình,…

Trong bản đồ năm 1905 khi mà đường sắt Hà Nôi – Hải Phòng được hoàn thành, Hải Phòng đã được quy hoạch một cách quy củ, đường phố được chia theo lưới bàn cờ, tuy quy mô thành phố vẫn còn nhỏ nhưng đa phần mang dáng dấp một thành phố loại 1, ngang hàng cùng với Sài Gòn và Hà Nội. Theo đó khu trung tâm được bám vào ngã ba sông Tam Bạc và sông Cấm, các trụ sở, công sở, biệt thự và các công trình dịch vụ dân sinh nhằm mục đích phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa. Đường sắt lúc này được xây dựng một cách khoa học khi nằm tách biệt với khu vực trung tâm của thành phố, lối liền thẳng với bến Sáu Kho.

37

Bản đồ 1.4: Hải Phòng Năm 1905 (nguồn: http://gallica.bnf.fr/) Bản đồ 1.5: Hải Phòng Năm 1915 (nguồn: http://gallica.bnf.fr/)

Hải Phòng năm 1915, đã phát triển rộng hơn theo hướng Nam, Tây Nam, Đông Nam (tiến hành mở rộng khu vực bờ Nam sông Cấm, phía bờ Bắc chỉ đặt các nhà máy, xí nghiệp và là khu vực nông thôn). Các trục đường xương cá được mở ra vuông góc với sông Lấp.

Bản đồ 1.6: Hải Phòng năm 1937 (nguồn: Bảo Tàng Hải Phòng)

Từ năm 1888 đến năm 1936, việc xây dựng phát triển đô thị Hải Phòng được người Pháp tiến hành căn bản đã định hình cho đến ngày chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản vào tháng 5 năm 1955. Tuy nhiên có thể nói người Pháp không chỉ muốn dừng lại ở đó. Trong bản đồ năm 1937 người Pháp mong muốn quy hoạch mở rộng ra hai phía Bắc - Nam. Tuyến đường sắt không chỉ dừng lại trên một tuyến đường trước đó ra thẳng cảng mà còn dự tính xây dựng ra phía Đông Nam, tiến tới tỉnh Kiến An; khu bờ Bắc sông Cấm sẽ được phát triển thành khu đô thị dạng ô bàn cờ thứ 4 của thành phố. Do bối cảnh kinh tế xã hội của xứ thuộc địa và cả chính quốc khi vấp phải các sự kiện lịch sử lúc bấy giờ (cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, chiến tranh thế giới thứ II,…) đã gây cản trở cho sự phát triển này.

c. Đô thị Hải Phòng từ sau 1945 đến nay.

Từ ngày 15/8 đến ngày 25/8 năm 1945, chính quyền tay sai dưới chế độ thực dân và phát xít ở thành phố Hải Phòng và tỉnh Kiến An (tỉnh Phù Liễn) bị lực lượng cách mạng của ta lật đổ, chính quyền cách mạng được thiết lập. Trong thời kì này, phố xá, đô thị không có gì bị xáo trộn do lúc đó cả hai phía ta và địch đều tập trung mọi thứ vào cuộc chiến sắp diễn ra.

38

Trong giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1954 địa giới hành chính có nhiều thay đổi. Đầu năm 1945, chính quyền Cách mạng chia nội thành phố làm 13 tiểu khu đánh theo thứ tự từ 1 đến 13. Thời kỳ 9 năm kháng chiến, chính quyền tay sai và thực dân Pháp đã phục hồi lại thành 7 hộ như trước và đến ngày 7/5/1954 thay đổi thành 10 khu: Trung ương, Tam Bạc, Ga, Gia Viên, Lạc Viên, Trường Cát,

Hàng Kênh, Dư Hàng, An Dương và Thủy Cơ. Có thể nói trong những năm 1946 - 1954 cấu trúc đô thị vẫn giữ nguyên như khi định hình từ năm 1935; cho đến thời kỳ chính quyền kháng chiến tiếp quản thì đô thị Hải Phòng vẫn định dạng như vậy.

Sau khi chính quyền kháng chiến tiếp quản thành phố, các khu An Dương, Gia Viên - Lạc Viên, Vạn Mỹ,… được xây dựng, mở rộng đôi chút đô thị ra phía ngoại thành trước đó. Các nhà biệt thự, các công trình kiến trúc trước đó khi người Pháp rời đi đã được chính quyền ta phân chia cho nhân dân vào sinh sống, giải quyết vấn đề dân cư sau chiến tranh và làm trụ sở công vụ. Tại Hải Phòng vẫn tồn tại khu vực phố Hoa, phố ta và cũng có những khu vực người Việt, người Hoa kiều sinh sống cùng nhau. Năm 1962, chính phủ đã quyết định sáp nhập tỉnh Kiến An vào thành phố Hải Phòng, lấy tên chung là Thành phố Hải Phòng. Việc sáp nhập này càng làm cho quỹ kiến trúc đô thị của thành phố được mở rộng thêm.

Dưới những biến động về chính trị, năm 1978, hàng loạt Hoa kiều và người gốc Hoa đã quay trở về quê hương. Đó là một cuộc di cư lớn bởi người Hoa đã có nhiều thế hệ sinh ra và lớn lên tại đây. Cuộc di cư đó ảnh hưởng tới không gian đô thị của thành phố. Toàn bộ khu phố Khách, nơi người Hoa đã từng sinh sống đã bị bỏ trống, các hiệu buôn, nhà cửa, trường học,... của người Hoa đều không được sử dụng. Ngay sau đó, thành phố đã chỉ đạo cải tạo lại các con phố cho phù hợp với người Việt để đưa vào sử dụng. Các công trình được bán cho dân hoặc phá đi để lấy làm khoảng không gian công cộng, xây dựng các công trình khác. Chưa đầy 3 năm sau, từ một khu vực được quy hoạch tương đối tách rời, toàn bộ khu phố Khách đã được cải tạo lại cho hòa nhập với không gian chung của thành phố.

Sau hơn 30 năm với 2 cuộc chiến tranh với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cùng với những biến động chính trị với Trung Quốc, Hải Phòng bị tàn phá nặng nề, xuống cấp và không có gì khởi sắc. Tuy nhiên, giai đoạn đổi mới từ năm 1986, phát huy những giá trị vốn có mà thành phố đang nắm giữ, cả thành phố đã bước vào công cuộc khôi phục, tạo dựng một đô thị đàng hoàng, to đẹp xứng tầm với vị trí chiến lược của Hải Phòng.

39

Quy hoạch đô thị Hải Phòng cũng có nhiều lần điều chỉnh lớn, các điểm chính là: mở rộng nội thành, lập các quận mới Kiến An, Hải An, Dương Kinh, Đồ Sơn; hình thành nhiều khu đô thị mới như ngã 5 sân bay Cát Bi, đường 353 Cầu Rào – Đồ Sơn, Hồ Sen – Cầu Rào 2,… Bên cạnh đó thực hiện việc dịch chuyển các nhà máy, xí nghiệp, các khu công nghiệp ra khu vực ngoại thành.

Bản đồ 1.7: Bản đồ Quy hoạch chung thành phố Hải Phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 (nguồn: Viện Quy hoạch Thành phố Hải Phòng)

Theo quy hoạch tới năm 2025, tầm nhìn 2050, Hải Phòng sẽ phát triển bền vững theo hướng liên kết vùng, đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế khu vực phía Bắc và cả nước; từng bước trở thành một trung tâm công nghiệp, dịch vụ cảng, dịch vụ du lịch, thương mại – tài chính của khu vực Đông Nam Á. Đến năm 2025, Hải Phòng sẽ có 3 triệu dân trong đó 2,4 triệu người ở đô thị. Quy mô đất đô thị là 48.946ha. Các khu dân dụng sẽ tập trung ở nội thành hiện tại, khu đô thị Bắc sông Cấm và mở rộng về phía Đông, Đông Nam, Tây và Tây Nam. Ngoài ra sẽ đẩy nhanh đô thị hóa tại Cát Bà và các đô thị vệ tinh tại các thị trấn, huyện lỵ, phát triển một số thị trấn mới.

1.2.3. Đặc điểm kinh tế, dân cư, văn hóa – xã hội.

a. Kinh tế.

Ngay từ đầu, người Pháp lựa chọn Hải Phòng là vùng đất để phát triển thành một thành phố thương mại cảng biển và công nghiệp. Với hệ thống cảng biển lớn, Hải Phòng là cửa chính ra biển của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và các tỉnh phía Bắc, có tiềm năng đa dạng, phong phú để phát triển kinh tế. Cùng với đó, xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển, cho đến hiện nay, Hải Phòng luôn là thành phố kinh tế trọng điểm của Bắc bộ, chiếm vị trí chiến lược, đóng vai trò đặc biệt quan trọng để phát triển vùng kinh tế phía Bắc.

40

Thời Pháp thuộc, Hải Phòng được chính quyền cho khảo sát và quyết định đầu tư xây dựng một hệ thống cảng biển lớn nhất khu vực Bắc Kỳ. Từ đó, Hải Phòng trở thành điểm đến của nhiều tuyến đường hàng hải thương mại lớn trên toàn thế giới, có thể kể tới tuyến Hải Phòng – Hồng Kông, Hải Phòng – Pháp, Hải Phòng – Nhật Bản,… Cũng từ đó, nhiều nhà tư bản đã tiến hành đầu tư vào Hải Phòng, cho

xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp trên một đô thị cảng có diện tích không lớn. Các nhà máy, xưởng sản xuất này tập trung trên các lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản, chế biến nông sản, sửa chữa và đóng tàu, sản xuất xi măng… Không chỉ có người Pháp hay người phương Tây, hoạt động kinh tế thương mại có sự hiện diện của cả người Hoa và người Việt, trong đó người Hoa đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của cả thành phố. Các sản phẩm của thành phố từ các cơ sở công nghiệp không chỉ phân phối trong thị trường nội địa mà còn được xuất khẩu đến những thành phố lân cận của Trung Quốc, các nước thuộc địa của châu Âu và ngay cả sang “mẫu quốc” Pháp.

Những hoạt động kinh tế trong lịch sử đã tạo tiền đề để xây dựng một Hải Phòng trở thành phố công nghiệp hóa đi đầu trong cả nước. Cảng biển của Hải Phòng đã không ngừng phát triển về cả số lượng và chất lượng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Hiện nay, hệ thống cảng Hải Phòng là một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, lớn thứ hai ở Việt Nam và lớn nhất miền Bắc. Cùng với đó, hiện nay, các khu công nghiệp, kinh tế ven biển được chính phủ đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, tập trung thu hút vốn đầu tư lớn và khoa học công nghệ cao đã đẩy nhanh kim ngạch sản xuất và xuất khẩu của thành phố. Tính đến tháng 6 năm 2019, kinh tế Hải Phòng đạt 86.305 tỷ đồng, tăng 16,30% so cùng kỳ năm trước (6 tháng/2018 tăng 16,03%), vượt kế hoạch năm (kế hoạch năm 2019 tăng 15,5%), đây là mức tăng cao nhất từ trước đến nay, cũng là mức tăng trưởng cao so với cả nước và các tỉnh, thành phố lớn, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thành phố. Trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 0,11% (kế hoạch tăng 1,98%), đóng góp 0,01 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 24,81% (kế hoạch tăng 22,11%), đóng góp 11,51 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực dịch vụ tăng 9,64% (kế hoạch tăng 10,9%), đóng góp 4,14 điểm phần trăm vào mức tăng chung [44].

b. Dân cư, văn hóa – xã hội.

41

Kể từ năm 1888, khi Hải Phòng được thành lập, thành phố được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, có vai trò là một đô thị cảng biển lớn nhất Bắc kỳ và là cửa ngõ kinh tế của Liên bang Đông Dương với quốc tế. Chính vì vậy, Hải Phòng tập trung nhiều thành phần dân cư tới sinh sống cùng với người dân bản địa. Người Hải Phòng mang những dấu ấn đậm nét của người dân miền biển mà vẫn được gọi là “ăn sóng, nói gió”. Đối với cộng đồng người Việt, bên cạnh những người gốc sinh sống chủ yếu tại các làng cổ của Hải Phòng là: Gia Viên, An Biên, Lạc Viên, Hàng Kênh, Hạ Lý, Thượng Lý, Đông Khê trải dài bên hai bờ sông Cấm, còn có những người nhập cư từ các vùng miền lân cận, chủ yếu là từ các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Dương,… Do chính sách đầu tư và sức hút về kinh

tế của chính quyền thuộc địa, những người dân vùng lân cận đã tìm đến Hải Phòng với mong muốn tìm kiếm cơ hội việc làm.

Từ sau năm 1954, trải qua những biến động của lịch sử, cơ cấu dân cư toàn thành phố thay đổi toàn diện. Sau thắng lợi của chiến thắng Điện Biên Phủ và hiệp định Genève được ký kết, người Pháp và bộ phận người Âu buộc phải rời khỏi Việt Nam mà điểm tập kết cuối cùng là tại Hải Phòng. Cùng với đó là một bộ phận không nhỏ người Việt, người Hoa theo các chuyến tàu di cư vào Nam. Biến động về dân cư tại Hải Phòng tiếp tục diễn ra trong giai đoạn từ nửa sau những năm 70, khi mối quan hệ giữa hai chính quyền Việt – Trung trở nên căng thẳng. Hải Phòng là thành phố có nhiều người Hoa sinh sống lúc bấy giờ đã sụt giảm nhanh chóng dân số do nhiều người Hoa rời bỏ nhà cửa để di cư hồi hương. Đồng thời trong những năm 1980, phong trào “thuyền nhân” diễn ra, số lượng dân cư biến động theo từng năm. Tuy vậy, vốn là một thành phố kinh tế hàng đầu miền Bắc, Hải Phòng luôn là điểm đến thu hút nhiều cư dân tới sinh sống và làm ăn. Tính đến năm 2018, dân số Hải Phòng là 2,013 triệu người, mật độ dân số là 1.289 người/km2.

Do Hải Phòng là vùng đất thu hút nhiều cộng đồng dân cư tới định cư và sinh sống, chính vì vậy trong đời sống văn hóa của cư dân thành phố luôn có sự kết hợp các yếu tố Âu Á, Việt – Pháp – Hoa. Đó là những dấu ấn đậm nét trong những di sản văn hóa, ngôn ngữ, kiến trúc tại Hải Phòng ngày nay. Văn hóa đảm bảo đời sống (ăn, mặc, ở, đi lại) cũng như đời sống văn hóa tinh thần (tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa nghệ thuật) đều xuất hiện những giá trị văn hóa đan xen giữa cộng đồng người Âu, người Hoa và người Việt. Trong lịch sử, Ẩm thực phương Tây được duy trì ở cộng đồng người Âu nhưng nguồn nguyên liệu do cư dân bản địa cung cấp. Sản phẩm của ẩm thực Trung Hoa được cung cấp cho cả cộng đồng người bản xứ. Văn hóa mặc là sự hòa trộn giữa trang phục phương Tây đã được cải biến cho phù hợp hơn với cái nóng mùa hè. Cộng đồng người Hoa và người Việt giữ văn hóa mặc truyền thống, song dần dần cái biến trang phục theo hướng lấy Âu phục làm chuẩn. Ngoài ra, trên các lĩnh vực sân khấu như kịch nói, các nguồn sách báo văn chương khác nhau được du nhập vào Hải Phòng luôn được người dân tiếp đón, góp phần làm giàu thêm đời sống tinh thần của cư dân nơi đây. Cùng với sự kết hợp văn hóa đó, văn hóa Hải Phòng còn được thể hiện qua tính cách hào sảng, cởi mở, phóng khoáng, mạnh mẽ và nhạy bén trong kinh doanh, dễ dàng tiếp cận cái mới của người Hải Phòng,

1.3 Lịch sử hình thành và quá trình biến đổi của cộng đồng ngƣời Hoa

tại thành phố Hải Phòng.

1.3.1. Lịch sử hình thành

42

Với hệ thống sông biển kết nối với các vùng miền trong cả nước, sở hữu cơ sở hạ tầng thuận lợi cho các tuyến đường thương mại trên biển cũng như trên bộ, Hải Phòng là điểm đến của nhiều dòng thuyền buôn, nhiều dòng người di cư, trong

đó có nhiều người đến từ Trung Quốc. Người Hoa đến vùng đất Hải Phòng từ sớm, ngay cả khi triều đình nhà Nguyễn ngăn cấm con đường giao thương từ biển qua hệ thống sông Thái Bình, sông Hồng thì người Hoa vẫn lén lút đến vùng cửa biển Ninh Hải buôn bán. Thuyền buôn của họ mang theo một số mặt hàng nhập khẩu như gấm vóc, thuốc phiện qua cửa Cấm theo triền sông Thái Bình lên Hà Nội rồi ngược lên miền thượng du buôn bán, khi trở về lại mang theo gạo, vàng bạc, kẽm, thiếc, tơ lụa… xuôi ra biển. Trước tình hình đó, triều đình buộc phải thông thương vùng cửa Cấm và đánh thuế các loại thuyền buôn qua đây. Tháng 4/1867, Đặng Huy Trứ (quan dưới triều Nguyễn) đã tâu xin “tạm bỏ lệ cấm mà chỉ đánh thuế để khỏi hại việc buôn bán, đình thần bàn nhân thể xin đặt hai ty thuế quan ở cửa Trà Lý thuộc Nam Định và cửa sông Cấm thuộc Hải Dương. Vua nghe theo” [41, 1052]. Hoạt động buôn bán của người Hoa ở bến Ninh Hải đã đặt cơ sở quan trọng cho sự đầu tư, phát triển của nhóm thương nhân người Hoa ở những thập kỷ sau.

Sau hiệp ước Giáp Tuất (1874) giữa người Pháp và triều đình nhà Nguyễn, cửa sông Cấm được khai mở và cho phép các tàu buôn ngoại quốc vào thông thương, các nhóm người Hoa đến Hải Phòng ngày một đông. Khi được thông thương, họ đến đây ngày một đông đúc hơn, đặc biệt khi triều đình nhà Nguyễn chính thức chiêu mộ các thương nhân người Việt, người Hoa về đây buôn bán, xây dựng đô thị để làm thế đối trọng với giới tư sản Pháp ở Bắc Kỳ cũng như trong thành phố. Để tạo điều kiện thuận lợi cho buôn bán, Tổng đốc Hải Dương là Phạm Phú Thứ xin đặt trường mua gạo ở chợ An Biên cho dân chúng tự do mua gạo và đánh thuế. Dần dần, ở hữu ngạn sông Tam Bạc, lui về phía thượng nguồn khoảng 1,5km xuất hiện một số cửa hàng lớn của người Hoa, là cơ sở hình thành khu phố Khách sau này. Bên cạnh những thương nhân nhỏ ban đầu buôn bán thịt, cá và gạo ấy là những ngành nghề mới: người Tân Hội (Quảng Đông) thường buôn gạo, người Hải Nam thường mở hiệu ăn, người Phật Sơn (Quảng Đông) thường mở hiệu thuốc bắc, người Phúc Kiến thường làm bánh kẹo… Theo báo cáo của lãnh sự Hải Phòng năm 1880, số tàu chạy máy Trung Quốc cập bến Ninh Hải chiếm 23,5% tổng số trọng tải tàu các nước, không kể 205 chiếc thuyền buồm [51, 230].

43

Năm 1874, người Pháp bắt đầu thực hiện xây dựng và phát triển Hải Phòng. Sau 10 năm, đặc biệt với kế hoạch của công sứ Bonnal năm 1885, thành phố Hải Phòng được xây dựng mở rộng, phân chia thành phố làm 3 khu vực sinh sống của các cộng đồng cư dân: người Pháp, người Hoa và người Việt. Cộng đồng người Hoa sống tập trung ở khu vực xen giữa sông Tam Bạc và kênh vành đai, hình thành nên các tuyến phố chính theo dạng quy hoạch ô bàn cờ. Khu vực này tuy diện tích không rộng nhưng quy hoạch gọn gàng, hợp lý, thuận tiện và trở thành nơi hoạt động buôn bán sôi nổi nhất của thành phố Hải Phòng. Ngoài ra, một bộ phận người Hoa sinh sống tại những khu vực ngoại thành của thành phố, khu vực của tỉnh Kiến An trước kia và trên các hòn đảo thuộc Hải Phòng, đặc biệt là tại đảo Cát Bà.

Người Hoa ở Hải Phòng luôn là một thế lực có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và xã hội ở đây. Như ở trên có đề cập, Viên lãnh sự Pháp Louis Turc đã nhận định sự hiện diện của người Hoa tại Hải Phòng là dấu hiệu phát triển của một thành phố cảng. Dưới sức ép của phát triển dân số và sự phát triển đô thị của thành phố, từ năm 1900, người Hoa đã di chuyển sang phía nam kênh vành đai sinh sống hòa cùng với cộng đồng người Việt tại đây. Dưa trên những đặc điểm của các khu vực người Hoa sinh sống có thể chỉ ra một số đặc trưng cơ bản về họ ở Hải Phòng như sau:

- Những khu phố người Hoa là nơi có cộng đồng người Hoa định cư, sinh sống và tổ chức hoạt động kinh tế, văn hóa, sinh hoạt cộng đồng trong khu vực đó. Cư dân trong khu vực luôn hỗ trợ nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gìn giữ phong tục tập quán đặc trưng của người Hoa.

- Nơi tập trung dân cư thường thuận tiện cho việc thông thương buôn bán, gần các con sông, các tuyến đường chính. Các tuyến phố được phân chia theo dạng ngành nghề, hàng hóa,…

- Có những tín hiệu văn hóa để có thể nhận biết các nhóm địa phương của

cộng đồng người Hoa.

- Nơi tập trung người Hoa có đầy đủ các công trình sinh hoạt cộng đồng,

phục vụ dân sinh như bệnh xá, trường học, đền miếu, hội quán,…

Từ những năm 1960, dưới chủ chương đoàn kết dân tộc của chính quyền, cộng đồng người Hoa sinh sống rải rác nhiều khu vực trên toàn thành phố, ít sống tập trung thành cộng đồng trong một khu vực như trước. Đến năm 1978, trước tình hình căng thẳng trong chính trị của hai nước Việt Nam – Trung Quốc, đại bộ phận người Hoa trong thành phố đã di cư ra nước ngoài, những khu vực sinh sống trước kia của họ được người Việt vào thay thế.

1.3.2. Dân số, các nhóm dân cư.

44

Người Hoa đến Hải Phòng gồm nhiều tầng lớp, nhiều thành phần, từ tầng lớp thương nhân giàu có cho tới những người dân làm thuê. Người Hoa ở Hải Phòng chủ yếu đến từ Quảng Đông, Phúc Kiến, ngoài ra có một số ít người Hải Nam, Triều Châu, Hẹ,… Theo tổng hợp số liệu từ nhiều thống kê của người Pháp, năm 1888, dân số toàn thành phố có khoảng 10.000 người trong đó có 9.600 người Việt, 200 người Âu và 200 người Hoa. Năm 1900, dân số thành phố tăng lên là 16.000 người, trong đó có 11.500 người Việt, 980 người Âu, 3.500 người Hoa và 70 người quốc tịch khác (chủ yếu là nhóm cư dân Ấn Độ và Nhật Bản). Năm 1905, số cư dân người Hoa ở Hải Phòng là 6.350 người trong tổng 18.427 người toàn thành phố, năm 1920 là 10.250 người trong tổng 66.848 người năm 1926 là 14.301 người trong tổng 100.473 người của thành phố, và đạt mức hơn 20.000 người (trên tổng số dân Hải Phòng là 97.620 người vào năm 1929, trở thành cộng đồng cư dân đông thứ hai

ở Hải Phòng [18, 20], [55, 240]. Từ một cộng đồng ít người chủ yếu tập trung sinh sống ven bờ sông Tam Bạc trong giai đoạn đầu phát triển của thành phố, cộng đồng người Hoa đã tỏ ra áp đảo hơn hẳn về số lượng, cũng nhân đó mà nâng cao vị thế trong chính trị - kinh tế đối với người phương Tây, người Pháp. Đặc biệt trong những biến động chính trị ở Trung Quốc, nhất là giai đoạn thế chiến thứ II diễn ra, số lượng người Hoa tràn sang Việt Nam cũng như ở Hải Phòng tăng mạnh. Năm 1951, tại Hải Phòng có 28.042 Hoa kiều sinh sống [46, 27].

Số lượng người Hoa giảm đáng kể ở miền Bắc nói chung và Hải Phòng nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954). Nhiều người Hoa đã vào Nam để tránh cuộc chiến này. Và đặc biệt, sau hiệp định Genève, khoảng 45.000 người Hoa đã di cư từ điểm tập kết tại Hải Phòng vào Nam [69, 9]. Những năm 1960, tổng số người Hoa ở miền Bắc Việt Nam khoảng 175.000 người, trong đó ở Hải Phòng có khoảng 20.000-30.000 người. Ở Hải Phòng, người Hoa thường làm công nhân bến tàu, bến cảng, thợ thủ công, cửu vạn, công nhân tại các nhà máy và hợp tác xã, thợ thủ công, tiểu thương buôn bán nhỏ,… Đến những năm 1970, do biến động chính trị trong nước cũng như tình hình ngoại giao giữa hai nước Việt – Trung trở nên phức tạp, có rất người Hoa đã di cư hồi hương hoặc sang nước thứ ba. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 1979, số lượng người Hoa còn lại ở Hải Phòng là 3.618 người. Đến năm 1989, số người Hoa ở Hải Phòng là 2.210 người, năm 1999 là 1.229 người và năm 2009 là 1.171 người.

1.3.3. Tổ chức hành chính, thiết chế xã hội

Trong thời kỳ Pháp thuộc, ở Hải Phòng lần lượt thành lập Ủy ban/ Hội đồng lâm thời (commission municipale provisoire) (tháng 1/1886), Ủy ban/ Hội đồng tư vấn thành phố (commission municipale consultative des villes) (tháng 6/1886), Ủy ban/ Hội đồng chính thức của thành phố (commission municipale définitive) (tháng 7/1988). Trong tất cả các Hội đồng này đều xuất hiện đủ 3 nhóm cư dân của thành phố: người Âu (Pháp), người Hoa, người Việt; trong đó số lượng người Âu luôn chiếm đa số. Ví dụ Hội đồng tư vấn có 16 người thì 12 người Âu, 3 người Hoa, 1 người Việt; Hội đồng chính thức của thành phố có 1 Đốc lý người Pháp và 14 cố vấn trong đó có 2 người Hoa, 2 người Việt.

45

Người Hoa thời kỳ này sẽ được hưởng quy chế ngoại kiều, được chính quyền bảo hộ quyền bất động sản, được tham gia các hoạt động kinh tế liên kết với người Pháp, nhưng phải đóng thuế thân. Chính quyền thực dân cũng có một số chính sách nới lỏng cho Hội quán người Hoa được xử lý các vụ việc dân sự trong cộng đồng người Hoa. Tổ chức gắn kết cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng chính là Hoa thương hội quán hay đền Nhà Bà (Tam Bà cổ miếu). Công trình này vừa mang yếu tố tổ chức kinh tế (Hoa thương hội quán), vừa mang yếu tố tôn giáo tín ngưỡng (thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu). Khác với tổ chức bang hội ở các tỉnh thành khác, ở Hải Phòng hội quán không được phân chia thành các bang theo vùng miền mà là hội

quán của chung toàn bộ người Hoa. Đặc điểm này có thể lý giải là do cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng tụ cư muộn hơn, số lượng người Hoa ít hơn so với các tỉnh thành khác, hơn nữa người Quảng Đông chiếm đại đa số ở đây. Tuy vậy chức năng của Hội quán vẫn đảm nhiệm chức năng xã hội, tương trợ cũng như phục vụ đời sống tôn giáo – tín ngưỡng như những hội quán khác ở các tỉnh thành. Ngoài ra, trong cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng còn có các tổ chức mang tính chất nghiệp đoàn như hội nghề nghiệp, nghiệp đoàn công nhân,...

Từ năm 1955, dưới chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa người Hoa được phép tham gia các tổ chức đoàn thể xã hội – chính trị giống như người Việt. Tổ chức bang hội không còn mà thay vào đó là các tổ chức cấp quận, huyện, phường, xã và tổ dân số. Nhiều người Hoa tham gia tổ chức Đảng, tham gia vào các tổ chức xã hội, kinh tế, văn hóa, hoạt động trong các xí nghiệp, các hợp tác xã.

Tiểu kết chƣơng I

Qua phân tích các khái niệm liên quan đến đề tài đã giúp tác giả có cơ sở khoa học để xác định và giới hạn đối tượng, phạm vi và những phạm trù nghiên cứu luận văn này. Mỗi lý thuyết về di cư đều có những ưu điểm và hạn chế. Các lý thuyết về di dân và di cư sẽ áp dụng vào những trường hợp của cộng đồng người Hoa trong từng thời điểm lịch sử và nguyên do cụ thể. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, cần phải xem xét quá trình di cư của cộng đồng người Hoa, chính sách của chính quyền Việt Nam để có thể xác định được lý do họ đến Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. Từ đó làm nổi bật nên những đặc trưng của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.

Hải Phòng là một thành phố cảng biển, nằm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và ven biển có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế, có đường hàng hải thuận lợi để giao thương với các nước trên thế giới. Những thuận lợi về vị trí của một vùng đất có tầm nhìn hướng ra biển, lại có hệ thống sông ngòi dày đặc nối liền tuyến giao thông thủy vào sâu trong nội địa, Hải Phòng án ngữ con đường từ biển tiến vào vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ đây, vùng đất này mang trong mình chức năng: kinh tế và quốc phòng. Đô thị Hải Phòng là một cấu trúc kinh tế xã hội riêng, trong đó, sự tương tác giữa cảng và đô thị là yếu tố then chốt, tạo nên sự hình thành, phát triển của thành phố.

46

Trước những thuận lợi và những chuyển biến trong kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố Hải Phòng, nhiều cư dân từ khắp nơi đã hội tụ tại đây, tạo nên một cộng đồng dân cư thành phố đa thành phần, đa quốc tịch, theo đó đời sống văn hóa cũng tồn tại đan xen những giá trị văn hóa bản địa với những giá trị văn hóa mới từ các vùng miền khác trong và ngoài nước. Trong nhóm cư dân đó, cộng đồng người Hoa cũng đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển của thành phố. Người Hoa ở Hải Phòng đa phần là người Quảng Đông, ngoài ra còn có người Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, Hồng Kông… Người Hoa ở Hải Phòng làm đủ thứ

47

nghề, buôn bán, cho vay nặng lãi, thầu khoán, xây dựng, môi giới… Ở bất cứ thời điểm nào, hình ảnh, vai trò và vị thế kinh tế của người Hoa luôn nổi bật. Trong các chương sau, các đặc điểm nổi bật của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng sẽ được làm rõ chuyên sau trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội; các cuộc di cư trong lịch sử; mối liên kết giữa người Hoa với các chính quyền, với người bản địa và mối quan hệ giữa những cá nhân trong cộng đồng của mình.

CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA NGƢỜI HOA TẠI HẢI PHÕNG

2.1. Thể chế tổ chức kinh tế của cộng đồng ngƣời Hoa tại Hải Phòng

Có thể nhận định rằng, trước năm 1954, hoạt động kinh tế của người Hoa mang tính chất của kinh tế hàng hóa,hoạt động kinh tế gắn với đời sống chính trị - xã hội. Kể từ khi người Hoa đến Hải Phòng, họ đã nhanh chóng chọn kinh doanh các mặt hàng như gạo, gốm sứ, vải,… không chỉ cho mình mà chủ yếu là buôn bán với các thị trường trong nước và nước ngoài. Nói cách khác, Những thương nhân người Hoa luôn có tinh thần hướng thị, đây là truyền thống văn hóa kinh doanh đặc trưng của họ. Ngay từ đầu họ đã xác định thị trường, bước đầu phân công lao động phù hợp với những đặc điểm của lĩnh vực ngành nghề buôn bán, đi vào sản xuất hàng hóa tại chỗ. Từ đó đưa hoạt động kinh tế gắn với hàng hóa và trao đổi hàng hóa trên thị trường.

Cũng giống như những cộng đồng người Hoa khác trong cả nước, người Hoa tại Hải Phòng hoạt động kinh tế cũng thông qua tổ chức bang, hội cho dù tính chất bang, hội ở đây có phần nào đó “mờ nhạt” hơn so với những nơi khác. Những người đến nhập cư, hoặc buôn bán tại đây đều được dẫn đến văn phòng hải quan để đăng ký, trước sự giám định của bang trưởng hay đại diện của bang người Hoa đó. Những người trong bang, hội sẽ có nhiệm vụ hỗ trợ nhau buôn bán kinh doanh, dạy kỹ nghệ, hỗ trợ các thành viên mới,… Chính hệ thống hỗ trợ kinh doanh tạo nên mạng lưới mạnh mẽ trong hoạt động kinh doanh của người Hoa.

Ở đây, mạng lưới hoạt động kinh doanh của người Hoa được hình thành vởi các mối liên kết giữa các nhà buôn, hiệp hội, tổ chức doanh nghiệp. Tổ chức này giống như một hình tam giác mà đỉnh kết thúc của nó là Phòng thương mại Hoa kiều. Từ đỉnh tỏa ra các chi nhánh, ngành, cơ sở kinh doanh nằm trong một hệ thống nhất và khép kín. Các tổ chức bang, hội, dòng tộc và các tổ chức xã hội khác chi phối sâu sắc các liên kết và hoạt động kinh tế của người Hoa. Bắt đầu từ những người sản xuất, buôn bán lẻ, xưởng thủ công rồi tới các hãng buôn, hãng xuất khẩu lớn, hàng hóa được đưa ra thị trường theo một dây chuyền. Nếu người châu Âu kinh doanh vận hành dựa vào vốn, khả năng chuyên môn, trên những bản hợp đồng dựa trên pháp luật, thì việc làm ăn của người Hoa dựa vào chủ yếu sự giúp đỡ của cả cộng đồng và dựa vào chữ tín. Nhờ đó người trong mạng lưới kinh doanh này có thể nhanh chóng có được vốn, thị trường và cả kinh nghiệm kinh doanh; giúp cho họ rút ngắn được thời gian và hoạt động hiệu quả trong sự giúp đỡ của cả hệ thống.

48

Ngoài ra người Hoa ở Hải Phòng cũng gắn liền với kinh tế hộ gia đình, quy mô sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ. Trong khu vực của người Hoa sinh sống, hầu hết là các hiệu buôn do các hộ gia đình làm chủ, quy mô vốn không lớn bên cạnh một số các hãng buôn chuyên tiêu thụ hàng hóa và thu gom hàng xuất khẩu. Theo bảng

thống kê các doanh nghiệp ở các tỉnh thành thuộc Đông Dương của Pháp trong hai năm 1933-1934 cho thấy, tại Hải Phòng có 248 cửa hàng, xưởng thủ công, công ty, hãng buôn,… của người Hoa hoặc người đứng tên là người Hoa. Trong đó có chỉ có 10 hãng buôn, công ty lớn làm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, có khoảng 8 xưởng, nhà máy lớn và số còn lại là những tiểu thương, những người kinh doanh có số vốn ít trong tay [52, 582].

Từ sau năm 1954, khi nhà nước duy trì nền kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp, hoạt động kinh tế của người Hoa nhanh chóng rơi vào tình trạng khó khăn. Thời kỳ này chủ yếu là sự hình thành của các tổ chức tập thể như hợp tác xã, tổ hợp tác, xí nghiệp,… Chính nền kinh tế tập thể đã phá vỡ mạng lưới kinh doanh của người Hoa, không phát huy được tính chất truyền thống kinh doanh của họ.

2.2. Hoạt động thƣơng mại – dịch vụ

Trong lĩnh vực thương mại, người Hoa dựa vào “chữ tín” để tạo nên ưu thế cho mình. Chữ tín được sử dụng như một phương tiện để xây dựng lòng tin lẫn nhau giữa các thành viên trong cộng đồng người Hoa hay với đối tác kinh doanh của mình. Nó như một bản giao kèo bất thành văn mà bất kỳ người làm ăn nào cũng cố gắng giữ gìn. Nhờ đó mà công việc kinh doanh của người Hoa diễn ra nhanh gọn, hiệu quả. Những thương nhân người Hoa thường cho thấy sự khéo léo và nhạy bén trong kinh doanh. Trước năm 1954, sở dĩ người Hoa ở Hải Phòng hay nói cách khác là những tư sản người Hoa giữ vị trí quan trọng trong hoạt động thương mại – dịch vụ trước hết là do họ có vốn lớn, các tổ chức hoạt động kinh doanh chặt chẽ, xây dựng hệ thống thương mại trong quan hệ dòng họ, gia đình, người thân. Mặt khác họ cũng biết cách móc nối chặt chẽ với các quan chức chính quyền để hình thành quan hệ “cộng sinh” bền vững mà ở đây là người Pháp.

49

Quay trở về XIX, hoạt động thương mại của người Hoa đã diễn ra ở khu vực cửa biển Ninh Hải của Hải Phòng chủ yếu là dưới hình thức buôn lậu. Từ đầu thế kỷ XIX, việc triều đình Nguyễn đã chủ trương cấm buôn bán các mặt hàng đem lại lợi nhuận như lúa gạo, kim loại màu, tơ tằm,… đã khiến cho hoạt động thương mại giữa Trung Hoa và Việt Nam chỉ diễn ra trong phạm vi hạn hẹp, chủ yếu trên cơ sở cung cấp các mặt hàng xa xỉ phẩm cho nhà vua và các tầng lớp quý tộc. Điều này rõ ràng không thể đáp ứng nhu cầu trao đổi khá lớn trong hoạt động thương mại của các thương nhân người Hoa, nhất là việc xuất hiện nền sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa và sự phát triển từng bước trong hoạt động kinh tế ở miền nam Trung Hoa. Cùng với đó là việc ảnh hưởng chính trị giữa Việt Nam với các nước khác đã tạo nên sự hạn chế các hoạt động buôn bán với nước ngoài. Với vị trí rất thuận lợi trong việc nối liền giữa biển và nội địa phía bắc Việt Nam, Hải Phòng đã được thương nhân người Hoa lựa chọn làm địa điểm chủ yếu cho các hoạt động buôn lậu thời kỳ này. Các thuyền buôn của thương nhân người Hoa vẫn qua lại vùng biển Hải Phòng, đi theo hệ thống

sông Thái Bình, đến cửa biển Ninh Hải buôn bán do đây là vị trí có thể trốn được các trạm thuế quan của triều đình nhà Nguyễn.

Mặt hàng họ buôn lậu mạnh nhất là lúa gạo. Suốt những năm 1844 đến 1846, một nhà truyền giáo tên là Manuel de Rivas đã ghi lại số lượng những thuyền mành Trung Hoa đến Bắc Kỳ buôn gạo. Riêng ở Hải Phòng, ông cho biết có khoảng hơn 300 chiếc. Mỗi chiếc thuyền trung bình chở được 500 quintas(1) gạo [63,83]. Trước hết, xét về giá trị của lúa gạo thì ở Việt Nam là khá rẻ so với các tỉnh phía nam Trung Hoa do nhà nước bảo hộ và điều tiết giá. Vì thế việc buôn bán loại mặt hàng mà triều đình Huế đặc biệt nghiêm cấm đã thu hút các thương nhân người Hoa do đem lại lợi nhuận cao. Năm 1824, giá gạo ở Quảng Đông do mất mùa, vào thời điểm cao nhất của 1 thạch gạo có giá từ 4-5 lạng bạc(2) [40, 381], giá này cao gấp 10 đến 12 lần so với giá trong nước. Đến năm 1876, giá gạo ở phía bắc khoảng có giá thấp gấp đôi so với giá gạo ở Trung Hoa [55,61]. Bên cạnh đó, lợi dụng việc triều đình cho phép người dân khu vực Vạn Ninh và Vân Đồn được phép mua lương thực ở khu vực lân cận do rất ít ruộng để canh tác; chính vì vậy các thương nhân người Hoa đã giả danh thành những người Việt hoặc thuê những người ở khu vực này để tiến hành hoạt động buôn bán gạo khu vực cửa Ninh Hải. Nhiều thương nhân người Hoa đã cung cấp tiền bạc cho những người được thuê buôn lậu để làm sự bán đổi ngầm một cách dễ dàng [41, 749]. Trong Đại Nam thực lục cũng có viết “ở địa phận sông trước mặt đồn Trực Cát, huyện An Dương, tỉnh Hải Dương, thuyền buôn Thanh đến đậu ở đó, buôn trộm gạo có lúc lên tới hàng trăm chiếc” [41, 360]. Việc buôn bán gạo của người Hoa tác động tới thị trường tại Hải Phòng tới mức trong mọi hoạt động thương mại tại Hải Phòng sẽ đặc biệt giảm nếu việc xuất khẩu gạo giảm. cộng thêm vào đó là quá cảnh không còn tồn tại [55, 91].

Bên cạnh đó, ở khu vực Hải Phòng lúc bấy giờ cũng diễn ra hoạt động buôn người, chủ yếu là buôn bán phụ nữ. Trong sách Lịch sử can thiệp của Pháp vào Bắc Kỳ từ 1872 đến 1874 của Romanet du Caillaud cho biết, theo báo cáo của các giáo sĩ tại Đàng Ngoài thì nạn buôn bán phụ nữ vẫn tiếp tục được tiến hành như thời xưa cho dù không trắng trợn bằng. Trong nhiều năm ở một khu chợ ở phủ Cao Châu, tỉnh Quảng Đông hàng trăm người phụ nữ An Nam bị đem đi bán. Và những người phụ nữ này chủ yếu được chở đến từ các bến cảng Hải Phòng và Trà Lý [81, 196]. Trong biên bản của viên hoa tiêu là Crochet ngày 03/7/1880 cho thấy, tàu của Pháp đã bắt được một tàu tên là “Quan-chi” mang cờ Trung Quốc và do một người Âu chỉ huy, viên hoa tiêu đã nhận thấy có khoảng 40 phụ nữ và trẻ em người Việt ở dưới khoang tàu [50, 62].

1 1 quintas Tây Ban Nha bằng khoảng 46 kg 2 1 thạch tương ứng với 59,2kg

50

Để ngăn chặn những hoạt động buôn lậu đó, triều đình nhà Nguyễn đã có ngay những biện pháp nhằm đưa các hoạt động buôn bán ở Hải Phòng đi vào khuôn khổ.

Triều đình đã cho đặt một sở quan thuế với một đồn biên phòng trên khu vực sông Bạch Đằng. Cùng với đó là hoạt động kiểm soát và đánh thuế đối với thuyền buôn của người Hoa là 12 lạng bạc và hạn chế cho mỗi thuyền chỉ mua 100 cân gạo [41, 267]. Để kiểm soát những người trong nước được thuê hoặc người Thanh giả dạng làm người Việt để thu mua lương thực, triều đình đã cho đặt sở xét hỏi giấy tờ, hàng hóa ở địa phận sông Phương Chử (thuộc huyện An Lão). Tuy vậy những thương nhân người Hoa cũng hối lộ các quan tại các trạm và quan lại tại địa phương để giả mạo giấy phép, cải trang thành thuyền người Việt để trốn thuế, thu mua lương thực dễ dàng. Số lượng thuế thu được từ các thuyền buôn gạo từ cửa sông Cấm không được bằng 1/10 so với cửa sông Trà Lý [41, 1254]. Do vậy, triều đình bắt các thuyền buôn không được thu mua trực tiếp mà phải thông qua các cơ quan thu mua của triều đình.

Sau hiệp ước Giáp Tuất năm 1874 giữa Pháp và triều đình Nguyễn, hoạt động thương mại của người Hoa ở Hải Phòng mới thực sự phát triển. Trong một bản thương ước ký kết giữa Pháp và triều đình Nguyễn vào ngày 15 tháng 8 năm 1974 tại Sài Gòn đã quy định mức thuế đối với từng loại hàng hóa đã tạo điều kiện cho các tàu buôn nước ngoài buôn bán tại Việt Nam, trong đó có những thuyền buôn của thương nhân người Hoa. Kể từ khi cửa Cấm được khai thông, tàu thuyền của người Hoa ngày một đông, họ đến đây để buôn bán, làm ăn và định cư sinh sống. Với vị thế kinh tế đã có, thương nhân người Hoa đóng vai trò đáng kể ở Hải Phòng kể từ sau mở cửa. Năm 1873, người Hoa thành lập hãng thủy vận Luân Thuyền Chiêu thương Cục kết nối Hải Phòng và Hương Cảng với mục đích vận chuyển hàng hóa mà chủ yếu là xuất khẩu gạo và than từ các mỏ ở Hòn Gai (Quảng Ninh).

51

Trong giai đoạn 1874-1888, những thuyền buôn của người Pháp còn khá ít, thay vào đó là hoạt động thương mại chủ yếu của các tàu buôn người Hoa và người Anh. Từ tháng 9/1875 đến 6/1876, cảng Hải Phòng đã tiếp nhận 20 con tàu của Anh, Đức và Trung Hoa nhưng không hề có một chiếc tàu nào của Pháp. Năm 1875, hãng Yuen Tai Ling là người Trung Quốc đặt văn phòng kinh doanh thương mại sớm nhất ở Hải Phòng đặt tại phố Paul Bert [18, 80]. Theo số liệu thống kê trong Lịch sử can thiệp của Pháp vào Bắc Kỳ từ 1872 đến 1874 của Romanet du Caillaud, kể từ ngày 15 tháng 9 năm 1875 đến 17 tháng 6 năm 1876 có tổng cộng 133 thuyền nước ngoài đến cảng Hải Phòng trong đó có 116 chiếc của người Hoa với tổng trọng tải là 2483 tấn. Trong năm 1875 đến năm 1882, trong tổng số 596 tàu thuyền có các quốc tịch khác nhau đến cảng Hải Phòng thì thuyền của Pháp chỉ chiếm 65 chiếc (chiếm 10,9%) với tổng tải trọng là 28.381 tấn (chiếm 8,26% tổng tải trọng của các thuyền cập bến) [55,93]. Còn theo thống kê của Y. Tsuboi trong sách Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, số hàng hóa xuất và nhập khẩu tại Hải Phòng trong 6 tháng đầu năm 1877 của Turc gửi cho thống đốc Nam Kỳ như sau:

Bảng 1: Thống kê xuất nhập hàng hóa tại Hải Phòng 6 tháng đầu năm 1877.

Nhập Xuất

Quốc gia Dung tích Quốc gia Dung tích

Số lượng thuyền Số lượng thuyền

15 Anh 4.165 Anh 15 4.051

9 Đức 2.897 Đức 9 2.897

4.236 Trung Hoa 168 5.571 Trung Hoa 131

0 Pháp 0 Pháp 0 0

(nguồn: Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Hội Sử học, 1999, tr.319)

Trong bảng trên có thể thấy có tất cả 168 tàu thuyền Trung Hoa đến Hải Phòng với tổng trọng tải là 5.571 tấn và 131 thuyền xuất bến với số trọng tải là 4.236 tấn; trong khi đó hoạt động thương mại của các tàu thuyền của người Pháp là không. Turc trong thư đã nhận định: “… Ngài sẽ lấy làm tiếc mà nhận thấy là quốc kỳ Pháp hoàn toàn vắng mặt ở bến cảng của chúng tôi, nơi đây chúng tôi chỉ thấy tàu thuyền Anh hay Đức, đăng ký đi Hương Cảng”. Rõ ràng nhận thấy người Hoa đã có sức ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế ngoại thương Hải Phòng. Người Hoa nhập khẩu chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng phục vụ người Châu Âu và một bộ phận dân cư bản địa như đồ trang trí, thuốc, trang phục, thuốc, đồ gốm sứ, thuốc phiện, trà,… Họ xuất khẩu từ Hải Phòng những mặt hàng địa phương như nông sản, lụa, thuốc chữa bệnh, đồ thủ công mỹ nghệ,… và đặc biệt là gạo.

3 Trong hồ sơ số 59134 phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ có nhắc đến vấn đề tranh chấp kho hàng của người Hoa ở bờ bắc sông Cấm này. Thống sứ Bắc Kỳ đã nêu rõ quyền sở hữu của khu đất này thuộc về người Hoa theo quyết định của chính phủ An Nam vào năm 1879. Sau này, người Pháp đã chiếm các kho này để sử dụng cho mục đích quân sự.

52

Rõ ràng, cộng đồng thương nhân người Hoa có ảnh hưởng rất to lớn với hoạt động ngoại thương ở Hải Phòng, bởi đây là địa bàn hoạt động đã lâu đời của họ, lại thêm chủ trương của nhà Thanh khi tăng cường mở rộng sức mạnh của mình. Thương nhân Trung Hoa cũng có những kho hàng riêng nằm ở phía bắc của sông Cấm với diện tích lên tới hàng trăm mét vuông(3). Việc xuất khẩu lúa gạo sang Trung Quốc vẫn âm thầm diễn ra bởi nguồn lợi nhuận thu được. Như J. Martinez thống kê, loại gạo chất lượng thấp giá từ 1-1,1 đồng/picul, dù bị đánh thuế 10% và chi phí vận chuyển chưa đầy 30 cent/picul hoặc 5 đồng/tấn, giá bán là 2 đồng/picul. Chỉ riêng năm 1880, trong một thời gian ngắn bỏ lệnh cấm, số lượng

gạo xuất khẩu đã lên tới 25.600 tấn với tổng giá trị lên tới 5 triệu franc [63, 82], đó là chưa kể tới lượng lúa gạo bị buôn lậu dưới nhiều hình thức.

Tính đến năm 1883, thành phố có 5000 dân gồm người Việt, người Hoa và người Âu. Tuy vậy, người Hoa là nguồn gốc chính tạo ra sự phát triển thương mại vì họ đã tiến hành hoạt động thương mại trên khắp khu vực Hải Phòng cũng như toàn xứ Bắc Kỳ. Như ở chương I có đề cập, viên lãnh sự Pháp Louis Turc tại Hải Phòng (1875-1879) đã nhận định sự hiện diện của người Hoa ở Hải Phòng là dấu hiệu của sự phát triển và tình hình tốt đẹp của cảng. Hơn nữa, Pháp và các quốc gia phương Tây đã thấy được vai trò của tuyến đường hàng hải Hải Phòng và Hồng Kông sẽ đem lại giá trị cao trong hoạt động thương mại; đồng thời là cầu nối trung chuyển tốt nhất các tuyến đường hàng hải đi qua khu vực này. Và đảm nhiệm tốt nhất vai trò thương mại trên tuyến đường này luôn là các thương nhân người Hoa. Trong báo cáo của viên lãnh sự Hà Nội, Kergaradec trong cuộc họp báo hải quan ngày 15/03/1881 [51, 230] thống kê các thương thuyền ra vào Hải Phòng năm 1880 cho thấy: trong tổng số 128 tàu vào cảng có khoảng 38 tàu mang cờ Trung Quốc, 34 tàu Anh, 22 tàu Hoa Kỳ, 17 tàu Đức và 6 tàu Pháp. Trong báo cáo, Kergaradec đã giải thích tại sao số tàu Anh lại không nhiều như những năm trước: “Kể từ hai năm nay, hoạt động của tàu Anh đã giảm nhiều. Chúng tôi buộc phải ghi nhận rằng ngược lại, số tàu Trung Quốc lại tăng. Gần như tất cả những tàu này đều thuộc công ty hàng hải Trung Quốc (China Merchants Steam Navigation Company) dưới sự bảo trợ của chính phủ Trung Quốc. Những tàu này phần lớn rất đẹp và được đóng tốt nằm dưới quyền chỉ huy của các thuyền trưởng người Âu mà phần lớn là người Anh. Những người này rất hài lòng về mối quan hệ của họ với các chủ tàu buôn Trung Quốc”. Báo cáo đã chỉ ra vai trò của các thương nhân người Hoa trong việc hoạt động, kiểm soát, thao túng thị trường thương mại tại Hải Phòng. Đây giống như một hình thức thầu lại, nói một cách khác trong số tàu Anh tại Hải Phòng sẽ có những tàu là chủ hoặc người đứng đầu là người Hoa và ngược lại trong số những tàu Trung Quốc sẽ có những thuyền trưởng là người Âu mà ở đây là người Anh.

53

Sự thao túng thị trường của người Hoa được thể hiện rõ trong bản báo cáo của viên lãnh sự Palasme de Champeaux tại Hải Phòng ngày 18/3/1880 như sau: “Họ (người Hoa) thao túng những phàn nàn cay độc về tình hình của mình tại Hải Phòng và tỏ thái độ tin tưởng vào các hiệp ước mà họ đã phải biết trước khi đến nơi, song họ đã không đầu tư tiền của họ cũng như tiền của những người ủy thác cho họ và dựng lý do cấm xuất khẩu gạo để buộc chúng ta phải rời khỏi Bắc Kỳ” [67, 62]. Người Hoa đã lan truyền những tin đồn thất thiệt tại khu vực nhượng địa, đặc biệt là sau các vụ thu hoạch với mục đích, thứ nhất gây sức ép tới chính quyền thực dân, biểu lộ những thái độ bất đồng vệc việc Pháp không có phản ứng gì với những lệnh cấm của triều đình Huế như lệnh cấm xuất khẩu gạo đối với người ngoại quốc. Thứ hai là lợi dụng điều đó để đầu cơ thu mua tích trữ. Các thương nhân Hoa kiều vơ vét các mặt hàng ở đồng bằng Bắc Bộ như tơ sống, vải lụa, đặc biệt là gạo

để chuyển về Hải Phòng rồi xuất đi Hồng Kông, Quảng Châu. Biên bản cuộc họp của Phòng Thương mại Hải Phòng ngày 26-5-1894 khẳng định: “lưu thông và quá cảnh các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và khoáng sản của toàn bộ Bắc Kỳ cũng như Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây (...) là con đường xâm nhập lớn vào trung tâm của Trung Quốc và là đối tượng hành động của chúng ta tại Bắc Kỳ". Trong bức thư của công ty A.R. Marty gửi cho Toàn quyền Đông dương năm 1903 cho rằng các công ty của người Hoa đã hợp tác với nhau để mở rộng ảnh hưởng. Đặc biệt, sự độc quyền của họ trong lĩnh vực xuất khẩu lương thực đã đe dọa đến lợi ích của các công ty Pháp. Cũng theo công ty này, liên minh các doanh nghiệp người Hoa được thành lập từ tháng 10 năm 1895 để cạnh tranh lại với những doanh nghiệp Pháp trong con đường thương mại từ Việt Nam đến Hồng Kông. Mặt khác, các công ty vận tải tàu biển của Hoa kiều còn có nhiều tàu mang cờ các nước phương tây. Điển hình là công ty Hợp Sinh có 2 tàu mang cờ Đan Mạch, công ty Tsap Yet có 7 tàu mang cờ Đức, thuê từ các công ty Đức là Sander, Wieder & Co. và Jebsen & Co [62, 6].

Sau các Hiệp ước Harmand (1883), Hiệp ước Patenôtre (1884) đã đặt quyền thống trị của Pháp lên vương quốc An Nam. Sự có mặt của Pháp ở Việt Nam, đặc biệt tại Bắc Kỳ đã đẩy đến cuộc chiến tranh Pháp – Thanh (1884-1885). Nhà Thanh muốn ngăn cản sự hiện diện quân sự của Pháp tại Bắc Kỳ, vì điều này sẽ trực tiếp uy hiếp vùng biên giới phía nam của họ. Hơn nữa nhà Thanh muốn nhân cơ hội này nhằm chiếm đoạt hoặc duy trì ảnh hưởng của mình đối với Việt Nam. Cuộc chiến tranh Pháp – Thanh đã làm cho tình hình thương mại ở Hải Phòng trở nên xấu đi. Hải Phòng mất đi sức sản xuất ở khu vực nội địa do người Việt bỏ làng mạc để tránh các chiến dịch bình định của Pháp. Nhân tố chính trong thương mại Hải Phòng là cộng đồng người Hoa cũng giảm dần do sức ép chính trị của hai nước Pháp và Trung Quốc, và trước đó vào tháng 4 năm 1883, tài sản của công ty Hàng hải Trung Quốc bị tịch thu dẫn tới việc số lượng tàu người Hoa vào Hải Phòng giảm dần và làm tê liệt các hoạt động thương mại của tuyến đường Hải Phòng – Hồng Kông. Tuy nhiên, từ năm 1885, sau khi hòa bình tái lập cùng với việc ký kết Hiệp ước Thiên Tân (1885) đã mở ra sự phát triển cho các nhà tư sản, các thương nhân người Hoa tại Hải Phòng.

54

Trong giai đoạn 1883-1885, Hải Phòng được đưa ra bàn luận và tiến hành xây dựng trở thành một hải cảng lớn ở Bắc Kỳ. Quyết tâm của chính quyền thuộc địa Pháp cũng như sự ra đời của một chính quyền dân sự ngay sau đó đã giúp cho hải cảng ngày nhanh chóng nhận được các khoản đầu tư lớn từ chính phủ Pháp. Việc san lấp mặt bằng nhanh chóng được tiến hành cùng với đó là các kho hàng trung tâm được xây mới, hoặc được tận dụng từ các kho hàng cũ của người Hoa với tổng diện tích lên tới 3700m2. Các trang thiết bị mới được nhanh chóng đưa vào lắp đặt nhằm phục vụ hoạt động bốc dỡ, vận chuyển tại cảng. Cùng với việc xây dựng cảng, Pháp cho thiết lập Phòng thương mại Hải Phòng trên cơ sở nghị định ngày

23/11/1884 và được bổ sung bằng nghị định ngày 3/6/1886 với mục đích là cơ quan lấy ý kiến, đưa những chỉ dẫn, quản lý việc buôn bán đồng thời cũng là cơ quan lập kế hoạch cho các dự định phát triển Thương mại của Hải Phòng. Thành phần của Phòng thương mại Hải Phòng ban đầu gồm 6 người sau đó được nâng lên thành 13 người với công sứ Pháp làm chủ tịch và các thành viên là 12 thương nhân người Pháp do Công sứ chỉ định.

Việc đẩy mạnh quá trình xây dựng cảng và các cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế, cùng với sự ra đời của Phòng Thương mại Hải Phòng và một cảng lớn nhất Bắc Kỳ lập tức đã tạo ưu thế cho thương mại Pháp. Từ chỗ chỉ chiếm 10% giai đoạn 1875-1883 thì từ 1884-1888 số tàu thuyền của Pháp tăng lên 34,6% số tàu cập bến Hải Phòng. Tháng 3/1883, tài sản của công ty Hàng hải Trung Quốc của Lý Hồng Cường bị tịch thu đã dẫn tới sự rời đi của nhiều Hoa kiều và làm tê liệt các hoạt động thương mại trong thành phố và Bắc Kỳ. Chính quyền thực dân cũng đưa các điều luật, các loại thuế, quy định các mức giá của các loại mặt hàng nhằm hạn chế hoạt động thương mại của người Việt và người Hoa. Như trong biên bản cuộc họp của Phòng Thương mại Hải Phòng ngày 3/4/1899 [76], có đề cập việc các thương nhân người Hoa xin được giảm thuế hải quan đối với tàu thuyền từ Bắc Hải vào Hải Phòng (Quảng Đông, Trung Quốc) về mức thuế cũ. Mức thuế cũ là 2.5 franc/100kg hàng hóa, trong khi đó mức thuế mới tăng lên 12.5 franc/100kg. Điều này sẽ làm cho lượng hàng hóa vào Hải Phòng giảm xuống, những mặt hàng có giá trị nhỏ sẽ chịu mức thuế rất cao, rất khó bán trên thị trường. Trong khi đó mức thuế ở ở Hông Kông chỉ có 5.6 franc/100kg. Các mặt hàng như gốm sứ, len,… sẽ càng khó khăn trong kinh doanh hơn do mức giá các nguyên liệu sẽ tăng lên. Tuy nhiên Phòng Thương mại Hải Phòng không chấp thuận yêu cầu này. Họ cho rằng mức thuế cũ đối với tàu thuyền người Hoa là rất ít, không tương xứng với giá trị sản phẩm. Hơn nữa, Phòng chắc chắn các yếu tố để sản xuất các sản phẩm thủ công có thể tìm kiếm các nguyên vật liệu ở địa phương, tương tự những nguyên vật liệu ở Bắc Hải.

Trước phản ứng đó của người Pháp, một người có tên là Hanh Vo, đại diện cho các thương nhân người Hoa đã gửi một bức thư tới giám đốc Phòng Thương mại Hải Phòng với mong muốn được giảm thuế đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu. Trong bức thư có nói việc đánh thuế các mặt hàng xuất nhập khẩu có vẻ đúng nguyên tắc nhưng gây ra những khó khăn lớn cho thương nhân ở Hải Phòng. Nếu họ phải gánh các thuế xuất khẩu sẽ tác động mạnh tới sự giảm sút hoạt động thương mại ở Hải Phòng. Tuy nhiên, Phòng Thương mại Hải Phòng vẫn không chấp thuận và yêu cầu giữ nguyên mức thuế theo Nghị định ngày 29/12/1898, thiết lập mức thuế 3% đối với các giá trị khi xuất hoặc nhập vào Bắc Kỳ. Lý do Phòng đưa ra là họ không có đủ thẩm quyền để quyết định việc này.

55

Tuy vậy, số lượng tàu thuyền và thương nhân người Hoa cũng không vì thế mà mất đi vai trò của mình. Chính quyền thực dân đưa ra các điều luật và các mức

thuế nhằm tăng nhanh hoạt động thương mại đối với các thương nhân Pháp, nhưng cũng có những khoản, những điều luật cho phép, lới lỏng cho hoạt động thương mại của người Hoa. Xét cho cùng thì những thương nhân người Hoa vẫn là chỗ dựa xã hội đáng tinh cậy của người Pháp, vì dù sao người Việt luôn còn có tinh thần dân tộc, hơn nữa cơ sở kinh tế lại quá manh mún nên không đủ sức đảm nhiệm vai trò trung gian, môi giới chuyển giao hàng hóa giữa trong nước và quốc tế. “Hoa Kiều là những người duy nhất có đủ sức mua và có đủ tư cách mua những hàng hóa của Pháp để dùng ở khu vực thành thị, họ trở thành những người trung gian tuyệt vời giữa ngoại quốc và người bản xứ. Tất cả những đặc điểm đó đã làm cho người Pháp kiêng nể họ. Các vị Toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã thừa nhận vai trò, vị trí của người Hoa” [75, 45].

Trong biên bản cuộc họp ngày 11/10/1910 của Phòng Thương mại Hải Phòng có đề cập, một thương nhân người Hoa ký tên là Sinh Ký gửi thư đến Phòng Thương mại với nội dung: “…Ngoại trừ nguồn cung cấp những mặt hàng đặc biệt (nhất là thực phẩm), những người Trung Quốc càng ít đi khi người An Nam bắt đầu cạnh tranh với họ. Bản thân các doanh nhân Pháp cũng cảm nhận được sự tác động này…. Các thương nhân người Hoa mong muốn xin được chịu chung mức thuế quan chung giống như các thương nhân người Pháp. Các sản phẩm phải trả thuế ròng nếu chúng có giá trên 60 franc, được hưởng mức thuế quan tối thiểu với các mặt hàng dưới 30 franc”. Sau khi nhận được bức thư, Phòng Thương mại đã thống nhất: “Chỉ chấp thuận giảm mức thuế tối thiểu cho các sản phẩm dược liệu, thuốc lá, vải và tơ, các sản phẩm đặc trưng từ Trung Quốc, các sản phẩm thủ công nghiệp, các mặt hàng từ động vật như ngà vo, xà cừ, tê tê. Ngoài ra các sản phẩm khác chỉ được giảm 5-15% mức thuế đã ban hành trước đó” [76].

Theo thống kê, cuối thế kỷ XIX ở Hải Phòng có 21 tư sản người Hoa thì “phần đông họ đầu tư vào kinh doanh lĩnh vực buôn bán thực phẩm, chủ yếu như buôn gạo, đồ ăn (11/21 người), xuất nhập khẩu hàng rau quả, xa xỉ phẩm (5/21 người), còn lại là các ngành kim hoàn, đồ sứ, đại lý, thầu khoán, cung cấp các mặt hàng cho quân đội…” [3, 33]. Trong đó, lĩnh vực buôn bán lương thực, đặc biệt là gạo vẫn là một thế mạnh đặc biệt của các thương nhân người Hoa trong thị trường thương mại tại Hải Phòng.

56

Trong những năm đầu thế kỷ XX, công cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp đã tạo điều cho tư bản chủ nghĩa phát triển, thúc đẩy hoạt động buôn bán của người bản xứ, đặc biệt là người Hoa. Ở Hải Phòng, thương mại người Hoa chiếm vị trí quan trọng, chiếm 63% tổng số vốn thương mại, còn người Âu chiếm 35%, người An Nam là 2% . Số lượng thuế môn bài của người Hoa đóng trong năm 1905 là 270 suất, đến năm 1921 là 526 suất ; trong khi đó người Âu chỉ đóng 147 suất năm 1905 và 234 suất năm 1921 [55, 176]. Người Hoa càng có những điều kiện để phát triển hơn, có quyền lợi để đưa ra các yêu sách trong hoạt động kinh tế và xã hội cao hơn. Một mặt

nhờ tính chất lịch sử - địa lý, tính đa dạng về lĩnh vực nghề nghiệp, tính tổ chức chặt chẽ, tính tương đồng về ngôn ngữ trong quá trình thiết lập hệ thống mạng lưới kinh doanh, người Hoa có lợi thế hơn trong việc nắm bắt thị trường. Chính sức ép của chính quyền thực dân và tư sản phương Tây cũng đã tạo động lực thúc đẩy người Hoa tìm tòi, lựa chọn ngành nghề để hoạt động kinh doanh, họ nhanh chóng thiết lập mạng lưới liên kết với cộng đồng người Hoa tại Hà Nội, Quảng Ninh, Lạng Sơn và các tỉnh thành khác ở Bắc Kỳ cũng như với cả cộng đồng người Hoa trong nước.

57

Có 02 loại thương nhân người Hoa tại Hải Phòng là những chủ doanh nghiệp (doanh nhân) và những người buôn bán lẻ (tiểu thương), trong đó tiểu thương chiếm đa số. Những doanh nhân thường có nhiều vốn đầu tư, có các công xưởng, cửa hàng đại lý,.., có những “đặc quyền” trong việc buôn bán những mặt hàng bị hạn chế như rượu, gạo, thuốc phiện,…; mở ra các phòng giao dịch, các công ty vận tải,… Đối với các tiểu thương, họ là những người phân phối bán lẻ hàng hóa, chủ yếu là các mặt hàng thiết yếu trong đời sống sinh hoạt tại các tiệm tạp hóa, tiệm thuốc, các cửa tiệm ăn uống. Các nhà tư sản người Hoa đầu tư mạnh vào các lĩnh vực ngành nghề nằm trong sự cho phép của người Pháp ở Hải Phòng như buôn bán lương thực thực phẩm, vận tải, buôn bán khoáng sản như than đá với số lượng ít, mở cửa tiệm cầm đồ, cho vay với lãi suất cao… Các nhà tư sản người Hoa cũng được phép mở ngân hàng như Trung Quốc ngân hàng, Giao thông ngân hàng, ngân hàng Công nghiệp Trung Quốc, có cổ phần lớn trong Ngân hàng Pháp – Hoa,… Tại khu vực người Hoa sinh sống tập trung hình thành nên các cửa hàng, cửa hiệu nổi tiếng như hãng Tân Phúc Hòa làm xà phòng và giầy vải, các thương hiệu vải len dạ Ích Thành, Ích Đại, Mĩ Lợi, Tân Hưng, hiệu tạp hóa Hiệp Thành… Người Hoa cũng mở các đại lý thầu khoán cho quân đội, kinh doanh nhà hàng, khách sạn, tiệm hút, rạp chiếu bóng, rạp hát. Trong những năm đầu thế kỷ XX, ở Hải Phòng, tư sản người Hoa có 7 khách sạn lớn như Lục Khải Thông, Đại Á, Ích Tân ; 2 tiệm nhảy, 2 rạp chiếu bóng, 4 tiệm hút. Đặc biệt hơn, khi có tiền sinh lời từ việc đầu tư thương mại trong nội thành, các nhà tư sản người Hoa đã đầu tư mua đất đai trong thành phố cũng như tại các vùng nông thôn Hải An, Kiến An để lập đồn điền, xây dựng công xưởng, nhà máy sản xuất. “Phần lớn đất đai thành phố nằm trong tay người Hoa. Những người này kiếm lời bằng cách cho người Việt thuê những ngôi nhà theo kiểu truyền thống. Với họ đây là hình thức kinh doanh rất an toàn và giúp họ bảo toàn vốn” [55, 150] Trong Tạp chí Đông Dương số tháng 3 năm 1910 có viết : “Các đồng lợi ở Kiến An và Hải An được thành lập một cách tự do và là những công ty làm ăn khấm khá nhất. Cổ đông của những công ty này được nhận lợi tức là 25% và 15%” [83. 213]. Khu vực ngoại thành có Lung Chiong Hoi chủ nhà máy xay kiêm chủ đồn diện rộng 54 ha ở Kiến An, hay trong Bản tin kinh tế Đông Dương xuất bản năm 1923 có đề cập chính quyền thực dân cho một nhóm người Hoa thầu đất ở hai khu vực Hải Nam và Đại Lộc thuộc phủ Kiến Thụy [87, 824]. Ngoài ra một số người Hoa đầu tư và thuê nhân công đánh cá tại các hòn đảo thuộc khu vực Hải Phòng ngày nay, đặc biệt là tại đảo Cát Bà.

Thực tế cho thấy, cho dù trong từng giai đoạn người Pháp thực hiện các chính sách về thuế và các hoạt động thương mại nhằm có lợi cho những nhà tư bản người Âu, nhưng về cơ bản người Hoa luôn là những người chủ động kiểm soát mọi hoạt động ở Hải Phòng. Cho đến tận năm 1921 vẫn còn những kiến nghị của Phòng Thương mại Hải Phòng về việc những người Hoa là người nhận thầu thuế gián thu. Đôi lúc họ lấy danh nghĩa người Âu để chiếm lấy các hợp đồng hoặc thắng thầu. “Chợ và lò giết mổ gia súc được giao thầu mà không hề có thủ tục đấu thầu kèm theo. Người trúng thầu hợp đồng này là Cretin và Leroy. Hãng này phải trả 27.5% nguồn thu cho các chợ và 35.5% cho xây lò giết mổ…. Được giao thầu năm 1887, hai công trình này ngay lập tức được thầu lại cho người Hoa. Trong các biên bản cuộc họp của Phòng Thương mại Hải Phòng cũng chỉ rõ việc họ ngầm điều khiển các hoạt động thương mại, các hợp đồng ở Hải Phòng. Phòng Thương mại cho rằng người Hoa phải chịu trách nhiệm về sự tụt dốc nền công nghiệp và thương mại Pháp: “Một trong các nguyên nhân khiến tình hình thương mại Pháp xấu đi là vì người ta cho phép sự cạnh tranh của nhiều thành phần dân tộc và tạo điều kiện thuận lợi để người châu Á thắng thế trong cuộc đấu thầu. Cách sống của họ tằn tiện hơn nên hoàn toàn không thể chấp nhận việc đặt họ ngang bằng với người châu Âu” [77].

Năm 1915, thương nhân Paul Roque, người được thừa hưởng xí nghiệp và các đại lý đường sông của gia đình ở Hải Phòng đã gửi thư cho thống sứ Bắc Kỳ Le Gallen, phàn nàn về vấn đề phải cạnh tranh với quá nhiều tàu buôn Việt Nam mà đại diện tiêu biểu là Bạch Thái Bưởi và đặc biệt là của người Hoa: “Người Hoa là đối thủ cạnh tranh khi họ được hưởng những ưu đãi khác với các chủ tàu người Pháp” [72]. Ông cũng cho rằng, một số tàu của người Anh, Đức thực chất là các tàu buôn của người Hoa và những thương nhân người Hồng Kông mà ông gọi tên là Pou Hing Tai qua trung gian là hãng “Charles và Công ty” để kiểm soát hoạt động của các tàu thuyền vận tải thương mại. Trong lĩnh vực vận tải, người Hoa chiếm ưu thế hơn do họ có mạng lưới kết nối các tuyến đường nội và ngoại địa rộng lớn, có nhiều tàu thuyền hơn người Việt và người Pháp. Trong vận tải đường thủy có thể kể đến hãng Tchieu Xuong, Lai Thành, Đại Trường, Xương Phát Xuyên, Xương Nhi, Lý Quang,… Trong vận tải đường bộ có hãng của Kong Yune thành lập sớm nhất vào ngày 1/1/1898, tiếp theo đó là hãng Ngo Thi Ban Siou Choong, Tam Seng See, Tong Nam Ly, Tsoi Meng Long,…

58

Kể từ trong và sau thế chiến thứ nhất, đặc biệt trong giai đoạn 1919-1925, hoạt động thương mại của người Hoa trở nên khó khăn hơn trước sự phát triển mạnh của giai cấp tư sản Việt Nam. Năm 1919, để chống lại sự chèn ép của tư sản Hoa kiều, tư sản Việt Nam đã dấy lên một phong trào bài trừ Hoa kiểu, tẩy chay giới chủ Hoa kiều. Lúc đầu phong trào này bùng phát từ Nam Kỳ, sau đó lan ra Bắc Kỳ, chủ yếu tại các thành phố lớn tập trung người Hoa là Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng,… Ở nhiều nơi, tư sản người Việt vận động nhân dân không mua hàng của người Hoa, tổ chức biểu tình, rải truyền đơn với các khẩu hiệu kêu gọi không buôn bán với người Hoa.

Những cái tên như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Văn Ry,… đã trở thành đối thủ cạnh tranh lớn đối với những tư sản người Hoa.

Không chỉ bị ảnh hưởng bởi các phong trào bài trừ Hoa kiều của người Việt, mối quan hệ giữa chính quyền Pháp và các thương nhân người Hoa lâm vào khủng hoảng, đặc biệt là sự kiện chống lại người Hoa ở Hải Phòng tháng 8 năm 1927. “Ngày 17 tháng 8, một số cửa hàng đã bị lục soát, vào ngày 18, người Trung Quốc đã trả đũa. Ngày 19 người An Nam đã cố gắng phá hủy các cửa hàng Trung Quốc và nơi ở của người đứng đầu bang” [84]. Xung đột này đã có năm người Hoa chết và hơn 100 người bị thương, 30 ngôi nhà bị cướp phá, 01 nhà máy của người Hoa bị đốt cháy. Đại diện của chính phủ Trung Quốc tại Hải Phòng đã yêu cầu chính phủ gửi tàu chiến đến bảo vệ công dân của mình. Năm 1928, Chu Chao Hsin, Thứ trưởng bộ Ngoại giao Trung Quốc đã thông báo cho chính quyền Pháp ở Đông Dương những thiệt hại mà các doanh nghiệp người Hoa tại Hải Phòng phải chịu và yêu cầu chính quyền Pháp bồi thường. Chính quyền Pháp đã thống kê được 69 công ty, cửa hàng, tàu biển của người Hoa bị ảnh hưởng bởi phong trào chống lại người Hoa ở Hải Phòng, trong khi hầu như các công ty Pháp không hề bị ảnh hưởng. Sau sự kiện này, chính phủ Trung Quốc đã ký Hiệp định Nam Kinh năm 1930 nhằm bảo vệ quyền lợi cho các doanh nhân người Hoa tại Việt Nam bằng cách trao cho họ một số đặc quyền.

59

Tuy vậy, trên thực tế tiềm lực kinh tế của người Hoa luôn lớn mạnh và không dễ dàng gì có thể lật đổ được hệ thống kinh tế thương mại của họ tại Hải Phòng. Tư sản Việt Nam trong 30 năm đầu của thế kỷ XX còn quá nhỏ, chưa có đủ sức lực để có thể cạnh tranh lại với tư sản Pháp và Hoa. Theo thống kê từ năm 1925 đến năm 1928, những nhà doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có tư sản, tiểu thương ở Hải Phòng buôn bán thua lỗ, không trả được nợ, bị Tòa án thương mại Đông Dương phát án: 129 án khánh tận và 44 án phát mại. Sự thất bại của Bạch Thái Bưởi trong hoạt động thương mại ở Hải Phòng là một ví dụ điển hình về sự sa sút của tư sản Việt Nam. Trong khi đó, những tư sản người Hoa luôn có những mánh khóe và những cách thức hoạt động để đảm bảo hoạt động thương mại của họ trên thương trường. Trừ người Pháp, người Hoa trên khắp lãnh thổ của Đông Dương nói chung và Hải Phòng nói riêng là những người nước ngoài duy nhất không bị hạn chế quyền sở hữu tài sản, ruộng đất. Kể từ năm 1925, họ được phép tham gia đấu thầu công khai, và họ rất ít khi thất bại trong những cuộc đấu thầu đó. Người Hoa cũng lấy đi từ các thương nhân Pháp một số lượng lớn các thị trường quan trọng. Những năm 20 của thế kỷ XX, người Hoa được hưởng lợi từ thuế quan đặc biệt, thường rất thuận lợi để nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc vào Việt Nam. Hàng hóa Trung Quốc đi qua từ Bắc Kỳ mà chủ yếu từ hai thành phố lớn là Hải Phòng và Hà Nội tới Vân Nam và Quảng Tây chỉ phải trả 2% giá trị, giúp họ tiết kiệm được 10-12% giá trị hàng hóa từ các quốc gia khác. Các tàu buôn Trung Quốc lưu thông ở Hải Phòng có nhiều loại tàu không bắt buộc phải tuân thủ luật pháp của Pháp về

thương mại biển ở các nước thuộc địa, được khai thác thoải mái các tuyến đường thủy nội địa. Người Pháp đã nhận định rằng “Không có người Trung Quốc, Đông Dương sẽ nằm ngoài khu vực trao đổi hàng hóa vùng Viễn Đông và nó sẽ không có liên kết với các thị trường lớn lân cận. Như vậy, họ (người Hoa) đã tạo nên những yếu tố quý giá, những yếu tố không thể thiếu của nền kinh tế Đông Dương” [84, 225].

Năm 1929, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu và đã có tác động tới Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp tại Hải Phòng cũng lâm vào tình trạng khó khăn và phá sản, trong đó có không ít nhà tư sản, tiểu thương người Hoa. Để hỗ trợ chính quốc trong cuộc khủng hoảng kinh tế này, năm 1930, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương đã thi hành một loạt các biện pháp kinh tế - tài chính như rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản Pháp đang có nguy cơ phá sản; tăng thuế và thiết lập thêm nhiều thứ thuế mới; phá giá đồng bạc Đông Dương [36, 297]... Tại Hải Phòng, phòng Thương mại được phép kiểm soát hoạt động sản xuất – kinh doanh; thiết lập thuế quan và độc quyền khai thác tại Cảng, đặc biệt với các tàu nước ngoài. Một khoản phụ thu 4% thuế môn bài được đặt ra ở Bắc Kỳ nhằm phục vụ hoạt động của phòng Thương mại Hải Phòng và phòng Thương mại Hà Nội.

60

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã tác động khá mạnh tới kinh tế tại Hải Phòng, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu gạo, vốn hoàn toàn nằm trong tay của người Hoa. Giá gạo đã giảm mạnh kể từ cuối năm 1930, và bằng một nửa giá so với năm 1914. Năm 1919, giá 01 tạ gạo là 11 đồng thì năm 1933 chỉ còn hơn 3 đồng. Hơn nữa, mức thuế mà Pháp đánh vào mặt hàng lúa gạo lúc này tăng 10-20% so với mức thuế trước đó càng gây khó khăn lớn cho các thương nhân người Hoa buôn bán mặt hàng này [56, 310]. Các nhà tư sản người Hoa cũng chuyển hướng theo xu thế chung là đầu tư chủ yếu vào hoạt động kinh doanh các mặt hàng xuất – nhập khẩu thay vì sản xuất. Sự cạnh tranh theo quy luật “cá lớn nuốt cá bé” trong thời kỳ này cũng diễn ra quyết liệt. Người Hoa vốn thế mạnh bởi mạng lưới liên kết trong cộng đồng đã thâu tóm nhiều công ty của người Việt và một số công ty của người Âu. Đồng thời sự câu kết trong hoạt động kinh doanh giữa tư sản Pháp và tư sản Hoa trở nên chặt chẽ hơn để chèn ép hoạt động sản xuất kinh doanh của người Việt. Cho đến năm 1935, ở Hải Phòng có 242 hãng buôn thì chỉ còn 2 hãng của tư sản người Việt, còn lại do tư sản nước ngoài mà trong đó tư bản Pháp - Hoa là chủ yếu. Tuy vậy, không ít tư sản, tiểu thương người Hoa bị phá sản, điển hình là doanh nghiệp Shun Tai, một tư sản Hoa kiều lớn nhất tại Hải Phòng. Nhiều người Hoa đã đi khỏi Hải Phòng để tìm những nơi có thị trường tốt hơn, ổn định hơn trong thời kỳ diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới như tại Sài Gòn, Singapore, Hồng Kông... . “Từ năm 1931 đến năm 1935, tại Hải Phòng đã mất một nửa dân số người Hoa,… Trong báo cáo hàng tháng của chính phủ thuộc địa cho thấy cuộc khủng hoảng đã tạo nên một số lượng lớn lao động thất nghiệp” [74, 663]. Tình trạng sa sút của

kinh tế Hải Phòng nói chung và hoạt động thương mại, kinh doanh của người Hoa ở đây nói riêng kéo dài tới năm 1936, đầu năm 1937. “Trong thời kỳ này, tàu bè không có, sự buôn bán tẻ ngắt. Nhà cửa bỏ trống nhiều, không có người đến thuê gần như hoang phế” [44, 131].

Từ năm 1937, kinh tế tại Việt Nam dần phục hồi trở lại. Tháng 4 năm 1937, chiến tranh Trung - Nhật nổ ra. Kinh tế Hải Phòng được phục hồi nhờ cảng Hải Phòng những năm này trở thành cảng vận chuyển hàng hóa lớn ở Bắc Kỳ, lại ở nằm ở vị trí thuận lợi lớn kéo theo sự phát triển kinh doanh các mặt hàng chiến lược phục vụ nhu cầu chiến tranh Trung – Nhật và chuẩn bị cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai sắp diễn ra. Trong giai đoạn 1937-1939, tại Hải Phòng có nhiều tàu nước ngoài, trong đó có nhiều tàu Trung Quốc cập bến, số tàu vào thường xuyên đậu từ bến Sáu Kho đến bến Cầu Ngự. Trong 4 tháng đầu năm 1937, số tàu Trung Quốc vào Hải Phòng là 78 chiếc với tổng trọng tải hàng hóa là 335,215 tấn, trong đó hàng hóa nhập khẩu là 56,853 tấn, xuất khẩu là 278,362 tấn [54, 29]. Các hàng kinh doanh vận tải hàng hóa xuất khẩu cũng vì thế mà đua nhau mọc lên. Hoạt động thương mại tuyến Hải Phòng – Vân Nam diễn ra hết sức sôi động. Từ năm 1937 đến đầu năm 1939, có trung bình 6.000 tấn hàng hóa được lưu thông trên tuyến thương mại này.

Tháng 5 năm 1939, trước sức ép quá lớn của tàu thuyền neo đậu tại cảng và lượng hàng hóa lớn nhập vào, Toàn quyền Đông Dương đã ban hành Nghị quyết giải tán Hội đồng quản trị Cảng, quyền “tự trị” của cảng Hải Phòng bị xóa bỏ. Ban quản trị mới của Cảng đã tìm mọi cách lưu thông lượng hàng hóa quá cảnh sang Trung Quốc khi sức ép từ phát xít Nhật đối với chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương đang gia tăng. Để thực hiện được điều đó, các phương tiện vận tải hàng hóa trên các tuyến đường sang Trung Quốc đều được khai thác tận lực. Công ty Yunnan đã thực hiện vận chuyển hàng hóa quá cảnh sang Trung Quốc đạt trung bình 19.000 tấn/tháng. Ngoài ra, chính quyền thực dân cũng ban hành các chính sách nới lỏng đối với hoạt động thương mại của tư bản Hoa Kiều. Năm 1939, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương cho phép lập Phòng Thương mại Trung Hoa ở Bắc Kỳ, trụ sở đóng tại số nhà 10 phố Saigon (nay là phố Hoàng Ngân), gồm 21 thành viên đều là người Hoa để bảo vệ quyền lợi cho giới kinh doanh Hoa kiều. Lúc này sự cấu kết giữa tư bản Pháp và tư bản Hoa kiều ngày càng sâu sắc hơn.

61

Tuy vậy bước sang những năm 1940, kinh tế Hải Phòng cũng như toàn Bắc Kỳ kinh tế bị đình trệ do tác động của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Đầu năm 1940, phát xít Nhật đã mở chiến dịch Đông Dương với mục đích cắt đứt một trong những tuyến viện trợ chính của Hoa Kỳ vào Trung Quốc trong chiến tranh Trung – Nhật qua đường cảng Hải Phòng và tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam. Thái độ của chính quyền thực dân tại Đông Dương là tận lực tranh thủ khai thác thuộc địa và từng bước nhượng bộ phát xít Nhật. Người Pháp đã thi hành chính sách “kinh tế chỉ

huy” thời chiến, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động sản xuất kinh doanh, trưng dụng một số cơ sở sản xuất kinh doanh, đặt them nhiều thuế mới để chuẩn bị chiến tranh.

Tác động lớn nhất trong hoạt động thương mại của người Hoa tại Hải Phòng luôn là lúa gạo và lương thực. Dưới sức ép của Nhật, đầu năm 1940, Toàn quyền Đông Dương cấm xuất khẩu gạo sang Trung Quốc; đến tháng 6 năm 1940, biên giới Việt – Trung bị đóng cửa. Đến tháng 9 năm 1940, phía Pháp đồng ý nhượng bộ, cho phép Nhật đóng 6 ngàn quân ở Bắc Kỳ, được quyền sử dụng các sân bay và sử dụng cảng Hải Phòng để vận chuyển. Ngày 11/9/1940, tàu Arizona Maru trọng tải 10.000 tấn của Công ty Osaka Syosen Kaisya đã cập cảng Hải Phòng. Với đại diện của Công ty này là Công ty xay xát gạo Đông Dương, nửa tháng có 3 chuyến tàu chạy thường xuyên trên tuyến hàng hải mới này. Những năm 1941-1943, phát xít Nhật đã vơ vét, đưa về Nhật qua cảng Hải Phòng 3.500.000 tấn gạo, ngô. Hoạt động buôn bán lúa gạo và lương thực hầu như rơi vào tay của người Nhật.

Do ưu thế về sự hiện diện của lực lượng quân sự lớn ở đây, tư bản Nhật tận lực khai thác phục vụ chiến tranh và kiếm lời. Tư sản Pháp, Hoa hay Việt Nam đều phải chịu sự tác động của sự kiểm soát và lung đoạn thị trường của phát xít. Ngày 16/5/1941, chính phủ hai bên Pháp và Nhật ký Hiệp ước về quan hệ kinh tế giữa Nhật và Đông Dương. Để phát triển và duy trì hoạt động kinh tế thời kỳ này, người Hoa buộc phải bắt tay với tư bản Nhật. Một số tư sản người Hoa góp vốn với người Nhật để buôn bán, mở các tuyến thương mại mới. Các mặt hành nhập chủ yếu là tơ sợi, các mặt hàng xa xỉ phẩm, gốm sứ, thủy tinh, máy móc,… Hầu hết các tuyến thương mại này chủ yếu là xuất sang các cảng ở Nhật Bản hoặc khu vực bị Nhật chiếm đóng do các thị trường khác như thị trường Trung Quốc đều đã đóng của hoặc gặp sự cản trở do tác động của chiến tranh. Nổi bật nhất trong hoạt động kinh tế người Hoa thời kỳ này là lĩnh vực dịch vụ. Các cửa tiệm, tiệm nhảy, khách sạn, nhà hàng,… được hình thành nhiều nhằm phục vụ cho các giới chức, binh lính Nhật, Pháp.

62

Kể từ năm 1945 đến năm 1954, hoạt động thương mại của người Hoa tại Hải Phòng gần như giảm sút hẳn do tác động của cuộc chiến chiến tranh Đông Dương giữa Việt Nam và Pháp. Hoạt động của họ chủ yếu trong đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng,.. và chủ yếu là hoạt động dịch vụ phục vụ binh lính Pháp và người dân trong vùng kiểm soát của Pháp. Công thương nghiệp ở đô thị Hải Phòng do tư bản Pháp nắm giữ chủ yếu phục vụ nhu cầu chiến tranh. Vai trò trung gian của tư sản Hoa kiều được tăng cường hơn trong các hoạt động kinh tế, tuy vậy chủ yếu là nhập khẩu các mặt hàng nhu yếu phẩm phục vụ dân trong vùng kiểm soát của người Pháp và duy trì hoạt động kết nối các tuyến đường thương mại trên biển. Tuy vậy cũng không ít Hoa kiều đã âm thầm hỗ trợ, cung cấp trang thiết bị cho lực lượng của ta trong cuộc kháng chiến. Hoạt động thương mại của người Hoa cũng giảm sút là do các đợt di cư ồ ạt, trong đó có không ít các thương nhân, tư bản Hoa kiều đến những vùng an toàn hơn, tránh bị tác động, liên lụy tới cuộc chiến.

Có thể khẳng định, những thương nhân, những nhà tư sản người Hoa đã xây dựng một hệ thống kinh tế, mạng lưới thương mại góp phần đưa Hải Phòng trở thành một trung tâm thương mại – công nghiệp trong thời kì cận đại. Kể từ khi thành lập và phát triển, thành phố Hải Phòng không chỉ được xây dựng dưới sự đầu tư và định hướng của người Pháp, công sức của người Việt mà còn có cả những đóng góp to lớn của cộng đồng người Hoa ở nơi đây. Tuy vậy, hoạt động thương mại, buôn bán đặc trưng của cộng đồng người Hoa tại đây kể từ sau năm 1955 không được duy trì và bị phá bỏ bởi chính sách kinh tế chủ nghĩa xã hội của chính quyền Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Có không ít dòng người Hoa đã theo sự lôi kéo của Pháp và lực lượng tay sai đã xuống tàu di cư vào Nam hoặc ra nước ngoài làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, đại bộ phận người Hoa ở lại Hải Phòng hoặc từ các nơi khác tụ cư về đây được hưởng mọi chính sách, quyền lợi cũng như nghĩa vụ giống người Việt hoặc có những trường hợp họ còn được hưởng lợi hơn người Việt. Có không ít dòng người Hoa đã theo sự lôi kéo của Pháp và lực lượng tay sai đã xuống tàu di cư vào Nam hoặc ra nước ngoài làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, đại bộ phận người Hoa ở lại Hải Phòng hoặc từ các nơi khác tụ cư về đây được hưởng mọi chính sách, quyền lợi cũng như nghĩa vụ giống người Việt hoặc có những trường hợp họ còn được hưởng lợi hơn người Việt. Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác hóa đã trở thành hướng chủ đạo phát triển kinh tế của thành phố; đồng thời kinh tế thương mại, kinh tế hàng hóa bị xóa bỏ. Trong giai đoạn từ năm 1955-1960 vẫn còn tồn tại một số ít thương nhân tiểu thương người Hoa buôn bán cửa hàng riêng, chủ yếu là duy trì các cửa tiệm ăn uống, cửa hàng thuốc, hàng tạp hóa,…

63

Trong giai đoạn từ năm 1960-1979, thời kỳ thành phố thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội theo con đường chủ nghĩa xã hội của cả nước, hoạt động kinh tế sản xuất của người Hoa cũng có sự chuyển biến. Hoạt động kinh tế tư nhân giảm dần đi, thay vào đó là hoạt động kinh tế tập thể, công nhân người Hoa hoặc gốc Hoa được tuyển vào trong các nhà máy, xí nghiệp, các hợp tác xã sản xuất nắm hầu hết các khâu kỹ thuật. Nhiều đảng viên người Hoa được kết nạp nhằm giúp đỡ chính quyền trong một số khâu quản lý hành chính tại các xí nghiệp, nhà xưởng, nơi có nhiều công nhân người Hoa, trong đó phải kể tới nhà máy cơ khí Duyên Hải, nhà máy sắt tráng men Hải Phòng, xí nghiệp đánh cá Hạ Long, xưởng đóng tàu I,II,III… Cùng với đó cũng không ít chuyên gia người Hoa được Trung Quốc cử sang nhằm hỗ trợ phát triển các nhà máy công nghiệp, công nghệ mới vào trong sản xuất. Tuy nhiên có thể nói đây là giai đoạn người Hoa không có điều kiện phát triển mạnh trong hoạt động buôn bán, thương mại vốn là thế mạnh và là truyền thống của họ. Không giống như hoạt động kinh tế thương mại của người Hoa trong khu vực phía nam dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, chỉ có một số ít tiểu thương người Hoa được mở các tiệm bốc thuốc, “chạp phô” hoặc các tiệm ăn nhỏ hoạt động chủ yếu tại các tuyến phố Phan Bội Châu, Lãn Ông, Lý Thường Kiệt, Cát Dài, Cát Cụt,.... hoạt động thương mại – dịch vụ của người Hoa lúc này có thể coi là chấm dứt tại Hải Phòng.

Sau những biến cố chính trị giữa hai nước Việt Nam – Trung, bộ phận những người Hoa ở lại Hải Phòng vẫn được tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội của cả thành phố. Đa số họ là những công nhân trong các nhà máy, các hợp tác xã, một số bộ phận người Hoa buôn bán hàng ăn, tiệm thuốc,… Từ sau năm 1986 với sự đổi mới trong phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đã tạo cơ hội thuận lợi cho hoạt động kinh tế của người Hoa. Những người Hoa hoặc gốc Hoa ở Hải Phòng dần trở lại kinh doanh tư nhân, hộ gia đình, cá thể,…

Nhìn chung trong thời gian phục hồi, tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của người Hoa có sự thay đổi, cơ cấu tổ chức của họ tuy không lớn mạnh như cộng đồng người Hoa tại Nam Bộ nhưng cũng có sự sắp xếp lại một cách hợp lý hơn. Các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể phát triển nhanh chóng, một số công ty và xí nghiệp tư nhân của người Hoa được thành lập, trong số đó có Xí nghiệp Rồng Đen (sau Luật Hợp tác xã năm 2012, xí nghiệp đổi tên là Công ty Rồng Đen) với lĩnh vực xây dựng và sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ. Cũng có nhiều tiểu thương người Hoa mở cửa hàng buôn bán tại các chợ lớn trong thành phố như chợ Ga (chợ Cố Đạo), chợ Tam Bạc (chợ Đổ),…

2.3. Kinh tế thủ công nghiệp – công nghiệp.

Ngay từ khi Hải Phòng được hình thành và được định hướng phát triển, thành phố được người Pháp tập trung xây dựng trở thành một cảng thị với nền kinh tế công – thương nghiệp lớn của Bắc Kỳ. Cùng với việc xây dựng một hệ thống cảng biển lớn nhất và quan trọng nhất của khu vực Bắc Kỳ, chính quyền thuộc địa cho phép quy hoạch và xây dựng hệ thống nhà máy, nhà xưởng sản xuất phục vụ nền công nghiệp của thành phố. Trong giai đoạn 1891 – 1892 đánh dấu bước phát triển đầu tiên của nền công nghiệp Hải Phòng. Ban đầu là sự đầu tư của những nhà đầu tư từ phương Tây; sau đó trước sức hút từ nguồn lợi kinh tế cũng như hỗ trợ cho hoạt động thương mại vốn là ưu điểm của mình, những thương nhân người Hoa đã rót vốn vào thị trường công nghiệp tại Hải Phòng.

Các hoạt động công nghiệp đầu tiên tại Hải Phòng hầu như gắn liền với hoạt động thương cảng biển, đa phần là các nhà xưởng sửa chữa, bảo dưỡng tàu thuyền, các xưởng nhà máy cơ khí. Đối với người Pháp có thể kể tới xưởng sửa chữa của công ty Vận tải đường sông, trong đó nhà xưởng thuê nhiều thợ công nhân là người Việt và người Hoa: “Xưởng này vẫn thường được Nhà nước sử dụng để đóng sà lúp hoặc trang thiết bị khác và sử dụng từ 400 đến 500 công nhân người Việt Nam và người Trung Quốc” [55, 155]. Hầu hết trong các nhà xưởng lúc đó đều có sự xuất hiện của nhiều công nhân người Hoa, những người mà người Pháp đánh giá là những người thợ nhanh nhẹn, dễ học hỏi hơn công nhân người Việt.

64

Với tiềm lực vốn và nguồn nhân lực lớn trong tay mình, tư sản Hoa kiều cũng nhanh chóng đầu tư vào việc xây dựng các nhà xưởng sản xuất của riêng mình, cạnh tranh với tư sản Pháp và tư sản Việt Nam. Trong hai lĩnh vực công

nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ đều có sự xuất hiện của người Hoa. Tuy nhiên do chính sách độc quyền ưu tiên của giới cầm quyền dành cho người Pháp và người phương Tây nhiều hơn, người Hoa chuyển hướng đầu tư nhiều hơn vào hoạt động sản xuất công nghiệp nhẹ với quy mô nhà xưởng sản xuất vừa và nhỏ, phù hợp với kinh tế hộ gia đình.

Trong lĩnh vực công nghiệp nặng, những tư sản người Hoa đã đầu tư từ rất sớm, bắt kịp với xu thế phát triển của thành phố, đáp ứng những nhu cầu của thị trường. Năm 1899, một người Hoa tên Hợp Tài Long được chính quyền thuộc địa cấp phép lập xưởng chế tạo cơ khí (Ateliers de Construtions Mécaniques Hop Tai Long). Với số vốn đầu tư ban đầu là 61.000 quan [3, 26]. Và trong quá trình phát triển, cộng đồng người Hoa liên tục đầu tư xây dựng các nhà máy, nhà xưởng và tập trung chủ yếu vào các ngành nghề cơ khí sửa chữa, đóng tàu. Đây là những ngành nghề quan trọng và có khả năng sinh lời với đặc thù của một đô thị cảng biển. Đối với sản xuất và sửa chữa cơ khí có xưởng cơ khí của Hợp Tài Long, Cơ khí sửa chữa của Kwon Luon Chuon thành lập năm 1917 (số vốn 4.000 quan, 190 công nhân), cơ khí sửa chữa và xay xát của Kwong Tai Long thành lập năm 1920 (có khoảng 320 công nhân), xưởng cơ khí sửa chữa Tong Chiong Long, xưởng sửa chữa và đóng mới tàu của Cheong Fat Yuen thành lập năm 1919 và còn rất nhiều nhà xưởng khác được người Hoa đầu tư.

Còn theo bảng thống kê Danh sách các doanh nghiệp người Hoa tại Hải Phòng trong hai năm 1933-1934(4) cho thấy có 14 nhà máy, xưởng công nghiệp nặng của trên 92 cơ sở công nghiệp - thủ công nghiệp của người Hoa. Con số này tuy chiếm tỉ lệ không cao nhưng cũng thể hiện được sự đầu tư hoạt động trong ngành công nghiệp nặng của người Hoa, sản xuất, sửa chữa và phụ trợ cho nền công nghiệp nặng của cả thành phố Hải Phòng. Ngoài ra, cộng đồng người Hoa còn được phép khai thác khoáng sản ở một số mỏ nhỏ ở khu vực Hòn Gai, Quảng Yên, vốn là thị trường độc quyền của người Pháp tại Đông Dương.

4 Xem phần Phụ lục trang 182

65

Đối với công nghiệp nhẹ, đây là lĩnh vực công nghiệp được người Hoa đầu tư nhiều nhất do dễ dàng thu hồi vốn nhanh, phù hợp với kinh tế (nhỏ và vừa), kinh tế hộ vốn là đặc trưng kinh doanh của người Hoa. Họ tập trung đầu tư vào các ngành nghề như sản xuất hàng tiêu dùng (đồ gốm, thuộc da, tơ sợi,…), xay sát gạo, chế biến nông sản. Một số ngành nghề của người Hoa cũng phát triển từ hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp, một số xưởng sản xuất được phát triển từ hoạt động sản xuất hộ gia đình. Tham gia vào lĩnh vực xay xát gạo, người Hoa dường như muốn củng cố vững chắc hơn nguồn sản phẩm vẫn được tiêu thụ qua cảng Hải Phòng từ hàng thế kỷ qua, đầu tiên là ba xưởng lập năm 1913. Xưởng Hợp-Long có 40 công nhân người Hoa và người Việt lập trên mảnh đất rộng 2.000 m2. Xưởng có một máy hơi nước công suất 120 mã lực hoạt động liên tục 24 giờ, xay xát được 30 tấn gạo mỗi

ngày. Xưởng Luong-Cheong-Hoi thành lập trên mảnh đất rộng 3.000 m2 sử dụng 25 công nhân. Xưởng có một máy hơi nước công suất 80 mã lực phục vụ việc tẩy trắng gạo, hoạt động liên tục 24 giờ với năng lực sản xuất 50 tấn gạo mỗi ngày. Trên mảnh đất rộng 4.620 m2, xưởng Shuntai có 30 công nhân, 2/3 là người Hoa với một máy hơi nước 240 mã lực, hoạt động liên tục 24 giờ, xay xát được 120 tấn gạo mỗi ngày. Xuất hiện muộn hơn là xưởng của Phong-Ly-Seng trang bị một máy hơi nước công suất 280 mã lực có khả năng xay xát 150 tấn gạo mỗi ngày. Xưởng này thường xuyên sử dụng khoảng trên 100 lao động, trong đó phần lớn là người Việt. Xưởng của Cheong-Fat-Yuen có 70 công nhân trên mảnh đất rộng 5.200 m2 với một máy hơi nước có công suất 105 mã lực có khả năng xay xát 45 tấn gạo mỗi ngày. Có duy nhất một xưởng thuộc da của Luong-Van-Ky (Tannerie Luong-Van-Ky) với số vốn 15.000 piastres thành lập năm 1905 cách phía Tây thành phố Hải Phòng 2 km. Xưởng có một văn phòng giao dịch tại phố người Hoa. Xưởng Luong-Van-Ky sử dụng 6 kỹ thuật viên người Hoa và 20 công nhân người Việt. Năm 1918, ông chủ xưởng thuộc da xin lập thêm một xưởng dệt bông chuyên sản xuất khăn tắm và tất cho người bản xứ. Nhà xưởng dệt có một máy hơi nước công suất 10 mã lực, sử dụng 90 cu li người Việt [32, 8].

Theo Châu Thị Hải trong Người Hoa trong lịch sử Việt Nam có đề cập về hoạt động sản xuất công nghiệp nhẹ của người Hoa như sau: “Năm 1939, ở Hải Phòng có 70 xí nghiệp, người Hoa chiếm 24, người Pháp chiếm 38 còn người Việt chỉ có 6. Hầu hết các xí nghiệp của người Hoa thuộc lại vừa và nhỏ nên số vốn đầu tư không của họ không lớn”. Còn trong danh sách thống kê các doanh nghiệp ở các tỉnh thành thuộc Đông Dương của Pháp trong hai năm 1933-1934, có 83 cơ sở sản xuất công nghiệp theo các lĩnh vực của ngành công nghiệp nhẹ, trên tổng số 246 cơ sở của người Hoa đăng ký kinh doanh với chính quyền thuộc địa. Có thể kể tới một số hãng tiêu biểu trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ như:

- Xay xát và chế biến nông sản có:

+ Xưởng của Hợp Long có 40 công nhân, lập năm 1913,

+ Xưởng của Shuntai có 30 công nhận thành lập năm 1913,

+ Xưởng của Phong Ly Cheng có 169 công nhân thành lập năm 1919,

+ Xưởng Kwong Tai Long có 100 công nhân thành lập năm 1920.

- Xưởng sản xuất vật liệu có:

+ Nhà máy chỉ Viễn Đông,

+ Xưởng thuộc da Lung Van Ky (vốn 15.000 quan, 26 công nhân),

+ xưởng thuộc da của Long Kat Shan, Lung Yune, Wong Lang xây dựng ở An

Dương (Kiến An),

66

+ Xưởng dệt của Luong Van Ky thành lập năm 1918 với 90 công nhân,

+ Xưởng sản xuất đồ sứ và gạch hoa, ống cống của Tần Tài Mậu.

- Nhà xưởng khác:

+ Xưởng in Mỹ Long, xưởng in Hoa Dương Lợi Ký,

+ Xưởng xà phòng Tân Phúc Hòa (xà phòng hiệu Con dê),

+ Xưởng cao su Hao Đông, xưởng đóng giày Hợp An.

Với số vốn đầu tư ít, lại ít bị cạnh tranh, các nhà xưởng nhanh trong phát triển, một số nhà xưởng đã phát triển mạnh mẽ, nhiều nhà máy, nhà xưởng của người Hoa phát triển mạnh mẽ, đứng vững qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế năm 1929 diễn ra. Đồng thời mạng lưới kinh tế của người Hoa vững chắc tạo điều kiện vốn và nguồn sản xuất lớn cho các nhà xưởng nhỏ và vừa.

Cũng từ chính các nhà máy được hình thành tại Hải Phòng mà xuất hiện giai cấp công nhân; họ xuất thân từ nông dân, thợ thủ công, trong đó có một bộ phận là người Hoa. Những người công nhân Hoa kiều ban đầu làm đủ các việc, từ bốc vác, cu li, kéo xe tay, người giúp việc, thợ sản xuất thủ công, thợ xây dựng,… Một số cu li người Hoa sinh sống ở Hải Phòng hoặc qua Hải Phòng để làm việc được đưa đi tới các mỏ ở Bắc Kỳ; đôi khi họ được đưa đi xa hơn, tới tận Tân Caledonie hay Panama. Họ chính là nguồn nhân lực đầu tiên trong thị trường “thương mại cu li” của một số công ty của người Pháp và người Hoa [55, 169]. Ngoài ra phần đông họ là những công nhân giá rẻ, giống như người Việt. Sau đó họ được đào tạo và hướng dẫn chuyên môn, dần dần họ trở thành những người thợ cả, những người thợ lành nghề. Cùng một thời gian làm việc như nhau, trong một ngày thợ lành nghề, thợ cả được trả từ 1 đến 1,8franc/ngày, một công nhân trong các nhà máy sẽ kiếm 0,6 đến 1franc, trong khi đó lương của một cu li làm tại các bến thuyền kiếm được từ 0,4 đến 0,75franc.

67

Ngoài ngành công nghiệp, sản xuất tiểu thủ công nghiệp là lĩnh vực kinh tế quan trọng của cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng, là ngành sản xuất cung cấp mọi nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt và sản xuất của thành phố. Hoạt động thủ công nghiệp của người Hoa ở thành phố Hải Phòng rất đa dạng, họ có mặt ở hầu hết các ngành nghề như dệt sợi, chế biến thực phẩm, thuộc da, may mặc, làm giấy… Dọc các dãy phố của người Hoa sinh sống trước kia đa phần là các cửa tiệm, cửa hiệu hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp như tại các phố Rue Chinoise, Rue de Tchéou, Rue du Commerce, Rue Maréchal-Pétain…. Một số ngành nghề thủ công của người Hoa mang tính truyền thống và sản phẩm của họ được tiêu thụ nhiều trên thị trường như các mặt hàng thuốc và dược phẩm, điều chế hương liệu, chế biến thực phẩm. Các gia đình người Hoa thường truyền nghề cho thế hệ sau theo kiểu cha truyền con nối với những bí quyết truyền từ đời này sang đời khác; chính vì vậy họ nắm được những bí quyết, kỹ thuật riêng trong việc tạo ra những sản phẩm mà không ai có thể làm được.

Từ sau năm 1955, các thợ thủ công, các xưởng sản xuất tiểu thủ công nghiệp được khuyến khích tập hợp tự tổ chức thành các hợp tác xã, có đến hơn 70% thợ thủ công tại Hải Phòng gia nhập tại các hợp tác xã sản xuất. Họ là những người thợ có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm trong sản xuất.

Ngoài ra hoạt động nông nghiệp của người Hoa tại Hải Phòng không chiếm tỉ lệ cao trong hoạt động kinh tế nói chung của họ. Có ít người Hoa là nông dân sinh sống khu vực ngoại thành như tại Kiến An, An Dương và chủ yếu được thuê bởi những nhà tư sản người Hoa có ruộng đất, đồn điền tại các khu vực đó. Chỉ có hoạt động ngư nghiệp được người Hoa sinh sống các đảo Cát Bà, Cát Hải phát triển mạnh. Có những làng chài của người Hoa được duy trì từ thời Pháp cho tới việc thành lập các làng chài mới, hợp tác xã ngư nghiệp trên đảo Cát Bà trước năm 1979.

2.4. Tác động của hoạt động kinh tế Hoa kiều vào nền kinh tế chung của

thành phố Hải Phòng.

Trước khi được người Pháp tiến hành lựa chọn để quy hoạch và xây dựng một thành phố hải cảng theo hướng thương mại và công nghiệp, tại Hải Phòng đã diễn ra hoạt động thương mại của người Hoa từ nửa cuối cuối thế kỷ XIX. Đó chính là nền móng để thúc đẩy phát triển quá trình giao thương buôn bán và lựa chọn Hải Phòng là vùng đất định cư mới của cộng đồng người Hoa. Trong quá trình xây dựng thành phố thời kỳ Cận đại, hoạt động kinh tế của người Hoa tuy không thể so sánh với các doanh nghiệp Pháp, song có vị trí kinh tế nhất định, góp phần đưa Hải Phòng trở thành một trung tâm công nghiệp – thương mại lớn của Bắc Kỳ.

Đối với cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng cũng như các cộng đồng người Hoa khác trên khắp cả nước, ở các lĩnh vực thương mại – dịch vụ, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đều là những ngành nghề nổi bật trong hoạt động kinh tế của họ. Mặc dù là cộng đồng nhỏ trong thành phố Hải Phòng, nhưng trên lĩnh vực kinh tế họ giữ vai trò nhất định trong việc thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển, trước hết họ là động lực thúc đẩy quá trình thương mại tại Hải Phòng. Ở đâu có người Hoa xuất hiện là ở đó có những tụ điểm buôn bán, trao đổi hàng hóa. Ở thế kỷ XIX, họ chọn vùng Cửa Cấm thuộc Hải Phòng làm địa điểm buôn bán trao đổi hàng hóa bởi đây là khu vực dễ dàng đi sâu vào trong nội địa, đồng thời là địa điểm dễ dàng kết nối miền Bắc Việt Nam với đường hàng hải quốc tế. Sau khi người Pháp tiến hành xây dựng, cộng đồng người Hoa được chính quyền thuộc địa quy hoạch một khu vực sinh sống riêng với các dãy phố buôn bán sầm uất, các khu chợ, tạo nên nét đặc trưng “trên bến dưới thuyền” của thành phố Hải Phòng,từ đó xây dựng một cộng đồng lớn mạnh.

68

Họ có vai trò lớn trong việc đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thương mại, dịch vụ cho Hải Phòng, thông qua hệ thống mạng lưới kinh doanh và mở rộng thị trường buôn bán trong nước quốc tế, trở thành một trong những những yếu tố tạo tiền đề cho việc thu hút vốn đầu tư của các nhà tư sản nước ngoài cũng như chính quyền thuộc địa vào Hải Phòng. Một số tuyến đường hàng hải thương mại đã được hình

thành liên kết giữa Hải Phòng với các thành phố lớn trên thế giới như Hải Phòng – Hồng Kông, Hải Phòng – MaCao, liên kết với một số quốc gia Đông Nam Á, các nước phương Tây,… Ngoài ra, người Hoa cũng góp phần đưa những kỹ nghệ, công nghệ kỹ thuật từ phương Tây và các nước tiên tiến vào Hải Phòng, trong đó một số nhà máy, nhà xưởng sản xuất của người Hoa sử dụng dây truyền sản xuất, cơ khí tiên tiến lúc bấy giờ.

Trong sự phát triển của mình, cộng đồng người Hoa đã nắm giữ một lượng lớn vốn tư bản, tay nghề, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh trong tay. Họ tự xây dựng cho mình những nhà máy, xưởng sản xuất riêng, có những dãy phố buôn bán đặc thù. Đồng thời họ có một lượng lớn nhân lực và vốn đầu, hỗ trợ tư từ chính cộng đồng của mình. Điều đó giúp họ có thể chi phối một số ngành hàng, đặc biệt là lúa gạo và lương thực, tự điều tiết và đưa ra mức giá chung để cạnh tranh. Họ vừa là những người “cộng sinh” với những nhà tư sản phương Tây và chính quyền thuộc địa, song cũng là đối thủ cạnh tranh lớn đối với các nhà tư sản Pháp và tư sản Việt Nam. Sự cạnh tranh của người Hoa tạo nên động lực thúc đẩy sản xuất phát triển của kinh tế Hải Phòng, xóa bỏ đi phần nào đó thế độc quyền của người Pháp, tạo ra những sản phẩm chất lượng, có chi phí sản xuất rẻ cho thị trường. Tuy vậy họ ra sức chèn ép các nhà tư sản khác, đặc biệt là tư sản người Việt. Nhiều trường hợp người Việt đã gặp khó khăn hay phá sản do những mánh khóe, thủ đoạn của người Hoa trong hoạt động kinh doanh như trường hợp của Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu,…

69

Hoạt động kinh tế của cộng đồng người Hoa còn góp phần tạo nên một thị trường lao động lớn, tạo ra một nguồn lao động dồi dào, trong đó có tầng lớp công nhân được hình thành. Không ai có thể phủ nhận vai trò của những tư sản giàu có người Hoa trong việc phát triển thương nghiệp của đô thị này, song trong cộng đồng người Hoa thì họ chỉ là một bộ phận nhỏ thuộc tầng lớp trên, còn lại thì chủ yếu là những dân cư nghèo thuộc tầng lớp dưới. Những người Hoa nghèo làm đủ ngành nghề trong xã hội giống như đại bộ phận người Việt lúc bấy giờ. Tuy vậy với sự phát triển mạnh mẽ của một thành phố thương mại – công nghiệp như Hải Phòng, lực lượng lao động đó được tuyển tới các nhà máy sản xuất, bến cảng để trở thành những người công nhân. Ban đầu họ là những người không có tay nghề, là những cu li, những lao động “cơ bắp”. Nhưng với sự cần cù lao động, sự năng động và nhanh nhẹn trong lao động, họ được đào tạo để trở thành những người lao động có tay nghề chuyên môn. Hầu hết các công trình quan trọng được xây dựng trong thành phố đều có sự hiện diện của những công nhân người Hoa như Cảng Hải Phòng, tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam hay trong các nhà máy lớn. Một phần nào đó, những người chủ tư sản tin tưởng những người công nhân người Hoa hơn là người Việt bởi công nhân Việt.

Có thể nói, trong suốt quá trình định cư, hình thành và phát triển, cộng đồng người Hoa đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển kinh tế của thành phố Hải Phòng trong lịch sử. Họ đến đây mang theo những nghề mới, làm giàu thêm cho đời sống kinh tế hầu hết trong các lĩnh vực thương mại dịch vụ, công nghiệp và thủ công nghiệp. Nền kinh tế của Hải Phòng lớn lên dưới những chính sách, kế hoạch đầu tư của người Pháp, dưới những nỗ lực của thương nhân người Việt và cả những đóng góp không nhỏ của cộng đồng người Hoa.

Tiểu kết chƣơng 2.

Hoạt động kinh tế của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng đã diễn ra từ rất sớm; tuy nhiên phải đến nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với điều kiện mới càng phát triển, thế lực của họ luôn ở vị trí đứng đầu và có khả năng thao túng thị trường ở đây. Ở bất cứ thời điểm nào, hình ảnh, vai trò và vị thế kinh tế của người Hoa cũng luôn nổi bật. Tại Hải Phòng, hoạt động kinh tế cộng đồng người Hoa chủ yếu trong lĩnh vực thương mại – dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, Trong đó người Hoa đặc biệt có thế mạnh trong hoạt động buôn bán lương thực, lúa gạo. Tại bất cứ vai trò nào, từ những người thương nhân buôn bán, môi giới trung gian hay làm chủ của nhà xưởng, nhà máy của riêng mình, người Hoa luôn thể hiện sự thành công trong đặc tính kinh doanh của cộng đồng mình. Sau này, khi thương nhân người Pháp ngày càng mở rộng thị trường thì thương nhân Trung Hoa và thương nhân người Pháp cấu kết với nhau, chèn ép tư sản người Việt. Tuy vậy, trên một số lĩnh vực kinh doanh độc quyền của tư bản Pháp, thương nhân Trung Hoa và thương nhân người Pháp vẫn có những bước thủ thế, kìm hãm và cạnh tranh gay gắt với nhau, tạo nên một bức tranh kinh tế đầy biến động, phức tạp.

Hoạt động kinh tế của người Hoa mang tính chất của kinh tế hàng hóa, gắn liền với cơ chế thị trường. Kể từ khi người Hoa đến Hải Phòng, với tinh thần hướng thị đặc trưng, ngay từ đầu họ luôn xác định thị trường, phân công lao động phù hợp với những đặc điểm của lĩnh vực ngành nghề buôn bán và đi vào sản xuất hàng hóa tại chỗ. Đa phần người Hoa ở Hải Phòng gắn liền với kinh tế hộ gia đình, quy mô sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ. Trong khu vực của người Hoa sinh sống, hầu hết là các hiệu buôn do các hộ gia đình làm chủ, quy mô vốn không lớn bên cạnh một số các hãng buôn chuyên tiêu thụ hàng hóa và thu gom hàng xuất khẩu.

70

Khi người Hoa sống tập trung ở đâu thì mạng lưới hoạt động kinh tế của họ được vươn ra và diễn ra khá chặt chẽ với nhau. Người Hoa tại Hải Phòng hoạt động kinh tế thông qua tổ chức bang, hội cho dù tính chất bang, hội ở đây có phần nào đó “mờ nhạt” hơn so với những nơi khác. Những người trong bang, hội sẽ có nhiệm vụ hỗ trợ nhau buôn bán kinh doanh, cung cấp vốn, dạy kỹ nghệ, hỗ trợ các thành viên mới. Mạng lưới hoạt động kinh doanh của người Hoa được hình thành vởi các mối liên kết giữa các nhà buôn, các hiệp hội và tổ chức doanh nghiệp. Các tổ chức bang, hội, dòng tộc và các tổ chức xã hội khác chi phối sâu sắc các liên kết và hoạt động

kinh tế của người Hoa. Nếu người châu Âu kinh doanh vận hành chủ yếu vào vốn, khả năng chuyên môn, trên những bản hợp đồng dựa trên pháp luật, thì việc làm ăn của người Hoa dựa vào chủ yếu sự liên kết của cả cộng đồng và dựa vào chữ “tín”. Những ai bội tín sẽ bị cả hệ thống mạng lưới kinh tế của cộng đồng tẩy chay và sẽ bị tống khứ, thậm chí còn bị trừng phạt nghiêm khắc.

71

Sức mạnh về kinh tế của cộng đồng người Hoa là kết quả tạo thành từ sự nhanh nhẹn trong việc kinh doanh, là sự năng động trong sản xuất và hơn hết là tinh thần gắn kết, đoàn kết của cả cộng đồng. Từ những người thợ làm thuê cho tới những người chủ cơ sở kinh doanh luôn có sự đồng nhất trong thể chế nhưng có sự phân công rõ ràng trong hoạt động lao động. Hơn nữa cách ứng xử của họ đối với từng chính quyền qua từng thời kỳ và với người bản địa đã tạo cho họ những vị thế riêng với những đặc quyền khác nhau. Cùng với sự hình thành và phát triển của thành phố, dù trả qua những lúc thăng, lúc trầm của những biến cố lịch sử, hoạt động kinh tế của cộng đồng người Hoa đã tạo nên những kết quả đáng tự hào mà giá trị của nó đã trở thành nét ấn tượng riêng biệt, không thể phủ nhận.

CHƢƠNG 3: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA – XÃ HỘI

CỦA CỘNG ĐỒNG NGƢỜI HOA TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG

3.1. Văn hóa vật chất.

3.1.1 Kiến trúc đô thị.

Cuối thể kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX, với sự phát triển mạnh mẽ về mặt dân số, người Hoa ở thành phố Hải Phòng đã tạo dựng nên cho họ một khu vực riêng với sự đồng thuận của người Pháp và thuận lợi cho họ trong hoạt động kinh tế thương mại. Theo tiến trình phát triển của đô thị Hải Phòng, quỹ kiến trúc đô thị của cộng đồng người Hoa chia làm hai phần gắn liền với từng giai đoạn khác nhau:

- Khu vực 1 (màu vàng): Được giới hạn bởi các tuyến phố hiện nay: Tam Bạc, Quang Trung, Hoàng Văn Thụ và một phần đường Điện Biên Phủ. Đây là khu vực đầu tiên của cộng đồng người Hoa tại thành phố Hải Phòng được người Pháp quy định.

- Khu vực 2 (màu xanh): Được giới hạn bởi các tuyến phố hiện nay: Nguyễn Đức Cảnh, một phần đường Trần Nguyên Hãn, Cát Dài (Hai Bà Trưng) và một phần đường Cầu Đất. Sau áp lực dân số và số lượng dân nhập cư tăng, cộng đồng người Hoa đã phát triển sang phía nam kênh Bonnal (nay là dải công viên trung tâm thành phố) cùng với cộng đồng người Việt.

Bản đồ 3.1: Khu vực tập trung dân cư người Hoa sinh sống (nguồn: Tác giả)

72

Người Hoa đến Hải Phòng từ rất sớm, tuy nhiên trước năm 1885 có khá ít công trình của người Hoa được xây dựng, đầm lầy hoặc những cánh đồng chiếm diện tích lớn. Năm 1885, công sứ Bonnal đã cho đào kênh vành đai với tính chất phòng thủ và quy hoạch một phần đô thị Hải Phòng. Thời kỳ này, thành phố Hải Phòng đã được cấu thành bởi ba khu vực rõ rệt: khu vực nhượng địa, khu vực người Hoa và khu vực người Việt. Cộng đồng người Hoa sống tập trung ở khu vực xen giữa sông Tam Bạc và kênh Bonnal. Khu vực của cộng đồng người Hoa tuy diện

tích không lớn nhưng đã được quy hoạch theo dạng ô bàn cờ, có vị trí sát với khu nhượng địa với mục đích thiết lập mối quan hệ “cộng sinh” giữa Hoa kiều và người Pháp, nằm ở bờ sông Tam Bạc thuận lợi cho thuyền buôn cập bến thông thương. Khu vực này hình thành trên những phố chính, đó là phố Quai Marechal Foch, Tonkinoise, Chavassieux, Commerce và các phố nhỏ nằm cắt ngang (như phố Bắc Ninh, Formose, Sài Gòn, Pagode, Fou Tchéou …). Dựa vào hoạt buôn bán trao đổi hàng hóa mà dân cư ở đây trở nên đông đúc hơn.

Từ năm 1900, cùng với việc phát triển thành phố và sức ép của số lượng dân nhập cư, cộng đồng người Hoa, đã dịch chuyển nơi định cư sang phía nam kênh Bonnal. Với các công trình kiến trúc người Hoa còn lại và thông qua lời kể của những người sống lâu năm ở Hải Phòng, có thể kể đến những phố tập trung nhiều người Hoa như: đại lộ Bonnal (phố Nguyễn Đức Cảnh), phố Paul Doumer (phố Cầu Đất), phố O d’Endhal (phố Cát Dài), phố Strabourg (phố Cát Cụt),… Họ xây dựng nhà cửa và các công trình phục vụ kinh tế, xã hội xen lẫn với cộng đồng người Việt. Dựa trên bản đồ năm 1934, có thể thấy hai khu vực tập trung nhiều người Hoa sinh sống được định hình một cách hoàn chỉnh cho đến năm 1979 và nhiều khu vực vẫn còn giữ được quỹ kiến trúc đô thị cho đến ngày nay.

Dựa theo những đặc điểm của các quỹ di sản kiến trúc đô thị của người Hoa

tại các thành phố lớn ở Việt Nam ta có thể chỉ ra một số đặc trưng cơ bản sau:

- Những khu phố người Hoa là nơi có cộng đồng người Hoa định cư, sinh sống và tổ chức hoạt động kinh tế, văn hóa, sinh hoạt cộng đồng trong khu vực đó. Cư dân trong khu vực luôn hỗ trợ nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gìn giữ phong tục tập quán đặc trưng của người Hoa.

- Nơi tập trung dân cư thường thuận tiện cho việc thông thương buôn bán, gần các con sông, các tuyến đường chính. Các tuyến phố được phân chia theo dạng ngành nghề, hàng hóa,… Công trình nhà ở thường có hai chức năng: sinh hoạt và kinh doanh buôn bán.

- Các dạng công trình luôn mang ít nhiều các tín hiệu của các yếu tố văn hóa truyền thống của cộng đồng người Hoa như phong cách kiến trúc theo nhóm địa phương, các biển hiệu có chữ Hán, khu vực thờ những vị thần bảo trợ,…

- Có đầy đủ các công trình sinh hoạt cộng đồng, phục vụ dân sinh như bệnh

xá, trường học, đền miếu, hội quán,…

73

Tại Hải Phòng, từ năm 1885, khi mà các dự án của viên công sứ Bonnal, diện mạo của thành phố nói chung và khu phố Khách (nơi tập trung nhiều người Hoa sinh sống) nói riêng được chỉnh trang và theo dạng các ô phố. Trước những lợi ích chính trị, kinh tế, công cuộc cải tạo của người Pháp đã có những điều chỉnh sao cho ít tác động tiêu cực đến cộng đồng người Hoa sinh sống ở đây. Các Hoa kiều cũng nhanh chóng mua đất đai của những người bản địa, xây dựng nhà cửa, cửa

hàng, cửa tiệm tạo nên một khu vực sầm uất, nhộn nhịp nhất của cả thành phố. Tuy nhiên người Hoa tụ cư ở Hải Phòng muộn hơn so với những tỉnh thành có đông cộng đồng người Hoa sinh sống, chính vì vậy diện mạo kiến trúc của người Hoa ở đây có những điểm khác biệt so với những nơi khác.

3.1.2. Nhà ở.

Các công trình nhà của người Hoa thời Pháp thuộc tại Hải Phòng không đa dạng như ở Hà Nội, Hội An, Sài Gòn… Do là thành phố trẻ, người Hoa đến định cư muộn hơn các thành phố khác, các công trình nhà ở của người Hoa thường được xây theo các loại hình sau:

- Loại hình nhà “chồng diêm”: kiểu nhà này được xây dựng từ khi người Pháp tiếp nhận khu nhượng địa và người Hoa bắt đầu vào Hải Phòng định cư. Nhà chồng diêm thường cao từ một đến hai tầng, ở phần mặt tiền và mái có phần nào đó ảnh hưởng phong cách kiến trúc Trung Quốc, nhất là phong cách kiến trúc vùng Quảng Đông. Mái thường lợp bằng ngói đất nung, thường không có lan can, nhưng có mái hiên ở tầng một và có cửa sổ được trổ ra ở tầng hai. Các hệ thống cột xà bằng gỗ chịu lực kết hợp với tường gạch. Do diện tích đất hạn chế, khác với các công trình nhà ở theo phong cách này ở Hà Nội, bên trong thường chỉ có 1 sân để lấy ánh sáng và thông thoáng.

- Loại hình nhà kiến trúc Á – Âu: đây là loại hình kiến trúc được xây dựng từ năm 1885, là sự hòa trộn giữa nét kiến trúc phương Tây và kiến trúc truyền thống của người Việt hoặc của người Hoa vùng Nam Trung Hoa. Đa phần các công trình nhà ở kiểu này thường có 2 tầng, nhưng cũng có một số công trình 3 tầng. Các công trình thường được trang trí bởi các cột trụ, tường xây gạch với nhiều phào chỉ; có hệ thống cửa chớp bằng gỗ và bên trên có hệ thống mái che được đắp nổi hoa văn. Các công trình thường có ban công trang trí bằng hoa sắc, gạch xây hoặc các con tiện bằng xi măng. Sàn nhà thường gác dầm và lát sàn gỗ, đôi khi có trần vôi rơm để cách nhiệt và chống ẩm, phù hợp với khí hậu của Hải Phòng. Nếu có diện tích sử dụng của công trình lớn, bên trong sẽ có hệ thống sân giống như kiểu nhà chồng diêm. Ngoài ra cũng có một số thương nhân giàu có người Hoa xây dựng những công trình mang phong cách kiến trúc Tân cổ điển của Pháp.

74

- Loại hình cận hiện đại (art decor): Xuất hiện vào những năm 1930 – 1954, các công trình được xây dựng theo kỹ thuật hiện đại, sử dụng vật liệu granito, kính,… và tạo hình hoa văn đơn giản. Các cửa sổ đều vuông vắn không có trang trí xung quanh hay mái hắt nhô ra nhiều. Kính được sử dụng nhiều hơn. hệ thống vòm cuốn cầu kỳ không còn chỗ đứng trong các công trình loại này mà được thay thế bằng các đường nét ngang bằng sổ thẳng. Quy mô công trình thường là 2-3 tầng, vệ sinh được bố trí bể tự hoại, sàn nhà bê tông hoặc dầm gỗ. Một số công trình có tầng hầm cao tạo cốt nền với mục đích chống ẩm và tạo nhà kho.

- Loại hình kiến trúc sau năm 1954: Các công trình nhà ở từ sau năm 1954 thường là những ngôi nhà có 1 hoặc 2 tầng. Với hình thức kiến trúc đơn giản, kết cấu gạch chịu lực, bố cục đơn giản nhưng có chia các phòng và có công trình phụ, thường xây theo dạng nhà ống do diện tích đất hạn chế. Những công trình được xây dựng trên những lô đất được phân định sẵn. Ngoài ra, người Hoa trong giai đoạn từ năm 1966-1979 ở thành phố Hải Phòng còn ở trong những căn nhà tập thể. Đó là những tòa nhà lắp ghép theo công nghệ của các nước Đông Âu thời bấy giờ cao 4-5 tầng, vây quanh sân chơi chung. Các công trình kiến trúc nhà ở và nhà tập thể thời kỳ này có giá trị kiến trúc thấp do hình khối đơn giản, bố cục tổng thể ít chi tiết trang trí, không gian bên trong cứng nhắc và thường có diện tích nhỏ, chỉ phù hợp cho một hộ gia đình có 4-5 người sinh sống.

Hải Phòng là thành phố cảng biển ra đời muộn, người Pháp muốn xây dựng thành phố Hải Phòng với hai mục đích chính là kinh tế và quân sự. Bên cạnh đó, người Hoa đến Hải Phòng định cư đa số là những người thương nhân, chính vì vậy các công trình kiến trúc nhà ở cũng thường gắn với các hoạt động kinh tế thương mại. Nhà ở của người Hoa bao gồm: chỗ ở, chỗ sản xuất - giao dịch, nơi thờ cúng. Về cơ bản khu mặt tiền, nhà trước hoặc gian trước của công trình thường là những không gian để bán hàng, phía sau là không gian sinh hoạt. Ở các công trình nhà ở theo loại hình chồng diêm, từ đường vào trong gian trước là nơi bán hàng. Gian tiếp theo được ngăn bằng vách gỗ là kho hàng hóa, tiếp theo sau đó là gian thờ, sân, khu vực sinh hoạt gia đình, gian phụ. Hoặc ở một số công trình có hai tầng thì một phần ở tầng trên làm kho và có phân chia phòng nhỏ cho các thành viên sinh hoạt.

Ngoài ra đối với những công trình không sử dụng mục đích kinh doanh buôn bán, không gian ngôi nhà thường được bố trí: Gian ngoài cùng (từ đường vào nhà) dùng để buôn bán kinh doanh, sau đó là nơi sinh hoạt chung, tiếp khách và cuối cùng là gian ngủ. Như vậy không gian sinh hoạt chung được đặt ở giữa trung tâm nhà, bao quan đó là các không gian riêng của các thành viên trong nhà. Các công trình nhà ở không có mục đích kinh doanh thường ít ánh sáng. Những người sinh sống ở các ngôi nhà này thường là những người Hoa lao động, điều kiện kinh tế hạn hẹp nên diện tích đất sử dụng thường không có nhiều. Bên cạnh đó các công trình thường ở trong các ngõ, không phải là các công trình mặt đường nên bị các công trình cao khác xung quanh chắn ánh sáng. Để khắc phục điều đó, hệ thống cửa sổ được mở nhiều hơn để lưu thông không khí và tận dụng mọi ánh sáng tự nhiên. Ở mặt tiền, hoặc đầu ngõ dẫn vào trong mỗi công trình thường có những tấm bia thờ thổ thần. Bia thờ Môn thần là một chi tiết không bao giờ thiếu trong mỗi công trình của người Hoa.

75

Trong căn nhà của người Hoa, bàn thờ luôn được đặt ở nơi trang trọng nhất. Bàn thờ thường được kê sát với vách tường ở ngay giữa nhà. Phía trước bàn thờ, ở viền mép được gián giấy đỏ, giấy này sẽ được đốt thay thế mỗi dịp cuối năm. Trong

việc xây nhà, người Hoa rất chú trọng về phong thủy, hướng nhà, hướng bếp và cả hướng bàn thờ. Khi xây dựng nhà phải coi ngày tháng phù hợp với tuổi của gia chủ. Khi xây dựng, cửa chính của nhà không được trùng khít với cửa nhà đối diện, vì theo quan niệm nhà kia làm ăn phát đạt thì nhà mình sẽ lụi tàn, nghèo khó. Trước cửa của mỗi công trình đều treo tấm bát quái và gương nhàm ngăn ngừa tà ma, bệnh tật và những điều không may mắn.

Từ sau năm 1979, sau khi người Hoa hồi hương về nước hoặc di cư sang nước thứ ba, hầu hết các công trình nhà ở bị bỏ trống do không có người sử dụng. Để khắc phục điều đó, ngày 21/9/1978 Bộ Xây dựng đã ban hành Thông thư số 22- BXD/TT về việc hướng dẫn quản lý nhà của người Hoa và người Hoa gốc Việt ở các thành phố, thị xã, thị trấn bỏ đi Trung Quốc. Thực hiện theo Thông thư, chính quyền thành phố đã quyết định thu hồi nhưng công trình đã cho người Hoa thuê hoặc tài sản bất động sản của người Hoa đã hồi hương; sau đó phân nhà cho cán bộ và người dân thành phố theo hình thức mua bán, ưu tiên phân phối cho các yêu cầu và lợi ích công như nhà trẻ, cửa hàng, trụ sở các ban đại hiện hành chính... Tuy vậy, những người Hoa ở lại Việt Nam cũng được quyền sử dụng các công trình của mình hoặc được phân phối nhà theo diện ưu tiên, trong Thông tư có ghi:

- Đối với nhà của nhà nước cho thuê: Phân phối cho các gia đình công nhân và nhân dân lao động là người Hoa, người Việt gốc Hoa có thái độ chính trị tốt và những người trong khu vực chưa có nhà ở hoặc ở quá chật.

- Đối với nhà tư nhân nay đã bỏ đi: Nhà của người Hoa bỏ đi có thể phân phối lại cho người Hoa chưa có nhà ở ;hoặc có thể dùng cho nhà trẻ của nhân dân trong khu vực nhưng cần giành lại một số diện tích thỏa đáng để giải quyết cho những người Hoa tốt nếu họ trở lại Việt Nam mà ta cần chiếu cố [6].

Trong quá trình sử dụng đến nay, nhiều công trình đã được sửa chữa cải tạo, phá bỏ, hoặc nhiều công trình bị xuống cấp do người dân không được tự quyền sửa chữa, dây dựng mà phải xin phép chính quyền địa phương.

3.1.3. Cơ sở tín ngưỡng tôn giáo.

Các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa thường được xây dựng theo nguyên tắc truyền thống Trung Hoa với quan niệm vũ trụ âm dương hài hòa, thẩm mỹ và chủ trương đối xứng nghiêm ngặt. Các công trình đó đều được xây dựng ở những khu vực trung tâm, đông dân cư, gần chợ, thuận tiện cho hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng và là nơi hội họp của người dân.

76

Các cơ sở thờ tự của người Hoa có những chức năng, quy mô và kiểu kiến trúc khác nhau phù hợp với đối tượng thời cũng và từng tính chất địa phương. Có 03 loại hình cơ sở tín ngưỡng tôn giáo bao gồm: chùa, miếu và hội quán.

Bảng 2: So sánh các loại hình cơ sở tín ngưỡng tôn giáo của người Hoa.

Tiêu chí Chùa Miếu Hội quán

Nguồn gốc hình thành Đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng Đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng Đáp ứng nhu cầu quy tụ, tập hợp của các nhóm người Hoa trong một bang hội

Chức năng Cơ sở thờ tự Phật giáo Cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian Trụ sở hành chính – hỗ trợ – liên lạc

Kiến trúc và quy mô công trình Theo dạng chữ Nhất, Nhị, Tam, Đinh, Công , Nội công ngoại quốc,… Theo dạng hình ống, có khoảng sân lớn ở giữa công trình, quy mô khá lớn.

Có thể phỏng lại theo kiến trúc của các ngôi chùa, thường mang hình thái kiến trúc dân gian, nhóm địa phương

Đối tượng thờ phụng Phật Thích Ca, các vị La Hán, các vị thần của Phật giáo Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân,… Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Tổ nghề, …(chức năng phát sinh)

Đối tượng tham gia cộng đồng dân cư cộng đồng dân cư Các nhóm, cư dân các bang hội

Nếu chùa và miếu là những cơ sở mang đậm màu sắc tôn giáo, tín ngưỡng thì hội quán lại mang sắc thái của một tổ chức xã hội thu nhỏ và chỉ có ở cộng đông người Hoa. Một bên là tổ chức tôn giáo, phục vụ nhu cầu tâm linh; một bên là tổ chức xã hội (thu nhỏ), phục vụ nhu cầu gắn kết các cá nhân trong một cộng đồng với nhau. Tuy nhiên cũng có những có sở thờ tự lại mang trong mình hai chức năng tôn giáo và tổ chức xã hội. Đền Nhà Bà có tên gọi khác là Hoa thương hội quán hoặc Tam Bà cổ miếu Đây là một công trình kiến trúc, mang hai chức năng chính: chức năng tôn giáo – tín ngưỡng và chức năng cộng đồng – kinh tế của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng.

77

Hiện nay chưa có văn bản hay tư liệu lịch sử nhắc đến năm xây dựng Đền Nhà Bà, nhưng dựa vào các tư liệu bản đồ của người Pháp có thể xác định đền được xây dựng từ trước năm 1885. Trong quá trình xây dựng nên cộng đồng người Hoa, ở gần hữu ngạn sông Tam Bạc, để phục vụ đời sống tâm linh và tỏ lòng biết ơn đối với thần linh đã giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn trên hải trình, cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng, đặc biệt là những người gốc Quảng Đông đã xây dựng Đền Nhà Bà ở vị trí trung tâm khu vực Hoa sinh sống, gần chợ, khu vực dân cư, thuận

tiện cho hoạt động sinh hoạt và tín ngưỡng của cư dân. Dựa trên các tư liệu bản đồ, các tư liệu văn bản và hình ảnh của người Pháp và dấu tích còn lại của đền hiện nay thì Đền Nhà Bà nằm ở vị trí trung tâm, giáp với 4 tuyến phố chính là: phố Rue de Saigon (nay là phố Hoàng Ngân), phố Rue de La Pagode (nay là phố Tôn Thất Thuyết), phố Rue Chinoise (nay là phố Lý Thường Kiệt) và phố Rue Tonkinoise (nay là phố Phan Bội Châu) với tổng diện tích khoảng 300m2. Trong đó cửa chính của đền được đặt tại tuyến phố Rue de Saigon (hướng Đông) và cửa sau quay về hướng Rue de La Pagode (hướng Tây).

Hầu hết các công trình tôn giáo – tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa được xây dựng theo hướng Bắc Nam, trong đó cổng chính luôn quay mặt về hướng Nam. Và theo quan niệm của người Hoa thì hướng Nam là hướng của bậc tiên vương, của các vị thần, là hướng linh thiêng. Tuy nhiên, công trình Đền Nhà Bà tại Hải Phòng lại được xây dựng theo trục hướng Đông Tây với cổng chính được đặt ở hướng Đông. Có nhiều cách lý giải cho hiện tượng này, trước hết là do quan niệm luôn nhớ về quê hương cội nguồn, họ xây dựng theo hướng Đông là hướng quay ra biển lớn, nơi bắt đầu của cuộc hành trình của họ. Hơn nữa, Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần của biển cả, là vị thần bảo trợ cho các ngư dân, thương nhân, di dân trên biển, chính vì vậy, để tỏ lòng biết ơn, cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng đã xây dựng đền quay ra hướng Đông. Ngoài ra theo quan niệm của người Hoa, hướng Đông là hướng của mặt trời mọc, là bình minh xua tan đêm tối, có ánh nắng cho vạn vật sinh trưởng, phát triển. Chính vì vậy hướng đông là tượng trưng cho sự sinh tồn, niềm hi vọng và tiềm lực, lý tưởng mãnh liệt.

Đền Nhà Bà được cộng đồng người Hoa gốc Quảng Đông xây dựng nên, vì vậy kiến trúc của đền mang phong cách Quảng Đông một cách rõ nét. Đền được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, được xây dựng trong khuôn viên đẹp, theo quan niệm vũ trụ âm dương hài hòa, thẩm mỹ và chủ trương đối xứng nghiêm ngặt. Phía trước đền là một khoảng sân rất rộng thường để tổ chức các buổi sinh hoạt tín ngưỡng và cũng là nơi hội họp của cộng đồng người Hoa. Đền được bao quanh bởi tường gạch có ngói ống thanh lưu ly, có hệ thống các cửa phụ hai bên. Thời Pháp thuộc, sân đền có thể được tận dụng làm sân chơi bóng rổ, sân quần vợt; còn trước năm 1985, các rạp chiếu bóng lưu động thường sử dụng sân của đền để chiếu phim phục vụ nhân dân.

78

Nếu nhìn qua hai bức ảnh hiếm hoi được người Pháp chụp lại thì có thể thấy đặc trưng kiến trúc người Hoa Quảng Đông với tổ hợp 4 dãy nhà cùng 8 gian nhà với tám bộ mái đan xen liên tiếp nhau tạo cảm giác tầng tầng lớp lớp. Đối với người Hoa Quảng Đông họ luôn ưa chuộng các số chẵn như 2,4,6,8 vì họ quan niệm mọi thứ đều phải có cặp thì mới thuận lợi, vạn vật mới có thể sinh sôi nảy nở. Ở giữa mỗi gian nhà lại có khoảng không gọi là Thiên tỉnh (giếng trời) làm cho không gian thoáng đãng, mát mẻ và tận dụng được ánh sáng tự nhiên vào công trình. Với đặc

trưng kiến trúc Quảng Đông, công trình được xây dựng với hệ mái ngói, có đầu hồi dạng gợn sóng cân xứng. Trên mái có đầu đao dày được tạo hình bởi hình tượng rồng hoặc vân mây. Từ cửa vào đền cho tới các dãy nhà liên kết với nhau bởi các lớp ngói chồng xếp lên nhau theo kiểu thức trùng thiềm điệp ốc, liên kết với những hàng ngói ống thanh lưu ly. Trên đỉnh mái có trang trí lưỡng long chầu nguyệt và cá chép đối xứng hai bên. Đồng thời có nhiều bức tượng đặt trên mái tái hiện hình các hoạt động đời sống thường nhật như “đả võ đài”, “vinh quy bái tổ”, các tích tuồng, các tích truyện dân gian gắn liền với Bà Thiên Hậu.

Theo lời kể của những người lớn tuổi sinh sống quanh khu vực đền, ở hiên trước cổng chính có hệ thống cột trụ được tạo bằng đá nguyên khối, gắn kết với nhau bởi các mộng đá và chất kết dính. Bước vào đền sẽ bắt gặp hai con lân đá nhỏ ở bậc thềm, một con đực đang vờn cầu và một con cái đang ôm con cùng với đôi rồng đá ở hiên trước. Theo quan niệm của người Hoa, lân hay kỳ lân là loài vật huyền thoại , với ý nghĩa báo hiệu cho điềm lành, biểu tượng cho sự trường thọ, niềm vui, sự may mắn. Dựa trên hình ảnh và qua lời phỏng vấn cụ Trung Bình Nguyệt (sinh năm 1932, người Hoa gốc Quảng Đông) đã từng vào đền, do mang phong cách kiến trúc Quảng Đông, đền không có hai chiếc bảo cổ trạch (trống đá) ở trước cửa giống như một số đền của người Phúc Kiến khác. Đối với cộng đồng người Hoa Phúc Kiến, cũng như một số cộng đồng người Hoa Quảng Đông, Triều Châu,… ở Nam Bộ, bảo cổ thạch luôn được tạc từ đá nguyên khối vừa mang tính chất trang trí nhưng cũng mang trong đó ý nghĩa phong thủy, trấn yểm. Ngoài ra, bảo cổ thạch trong tiềm thức người Hoa cũng tượng trưng như đôi trống đá nhằm kêu gọi, tập hợp những người đồng hương xa xứ, như một biểu tượng cho tính cố kết cộng đồng.

Với những dấu tích còn lại của đền có thể thấy, bên trong đền có hệ thống cột trụ, vì kèo bằng gỗ sơn son, các hệ thống cột được đặt trên chân tảng bằng đá điêu khắc nguyên khối vững chắc. Các bộ vì vỏ cua nối các gian nhà với nhau thành khoảng không gian khép kín, khi bước vào trong sẽ cảm giác như đứng trong một ngôi nhà lớn chứ không phải là 8 gian nhà hợp lại. Trên bộ vì nóc là các con rường lớn nhỏ kê trên các đấu vuông thoát đáy, trang trí hoa lá, hổ phù hay hình tượng rồng. Hệ thống xà được trang trí bằng hoa văn đặc trưng của người Hoa như chữ Thọ, chữ Vạn, hay các chi tiết bằng theo dạng dây kết cát tường,… Giống như chùa Bà Thiên Hậu ở thành phố Hồ Chí Minh (đường Nguyễn Trãi, quận 5), đền Nhà Bà bên trong cũng được trang trí bởi các hình tượng đắp nổi, các bức phù điêu…

79

Không có tư liệu nào nhắc đến việc bố trí, đặt các tượng thờ tại các gian, nhưng có thể xác định, tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu được đặt tại hậu cung, là gian nhà chính có cửa phụ hướng ra đường Tôn Thất Thuyết hiện nay. Bên trái điện thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu là gian thờ Quan Thánh Đế Quân và bên phải là gian thờ Mã

Viện. Ngoài ra dọc các nhà hành lang là các điện thờ, gian thờ các vị thần linh khác nhau với những vai trò khác nhau trong tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa.

Các kết cấu kiến trúc của Đền Nhà Bà được giữ nguyên vẹn từ lúc xây dựng cho đến trước năm 1979. Kể từ sau các cuộc di cư năm 1978 và đỉnh điểm là cuộc xung đột biên giới Việt - Trung năm 1979, đền đã bị phá hủy, chỉ còn lại gian hậu cung hay chính điện thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu trước kia được giữ lại. Các tượng thờ trong đền được di chuyển đi và thay thế vào đó là hệ thống tượng thờ Tam Phủ của trong đạo Mẫu của người Việt. Phần diện tích đất của đền bị phá hủy được chính quyền Hải Phòng cho xây dựng chợ Tam Bạc, một khu chợ trung tâm sầm uất nhất Thành phố Hải Phòng hiện nay. Đến năm 1990, khi chính phủ hai nước ký quyết định bình thường hóa quan hệ, phía Trung Quốc có nhã ý khôi phục lại ngôi đền này nhưng chính quyền ta không đồng ý và cho xây lại chợ Tam Bạc to hơn trên toàn bộ khuôn viên sân và một phần của đền. Hiện nay ngôi đền này vẫn còn dấu tích nhưng bị tận dụng làm các gian hàng cho tiểu thương buôn bán. Chỉ có một phần nhỏ của đền được sử dụng làm nơi thờ Mẫu.

3.1.4. Cơ sở sinh hoạt cộng đồng.

Trong quá trình sinh sống và định cư lâu dài, người Hoa ở thành Phố Hải Phòng đã xây dựng nhiều công trình cần thiết phục vụ dân sinh, nâng cao đời sống của cộng đồng người Hoa và cả cộng đồng người bản địa và người Pháp. Để nâng cao sức khỏe, khám chữa bệnh, cộng đồng người Hoa đã tiến hành xây dựng bệnh viện Quảng Đông trong giai đoạn 1920 – 1930. Bệnh viện xây dựng theo phong cách kiến trúc tân cổ điển. Đến năm 1962, bệnh viện được đổi tên thành bệnh viện Hòa Bình, sau đó mang tên bện viện Đông Y, bệnh viện Y học dân tộc và bệnh viện Y học cổ truyền Hải Phòng. Năm 2017, theo quyết định của dự án chỉnh trang đô thị Hải Phòng, bệnh viện Y học cổ truyền đã bị phá bỏ, di rời ra khu vực xã An Đồng, huyện An Dương.

80

Cộng đồng người Hoa cũng xây dựng các cơ sở giáo dục với mục đích nâng cao dân trí, dạy học cho con em người Hoa. Trong đó có thể kể đến trường tiểu học Đông An (nay là trường tiểu học Nguyễn Du), trường Kiều Tiểu (trên đường Phan Bội Châu, nay đã trở thành nhà ở), trường nữ học Kiết Trinh (nay đã trở thành nhà ở), trường Kiều Trung (sau đó chuyển thành trường THPT chuyên Trần Phú, nay đã bị phá bỏ để xây dựng công trình khách sạn)…. Ngoài ra còn có các công trình giải trí như các rạp hát, rạp chiếu bóng. Có thể kể tới rạp WaWa (1947, tên gọi khác là rạp Long Châu), rạp Đại Quan (1936, nay là Đoàn cải lương Hải Phòng), rạp Đại Chúng (1924) … Các công trình thường được xây theo kiến trúc hiện đại, tuy nhiên cũng có một số chi tiết như hệ thống mái, vì kèo, mặt tiền của công trình,… được trang trí theo họa tiết truyền thống của người Hoa. Theo dòng chảy của lịch sử, nhiều công trình đã được thay đổi chức năng, một số công trình đã bị phá bỏ thay thế vào đó là các công trình hiện đại.

3.1.5. Trang phục.

Thông qua những bức ảnh về người Hoa thời kỳ Pháp thuộc ta có thể thấy được trang phục của họ khá đa dạng, tùy vào lứa tuổi, nghề nghiệp, địa vị mà có mỗi loại trang phục khác nhau. Trang phục của người Hoa thường là áo cổ cao đứng, liền vai, xẻ tà cao, có nút thắt, gài nút ở giữa hay một bên. Quần lưng rút và nối cạp, quần áo thường cùng màu với nhau. Một số trang phục có thêu hoa văn trang trí.

Đối với trang phục nam thường có một chiếc áo ngắn (dài ngang hông) và một loại quần ống rộng, chân đi giày vải hoặc đi chân trần. Áo của họ thường có hai vạt áo như hai cánh, tay lửng, nút áo bằng vải thường được gọi là cúc tàu và được cài ở giữa áo. Quần dài gần tới gót chân hoặc qua đầu gối, ống rộng, có dây rút thắt bụng. Đối với người ở tầng lới trung lưu trở lên, người đàn ông còn có những trang phục được gọi là Trường Bào, Mã Quái. Các trang phục này có ống tay rộng, cổ áo đứng cao, đối với Mã Quái thì xẻ giữa, còn Trường Bào là xẻ bên. Trường Bào có thân áo và tay áo liền nhau, không có đường chỉ vê nối, hai vạt áo xẻ hai bên. Những nhà giàu có thường mặc áo dài vải lụa hoặc gấm, thêu các hoa văn họa tiết đặc trưng của người Hoa, vạt áo hông dài qua gối.

Đối với người lao động, cu li, trang phục khá đơn giản, họ có thể mặc một chiếc quần dài, quần ngắn giống quần đùi ngày nay hoặc đóng khố giống người Việt. Áo có loại áo được may vải thường với kiểu dáng như trên nhưng không có tay áo hoặc cởi trần. Người đàn ông Hoa kiều thường để tóc đuôi sam, phần nửa trước tính từ đỉnh đầu tới trán được cạo bóng; sau này trong quá trình Âu hóa, một số bộ phận người Hoa để tóc ngắn hoặc kiểu tóc phương Tây. Trong lúc lao động họ thường có một chiếc khăn quấn ở đầu, vắt vai hoặc dắt ở cạp quần để lau thấm mồ hôi. Ngoài ra họ còn sử dụng một loại nón rộng vành đan bằng tre, đôi khi có quang dầu cho bóng và bền chắc; hoặc đội mũ vải ôm sát mái tóc. Màu trang phục chủ đạo thường là màu đen, xanh than hoặc màu trắng. Trong những dịp lễ tết, họ có thể mặc những trang phục có màu sắc sặc sỡ hơn.

81

Đối với trang phục thường nhật của phụ nữ có phần giống với trang phục nam giới, tuy nhiên, cổ áo cao hơn, tay áo dài quá khuỷu tay và rộng hơn tay áo nam giới, hai bên vạt áo có xẻ tà và có hướng rộng ra ở phần đuôi áo. Nhiều phụ nữ cũng sử dụng trang phục áo dài xẻ tà hai bên tới gần gót chân, có hàng cúc vải cắt chéo sang bên phải. Áo thường được may từ vải lụa, gấm hoặc vải bông thường. Quần của phụ nữ thường có ống hẹp hơn so với nam giới, cao trên mắt cá chân. Chân đi guốc mộc, giày vải hoặc một số người lao động thì đi chân đất. Cũng có nhiều phụ nữ ở tầng lớp trên, những người phụ nữ lớn tuổi vẫn giữ phong tục “chân bó gót sen” với quan niệm chân càng bó nhỏ thì người phụ nữ đó càng được thể hiện được sự giàu có, quyền quý.

Cũng có nhiều người nữ giới, đặc biệt thuộc tầng lớp giàu có thích mặc váy từ Thượng Hải bó sát cơ thể thường được gọi là Sườn xám. Đây là trang phục truyền thống xuất hiện từ thời nhà Thanh với kiểu cổ cao ôm sát, ống tay hẹp ngắn tới bắp tay hoặc sát nách, bốn mặt vạt áo đều xẻ, có khuy nối các vạt lại với nhau, kèm theo đai lưng bằng vải hoặc da thuộc. Chân váy thường dài tới đầu gối hoặc cao hơn đầu gối chút ít. Cũng có một số loại Sườn xám cách điệu chân váy dài gần gót chân, chân váy xẻ tà ngắn. Sườn xám thường được thêu các hoạt tiết hoa bằng chỉ ngũ sắc. Màu sắc của Sườn xám cũng đa dạng, nhưng chủ yếu là đen, đỏ, xanh,…

Người phụ nữ Hoa rất thích đeo đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay, bông tai, các loại chuỗi hạt. Người giàu có sử dụng trang sức bằng các vòng đeo vàng, bạc, các chuỗi hạt đá quý, ngọc trai. Ngoài ra họ còn thường xuyên cầm quạt hoặc một tấm vải bằng lụa trên tay. Nữ giới người Hoa thường để tóc dài, có đường rẽ ngôi ở giữa, cũng có người búi tóc cao và cài trâm; đối với người lớn tuổi thường cắt tóc ngắn.

Trong lễ cưới, trang phục chủ đạo là màu đỏ. Cô dâu và chủ rể mặc xiêm áo đỏ được may bằng gấm thêu. Cô dâu chải tóc búi cao, cài trâm và thoa dầu bóng, đồng thời trùm một mảnh vải màu đỏ trong thời gian làm lễ và về nhà chồng. Tuy nhiên, một số gia đình nghèo, không có đủ điều kiện thì có thể chỉ cần một vài bộ quần áo mới và miếng vải đỏ của cô dâu. Các loại trang sức cũng không thể thiếu trong lễ cưới, đa phần là kiềng cổ hoặc vòng tay.

Trang phục trong tang ma của người Hoa chủ yếu là màu đen hoặc những màu tối. Người Hoa rất kiêng kỵ sử dụng những màu sắc sặc sỡ trong tang ma. Tùy theo quan hệ với người quá cố mà trang phục có dấu hiệu riêng để phân biệt thứ bậc, họ hàng. Tuy nhiên đa phần là mặc áo đen, những người con, đặc biệt là người con trai trưởng phải mặc thêm áo vải bố, đầu đội mũ bện từ dây gai, đi giày cỏ, tay cầm gậy chống. Các cháu và những người có họ hàng sẽ dựa vào các màu trên khăn tang để phân biệt. Cháu nội đội khăn tang trắng và có một chấm xanh, cháu ngoại có một chấm đỏ; người cùng họ chỉ có khăn trắng.

Tuy nhiên, có thể nói kể theo thời gian, trong đời sống thường nhật, trang phục của người Hoa có phần thay đổi, phù hợp với trang phục của người Việt, đặc biệt là những trang phục truyền thống; đến nay trang phục truyền thống của họ không xuất hiện trong thường nhật cũng như trong các dịp lễ tết, cưới xin, tang ma.

3.1.6. Ẩm thực.

82

Cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng có văn hóa ẩm thực rất phong phú. Các món ăn được chế biến theo nhiều công thức, cách chế biến và nguyên liệu khác nhau tạo nên những nét đặc trưng riêng. Các cửa hàng ăn của người Hoa và buổi tối luôn đông đúc, hàng nọ nối tiếp hàng kia, đông nhất là khu vực ngã tư phố

Tonkinoise tới đại lộ Chavassieux. Đối với người dân Hải Phòng đã từng sống, từng tiếp xúc với cộng đồng người Hoa, những món ăn của họ mang hương vị đậm đà riêng với những tiếng rao khác nhau như “xực trúc”, “xực phàn”. Cho dù hiện nay cộng đồng người Hoa không còn, tuy nhiên những âm hưởng ẩm thực của họ vẫn đọng lại trong văn hóa Hải Phòng rất rõ nét, có những món ăn trở thành đặc sản riêng mà không nơi nào có.

3.1.6.1. Ẩm thực thường nhật.

Cũng giống như người Việt, lương thực chính của người Hoa là gạo, tuy nhiên họ thích sử dụng những nguyên liệu được chế biến từ bột gạo, bột mì như mì sợi, vằn thắn, há cảo, tàu hũ (đậu phụ) bún tàu hay đơn giản nhất là cháo. Một ngày của họ có 03 bữa ăn chính (sáng, trưa, tối) và 02 bữa ăn phụ (chiều, đêm muộn). Buổi sáng, người Hoa thường ăn điểm tâm (bữa sáng) bằng cháo trắng kèm với quẩy mặn, bánh tiêu, trứng vịt muối hoặc ăn với củ cải trắng muối (ca la thầu), dưa cải muối (cốn xại). Ngoài ra họ lựa chọn mì vằn thắn, bánh bao, bánh bạc đầu, bánh bò, bánh đúc tàu, bánh quảy, xôi thịt khâu nhục… Người Hoa không thích ăn cơm vào buổi sáng.

Trong bữa trưa và bữa tối, bữa cơm thường có ba nhóm món chính: món mặn, món canh và món ăn kèm thường là rau củ muối, đồng thời là bát nước tương hoặc xì dầu để chấm. Người Hoa trước kia không sử dụng nước mắm như người Việt. Các món ăn được sử dụng cá nguyên liệu địa phương nhưng được chế biến bởi công thức và các gia vị khác nhau tạo nên nét riêng trong ẩm thực người Hoa so với ẩm thực của người Việt. Họ luôn coi trọng quan niệm quân bình âm dương ngũ hành trong ăn uống. Các món ăn của họ thường là sự tổng hòa của ngũ vị (chua, cay, mặn, ngọt, chát hoặc đắng) và tứ khí (nóng, lạnh, ấm, mát) phù hợp với từng không gian, thời gian khác nhau. Trong món ăn của họ luôn có sự kết hợp nhiều loại gia vị với nhau để tạo cảm giác mùi vị cho món ăn. Họ cũng rất ít khi ăn đồ luộc mà thường sử dụng một số cách chế biến chủ yếu như:

- Rán, xào: sử dụng dầu, mỡ để làm chín thịt, cá, rau củ quả và cả cơm. Đây là cách chế biến được người Hoa ưa dùng nhất. Bên cạnh đó, người Hoa cũng chế biến ra nhiều loại bánh như quảy, há cảo rán, bánh gối,…

- Hấp, tiềm: là cách sử dụng sức nóng của hơi nước hoặc nước làm chín thức ăn, khác với cách luộc thông thường. Một số loại món ăn tiêu biểu cho cách thức chế biến này là sủi cảo, há cảo, bánh bao, vịt tiềm, gà tần,…

- Quay: thường sử dụng trong cách làm chín các loại thực phẩm trực tiếp qua lửa. Các loại thịt sẽ được ướp gia vị phù hợp với từng loại, rưới (xối) mỡ liên tục lên bề mặt thịt cho tới lúc chín.

83

Trong bữa ăn chính, tất cả thành viên đều ngồi quây quần trong bàn ăn hoặc mâm cơm, ngay cả những gia đình giàu có cũng giữ thói quen này. Đối với người

Hoa ở Hải Phòng, bữa cơm là lúc tất cả thành viên ngồi lại với nhau trong một ngày, là thời gian gắn kết các thành viên với nhau. Trước kia, trong bữa ăn mọi người ít trò chuyện với nhau, nhất là những người ít tuổi bởi họ quan niệm hành động đó là bất kính với người già, người chủ gia đình. Trong khi ăn, người Hoa không uống nước vì đã có canh, một vài người có thể uống rượu khi ăn cơm.

Trong những món ăn “chơi”, ăn “vặt”, người Hoa có nhiều loại đồ ăn, chè, thức uống khác nhau phù hợp với từng mùa và bổ dưỡng. Mùa hè có chè hạt sen long nhãn, thạch đen (quy linh cao), chè đậu đỏ hạt sen, tào phớ (tàu pha)… Mùa đông có chè (chí mà phù) vừng ăn kèm với quảy và sợi dừa nạo, sủi dìn (bánh trôi tàu)… Đối với những món ăn vặt đó hiện nay người Hải Phòng vẫn còn lưu giữ, một số loại đồ ăn cũng trở thành đặc sản như bánh đúc tàu. Người Hoa cũng thường xuyên sử dụng nước trà (nước chè) trà sâm, trà Ô Long, trà hoa cúc, trà mạn và một số thức uống từ nguyên liệu bản địa như lá vối, lá trà xanh trong đời sống thường nhật. Cũng có nhiều gia đình người Hoa có thói quen ngâm rượu với các vị thuốc Bắc khác nhau nhằm mục đích bồi bổ sức khỏe, thiết đã những vị khách quý.

3.1.6.2. Ẩm thực trong các dịp lễ tết

Khi hỏi về ẩm thực trong lễ tết của cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng, cụ Lăm Xám Muối (sinh năm 1933) - một người Hoa gốc Quảng Đông di cư từ Hải Phòng vào Sài Gòn năm 1953, cho biết trong những ngày tết người Hoa không thể thiếu bánh tổ (bánh xì lềnh cấu), chè ngọt, mì trường thọ (mì sợi dài), một nồi thịt kho và bánh bao. Tất cả các món ăn đều có những ý nghĩa khác nhau thể hiện sự mong ước của gia chủ có được những điều tốt đẹp nhất trong năm mới. Trong đêm giao thừa, người Hoa thường bày hoa quả, trà nước, bánh mứt và những món ăn được kể trên lên ban thờ và một mâm cúng giao thừa, gọi là cúng ông Trời. Đối với mứt của họ phải được bày 12 loại mứt tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Người Hoa không bày xôi hay bánh chưng lên mâm cúng giống như người Việt.

Trong các dịp lễ tết khác như tết Nguyên Tiêu, tết Thanh Minh, lễ Vu Lan, tết Trung Thu,… người Hoa thường nấu các món đặc trưng như mì hoành thánh, há cảo, sủi cảo, bánh bao, vịt quay hoặc heo quay và một số món ăn phù hợp với tiết mùa thời gian đó. Ngoài ra cũng có một số món ăn không thể thiếu trong một số ngày lễ khác như trong ngày cúng giỗ ông Thần Tài (trong Nam Bộ gọi là ngày Vía Thần Tài, ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch), người Hoa ở Hải Phòng sẽ chuẩn bị 3 chiếc bánh bao, 3 chén chè ngọt, một đĩa Heo quay, không cúng chuối và cũng không dâng cúng cá nướng giống cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ. Hoặc trong tết Đoan Ngọ (ngày 5 tháng 5 âm lịch), người Hoa sẽ sử dụng bánh trôi, bánh chay, bánh cuộn thừng, xôi chè.

84

Trong những ngày cưới hỏi hoặc ma chay, các món ăn sẽ được chuẩn bị phong phú hơn. Họ sẽ nhờ những người hàng xóm hoặc họ hàng, người quen hoặc khá giả hơn sẽ thuê người về nấu cỗ. Tùy theo từng gia đình mà các món ăn đãi khách trong những

ngày này khác nhau, tuy nhiên sẽ cầu kỳ hơn, nhiều món hơn. Đối với cỗ ma chay, đa số họ sẽ nấu cỗ chay để tránh sát sinh, tránh tạo thêm nghiệp cho người quá cố.

3.1.6.3. Một số món ăn đặc trưng của người Hoa ở Hải Phòng

a. Cháo.

Đối với người Hoa, cháo là món ăn rất phổ biến, có thể ăn vào các bữa trong ngày, đặc biệt là bữa sáng. Sáng sớm, việc đầu tiên của người Hoa là bắc một nồi cháo lên bếp, bày lên bàn những món ăn kèm với cháo. Những món ăn kèm với cháo thường là bánh quảy mặn, ca la thầu, cốn xại, cá khô, thịt kho tiêu, hoặc một ít muối. Cháo của người Hoa được nấu theo hai cách, một là khi gạo vừa nở bung thì tắt lửa và đậy nắp vung để đó, hai là nấu lâu hơn, cháo có độ sánh nhất định.

Người Hoa không chỉ ăn cháo sáng mà có khi họ nấu nhiều để ăn luôn cho cả một ngày mặc dù các bữa chính đã có cơm. Không chỉ có cháo trắng, người Hoa cũng có nhiều cách chế biến ra các loại cháo khác nhau với những nguyên liệu và gia vị khác nhau. Con phố Trạng Trình thời Pháp thuộc là phố Formose tuy nhiên người dân quen gọi là phố Hàng Cháo, vì ở đó người Hoa bán rất nhiều loại cháo. Có thể kể ra các loại cháo như cháo cá Quảng Đông, cháo vịt, cháo lòng (giống với cháo Tiều trong Nam Bộ), cháo Khoái. Đối với cháo khoái được chế biến bằng cách khuấy bột gạo với nước xương hầm và nước rau ngót rồi đun sôi. Cháo có màu xanh nhạt, mịn và đặc sánh. Khi ăn được cho thêm đỗ xanh (được giã nhuyễn) và hành phi.

Thói quen ăn cháo đối với những người gốc Hoa vẫn được lưu giữ đến nay. Cô Bùi Sùi Hồ (sinh năm 1970) cho biết, do trước kia hồi bé thường được bố cô là cụ Bùi A Đại (người Hoa gốc Quảng Đông, lấy vợ là người Việt) thường nấu cháo cho cả gia đình mỗi buổi sáng nên chính vì thế cả gia đình vẫn giữ thói quen này; nếu trong một tuần không có một bữa cháo thì cơ thể trở nên mệt mỏi.

b. Mì vằn thắn, sủi cảo.

Mì vằn thắn hay mì hoành thánh là món ăn gốc Quảng Đông, phổ biến ở những nơi có người Hoa sinh sống. Ở Việt Nam, món ăn được biến đối khác với món ăn nguyên gốc ở Trung Quốc do sử dụng nhiều nguyên liệu địa phương và phù hợp với người ăn bản địa. Trong một tô mì vằn thắn có thể kể đến các thành phần cơ bản sau: mì sợi, nước dùng đặc trưng, sủi cảo, gan lợn, bóng bì lợn, tôm, trứng gà cắt miếng, thịt xá xíu thái mỏng, hành lá và lá hẹ. Khi ăn, người dùng có thể cho thêm nước tương (xì dầu) và chí chương ngọt hoặc cay tùy theo từng khẩu vị.

85

Sợi mì được làm từ bột mì và lòng đỏ trứng gà. Để làm ra sợi mì, người thợ phải nhào nặn và kéo nhiều lần sao cho khối bột mì trở thành những sợi dài. Mì được chần qua nước sôi và nước lạnh ba lần, giúp cho sợi mì ráo nước, nguội bớt và tăng cảm giác giòn dai khi ăn. Khi cho ra khỏi nồi cần phết một ít mỡ hoặc rắc bột mì lên để tránh sợi mì dính vào nhau. Nước mì được tạo nên từ xương lợn và gà

hầm, cùng với đó là các thành phần khác như nấm hương, sá sùng khô, tôm khô. Để có một nồi nước dùng ngon, người đầu bếp cần phải ninh xương khoảng 4-5 tiếng. Nước dùng thanh ngọt là nguyên liệu chính liên kết các vị trong tô mì lại với nhau.

Vỏ sủi cảo cũng được làm giống như mì nhưng được cán thành những miếng mỏng. Vỏ sủi cảo bao trọn phần nhân được làm từ hỗn hợp thịt lợn và tôm băm nhỏ, hạt tiêu, mộc nhĩ và nấm hương thái nhỏ. Có hai loại sủi cảo là sủi cảo luộc và sủi cảo chiên. Đối với sủi cảo luộc thường được nặn hình tròn, chờ nước dùng sôi lên thì thả vào, khi sủi cảo nổi thì vớt ra bát. Còn sủi cảo chiên thường được nặn hình tam giác, cho vào chảo chiên nhỏ lửa đến khi lớp vỏ ngoài chuyển sang màu vàng thì vớt ra. Thịt xá xíu được rửa sạch, thấm khô và ướp hỗn hợp gia vị gồm mật ong, xì dầu, dầu hào, bột ngũ vị hương, đường, tỏi, hạt tiêu trong vòng 2-3 tiếng. Sau đó chiên thịt ở nhiệt độ vừa phải để thịt có màu sắc đặc trưng và không bị cháy.

Ở Hải Phòng có ba con phố nổi tiếng với những dãy hàng mì vằn thắn là phố Lãn Ông, phố Phan Bội Châu và phố Mê Linh. Ngay cả những năm 2000 cũng còn một số chủ tiệm mì là người Hoa đứng bán như cửa hàng mì vằn thắn nổi tiếng trên phố Kỳ Đồng.

d. Chí chương (tương ớt)

Chí chương hay nói cách khác là tương ớt, là một gia vị đặc biệt khác hẳn với những loại tương ớt khác tại Việt Nam. Chí chương là loại tương ớt của người Hoa gốc Quảng Đông, bao gồm ớt tươi chín đỏ, cà chua tươi bỏ hạt, tỏi băm nhuyễn, nêm thêm chút muối và trải qua quá trình lên men theo công thức truyền thống. Chí chương thơm ngon phải cay nồng và màu đỏ nâu bắt mắt.

Chí chương phổ biến với người dân Hải Phòng đến nỗi, khi bạn đến ăn tại một cửa hàng, một quán ăn với những món ăn khác nhau đều có một chai chí chương bên cạnh. Người Hải Phòng có thể ăn và chế biến ốc với chí chương, ăn bánh đa cua với chí chương. Và đặc biệt, món bánh mì cay nổi tiếng của Hải Phòng, ngoài sự béo ngậy của patê thì cái cay nồng của chí chương là một hương vị không thể thiếu.

c. Bánh đúc Tàu.

Nếu nói về một món ăn đặc trưng nhất, chỉ duy nhất ở Hải Phòng mới có thì bánh đúc tàu là một lựa chọn. Đây là món ăn có nguồn gốc từ người Hoa gốc Quảng Đông, tuy nhiên, giống các món ăn khác, khi vào Việt Nam, món ăn sẽ được chế biến bằng những nguyên liệu và các thức chế biến khác nhau sao cho phù hợp với người dân bản địa.

86

Có nhiều cửa hàng bán món bánh đúc Tàu này ở Hải Phòng như khu vực chợ Lương Văn Can, chợ Cột Đèn, chợ Máy Đá, tuy nhiên sạp bán bánh ở một góc trước của nhà 186 Cát Dài là giữ được hương vị truyền thống nhất. Theo chủ của sạp bán bánh là cô Nguyễn Thị Chuyền (56 tuổi), cô được một người cô họ lấy

chồng là người Hoa tên Lý Hồng Tài (người gốc Quảng Đông di cư từ Hồng Kông sang) truyền cho bí quyết làm bánh. Món bánh gốc ban đầu của người Hoa chỉ có bánh đúc, tôm và hành phi, ăn kèm với nước dấm ngọt. Tuy nhiên khi về tới Việt Nam, món bánh được thêm thịt, mộc nhĩ, su hào hoặc đu đủ (tùy theo mùa).

Để chế biến ra món bánh đúc Tàu, có hai công đoạn chính là làm bánh đúc và làm nhân cho bánh. Bánh đúc được làm từ hỗn hợp bột gạo và bột năng với tỉ lệ 10 phần bột gạo, 1 phần bột năng. Sau khi chọn và quấy đều hỗn hợp bột, người thợ làm bánh sẽ đổ bột ra khuôn hấp, hấp cách thủy trong vòng 10 tiếng đồng hồ. Trong quá trình hấp, người thợ làm bánh luôn để ý lửa và nước để bánh có độ dai, mềm nhất định. Sau mười tiếng, khuôn hấp được để qua một chậu nước lạnh để dễ dàng lấy bánh ra khỏi khuôn.

Nhân của bánh gồm thịt ba chỉ, su hào hoặc đu đủ, mộc nhĩ và tôm. Hành sẽ được phi lên trước, sau đó xào mộc nhĩ đã thái sợi. Sau khi mộc nhĩ gợi lên mùi, người làm bánh sẽ đổ su hào hoặc đu đủ thái hạt lựu vào. Tôm sẽ được rang khô, thịt ba chỉ xào có màu vàng cam, gần giống với tóp mỡ. Sau khi su hào hoặc đu đủ đã chín, tôm và thịt được đổ vào và xào trộn lên. Sau khi nhân bánh được chế biến xong, người thợ làm bánh sẽ đổ hỗn hợp nhân lên trên bề mặt của bánh đúc. Khi ăn, bánh đúc được xắt nhỏ thành từng miếng, rồi xúc hỗn hợp nhân vào bát và đổ nước dấm vào.

Nguyên liệu quan trọng nhất của món ăn này là nước dấm. Cửa hàng bánh đúc Tàu nào ngon nhất là cửa hàng có nước dấm ngon. Nước dấm được pha theo công thức gia truyền theo tỉ lệ nhất định của các nguyên liệu: nước dấm gạo, nước mắm, muối, đường mía và nước lọc. Nếu người nào thích ăn cay thì sẽ có loại nước dấm có ớt riêng. Cái ngọt, chua và chút cay của nước dấm sẽ hòa quyện với bánh đúc và nhân tôm thịt đậm đà đem lại cho người ăn sự thích thú về món ăn này.

d. Chè vừng, sủi dìn.

Khi tiết trời trở lạnh cũng là lúc xuất hiện những quán nhỏ bán sủi dìn, chè vừng trên các con phố tại Hải Phòng, đó là hai món ăn đặc trưng của người dân xứ cảng biển. Sủi dìn là món bánh trôi tàu có nguồn gốc từ Trung Quốc, trong tiếng Quảng Đông là Tangyuán hay chè thang viên. Sủi dìn có lớp vỏ ngoài làm từ bột của gạo nếp được phơi già hạt để khi đun lên bột bánh sẽ nở, dai và thơm hơn. Khi nhào bột, người ta cho từ từ nước để có thể cảm nhận được lúc nào bột dẻo, tránh trường hợp nhão và khó nặn.

87

Đối với nhân có hai loại là nhân hỗn hợp gồm lạc, dừa, vừng đen và nhân đậu xanh giống bánh trôi nước của người Việt. Trong nhân hỗn hợp, lạc và vừng đen được rang vừa tới, không bị cháy, sau đó được giã nát. Cùi dừa được nạo thành sợi nhỏ, rồi trộn dừa, vừng, lạc. Khi đã có nhân và bột làm bánh, người làm bánh

lấy một ít bột, nặn dẹt rồi múc một thìa nhân vào giữa và vê tròn lại, sau đó thả vào nồi nước đường đặc trưng của sủi dìn.

Nước đường là thành phần hoàn hảo để tạo nên hương vị đặc biệt của món sủi dìn của người Hải Phòng. Để làm nên nước của món sủi dìn, người làm đun nước sôi, sau đó cho đường phèn với độ ngọt vừa phải, gừng giã nhỏ, một ít nước dừa và cùi dừa và một ít lạc rang. Khi ăn, người ta sẽ cho khoảng 5-8 viên sủi dìn vào bát, sau đó đổ nước sủi dìn, rắc một ít vừng đen, dừa nạo và lạc rang giã nhỏ. Cái ngọt của đường phèn, cay của gừng và vị bùi bùi, béo béo của dừa và lạc hòa quyện với nhau tạo nên vị đặc trưng của món sủi dìn.

Bên cạnh sủi dìn, chè vừng hay còn được gọi là chí mà phù là món quà vặt được yêu thích những ngày lạnh, đặc biệt là những ngày có gió mùa về. Chè vừng đen thơm vị vừng, ngọt nhẹ luôn làm ấm bụng những thực khách dù khó tính nhất. Bát chè vừng đen phải có độ sóng sánh và màu đen tuyền, khi nấu nên phải có độ ngọt vừa phải; ăn vào lúc nóng hổi là ngon nhất.

Chè vừng được làm từ vừng đen, bột sắn dây hoặc bột gạo nếp, đường phèn, lạc, gừng và dừa tươi. Vừng đen được rang trong 5-7 phút, sau đó đem xay hoặc giã nhuyễn. Trong lúc đó, người ta sẽ đổ nước dừa vào bột sẵn dây, đánh tan bột và cho một ít gừng thái nhỏ, đun sôi hỗn hợp nước. Sau khi hỗn hợp nước đã được đun sôi, đổ từ từ vừng đen đã được giã nhuyễn vào nồi cùng với một lượng nước lọc nhất định. Khi đun từ từ khuấy đều để các hạt vừng dưới đáy không bị khê hoặc cháy. Cứ tiếp tục đun cho đến khi nồi chè không còn màu trắng bọt nữa mà chuyển sang màu đen tự nhiên của hạt vừng là được. Người Hải Phòng thường ăn chè vừng kèm với quảy, dừa nạo sợi và một ít lạc được giã nhỏ.

3.1.7. Phương tiện đi lại.

Hải Phòng là vùng sông nước, mạng lưới sông ngòi chằng chịt, đồng thời có đường bờ biển dài, chính vì vậy tàu thuyền, ghe, đò chiếm ưu thế. Sông nước là một phần không thể tách rời với đời sống của cộng đồng người Hoa, bởi khi di cư đến Hải Phòng, họ chủ yếu đi bằng đường thủy, công việc làm ăn, buôn bán buổi đầu cũng chủ yếu diễn ra trên sông, trên biển. Những chiếc tàu cũng trở thành nhà, nơi sinh hoạt đời sống thường nhật của một số bộ phận người Hoa. Những chiếc tàu, thuyền sẽ giúp họ nhanh chóng đi vào sâu trong đất liền, tạo mạng lưới kết nối với các tỉnh thành khác. Trong những năm 1930-1940, ở Hải Phòng, các hãng vận tải đường sông, đường biển nở rộ, có tàu chạy các tuyến Hải Phòng-Nam Định, Hải Phòng-Vinh, Hải Phòng-Hà Nội, Hải Phòng-Sài Gòn, Hải Phòng-Hương Cảng,… Trong số đó có không ít các hãng của Hoa kiều như Bảo Sinh, Lai Thành, Xương Phát Nguyên, Đạt Tường,…

88

Sau khi được xây dựng, nâng cấp, thành phố Hải Phòng đã được đầu tư xây dựng hệ thống giao thông đường bộ hoàn chỉnh, xây dựng một số con cầu lớn, hệ

thống đường sắt kết nối Hải Phòng – Hà Nội – Vân Nam. Hệ thống giao thông, phương tiện đi lại của người Hoa cũng như người dân sinh sống tại Hải Phòng lúc bấy giờ ngày càng phong phú hơn. Những chiếc xe kéo tay là loại hình phương tiện giao thông được chính quyền thuộc địa nhập vào nước ta từ năm 1880, chủ yếu là phục vụ cho quan lại và tầng lớp giàu có; và cũng không ít phu kéo xe là người Hoa. Đời sống phát triển, những chiếc xe đạp, ô tô cũng được nhập vào Hải Phòng từ rất sớm; những thương nhân, người giàu có Hoa kiều nhanh chóng sở hữu những chiếc xe để đi lại trên khắp các con phố một cách dễ dàng.

3.2. Văn hóa tinh thần

3.2.1. Tôn giáo, tín ngưỡng

3.2.1.1. Tín ngưỡng

Cũng như nhiều cộng đồng tộc người ở Việt Nam, người Hoa tin rằng ngoài thế giới hữu hình, còn có một thế giới khác, đó là thế giới của thần linh, ma quỷ và những thế lực tâm linh khác. Những thế lực này có sức mạnh và chi phối thế giới của người sống. Thần linh sẽ giúp đỡ họ vượt qua những tai ương, đem lại những điều tốt đẹp; ngược lại ma quỷ sẽ quấy nhiễu, gây hại cho con người. Người Hoa luôn coi việc cúng bái, thờ tự hay bói toán, đoán mộng là cách giao tiếp với thế giới tâm linh đó. Chính vì vậy mà trong cuộc sống, người Hoa thờ nhiều vị thần trong gia đình cũng như các vị thần cộng đồng khác. Cùng với đó là những kiêng kỵ, những nghi lễ vòng đời trong mọi hoạt động của đời sống thường nhật.

a. Thờ cúng trong gia đình

- Thờ cúng tổ tiên

Một trong những tín ngưỡng nổi bật nhất của người Hoa ở Hải Phòng nói riêng và cộng đồng người Hoa nói chung là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tổ tiên dùng để chỉ những người đã khuất trong dòng họ, gia đình. Trong tâm thức của người Hoa, những người này dù đã khuất nhưng linh hồn của họ vẫn luôn dõi theo, bên cạnh con cháu để giúp đỡ, phù hộ, hoặc đôi khi còn dạy dỗ, răn đe qua hình thức báo mộng. Trừ những gia đình theo Công giáo, hầu hết trong mỗi ngôi nhà của người Hoa, bàn thờ tổ tiên luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất, thường là gian nhà chính. Bàn thờ được đặt sát vách, quay ra hướng cửa chính. Tùy theo gia đình giàu nghèo mà bàn thờ tổ tiên được bày trí cao thấp, chạm khắc, sơn son thếp vàng hoặc đơn giản là một chiếc bàn vuông cao khoảng 1-1.5m. Trên ban thờ được chia thành hai phần là khu vực thờ thần linh và khu vực thờ tổ tiên. Ngoài ra một số gia đình chia thành ba phần với việc bố trí khu vực thờ một số vị thánh, bồ tát và thờ Phật.

89

Trước kia, ảnh thờ không được phổ biến, chỉ những gia đình giàu có mới có ảnh thờ. Thay vào đó, trên mỗi bàn thờ đều có bài vị ghi tên của người đã khuất. Tuy nhiên những người chưa kết hôn được coi là những người chưa trưởng thành

nên khi chết sớm, họ sẽ được lập bài vị ở một khu vực riêng, thường là dưới đất mà không được thờ chung trên bàn thờ tổ tiên. Khu vực thờ cúng tổ tiên nằm ở tầng thấp nhất trên ban thờ. Giữa ban thờ là một bát hương để cắm hương, bên cạnh là những đồ dùng thờ cúng như bình cắm hoa, giá đèn cầy (nến), chén đựng nước,…Tùy theo quy định của mỗi dòng họ hoặc số người đã sinh sống trong gia đình mà mỗi gia đình người Hoa thờ tổ tiên đến mấy đời. Có dòng tộc, gia đình thờ cúng đến 9 đời, lại có nơi thờ cúng 3-5 đời, song cũng gia đình nhỏ chỉ thờ cũng một hoặc vài người trước kia đã sinh sống trong gia đình. Trong một năm, những nghi thức thờ cúng tổ tiên thường diễn ra vào các dịp tuần tiết như ngày giỗ, ngày rằm, mồng một hàng tháng hay các ngày quan trọng như rằm tháng 7 (lễ Vu Lan), rằm tháng 8 (tết Trung Thu), các ngày tết Nguyên Đán,… Đặc biệt nhất là vào dịp Thanh Minh, ngoài việc thờ cũng tổ tiên tại gia đình, người Hoa sẽ đến các phần mộ của người thân, chỉnh trang lại mộ và khu nghĩa trang. Ngoài ra, những sự kiện như sinh con, kết hôn, lên lão, tang ma,… gia chủ đều thắp hương lên bàn thờ để cáo yết tổ tiên. Đối với người đã khuất, chỉ khi mãn tang mới đưa bài vị của người đó lên bàn thờ.

Người Quảng Đông thắp hương theo số chẵn 2, 4, 6 vì họ quan niệm mọi thứ đều phải có cặp thì mới thuận lợi. Ngược lại người Triều Châu, Phúc Kiến, Hồng Kông thắp hương theo số lẻ 1, 3, 5,… vì họ quan niệm số lẻ thuộc số âm, là con số sinh sôi nảy nở. Đồ lễ thường là đồ mặn, đặc biệt có thêm những món ăn mà người thân lúc còn sống ưa thích. Lễ vật cúng vào các ngày rằm, mồng một thường là hoa quả và đồ chay.

- Tín ngưỡng đa thần

90

Như ở trên đã đề cập, ngoài việc thờ cúng tổ tiên, trên bàn thờ của người Hoa cũng thờ một hệ thống thần linh hay các gia thần mà họ tin rằng đó là những thế lực tâm linh sẽ giúp đỡ, phù hộ họ trong cuộc sống. Một số nhà nghiên cứu đã chia hệ thống thần linh trong tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa thành hai nhóm chính là thờ cúng trong gia đình, dòng họ và thờ cúng trong cộng đồng. Với nhóm thờ cúng trong gia đình, dòng họ bao gồm thờ cúng tổ tiên, thờ cúng trời, thờ cúng các vị thần trong nhà như Táo Quân, Thần Tài,… Bên cạnh đó thờ cúng trong cộng đồng bao gồm tín ngưỡng Thiên Hậu Thánh Mẫu, thờ Quan Thánh Đế Quân, Phúc Đức Chính Thần, Ngọc Hoàng Thượng Đế. Còn theo Võ Thanh Bằng, ông cho rằng có thể lập hệ thống thần linh trong tín ngưỡng của người Hoa thành các nhóm:

Bảng 3: bảng phân loại tín ngưỡng dân gian của người Hoa

Thần thiên tượng

Thần địa giới

Nhiên thần Thần thủy giới

Thần âm giới

Thần động, thực vật Tín ngưỡng cộng đồng

Nhân vật huyền thoại

Nhân danh thần Nhân thần Chánh thần

Thần nghề nghiệp

Thần thánh ở gia đình Thần bảo gia

Thần bảo mạng

Thờ cúng tổ tiên

Thờ cúng dòng họ

(nguồn: Võ Thanh Bằng (2008), Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.281-331)

Đối với cộng đồng người Hoa nói chung, họ có tục thờ “Ngũ tự gia đường” là tục thờ năm vị thần cai quản trong nhà gồm thần bếp (Táo Quân), thần giếng (Tỉnh thần), thần giữ cổng (Môn thần), thần bổn mạng (Hộ thần) và thần Trung lưu (thần giữa sân). Theo mô tả của cụ Trung Bình Nguyệt (đã mất năm 2018), và cô Trần Minh Nguyệt (con cụ Trung Bình Nguyệt, 59 tuổi, hiện sinh sống ở London, vương quốc Anh), hầu hết trong các gia đình người Hoa ở Hải Phòng không có Tỉnh thần và thần Trung lưu mà thêm vào đó là Thổ thần hay Thổ địa, Môn thần và Hộ thần được nhập thành một thần.

91

Thổ thần là vị thần giữ đất đai của gia đình. Theo quan niệm của người Hoa, mỗi vùng đất dù to hay nhỏ đều có một thổ thần cai quản. Thổ thần nắm quyền quản lý tài sản và bảo hộ mọi việc ảnh hưởng đến đời sống và công việc của mỗi gia đình. Táo quân là vị thần cai quản bếp núc, cũng gần như cai quản toàn bộ gia đình. Người Hoa thờ thần bếp với ý nghĩa cầu thần phù hộ cho việc bếp núc trong nhà lúc nào cũng đỏ lửa, gia đình luôn được ấm no đầy đủ. Môn thần là vị thần không thể thiếu trước mỗi gia đình người Hoa. Họ luôn thờ Môn thần qua các bia ở trước cửa

nhà, cổng ngõ hoặc các công trình khác. Đây là vị thần đảm nhiệm việc giữ cửa, với ý nghĩa ngăn chặn các thế lực tâm linh đem lại những điều không tốt đẹp.

Người Hoa ở Hải Phòng có rất nhiều gia đình là thương nhân, buôn bán. Chính vì vậy, trong tâm thức của họ, Thần Tài luôn hiện hữu một vị thần bảo trợ, đem lại may mắn trong chuyện buôn bán kinh doanh. Có nhiều sự tích về Thần Tài, tuy nhiên theo quan niệm của đại đa số người Hoa, Thần Tài của họ không phải là một vị thần mà bao gồm 5 vị thần tương ứng với 5 hướng khác nhau, bao gồm: Trung Bân Tài Thần Vương Hợi (vị trí trung tâm), Văn Tài Thần Tỷ Can (Đông), Phạm Lãi (Nam), Võ Tài Thần Quan Công (Tây) và Triệu Công Minh (Bắc). Khác với người Việt, người Hoa không gộp Thần Tài với Thổ thần, Thần tài không chỉ được xem là thần giữ của cải, tiền bạc mà còn có thể phù hộ cho gia chủ làm ăn thuận lợi, kiếm được nhiều lộc trong làm ăn. Tuy nhiên, theo thời gian, quá trình tiếp biến văn hóa tục thờ, Thần Tài và Thổ địa dần được hòa nhập với nhau.

Bàn thờ thần tài thường được lập riêng, tuyệt đối không được đặt chung với bàn thổ tiên và thần linh. Bàn thờ thần tài thường khá nhỏ, tùy vào mỗi gia đình mà có ban thờ thần tài với kích cỡ, chất liệu khác nhau. Có một số gia đình lập bàn thờ ở góc nhà, trước cửa ra vào nhưng chủ yếu là nơi có tường che chắn phía sau, không thể trổ cửa đi hoặc của sổ. Bên trong bàn thờ được đặt bài vị hoặc tấm giấy đỏ. Trên bài vị hoặc giấy đỏ đó thường ghi:

Ngũ phương Ngũ thổ Long Thần

Tiền hậu Địa chỉ Tài Thần

Nội dung câu đối của mỗi ban thờ có thể thay đổi, nhưng bao giờ cũng thành bày thành một đôi, mỗi bên một câu. Trên ban thờ luôn có đủ: bát hương, đôi nến, đĩa hoa và chén nước. Vật phẩm cúng bái cũng đa dạng, tuy nhiên người Hoa kiêng cúng chuối cho thần tài. Họ cũng kiêng xê dịch bát hương bởi quan niệm đó là hàng động làm xấu đi con đường làm ăn, mọi chuyện sẽ trở nên trục trặc. Họ cúng thần tài mỗi ngày, chủ yếu là buổi sáng. Đặc biệt trong những ngày rằm, mồng một, họ sẽ lau rửa bàn thờ, dân cúng lễ vật để mong muốn làm ăn phát đạt. Theo truyền thống, người Hoa sẽ đón Thần Tài về nhà vào ngày mồng 4 Tết. Còn trong ngày 10 Tết, sẽ tổ chức lễ cúng Thần Tài hay trong Nam Bộ gọi là ngày Vía Thần Tài. Họ thường cúng Thần Tài bằng cỗ mặn, chủ yếu là bánh bao, thịt quay…

Ngoài một số vị thần thường được thờ được kể ở trên, tùy vào sự tôn thờ của mỗi gia đình mà thờ phụ một hay nhiều vị thần linh khác trong nhà. Có gia đình thờ Phật Bà Quan Âm, cũng có gia đình thờ Bà Thiên Hậu, hoặc thờ Quan Công, Ngọc Hoàng Thượng Đế,…

b. Tín ngưỡng cộng đồng

92

Trong đời sống tâm linh của cộng đồng người Hoa có những vị thần có ảnh hưởng lớn đến đời sống thực tại, gắn liền với quá trình di cư và định cư ở vùng đất

mới. Đó là những vị thần mà họ tin rằng sẽ phù hộ cho họ trên đường di cư, những cuộc hành trình trên biển và các thần linh đó được họ mang theo từ cố hương để có thể luôn nhớ về cội nguồn. Hệ thống thần linh của người Hoa trong tín ngưỡng cộng đồng chủ yếu bao gồm: Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Huyền Thiên Thượng Đế, Bổn Đầu Công. Mỗi vị thần linh được thờ trong hội quán, đền của bang hội khác nhau. Ở Hải Phòng theo các tư liệu lịch sử, thống kê di tích và khảo sát thực tế đều chỉ ra công trình Đền Nhà Bà là cơ sở tín ngưỡng cộng đồng duy nhất của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng. Đối tượng được thờ tự chính trong đền là Thiên Hậu Thánh Mẫu, cùng với đó, người Hoa phối thờ Quan Thánh Đế Quân (Quan Công) và một số vị thần linh khác như Mã Viện, Kim Hoa Nương Nương, Long Mẫu Nương Nương, Văn Xương Đế Quân. Trong đó, Kim Hoa Nương Nương được thờ với mong ước cầu tự, sinh đẻ. Long Mẫu Nương Nương thường gắn liền ước muốn thuận buồm xuôi gió, mong muốn được bảo trợ trong những chuyến đi biển của cộng đồng người Hoa, khuyến khích làm việc thiện. Văn Xương Đế Quân vị thần nắm giữ công danh, vận mệnh của con người.

Do cộng đồng người Hoa đến Hải Phòng bằng đường biển, chính vì vậy cũng thật dễ hiểu khi họ lựa chọn Thiên Hậu Thánh Mẫu là đối tượng được thờ chính trong Đền Nhà Bà. Đây là tín ngưỡng khá phổ biến trong cộng đồng người Hoa. Trong đời sống tâm linh của người Hoa, Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần bảo trợ cho người dân vượt qua sóng gió, nguy nan trên biển. Hơn nữa, người Hoa rất giỏi buôn bán, đặc biệt là hoạt động thương mại trên sông nước, chính vì vậy họ mong muốn luôn được Bà che chở, tương trợ trong làm ăn kinh doanh.

Cũng giống như Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân hay Quan Công là một vị thánh được người Hoa rất sùng bái. Đây là một nhân vật lịch sử Trung Hoa thời Tam Quốc (220-260), được huyện thoại hóa và được sùng bái trong dân gian. Tượng thờ Quan Thánh Đế Quân mặt đỏ với 5 chòm râu, mặc triều phục màu xanh. Ông không chỉ đại diện cho truyền thống đạo đức của cộng đồng người Hoa với “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” mà còn có ý nghĩa sâu sắc trong việc làm ăn, buôn bán. Chữ “tín” được người Hoa rất chú trọng và là một trong những nguyên nhân đi đến thành công của họ trên lĩnh vực kinh tế. Có người kể rằng, nếu trong một thương vụ buôn bán giữa hai bên có những khó khăn nhất định, họ chỉ cần đứng trước tượng thờ Quan Thánh Đế Quân, lập giao kèo và trình lên thì mọi khó khăn sẽ được giải quyết công bằng.

93

Tuy nhiên, trong quá trình di dân, đặc biệt là những người Hoa di cư vào Nam năm 1954, tín ngưỡng của họ có sự thay đổi để hòa nhập với văn hóa bản địa. Trong trường hợp cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng di cư vào Nam được chính quyền Việt Nam Cộng hòa bố trí định cư tại làng An Lạc, huyện Bình Thạch (nay là phường An Lạc, quận Bình Tân), đối tượng thờ chính của họ được thay đổi thành Quan Thánh Đế Quân. Thiên Hậu Thánh Mẫu được thờ ở phía bên phải. Theo ông

Dương Trấn Minh (trưởng ban quản trị miếu Quan Thánh Đế Quân), hiện tượng hoán đổi là do trước hết chiếm đa số khu vực này là cộng đồng gốc Triều Châu, hơn nữa yếu tố biển giờ không còn quan trọng như thời kỳ trước mà thay vào đó là chú trọng hoạt động kinh doanh thương mại. Họ thờ Quan Thánh Đế Quân với mong muốn cầu tài lộc, được ông ban cho cách thức làm ăn, thuận lợi cho việc buôn bán.

Tín ngưỡng của người Hoa mang tính chất đa thần. Những vị thần được người Hoa sùng bái có nhiều nguồn gốc khác nhau là những nhân thần, nhiên thần. Người Hoa tin rằng các vị thần được thờ cúng sẽ luôn giúp đỡ họ trong công cuộc định cư và sinh sống tại Hải Phòng cũng như những vùng đất khác. Vì vậy, có thể nói tín ngưỡng vào các vị thần là chỗ dựa tâm linh để người Hoa có thêm sức mạnh vượt qua khó khăn, ổn định và yên tâm sinh sống trên vùng đất mới.

c. Tín ngưỡng khác.

Tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng cũng rất phong phú và đa dạng. Người Hoa có niềm tin vào linh hồn, con người sau khi chết đi thì tất cả linh hồn đó sẽ trở thành ma quỷ. Và trong ma quỷ, họ cũng phân thành hai loại là “ma lành” và “ma ác”. Ma lành là loại ma luôn giúp và phù hộ cho con người mạnh khỏe, bảo vệ tài sản, giúp con người có được những may mắn trong đời sống và kinh doanh. Tổ tiên trong gia đình cũng được coi là một ma lành và luôn được cúng bái chu đáo, nghiêm cẩn. Ngược lại có những ma ác luôn quậy phá, làm hại đời sống của con người. Mỗi khi có người ốm bệnh, làm ăn thất bát, gặp những điều chẳng lành,…, nhiều người Hoa tin rằng đó là do ma làm. Khi bị ma làm, họ sẽ tìm những thầy cúng về cúng bái, trừ tà. Họ tin rằng, những người thầy cúng là kênh liên lạc với các thế lực tâm linh, họ có thể điều khiển âm binh, khẩn cầu thần thánh, Trời Phật để có thể diệt trừ, xua đuổi tà ma.

Ngoài ra, cũng giống như người Việt, người Hoa cũng có một số quan niệm tin tưởng vào sự linh cảm và điềm báo. Theo cụ Trung Bình Nguyệt, người Hoa khi ăn cắn vào lưỡi thì có điềm báo không có chuyện lành, cảm thấy nóng ruột thì tin rằng sẽ có điềm xấu hoặc có người chờ mong, hoặc hắt hơi 3 lần có điềm rằng có kẻ nói về mình. Khi ngủ mơ thấy các tín hiệu thông tin, đặc biệt là những người thân trong gia đình đã mất, họ sẽ tìm các giải đáp các tín hiệu thông tin trong giấc mơ đó. Trong việc chuẩn bị làm một việc hệ trọng, khi gặp các điềm báo, họ sẽ quyết định dừng lại, sau khi giải hạn xong mới thực hiện hoặc làm tiếp.

3.2.1.2. Tôn giáo

94

Hải Phòng là nơi có nhiều nhóm dân cư đan xen sinh sống, chính vì vậy đời sống tôn giáo cũng rất phong phú. Xét về tổng thể có thể nói cộng đồng người Hoa không theo một tôn giáo cụ thể nào. Tuy nhiên trong đời sống tâm linh, họ chịu ảnh hưởng sâu sắc của cả Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo, trong đó dấu ấn của Phật giáo là rõ nhất và sâu sắc nhất. Một đặc điểm có thể nhận thấy là tại Hải Phòng

không có một ngôi chùa hay cơ sở thờ tự mang màu sắc tôn giáo của cộng đồng người Hoa ngoài Đền Nhà Bà. Điều này thể hiện rõ nét sự giao thoa giữa tín ngưỡng và tôn giáo một cách mạnh mẽ của họ. Trong các nghi thức tín ngưỡng của họ thường chịu ảnh hưởng của các nghi thức của Phật giáo.

Xét về Phật giáo, người Hoa theo Phật giáo Đại Thừa. Tuy nhiên, rất ít người thờ Phật tổ mà chủ yếu là thờ Phật Bà Quan Thế Âm. Đối với người Hoa, Phật Bà Quan Thế Âm là một người phụ nữ có đức tính cao đẹp, vị thánh cứu khổ, cứu nạn, luôn làm phúc cho chúng sinh. Điều này định hướng cho sự giáo dục về mối quan hệ giữa người với người, luôn mang lại điềm lành cho nhau, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Ngoài ra, Phật Di Lặc cũng được họ thờ tự nhiều với ý niệm cầu mong niềm vui, sự thăng hoa, tinh thần vững vàng trước mọi khó khăn và có được nhiều điều may mắn trong cuộc sống cũng như kinh doanh.

Bên cạnh Phật giáo, có một số bộ phận người Hoa theo Thiên Chúa Giáo. Do có cộng đồng người Âu sinh sống từ sớm nên từ đầu thế kỷ XX tại Hải Phòng đã xuất hiện nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Quan trọng nhất là nhà thờ Chính Tòa được đặt trên phố Mission, nhân dân quan vùng thường gọi là Nhà Thờ (nay là phố Phạm Bá Trực). Do sinh sống gần với cộng đồng người Âu, tiếp cận với các giáo lý, một số ít người Hoa đã theo Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, khi theo Thiên Chúa Giáo, người Hoa ở Hải Phòng cũng giống như cộng đồng người bản địa vẫn giữ tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên trong gia đình. Các tín đồ người Hoa không chỉ đến nhà thờ làm lễ, mà còn có thể tham dự các nghi lễ tại đền Nhà Bà, bởi đó là tín ngưỡng truyền thống của họ.

Nhìn chung, đa phần người Hoa ở Hải Phòng theo tín ngưỡng dân gian, số người Hoa theo các tôn giáo khác thường khá ít. Giữa tôn giáo và tín ngưỡng của người Hoa ở Hải Phòng có sự hòa quyện vào nhau. Những nghi lễ liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng là những phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của người Hoa ở Hải Phòng.

3.2.2. Các phong tục, nghi lễ truyền thống.

Trong quá trình định cư và sinh sống tại Hải Phòng, cộng đồng người Hoa vẫn lưu giữ, bảo tồn và phát triển những phong tục, tập tục, nghi lễ truyền thống riêng đặc trưng của dân tộc mình. Cùng với đó là sự giao thoa giữa văn hóa của họ với văn hóa bản địa tạo nên nét riêng của cộng động người Hoa nơi đây. Ở đây ta có thể chia ra thành các phần: các tập tục truyền thống, các nghi lễ thường niên (các nghi lễ trong một năm), và các nghi lễ vòng đời.

3.2.2.1. Các tập tục truyền thống.

95

Đây là các phong tục tập quán của cộng đồng người Hoa được lưu truyền từ đời này sang đời khác, trở thành những bản sắc văn hóa riêng của họ. Trong những tập tục truyền thống, có những tập tục được coi là hủ tục, nhưng cũng có những tập

tục mang lại những giá trị bản sắc văn hóa riêng. Qua quá trình phỏng vấn những người gốc Hoa hoặc những người từng sinh sống, làm việc cùng họ, có thể kể ra một số tập tục đặc trưng như sau:

a. Tập tục sử dụng màu đỏ.

Màu đỏ trong quan niệm của cộng đồng người Hoa là màu của may mắn, có thể xua đuổi được sự xui xẻo, tà ma, những điều không may mắn và cầu được sự bình an, no ấm. Trong ngũ hành âm dương, màu đỏ tượng trưng cho lửa, một trong năm nguyên tố của ngũ hành, giúp tăng cường năng lượng và làm tăng sức mạnh thể chất, tinh thần của con người. Với ý nghĩa may mắn, chúc mừng, cầu bình an,… màu đỏ xuất hiện hầu hết trong các gia đình, đặc biệt vào những ngày quan trọng như hôn nhân, mừng thọ, mừng nhà mới, các ngày lễ tết…

Qua những bức hình nửa đầu thế kỷ XX, các con phố người Hoa ở Hải Phòng đều được treo những tấm biển quảng cáo màu đỏ, dán các tờ giấy đỏ trước và trong nhà,… Trong hôn lễ, người Hoa sử dụng rất nhiều thứ màu đỏ như thiệp mời, áo cưới, hoa, các tráp lễ vật, chữ song hỷ,… Nhà cửa cũng được trang trí màu đỏ sáng rực. Trong dịp lễ tết, nhất là tết nguyên đán, ngoài việc dán câu đối đỏ, người Hoa cắt dán giấy đỏ lên thùng gạo, các góc tường, trên ban thờ tổ tiên để cầu sự bình an, may mắn trong năm mới. Cuối năm, trước ngày 23 tháng Chạp, họ sẽ tháo gỡ những tờ giấy đỏ đó đem đi đốt, thay thế vào đó là những tờ giấy đỏ mới.

b. Tục bó chân gót sen

Trong Lược khảo đường phố Hải Phòng (1990) của Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, khi viết về tuyến đường Phan Bội Châu, các tác giả đã đề cập tới việc : “Những người phụ nữ người Hoa cao tuổi hồi đó nhiều người còn có bàn chân bị bó, theo phong tục ngày trước của giới quyền quí nên đến già bàn chân vẫn bé như bàn chân trẻ em, đi lại khó khăn” [18, 218]. Tục bó chân có từ rất lâu, đến nửa cuối thế kỷ XX vẫn còn tồn tại, thường được thực hiện trong các gia đình giàu có, quyền quý.

96

Thông thường, các bé gái bắt đầu thực hiện việc bó chân từ 4 đến 9 tuổi, khi mà chiếc răng sữa đầu tiên mất đi. Các bé sẽ bị làm biến dạng chân và quấn vải lụa chặt để định vị khung xương chân. Đây là độ tuổi xương bàn chân chưa phát triển hoàn thiện, dễ uốn nắn tạo hình. Tập tục này được thực hiện vào mùa đông để giảm đau đớn và tránh nhiễm trùng; chân được ngâm trong nước ấm thảo dược pha với máu động vật. Đến khi đôi chân được mềm, người ta sẽ nắn bóp, xoa nhẹ rồi bẻ quặp các ngón nhân xuống và ép vào lòng bàn chân. Khi xương bàn chân và ngón chân bị gẫy, họ sẽ quấn thật chặt lại bằng vải. Sau 3 năm, người ta sẽ tháo vải ra rồi lặp lại quy trình được kể trên rồi bó lại bằng vải làm sao cho chân càng nhỏ càng

tốt. Quá trình này rất dễ gây mưng mủ và hoại tử ở chân. Lúc này sẽ được đi loại giày đặc biệt, có gót đế và mu bàn chân chúc xuống đất.

Đôi chân nhỏ được xem như là một biểu tượng về kỷ luật của người phụ nữ. Những người phụ nữ trong gia đình quyền quý thường thực hiện tập tục này để thể hiện địa vị của gia đình và bản thân. Những người bó chân thường khó vận động và không làm được những công việc nặng, nên họ thường nhờ vả những người xung quanh và người chồng. Tuy vậy, một số gia đình lao động, nghèo khó cũng cho con cái thực hiện tập tục này với hi vọng sẽ cưới được một người giàu có để có thể thoát nghèo và nang cao địa vị xã hội. Trong một gia đình, con gái đầu lòng có thể sẽ là người duy nhất được bó chân. Họ chỉ cần tham gia sản xuất thủ công, dệt hoặc thêu thùa.

Bất kể tục bó chân có hoàn thành hay không thì đôi chân của họ vẫn bị khiếm khuyết và không thể cử động dễ dàng. Tuy nhiên người Hoa vẫn tin rằng đó là chuẩn mực của cái đẹp và không bao giờ thay đổi. Tập tục này từ năm 1920 đã bị cấm thực hiện.

c. Tin vào phong thủy, âm dương ngũ hành, tử vi, tướng số

Bắt nguồn từ Đạo giáo, sau đó là Nho giáo, hệ thống phong thủy, âm dương ngũ hành hay tử vi, tướng số luôn có sức ảnh hưởng sâu rộng, luôn chiếm vị trí chủ đạo trong tâm thức của cộng đồng người Hoa. Họ tin con người chịu sự sắp đặt của trời đất, ngày tháng, nam nữ, âm dương. Đồng thời hệ thống ngũ hành phối hợp với hệ thống can chi giúp họ đoán được số mệnh của con người, có thể báo trước những hạn xấu sắp xảy ra hay những thiên lộc có thể được hưởng.

Trước mọi việc lớn, họ đều có thể dựa vào hệ thống phong thủy, âm dương ngũ hành, tử vi để bắt đầu hoặc tránh không làm tới. Để có thể xem được chính xác, người Hoa thường có thói quen mời thầy phong thủy, những thầy tử vi về coi tuổi, hướng đất đai, nhà cửa,… Trên tuyến phố Chinoise (nay là một đoạn thuộc phố Lý Thường Kiệt) và phố Rue BacNinh (nay là phố Lãn Ông) trước kia có nhiều sạp coi phong thủy, coi tử vi tướng số của một số thầy pháp người Hoa. Họ căn cứ vào sự thừa thiếu, tương sinh tương khắc mà đoán vận mệnh con người, từ đó sinh ra có ngày tốt, ngày xấu, năm kỵ, tháng kỵ, tuổi kỵ, tuổi hợp,….

97

Đa phần người Hoa ở Hải Phòng làm việc gì cũng xem bói, xem tướng số tử vi. Cũng có thể lý giải một phần là do người Hoa ở Hải Phòng có nhiều người buôn bán, làm ăn, họ xem bói xem có phù hợp với ngành nghề đó không, bạn làm ăn có phù hợp với mình không,… Tuy vậy, suy cho cùng, hình thức bói toán, đoán vận mệnh, xem phong thủy,… đã ăn sâu vào tâm thức của người Hoa tại Hải Phòng nói riêng và cộng đồng người Hoa nói chung. Đó là một tập tục truyền thống được họ mang theo từ cố hương và được lưu truyền khi sinh sống tại vùng đất mới. Tin vào

phong thủy, âm dương ngũ hành, tử vi, tướng số cũng có thể coi là tư tưởng chủ đạo cho sự phát triển các hình thức tín ngưỡng trong cộng đồng người Hoa.

3.2.2.2. Các nghi lễ thường niên.

a. Tết Nguyên đán.

Đây là ngày tết long trọng nhất trong các ngày lễ truyền thống của người Hoa. Ngày tết được tính từ những ngày đầu năm mới theo âm lịch, tuy nhiên cũng như người Việt, không khí tết được tính từ ngày 23 tháng Chạp của năm cũ. Đó là ngày tiễn Táo Quân về chầu Ngọc Hoàng. Giống như các cộng đồng người Hoa khác, lễ cúng tiễn Táo Quân là lễ mặn, cùng với đó là những đồ ngọt như bánh, kẹo, chè và quýt. Với ý nghĩa là Táo quân ăn ngọt để miệng lưỡi ngọt ngào tâu với Ngọc Hoàng toàn điều tốt đẹp về gia chủ, khi trở về mang nhiều điều may mắn cho gia chủ.

Trong ngày tết, màu chủ đạo luôn là màu đỏ và rất kiêng kỵ màu trắng và đen. Sau khi dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, họ bắt đầu trang trí nhà cửa từ bàn thờ cho tới bếp. Họ sẽ thay thế các câu đối, những tờ giấy đỏ trên bàn thờ, hũ gạo, bếp, góc nhà,… của năm cũ. Người Hoa hầu như không chơi đào, cây quýt và quất được ưa chuộng trong những ngày tết.

Trên bàn thờ, người Hoa không bày mâm ngũ quả giống người Việt mà thay vào đó là quýt, thường là 5 quả trên một đĩa. Ngoài ra có thể thêm táo hoặc lê. Quýt trong tiếng Hán đồng âm với từ Cát, có nghĩa là cát tường, may mắn. Họ làm lễ cúng gia tiên từ ngày 28 âm lịch. Các món cúng là món mặn, nhiều hay ít món tùy thuộc vào điều kiện của từng gia đình. Có một nguyên tắc trong mâm cúng của người Hoa là khi cũng gia tiên, các món thịt đều phải chặt thành từng miếng nhỏ, không để nguyên con hoặc nguyên một tảng thịt to. Ngược lại khi cúng thần linh thì phải để nguyên con hoặc để nguyên tảng thịt to, không chặt. Người Hoa chỉ cúng tổ tiên vào cuối năm; không giống người Việt, rước ông bà tổ tiên về nhà và cúng cơm 3 ngày tết đầu năm.

Lễ giao thừa rất quan trọng, nếu sai một chi tiết nào đó sẽ ảnh hưởng tới cả năm mới. Mâm cúng giao thừa luôn có hương đèn, rượu, nước, bánh tổ, bánh mứt, hoa quả. Bánh mứt thường là 12 loại tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Người Quảng Đông có thêm thêm một con vịt quay, người Phúc Kiến có thêm nồi thịt kho và miếng thịt lợn trên mâm cúng đêm giao thừa. Sau khi cúng giao thừa xong, các gia đình sẽ đến đền Nhà Bà làm lễ cùng Bang chủ.

98

Sáng mồng Một Tết, người Hoa làm lễ cúng Thổ Thần, Táo Quân. Sau khi lễ vật chuẩn bị xong, gia chủ gọi cả gia đình thắp hương đáp tạ trời đất, thần linh đã cho một năm bình an, cầu xin năm mới tốt lành, mạnh khỏe. Sau khi cúng xong, cả gia đình đi chúc tết bà con, láng giềng,… Đến ngày 6 tết, người Hoa làm lễ cúng hết Tết. Đây cũng là ngày chính thức kết thúc thời gian Tết, là ngày dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị cho ngày làm việc đầu tiên trong năm mới. Đó cũng là ngày các cửa tiệm buôn bán của người Hoa mở cửa khai trương.

b. Tết Nguyên tiêu.

Đối với người Hoa ở Hải Phòng, tết Nguyên tiêu là một ngày lễ mừng đêm trăng tròn đầu tiên trong năm cầu cho mưa thuận, gió hòa, buôn bán thuận lợi. Trong ngày này, người Hoa sẽ đến lễ tại đền nhà Bà, xin quẻ để đoán vận mệnh trong năm, tổ chức vui chơi ở quan sân đền và xem đám rước kiệu Bà. Các gia đình người Hoa ở hai bên đường khi kiệu Bà đi qua thì bày hương án ra trước nhà để cúng bái cầu Bà phù hộ cho gia đình và công việc làm ăn của mình.

Tại gia đình, người Hoa thường làm lễ cúng chay tại nhà. Đặc biệt trong các lễ vật không thể thiếu món chè trôi nước. Vì theo quan niệm của họ, chè trôi nước biểu trưng cho ước muốn cả năm đoàn viên, an lành, công việc thuận lợi, trôi chảy. Ngoài ra, cộng đồng người Hoa có tục vay lộc tại đền Nhà Bà trong ngày này. Có một quy tắt bất thành văn là nếu mượn một thì năm sau, đúng vào ngày này phải mang đến trả gấp đôi. Quy ước này được mọi người chấp nhận như một chữ tín để áp dụng cho cung cách làm ăn ngoài xã hội. Tục lệ này nhằm cầu mong và động viên các thành viên trong cộng đồng làm ăn phát đạt thì mới có thể trả nợ.

c. Tết Thanh minh.

Tết Thanh minh không phải là tết lớn, nhưng cũng giống như người Việt, đây là tết gắn liền với đạo đức, bổn phận của con cháu tưởng nhớ tới ông bà, tổ tiên. Đây chính là ngày giỗ tổ chung để mọi người có dịp báo hiếu, trả nghĩa. Ở Hải Phòng trước có các khu nghĩa trang của người Phúc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu. Vào dịp tết thanh minh, người Hoa thường tập hợp gia đình cùng nhau đi tảo mộ người thân, dọn dẹp, sửa sang lại mộ.

Tết Thanh minh diễn ra suốt tháng 3 âm lịch, lễ chính thường diễn ra vào ngày giữa tháng. Lễ vật dùng trong Tết Thanh minh được chuẩn bị tươm tất, tùy vào điều kiện của mỗi gia đình, nhưng chủ yếu là giấy ngũ sắc, giấy tiền mã, quần áo giấy,… với mong muốn người đã khuất có đầy đủ vật dụng sinh hoạt khi sinh sống ở thế giới bên kia. Các loại bánh trái, thức ăn, đồ uống tùy thuộc sở thích của mỗi gia đình, như bánh bò, bánh bạc đầu, bánh bao thường được sử dụng nhiều.

d. Tết Đoan Ngọ.

Tết Đoan Ngọ diễn ra vào ngày 5 tháng 5 âm lịch, đây cũng là ngày tưởng niệm tới nhân vật trong lịch sử Trung Quốc là Khuất Nguyên, một trung thần sống ở nước Sở thời Chiến Quốc đã tự vẫn ở sông Mịch La. Trong ngày Đoan Ngọ, món ăn chủ đạo là những món nguội. Người Hoa thường làm món bánh tro, một lại bánh bằng bột nếp pha với nước tro, gói trong lá chuối. Ngoài ra còn có món bánh trôi tàu, bánh cuộn thừng,...

99

Không giống người Việt tết Đoan Ngọ là tiết diệt sâu bọ, người Hoa ngày này thường đi mua thuốc bắc, hoặc hái thuốc, thường là những loại có tinh dầu thơm đem về treo trước cửa nhà với mục đích từ tà ma, bệnh tật. Đây cũng là thời điểm đầu hè, thường diễn ra bệnh tật.

e. Tết Trung Thu.

Đối với cộng đồng người Hoa, tết Trung Thu cùng với tết Nguyên Đán và tết Nguyên Tiêu là một trong 3 tết quan trọng của họ. Đây là ngày trăng rằm tháng 8 âm lịch tròn nhất và sáng nhất. Đối với họ, trăng tròn là biểu tượng của sự đầy đặn, của sự đoàn viên. Đây cũng là dịp thể hiện lòng tôn kính tổ tiên, lòng biết ơn tới ông bà, cha mẹ, thầy cô, mối giao hảo tình thân đối với bạn bè, đồng nghiệp, khách hàng.

Trong ngày này, họ có hai lễ cúng chính là lễ cúng tổ tiên, thần linh và lễ cúng trăng. Lễ cúng tổ tiên, thần linh thường diễn ra trước 11h00 trưa. Nếu qua thời điểm đó họ phải đợi đến sau 12h00 trưa vì họ tin rằng đó là thời điểm không tốt, nhiều âm khí. Còn lễ cúng Trăng diễn ra vào buổi tối. Đồ cúng có hoa quả theo mùa như bưởi, hồng và không thể thiếu bánh trung thu. Bưởi cũng được gửi gắm với ý nghĩa tròn trịa, đầy đặn giống mặt trăng, sẽ xua đi những điều không may. Bên cạnh đó, cộng đồng người Hoa tổ chức các hoạt động vui chơi, gia đình tề tựu sum họp bên mâm cỗ Trung Thu và ngắm trăng. Hoạt động Lân – Sư – Rồng cũng không thể thiếu trong ngày này. Theo lời kể của các vị cao niên từng sinh sống gần với người Hoa, hoạt động múa Lân – Sư – Rồng lớn nhất thường diễn ra tại sân đền Nhà Bà, là nơi tập trung, thu hút nhiều người thuộc cộng đồng tham gia.

3.2.2.2. Các nghi lễ vòng đời.

Đối với cộng đồng người Hoa, có thể xác định được nghi lễ vòng đời của một cá nhân là những nghi lễ liên quan đến sự ra mắt của một thành viên mới trong cộng đồng, đánh dấu sự bắt đầu của một quá trình học tập, trưởng thành, sự kiện đánh dấu về tình trạng bản thân, sự kiện lên quan đến sự chuyển đổi vị thế và sự kiện kết thúc sự tồn tại của cá nhân đó. Đó là các nghi lễ như: mang thai và sinh đẻ, lễ đầy tháng, lễ khai học, lễ kết hôn, lễ lên lão (mừng thọ) và lễ tang.

a. Mang thai và sinh đẻ.

Người Hoa ở Hải Phòng tuyệt đối không cho người phụ nữ mang thai đến đám tang, nhất là khi người chết đang được khâm liệm, vì họ cho rằng lúc này âm khí rất cao, lại thêm sự kỵ tuổi có thể làm hại tới thai nhi. Bênh cạnh đó, họ còn kiêng không tới dự đám cưới, không tùy tiện bế ẵm con người khác. Bởi theo quan niệm của họ, khi đến dự lễ cưới, người mang thai có thể đem lại điều xấu cho đôi lứa kết hôn; hoặc khi bế ẵm đứa bé khác, thai nhi trong bụng mẹ có thể lấy đi những điều tốt đẹp của đứa trẻ đó. Người phụ nữ Hoa mang thai không được sửa chữa hay đóng đinh, không được làm vỡ trứng (trứng gà, trứng vịt,…) hay di dời giường ngủ,… Tất cả những kiêng kỵ đó với mục đích tránh bị hỏng thai.

100

Người phụ nữ Hoa ở Hải Phòng trước kia thường sinh ở nhà, mời bà đỡ đến đỡ đẻ. Sau này, khi người Hoa xây dựng bệnh viện riêng cho cộng đồng của mình, các sản phụ thường được đưa đến để sinh đẻ. Sau khi đứa trẻ được sinh ra, người

nhà sẽ mời những người có học thức cao để đặt tên hoặc mời thầy coi bói, thầy tử vi đến xem ngày tháng sinh, giờ sinh của đứa trẻ đó để đoán trước vận mệnh, làm lễ giải hạn nếu sinh vào ngày giờ xấu. Tên của đứa trẻ thường được đặt dựa trên hệ thống âm dương ngũ hành.

Sau khi sinh, người mẹ phải ở cữ một tháng. Thời gian này, người mẹ không được tắm rửa, không làm việc nặng, tránh ra ngoài vì sợ gió độc. Người thân cũng hạn chế tới thăm. Theo quan niệm của người Hoa, trong một tháng sau khi sinh, người mẹ và đứa bé được coi là “bất khiết”, có thể đem lại những điều không may mắn cho người ngoài đến thăm. Để gặp đứa bé, người vào thăm phải bước qua lửa với ý nghĩa trừ tà ma, âm khí, ngăn cản sự xâm hại tới đứa bé.

b. Lễ đầy tháng.

Lễ đầy tháng là nghi lễ đầu tiên của một con người, được tổ chức sau khi đứa trẻ sinh ra được tròn một tháng. Đối tượng chính được cúng bái trong nghi lễ này là ông bà tổ tiên, thần linh thờ trong gia đình và các Bà Mụ. Thực hiện nghi lễ, người chủ gia đình bầy lễ vật lên các ban thờ, cùng với đó là một mâm lễ bên canh người mẹ và đứa bé để cúng các Bà Mụ. Theo tín ngưỡng của người Hoa, các Bà Mụ là những vị thần tạo ra và bảo hộ cho đứa trẻ. Tùy từng nhóm cộng đồng người Hoa mà có số Bà Mụ khác nhau như người Quảng Đông thờ 12 Bà Mụ (tương ứng với 12 tháng trong năm), người Triều Châu thờ 5 Bà Mụ hay người Phúc Kiến thờ 7 Bà Mụ. Người Việt cũng đã tiếp nhận tín ngưỡng này với 12 Bà Mụ.

Nghi thức làm lễ tiến hành theo trình tự từ ngoài vào trong, từ vị thần cao nhất xuống vị thần thấp hơn theo hệ thống cấp bậc thần linh của cộng đồng người Hoa. Sau đó là cúng tổ tiên và các Bà Mụ. Sau nghi thức cúng thần linh, tổ tiên, những người tham dự đầy tháng sẽ tặng quà và chúc mừng cho đứa bé và người thân trong gia đình. Lễ đầy tháng cũng được coi là ngày báo cho mọi người thân, bà con hàng xóm sự hiện diện của đứa trẻ. Cũng giống như những ngày lễ mừng khác, màu đỏ luôn chiếm vị trí chủ đạo trong lễ đầy tháng.

c. Lễ khai học.

Người Hoa ở Hải Phòng trước kia rất coi trọng việc học hành của con cháu trong gia đình. Lễ khai học đánh đấu sự chuyển đổi môi trường, tính chất hoạt động, mối quan hệ của đứa trẻ đối với xã hội. Là dấu mốc bắt đầu con đường học tập, trau dồi tri thức, chuẩn bị cho một bước chuyển mới trong đời sống cá nhân.

101

Lễ khai học được thực hiện khi đứa bé chuẩn bị đi học, không ấn định trước ngày. Nghi lễ thường được thực hiện tại nhà hoặc ra Đền Nhà Bà, nơi có thờ Văn Xương Đế Quân. Theo Đạo giáo, Văn Xương Đế Quân là thần chủ quản công danh phúc lộc của sĩ nhân, hay nói cách khách là người nắm giữ công danh và văn vận của con người. Vào ngày này, các thầy cúng sẽ được mời về nhà làm lễ. Lễ vật đơn giản chỉ có hoa quả, hương và nước. Bên cạnh đó là có một cuốn vở và một cây bút.

Lễ khai học sẽ tạo niềm tin cho đứa trẻ cũng như người lớn trong gia đình đã được sự phù hộ của thần linh, sẽ học hành và đỗ đạt trong tương lai.

d. Lễ kết hôn.

Cũng giống như mọi dân tộc khác, lễ kết hôn của cộng đồng người Hoa được coi là ngày trọng đại nhất trong đời người. Tùy theo điều kiện kinh tế mà quy mô lễ cưới của một cặp đôi khác nhau, tuy nhiên các nghi thức trong lễ cưới luôn giống nhau, mang ý nghĩa đánh dấu sự chuyển đổi của cặp đôi từ trạng thái độc thân sang trạng thái có gia đình. Tất cả các nghi lễ đó đều hướng tới mong muốn lứa đôi trọn vẹn hạnh phúc, con cháu mạnh khỏe. Đối với gia đình hai bên, lễ kết hôn cũng là việc bớt hoặc thêm thành viên trong gia đình.

Trong hôn nhân của cộng đồng người Hoa, vai trò của người mai mối rất quan trọng, gần như là một nhân vật chính trong quá trình hôn phối của hai họ. Người mai mối có thể là đàn ông hoặc phụ nữ, nhưng phải là người có tư cách cá nhân tốt, phúc hậu, có gia đình hạnh phúc, con cháu đề huề. Dù có đối tượng hay chưa có đối tượng được các gia đình lựa chọn để cưới vợ cho con mình thì đều cần phải có người mai mối đến thưa chuyện với nhà gái trước, sau đó hai gia đình mới được gặp nhau.

Khi cặp đôi nam nữ trải qua thời gian tìm hiểu, mong muốn đi tới hôn nhân, nhà trai nhờ người mai mối sang nhà gái đánh tiếng dạm hỏi. Thông thường nhà trai sẽ đưa người mai mối một túi lễ vật nhỏ để gửi tặng nhà gái. Sau đó nếu đồng ý thì nhà gái nhận túi lễ vật đó, nếu không đồng ý thì nhờ bà mai trả lại. Khi nhà gái đã đồng ý, hai gia đình hẹn gặp nhau qua người mai mối, nhà trai sẽ mang một số lễ vật đến thưa chuyện với bên nhà gái. Sau khi hai gia đình gặp nhau, nhà trai sẽ chủ động mời thầy coi bói xem ngày giờ tốt phù hợp tuổi của hai người.

Lễ đính hôn hay lễ ăn hỏi là ngày lễ quan trọng nhất trong hôn sự của cộng đồng người Hoa; đây là ngày lễ chính tại nhà gái và là ngày trọng đại nhất của người con gái. Lễ đính hôn bắt đầu kể từ khi nhà trai chuẩn bị đủ sính lễ, chọn giờ tốt cho cặp đôi và mang sang nhà gái. Đối với từng nhóm người Hoa thì có số mâm lễ khác nhau, người Quảng Đông số mâm lễ thường là số chẵn; nhóm người Phúc Kiến và Triều Châu số mâm lễ là số lẻ. Tuy nhiên số mâm lễ mang đến nhà gái phải hơn 2 mâm; số lượng mâm lễ nhiều càng thể hiện sự khá giả của nhà trai.

102

Sau khi lễ hỏi diễn ra, gia đình hai bên lựa chọn ngày giờ tốt để tổ chức lễ nghênh thân hay còn gọi là lễ cưới, lễ rước dâu. Lễ đón dâu phải thực hiện đúng giờ giấc đã được định trước như giờ chú rể rời khỏi nhà, giờ vào nhà gái, giờ đón dâu ra khỏi nhà gái và giờ cô dâu vào nhà chồng, làm lễ cúng bái tổ tiên. Bố mẹ hai bên đều không đi đưa dâu và đón dâu. Đám rước dâu đi theo một lộ trình không lặp lại, tức là khi đi một đường thì khi về phải đi đường khác. Trong quá trình rước dâu về

nhà, gia đình nhà trai phải cử người ra cho tiền những người ăn xin gặp được trên đường nhằm tránh xui xẻo trong hạnh phúc của đôi lứa.

Khi cô dâu về tới nhà trai, người mẹ chồng phải trốn đi nơi khác để con dâu tìm và mời ra ngoài làm lễ. Nhà trai cũng chuẩn bị một chậu than đang cháy để cô dâu bước qua nhằm rũ bỏ những điều không tốt trước khi bước vào nhà chồng. Sau đó, đôi vợ chồng trẻ sẽ làm lễ bái đường trước sự chứng kiến của thần linh, ông bà tổ tiên và người thân trong gia đình nhà trai. Người mai mối sẽ làm người chủ dẫn thực hiện các nghi lễ.

e. Lễ lên lão (lễ mừng thọ).

Trong vòng đời, người Hoa rất xem trọng lễ mừng thọ hay lễ lên lão, bởi đó thể hiện sự hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, là nghi lễ đánh dấu độ tuổi cũng như sự kính trọng của cộng đồng một cá nhân sau một thời gian dài sống trên đời. Theo quan niệm truyền thống thì người được làm lễ mừng thọ là những người chuẩn bị đủ 60 tuổi, là người có đủ vợ chồng, con cháu đề huề thì mới được tổ chức. Những người chưa có vợ chồng thì không được coi là già, không được tổ chức lễ mừng thọ. Đối với người Hoa, 60 tuổi là thời gian có đủ học vấn và kinh nghiệm trong đời sống xã hội, là những người được xã hội coi trọng, xin phép ý kiến khi muốn làm một việc nào đó.

Tùy điều kiện kinh tế mà mỗi gia đình sẽ tổ chức lễ mừng thọ cho ông bà, cha mẹ mình linh đình hay chỉ là bữa cơm gia đình tuy nhiên ý nghĩa của lễ mừng thọ vẫn vẹn nguyên. Quan trọng nhất là nghi lễ cúng bái tổ tiên, thần linh để kính báo về việc trong gia đình có một người đến tuổi mừng thọ, là hạnh phúc của gia đình. Cầu xin tổ tiên, thần linh che chở, bảo vệ và ban phúc lộc cho người đó sống lâu cùng con cháu. Đầu tiên, để tổ chức lễ mừng thọ người nhà cử người đi xem ngày tốt để tổ chức, xem giờ cúng tổ tiên, thần linh và xem tuổi có được mừng thọ trong năm đó hay không. Lễ mừng thọ chỉ tổ chức một lần trong đời, những năm tiếp sau không làm lễ. Nghi lễ kết thúc là sự đánh dấu một cá nhân từ tuổi trưởng thành sang tuổi của người già, được nhìn nhận là người có kinh nghiệm sống, uy tín và vị thế trong gia đình, dòng tộc, trong bang, trong cộng đồng; được nâng lên làm bậc trưởng lão.

f. Lễ tang.

103

Đây là nghi lễ cuối cùng trong một vòng đời người, đánh dấu sự kết thúc của một cuộc đời con người, tiễn đưa linh hồn của họ sang thế giới khác. Quá trình diễn ra tang lễ của người Hoa được thực hiện kể từ khi gia đình có người thân đang hấp hối cho đến khi mãn hạn tang 3 năm. Khi phát hiện người nhà trong gia đình có dấu hiệu hấp hối, người thân sẽ chuyển người ra chính giữa căn nhà, nơi được coi là linh thiêng nhất, trang trọng nhất trong nhà của người Hoa. Khác với người Việt, do quan niệm người chết sẽ bước ra khỏi nhà và sang thế giới bên kia, người đang hấp

hối sẽ được đặt nằm theo hướng đầu ở trong nhà, chân hướng ra cửa. Người mất được người Hoa tính thêm 3 tuổi, bao gồm tuổi Trời, tuổi Đất và tuổi người. Ví dụ một người dựa trên giấy khai sinh thì họ mất năm 70 tuổi thì trên cáo phó sẽ tăng thêm 3 tuổi nữa là hưởng thọ 73 tuổi. Khi người đó chính thức mất đi, gia đình sẽ cử người báo tin cho làng xóm láng giềng, người thân ở xa biết tin.

Gia đình lúc này mới được phép mua quan tài, mời thầy pháp tới xem giờ nhập quan, động quan, ngày giờ chôn cất, tuổi kỵ, hướng của mộ,… dựa trên ngày sinh và ngày mất của người chết. Người chết lúc này sẽ được lau sạch thân thể bằng rượu và hợp chất lá thơm, thay quần áo mới và đặt nằm trên giường, chờ giờ nhập quan. Nếu người thân chưa về đông đủ và chưa phù hợp với giờ nhập quan thì người chết vẫn được coi là người sống đang ngủ, vẫn phải cúng cơm như bữa ăn hằng ngày. Theo quan niệm của người Hoa ở Hải Phòng, nhất là người Hoa gốc Quảng Đông, lúc này linh hồn của người chết vẫn còn lởn vởn quanh nhà, rất nguy hiểm tới người sống. Để linh hồn không gây hại cho con cháu, họ sẽ đặt lên bụng người chết một nải chuối xanh để hút âm khí người chết, cũng là để không lan tỏa mùi tử thi bắt đầu phân hủy. Bên cạnh đó, mọi vật có sự phản chiếu như gương, kính sẽ được che kín để linh hồn không có nơi trú ngụ.

Khi đã định được giờ nhập quan, gia đình tiến hành nghi lễ khâm liệm. Hai người thân trong gia đình sẽ được cử tắm rửa lại cho người chết bằng nước sông đã được đặt lên ban thờ thần linh, thay quần áo theo thứ tự: trong cùng là quần áo lót trắng, tiếp theo là một bộ quần áo dài tay màu đen, chân đi giày vải, nếu là đàn ông thì trên đầu sẽ có thêm mũ vải tròn. Bên cạnh đó, tùy theo kinh tế gia đình mà có thêm đồ trang sức, đồ tùy táng đi theo, tuy nhiên chắc chắn phải có một vài đồng bạc trắng, vài hạt gạo đặt trong miệng người đã mất. Đó là những lộ phí và lương thực cho người chết trên hành trình đi sang thế giới bên kia. Ngoài ra, trong quan tài được lót thêm nhiều vải, trà khô, giấy vàng mã gối đầu. Giai đoạn chính thức của lễ tang lúc này cũng bắt đầu diễn ra.

Quan tài được đặt chính giữa nhà, đầu hướng vào trong, chân hướng ra ngoài cửa. Các thầy pháp sẽ làm lễ, đọc kinh chú bên cạnh người thân trong gia đình. Thời gian diễn ra tang lễ thường là 3 ngày, và trong 3 ngày đó, người thân phải làm cơm cúng đủ 3 bữa cho người chết, thường là thức ăn chay. Người Hoa cũng có đội kèn trống chơi trong đám tang với mục đích xoa dịu nỗi đau của người thân trong gia đình.

104

Đến ngày thứ 3, ngày cuối của tang lễ, trước khi thực hành lễ động quan và chuyển linh cữu, thầy pháp sẽ làm lễ đọc kinh chú cầu cho linh hồn được siêu thoát. Đúng giờ được chọn, các nghi lễ động quan và chuyển linh cữu được thực hiện. Người ta thường đặt một bát cơm và quả trứng lên trên quan tài, người Hoa Phúc Kiến sẽ có thêm con gà trống. Khi chuyển linh cữu ra khỏi nhà, đoàn cờ phướn, kèn trống sẽ đi đầu tiên, con cái của người đã mất sẽ đi sau và đi giật lùi, mặt hướng về

quan tài. Tục lệ này có ý nghĩa con cháu tiếc thương người đã mất, không nỡ lìa xa. Suốt quá trình đưa tang, người nhà sẽ rải tiền vàng mã từ nhà tới nơi chôn cất. Việc rải tiền mã mang ý nghĩa “mua chuộc” ma quỷ trên đường, tránh bắt nạt, gây tổn hại tới linh hồn của người chết và nhường đường cho người chết đi.

Sau 3 năm, người thân sẽ làm lễ tảo mộ, “sang cát” cho người chết sang ngôi mộ xây kiên cố bằng gạch đá. Khu mộ của người Hoa thường chia theo những nhóm cộng đồng người Hoa như nghĩa trang của người Phúc Kiến, nghĩa trang người Quảng Đông, nghĩa trang người Triều Châu,... Mộ của người Hoa phải được xem phong thủy một cách cẩn trọng nhất. Bia mộ phải ghi rõ họ tên, năm sinh, năm mất, quê quán người chết, tên và mối quan hệ với người đứng ra lập mộ cho người chết.

3.2.3. Văn hóa nghệ thuật.

Trong quá trình định cư, sinh sống tại Hải Phòng, cộng đồng người Hoa vẫn lưu giữ được những giá trị văn hóa nghệ thuật được mang đến từ cố hương, đồng thời tiếp thu và phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật, nghệ thuật biểu diễn mới. Họ có nhiều thể loại văn hóa nghệ thuật như kinh kịch, kịch nói, múa lân – sư – rồng,… với nhiều loại nhạc cụ truyền thống và cả nhạc cụ hiện đại. Họ có những đoàn kịch, gánh hát nổi tiếng trong quá khứ, cùng với đó là những rạp hát, rạp chiếu bóng mà chỉ cần nhắc tới đi xem hát, đi xem kịch thì người Hải Phòng sẽ nghĩ tới những gánh hát của người Hoa.

3.2.3.1. Nghệ thuật sân khấu.

Nghệ thuật sân khâu là loại hình nghệ thuật tổng hợp. Ở sân khấu hàm chứa cả văn học, âm nhạc, mỹ thuật, múa và là nghệ thuật biểu diễn của diễn viên, cùng sự tham gia trực tiếp của khan giả. Nghệ thuật sân khấu ra đời khá sớm ở Trung Quốc, những di dân người Hoa đã mang theo truyền thống nghệ thuật sân khấu đến vùng đất mới, trong đó có Hải Phòng. Với những truyền thống đặc trưng, kết hợp với yếu tố văn hóa bản địa, nghệ thuật sân khấu của người Hoa đã để lại những dấu ấn đặc biệt trong đời sống văn hóa của người dân đất cảng thông qua các loại hình nghệ thuật sân khâu đặc trưng như kịch tuồng, ca kịch, kịch nói,....

105

Khi người Hoa đến định cư tại Hải Phòng, các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống từ Trung Quốc cũng được mang tới để phục vụ đời sống tinh thần của họ. Các đoàn nghệ thuật sân khấu của họ ban đầu hình thành tự phát, tùy theo điều kiện hoàn cảnh, các đoàn tự tổ chức truyền nghề, dạy nghề cho thế hệ sau, tự biểu diễn để có các nguồn kinh phí để duy trì hoạt động. Một số đoàn hoạt động lâu dài đã tự mở ra những rạp hát riêng cho mình. Trên tuyến phố Phan Bội Châu, trước kia là phố Rue Tonkinoise đã hình thành nhiều rạp hát lớn nhỏ tại đây, trong đó phải kể tới rạp Long Châu, rạp Đại Quang, rạp Lạc Mộng Đài. Các rạp hát hoạt động chủ yếu là hát tuồng, ca kịch và kịch nói. Các tiết mục biểu diễn của họ thường gắn liền với các tích truyện cổ, các câu truyện trong lịch sử Trung Hoa, các câu truyện cổ tích, truyền thuyết .

Những vở diễn kinh kịch hay còn được gọi là tuồng luôn thu hút người xem không chỉ những người gốc Hoa mà ngay cả người bản địa và người Âu. Do người Hoa ở Hải Phòng đông nhất là người Hoa gốc Quảng Đông, chính vì vậy lối diễn của họ cũng mang âm hưởng nghệ thuật của vùng đất này. Nghệ thuật tuồng của người Hoa bao gồm ca múa, pha trộn lối kể chuyện, các màn xiếc, nhào lộn, võ thuật hay kể cả lối diễn tấu hài, trào phúng. Các tiết mục mang lại những nét gần gũi hay những câu chuyện hàm chứa nhiều ý nghĩa trong đời sống, khiến cho người xem luôn cuốn vào mỗi vở diễn.

Bên cạnh đó, cái hồn của tuồng luôn là mặt nạ trang điểm thể hiện các tuyến nhân vật khác nhau. Nhìn qua mặt nạ, khán giả có thể nhận biết các nhân vật trung thành hay giả dối, nhân vật cao thượng anh hùng hay gian ác tiểu nhân. Các nhân vật trong tuồng của người Hoa chủ yếu được chia làm bốn vai lớn là: Sinh (vai nam), Đán (vai nữ), Tịnh (vai tà), Sửu (vai hề) và một số vai phụ khác. Có thể nói, kịch tuồng của người Hoa là một loại hình nghệ thuật sân khấu tạp kỹ, mang trong mình nhiều yếu tố nghệ thuật khác nhau, truyền tải những thông điệp về đạo đức truyền thống như lễ, nghĩa, trí, tín, giáo dục lòng nhân ái, đoàn kết,… Và đặc biệt là phục vụ đời sống, nhu cầu văn hóa của đông đảo quần chúng người Hoa và vả người Việt.

Cùng với sự phát triển của thời đại, người Hoa cũng tiếp thu một số loại hình nghệ thuật mới, trong đó có kịch nói. Kịch nói là một hình thức sân khấu có nguồn gốc từ phương Tây, chủ yếu dùng văn nói để diễn đạt những câu thoại, hoàn toàn khác với các hình thức biểu diễn sân khấu truyền thống của người Hoa. Bên cạnh sự nổi bật của những nhà văn người Việt tiêu biểu như Thế Lữ, Lan Sơn, Vi Huyền Đắc, các đoàn nghệ thuật của người Hoa ở Hải Phòng cũng tổ chức diễn một số vở diễn tại các rạp Đại Quan hay một số rạp diễn lưu động nhỏ.

106

Ngoài ra, phim ảnh và hình thức chiếu bóng trở thành ngành được người Hoa tiếp thu nhanh chóng. Nhận thấy đây là ngành kinh doanh đem lại lợi nhuận cao, một số Hoa kiều đã bỏ vốn xây dựng, mở ra các rạp chiếu bóng, các đoàn chiếu bóng lưu động phục vụ đủ mọi tầng lớp trong xã hội, từ những tầng lớp thượng lưu tới lớp bình dân trong xã hội. Trong những năm 30 của thế kỷ XX, các rạp chiếu bóng của người Hoa cũng được hình thành và trở nên nổi tiếng, kể tới là rạp WaWa, rạp Cathay (ngõ Nghè), rạp Luminor, rạp Kim Thành,.. Ngoài ra, tại sân đền Nhà Bà cũng có đoàn tổ chức chiếu bóng lưu động phục vụ cộng đồng người Hoa tại đây. Đa số phim của họ được thuê từ những cuộn phim của người Pháp, một số ít phim từ Hồng Kông . Những bộ phim chủ yếu là phim đen trắng và phim câm. Để quảng bá phim và thu hút người xem, các chủ người Hoa đầu tư vào việc vẽ áp phích quảng cáo, phát tờ rơi và cho người rao bằng loa trên các phố. Những ánh đèn của các rạp cũng trở thành điểm thu hút người dân tới các rạp.

3.2.3.2. Rối bóng.

Đây là loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống của cộng đồng người Hoa, thu hút được rất nhiều lứa tuổi tới xem. Theo lời kể của những người sinh sống trong khu vực người Hoa trước kia, các gánh rối bóng thường tổ chức vào những dịp cuối tuần, tại sân trước khu vực Đền Nhà Bà. Trẻ con tới đây tham dự rất đông để xem những tích truyện cổ của Trung Quốc được thể hiện qua hình thức rối bóng.

Con rối trong nghệ thuật rối bóng là một sản phẩm mỹ nghệ, được thực hiện qua nhiều công đoạn khác nhau. Vật liệu làm con rối bóng chủ yếu là những bìa giấy cứng được đục, một số chi tiết được làm bằng da bò được phơi khô. Sau khi chuẩn bị được nguyên liệu làm con rối, người thợ sẽ quét nhiều lớp hồ để kết dính nhiều lớp giấy lại với nhau tạo thành một khối cứng chắc. Sau đó người thợ tiến hành công đoạn tạo hình con rối. Các chi tiết được đục càng tỉ mỉ càng thể hiện được hình hài, trang phục của nhân vật con rối. Con rối được chia thành 5 bộ phận cấu thành là phần thân và đầu, 2 phần tay và 2 phần chân được khớp nối lại với nhau. Ở mỗi tay và chân được gắn kết với các que tre để người biểu diễn điều khiển con rối. Khi con rối được tạo hình hoàn thành, người thợ sẽ quét sơn màu trang trí lên con rối. Mỗi bộ phận các nhân vật con rối bóng, đạo cụ, phông cảnh hay ngay cả chính màn hắt bóng được trang trí những hoạ tiết hoa văn truyền thống của người Hoa. Không những bố cục của chúng dễ coi, mà phải phối hợp với toàn bộ trong trọn vẹn khung cảnh xung quanh một cách sinh động, tạo nên hình ảnh nghệ thuật hoàn chỉnh và hoàn mỹ nhất.

Khi biểu diễn, đoàn diễn luôn có một kíp người thực hiện bao gồm hai bộ phận chính là những người chơi nhạc, những người hát và bộ phận biểu diễn rối bóng. Kíp thực hiện này rất giống với kíp thực hiện biểu diễn nghệ thuật rối nước của người Việt. Các vở diễn trong nghệ thuật rối bóng thường xoay quanh hình ảnh truyền thống mang ý nghĩa tốt lành, giáo dục. Bên cạnh đó tái hiện lại các câu truyện dân gian, các câu truyện lịch sử Trung Hoa hay cả những câu truyện gắn liền với Đạo giáo. Nghệ thuật múa rối bóng rất chú trọng tới hiệu quả biểu diễn, bởi vì tất cả những bộ phận trên mình nhân vật đều có thể lay động, lại có thêm tiếng ca, tiếng nhạc, các điệu tuồng khiến cho các vở múa rối bóng mang đậm bản sắc dân gian của cộng đồng người Hoa.

3.2.3.3. Biểu diễn múa Lân, múa Rồng.

107

Đối với người Hoa, Lân hay Kỳ Lân là loài tượng trưng cho sự may mắn, cho sức mạnh, còn Rồng là loài tượng trưng cho sự cao sang, quyền quý, sự tinh khôn và là loài vật của mùa màng, thời tiết. Biểu diễn múa Lân, múa Rồng là loại hình nghệ thuật kết hợp yếu tố múa và yếu tố võ thuật, tạo nên sự uyển chuyển trong mỗi đường múa và tính võ của mỗi con vật. Đây cũng là hình thức biểu diễn mang yếu tố tâm linh kết hợp với yếu tố giải trí trong đời sống tinh thần của cộng đồng .

Trước khi mỗi loài vật được biểu diễn, người Hoa sẽ chọn ngày tốt mang hình tượng con vật đến đền, chùa hoặc các võ đường để làm lễ “khai quang điểm nhãn” trước khi múa. Ở Hải Phòng, hình tượng con vật thường được mang tới đền Nhà Bà. Sau khi được làm lễ, các hình tượng con vật mới được phép đưa ra biểu diễn. Con vật lúc này bắt đầu được tính tuổi và sẽ có những dấu hiệu nhận biết trên đầu con vật đó tương ứng với từng cấp độ tuổi.

Đối với biểu diễn múa lân, hình tượng con lân được cấu tạo bởi hai phần chính là đầu lân và thân lân. Đầu lân được làm bằng tre và giấy bồi; luôn được tạo hình với vẻ mặt dữ tợn để xua đuổi tà ma nhưng cũng có nét thân thiện với ý nghĩa đem lại sự bình yên, hạnh phúc, may mắn cho người dân. Thân lân được trang trí nhiều lớp vẩy được làm bằng nhiều mảnh vải màu, có những cụm lông thường có màu đen, trắng, đỏ, vàng và xanh lá tượng trưng cho ngũ hành. Múa lân thường là múa đôi, múa tam và múa tứ. Người múa lân phải thuần thục các động tác võ thuật cũng như phải thật nhanh nhẹn để thể hiện cái uyển chuyển, cái uy dũng của con lân. Một đoàn tổ chức biểu diễn luôn có 3 bộ phận chính là: bộ phận điều tiết nhịp độ múa bằng nhạc cụ, đội múa lân và đội diễn trò đóng vai ông địa. Múa lân thường múa vào các dịp lễ tết, hội hè, tuy nhiên vào các ngày quan trọng của cộng đồng người Hoa như khai trương, mừng nhà mới, động thổ, khởi công,… họ sẽ mời đội lân về biểu diễn với mong muốn cầu tài lộc, may mắn, bình an, hạnh phúc.

Khác với múa lân, múa rồng chỉ diễn ra trong các dịp lễ tết, hội hè. Đội múa rồng có nhiều người điều khiển, tùy thuộc vào chiều dài của con rồng nhưng thường từ 12 người trở lên. Những người múa rồng là những người có sức khỏe dẻo dai do phải cầm các cột dài và khối lượng thân rồng lớn. Trong múa rồng, các thành viên phải biết kết hợp một cách khéo léo, nhịp nhàng, ăn ý với nhau trong từng động tác biểu diễn từ đầu rồng đến đuôi rồng để tạo ra cảnh rồng uốn lượn đẹp mắt. Về bộ phận của con rồng, đầu rồng và đuôi rồng được làm bằng gỗ và vải trang trí, thân rồng được may cẩn thận, có trang trí các chi tiết vảy rồng. Trong mỗi dịp tết đến xuân về, khu nào có người Hoa sinh sống thì chắc chắn sẽ xuất hiện đoàn múa rồng đi qua và có rất nhiều người tham dự.

3.2.4. Giáo dục

108

Trong quá trình tụ cư và sinh sống tại Hải Phòng, bên cạnh các hoạt động kinh tế, người Hoa cũng chú trọng việc phát triển giáo dục cho thế hệ trẻ . Bên cạnh hệ thống giáo dục phương Tây cũng như hệ thống giáo dục Nho giáo của người Việt, người Hoa cũng xây dựng một hệ thống giáo dục riêng, chia các cấp bậc theo độ tuổi và trình độ. Con em người Hoa được học tại các ngôi trường riêng do các bang, các hội và các cá nhân trong cộng đồng đóng góp tiền xây dựng. Các ngôi trường hoạt động theo chương trình riêng mà, chính vì vậy việc học tiếng Hoa được chú trọng hơn, sau đó là học thêm tiếng Việt và cả một số môn trong hệ thống giáo

dục phương Tây. Đối với người Hoa, Hán tự có vai trò quan trọng, bất cứ ai trong cộng đồng người Hoa đều phải biết và nói tiếng Hán. Theo cụ Trung Bình Nguyệt, các học sinh trước năm 1945 tại các trường của người Hoa chủ yếu là các nam sinh, có rất ít nữ sinh do tư tưởng trọng nam của người Hoa khá nặng nề. Một số trường học cho phép học chung nam và nữ, không tách riêng giới như một số trường theo hệ thống giáo dục phương Tây.

Theo thống kê trong cuốn Lược khảo đường phố Hải Phòng, các tác giả đã chỉ ra tại Hải Phòng có một số trường dành cho cộng đồng người Hoa bao gồm trường tiểu học Đông An, trường Thời Tập, trường Kiều Tiểu, trường nữ học Kiết Trinh, trường Kiều Anh, trường Kiều Trung. Trong đó trường Kiều Tiểu trên phố Phan Bội Châu (phố Rue Tonkinoise thời Pháp thuộc) đối diện với tường bên của đền Nhà Bà, ban đầu tên là trường Kiều Anh, sau năm 1935 đổi tên thành trường Trung tiểu học công lập Hoa Kiều. Đây là trường có nhiều học sinh người Hoa theo học nhất do nằm ở vị trí trung tâm khu vực người Hoa sinh sống. Trường được dậy theo chương trình của Trung Hoa dân quốc của chính quyền Tưởng Giới Thạch, do giáo viên từ Trung Quốc sang dạy.

109

Từ người Pháp rút khỏi miền Bắc, theo thỏa thuận Việt – Trung ký kết năm 1955, người Hoa ở Việt Nam được khuyến khích nhập tịch Việt Nam, được hưởng những quyền lợi đặc biệt, trong đó có quyền hưởng hệ thống giáo dục mới. Lúc này, các trường Hoa kiều tại Hải Phòng được thu gọn lại thành 4 trường là: trường Kiều Anh (bậc tiểu học), trường Kiều Trung (tiểu học và trung học), trường Thời Tập (tiểu học), trường Đông An (tiểu học) Năm 1957, giữa Việt Nam và Trung Quốc có thỏa thuận định rõ “Mọi công tác chỉnh đốn đối với người Hoa, bao gồm các vấn đề về tổ chức quy mô lớn, báo chí, trường học, bệnh việt và tất cả các hội cứu trợ dành cho thất nghiệp cũng như phúc lợi xã hội, kể từ nay sẽ do phía Việt Nam đảm trách” [59, 55]. Từ năm 1960, các trường học của người Hoa bắt đầu có các tiết dạy tiếng Việt và sử dụng sách giáo khoa do bộ Giáo dục Việt Nam ban hành. Cùng với đó, nhiều lớp tiếng Hán giảm dần, đội ngũ giáo viên người Hoa dần được thu hẹp. Từ đầu những năm 70, trước những diễn biến xấu trong quan hệ ngoại giao Việt – Trung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thực hiện kế hoạch cải cách những năm 1970-1971, nhiều thay đổi diễn ra sau đó. Các trường của người Hoa lúc này không chỉ dành cho con em người Hoa mà còn có cả học sinh người Việt được theo học; các lớp về ngôn ngữ được cải cách, tiếng Trung trở thành ngoại ngữ, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ phổ thông tại các trường của người Hoa. Để theo kịp và đồng bộ với hệ thống giáo dục Việt Nam, các trường của người Hoa giảm chương trình đào tạo bậc tiểu học từ 6 năm xuống thành 4 năm. Các cải cách giáo dục đó đã giúp xóa bỏ “vách ngăn” giữa các trường học tách biệt của người Hoa và người Việt, gắn kết học sinh Việt – Hoa lại với nhau. Tại Hải Phòng, trường Đoàn Kết được thành lập trên cơ sở trường trung học Hoa kiều trước đó, thường được gọi là trường Kiều Trung, học sinh người Việt chiếm 30%, tỉ lệ này tăng theo từng năm.

Tất cả các học sinh học chung với nhau, không phân biệt thành phần dân tộc. Tuy nhiên, học sinh người Hoa phải học thêm tiết ngôn ngữ và văn học Trung Quốc.

Học tiếng Trung Quốc là việc đầu tiên mà người Hoa mong muốn dạy cho con em trong cộng đồng của họ. Từ buổi đầu, tại các trường học, giáo viên luôn là người Hoa, là những người biết nhiều chữ nghĩa, thông thạo ngôn ngữ. Tuy nhiên do người Hoa sinh sống ở Hải Phòng chủ yếu là người Quảng Đông nên tại các trường chủ yếu là dậy tiếng Hoa Quảng Đông. Tại một số gia đình giàu có, con em của họ được gửi theo học tại một số trường theo hệ thống giáo dục phương Tây tại Hải Phòng như trường Henri Rivière, trường Bonnal, trường Trí Tri,… Hệ thống giáo dục của cộng đồng người Hoa cũng góp phần không nhỏ trong việc hình thành tầng lớp học sinh, tri thức ở thành phố Hải Phòng, nâng cao dân trí trong cộng đồng.

3.3. Đời sống và mối quan hệ xã hội.

3.3.1. Quan hệ hôn nhân, gia đình và dòng họ.

Đối với những từng tiếp xúc, sinh sống cùng với cộng đồng người Hoa đều có nhận thấy, mối quan hệ hôn nhân, gia đình hay dòng họ của người Hoa thường khép kín, tuân thủ các quy tắc của chế độ phụ hệ và có phần gia trưởng. Các quy tắc này đều ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, trọng nam hơn người phụ nữ của cộng đồng người Hoa. Và đặc biệt hơn, số lượng người đàn ông người Hoa lấy vợ người Việt nhiều hơn, trong khi đó người phụ nữ Hoa rất ít khi hoặc không lấy chồng là người Việt, họ chỉ lựa chọn chồng trong cộng đồng của mình. Trong số trường hợp khảo sát, phỏng vấn hay qua lời kể của con cái họ thì không có người phụ nữ Hoa sinh trước năm 1954 nào lấy chồng là người Việt. Việc này có thể giải thích do người Hoa muốn lưu giữ giá trị truyền thống và bí quyết nghề nghiệp của mình. Họ tin rằng nếu người phụ nữ Hoa lấy người bản địa, người phụ nữ sẽ yếu lòng mà đưa ra các bí quyết làm ăn cho chồng mình; hay sinh hoạt dưới đặc trưng văn hóa bản địa sẽ làm mất đi nguồn gốc, phong tục tập quán của người phụ nữ Hoa đó. Theo Nguyễn Văn Huy trong Người Hoa tại Việt Nam có giải thích: “Thật ra họ biết rất rõ khi lập gia đình với các dân tộc địa phương họ sẽ không còn giữ nổi bản thể. Giữ gìn bản thể đối với người Hoa quý báu như giữ gìn một gia tài, mất gia tài đó người Hoa sẽ không còn là người Hoa nữa… Cũng có một số gia đình Trung Hoa, còn giữ tinh thần dân tộc cực đoan, cho rằng hội nhập vào xã hội Việt Nam là không vinh quang vì Việt Nam là một dân tộc thấp kém, đã từng bị Trung Hoa đô hộ cả ngàn năm” [22, 167].

110

Trong gia đình, ngưởi chồng, người cha hay người nam giới cao tuổi nhất có quyền quyết định tất cả. Khi người cha mất thì quyền quyết định được thay thế bằng người con trai trưởng. Người phụ nữ hầu như không có quyết định cho dù họ là những người lao động chính, quán xuyến mọi việc trong gia đình. Mọi thành viên trong gia đình đều phải tôn theo tôn ti trật tự chặt chẽ của mỗi gia đình, dòng họ. Các gia đình, dòng họ càng giàu có thì các tôn ti trật tự càng nặng nề, chặt chẽ hơn.

Những thành viên trong gia đình hầu hết đều sống chung trong một mái nhà, kể cả những gia đình có 4 thế hệ. Mọi việc lớn nhỏ đều được các thành viên trong gia đình sắp xếp, giải quyết ổn thỏa, ngay cả những bất hòa, xích mích hay tranh chấp đều phải xử lý trong gia đình, không được phép mang ra ngoài xã hội, chính quyền giải quyết.

Yếu tố dòng họ của cộng đồng người Hoa luôn là một khối chặt chẽ, bền vững; là yếu tố chi phối đời sống xã hội, đời sống lễ nghi của mỗi cá nhân trong đó. Đối với người Hoa, mỗi đứa trẻ sinh ra đều mang trong mình một dòng họ; tên đệm của đứa trẻ đó cũng mang theo thứ bậc của nó trong dòng họ. Nếu người trong một họ có cùng một chi hệ mà chữ đệm giống nhau thì ai lớn tuổi hơn sẽ là anh chị của người kia (khác với người Việt dựa theo thứ bậc của cô dì , chú bác mà đặt thứ bậc cho con cháu, cho dù có lớn tuổi hơn). Chính vì vậy nếu họ hàng xa không biết nhau, họ sẽ hỏi tuổi và tên đệm của nhau để có thể xác định thứ bậc mà xưng hô cho phù hợp. Người phụ nữ Hoa khi lấy chồng sẽ đổi họ của mình theo họ chồng.

Mọi quan hệ xã hội của một cá nhân từ khi là một đứa trẻ tới khi trưởng thành và già đi đều chịu ảnh hưởng sâu nặng từ các thiết chế của dòng họ mình. Các gia đình trong mỗi dòng họ của người Hoa đều có sự tương hỗ qua lại trong cuộc sống, giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Mọi việc quan trọng như hôn lễ, tang ma, thờ cúng,… đều phải thông qua dòng họ, được người trưởng họ quyết định mới được thực hiện. Mỗi người trong dòng họ phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt tính thừa kế và quy định được ghi trong gia phả. Tuy nhiên, do thời gian định cư muộn, chính vì vậy yếu dòng họ của người Hoa ở Hải Phòng nói riêng và ở miền Bắc nói chung không đủ lớn mạnh so với dòng họ của cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ, đặc biệt trong tiềm lực kinh tế.

3.3.2. Các tổ chức xã hội trong cộng đồng người Hoa và thiết chế quản lý.

Ở Hải Phòng, do hoàn cảnh lịch sử, các tổ chức xã hội trong cộng đồng người Hoa có phần giống nhưng cũng có những nét khác biệt so với những cộng đồng người Hoa khác trên khắp cả nước. Người Hoa ở Hải Phòng chủ yếu hoạt động trong bang Quảng Đông (Cantonais).

111

Bang là một tổ chức xã hội của cộng đồng người Hoa được xây dựng dựa trên mối quan hệ đồng hương, sử dụng cùng một ngôn ngữ. Những người Hoa di cư, những thương nhân người Hoa thường lấy quan hệ đồng hương để kết thành một tập thể cộng đồng, hỗ trợ nhau hoạt động, cùng phát triển. Hình thức liên kết bang của người Hoa ở Hải Phòng dựa trên tổ chức liên kết đã có từ Trung Quốc. Tổ chức bang khi được hình thành đã có vai trò chi phối toàn diện đời sống xã hội trong cộng đồng. Không những vậy, trong làn sóng di cư của cộng đồng người Hoa, bang đóng vai trò như một tấm “hộ chiếu”, đóng vai trò bảo lãnh, đón tiếp, hỗ trợ và cưu mang những người Hoa mới đến, muốn nhập cư vào sinh sống, chưa có công ăn việc làm.

Hội đối với người Hoa là tập hợp của nhiều tổ chức, đoàn thể, là những nhóm, liên hiệp, nghiệp đoàn, hội nghề nghiệp,… hay nói cách khác là tập hợp không có quy mô chính trị. Đa số các Hội tại Hải Phòng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, giúp đỡ nhau phát triển trong hoạt động; và lĩnh vực văn hóa xã hội, phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Hoa. Cũng có những hội nằm trong sự quản lý của tổ chức bang, là một nhánh nhỏ của bang.

Theo nhiều tài liệu có đề cập tại Hải Phòng hình thành có 5 bang, tuy nhiên trong quá trình khảo sát, phỏng vấn và dựa trên các tài liệu của người Pháp chỉ đề cập tới một tổ chức bang duy nhất là bang Quảng Đông có trụ sở đặt tại đền Nhà Bà. Khác với các tổ chức bang khác trên cả nước, ở Hải Phòng do số lượng người Quảng Đông chiếm đa số, trong khi đó số người Triều Châu, Phúc Kiến, Hồng Kông, Hải Nam, Đài Loan chiếm số ít dân cư. Các nhóm phương ngữ khác không đủ đông để có thể tạo dựng nên một tổ chức bang riêng cho cộng đồng của mình. Chính vì vậy những người Hoa khác có thể tham gia tổ chức bang Quảng Đông, được tham dự và hưởng quyền lợi giống với những người Quảng Đông khác. Đồng thời tổ chức hội nằm trong sự quản lý của bang, không tác riêng ra như tại Hà Nội, Sài Gòn,... Tuy vậy họ vẫn ý thức được mình thuộc nhóm phương ngữ nào, chính vì vậy những đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán họ vẫn lưu giữ. Dấu hiệu thể hiện điều đó chính là các nghĩa trang của người Hoa được xây dựng theo các nhóm phương ngữ riêng.

Hầu như các thiết chế xã hội trong cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng trước năm 1955 đều được gắn kết với vai trò của tổ chức bang. Trường học, cơ sở thờ tự, nghĩa trang,… đều do tổ chức bang chủ trì lên kế hoạch, vận động kinh phí và tổ chức xây dựng. Mọi sinh hoạt xã hội, từ các lễ hội, cúng tế, các nhóm biểu diễn, các nhóm hội nghề nghiệp,… đều do bang đứng ra tổ chức và điều hành. Thời Pháp thuộc, bang còn là tổ chức đại diện cho xã hội của di dân, một kiểu chính quyền tự quản thu nhỏ và là công cụ quan trọng để duy trì tính khép kín và bảo vệ các tôn ti trật tự của cộng đồng. Chính quyền thực dân quản lý hoạt động dân cư trong cộng đồng người Hoa thông qua tổ chức Bang, hội. Hội quán của người Hoa được quyền sử lý các quan hệ dân sự trong cộng đồng người Hoa, trừ trường hợp hình sự, các trường hợp liên quan tới vấn đề an ninh, chính trị, người Pháp mới can dự. Nói cách khác, người Hoa trong bang được hưởng quy chế quản lý riêng, khác với người Việt không được hưởng quyền lợi chính trị gì.

112

Về cơ cấu tổ chức, bang có một bang trưởng và các phó bang, các thành viên tham gia tổ chức bang. Bang trưởng và các thành viên trong ban quản trị do các thành viên bang bầu chọn. Thường là những người có tiềm lực về tài chính, có sự hiểu biết và quan hệ rông, có sức quản lý tốt trong cộng đồng và được các thành viên trong bang tin tưởng. Vai trò của bang trưởng là rất lớn, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội của cộng đồng người Hoa. Từ việc giao tiếp với chính quyền,

truyền đạt các yêu cầu của chính quyền tới cộng đồng, tới việc tham dự các hoạt động của các cá nhân như cưới xin, ma chay, xử lý các tranh chấp, bất đồng trong nội bộ các thành viên của bang. Ngoài ra người bang trưởng có quyền về hành chính, kinh tế như đón nhận vào bang hay trục xuất ra khỏi bang một cá nhân nào đó. Để được nhập cư, làm việc cư trú tại Hải Phòng, những người di cư người Hoa phải được bang trưởng bảo lãnh, nếu không sẽ bị coi là những người nhập cư bất hợp pháp. Việc thu và nộp thuế cũng phải thông qua bang trưởng. Tuy vậy nhưng người bang trưởng thường không lợi dụng chức vụ để chèn ép hay vơ vét tài sản về cho mình. Các thành viên trong bang hoạt động dựa trên sự tín nhiệm, đưa ra các quyết định để hỗ trợ cho cộng đồng của mình được lớn mạnh hơn. Chính vì vậy, dù việc lớn hay việc nhỏ, rất hiếm khi thấy người Hoa giải quyết các việc nội bộ đưa ra cơ quan luật pháp của chính quyền giải quyết. Trái lại bang như một cơ quan ngôn luận, đưa ra các yêu cầu cho chính quyền thực dân nhằm giảm thuế, phát triển hoạt động kinh tế ở các cơ sở kinh tế của người Hoa,…

Bang Quảng Đông tại Hải Phòng còn là cầu nối tổ chức, liên kết các tổ chức hội trong cộng đồng. Tại Hải Phòng có hai cấu trúc hội đặc trưng là hội than tộc và hội nghề nghiệp. Hội thân tộc là tập hợp những người Hoa có cùng bản ngữ nhưng có chung cùng một dòng họ, liên kết dựa trên yếu tố huyết thống. Các bí quyết làm ăn, các yếu tố gia truyền chỉ được truyền cho những người trong gia đình, đặc biệt là nam giới. Trong đó, người tộc trưởng là người đứng đầu có quyền quyết định việc thờ cúng, giỗ tổ, lễ tết… Các thành viên trong hội thân tộc không phải đóng phí hoạt động của hội mà chủ yếu là sự tự nguyện của mỗi thành viên, gia đình giàu có sẽ đóng kinh phí nhiều hơn. Những kinh phí này được sử dụng trong việc cúng giỗ, tạo vốn hỗ trợ làm ăn cho những thành viên khó khăn. Tuy vậy, một phần nguyên do là cộng đồng người Hoa đến Hải Phòng không lâu, các dòng họ tại đây không nhiều và tính chất về tiềm lực của dòng họ không lớn mạnh bằng các cộng đồng người Hoa khác trên cả nước. Chính vì vậy sự tập hợp về yếu tố huyết thống chỉ mang yếu tố tương đối trong hội thân tộc.

113

Bên cạnh hội thân tộc, hội nghề nghiệp đóng vai trò lớn trong sự phát triển kinh tế, thị trường của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng. Người Hoa sinh sống ở Hải Phòng hoạt động chủ yếu là thương mại, buôn bán. Để có cơ sở liên kết tạo thành các mạng lưới kinh doanh, người Hoa cần có một tổ chức liên kết các thành viên lại với nhau. Trước nhu cầu đó, hội nghề nghiệp được hình thành. Đây là hình thức liên kết của những người có cùng nghề nghiệp với mục đích hỗ trợ mọi thành viên trong hội phát triển kinh tế, giúp đỡ nhau trong mọi khó khăn, hỗ trợ vốn. Hoạt động trong hội được xây dựng dựa trên chữ tín và lòng tin của nhau, đây là nét đặc trưng trong hoạt động kinh tế của cộng đồng người Hoa nói chung. Một số hội nghề nghiệp được hình thành dựa trên hội thân tộc. Từ một số ít người cùng dòng họ tham gia với mục đích liên kết với nhau để hỗ trợ, bảo vệ nhau trong hoạt động kinh

tế, dần dần tổ chức liên kết đã cho phép những người cùng nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt động tham gia.

Những thành viên trong hội phải tuân thủ những quy tắc chặc chẽ của hội, có nghĩa vụ giúp đỡ các thành viên trong hoạt động nghề nghiệp; đưa ra mức giá chung trong buôn bán, không có tỉ lệ chênh lệch cao, không phá giá; phân chia mặt hàng, hình thức buôn bán cho mỗi thành viên; đào tạo nghề cho thế hệ kế cận. Đặc biệt trong hội, các thành viên phải tuyệt đối bảo vệ bí quyết làm ăn, bí mật ngành nghề để cạnh tranh với các lực lượng kinh tế đối lập mà ở đây là các nhà tư sản người Việt, người Âu và đối phó với chính sách kinh tế của kinh quyền sở tại. Ngay cả trong quan hệ chủ tớ, người thợ, người làm thuê cũng luôn trung thành, giữ chữ tín và hầu như không để lộ thông tin, bí quyết hoạt động kinh tế của người chủ. Các thành viên trong hội tham gia tự nguyện, phải đóng kinh phí hoạt động hội. Kinh phí là nguồn vốn để các thành viên trong hội vay vốn làm ăn. Mỗi hội nghề nghiệp đều có một vị tổ nghề riêng của mình và hàng năm tổ chức ngày giỗ vị tổ nghề đó. Đây cũng là buổi họp mặt của các thành viên trong hội nghề nghiệp, trao đổi về hoạt động chuyên môn, đưa ra bí quyết làm ăn, mở rộng hoạt động của hội.

Hoạt động của hội nghề nghiệp khá mạnh mẽ, ảnh hưởng lớn thị trường kinh doanh tại Hải Phòng. Các nhà tư bản người Hoa với việc trường vốn, có thể huy động vốn một cách nhanh chóng của các thành viên đã không ít lần làm cho các nhà tư sản Việt và ngay cả những nhà tư sản phương Tây cũng rơi vào cảnh lao đao. Nhiều nhà tư sản người Việt vì bị chèn ép và không có đủ sức cạnh tranh với tư sản Pháp và Hoa đã dẫn tới tình trạng phá sản; như trường hợp của nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Với những hội nghề nghiệp, người Hoa cũng có thể tạo lên những mạng lưới liên kết kinh tế trong thành phố cũng như tại các tỉnh thành trong cả nước, vươn ra thị trường nước ngoài một cách nhanh chóng.

Có thể nói các tổ chức xã hội trong cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng không chỉ liên kết các thành viên lại với nhau mà còn trở thành một xã hội thu nhỏ với mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Xét về hoạt động tổ chức, các hội mang tính chất tụ cư của người Hoa, thực hiện chức năng tương trợ, giúp đỡ nhau cả về mặt tinh thần và vật chất, điều hòa các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng. Dưới sự hoạt động của các tổ chức xã hội, cộng đồng người Hoa trở lên lớn mạnh hơn, có tiếng nói, vị thế của mình trên mảnh đất mới. Dù trong bất cứ tổ chức nào họ cũng tuân thủ thực hiện và theo sự điều hướng của người đứng đầu, tôn trọng nguyên tắc hoạt động của tổ chức. Tính nguyên tắc trong các tổ chức xã hội của họ là cơ sở và điều kiện cần thiết cho các hình thức liên kết trở nên bền vững.

3.3.3. Các quan hệ xã hội trong và ngoài cộng đồng người Hoa.

114

Quan hệ xã hội là mối quan hệ giữa người với người trong hóa trình hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; thể hiện rõ nét bản chất, kết cấu và quá trình phát triển của mỗi xã hội. Đối với người Hoa, mối quan hệ xã hội có sự đa

dạng và phong phú. Nó được thể hiện qua các quan hệ trong và ngoài cộng đồng người Hoa.

3.3.3.1. Các quan hệ xã hội trong cộng đồng người Hoa.

Quan hệ xã hội trong cộng đồng người Hoa đều dựa trên 3 yếu tố: dựa trên ngôn ngữ, yếu tố huyết thống và sự liên kết của các tổ chức xã hội. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên để xác định được cá nhân nào là thuộc cộng đồng của mình. Người Hoa rất coi trọng ngôn ngữ của mình, ai không nghe, không đọc, không viết được chữ Hán thì không phải là người Hoa. Ngoài ra, mỗi phương ngữ lại có những đặc trưng riêng, tạo nên những cộng đồng nhỏ trong cộng đồng người Hoa như cộng đồng người Quảng Đông, cộng đồng người Phúc Kiến, cộng đồng Quảng Châu hay cộng đồng người Hồng Kông,… Những phương ngữ không chỉ là cách thức truyền đạt thông tin đặc trưng giữa những cá nhân trong cộng đồng mà nó còn thể hiện đặc trưng văn hóa truyền thống.

Ngay từ khi nhỏ, các thành viên mới luôn được ông bà, cha mẹ dạy cho các từ cơ bản nhất của dân tộc mình. Qua đó, trong quá trình lớn lên, trưởng thành, người Hoa luôn ý thức được trách nhiệm của bản thân, ý thức gìn giữ truyền thống mà thế hệ trước truyền đạt. Ngôn ngữ là yếu tố đặc trưng tiêu biểu của mỗi dân tộc, và cũng chỉ có ngôn ngữ mới đủ sức mạnh liên kết các thành viên trong cộng đồng lại với nhau. Trước kia, khi đi vào các khu phố của người Hoa, những người trong cộng đồng sẽ nói chuyện với nhau bằng tiếng Trung Quốc, các biển quảng cáo, các cửa tiệm đều sử dụng chữ Hán. Họ trao đổi với nhau, chia sẻ bí quyết làm ăn với nhau bằng tiếng Hán. Chính vì vậy, phần nào đó bí mật nghề nghiệp, thông tin cộng đồng cũng được bảo vệ kín kẽ, có rất ít người ngoài cộng đồng có thể hiểu được, biết được.

Bên cạnh ngôn ngữ, yếu tố huyết thống cũng đong vai trò quan trọng đối với các mối quan hệ trong cộng đồng người Hoa. Họ đặc biệt coi trọng nguồn gốc của mình, luôn cố gắng hết mình để phát triển dòng họ và cộng đồng của mình. Mối quan hệ giữa các thành viên có cùng huyết thống được xem là mối quan hệ có tính gắn kết cao nhất. Đừng đầu mỗi họ là tộc trưởng, là người có tiếng nói, giữ vai trò định hướng, chỉ đạo mọi hoạt động trong dòng họ. Đây cũng là người đóng vai trò trung tâm trong những mối quan hệ giữa các thành viên. Mọi việc nội bộ giữa các thành viên đều xin ý kiến của người tộc trưởng và được người tộc trưởng giải quyết công bằng.

115

Mối quan hệ huyết thống còn phát triển thành các hội nhóm như hội thân tộc ở phần trên có đề cập. Họ sẽ cùng nhau tạo dựng thương hiệu, tạo dựng uy tín, lưu giữ và truyền dạy những kinh nghiệm, bí quyết nghề nghiệp cho con em mình. Ngoài ra họ còn có tính liên kết của các tổ chức xã hội. Các tổ chức bang, hội trở thành cầu nối liên kết các thành viên không chỉ ở trong nội tộc mà cả những người Hoa khác. Các tổ chức xã hội, đặc biệt là tổ chức bang đã trở thành cầu nối giữa các thành viên với nhau và với chính quyền sở tại. Trong liên kết của các tổ chức xã hội, chữ tín luôn được đặt lên hàng đầu. Các thành viên trong

tổ chức xã hội luôn cố gắng giúp đỡ, hỗ trợ nhau, không gây hấn hay thực hiện các thủ đoạn chia rẽ nội bộ Cũng chính nhờ vào hoạt động đó mà các quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng trở nên gần gũi, mật thiết hơn, khoảng cách giàu nghèo ít bị chi phối, tác động hơn.

3.3.3.2. Các quan hệ ngoài cộng đồng người Hoa.

Khi sinh sống, định cư tại một vùng đất mới, người Hoa sớm hòa nhập, tạo dựng các mối quan hệ với người bản địa và chính quyền sở tại. Thông qua lời kể của những người từng sinh sống, từng tiếp cận cộng đồng người Hoa, mọi nhận định đều cho rằng họ là những người luôn giữ hòa khí, điềm đạm và ứng xử tốt với những người bản địa. Điều này cũng đã được minh chứng trong lịch sử khi họ nhanh chóng dễ dàng hòa nhập với người Việt, người Pháp. Hơn nữa, đối với người Pháp, người Hoa có vai trò cộng sinh đối với họ, là cộng đồng giúp họ dễ dàng khai thác thuộc địa, đem lại nguồn lợi cho họ. Quá trình hòa nhập, tạo dựng các mối quan hệ ngoài cộng đồng của người Hoa diễn ra theo một cách tự nhiên, thuận theo nhu cầu từ hai phía. Trước hết bắt đầu từ nhu cầu.

Người Hoa tới Hải Phòng mang theo cả những phong tục, tập quán, những tri thức dân gian từ dân tộc của họ. Các yếu tố đó cũng tác động tới lối sống, tập tục của người dân bản địa và ngược lại, các yếu tố văn hóa của người bản địa cũng một phần nào đó thay đổi phong tục, tập quán của người Hoa. Sự hội tụ và giao lưu văn hóa Việt – Hoa diễn ra một cách sinh động trên tất cả các mặt của đời sống vật chất và tinh thần. Trong những ngày hội, lễ tết của cộng đồng người Hoa, người bản địa cũng có thể tham dự, có thể vào đền Nhà Bà lễ bái. Bên cạnh đó tại những đền, chùa của người Việt, người Hoa có thể đến cúng bái, lễ Phật. Bên cạnh đó, ở phía bờ nam kênh Bonnal, từ những năm 1900 đã xuất hiện những khu phố có sự sinh sống đan xen giữa người Việt và người Hoa như tại các phố Avenue O’d’Endhal (Cát Dài), Rue Strabourg (Cát Cụt), Boulevard Bonnal (Nguyễn Đức Cảnh)… Người Việt và người Hoa tại các khu phố này sinh sống chan hòa, đoàn kết, cùng nhau làm ăn, sản xuất; cho đến trước năm 1978, mối quan hệ này vẫn được diễn ra.

116

Đối với các chính quyền sở tại, người Hoa luôn có cách để đem lại những gì có lợi nhất cho cộng đồng của mình, tránh gây phiền hà, ảnh hưởng tới chính quyền sở tại; hay nói cách khác họ luôn giữ thái độ mềm mỏng đối với chính quyền. Đối với chính quyền phong kiến, người Hoa ở Hải Phòng được chiêu mộ, được tạo điều kiện cho làm ăn, sinh sống với mục đích là cùng với người bản địa làm đối trọng với người Pháp, người Âu tại vùng đất này. Còn đối với chính quyền thuộc địa, với tiềm năng kinh tế vốn có, người Hoa cũng sớm được chính quyền thực dân chú ý. Sau các Hòa ước Thiên Thân, Hiệp định Thương mại 1886, Hiệp định Nam Kinh, Hòa ước Trùng Khánh, người Hoa được phép cư trú, di chuyển và tham gia mọi hoạt động thương mại tại Việt Nam. Những văn bản đó có chứa đựng các yếu tố có lợi hai bên, tạo mối quan hệ cộng sinh cho hai bên. Trong cộng đồng người Hoa,

mọi việc nội bộ dân sự đều do người Hoa quản lý và giải quyết, chỉ những vụ việc mang yếu tố hình sự hay chính trị thì người Pháp mới can thiệp vào. Tuy nhiên, trong thời kỳ này cũng có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa người Hoa và người Âu trên thương trường tại Hải Phòng. Các nhà tư sản Hoa luôn tìm cách giành lấy thị trường, mua lại các công ty của người Việt, người Pháp,… Ngược lại chính quyền thực dân cũng thường xuyên đưa ra các chính sách để hạn chế sự phát triển, mở rộng thị trường kinh tế tại Hải Phòng. Có thể nói mối quan hệ này là mối quan hệ hai mặt.

Kể từ sau khi chính quyền của ta tiếp quản thành phố năm 1955, kết cấu xã hội của cộng đồng người Hoa cũng đã biến đổi hoàn toàn. Ý thức giai cấp và tinh thần cộng đồng được hình thành, xã hội người Hoa lúc này không còn mang tính khép kín nữa. Các tổ chức kinh tế, xã hội đã thay thế các tổ chức xã hội mang tính chất liên kết cộng đồng đặc trưng của người Hoa dựa trên yếu tố huyết thống, đồng hương hay đồng nghiệp. Thời kì này, người Hoa có hai mối quan hệ khác nhau với hai chính quyền là Việt Nam và Trung Quốc. Lúc ngày người Hoa được hưởng các chính sách, quyền và nghĩa vụ giống như người Việt hoặc có phần được ưu ái hơn, ví dụ như trong trường hợp đi nghĩa vụ quân sự, họ được ưu ái miễn trừ trường hợp họ tự nguyện tham gia. Hoạt động bang hội của người Hoa lúc này tan rã, kinh tế thị trường đặc trưng của người Hoa được thay thế bằng kinh tế tập thể, người Hoa đã được tham gia vào các hợp tác xã, xí nghiệp sản xuất. Quan hệ giữa người Hoa với chính quyền ta lúc này dựa trên hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Tiểu kết chƣơng 3.

Trong quá trình di cư, sinh sống tại Hải Phòng, đời sống văn hóa, xã hội của cộng đồng người Hoa vẫn lưu giữ và phát huy được những giá trị truyền thống. Tuy nhiên những giá trị văn hóa truyền thống đó dần hòa nhập, tiếp biến và giao lưu với văn hóa bản địa, văn hóa Hải Phòng. Từ đó góp phần phát triển văn hóa của vùng đất cảng, tạo nên đặc trưng văn hóa nơi đây.

Những đóng góp, ảnh hưởng của văn hóa Hoa đối với văn hóa bản địa thể hiện khá rõ nét và đa dạng. Khi người Hoa đến Hải Phòng, họ mang theo một nền văn hóa phong phú, đa dạng và đặc sắc trong cả đời sống vật chất đến đời sống tinh thần. Văn hóa ăn mặc, ở, đi lại đến các tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập quán được tạo dựng nổi bật, rõ nét đặc trưng của những khu phố Hoa, phố Tàu. Nó không chỉ diễn ra trong nội bộ cộng đồng người Hoa mà còn ảnh hưởng tới hoạt động đời sống của người Việt và tới hiện tại, một số thành tố văn hóa của họ vẫn còn ảnh hưởng tới người dân đất cảng.

117

Tại những nơi người Hoa sinh sống, có thể nhận biết ngay bởi những công trình kiến trúc, không gian sinh sống của họ mang đậm các yếu tố văn hóa đặc trưng. Đó là các công trình nhà ở, các công trình kiến trúc mang tính chất tín ngưỡng, tính chất công cộng, cộng đồng. Ngoài ra, bước vào khu phố Hoa sẽ thấy ngập tràn các biển quảng cáo

bằng chữ Hán, nghe thấy họ nói chuyện, trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ Trung Hoa. Điều đó thể hiện, đối với người Hoa, việc sử dụng ngôn ngữ bản địa là yếu tố tất yếu, là điều then chốt để lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống của họ được đem từ cố hương đến Hải Phòng và các vùng đất khác họ đặt chân tới. Ngoài ra, trong đời sống văn hóa phần lớn người Hoa chịu ảnh hưởng của Đạo giáo và Khổng giáo. Trong các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, nếp sống, phong tục tập quán truyền thống, văn hóa của cộng đồng người Hoa có những ảnh hưởng sâu sắc, ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi cá nhân.

Văn hóa của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng trong chừng mực nào đó có sự khác biệt với các cộng đồng người Hoa khác tại Việt Nam. Cũng có thể lý giải là do cộng đồng người Hoa đến Hải Phòng muộn, dân số người Hoa đến Hải Phòng có quy mô ít hơn và chiếm đa số là cộng đồng người Hoa gốc Quảng Đông. Chính vì vậy mà một số tính chất đặc trưng trong cộng đồng người Hoa như bang, hội không được phân chia rõ ràng theo các nhóm phương ngữ, cho dù bản chất văn hóa của họ vẫn được lưu giữ theo các phong tục, tập quán khác nhau. Nói theo cách khác, cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng lúc này được gộp lại thành một cộng đồng lớn.

118

Trong quá trình sinh sống, ý thức cộng đồng, ý thức dân tộc của mỗi cá nhân người Hoa luôn được đề cao và được củng cố. Tinh thần đó được kết tinh trong các mối quan hệ trong và ngoài cộng đồng người Hoa như gia đình, họ hàng, đồng hương, đồng nghiệp. Họ lập nên các tổ chức xã hội nhằm giúp đỡ, đùm bọc và hỗ trợ nhau trong những lúc khó khăn trong quá trình hoạt động tại các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Chính các yếu tố văn hóa đó đã giúp cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng tồn tại và phát triển như một mô hình xã hội đặc thù, vừa hòa nhập với các cộng đồng khác, nhưng vẫn giữ được những nét đặc thù riêng có, ưu trội của dân tộc mình.

CHƢƠNG 4: NHỮNG BIẾN ĐỘNG VÀ QUÁ TRÌNH HỒI HƢƠNG

CỦA CỘNG ĐỒNG NGƢỜI HOA CUỐI THẾ KỶ XX

4.1. Những biến cố lịch sử và nguyên nhân.

a. Cuộc di cư vào Nam năm 1954-1955.

Trong lịch sử, thành phố Hải Phòng chứng kiến hai cuộc di cư lớn là cuộc di cư vào miền Nam năm 1954-1955 và cuộc di cư hồi hương của cộng đồng người Hoa từ cuối năm 1978. Hai cuộc di cư này đều là hậu quả của những hoạt động chính trị, chiến tranh trong lịch sử. Đồng thời, cả hai cuộc di cư này đều có số lượng lớn người Hoa tham gia.

Trước hết là cuộc di cư vào miền Nam năm 1954-1955. Đây là một cuộc di cư của gần một triệu người Việt từ miền Bắc đến miền Nam trong những năm 1954- 1955, trong đó có gần 600.000 người Hoa di cư vào Nam [78, 261]. Cuộc di cư này bắt đầu kể từ khi người Pháp thua trận trên chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), đồng thời người Pháp buộc phải kí vào Hiệp định Genève trao trả miền Bắc từ vĩ tuyến 17 cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Hiệp định Genève, các bên phải tập kết đưa lực lượng của mình ra khỏi vùng kiểm soát của đối phương. Trong quá trình tập kết, lực lượng Pháp và tình báo Mĩ ra sức lôi kéo đồng bào ta, chủ yếu là đồng bào Công giáo, những thương nhân, những nhà tư sản,… và trong số đó có số lượng lớn là người Hoa hoặc người gốc Hoa di cư vào Nam. Từ khắp các tỉnh thành ở miền Bắc, dòng người đổ về tập kết tại Hải Phòng, là điểm tập kết cuối cùng của người Pháp rút khỏi miền Bắc Việt Nam bằng đường biển. Tại Hải Phòng, người di cư vào Nam chủ yếu bằng đường biển với biểu tượng là “tàu há mồm” luôn in sâu trong tiềm thức người Hải Phòng; ngoài ra họ còn đi chuyển bằng đường hàng không và đường sắt.

Đa phần những người Hoa di cư vào miền Nam Việt Nam chủ yếu là do lo sợ chính quyền mới sẽ cản trở, ngăn cấm hoạt động buôn bán của họ, hơn nữa giới tư sản không có tình cảm với chính quyền Cộng sản và lo sợ sẽ bị chính quyền ta trả thù. Trên thực tế, sự lo sợ của họ đã bị lực lượng người Pháp và Mĩ thổi phồng lên để lôi kéo họ vào Nam bởi minh chứng trong lịch sử, không có một nạn đói hay một sự trả thù nào nhằm vào đồng bào Công giáo, những nhà tư sản, tiểu tư sản và đặc biệt là đối với cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng cũng như toàn miền Bắc. Một số khác, nhân việc tập kết, nhiều gia đình người Hoa muốn đoàn tụ với nhau, nhiều người Hoa ở miền Bắc có họ hàng ở miền Nam. Cũng có một bộ phận người Hoa không muốn bị ảnh hưởng chính trị tại Việt Nam đã quyết định hồi hương về nước, hoặc sang một quốc gia khác để định cư sinh sống.

119

Trong thời gian này, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra sức tuyên truyền đồng bào ở lại, không nghe theo những lời dụ dỗ, lôi kéo của chính quyền

thực dân Pháp, của các lực lượng phản động. Đã có nhiều người Hoa tin theo lời tuyên truyền của Đảng đã thay đổi ý định, đồng ý ở lại. Khác với chính sách “ép buộc đồng hóa” giống như các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á hay ngay chính chính quyền Sài Gòn, ở miền Bắc người Hoa được hưởng các chính sách, quyền lợi giống như người Việt, không bị ép buộc phải nhập quốc tịch Việt Nam và được hưởng các chính sách đặc cách khác như con em họ không phải tham gia nghĩa vụ quân sự, được học tại các trường riêng của người Hoa,… Trong giai đoạn 1954-1960 họ còn được phép buôn bán, mở cửa hàng, quán ăn nhỏ, mở các xưởng sản xuất, tuy nhiên sau đó, được chính quyền vận động và dựa trên luật pháp được ban hành, hoạt động kinh tế thương mại gần như không phát triển trong cộng đồng người Hoa. Nhiều công nhân, thợ thủ công người Hoa nhanh chóng tham gia các hoạt động kinh tế tập thể, gia nhập vào các hợp tác xã, các xí nghiệp tập thể, hoạt động giống như người Việt. Với bản tính cần cù, sự kéo léo và có những kỹ năng đặc thù, đa phần những công nân người Hoa nắm hầu hết các khâu kỹ thuật. Một số thương nhân người Hoa gặp khó khăn trong hoạt động thương mại do nền kinh tế thị trường bị hạn chế trong thời kỳ này được chính quyền vận động, khuyến khích trở thành chủ thể sản xuất, tập hợp nhau thành lập các hợp tác xã, trong đó kể tới hợp tác xã Thăng Long là nơi sản xuất chi tiết, lắp ráp xe đạp trên phố Lý Thường Kiệt. Những người có chuyên môn cao sẽ được đưa lên làm thợ cả, tổ trưởng hay những người có vị trí lãnh đạo. Người Hoa lúc này đã trở thành những lực lượng lao động quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của thành phố, đồng thời giúp thành phố Hải Phòng trở thành hậu phương vững chắc chi viện cho chiến trường miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

120

Đối với cộng đồng người Hoa di cư vào Nam, theo cụ Lý Xám Muối (người Hoa Phúc Kiến, sinh năm 1929), khi di cư cùng gia đình vào Nam, đa phần cộng đồng người Hoa được phân đi các vùng ngoại ô hoặc các tỉnh cạnh Sài Gòn. Chỉ trừ các trường hợp những người giàu có hoặc có người thân đã sinh sống định cư ở Sài Gòn trước đó thì được phân nhà trong nội đô. Gia đình cụ được phân tại khu vực thôn An Lạc, Bình Chánh, nay là khu vực phường An Lạc, quận Bình Tân. Trước kia khu vực này là ngoại ô của Sài Gòn, tập trung nhiều người Hoa và phần lớn làm nghề thu mua, tái chế phế liệu nên trong người dân thường gọi khu này là bến Ve Chai. Những người theo cùng một tôn giáo, tín ngưỡng cũng như từ các tỉnh thành ở miền Bắc được tách riêng để dễ dàng hơn trong đời sống sinh hoạt và quản lý của chính quyền. Sau họ được cấp đất để định cư, khu định cư bầu ra ban hành chính để làm cầu nối giữa người dân với chính quyền, đồng thời được cung cấp phương tiện nghề nghiệp để làm ăn sinh sống. Tổ chức bang lúc này cũng không còn mà thay thế vào đó là bộ máy hành chính trong các khu định cư. Khu vực người Hoa tập trung sinh sống nhiều nhất tương đương với khu vực các quận 5, quận 10, quận 11, quận 4 ngày nay. Tuy nhiên, trong cộng đồng người Hoa từ Hải Phòng vào định cư sinh sống tại Nam Bộ, có rất nhiều gia đình đã quyết định di cư lần thứ hai từ những

năm 70 của thế XX, cuộc di cư được coi là lớn nhất và cuối cùng của cộng đồng người Hoa tại Việt Nam.

b. Cuộc di cư nửa cuối những năm 70 của thế kỷ XX.

Cuộc di cư thứ hai được coi là cuộc di cư lớn nhất và cuối cùng cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng nói riêng và Việt Nam nói chung diễn ra vào năm 1978, tháng 1 năm 1979. Tuy nhiên từ đầu những năm 1970, trước những bất hòa trong quan hệ ngoại giao hai nước Việt – Trung, đã có một số tàu thuyền của người Hoa đã rời Hải Phòng để trở về Trung Quốc, nhưng đa phần các tàu thuyền đó đi đến nước thứ ba để tìm nơi định cư an toàn hơn. Trên các phương tiện truyền thông phía Trung Quốc thường gọi sự kiện này là “nạn kiều 1978” hay “phong trào bài xích người Hoa”. Tuy nhiên, đa phần là do người Hoa tự nguyện rời đi hoặc do sự lôi kéo, qua những lời đồn thổi và tuyên truyền sai sự thật gây hoang mang trong cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng nói riêng và tại Việt Nam nói chung của chính quyền Trung Quốc.

Quan hệ Việt – Trung bắt đầu căng thẳng kể từ năm 1972, khi tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Richard Nixon có chuyến thăm Trung Quốc. Phía Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi đó như một sự phản bội với hệ thống xã hội chủ nghĩa. Tiếp theo đó là những “xích mích” trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước trong những năm 1974, 1975 và 1976. Năm 1974, Trung Quốc cho quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa lúc này do Việt Nam Cộng Hòa quản lý. Năm 1975, sau chuyến thăm Bắc Kinh của đồng chí Lê Duẩn, trước quan điểm từ chối tham gia vào liên minh chống Liên Xô của Việt Nam, Trung Quốc bắt đầu giảm mức viện trợ như đã ký kết năm 1973 giữa hai nước, đồng thời tuyên truyền Việt Nam là một quốc gia “vô ơn”. Qua các năm, số hàng hóa viện trợ giảm dần và đến năm 1978 thì cắt bỏ hoàn toàn, đồng thời cho rút toàn bộ chuyên gia người Trung Quốc về nước. Trong giai đoạn này đã xuất hiện các tàu vượt biên của người Hoa trên các vùng biển Vịnh Bắc bộ và khu vực Tây Nam Bộ, Nam Bộ của nước ta.

121

Bên cạnh đó, trong những năm 1975-1978, tại khu vực biên giới Tây Nam thường xuyên diễn ra các cuộc xung đột vũ trang giữa hai nước Việt Nam và Campuchia do lực lượng Khmer Đỏ cầm quyền. Quân Khmer Đỏ được sự tăng cường viện trợ quận sự của Trung Quốc, nên thường xuyên quấy nhiễu, đánh chiếm một số vùng, đảo của nước ta. Trước tình hình đó, trong các năm 1977, 1978 và 1979, quân đội ta mở các đợt tấn công lớn tiến sâu vào Campuchia nhằm tiêu diệt hoàn toàn lực lượng Khmer đỏ và giải phóng người dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Tuy vậy, Trung Quốc coi là hành động của Việt Nam là xâm lược Campuchia; và lợi dụng điều đó, ngày 17/2/1979, Trung Quốc bắt đầu cuộc chiến tranh Biên giới Việt – Trung với mục đích là “dạy cho Việt Nam một bài học”. Đây được coi là nguyên nhân chính diễn ra cuộc di cư hồi hương lớn nhất của cộng đồng người Hoa trong lịch sử Việt Nam.

Trong lịch sử cho thấy “phong trào bài xích người Hoa” đã diễn ở một số các quốc gia Đông Nam Á trong giai đoạn những năm 60-70 của thế kỷ XX. Tuy nhiên tùy theo tình hình chính trị, ứng xử của chính quyền và cộng đồng địa phương với người Hoa mà mức độ “bài xích” và quá trình di cư của người Hoa khác nhau. Tại Việt Nam, trên thực tế không có “phong trào bài xích người Hoa” mà đó thay thế vào đó là những biểu hiện xã hội dựa trên tình hình quan hệ ngoại giao hai quốc gia Việt - Trung làm cho người Hoa rời khỏi Việt Nam. Trước hết, từ những năm 1977 đã xuất hiện các tin đồn trong cộng đồng người Hoa rằng Việt Nam sẽ bị Trung Quốc tấn công quân sự và những người Hoa phải hồi cư ngay lập tức nếu không muốn trở thành kẻ phản bội. Đồng thời những viễn cảnh về việc họ sẽ trở về Trung Quốc và từ Trung Quốc có thể đi tới một nước thứ ba như Hồng Kông, Singapore, Mỹ và các nước phương Tây. Những tin đồn này cũng xuất hiện cùng với lúc chính quyền Việt Nam đang thực hiện một cuộc cải cách xã hội, chuyển đổi nền công nghiệp tư bản và thương mại của xã hội cũ, đặc biệt tại miền Nam sau ngày giải phóng. Cuộc cải cách xã hội này đã tác động tới đặc quyền kinh tế và gây áp lực lớn cho không ít thương nhân, những nhà tư bản người Hoa của chế độ cũ. Họ lo sợ sẽ bị đưa đến các khu vực kinh tế mới, nơi không cung cấp đầy đủ điều kiện tối thiểu cho họ định cư và lao động, cho dù nhiều người Hoa sau này nhận định rằng cuộc cải cách xã hội đó không hề có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào đối với họ. Trước những lời đồn, nhiều thương nhân, những nhà tư bản người Hoa chấp nhận thà sinh sống trong xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc tốt hơn là ở Việt Nam nên đã tìm cách mua thuyền để vượt biên.

122

Ngoài ra, vấn đề quốc tịch của người Hoa được chính quyền Việt Nam thay đổi, những người Hoa tại Việt Nam không còn được gọi là Hoa kiều, mà họ buộc phải lựa chọn quốc tịch của mình do lo sợ nếu để họ mang hai quốc tịch thì khó mà có thể kiểm soát được mọi hoạt động của họ. Trong khi đó có rất nhiều người Hoa được hưởng mọi quyền lợi giống như công dân Việt Nam, ngoài trừ việc thực hiện nghĩa vụ quân sự; tuy vậy có rất nhiều người Hoa khăng khăng duy trì quốc tịch Trung Quốc, điều này làm số người bị mất việc làm. Tháng 4 năm 1977, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký một sắc lệnh gồm 15 điều khoảng, định rõ phương thức đối xử với các cư dân nước ngoài, trong đó có cộng đồng người Hoa khi chưa nhập tịch vào Việt Nam. Sắc lệnh đó quy định rằng chính phủ Việt Nam có quyền quyết định nơi cư trú của người dân nước ngoài và phê duyệt tình trạng di rời của họ. Ngoài việc bắt buộc cư dân nước ngoài sở hữu bất động sản cũng như tham gia vào các ngành ngư nghiệp, lâm nghiệp, sửa chữa tô tuyến, lái xe và in ấn là bất hợp pháp. Sau cùng, sắc lệnh bác bỏ quyền bầu cử và ứng cử đối với cư dân nước ngoài [47, 27]. Lúc này cộng đồng người Hoa đối diện với ba lựa chọn: nhập tịch Việt Nam và trong những giới hạn, giữ quốc tịch Trung Quốc và sống trên danh nghĩa là người nước ngoài, cuối cùng là trở về Trung Quốc. Những vấn đề trên đã thôi thúc nhiều người Hoa quyết định lựa chọn di cư hồi hương. Tuy nhiên, trong quá trình

phỏng vấn, phần lớn những người di cư hồi hương hoặc định cư tại nước thứ ba đều nhận định rằng, họ ra đi vì áp lực của chính những tin đồn, gây hoảng loạn nghiêm trọng trong cộng đồng người Hoa và mối quan hệ của họ với người Việt. Họ khẳng định chính chính quyền Việt Nam đã cố gắng chống lại những tin đồn đó, trấn an họ và thuyết phục họ không rời khỏi đất nước.

Thực tế cho thấy, trong giai đoạn quan hệ ngoại giao ngày một xấu đi của hai quốc gia, phía Trung Quốc thường xuyên tuyên truyền, xuyên tạc thực tế lịch sử về người Hoa ở Việt Nam, về chính sách của chính phủ Việt Nam đối với người Hoa. Đồng thời họ lập các tổ chức gọi là “Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”, “Hoa kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh niên chủ nghĩa Mác – Lenin”, “Hội học sinh Hoa kiều yêu nước”, “Mặt trận thống nhất Hoa kiều”… do Bắc Kinh thành lập và chỉ huy, đã hoạt động chống lại các chính sách của Việt Nam, kích động tâm lý huyết thống, quốc tịch, khơi mào lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc [48, 82]. Ngoài ra, một số người Hoa còn kể rằng, họ có thể bắt được các tần số truyền thanh của chính quyền Trung Quốc thông qua đài radio về việc tuyên truyền nhằm kích động quần chúng nhân dân gốc Hoa quay trở về nước. Ngay chính đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội cũng cho phát đi tờ rơi để kích động người Hoa trở về nước. Trước sức ép của dòng người di cư ngày một lớn, chính quyền Việt Nam buộc phải cấp phép cho người Hoa lựa chọn quyền ở lại hoặc ra đi. Những thành phần thân cực đoan, thân Trung Quốc sẽ bị ép buộc hồi hương lập tức vì chính quyền ta cho rằng họ là gián điệp của Trung Quốc được cài cắm tuyên truyền kích động cộng đồng người Hoa. Tại Hải Phòng, chính quyền địa phương thực hiện hai khuynh hướng trái chiều, một là vận đồng người Hoa ở lại, đặc biệt là những gia đình có công với đất nước, có nhân cách và nhân thân tốt, những người lao động, đặc biệt những kỹ sư, công nhân lành nghề, những người làm việc tại các cơ quan hành chính. Mặt khác, cử cán bộ hộ tịch, công an xuống các gia đình người Hoa, tuyên truyền và cho họ lựa chọn quyền ra đi và ở lại. Những người muốn hồi hương thì được điền vào danh sách đăng ký, sau đó chính quyền cung cấp tàu thuyền, phương tiện để trở về, nhưng họ buộc phải cam kết giao tài sản, nhà cửa, đất đai cho chính quyền quản lý. Trước sức ép rất lớn về những thông tin sai sự thật, những dị nghị của người dân địa phương và ngay chính trong cộng đồng người Hoa, rất nhiều gia đình người Hoa chọn cách ra đi hồi hương cho dù họ không muốn.

4.2. Quá trình hồi hƣơng.

123

Cuộc hồi hương của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng nói riêng và cả Việt Nam nói chung tập trung diễn ra trong giai đoạn từ năm 1977 đến cuối năm 1978, trước sự kiện chiến tranh biên giới Việt – Trung diễn ra. Tuy vậy, như trên đã đề cập, quá trình di cư hồi hương của người Hoa xuất hiện từ những năm đầu của thập niên 70; trước những biến cố lịch sử diễn ra trong nước và quốc tế, cũng như mối

quan hệ ngoại giao giữa hai chính quyền Việt Nam-Trung Quốc ngày một trở nên xấu đi.

Làn sóng di cư đầu tiên diễn ra trước năm 1977, chủ yếu là những người Hoa giàu có, có học thức hay những người làm việc trong bộ máy hành chính, tiếp cận được nhiều nguồn thông tin ngoại giao của hai quốc gia. Cũng có không ít người Hoa ra đi không chịu được cuộc sống khó khăn của cơ chế bao cấp xã hội chủ nghĩa; hoặc trong miền Nam, nhiều người Hoa sợ phía chính quyền ta sẽ trả thù, lo ngại hoặc các cuộc cải cách xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa sẽ làm cho cuộc sống của họ trở nên khó khăn hơn. Tuy vậy, các cuộc di cư này thường diễn ra với số lượng ít và có số lượng nhỏ người di cư trên tàu. Họ tự bỏ tiền, bí mật liên hệ với các chủ tàu vượt biên, chủ yếu là các ngư dân ven biển hoặc nhưng ngư dân người Hoa ở các vùng như Cát Bà, Cát Hải, Vạn Hoa, Cẩm Phả,… Họ sẽ cố gắng vượt biển tới vùng biển quốc tế, sau đó di cư tới những nơi có thể tiếp nhận dưới danh nghĩa tị nạn, chủ yếu là Hồng Kông, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Singapore,… Trong quá trình vượt biên, họ gặp không ít nguy hiểm từ yếu tố tự nhiên cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của các đội tuần tra của Hải quân. Nếu họ bị bắt sẽ lập tức đưa trở về đất liền và kết án bỏ tù.

Làn sóng di cư thứ hai là làn sóng di cư lớn nhất, nhanh chóng nhất của cộng đồng người Hoa diễn ra trong giai đoạn từ năm 1977 đến tháng 1 năm 1979. Đa phần cộng đồng người Hoa ở miền Bắc và hơn 1/3 cộng đồng người Hoa ở miền Nam, miền Trung của Việt Nam đã di cư hồi hương hoặc vượt biên để tới một quốc gia khác. Đây là làn sóng di cư chịu sự tác động mạnh mẽ nhất của mối quan hệ Việt – Trung, nhiều người Hoa cho rằng họ bị ngờ vực, dị nghị vì nguồn gốc dân tộc của họ, một số khác lại lo sợ sẽ bị đuổi việc, không có công ăn việc làm. Hơn cả là những hành động tuyên truyền, tung tin đồn sai sự thật nhằm kích động cộng đồng người Hoa trở về nước, với mục tiêu sử dụng người Hoa trở thành lực lượng làm nhiễu loạn hoạt động kinh tế, sản xuất từ bên trong Việt Nam của chính quyền Trung Quốc. Trong tờ truyền đơn được phát đi từ Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội phát đi có nội dung:

1. Toàn thể Hoa kiều tại miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam phải đoàn kết,

nhất trí để đối phó với hoàn cảnh ác liệt.

2. Phải chú ý theo dõi chỉ thị qua Đài phát thanh của Tổ quốc.

3. Hoa kiều về nước thì phải đợi chỉ thị, chờ nhân viên ngoại giao đến có chỉ

thị rõ ràng để lo liệu. Sau đó tuần tự lên tàu về nước.

124

4. Không nghe chính quyền địa phương lừa gạt ghi là người Việt gốc Hoa làm thủ tục xuất cảnh về Trung Quốc. Vì như vậy thì sẽ bị tổn thất nặng nề về động sản và bất động sản của tư nhân. Phải chờ nhân viên ngoại giao của ta chỉ dẫn cách điền vào đơn (hai bên chính phủ đã bàn) để tài sản công tư khỏi bị tổn thất.

5. Đề phòng số phần tử xấu tung tin đồn ly gián làm dao động ý chí của Hoa

kiều.

Chính quyền Việt Nam không có chính sách bắt buộc cộng đồng người Hoa rời khỏi Việt Nam, nhưng đa phần cộng đồng người Hoa ra đi bởi sự hoang mang, mù quáng tin vào những lời đồn thổi, những lời tuyên truyền của chính quyền Trung Quốc. Đồng thời họ lo sợ và có áp lực cao trước những dị nghị của cộng đồng người Việt cũng như trong chính cộng đồng của họ. Những người Hoa nhận thức sâu sắc về căng thẳng chính trị giữa hai nước, bị đặt trong tình huống khó xử, họ chấp nhận rời khỏi Việt Nam thay vì mắc kẹt trong cuộc chiến. Do đó, lý do chính đằng sau cuộc di cư chủ yếu là nỗi sợ chiến tranh giữa hai nước Việt – Trung.

Làn sóng di cư này bắt đầu từ tháng 10 năm 1977, khi chính quyền Việt Nam ban hành các sắc lệnh về người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam, cũng như bắt đầu trục xuất những người Hoa không có quốc tịch Việt Nam thân Trung Quốc, cách chức hoặc đuổi việc những người Hoa làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước nhưng vẫn mang trong mình quốc tịch Trung Quốc, những người có biểu hiện cung cấp thông tin và tuyên truyền những tin đồn. Trong đó có không ít người là đảng viên hay làm một số chức vụ trong bộ máy hành chính nhà nước tại các cấp. Tuy vậy, phải đến đầu tháng 4 năm 1978, một cuộc di cư lớn của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng và trên khắp cả nước mới bắt đầu. Ban đầu cuộc di cư diễn ra ở các cộng đồng người Hoa khu vực có biên giới với Trung Quốc như Lạng Sơn, Quảng Ninh,…, sau đó trực tiếp tác động lớn tới các thành phố có nhiều người Hoa sinh sống như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. Có khoảng 90.000 đến 100.000 người Hoa đã vượt biên hồi cư trong sự kiện này [59, 56]. Đến tháng 5 năm 1978, Trung Quốc lợi dụng việc người Hoa bắt đầu di cư đã tiến hành chấm dứt các khoản viện trợ của mình, rút chuyên gia về nước và tố cáo chính quyền Việt Nam tạo dựng việc tẩy chay, đàn áp và trục xuất người Hoa. Do đó phá vỡ chính sách hữu nghị truyền thống giữa hai quốc gia và ngày 26 tháng 5 tuyên bố gửi 02 tàu để đưa những “cư dân Trung Quốc bị nạn” cập cảng Hải Phòng mà không báo trước gì với chính quyền Việt Nam. Phía Trung Quốc cũng gạt bỏ những lời đề nghị đàm phán về vấn đề người Hoa từ chính quyền Việt Nam, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động quân sự tại các điểm gần biên giới.

125

Ngày 10/6/1978, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị về việc giữ vững và đẩy mạnh sản xuất, khắc phục khó khăn do phía Trung Quốc gây ra. Tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích rộng rãi về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, phê phán luận điệu vu khống, xuyên tạc, đồng thời khuyên mọi người yên tâm làm ăn… Sau khi đã giải thích, người Hoa nào vẫn tự nguyện muốn về Trung Quốc thì phải xin phép chính quyền địa phương. Chính quyền sẽ lập danh sách và tùy tình hình cụ thể tổ chức cho đi một cách trật tự bằng đường bộ, đường xe lửa hoặc đường thủy… Người nào ở lại và giữ quốc tịch Việt Nam sẽ được hưởng mọi quyền

lợi và nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Người nào giữ quốc tịch nước ngoài sẽ được hưởng theo chế độ ngoại kiều.

Động thái Trung Quốc gửi tàu đến đón người Hoa về nước càng thúc đẩy hơn quá trình hồi hương của người Hoa ở Việt Nam. Bà Hoàng Ngọc Giang (64 tuổi) trước khi di cư sinh sống trên đường Cát Dài (nay định cư tại Vương quốc Anh), cho biết: “cuối năm 1977, đầu 1978, khi có nhưng thông tin từ phía Trung Quốc xuất hiện, bà thấy nhiều gia đình người Hoa bắt đầu bán đồ đạc vật dụng trong nhà dọc theo hai bờ sông Lấp (nay là hồ Tam Bạc) để chuẩn bị về nước. Nhiều người tập trung tại các điểm đón người Hoa như đập Tam Kỳ (nay là công viên Tam Bạc), bến Máy Chai, bến Bính,… hoặc tập trung tới ga Hải Phòng để đi ra các tỉnh biên giới về nước”. Lúc này bà làm việc tại hợp tác xã sản xuất bánh kẹo Tân Hiệp (số 49 Nguyễn Đức Cảnh) cũng bị yêu cầu tạm nghỉ việc, do cán bộ hợp tác xã sợ liên đới vì có người Hoa làm việc trong hợp tác xã. Cũng không chỉ bà mà đa số những người Hoa làm việc tại các Hợp tác xã hoặc các cơ quan hành chính nhà nước, trường học, bệnh viện,.. cũng bị yêu cầu tạm nghỉ việc để chờ động thái của người Hoa và phía chính quyền hai nước. Ngoài ra, những người Việt sinh sống xung quanh gia đình bà cũng có những thái độ dị nghị, cảnh giác những người Hoa hoặc gốc Hoa như bà vì có những tin đồn có gián điệp Trung Quốc cài vào. Hoặc áp lực hơn là có nhiều người Hoa bị chửi rủa, bêu xấu, đổ chất thải và sơn vẽ trước của nhà do nhiều người Việt yêu cầu họ về nước. Một số lần cán bộ hộ tịch và công an viên đến nhà bà để trấn an tâm lý, nhưng cũng cung cấp thông tin để gia đình bà đăng ký hồi cư. Đối với những người Hoa ở khu vực miền Nam, cụ Lý Xám Muối kể rằng, ngoài những người đi thuyền vượt biên bằng đường biển, nhiều người Hoa được chính quyền hỗ trợ mua vé tàu đường sắt Thống Nhất, tập trung tại Hà Nội và cùng dòng người di cư đi tới ga Đồng Đăng. Gia đình cụ có hai người em trai đã trở về quê hương theo đường đó.

Những cuộc di cư hồi hương hay sang một quốc gia khác của cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng được thực hiện theo nhiều các thức khác nhau, trong đó tập trung chủ yếu trong 3 cách thức sau: (1) Đi chui, Mua bán và hối lộ; (2) Đăng ký xuất cảnh bán chính thức, (3) Đăng ký xuất cảnh chính thức. Với hai hình thức (1), người Hoa vượt biên tự ý tìm mua hoặc thuê tàu thuyền, chủ yếu là tàu thuyền đánh cá, không có sự giám sát, quản lý của chính quyền địa phương. Ngược lại, hình thức (3) và (4) là hai hình thức xuất cảnh dưới sự giám sát của chính quyền Việt Nam, được chính quyền Việt Nam mua thuyền và hướng di chuyển, người Hoa chỉ việc phải trả chi phí hồi cư. Hai hình thức (3) và (4) chỉ diễn ra trong giai đoạn từ năm 1977 đến tháng 1 năm 1979.

a. Đi chui, mua bán và hối lộ

126

Đây là các phương pháp rời khỏi đất nước nguy hiểm nhất. Trong đó “đi chui” và “mua bán” là những vụ vượt biên được lên kế hoạch và thực hiện bí mật, thông

thường chỉ thông qua người vượt biên và chủ tàu. Các tàu thuyền đánh cá luôn là mục tiêu chính của những người vượt biên. Những người vượt biên ban đầu hầu hết là những người có nắm chức vụ trong bộ máy hành chính, giới trí thức hoặc những người giàu có, họ là những người sớm tiếp cận được thông tin trong mối quan hệ giữa hai quốc gia Việt – Trung. Bên cạnh đó, cuộc sống khó khăn của chế độ bao cấp đã thúc đẩy họ vượt biên. Họ sẽ tìm tới những chủ tàu là người Hoa, thường là những ngư dân người Hoa ở đảo Cát Bà, đảo Vạn Hoa. Người vượt biên và chủ tàu tự định giá và điểm cập bến của họ, chủ yếu là đến các khu vực Bắc Hải (Quảng Tây, Trung Quốc), Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Philippines…. Số tiền để chi trả cho chuyến vượt biên này khá lớn, thường được định giá theo cây vàng. Hành trình vượt biên theo hình thức này rất nguy hiểm, có rủi ro cao không chỉ từ yếu tố tự nhiên mà còn từ yếu tố con người. Trong hành trình vượt biên, nếu một cá nhân hoặc một nhóm bị phát hiện vượt biên cũng như bất kỳ hành động liên quan tới việc vượt biên chắc chắn sẽ bị chính quyền bắt giữ và bỏ tù. Ngoài ra khi đến được điểm họ muốn di cư, họ sống như những người tị nạn lưu vong, không có giấy tờ tùy thân và quyền lợi như những người công dân khác. Hình thức đi chui thường diễn ra trong nửa đầu những năm 1970 và cuộc khủng hoảng tị nạn nay còn được gọi là phong trào “thuyền nhân” những năm 1980.

Ngoài ra “hối lộ” là hình thức vượt biên liên quan đến sự mua bán, hối lộ với quan chức hay các cấp quản lý ở cấp địa phương để rời đi. Cũng giống hình thức đi chui, họ tự tìm kiếm tàu thuyền để vượt biên và trả giá với chủ tàu. Bên cạnh đó họ phải mua chuộc chính quyền cảng hoặc tuần tra hải quân để có thể vượt biên trót lọt ra khỏi vùng kiểm soát. Các khoản thanh toán này sẽ có giá trị cao, hầu hết được thực hiện bằng vàng hoặc ngoại tệ được mua trên thị trường chợ đen. Tùy vào mức độ, số lượng người vượt biên và phưởng tiện đi lại mà các khoản phí của mỗi trường hợp là khác nhau, có trường hợp 2-3 chỉ vàng, có người 1-2 cây vàng. Tình trạng tham nhũng ở cấp địa phương cho phép loại thình này phát triển mạnh. Hối lộ chỉ là sự cho phép hoặc “làm lơ” của một số cơ quan địa phương nơi họ xuất phát cuộc hành trình; khi thoát khỏi địa phương đó, vào vùng biển của tỉnh khác hay trong khu vực tuần tra của lực lượng khác thì không được đảm bảo. Các đội tuần tra hải quân vẫn bắt giữ và giam giữ những người cố gắng trốn thoát. Sau khi bị bỏ tù, người tị nạn sau đó có thể trả một mức giá khác để có thể ra tù. Tuy hình thức này cũng có nhiều rủi ro cao, nhưng nhiều người Hoa ở Hải Phòng ưu tiên lựa chọn hình thức này để vượt biên bởi hình thức này sẽ đảm bảo cho họ an toàn trong lúc khởi hành cũng như giữ được một số lượng tài sản nhất định cho họ trong quá trình vượt biên.

b. Đăng ký xuất cảnh bán chính thức.

127

Trong gian đoạn 1977-1978, do tình hình quan hệ của hai nước Việt – Trung diễn ra căng thẳng, cùng với đó là hình thức tuyên truyền của cả hai chính quyền hai

nước, đã có rất nhiều người Hoa đăng ký để xuất cảnh hồi hương hoặc sang nước thứ ba để định cư. Kiểm soát hoạt động người Hoa di cư khá phức tạp, chính vì vậy phía Việt Nam phải khiên cưỡng tạo điều kiện cho người Hoa hồi cư cho dù không muốn thực hiện điều đó. Có hai hình thức đăng ký để xuất cảnh hồi hương là bán chính thức và chính thức. Hai hình thức này không chỉ giúp người Hoa xuất cảnh hợp pháp mà còn giúp chính quyền Việt Nam thu về một khoản lớn ngân sách và tải sản sung công quỹ từ cộng đồng người Hoa. Hình thức đăng ký xuất cảnh bán chính thức có đặc trưng là sự tham gia giám sát của chính quyền và khoản chi phí lớn để chi trả cho việc xuất cảnh, bù lại được hợp pháp hóa trong quá trình di cư. Khác với hình thức đăng ký xuất cảnh chính thức, bán chính thức chỉ được sự đồng ý của chính quyền Việt Nam, cho phép mua tàu thuyền, phương tiện đi lại để trở về hồi hương hoặc đi sang các nước khác theo diện tị nạn. Các cán bộ hành chính, công an địa phương các cấp sẽ trực tiếp giám sát số lượng người tị nạn, tổ chức cho họ các địa điểm xuất cảnh và điểm đến. Mỗi người Hoa muốn xuất cảnh bắt buộc phải kí cam kết trao trả tài sản, đặc biệt là đất đai, nhà cửa cho chính quyền địa phương và một khoản chi phí để xuất cảnh. Hiện tượng hối lộ cũng diễn ra trong quá trình xuất cảnh này. Nhiều người hối lộ cán bộ địa phương để có thể giữ một số tài sản của mình hoặc có thể được xuất cảnh nhanh hơn.

Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính sẽ ban hành và quản lý các khoản thu của người xuất cảnh. Sau đó, nếu đi bằng đường biển, chính quyền địa phương sẽ tổ chức mua hoặc thuê tàu thuyền với các điều khoản có thể chở một số lượng người nhất định cho chuyến đi. Ban đầu các chuyến di cư sử dụng những chiếc thuyền cỡ trung bình chứa dưới 200 người; tuy nhiên số lượng người đăng ký ngày càng đông khiến chính quyền buộc phải thuê những tàu vận tải cỡ lớn của nước ngoài leo đậu ở cảng Hải Phòng để chở họ. Nhóm người Hoa di cư theo diện này cũng được biết đến nhiều trên các con tàu chở hàng quốc tế như Huey Fong, Skyluck, Hải Hồng, Tung An…, trong các tàu chở theo hàng ngàn người Hoa. Ngoài ra, cũng có nhiều người Hoa lựa chọn đi đường bộ, bằng tàu hỏa hoặc xe ô tô đi lên các tuyến Lạng Sơn hoặc Móng Cái (Quảng Ninh). Lịch trình được thông báo trước để người Hoa hồi hương có thể chuẩn bị kỹ lưỡng, thường là 2 tuần. Khi rời bến sẽ có sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền ta, cùng với đó thông tin của cuộc hành trình cũng được chính quyền Trung Quốc nắm được. Chính nhờ hình thức đăng ký xuất cảnh bán chính thức mà hai nước Việt Nam, Trung Quốc có thể kiểm soát số lượng người di cư và đảm bản cuộc di cư an toàn. Đăng ký xuất cảnh bán chính thức được đại đa số người Hoa lựa chọn và diễn ra ngay cả trong thời gian cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979 bùng nổ.

c. Đăng ký xuất cảnh chính thức.

128

Hình thức xuất cảnh chính thức diễn ra từ tháng 5 năm 1978, Trung Quốc cắt viện trợ và yêu cầu chính quyền Việt Nam mở cửa để cho người Hoa về nước. Nói

cách khác, đăng ký xuất cảnh chính thức là sự chấp thuận giữa hai quốc gia, khác với bán chính thức là được sự cho phép của chính quyền Việt Nam. Đối với người Hoa đăng ký xuất cảnh chính thức, họ được yêu cầu phải khai báo đầy đủ các nhân khẩu sinh sống trong gia đình của họ, kể cả những người mới sinh ra và đã mất cũng như họ hàng liên quan. Cùng với đó, chính quyền địa phương kiểm tra chéo thông tin của gia đình với thông tin được đăng ký trong dữ liệu thông tin của nhà nước. Mỗi người Hoa xin đăng ký phải nộp một khoản chi phí vận chuyển và buộc phải trả lại toàn bộ tài sản có giá trị, đất đai và nhà cửa cho chính quyền địa phương quản lý. Cũng giống như đăng ký xuất cảnh bán chính thức, người Hoa sẽ được lựa chọn hồi hương theo hai đường chính là đường biển với những tàu thép cỡ lớn và đường bộ theo đường Lạng Sơn và Móng Cái. Đối với đường Lạng Sơn họ sẽ đi tàu di chuyển lên ga Hà Nội và từ đó đi tới ga Chi Lăng, di chuyển tới cửa khẩu làm thủ tục sang biên giới và chính quyền Trung Quốc tiếp đón ở đầu bên kia. Đối với đường biển, người Hoa sẽ được tập kết tại các địa điểm định sẵn như Đập Tam Kỳ (ngã ba sông Tam Bạc), bến phà Máy Chai, Đồ Sơn,… Theo lời thuật lại của ông Tiêu Căn Thụy, người thân trong gia đình ông khi đăng ký xuất cảnh hồi hương đã phải nộp 1 chỉ vàng, cũng có người nộp hơn số tiền đó do có con nhỏ đi cùng. Bù lại, khác với đăng ký bán chính thức, những người được đăng ký chính thức có thể được đưa đến Trung Quốc hoặc đến các quốc gia khác trong khu vực. Và khi đến Trung Quốc, họ có quyền ở lại hoặc di cư đến nơi họ mong muốn.

Trong những đợt di cư 1978-1979, có nhiều người Hoa buộc phải đăng ký xuất cảnh chính thức là phương thức xuất cảnh tuyệt đối, có giới hạn nghiêm ngặt đối với từng cá nhân, gia đình người Hoa và được chính quyền giám sát chặt chẽ. Các gia đình người Hoa sẽ được vận động để hồi hương, một số phần tử cực đoan, thân Trung Quốc sẽ bị ép buộc hồi hương lập tức. Tuy nhiên cũng có nhiều gia đình gốc Hoa có người thân có công với đất nước hoặc nhân cách và thân nhân tốt, lao động nghèo sẽ được chính quyền vận động ở lại, tuyên truyền tâm lý để họ an tâm ở lại sinh sống ở Việt Nam. Như trường hợp của gia đình bà Lý Thần Dzịt Zếnh có bố người Hoa là công nhân và là đảng viên của nhà máy đóng tàu sông Cấm, mẹ là người Việt làm việc trong cơ quan hành chính địa phương. Đầu năm 1978 khi có tin đồn người Việt đuổi người Hoa về nước hay còn gọi là “phong trào bài xích người Hoa”, gia đình bà được cán bộ công an phường xuống trấn an, tạo tâm lý ổn định cho gia đình an tâm sinh sống định cư tại Việt Nam. Đối với những người Hoa được vận động ở lại, tài sản của họ không bị tịch thu sung công, cùng với đó họ được tạo điều kiện học tập, làm việc và hưởng quyền lợi giống như người Việt.

129

Hai hình thức đăng ký xuất cảnh bán chính thức và chính thức là hình thức di cư hồi hương an toàn nhất của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng. Nó diễn ra một cách nhanh chóng và trong một khoảng thời gian ngắn. Đây cũng là hai hình thức chính được người Hoa lựa chọn trong đợt di cư lớn nhất của họ rời khỏi Việt Nam trong giai đoạn từ cuối năm 1977 đến đầu năm 1979.

Bản đồ 4.1: Các tuyến đường di cư của người Hoa ở Việt Nam

(nguồn: Daniel Hoover)

130

Tuy vậy cuộc di cư hồi hương của họ diễn ra cũng hết sức phức tạp. giữa tháng 7 năm 1978, bất ngờ phía Trung Quốc tuyên bố đóng cửa biên giới, không đón nhận những người Hoa từ phía Việt Nam. Tháng 8, phía Bắc Kinh bắt đầu yêu cầu Việt Nam đón lại những công dân người Việt Nam, đa số đó là những người Hoa. Tuy vậy, khi rời bỏ Việt Nam, họ đã tự tước đi quốc tịch Việt Nam nên việc trở về Việt Nam không dễ dàng.. Điều đó dẫn tới họ bị mắc kẹt ở khu vực biên giới giữa hai nước. Những người mắc kẹt ở khu vực biên giới phải dựng trại tại đó vài tuần. Họ không thể sang Trung Quốc do chính quyền Bắc Kinh viện dẫn cần phải xem xét quá trình đăng ký để nhập cảnh, sang lọc những người không phải người Hoa, cần loại bỏ những phần tử gián điệp Việt Nam được đưa vào quấy nhiễu bên trong Trung Quốc. Động thái đó khiến cho chính quyền Việt Nam lúc bấy giờ cho rằng đây là hành động thực hiện với mục đích kích động những người di cư, tạo nên những hành động chống phá, quấy nhiễu chính quyền địa phương và người dân. Hai bên mở các cuộc đàm phán về dòng người di cư này nhưng bắt đầu những buổi đàm phán luôn là những lời chỉ trích, tố cáo nhau và sớm hoãn lại mà không có kết quả. Tại hai bên cửa khẩu, chính quyền các bên cho mở loa phóng thanh tuyên bố nhau là kẻ phản bội. Tuy vậy hai bên chính quyền vẫn cung cấp lương thực và thuốc men

cho những người di cư gốc Hoa. Phải đến tháng 9 năm 1978, phía Trung Quốc cho mở cửa biên giới trở lại đến cuối năm 1978. Những người đi chuyển bằng đường biển thì may mắn hơn, những con tàu chở người Hoa hồi hương đi tới vùng biển Bắc Hải (Quảng Đông, Trung Quốc) được chính quyền Trung Quốc cho phép nhập cảnh; một số tàu khác đi tới các đảo Hồng Kông hoặc khu vực một số các nước Đông Nam Á và đưa người vào khu vực tị nạn.

Đối với những người Hoa di cư bằng đường biển, họ gặp nhiều mối nguy hiểm khác trong hải trình. Mỗi chuyến di cư như vậy thường diễn ra khoảng 1-2 tuần sau khi khởi hành. Những người trên thuyền sẽ phải đối mặt với mưa bão, sóng lớn, bệnh tật và đói khát. Không chỉ vậy, nạn cướp bóc, trấn lột hay tranh giành khẩu phần ăn diễn ra thường xuyên trên tàu và ngay cả giữa hai tàu khi gặp nhau trên một vùng biển.

Khi những người Hoa di cư hồi hương được qua cửa khẩu vào đất Trung Quốc, những gia đình được tập hợp lại theo vùng miền quê gốc, sau đó được cung cấp phương tiện đưa trở về các tỉnh. Họ được đưa đến những khu tái định cư, chủ yếu là các nông trường, các trang trại dành cho những người Hoa kiều hồi hương. Theo một số tài liệu của phía Trung Quốc, mạng lưới cơ sở có 84 điểm tái định cư, trong đó có: 23 điểm ở Quảng Đông, 22 điểm ở Quảng Tây, 17 điểm ở Phúc Kiến, 13 điểm ở Vân Nam, 5 điểm ở Hải Nam, 3 điểm ở Giang Tây và 1 điểm ở Cát Lâm. Trong số 84 điểm tái định cư đó, có 43 điểm được mới thành lập hoặc được mở rộng hơn trên cơ sở có trước để đáp ứng số lượng người tái định cư từ Việt Nam trở về [52, 88]. Theo bà Hoàng Bích Chân, là người Việt gốc Hoa định cư tại vương quốc Anh cho biết khi qua cửa biên giới, chính quyền Trung Quốc đối xử với Hoa kiều không có gì phân biệt, được cung cấp đầy đủ quần áo, chăn màn và lương thực. Ngoài ra, chính quyền sẽ cấp khoản tiền tương ứng cho việc trang trải sinh hoạt trong 3 tháng đầu tiên, sau đó giảm 1/3 số tiền đó trong thời gian tiếp theo.

Sau khi ổn định các Hoa kiều tại các khu tái định cư, các nông trường và trang trại, chính quyền Trung Quốc cho tiến hành xây dựng các cơ sở hạ tầng phụ vụ dân sinh. Trong đó họ chú trọng trong việc xây dựng trạm y tế, trường học, các cơ sở đào tạo nghề và kỹ thuật. Các công trình nhà ở dân sinh được nâng cấp, từ những lán trại tạm thời, họ được đưa tới công trình nhà ở mới mà chủ yếu là các dãy nhà tập thể, có diện tích bình quân đầu người khoảng 7-11m2.

131

Khi gia đình bà được xe chở về Quảng Đông, bà được sắp xếp vào các nông trường cùng với những người dân địa phương. Một số người khác có tay nghề thì được đưa vào các nhà máy, xí nghiệp tập thể để sản xuất. Hầu hết không có Hoa kiều nào được đưa vào quân dịch, binh lính để chuẩn bị cho cuộc chiến. Tuy vậy, đa số những người Hoa ở Hải Phòng sinh sống tại khu vực thành thị nên khi đưa về các nông trường, cuộc sống của họ trở nên cơ cực, khó nhọc hơn. Một số gia đình như gia đình bà Chân tìm cách liên lạc với người thân vẫn còn ở Việt Nam lúc này cho

biết chính quyền Việt Nam cho phép người Hoa mua thuyền để di cư. Họ tập trung đổ về khu vực Bắc Hải của tỉnh Quảng Tây vì đây là điểm gần nhất dễ dàng để các tàu thuyền từ Việt Nam di chuyển sang. Đa phần là có sự liên hệ trước đầu mối ở phía Việt Nam và bí mật không cho chính quyền Trung Quốc biết được. Nếu họ bị bắt sẽ đưa vào các trại cải tạo giáo dục nhưng thực chất là hình thức tù giam lỏng. Hải trình của họ hầu hết là đến Hồng Kông, là nơi tiếp nhận nhiều người tị nạn do Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn phối hợp với chính quyền Hồng Kông cho phép xây dựng các trại tị nạn ở đây. Ngoài ra một số người khác lựa chọn đường đến Macao, Đài Loan hoặc Nhật Bản. Những người Hoa đến đây sẽ được đưa đến các trại tập trung, họ sẽ ở lại đó khoảng 1 đến 2 tháng để xác minh lý lịch và nộp hồ sơ đăng ký tới các nước chấp nhận đón người tị nạn.

Từ sau năm 1979, một số lượng người Hoa rời khởi Việt Nam thông qua chương trình Ra đi có trật tự viết tắt là ODP (Orderly Departure Programme) của Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn thành lập. Chương trình này thành lập với mục đích hỗ trợ những dòng người di cư tị nạn, đặc biệt là từ Việt Nam, thành lập hội đồng các nước tiếp nhận người tị nạn, trong đó có Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp, các nước Tây Âu, một số nước khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Với chương trình này, nhiều người Hoa đã được chấp nhận định cư tại nước thứ ba có thể bảo lãnh người thân của mình ở Việt Nam hoặc Trung Quốc sang đoàn tụ. Bà Trần Minh Nguyệt (59 tuổi) là người Việt gốc Hoa đã định cư Vương quốc Anh đoàn tụ với gia đình năm 1990 theo diện này. Trước khi ở Việt Nam, bà công tác tại Hải Phòng (do bố là người Hoa nhưng có công với cách mạng nên được tuyển chọn và công tác trong ngành an ninh). Tuy nhiên, trong quá trình công tác, bà bị chính đồng nghiệp nói về việc gốc gác người Hoa của mình nên bà quyết định rời đi. Bà Nguyệt vượt biên sang Hồng Kông năm 1988, tuy nhiên bà sang sau ngày 16/8/1988, thời điểm mà Hồng Kông coi những tàu thuyền tị nạn vào đây đều là tị nạn kinh tế. Hơn nữa với lí lịch là cán bộ an ninh khi còn ở Việt Nam, bà buộc phải xét duyệt lý lịch gắt gao ở trại tị nạn. Đến đầu năm 1989, bà Nguyệt được chồng mình đã được nhập cư tại Vương quốc Anh.

132

Từ năm 1979 đến trước năm 1986, phòng trào “Thuyền nhân” xuất phát từ Việt Nam đã trở thành một cuộc khủng hoảng người tị nạn không chỉ Việt Nam mà đối với các nước tiếp đón người tị nạn như Hồng Kông và một số nước Đông Nam Á. Tuy vậy người Hoa chỉ lựa chọn Hồng Kông, một số quốc gia Đông Á, Thái Lan làm điểm đến do tâm lý còn sợ phong trào “bài xích người Hoa” diễn ra như tại Indonesia, Malaysia. Tháng 7 năm 1979, tại một hội nghị tại Genève (Thụy Sĩ) do Liên Hợp Quốc tổ chức, trước sức ép của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là từ các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam đã đồng ý hạn chế và kiểm soát chặt chẽ dòng người vượt biên di cư. Đổi lại các nước Đông Nam Á đồng ý kết nạn các “thuyền nhân” tạm thời, đồng thời đảm nhận chi phí chăm sóc sức khỏe và tái định cư tạm thời cho họ.

Ở Hồng Kông, hầu hết các gia đình người Hoa đều được ưu tiên hơn trong giai đoạn này bởi họ được xét duyệt vào diện tị nạn chính trị, không phải những trường hợp tị nạn kinh tế như những người Việt khác. Tại các trại tị nạn, người Việt và người Hoa được sinh sống tác biệt nhau. Do biết được tiếng Hoa và là người gốc Hoa, chính quyền cũng cho phép họ tự do xin việc tại các cơ sở kinh doanh của người Hồng Kông và về trước khi các trại tị nạn đóng cửa. Người Việt chỉ được làm một số việc được chính quyền Hồng Kông cho phép như bồi bàn, phụ bếp, giặt là hoặc trông trẻ. Ngoài ra dưới danh nghĩa là tị nạn chính trị, người Hoa dễ dàng được đăng ký xét duyệt và dễ dàng chấp nhận để dược định cư vào nước thứ ba hơn. Một số khác được chấp nhận nhập tịch và cấp thẻ căn cước là công dân của Hồng Kông. Những người này đa phần là có người thân từng sinh sống ở đó hoặc có nguyên quán là Hồng Kông.

Tuy vậy để sang lọc ra những người tị nạn chính trị, tị nạn sắc tộc tách ra khỏi những người tị nạn vì mục đích kinh tế, đặc biệt trong thời kì phong trào “Thuyền nhân” diễn ra mạnh mẽ, các quốc gia cho phép người tị nạn tạm thời cư trú đã phối hợp với Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn ban hành Chương trình Hành động toàn diện (Comprehensive Plan of Action) vào tháng 3 năm 1989. Qua chương trình này, số người bị thanh lọc do mục đích kinh tế tăng mạnh và chủ yếu là người Việt Nam Tuy vậy cũng có không ít người Việt gốc Hoa cũng bị đưa vào diện này vì lý lịch không rõ ràng. Sau đó họ bị buộc phải trở về Việt Nam và được chính quyền Việt Nam tiếp quản. Các trại tị nạn từ đầu những năm 1990 cũng bắt đầu xóa bỏ do không còn tiếp nhận người di cư mà chỉ xử lý những trường hợp xin nhập cư vào các quốc gia khác.

133

Để được xin nhập cư, người tị nạn phải điền đầy đủ lý lịch bản thân, lý do tị nạn và đăng ký nước mong muốn nhập cư trên danh sách các nước chấp nhận đưa người tị nạn vào nhập cư. Khi hoàn thành bản đăng ký, khoảng 1 tuần sau họ sẽ được mời đi phỏng vấn. Các nước được chọn nhiều nhất là Mỹ, Canada, Thụy Điển, Thụy Sĩ. Đặc biệt Vương quốc Anh là lựa chọn cuối cùng vì chính phủ Anh hầu như chấp nhận tiếp đón người nhập cư vô điều kiện. Nếu các trường hợp phỏng vấn không thành công thì họ có thể đăng ký phỏng vấn ở các quốc gia khác và Vương quốc Anh là cứu cánh cuối cùng của họ. Ông Âu Tùng Hoa (tên thường gọi khi ở Hải Phòng là Trần Văn Ky, 66 tuổi) là người Việt gốc Hoa được cho chính phủ Canada cho phép nhận cư sau khi trải qua cuộc phỏng vấn ở Hồng Kông. Theo ông hồi tưởng lại, quá trình từ lúc đăng ký nhập cư đến lúc được nhập cư diễn ra trong 2 tháng, có nhiều người bạn của ông mất đến 1 hoặc 2 năm mới được nhập cư. Khi sang nhập cư tại Canada, những người Hoa của ông được đưa đến những khu vực ven đô nhưng tập trung tại các thành phố lớn, gia đình ông được đưa đến bang Ontario. Ban đầu chính phủ Canada cung cấp lương thực, nhu yếu phẩm và chỗ ở cho những người nhập cư. Sau khoảng 3 tháng, họ được phép học tập và tìm việc làm trong thành phố. Ông Hoa được

chính phủ cho học tại trường kỹ thuật nghề trong khu vực để được đào tạo tiếng và tay nghề lao động. Đối với ông cuộc sống ban đầu có chút khó khăn với những người Việt gốc Hoa do khí hậu và cuộc sống chưa được ổn định. Tuy vậy được chính phủ hỗ trợ nên họ nhanh chóng thích nghi tại nơi định cư mới.

Tuy nhiên, có nhiều trường hợp là người thân trong một gia đình nhưng họ lại được chấp nhận nhập tịch ở các nước khác nhau. Trường hợp này được dưa trên lý lịch của người đăng ký, mong muốn nhập tịch của người đăng ký, và quá trình phỏng vấn người đăng ký nhập tịch của các nước. Quay lại trường hợp của gia đình bà Trần Minh Nguyệt, gia đình bà có 4 chị em thì có 3 người di cư sau năm 1979, một người chị cả ở lại Việt Nam để chăm sóc bố mẹ. trong đó bà Trần Minh Nguyệt được nhập tịch tại Vương Quốc Anh và bà Trần Minh Phương (55 tuổi, con thứ 3 trong gia đình sau bà Nguyệt) và chồng được nhập cư tại New Zealand; còn gia đình bà Trần Thị Nga (52 tuổi, con út trong gia đình) xin nhập cư tại Đức.

Từ năm 1986, số người Việt gốc Hoa vượt biên di cư ra nước ngoài giảm dần theo từng năm do Việt Nam thay đổi các chính sách mới đối với cộng đồng người Hoa tại Việt Nam, có cái nhìn thiện cảm hơn và đặc biệt là sau khi hai chính quyền Việt – Trung bình thường hóa quan hệ năm 1990 tại Hội nghị Thành Đô. Cũng kể từ sau năm 1986, với chính sách cởi mở, nhiều người Hoa từng tham gia các cuộc di cư trở về lại Việt Nam. Họ cho rằng trở về Việt Nam do chính sách cởi mở của chính quyền Việt Nam lúc bấy giờ, không coi họ là những người ngoại quốc mà đa phần trở về với danh nghĩa là “Việt kiều”. Ngoài ra họ trở về do đã lâu năm sinh sống ở Việt Nam, đã quen việc sinh hoạt theo phong tục tập quán của người Việt; hay trở về vì người thân, bạn bè bằng hữu. Các trường hợp trở về Việt Nam sẽ được làm rõ ở phần sau.

4.3. Sự tác động của cuộc hồi cƣ tới hoạt động kinh tế, đời sống xã hội tại

thành phố Hải Phòng.

Cuộc di cư hồi hương của cộng đồng người Hoa trong giai đoạn từ nửa cuối những năm 1970 đã tác động không nhỏ tới mọi hoạt động kinh tế, đời sống văn hóa xã hội của thành phố Hải Phòng nói riêng và cả nước nói chung. Đây là những tác động lớn gây thiệt hại cho mọi hoạt động kinh tế, sụt giảm dân số và hệ quả kéo dài.

134

Trước hết, cuộc di cư hồi hương của cộng đồng người Hoa đã làm sụt giảm một cách nhanh chóng dân số của thành phố Hải Phòng. Như ở chương 1 có đề cập, trong những năm 1960, tổng dân số người Hoa ở miền Bắc khoảng 175.000 người, trong đó ở Hải Phòng có khoảng 20.000-30.000 người, chiếm 6.3% so với tổng dân số, sinh sống khắp khu vực nông thôn, thành thị và hải đảo. Tuy nhiên đến năm 1979, theo số liệu của Tổng cục Thống kê dựa trên kết quả điều tra dân số lúc bấy giờ, số người Hoa còn lại ở Hải Phòng là 3.618 người, đến năm 1989, số lượng người Hoa giảm còn 2.210. Còn theo số liệu được thu thập được từ kho lưu trữ của Thư viện Hải Phòng, kết quả kiểm tra nhà

của người Hoa bỏ đi ngày 12/9/1978 theo một số khu vực đông người Hoa sinh sống trong thành phố Hải Phòng như sau:

Khu vực Số hộ bỏ đi (hộ)

Tiểu khu Ký Con 125

Phan Bội Châu 146

Đinh Tiên Hoàng 24

Minh Khai 34

Lý Thường Kiệt 139

Hạ Lý 91

Hoàng Văn Thụ 79

Hoàng Diệu 20

Trạng Trình 233

Hoàng Ngân 96

Phạm Bá Trực 13

(Nguồn: Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hải Phòng, phông 3, mục lục 1, hồ sơ 76)

Ngoài ra, tại một số khu vực ở phía Nam sông Lấp, các con phố Cát Dài, Cát Cụt, Nguyễn Đức Cảnh, Tô Hiệu,… đại đa số người Hoa đã bỏ đi di cư hồi hương. Trong hai năm 1978-1979 số lượng người Hoa giảm nhanh đã làm sụt giảm nhanh chóng dân số của Thành phố Hải Phòng. Đồng thời, kéo theo sự sụt giảm của lực lượng lao động mà trong số đó không ít người Hoa là những người thợ, những người công nhân có tay nghề cao. Để khắc phục tình trạng đó, chính quyền Hải Phòng đã cố gắng thuyết phục nhiều người Hoa ở lại, đồng thời cấp đất, nhà ở mà người Hoa bỏ lại cho những người Việt ở nông thôn và các tỉnh thành khác tới sinh sống trong thành phố.

135

Cùng với lượng sụt giảm về dân số, cuộc di cư hồi hương của người Hoa đã làm cho nền kinh tế Hải Phòng rơi vào tình trạng khó khăn. Do thiếu nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động cũng nhưng những người thợ, người công nhân có tay nghề cao mà nhiều nhà máy phải tạm ngừng hoạt động để chờ bổ sung thêm nguồn nhân lực từ vùng nông thôn của thành phố cũng như từ các tình thành khác xung

quanh như tại nhà máy cơ khí An Biên, nhà máy đóng tàu Sông Cấm, nhà máy sắt tráng men nhôm Hải Phòng, Cảng Hải Phòng... Đồng thời, trong hai năm 1977- 1978, chính phủ Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố chấm dứt toàn bộ viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam, triệu hồi tất cả các chuyên gia và cán bộ kỹ thuật Trung Quốc đang công tác ở Việt Nam về nước. Với chính sách đó, một số kỹ thuật và dây chuyền sản xuất của một số nhà máy ở Hải Phòng phải tạm dừng do không có người điều khiển và hỗ trợ. Ngoài ra, để có đủ kinh phí hồi cư và có tài sản mang về, người Hoa ồ ạt bán đi những tài sản có giá trị, đặc biệt là vàng. Việc bán ồ ạt đó đã tạo nên sự lũng đoạn và xáo trộn nền kinh tế của thành phố.

Ngoài ra cuộc di cư của người Hoa và chiến tranh biên giới Việt – Trung đã làm kế hoạch kinh tế 5 năm 1976-1989 gặp nhiều khó khăn. Đó là nguồn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là từ Trung Quốc bị cắt giảm, chi tiêu cho quốc phòng của Việt Nam cũng tăng mạnh do lúc này mặt trận biên giới Tây Nam và mặt trận biên giới Việt – Trung đang diễn ra. Nguồn nhân lực không đủ xây dựng và phát triển các nhà máy sản xuất mới, diện tích canh tác và sản xuất nông nghiệp vẫn trì trệ. Do đó đã tác động lớn tới tình hình lao động sản xuất, phát triển kinh tế của Hải Phòng nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Cuộc di cư này cũng đã làm cộng đồng người Việt có cái nhìn không mấy thiện cảm với cộng đồng người Hoa . Họ bị coi là lực lượng đối nghịch, cần phải cảnh giác. Phong trào bài trừ văn hóa Hoa, xóa bỏ mọi yếu tố liên quan tới Trung Quốc cũng diễn ra. Những trường học dành cho Hoa kiều bị xóa bỏ hoàn toàn; các công trình văn hóa tín ngưỡng – tôn giáo của người Hoa cũng bị đập phá hoặc thay đổi công năng sử dụng như trường hợp Đền Nhà Bà. Các khu phố đặc trưng của người Hoa trong suốt 200 năm bị xóa bỏ hoàn toàn mà giờ chỉ còn lại trong trí nhớ của những người lớn tuổi. Nhiều tài liệu, sách báo viết bằng chữ Hán hoặc có nội dung liên quan tới người Hoa hay Trung Quốc đều bị đốt bỏ. Chính vì vậy nguồn tư liệu hay những thông tin về người Hoa tại Hải Phòng trong giai đoạn từ năm 1954 đến những năm 1970 hầu như là còn rất ít, cho dù cộng đồng người Hoa đã có lịch sử định cư và phát triển mạnh mẽ tại đây. Tất cả còn lại giờ chỉ còn lại là những dấu tích mà ngay cả những người con cháu của họ còn ở lại biết rất ít thông tin về cộng đồng của mình tại thành phố trước kia.

136

Tuy nhiên, đối với những người Việt gốc Hoa ở lại sinh sống ở Hải Phòng được chính quyền và người Việt có cái nhìn bình đẳng, được tạo điều kiện và cơ hội việc làm, được hỗ trợ an sinh xã hội. Như trường hợp gia đình bà Bùi Sùi Hồ (49 tuổi) là người Việt gốc Hoa (Quảng Đông) hiện sinh sống tại ngõ 68 Cát Cụt. Gia đình bà sinh sống ở Hải Phòng được 4 thế hệ, tuy nhiên do những biến đổi của kinh tế xã hội, gia đình bà được chính quyền địa phương đưa vào diện hộ nghèo. Gia đình bà Hồ sau đó được chu cấp tiền hỗ trợ, bảo hiểm xã hội và hỗ trợ đào tạo nghề từ chính quyền địa phương. Đặc biệt, năm 2012, gia đình bà được UBND phường

Cát Dài hỗ trợ xây dựng nhà tình nghĩa. Dường như đối với cộng đồng người Việt gốc Hoa sinh sống tại Hải Phòng đều cảm nhận rằng, không có sự ngăn cách, phân biệt đối xử trong quá trình sinh sống, học tập và làm việc từ chính quyền địa phương và người dân. Ngược lại họ được hưởng mọi quyền lợi, thực hiện nghĩa vụ theo chính sách và pháp luật của Việt Nam, sống bình đẳng giống người Việt. Họ vẫn được làm việc ở các cơ quan chính quyền địa phương như trường hợp của ông Tiêu Căn Thụy (46 tuổi) hiện là Đảng viên và là Chủ tịch Công đoàn tại Liên minh Hợp tác xã và Doanh nghiệp Thành phố Hải Phòng, một số khác làm việc tại các trường hợp, các nhà máy, xí nghiệp hoặc buôn bán tiểu thương. Các thanh niên thế hệ trẻ vẫn được gọi đi thực hiện nghĩa vụ quân sự khi đủ tuổi. Cuộc sống của họ vẫn diễn ra bình thường giống như những người Việt khác.

4.4. Mối quan hệ giữa cộng đồng ngƣời Việt gốc Hoa ở Hải Phòng với

ngƣời thân, gia tộc, họ hàng ở nƣớc ngoài.

Trong giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1986, cầu nối liên lạc giữa những người Hoa di cư trở về nước hoặc định cư ở một quốc gia khác với những người còn lại ở Việt Nam còn hạn chế. Họ chỉ có thể trao đổi với nhau bằng hình thức gửi thư; cũng có một số hoạt động chui, thông qua trung gian để có thể gửi quà hoặc tiền về trợ cấp cho những người ở Việt Nam. Có những trường hợp không hề có thông tin hay tình hình của người thân trong thời gian này. Tuy vậy, kể từ khi chính phủ Việt Nam thực hiện chính sách Đổi mới năm 1986, chính quyền Việt Nam và người dân có cái nhìn thiện cảm hơn đối với những Hoa kiều. Lúc này nhiều người Hoa ở nước ngoài có thể trở về Việt Nam để thăm thân, làm việc, đầu tư kinh tế. Một số khác tìm kiếm và giữ mối liên lạc đối với người thân và bạn bè một cách dễ dàng hơn. Thông qua danh sách được phỏng vấn, với những mục đích khác nhau nhưng hầu hết những người Hoa từng sinh sống ở Hải Phòng hiện nay đang định cư ở nước ngoài đều có nhận định rằng: họ luôn cảm nhận được và có mối liên hệ gắn kết với Việt Nam.

Có một điều đặc biệt về người Hoa từng sinh sống ở Việt Nam rời đi trong những năm 1970 – 1980 đều được gọi là “Hoa kiều”, hay “người Hoa” thì khi trở về Việt Nam, họ được công nhận và được gọi là “Việt kiều”. Thuật ngữ “Hoa kiều” dường như biểu thị sự khác biệt, sự xa cách giữa cộng đồng người Hoa với người Việt thì ngược lại, thuật ngữ “Việt kiều” đã giúp họ được nhận định là một người Việt di cư và cư trú ở nước ngoài, công nhận họ là người Việt Nam. Bất kể nguồn gốc dân tộc của họ, khi trở về họ đều được coi là những Việt kiều.

137

Sự trở lại của người Hoa kiều mà lúc này được gọi là Việt kiều gốc Hoa là nhờ chính sách khuyến khích của chính phủ Việt Nam. Vài thập kỷ trước, người Hoa bị chính quyền Việt Nam coi là một cộng đồng dân tộc “có vấn đề”. Từ những năm 1990, họ được chào đón trở về Việt Nam và trở thành một phần của Việt Nam, trở thành những người trong “đồng bào”. Ngược lại, những người Hoa di cư trước kia

do sinh sống ở Việt Nam lâu năm nên họ mang trong mình bản sắc người Việt, văn hóa Việt hơn là bản sắc Trung Quốc. Ở phần này, để phân biệt những Việt kiều khác, người Hoa hay Hoa kiều sẽ được sử dụng thuật ngữ người Việt gốc Hoa (dành cho người sinh sống ở trong nước) và Việt kiều gốc Hoa (dành cho người định cư ở nước ngoài).

Trong quá trình phỏng vấn 72 trường hợp người Hoa sinh sống ở Hải Phòng có: 4 trường hợp còn giữ liên lạc với người thân ở Trung Quốc, 47 trường hợp Việt kiều gốc Hoa sinh sống ở nước ngoài, 21 trường hợp không có thông tin người thân di cư. Từ đó có thể nhận xét, số trường hợp còn giữ được liên lạc với người thân ở Trung Quốc là khá ít, trong khi đó thông tin liên lạc với những trường hợp cư trú ở nước thứ ba lại đông nhất, trường hợp còn lại không còn giữ được liên hệ với người thân di cư nằm ở mức trung bình. Có thể lý giải hiện tượng này là do, khi những người Việt gốc Hoa di cư sang Trung Quốc, cuộc sống cơ cực đã khiến cho họ buộc phải tiến hành lần di cư tiếp theo để sang nước thứ ba. Chính vì vậy nhiều người Hoa từng sinh sống ở Hải Phòng đã thuê thuyền từ Trung Quốc sang Hồng Kông để được nhập cư theo diện tị nạn chính trị như ở phần trên đã đề cập. Số lượng người Hoa từng ở Hải Phòng sinh sống ở phía Trung Quốc còn khá ít. Tại nước thứ ba mà họ được chấp nhận nhập cư, những Việt kiều gốc Hoa có đủ điều kiện để liên lạc trở lại với người thân ở Việt Nam dễ dàng hơn. Ngoài ra, một số trường hợp Việt kiều Hoa muốn liên lạc trở lại Việt Nam nhưng người thân đã rời đi nơi khác, không còn ở nơi ở cũ nên không còn nắm được thông tin của nhau.

Trước hết là trường hợp còn giữ liên lạc với người thân ở Trung Quốc. Trong 4 trường hợp được phỏng vấn, những người Việt gốc Hoa hiện đang sinh sống ở Hải Phòng đều có mối quan hệ họ hàng, dòng tộc với những người Hoa hiện đang sinh sống tại Quảng Đông, Trung Quốc. Sự liên lạc, trao đổi thông tin giữa họ và thông báo tình hình của nhau diễn ra liên tục. Có những trường hợp trong 1-2 năm liên lạc, hoặc thăm thân 01 lần; nhưng cũng có những trường hợp liên lạc khá thường xuyên, trao đổi thông tin cho nhau tình hình gia đình, họ hàng ở hai bên. Trước năm 1990, các trường hợp này hầu như không biết thông tin, vị trí của người thân của mình sinh sống ở Trung Quốc do chính quyền hai nước còn diễn ra các cuộc xung đột chính trị phức tạp. Chỉ những người Hoa di cư nhớ địa chỉ, địa điểm mình từng sinh sống ở Hải Phòng mới tìm kiếm và kết nối thông tin liên lạc với người thân ở đây.

138

Những người Việt gốc Hoa sinh sống ở Hải Phòng đều ý thức được mình là người Hoa, có quê quán, mồ mả tổ tiên họ hàng, người thân ở phía Trung Quốc, cho dù 4 trường hợp phỏng vấn hiện nay đều không biết đọc và nói tiếng Trung Quốc. Tuy vậy họ luôn ý thức về cội nguồn dân tộc của mình, vẫn tổ chức các ngày giỗ họ, ngày ngày giỗ ông bà tổ tiên. Những gia đình có điều kiện sẽ tổ chức các đợt

sang thăm mộ của người thân, họ hàng tại Trung Quốc. Gia đình cụ La Trung Liệt (sinh năm 1940) là một trường hợp cụ thể.

Những năm 1920, gia đình cụ La Trung Liệt từ vùng Hà Nguyên, Quảng Đông, Trung Quốc đến Hải Phòng lập nghiệp. Gia đình cụ lúc bấy giờ làm nghề buôn bán tiểu thương tại khu vực người Hoa sinh sống. Trong gia đình cụ có 5 anh em và trải qua hai đợt gia đình bị li tán. Đợt thứ nhất, bố và một người anh trai, một người chị gái trở về Quảng Đông năm 1955 và ở lại đó. Đợt thứ hai vào năm 1978, khi vấn đề “nạn kiều” diễn ra, gia đình hai người em của cụ đã trở về quê cũ đoàn tụ với người thân ở Quảng Đông. Lý do cụ ở lại vì còn phần mộ của mẹ ở Hải Phòng, cũng như muốn ở lại Hải Phòng, chờ tình hình hai nước ổn định trở lại có thể đón người thân trở về. Ngoài ra, lý lịch cá nhân của cụ trên giấy tờ không thể quá cảnh sang Trung Quốc nên buộc phải ở lại Hải Phòng. Phải đến cuối năm 1987, cụ mới bắt được thông tin từ người em gái út gửi thư về và từ đó đến nay, vẫn giữ được liên lạc.

Do điều kiện khó khăn, việc sang thăm mộ, thăm dòng tộc ở phía Trung Quốc hầu như ít được thực hiện. Kể từ khi bắt được liên lạc với người thân đến nay, chỉ có 2 lần cụ Liệt sang thăm mộ và người thân, họ hàng bên Trung Quốc. Tuy nhiên mọi hoạt động trong dòng họ, thân tộc cụ ở phía Trung Quốc vẫn đóng góp và thực hiện đầy đủ. Trong các dịp giỗ tổ hay xây dựng mới từ đường của dòng họ bên Trung Quốc cụ vẫn gửi tiền sang đóng góp. Theo lời kể của cụ, mỗi dịp giỗ tổ, cụ gửi sang 20-30 Nhân dân tệ mỗi người (chỉ nam giới đóng) tiền hương hỏa lễ tổ tiên. Ngoài ra, trong đợt xây dựng từ đường, gia đình cụ đóng góp mỗi người 200 Nhân dân tệ. Ngược lại, hằng năm, đặc biệt là dịp giỗ mẹ của cụ, người thân, con cháu ở phía Trung Quốc sang thăm. Ngoài ra họ còn hỗ trợ tài chính, gửi tiền và quà giúp đỡ gia đình cụ.

139

Tuy nhiên, càng về thế hệ sau thì mối liên hệ này trong gia đình cụ Liệt càng giảm dần. Trước hết là do bất đồng ngôn ngữ. Các thế hệ trước có thể hiểu được nhau, có thể nói chuyện với nhau bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Trung một cách dễ dàng. Tuy nhiên, sau một thời gian dài, con cháu của hai bên không được học ngôn ngữ của hai nước nên việc giao tiếp ngày càng trở nên khó khăn hơn. Đồng thời, cùng với xu thế của thời đại, việc các thế hệ sau không biết được người thân tộc của mình luôn diễn ra, chỉ khi có lời giới thiệu mới biết được nhau, nhưng mối thân tộc đó không được bền chặt. Anh La Bảo Long (24 tuổi) là cháu của cụ tâm sự rằng: “hiện nay em chỉ có thể biết được người bà em của ông nội và con của bà do họ thường xuyên sang thăm ông. Tuy nhiên em không hề biết tới những người anh em họ của em ở phía Trung Quốc. Ngoài ra, em chỉ có thể biết được có mộ của cụ nội ở bên Trung Quốc, có họ hàng bên đó nhưng chưa hề được sang đó”. Điều kiện kinh tế cũng là một phần lý do của hiện trạng này. Chi phí để sang thăm người thân khá cao so với mức thu nhập trung bình của những người Việt gốc Hoa, hơn nữa

thủ tục xin visa diện thăm thân ở Trung Quốc cũng khá phức tạp nên tâm lý e ngại xuất hiện trong họ. Hiện trạng này cũng diễn ra ở các trường hợp được phỏng vấn còn lại.

Sang đến nhóm thứ hai, trong danh sách được phỏng vấn, có 48 trường hợp Việt kiều gốc Hoa hiện đang định cư và sinh sống ở nước thứ ba. Hầu hết họ đang định cư ở ở Hồng Kông, Đài Loan và các quốc gia phương Tây như Vương Quốc Anh, Đức, Mỹ, Canada, Australia, New Zealand. Đây là nhóm giữ mối liên hệ tốt nhất đối với những người Việt gốc Hoa và người thân, bạn bè của họ hiện đang sinh sống ở Việt Nam. Trong họ không có tâm lý thù ghét hay căm giận chính quyền Việt Nam vì đa phần họ hiểu được nguyên nhân của họ rời đi. Hơn nữa trong họ luôn mang trong mình “bản sắc Việt Nam” do có một thời gian dài sinh sống ở Hải Phòng, họ luôn ý thức họ là người Hoa nhưng văn hóa của họ luôn có một phần văn hóa Việt. Ngược lại, do có ít thời gian ở lại Trung Quốc, nhiều người Hoa không biết đến dòng họ của mình hoặc có ít tình cảm với ngươi thân ở Trung Quốc. Chính vậy, mỗi dịp có điều kiện để trở về, họ thường nghĩ đến việc trở về Việt Nam hơn là về phía Trung Quốc. Nhiều người nhận định rằng, họ biết mình là những người gốc Hoa, nhưng ý thức và văn hóa của họ là người Việt.

140

Đối với những người Việt kiều gốc Hoa, họ là những người có tiềm lực kinh tế lớn nhất và điều kiện sinh sống thuận lợi hơn do có điều kiện phát triển thuận lợi và ổn định. Cùng với những thực tiễn mở cửa, hội nhập và đổi mới của đất nước, những người Việt kiều gốc Hoa càng có điều kiện thuận lợi hơn để có thể trở về thăm thân hoặc gửi tài sản về cho gia đình và người thân. Ngoài ra, một số cá nhân Việt kiều gốc Hoa khác tìm kiếm cơ hội đầu tư ở trong nước. Từ sau năm 1986, người Việt gốc Hoa sau khi vượt biên và định cư tại các quốc gia khác đã tìm mọi cách liên lạc và giúp người thân còn ở lại trong nước. Họ có nhiều cách để gửi tiền hoặc vật phẩm về nước. Ban đầu họ được phép gửi tiền thông qua hệ thống hỗ trợ của chính quyền Việt Nam để giúp đỡ gia đình, tuy vậy số tiền sẽ bị mất một khoản phí lớn sau đó mới đến tay người thân. Sau đó họ tìm đến các hình thức gửi chui, thông qua những người ở nước ngoài trở về nước. Hoạt động ở phương thức này dựa vào tín nhiệm của người nhận trung gian và các gia đình hầu như nhận được đủ số tiền này. Sau này, hệ thống gửi tiền trung gian đó được chính quyền địa phương cấp phép hoạt động và người gửi mất một khoản phí giống như hệ thống ngân hàng, trong đó có thể kể tới các cửa hàng vàng bạc và ngoại tệ Quang Hạnh (phố Cầu Đất), Nhật Hạ (phố Tôn Đức Thắng) hay Hà Trung (phố Lương Khánh Thiện). Những Việt kiều gốc Hoa ưa chuộng hình thức này hơn do có thể gửi tiền cho người thân nhanh chóng, người nhận cũng có thể dễ dàng nhận tiền mà không cần nhiều thủ tục. Ngoài ra, trong sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước, những Việt kiều có thể chuyển tiền qua hình thức này, nhưng người nhận phải có thẻ trong hệ thống ngân hàng, số tiền gửi bị giới hạn và sẽ có nhiều thủ tục để chuyển và gửi tiền hơn. Số tiền của họ gửi sẽ được những người thân sử dụng vào những mục đích

khác nhau, nhưng chủ yếu là hỗ trợ đời sống vật chất, số khác đầu tư vào kinh doanh nhỏ, và một phần là dành cho hoạt động đời sống tinh thần như cúng giỗ, lễ tết trong họ hàng, dòng tộc còn ở lại Việt Nam.

Những năm 1990, khi hai chính quyền Việt – Trung bình thường hóa quan hệ, nhiều cá nhân, gia đình người Hoa bắt đầu trở về Việt Nam với các mục đích thăm người thân, gia đình và du lịch, nghỉ ngơi. Các dịp họ trở về chủ yếu vào các ngày lễ tết, giỗ chạp trong gia đình, dòng họ vì thời điểm này là lúc họ có thể gặp mặt đầy đủ các thành viên trong gia đình, gặp gỡ bạn bè, bằng hữu của họ mà trước kia họ từng sinh sống cạnh nhau. Bên cạnh đó, họ mong muốn con cháu của họ có thể biết được dòng họ, người thân mình ở đâu, cho những thế hệ trẻ biết được quê quán hay nơi sinh sống của cha mẹ, ông bà trước kia, biết được phong tục tập quán và văn hóa của người Việt. Mối quan hệ giữa những Việt kiều gốc Hoa với những người Việt gốc Hoa hoặc những người Việt có xu thế rất tốt, không có sự cản trở, nghi kị hay tâm lý “bài Hoa” mà trước kia đã từng diễn ra.

Một số ít người Việt gốc Hoa khác quan tâm tới việc làm ăn và đầu tư xây dựng cơ sở kinh doanh ở trong nước, đầu tư vào bất động sản. Phần lớn những Việt kiều gốc Hoa ở Hải Phòng này đầu tư kinh doanh không lớn, vốn đầu tư nhỏ nhưng có thể đem lại nguồn lợi tài chính cho họ và người thân ở Việt Nam sau này. Họ chủ yếu đầu tư để người thân mua đất đai, nhà cửa, để cho thuê hoặc mở cửa hàng nhỏ. Như trường hợp của ông Âu Tài (60 tuổi) là một Việt kiều gốc Hóa đang định cư ở Anh. Gia đình ông đến Anh năm 1983 sau 4 năm ở trại tị nạn Hồng Kông. Năm 2008, ông có chuyến trở về Hải Phòng lần đầu tiên sau gần 30 năm để thăm người thân và bạn bè. Sau chuyến thăm đầu tiên, vợ chồng ông trở về Việt Nam thêm vài lần nữa. Thấy được tiềm năng và được sự gợi ý của gia đình, đến năm 2014, ông quyết định cùng vợ về Hải Phòng đầu tư một nhà hàng trên đường Lê Hồng Phong và nhờ người thân trong gia đình quản lý.

Trong danh sách phỏng vấn những Việt kiều gốc Hoa, có trường hợp của bà Lâm Hoàng Liên (56 tuổi) đã xin quay trở lại về định cư tại Việt Nam. Sau khi được diện nhập tịch tại Đức năm 1989, gia đình bà đến Đức sinh sống trong khoảng thời gian 5 năm nhưng cuộc sống ở Đức khiến bà cảm thấy buồn tẻ và khó khăn, không có người thân ở bên cạnh. Ở Hải Phòng, gia đình bà còn bố mẹ và một người anh trai sinh sống. Chính vì vậy, năm 1994, bà quyết định về Việt Nam, còn chồng bà ở lại Đức một thời gian, sau đó cũng trở về Việt Nam. Theo bà Liên, ban đầu bà đồng ý di cư bởi sợ ảnh hưởng của chiến tranh cũng như mong muốn có một tấm hộ chiếu nước ngoài. Tuy nhiên, ở nước ngoài bà không có người thân, bạn bè và cuộc sống cũng khó khăn không giống như bà nghĩ lúc đầu. Giờ đây bà Liên cảm thấy thoải mái hơn khi sống ở Việt Nam.

141

Bên cạnh đó, trong quá trình phỏng vấn có 21 trường hợp không còn giữ liên lạc với người thân ở nước ngoài hoặc trong nước. Nguyên nhân chủ yếu diễn ra là

do trong thời gian dài, những người ở lại Hải Phòng rời đi tới địa chỉ khác, không còn ở nơi ở cũ nên không còn nắm được thông tin của nhau. Trong khoảng một thời gian dài từ năm 1979 đến năm 1990, điều kiện liên lạc, bắt nối thông tin của người thân cũng khó khăn do hoàn cảnh của lịch sử và điều kiện thông tin ở trong nước còn hạn chế. Ở trường hợp bà Lý Thần Dzịt Zếnh, gia đình bà có tiễn người thân lên tàu để về Hồng Kông tháng 5 năm 1978, tuy nhiên đến nay không nhận được thông tin hồi âm của họ cho dù gia đình bà tìm mọi cách để tìm kiếm. hoặc như ông Âu Tùng Hoa biết rõ có người thân ở đang sinh sống ở phía Trung Quốc, tuy nhiên ông không có thông tin gì về địa chỉ liên lạc hay thông tin của người thân bên đó. Một số trường hợp, có khả năng những người di cư trong một hành trình dài trên biển gặp giông bão, cướp biển hay bị ốm, mắc bệnh mà mất trên hành trình di cư đó.

Tóm lại, những người Việt gốc Hoa hay những Việt kiều gốc Hoa đều mong muốn có một cầu nối, một mối quan hệ bền chặt giữa những những ở trong nước và những người ở nước ngoài. Những Việt kiều gốc Hoa luôn có hoài niệm lớn về Việt Nam, về nơi họ đã từng sinh sống mà ở đây là Hải Phòng. Họ luôn cố gắng tìm mọi cách để trở về, để được thăm những người thân và bạn bè của mình. Còn đối với những người Việt gốc Hoa sinh sống ở trong nước, họ luôn có ý thức về cội nguồn, ý thức được về dân tộc mình và luôn tìm kiếm cầu lối liên lạc giữa những người thân, họ hàng của mình ở Trung Quốc hay ở một quốc gia nào khác.

Tiểu kết chƣơng 4.

Trong lịch sử, người Hoa ở Hải Phòng trải qua hai cuộc di cư lớn là cuộc di cư vào Nam năm 1954-1955 và cuộc di cư nửa cuối những năm 70 của thế kỷ XX. Kể từ khi chính quyền Việt Nam Dân chủ cộng hóa tiếp quản thành phố ngày 13/5/1955, tình hình xã hội có sự xáo trộn đối với cộng đồng người Hoa. Nhiều Hoa kiều đã bị lôi kéo theo các tàu thuyền của Pháp di cư và miền Nam; tuy vậy, cũng có một số lượng lớn người Hoa khác đã tự nguyện ở lại Hải Phòng. Những người ở lại cũng nhanh chóng hòa nhập với xã hội mới, tham gia những hoạt động lao động mới dưới sự dẫn dắt, chỉ đạo của Đảng và chính quyền thành phố. Bên cạnh đó, cuộc đại di cư của người Hoa rời khỏi Việt Nam diễn ra trong các năm 1977, 1978, 1979 đã tác động mạnh tới mọi mặt trong đời sống xã hội ở các thành phố lớn có đông cộng đồng người Hoa sinh sống, trong đó có Hải Phòng. Đây là những tác động lớn gây thiệt hại cho mọi hoạt động kinh tế, sụt giảm dân số và hệ quả kéo dài trong nhiều năm.

142

Nguyên nhân cuộc di cư cuối những năm 1970 chủ yếu là do mối quan hệ ngoại giao hai nước Việt Nam – Trung Quốc ngày càng trở nên xấu đi và cuối cùng diễn ra cuộc xung đột vũ trang tại biên giới hai nước đầu năm 1979. Bên cạnh đó, những sự thay đổi về vấn đề quốc tịch, các cuộc cải cách kinh tế xã hội trong giai đoạn này của chính quyền Việt Nam một phần nào tạo nên tâm lý áp lực các thương

nhân, tư bản người Hoa ở miền Nam cũng như tâm lý e ngại của toàn bộ cộng đồng người Hoa trên khắp cả nước. Tuy nhiên, những người Hoa di cư đa phần khẳng định rằng họ rời Việt Nam là do áp lực từ những tin đồn, những sự lôi kéo và lời tuyên truyền của chính quyền Trung Quốc đã gây loảng loạn nghiêm trọng trong đời sống của họ. Họ khẳng định chỉnh chính quyền Việt Nam đã cố gắng chống lại những tin đồn đó, trấn an và thuyết phục họ không rời khỏi đất nước.

Trước những áp lực quá lớn và những mối lo ngại về một cuộc chiến tranh sắp diễn ra giữa hai nước, làn sóng di cư hồi hương lớn nhất trong lịch sử của người Hoa tại Việt Nam đã diễn ra. bắt đầu từ năm 1977, những chiếc thuyền lớn nhỏ được nhiều người Hoa mua hoặc thuê để có thể vượt biên ra vùng biển quốc tế, tìm đường trở về Trung Quốc hoặc đến một nước thứ ba xin tị nạn. Từ tháng 5 năm 1978, cuộc di cư này đi tới đỉnh điểm khi chính quyền Trung Quốc cắt toàn bộ viện trợ, rút toàn bộ chuyên gia đang làm việc ở Việt Nam về nước và hành động gửi tàu để đưa “những cư dân Trung Quốc bị nạn” cập cảng Hải Phòng mà không thông báo trước với chính quyền Việt Nam. Tại Hải Phòng, người Hoa tập trung tại các khu vực ga Hải Phòng, đập Tam Kỳ, bến Máy Chai, bến Bính,... để trở về nước. Trong các cuộc di cư của cộng đồng người Hoa, có 4 hình thức cơ bản để tiến hành một cuộc di cư là: hình thức đi chui, mua bán và hối lộ, đăng ký xuất cảnh bán chính thức, đăng ký xuất cảnh chính thức. Tùy vào thời gian, mức độ thực hiện cũng như dựa trên các quy định pháp luật của chính quyền hai nước mà phân chia các nhóm di cư tiến hành theo hình thức nào.

Nhưng người Hoa khi sang đến Trung Quốc sẽ được đưa đến những khu vực tập trung Hoa kiều, lập trang trại, đồn điền để họ lao động và sinh sống tại đó. Chính quyền Trung Quốc đối xử khá tốt đối với những Hoa kiều, họ được chính quyền địa phương cung cấp nơi ở, quần áo, vật dụng cá nhân và một khoản chi phí cho cuộc sống. Nhưng đối với nhiều người Hoa, đặc biệt là những người Hoa sinh sống lâu năm trong đô thị như tại Hải Phòng cảm thấy cuộc sống cơ cực hơn so với ở Việt Nam. Họ cũng không thể trở về Việt Nam do lúc này không đủ giấy tờ và quyền hạn công dân Việt Nam như trước. Nhiều người bắt liên lạc với người thân còn ở Việt Nam mua thuyền và di chuyển xuống khu vực Bắc Hải để đón tàu đi đến quốc gia khác xin tị nạn. Tại khu vực tị nạn, họ được đưa vào các trại tị nạn, phân loại và phỏng vấn để được định cư tại một số quốc gia tiếp nhận người tị nạn do Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn phối hợp với chính phủ các nước lập ra. Nhiều người Hoa đã có một cuộc sống mới, phát triển nhanh chóng tại nơi định cư mới.

143

Từ năm 1986, số người Việt gốc Hoa vượt bên di cư ra nước ngoài giảm dần theo từng năm do Việt Nam thay đổi các chính sách mới đối với cộng đồng người Hoa tại Việt Nam, có cái nhìn thiện cảm hơn. Sau khi hai chính quyền Việt – Trung bình thường hóa quan hệ năm 1990 tại Hội nghị Thành Đô và chính sách đổi mới

năm 1986, nhiều người Hoa từng tham gia các cuộc di cư đã trở về lại Việt Nam. Không bị nghi kỵ, xa lánh, họ không còn được gọi là Hoa kiều nữa mà được coi là những Việt kiều gốc Hoa, những người Việt gốc Hoa.

144

Đối với những người Hoa di cư cũng như những người Hoa ở lại Việt Nam, họ luôn mong muốn có mối liên hệ bền chặt với nhau. Việt kiều gốc Hoa luôn có hoài niệm lớn về Việt Nam, về nơi họ đã từng sinh sống mà ở đây là Hải Phòng. Họ luôn cố gắng tìm mọi cách để trở về, để được thăm những người thân và bạn bè của mình. Còn đối với những người Việt gốc Hoa sinh sống ở trong nước, họ luôn có ý thức về cội nguồn, ý thức được về dân tộc mình và luôn tìm kiếm cầu nối liên lạc giữa những người thân, họ hàng của mình ở Trung Quốc hay ở một quốc gia nào khác. Đó là truyền thống đoàn kết, tương trợ lẫn nhau của cộng đồng người Hoa trong lịch sử hình thành và phát triển tại Hải Phòng cũng như tại những nơi có cộng đồng người Hoa sinh sống.

KẾT LUẬN

Hải Phòng là một thành phố thành phố trẻ, nếu so sánh với Hà Nội và Sài Gòn. Tuy vậy quá trình hình thành và phát triển, từ một vùng đất hoang vu, thưa thớt người qua lại, Hải Phòng đã chuyển mình trở thành một thành phố cảng công nghiệp sầm uất, nhộn nhịp nhất miền Bắc. Trong lịch sử, Hải Phòng có một vị trí khá quan trọng trong chiến lược khai thác và xây dựng của người Pháp. Đây là nơi có nhiều tuyến đường thương mại hàng hải qua lại, có đầy đủ cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông để trở thành một điểm đến trên bản đồ thương mại trên thế giới. Từ Hải Phòng có thể đi sâu vào trong nội địa dựa trên hệ thống sông ngòi, có thể kết nối với các thành phố của Trung Quốc, những khu vực giàu tài nguyên.

Cùng với sự hình thành và phát triển của thành phố, Hải Phòng là nơi thu hút nhiều dòng người đổ về tụ cư, lập nghiệp và sinh sống, trong đó có đông đảo cộng đồng người Hoa. Thực thế lịch sử đã minh chứng, người Hoa đến Hải Phòng từ trước thế kỷ XIX, khi họ buôn bán, trao đổi hàng hóa ở cửa Cấm và khu vực bến Ninh Hải. Những người Hoa đến Hải Phòng chủ yếu là từ Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, Hồng Kông, những khu vực có khoảng cách gần với Hải Phòng. Họ di cư vào Hải Phòng vào nhiều thời điểm khác nhau, với những thành phần xã hội đa dạng khác nhau và vì nhiều mục đích khác nhau. Nhưng tựu chung lại, mục đích của họ chủ yếu là rời xa những bất ổn chính trị diễn ra tại Trung Quốc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; cùng với đó là những cơ hội, nguồn lợi về kinh tế, những điều kiện thuận lợi trong chính sách của chính quyền sở tại mang lại cho họ một cuộc sống ổn định hơn.

Người Hoa lựa chọn Hải Phòng làm nơi định cư mới cũng một phần nguyên nhân do ở Việt Nam trước đó đã có một hệ thống mạng lưới liên kết giữa các cộng đồng người Hoa trên khắp cả nước và thế giới. Với vị trí gần biển và dễ dàng đi vào nội địa, Hải Phòng là địa điểm lý tưởng để kết nối với mạng lưới này của cộng đồng người Hoa. Mạng lưới xã hội người Hoa càng phát triển, quá trình di dân càng được duy trì mạnh hơn. Đồng thời văn hóa bản địa ở Hải Phòng nói riêng và tại Việt Nam nói chung phần nào đó có nét tương đồng với văn hóa khu vực Nam Trung Hoa, điều đó đã trở thành một trong yếu tố thúc đẩy người Hoa di cư tới thành phố này.

145

Trong lĩnh vực kinh tế, ở thời điểm nào người Hoa cũng để lại hình ảnh, vai trò và vị trí kinh tế của họ khá nổi bật. Trước năm 1954, người Hoa sinh sống ở Hải Phòng chủ yếu dựa trên hoạt động thương mại - dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Hoạt động kinh tế của người Hoa mang tính chất của kinh tế hàng hóa, hoạt động kinh tế gắn liền với đời sống chính trị - xã hội. Xuất phát từ những thương nhân buôn bán, có vai trò môi giới, trung gian trong giao dịch hàng hóa, những người Hoa tại Hải Phòng đã tiến tới làm chủ các hãng buôn, nhà xưởng, xí nghiệp riêng của hình, tạo tiền đề cạnh tranh với những nhà tư bản người Pháp và người

Việt. Nắm trong tay số vốn lớn cùng sự khôn ngoan trong kinh doanh, các thương nhân Hoa kiều đã nhanh chóng chiếm độc quyền nhiều mặt hang kinh doanh, buôn bán tại Hải Phòng. Họ trở thành những người có thế lực lớn ở Hải Phòng cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Đặc biệt ở nửa cuối thế kỷ XIX, có giai đoạn họ trở thành lực lượng có thể thao túng được thị trường kinh doanh tại thành phố.

Thành công trong lĩnh vực kinh tế của người Hoa dựa trên những thế mạnh trong truyền thống kinh doanh và hệ thống mạng lưới kinh doanh của họ. Đó là cách thức vận dụng các mối quan hệ họ hàng, sự tương đồng về văn hóa, ngôn ngữ để thiết lập hệ thống kinh doanh khép kín. Cùng với đó, trong quá trình khai thác thuộc địa, cộng đồng người Hoa có vai trò “cộng sinh” với chính quyền Pháp, mở rộng hoạt động kinh doanh buôn bán của cộng đồng. Sau này, khi thương nhân người Pháp ngày càng mở rộng thị trường thì thương nhân Trung Hoa và thương nhân người Pháp câu kết với nhau, chèn ép tư sản người Việt.

Tuy vậy, tại một số thời, điểm, để mở đường cho tư bản Pháp phát triển mở rộng trong thị trường kinh tế, chính quyền thuộc địa đã ban hành lĩnh vực kinh doanh độc quyền cho tư bản Pháp, thương nhân Trung Hoa và thương nhân người Pháp vẫn có những bước thủ thế, kìm hãm và cạnh tranh gay gắt với nhau, tạo nên một bức tranh kinh tế đầy biến động, phức tạp. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, do sự tác động của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới, Hoạt động thương mại của người Hoa trở nên khó khăn hơn. Tuy vậy do số vốn lớn, cùng với cách hoạt động khôn khéo trong kinh tế đã giúp họ nhanh chóng vực dậy và duy trì được hệ thống kinh tế của mình. Họ có tiềm lực xây dựng các cơ sở công nghiệp, thương mại hiện đại, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội tại Hải Phòng. Hoạt động kinh tế của cộng đồng người Hoa cũng góp phần tạo lên một thị trường lao động lớn, tạo ra một nguồn lao động dồi dào. Hầu hết các công trình quan trọng được xây dựng trong thành phố đều có sự hiện diện của những công nhân người Hoa. Cùng với sự hình thành và phát triển của thành phố, dù trải qua những lúc thăng, lúc trầm của những biến cố lịch sử, hoạt động kinh tế của cộng đồng người Hoa đã tạo nên những kết quả đáng tự hào mà giá trị của nó đã trở thành nét ấn tượng riêng của cộng đồng người Hoa tại Hải Phòng.

Trong quá trình phát triển kinh tế tại thành phố, cộng đồng người Hoa cũng chú trọng trong việc phát triển đời sống văn hóa – xã hội của cộng đồng, góp phần phát triển đời sống văn hóa chung của toàn thành phố Hải Phòng. Đặc điểm lớn nhất của cộng đồng người Hoa nói chung là truyền thống giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mình, từ văn hóa vật chất đến văn hóa tinh thần. Tuy vậy văn hóa truyền thống đó được cộng đồng người Hoa phát huy trong sự thích nghi với văn hóa bản địa, tiếp biến với văn hóa của thời đại đương thời.

146

Đời sống văn hóa – xã hội của họ phản ánh chân thật bản chất hai mặt tự nhiên trong chính cách của họ: vừa khép kín trong các quan hệ gia đình, thân tộc,

dòng họ hay trong các tổ chức xã hội như bang hội, các hội đoàn; vừa cởi mở, hòa nhập với cộng đồng xã hội địa phương cũng như mối quan hệ với các chính quyền qua các thời kỳ. Họ là cộng đồng vừa kiên trì bảo vệ văn hóa truyền thống Trung Hoa, nhưng có ý thức giao lưu, hội nhập và tiếp thu văn hóa bản địa. Hai mặt này vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất trong đời sống văn hóa – xã hội của cộng đồng người Hoa; khép kín để gìn giữ truyền thống, nhưng vẫn hòa nhập xã hội để làm ăn, giao lưu kinh tế, văn hóa. Trong dòng chảy phát triển mạnh mẽ của đời sống văn hóa, đặc biệt là trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, tiếp xúc văn hóa Việt - Hoa - Pháp có thể coi là chất xúc tác mạnh tạo ra một sự phát triển mới. Những hình thức văn hóa mới được người Hoa tiếp nhận như sự đổi mới trong các mặt của đời sống văn hóa như trang phục, ẩm thực, kiến trúc cũng như tư tưởng của từ giai đoạn của lịch sử.

Trong quá trình phát triển cộng đồng tại thành phố, cộng đồng người Hoa đã xây dựng các sở văn hóa xã hội như trường học, các công trình tôn giáo tín ngưỡng tâm linh, các công trình công cộng nhằm phát huy đời sống văn hóa giàu truyền thống của mình, cũng như là cầu nối giáo dục các thế hệ sau ý thức được các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc mình. Đồng thời cũng xây dựng các cơ sở văn hóa mới như các rạp hát, rạp chiếu bóng, tiệm nhảy… phục vụ đời sống chung của người dân thành phố. Các thành tố văn hóa của cộng đồng người Hoa cũng ăn sâu trong đời sống văn hóa của người dân Hải Phòng mà đến giai đoạn hiện tại, nó đã trở thành một trong những nét đặc trưng, nổi bật của người dân đất cảng.

Trước những tác động của lịch sử, cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng trải qua hai cuộc di cư lớn là cuộc di cư vào Nam năm 1954-1955 và cuộc di cư nửa cuối những năm 70 của thế kỷ XX. Nguyên nhân chủ yếu của hai cuộc di dân này chủ yếu là tác động của chiến tranh, các bất ổn chính trị giữa các nước. Cuộc di cư vào năm 1954-1955 diễn ra do sự lôi kéo của thực dân Pháp và nỗi sợ về cuộc sống khó khăn khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lên nắm quyền. còn cuộc di cư nửa cuối những năm 70 của thế kỷ XX là do sự tác động của những xung đột chính trị và cuối cùng là cuộc chiến tranh giữa hai nước Việt – Trung năm 1979. Trong đó cuộc đại di cư của người Hoa rời khỏi Việt Nam diễn ra trong các năm 1977-1979 đã tác động mạnh tới mọi mặt trong đời sống xã hội ở các thành phố lớn có đông cộng đồng người Hoa sinh sống, trong đó có Hải Phòng.

147

Để được di cư hồi hương, nhiều người Hoa lựa chọn nhiều cách thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, địa vị xã hội và thời gian di cư. Bắt đầu từ năm 1977, những chiếc thuyền lớn nhỏ được nhiều người Hoa mua hoặc thuê để có thể vượt biên ra vùng biển quốc tế, tìm đường trở về Trung Quốc hoặc đến một quốc gia khác xin tị nan. Tại Hải Phòng, người Hoa tập trung tại các khu vực ga Hải Phòng, đập Tam Kỳ, bến Máy Chai, bến Bính,... để trở về nước. Mục đích chính của họ là tìm tới những vùng đất yên bình hơn, có tiền đề cơ hội để họ phát huy thế

mạnh của mình. Và hơn nữa, trong tâm lý người Hoa thực chất họ không muốn rời bỏ Hải Phòng hay Việt Nam, nhưng trước áp lực rất lớn những tin đồn hay những lời tuyên truyền của chính quyền Trung Quốc, lo sợ về sự nghi kị của người Việt đã buộc họ phải rời đi.

Từ năm 1986, số người Việt gốc Hoa vượt biên di cư ra nước ngoài giảm dần theo từng năm do Việt Nam thay đổi các chính sách mới đối với cộng đồng người Hoa tại Việt Nam, tạo cái nhìn thiện cảm hơn. Chính sách đổi mới năm 1986 và hai nước Việt – Trung bình thường hóa quan hệ năm 1990 tại Hội nghị Thành Đô, nhiều người Hoa từng tham gia các cuộc di cư đã quay lại Việt Nam. Không bị nghi kỵ, xa lánh, họ không còn được gọi là Hoa kiều nữa mà được coi là những Việt kiều gốc Hoa. Đối với nhiều người Hoa, Việt Nam đã trở thành quê hương, nguyên quán của họ. Họ luôn có hoài niệm lớn về Việt Nam, về nơi họ đã từng sinh sống mà ở đây là Hải Phòng.

148

Trong những năm gần đây, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã có từng bước tiến dài về quan điểm, chính sách, và các nỗ lực thực hiện quyền lợi dành cho những ngoại kiều, Việt kiều. Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý đối với ngoại kiều, Việt kiều bao gồm nhiều lĩnh vực về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Củng cố và phát triển cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với mục tiêu: Đoàn kết, thành đạt, trở thành cộng đồng mạnh, luôn hướng về quê hương, đất nước là nội dung cơ bản, nhất quán trong Nghị quyết số 27/NQ-CP của Chính phủ về việc Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2016-2020. Quan điểm của Đảng và Chính phủ đã cho thấy những Việt kiều là bộ phận không thể tách rời và là một phần nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đây cũng là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam và các nước. Các chính sách của Đảng và Chính phủ hiện nay đã tạo điều kiện cho kiều bào cảm thấy có trách nhiệm và nghĩa vụ góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt:

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt:

1. Phan An (2005), Người Hoa ở Nam Bộ, NXB Khoa học Xã hội.

2. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa, Huế.

3. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành ủy Hải Phòng (1988), Hải Phòng bước

ngoặt lịch sử đầu thế kỷ XX (Hội thảo khoa học), NXB Hải Phòng, Hải Phòng.

4. Báo Sài Gòn Giải Phóng (17/04/1999), Cộng đồng người Hoa phát triển, hòa

nhập ngày càng ổn định.

5. Võ Thanh Bằng (2008), Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí Minh,

Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

6. Bộ Xây Dựng, Thông tư số 22-BXD/TT ngày 21 tháng 9 năm 1978 về việc Hướng dẫn việc quản lý nhà của người Hoa và người Việt gốc Hoa ở các thành phố, thị xã, thị trấn bỏ đi Trung Quốc.

7. Catxêch(1904), Bờ biển Đông Dương, khảo sát về kinh tế và hàng hải, Paris.

8. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 2), NXB Giáo dục,

Hà Nội.

9. William Dampier (2006), Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688,

NXB Thế giới, Hà Nội.

10. Huỳnh Ngọc Đáng (2018), Chính sách của các vương triều Việt Nam đối với

người Hoa, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

11. Nguyễn Hoàng Giáp (11/1997), Cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á – một

thực thể kinh tế đáng chú ý, Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay.

12. Châu Thị Hải (1989), Tìm hiểu sự hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trong bối cảnh lịch sử Đông Nam Á, Luận văn Tiến sĩ, Đại học Tổng hợp Hà Nội.

13. Châu Thị Hải (1992), Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, NXB

Khoa học Xã hội.

14. Châu Thị Hải (1993), Người Hoa với xu thế liên kết khu vực trong bối cảnh

149

toàn cầu hóa, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 49.

15. Châu Thị Hải (2007), “Vai trò kết nối của người Hoa trong hệ thống thương mại Đông Nam Á thế kỷ XVI-XVII”, Việt Nam trong hệ thống thương mại Châu Á thế kỷ XVI-XVII, NXB Thế giới, Hà Nội.

16. Lâm Hiếu (2007), Đời sống văn hóa của người Hoa ở Sóc Trăng, báo Đại

Đoàn Kết, số 12.

17. Hội đồng Lịch sử thành phố Hải Phòng (1990), Địa chí Hải Phòng.

18. Hội đồng Lịch sử thành phố Hải Phòng (1990), Lược khảo đường phố Hải

Phòng.

19. Hội đồng Lịch sử thành phố Hải Phòng (1996), Hải Phòng – di tích lịch sử văn

hóa.

20. Hội đồng nghiên cứu lịch sử Hải Phòng (1998), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Từ điển Bách khoa địa danh Hải Phòng, NXB Hải Phòng, Hải Phòng.

21. Hội đồng Khoa học lịch sử tỉnh Bình Dương (2010), Người Hoa ở Bình

Dương – Lịch sử và hiện trạng.

22. Nguyễn Văn Huy (1993), Người Hoa tại Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học

Xã hội Việt Nam.

23. Dương Văn Huy (2011), Người Hoa trong xã hội Việt Nam, nửa đầu thế kỷ

XIX, NXB Khoa học Xã hội.

24. Nguyễn Thừa Hỷ, Trịnh Ngọc Viện (1986), Vài nét về sự ra đời của thành

phố Hải Phòng, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử Hải Phòng, số 3.

25. Nguyễn Thừa Hỷ (1994), Sông Đàng Ngoài và Domea – một đô thị cổ đã

biến mất, Tạp chí Xưa và nay, số 4.

26. Nguyễn Thừa Hỷ, Đỗ Bang (2000), Đô thị Việt Nam thời Nguyễn, NXB Thuận

Hóa.

27. Trần Khánh (1997), Bàn về thuật ngữ và khái niệm người Hoa Đông Nam Á,

Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 27.

28. Trần Khánh (2002), Người Hoa trong xã hội Việt Nam: thời Pháp thuộc và

dưới chế độ Sài Gòn, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia.

29. Trần Khánh (2004), Đặc trưng văn hóa kinh doanh của người Hoa, Tạp trí

Nghiên cứu Đông Nam Á, số 67.

30. Trần Khánh (2018), Cộng đồng người Hoa, Hoa kiều ở châu Á. NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

31. Nguyễn Hải Kế, Vũ Thị Minh Nguyệt (2013), Từ hệ thống sông Hồng tới

150

đường sắt Hải Phòng – Vân Nam, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 343.

32. Trần Văn Kiên (2007), Sự hình thành và phát triển của Trung tâm công nghiệp ở Hải Phòng (từ nửa cuối thể kỷ XIX đến năm 1929), tạp chí Nghiên cứu Lích sử, số 4.

33. G.F. Kim, G.I. Chufrin, G.I. Levinson (1986), Nhóm tộc người Trung Quốc ở

Đông Nam Á.

34. A.P. Robert Kirsop (1750), Sam accounts of Cochinchina, Ngô Bắc

dịch,Vương quốc Anh.

35. Trần Kính Hòa (1962), Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và các cổ tích

tại Hội An, Việt Nam Khảo cổ tập san, Sài Gòn.

36. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lê (1999), Đại cương

lịch sử Việt Nam, T.2, NXB Giáo dục.

37. Lưu Thị Liên (2016), Văn hóa của cộng đồng người Hoa ở Bạc Liêu, Luận

văn Thạc sĩ, Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, ĐDHQGHN.

38. Ngô Sỹ Liên (1976), Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB Khoa học Xã hội.

39. Vũ Đường Luân (2010), Sự hình thành của cảng thị ở miền Bắc Việt Nam thời kỳ đầu thuộc địa – Lịch sử Hải Phòng (1802 – 1888), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, ĐHQGHN.

40. Trần Thị Mai (2014), Diện mạo khu phố Hoa ở Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX qua tư liệu địa chính, Luận văn Thạc sĩ, trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN.

41. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, NXB

Thuận Hóa.

42, Đào Trinh Nhất (1924), Thế lực Khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.

43. Phòng Thống kê Tổng hợp – Cục Thống kê Hải Phòng, Niên giám thống kê

thành phố Hải Phòng năm 2016.

44. Phòng Thống kê Tổng hợp – Cục Thống kê Hải Phòng, Tình hình kinh tế - xã

hội thành phố Hải Phòng tháng 6, 6 tháng đầu năm 2019.

35. Nguyễn Thị Hoài Phương (2014), Thành phố Hải Phòng từ 1888-1945, Luận

án Tiến sĩ, trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN.

36. Pièrre Poivre (1744), Memoire touchant la Cochinchine, dẫn theo Nguyễn Quốc Hùng (2004), Phố cổ Hội An và việc giao lưu văn hóa ở Việt Nam, NXB Đà Nẵng.

37. Quận ủy Hồng Bàng (2016), Lịch sử Đảng bộ quận Hồng Bàng, NXB Hải

Phòng.

151

38. Quận ủy Lê Chân (2015), Lịch sử Đảng bộ quận Lê Chân, NXB Hải Phòng.

39. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương

mục, tập 2, NXB Giáo dục.

40. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục,tập 2. NXB Giáo dục.

41. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục,tập 7. NXB Giáo dục.

42. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam thực lục chính biên, tập 31,

NXB Văn hóa- Văn nghệ.

43. Ngô Thì Sĩ (1997), Đại Việt sử ký tiền biên, NXB Khoa học xã hội.

44. Thành ủy Hải Phòng (2016), Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hải Phòng, NXB

Hải Phòng.

45. Nguyễn Cẩm Thúy, Nguyễn Quang Chuyền, Võ Văn Sổ, Cao Tự Thanh (2000), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ: từ thế kỷ XVII đến năm 1945, NXB Khoa học xã hội.

46. Viện Thống kê và khảo cứu kinh tế Việt Nam (Quốc gia Việt Nam) (1952),

Niên giám thống kê (1950-1951), quyển II, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.

47. Xiaorong Han, Đỗ Hải Yến (biên dịch) (2009), Những vị khách được nuông chiều hay những người yêu nước tận tụy? Người Hoa ở Bắc Việt Nam thời kỳ 1954 – 1978, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế.

48. Phạm Xuyên, Đình Lai (1979), Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc

trong 30 năm qua, NXB Sự Thật.

49. Yoshiharu Tsuboi (1999), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa,

Hội Sử học.

Tài liệu nước ngoài:

50. Alfred Cunningham (1903), Người Pháp ở Bắc Kỳ và niềm Nam Trung Quốc, Hà Nội, Trung tâm Lưu trữ quốc gia Pháp.

51. Andre Masson, Hanoï pendant la période héroïque (1873-1888) (tạm dịch: Hà Nội trong thời kỳ anh hùng 1873-1888), 1929, Trung tâm lưu trữ quốc gia Pháp.

52. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières... : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 (1934) , impr. A. Portail (Saigon).

53. Arrêté du 4 avril 1867 du Gouverneur de la Cochinchine portant organisation d’une commission municipale à Saigon, J11, Bulletin officiel de la Cochinchine 1867.

54. Biên bản cuộc học của ban giám đốc cảng Hải Phòng năm 1937, Thư Viện

152

Quốc gia Pháp (gallica.bnf.fr).

55. C. Kergaradec (1880), Rapport sur le commerce du port de Haiphong

pendant l’anneé.

56. Cơ quan kinh tế Đông Dương (1/1932), Bản tin kinh tế Đông Dương, Bài

viết: Cuộc khủng hoảng và tình hình lúa gạo ở Đông Dương, Paris.

57. Cutsorutse (1924), “Cảng Hải Phòng quá nhỏ bé”, Tập san Chấn hưng kinh tế

Đông Dương.

52. Deng Shichao, Huang Lizhen (2010),

Phân tích quá trình tái định cư, sản xuất và đời sống của Hoa kiều Việt Nam tại Trung Quốc (Phân tích quá trình tái định cư, sản xuất và đời sống của Hoa kiều Việt Nam tại Trung Quốc), Tạp chí Economic of Risumeikan, số 58.

53. J.L. De Lanessan (1889), Khảo sát về chính trị, kinh tế và hành chính về Nam

Bộ, Campuchia, Trung Bộ và Bắc Bộ, Paris.

54. Dubley.L. Poston, Juyin Helen Wong (2006), The Chinese diaspora: The current distribution of the overseas Chinese population, Texas A&M university, Hoa Kỳ.

55. Gilles Raffi (1994), Haiphong: Origines, conditions et modalités du dévelopement Jusquén 1921 (Hai Phong: origines, conditions and model development till 1921), PhD Thesis, Universite de Provence, Aix en Provence, France.

56. Gautier (1890), Les Francais au Tonkin 1787, 1886, Paris, Challemel.

57. Henri d’ Orléans (1999), A round Tonkin and Siam: A French Colonist View

of Tonkin, Laos and Siam, White Lotus Press.

58. Hirschman, P. Kasinitz, & J. DeWind (Eds.) (1999), The handbook of

international migration: The American experience.

59. Gareth Porter (1980), Vietnam's Ethnic Chinese and the Sino-Vietnamese,

Bulletin of Concerned Asian Scholars.

60. Ian Rae and Morgen Witzel (2010), The Overseas Chinese of South Eat Asia,

History, Culture, Business.

61. Jean Dupuis (1998), A Journey to Yunnan and the Opening of the Red River

to Trade, White Lotus Press.

62. Julia Martinez (2006), The Chinese Traders in French Indochina: Partners or rivals, 16th Biennial Conference of the Asian Studies Association of Australia in Wollongong 26-29 June.

63. Julia Martinez (2007), “Chinese Rice Trade and Shipping from the North

153

Vietnamese Port of Hải Phòng”, Chinese Southern Diaspora Studies.

64. J.E. Taylor (1986), Differential Migration, Networks, Information and Risk, Research in Human Capital and Development. Vol. 4. Greenwich, CT: JAI Press.

65. Li Tana (1998), chuyên đề: Vietnam, sách The Encyclopedia of the Chinese

Overseas, Trung tâm di sản Trung Hoa, Singapore.

66. Li Tana (2006), “A View from the Sea: Perspectives on the Northern and

Central Vietnamese Coast”, Journal of Southeast Asian Studies.

67. M. Barlatier (1892), Nền thương mại Bắc kỳ với tỉnh Quảng Tây Trung Quốc,

quan sát, nghiên cứu và hồi ký.

68. Nola Cooke, Li Tana, James A Anderson (2011), The Tonkin Gulf through

History, Pennsylvania University Press, Philadelphia, USA.

69. University of California (1980), Indochinese Refugee Education Guides,

USA.

70. P.A.Lapicque (1920), A propos du “port du Tonkin”, Hanoi: Imprimerie

d’Extreme-Orient.

71. Paul Bonnetain (1887), L’Extrême-Orient, Paris

72. Paul Roque, Thư gửi thống sứ Bắc Kỳ Le Gallen, Hải Phòng, 4/12/1915, Thư

viện Quốc gia Pháp (gallica.bnf.fr).

73. Par G. Merlo (1890), “Haiphong, port fluvial et ville industrielle”, Indochine,

Paris.

74. Pierre Brocheux (1976), Crise économique et société en Indochine française,

Paris.

75. Pierre (1979) - Richard Ferey Le Viet Nam au XXe sìecle, Presses Unive

rsitai ré de France, Paris.

76. Phòng Thương mại Hải Phòng (1899), Biên Bản cuộc họp phòng thương mại

Hải Phòng.

77. Phòng Thương mại Hải Phòng, Biên bản cuôc họp Phòng Thương mại Hải

Phòng ngày 02/08/1901, Thư Viện Quốc gia Pháp (gallica.bnf.fr).

78. Robert S. Elegant (1959), The Dragon's Seed: Peking and the Overseas Chinese, New York, USA.

79. Robertson (1876), Visit to Haiphong and Hanoi, in Tonkin, London.

80. .Rogie Darwin (1912), “Sự lầy bùn của cảng Hải Phòng và chế độ lâm nghiệp

ở Bắc Kỳ”, Tập san Kinh tế Đông Dương.

81. Romanet du Caillaud (1880), Histoire de l’intervention francaise au Tonkin

154

de 1872 à 1874, Challamel.

82. Ruriwara Riichio (1974), Chính sách đối với dân Trung Hoa di cư của các triều

địa Việt Nam, Việt Nam Khảo cổ tạp san, số 8.

83. Tạp chí Đông Dương, bài viết: Các hãng thương mại và công nghiệp của người bản xứ tại Bắc Kỳ, tháng 3 năm 1910, tr.213-216, Thư viện Quốc gia Pháp (gallica.bnf.fr).

84. Tạp chí Kinh tế vùng Viễn Đông (09/1927), Người Hoa ở Đông Dương,

Paris, Pháp.

85. Tạp chí Le Colon Francais, Hải Phòng, ngày 12/3/1929.

86. Trung tâm Lưu trữ hải ngoại Pháp, Báo cáo của lãnh sự Pháp tại Hải Phòng

– 28/9/1876, số 13.

87. Viện Khoa học Đông Dương (1923), Bản tin kinh tế Đông Dương, Thư Viện

Quốc gia Pháp (gallica.bnf.fr).

155

88. Wang Gungwu (1958), “The Nanhai Trade: A Study of the Early History of Chinese Trade in the South China Sea”, Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society (31).

PHỤ LỤC

1. Bản đồ Hải Phòng

Bản đồ Hải Phòng 1874 (nguồn: http://gallica.bnf.fr/) Bản đồ Hải Phòng 1885 (nguồn: http://gallica.bnf.fr/)

156

Bản đồ Hải Phòng 1887 (nguồn: http://gallica.bnf.fr/) Bản đồ Hải Phòng 1905 (nguồn: http://gallica.bnf.fr/)

Bản đồ Hải Phòng 1915 (nguồn: http://gallica.bnf.fr/) Bản đồ Hải Phòng 1925 (nguồn: http://gallica.bnf.fr/)

Bản đồ Hải Phòng 1936 (nguồn: http://gallica.bnf.fr/)

157

Bản đồ Hải Phòng 1968 (nguồn: www.flickr.com)

2. Hình ảnh cộng đồng ngƣời Hoa tại thành phố Hải Phòng

Phố Khách - Rue de Commerce – nay là phố Lý thường Kiệt (nguồn: www.flickr.com)

Kiến trúc cộng đồng người Hoa trên phố Tonkinoise (nguồn: https://www.flickr.com/)

Hiệu thuốc bắc Tham Thiên Đường

158

Kiến trúc Á – Âu của của người Hoa trên phố Chinoise (nguồn: https://www.flickr.com/) mang phong cách Á – Âu trên phố Phúc (nguồn: tác giả)

Một công trình của người Hoa

mang phong cách kiến trúc Art decor trên đại lộ Chavassieux (nguồn: tác giả)

Bờ sông Tam Bạc, Hải Phòng (nguồn: www.flickr.com)

159

Phố Khách – Rue Chinoise – nay là một đoạn đường Lý Thường Kiệt (nguồn: www.flickr.com)

Bia thờ Môn thần tại ngõ 34 Nguyễn Đức Cảnh (nguồn: tác giả)

Đền Nhà Bà (nguồn: Bảo tàng Hải Phòng)

160

Đền Nhà Bà (nguồn: https://www.flickr.com/)

Kết cấu vì kèo và chi tiết trang trí trong đền Nhà Bà (nguồn: tác giả) Cột gỗ được đặt trên chân đá tảng (nguồn: tác giả)

161

Bệnh viện y học cổ truyền (nguồn: https://www.flickr.com/)

Hoạt động buôn bán của cộng người Hoa tại Hải Phòng (nguồn: www.flickr.com)

162

Kiến trúc người Hoa tại Hải Phòng (nguồn: www.flickr.com)

Gian hàng kinh doanh của người Hoa trên phố Rue Tonkinoise, nay là phố Phan Bội Châu (nguồn: www.flickr.com)

Tiệm thuốc bắc người Hoa trên phố Rue Bac Ninh, nay là phố Lãn Ông (nguồn: www.flickr.com)

Một gia đình người Hoa tại Hải Phòng thời Pháp thuộc

163

(nguồn: https://www.flickr.com/)

Tiệm chạp phô (nguồn: www.flickr.com)

164

Ảnh 3.17 - 3.18: Đoàn hát người Hoa tại Hải Phòng (nguồn: https://www.flickr.com/)

Một áp phích quảng cáo của người Hoa tại Hải Phòng (nguồn: www.flickr.com)

Khách sạn Chinois trên phố Rue Tonkinoise (nguồn: www.flickr.com)

165

Khách sạn Lục Khải Thông (nguồn: www.flickr.com)

Múa rồng bên bờ sông Tam Bạc (nguồn: www.flickr.com)

Tiệm chạp phô (nguồn: www.flickr.com)

166

Cu li người Hoa (nguồn: www.flickr.com)

Thợ đóng giày người Hoa (nguồn: www.flickr.com)

Trang phục đám cưới của người Hoa Quảng Đông tại Hải Phòng

(nguồn: https://www.flickr.com/)

167

Thầy xem bói người Hoa (nguồn: www.flickr.com)

Một đám tang của người Hoa tại Hải Phòng (nguồn: hinhanhvietnam.com)

168

Đội múa lân của người Hoa (nguồn: https://www.flickr.com/) Đội múa rồng của người Hoa (nguồn: https://www.flickr.com/)

Một bàn thờ của người Hoa (nguồn: www.flickr.com)

Ban thờ nhà cụ Lăm Xám Muối, một người Hoa tại Hải Phòng di cư vào Sài Gòn năm 1955 (nguồn: tác giả)

169

Sợi mì vằn thắn của người Hoa (nguồn: https://zingnews.vn/)

Bánh đúc Tàu (nguồn: tác giả) Chè vừng và Sủi dìn (nguồn: tác giả)

170

Ảnh 3.15: Một phụ nữ người Hoa có đôi chân gót sen (nguồn: https://www.flickr.com/) Ảnh 3.16: Bàn chân bị biến dạng bở tục bó chân gót sen (nguồn: https://www.flickr.com/)

3. Danh sách các doanh nghiệp ngƣời Hoa tại Hải Phòng trong hai năm 1933-1934

Nguồn: Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières... : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 , impr. A. Portail (Saigon), 1934.

Tên Doanh nghiệp Ngành nghề chính Địa chỉ Ngành nghề phân loại

Chan Hing Ghuong dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại Chan King Wo dịch vụ - thương mại Cheong Fat Yuen dịch vụ - thương mại Cheong Wing dịch vụ - thương mại Chuy Chin Hang dịch vụ - thương mại Diep kim ngoc công nghiệp - TTCN Garage Kim Ngoc công nghiệp - TTCN Giặt ủi đông dương dịch vụ - thương mại Hap Shun Sing rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue de Foutcheou Rue de Bacninh Rue de Bacninh Route des Pagodes Rue du Commerce

Hop Tai Long công nghiệp - TTCN

Tạp hóa Hiệu thuốc bắc gạo - lương thực Tạp hóa gạo - lương thực cho thuê xe sửa chữa xe Công nghiệp Tiệm đồ cổ Xây dựng, sản xuất cơ khí, sửa chữa đóng tàu dệt vải Bán trà Shin Ky Kam Tai dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại

Khách sạn Yen Tan dịch vụ - thương mại khách sạn rue Chinoise Rue du Commerce Boulevard Amirus- Courbet

rue Chinoise Chủ thầu, chủ đầu tư, bất động sản dịch vụ - thương mại

đồ trang sức Rue du Commerce dịch vụ - thương mại

công nghiệp - TTCN Xây dựng rue Maréchal-Pétain KONG HING WINH TCHANg KONG-FOG- Cheong Kuong Luong Chuon

Kuong Mao Fong công nghiệp - TTCN rue Chinoise

Kuong Sang Long công nghiệp - TTCN rue de la marine

Kuong Yuen Long công nghiệp - TTCN rue Chinoise chế biến nông sản, thực phẩm xây dựng chế biến thực phẩm, tiệm bánh ngọt

Kwong sun yune dịch vụ - thương mại tàu thuyền hàng hải rue Maréchal-Pétain

Kwong Wo Hing Lam Tag Lam vo dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại công nghiệp - TTCN gạo - lương thực gạo - lương thực thợ may rue Chinoise rue Maréchal-Pétain Amirus-Courbet

Lapigque dịch vụ - thương mại tàu thuyền hàng hải rue Maréchal-Pétain

171

Leo Seao Lim Magga công nghiệp - TTCN dịch vụ - thương mại sửa chữa cơ khí Xuất nhập khẩu Bonnal Rue du Commerce

Loi Long dịch vụ - thương mại Cho thuê xe Paul Doumer

Ngân hàng Đông Á dịch vụ - thương mại tài chính ngân hàng rue Chinoise

dịch vụ - thương mại tài chính ngân hàng

rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise Paul Bert rue Chinoise Rue du Commerce rue Maréchal-Pétain Rue du Commerce Ngân hàng Pháp Hoa Soi Ting Tac Fong Tac Seng Tai Tai Fat Tai Ly Tanh Oat Lay Tchan Cheong Tchan Seng dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại

Bonnal Tchien Hong dịch vụ - thương mại Tạp hóa gạo - lương thực cửa hàng kim khí Tạp hóa cửa hàng kim khí Tạp hóa Đại lý âm thanh Tạp hóa Thực phẩm, dịch vụ, tạp hóa

Thong Fat dịch vụ - thương mại Tạp hóa

Rond-point de France Rue du Commerce rue Chinoise rue Chinoise dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại Tạp hóa Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc

dịch vụ - thương mại bán vải rue Chinoise Vinh Hing Long Ly Wo Cheong Ly Sang Cheong MAHARIBATCHA Lucien

Mane Seng công nghiệp - TTCN rue Formose

Min on Cheong công nghiệp - TTCN rue Chinoise

My Chan Cheong Nam Lou dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại rue Maréchal-Pétain avenue Oden Dahl

Pannier & Cie dịch vụ - thương mại rue Chinoise

công nghiệp - TTCN rue Chinoise

Pao Wa Hing (đồ hộp nông sản) Pao Wing PaPou P. S Foc Lai Photo công nghiệp - TTCN dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại rue Maréchal-Pétain Paul Doumer Bonnal

Sane Cheong Long công nghiệp - TTCN rue Chinoise

dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại công nghiệp - TTCN lò giết mổ, chế biến thịt chế biến nông sản, thực phẩm tạp hóa gạo - lương thực tầu buôn tuyến Hải Phòng - Hongkong chế biến nông sản, thực phẩm nhà máy xà phòng Tiệm cầm đồ Hiệu ảnh Sản xuất nước có ga cửa hàng kim khí Hiệu thuốc bắc mạ thiếc rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise

dịch vụ - thương mại Xuất nhập khẩu rue Chinoise

công nghiệp - TTCN Xay sát gạo rue Chinoise

172

dịch vụ - thương mại cửa hàng kim khí Rue du Commerce Seng Fat Seng Ly Cheong Shun Long Shun Tai (xuất khẩu gạo) Shun Tai (xay sát gạo) Shun tcheong long

siou cheong Tac Fong dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại Xuất nhập khẩu gạo - lương thực rue Chinoise rue Chinoise

Tac Seng Tai dịch vụ - thương mại Tạp hóa rue Chinoise

Tạp hóa cửa hàng kim khí Xay sát gạo Xay sát gạo

Tai Fat Tai Ly tchong Yane Tchung Kai Poui Thi Hon Ku Thin Zil dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN dịch vụ - thương mại đồ gỗ, đồ gia dụng dịch vụ - thương mại

Thong Fat dịch vụ - thương mại

thong foc tai dịch vụ - thương mại Paul Bert rue Chinoise rue Maréchal-Pétain rue Chinoise rue Joffre Chavassieux Boulevard Amirus- de-Beaumonh rue Chinoise

Thong yi Fai công nghiệp - TTCN rue Chinoise

Tinh Ky công nghiệp - TTCN Paul Doumer

Tong Long công nghiệp - TTCN rue Maréchal-Pétain

Tong Nam Ly Trung Hong Do dịch vụ - thương mại công nghiệp - TTCN khách sạn Chủ thầu, chủ đầu tư, bất động sản Tạp hóa Sản xuất gốm sứ, xuất nhập khẩu gốm sứ mạ thiếc sản xuất đồ gỗ, sơn vesni, sơn Xuất nhập khẩu Xay sát gạo rue Maréchal-Pétain Rue Focchow

công nghiệp - TTCN sản xuất đường mật rue Chinoise Tsoi Fat

Vong Hao dịch vụ - thương mại Chavassieux

Wa Hing Cheong công nghiệp - TTCN Rue du Commerce

Wah Yang Wing Long công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN Rue du Commerce rue Chinoise

winh Ky công nghiệp - TTCN rue Chinoise

Wing Mao dịch vụ - thương mại rue Chinoise

Wing Sang Long Wing Tai Woui Long Yi Hop Wing Yiou Ky Yuen Tai Ling Yu Yi Lao Zai Ky Hong Yi Hing Hong Tai Shun Luong Tchong Nang dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại công nghiệp - TTCN dịch vụ - thương mại công nghiệp - TTCN dịch vụ - thương mại khách sạn sản xuất bột, chế biến nông sản xưởng in ấn xưởng rèn lò giết mổ, chế biến thịt nhập khẩu trà Trung Quốc Hiệu thuốc bắc Tạp hóa xưởng rèn dệt vải Tạp hóa tiệm ăn uống nhà hàng dệt vải gạo - lương thực sản xuất giày vải đại lý bảo hiểm rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise Paul Bert rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise

173

Mock Chan Sui công nghiệp - TTCN sản xuất đồ nội thất Marechal Foch

Loc Soui & Cie dịch vụ - thương mại rue Chinoise

Kong Chu Yam dịch vụ - thương mại rue Chinoise

Tai Fong dịch vụ - thương mại Rue Saigon

Tze Vay Lam dịch vụ - thương mại rue Maréchal-Pétain

Ly Kam Wan dịch vụ - thương mại rue Maréchal-Pétain

Tchan Tac Tchong công nghiệp - TTCN Chavassieux

Quang Long công nghiệp - TTCN rue de Foutcheou

Vong Chi công nghiệp - TTCN rue Maréchal-Pétain

Rue de l'Arsenal Thinh Thanh công nghiệp - TTCN

thương mại dịch vụ hàng hải, đường thủy nội địa thương mại dịch vụ hàng hải, đường thủy nội địa thương mại dịch vụ hàng hải, đường thủy nội địa thương mại dịch vụ hàng hải, đường thủy nội địa Thương mại cu li (chủ nhân lực) sửa chữa xe đạp, xe gắn máy sửa chữa xe đạp, xe gắn máy Sản xuất phụ tùng xe đạp Sản xuất phụ tùng xe đạp kim hoàn kim hoàn kim hoàn kim hoàn rue Maréchal-Pétain Amiral Courbet rue Chinoise Rue du Commerce

kim hoàn rue Chinoise công nghiệp - TTCN

kim hoàn kim hoàn rue Chinoise rue Chinoise công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN

kim hoàn rue Formose công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN Vinh Xuong công nghiệp - TTCN Tam Heng Sao Phong Ung Sai công nghiệp - TTCN Quang Khy Cheong công nghiệp - TTCN Tai Shun Luong Siou Phong Ving Hoi Mane Peng Luong Tchan Siac Wing Wo

rue Formose Phong Yu Chao công nghiệp - TTCN

rue de la marine rue de la marine rue de la marine Huang Bao Loch công nghiệp - TTCN Pine Nam Yune Tai công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN Kong Dong Quang

rue Formose Lao Ngay Po công nghiệp - TTCN

Rue de Bacninh Hop On công nghiệp - TTCN

Chavassieux Ung On Pong dịch vụ - thương mại

174

Chavassieux Quang Loi dịch vụ - thương mại Sản xuất bánh bích quy Sản xuất củi đốt Xưởng gỗ Xưởng gỗ Xưởng sản xuất kẹo lò giết mổ, chế biến thịt Mô giới thương mại Mô giới thương mại

Kane Chi Dy Ky dịch vụ - thương mại rue Chinoise

sửa chữa buôn bán đồng hồ Sản xuất thảm nhà máy xay

Chong Chau Fock Kung Chok Leung Tchu Foc Sang Mane Sune Luong công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN dịch vụ - thương mại Nhà thầu xây dựng dịch vụ - thương mại Nhà thầu xây dựng Rue du Commerce rue de la marine Chavassieux Bonnal

Sane Foc Seng dịch vụ - thương mại Paul Bert

Siac Foc Tai Fat dịch vụ - thương mại Paul Bert

Lay Yong dịch vụ - thương mại rue de la marine

Tang Oat Lay dịch vụ - thương mại Rue du Commerce

Lou Tsai dịch vụ - thương mại Rue du Commerce

Lao Kong chi dịch vụ - thương mại Paul Doumer

Ke Tsian Thong Fat dịch vụ - thương mại

Lay Chuo San công nghiệp - TTCN Rond-point de France rue Chinoise

Lo Kam Tsune công nghiệp - TTCN Chavassieux

doanh nghiệp thương mại doanh nghiệp thương mại doanh nghiệp thương mại Cửa hàng thực phẩm Cửa hàng thực phẩm Cửa hàng thực phẩm Cửa hàng thực phẩm Sản xuất gốm sứ nhà máy cung cấp nước quán ăn dịch vụ - thương mại rue Maréchal-Pétain

quán ăn dịch vụ - thương mại rue Formose

Thợ đồng hồ Thợ đồng hồ Thợ đồng hồ Thợ đồng hồ dầu máy Xưởng in ấn Cho thuê xe Cho thuê xe

175

Tsan Chi Lay Chang Thao Yin công nghiệp - TTCN Quản lý xây dựng Yuong Tchong công nghiệp - TTCN Tchu Chi công nghiệp - TTCN Fong Ving Chi công nghiệp - TTCN Vou nu Hine công nghiệp - TTCN Cheong Hung công nghiệp - TTCN Quang Thai Long công nghiệp - TTCN Lay Heng Ky dịch vụ - thương mại Lam Chang Chong dịch vụ - thương mại Huang Yin công nghiệp - TTCN Xưởng máy may Tchan Yoc Kuoi Xưởng thuộc da công nghiệp - TTCN Tchan Chi Xưởng thuộc da công nghiệp - TTCN Tong Wing Ling Xuất nhập khẩu dịch vụ - thương mại Ung Tchong Van Xuất nhập khẩu dịch vụ - thương mại Ly Chan Va Xuất nhập khẩu dịch vụ - thương mại Tchan Yu Tsoi Fat Xuất nhập khẩu dịch vụ - thương mại Chan Yu Lai tiểu thương dịch vụ - thương mại Kane Siou chong tiểu thương Chane Tchane Tam dịch vụ - thương mại tiểu thương dịch vụ - thương mại Hung Hop Ky rue Chinoise Rue du Commerce Rue du Commerce rue Chinoise rue Chinoise Paul Doumer place Nationale Rue de Metz Rue de Metz Chavassieux rue Maréchal-Pétain rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue de la marine Rue de Bacninh Rue du Commerce Rue du Commerce rue Chinoise

tiểu thương Buôn bán vải tiểu thương rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise

dịch vụ - thương mại tiểu thương rue Chinoise

dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại tiểu thương tiểu thương tiểu thương tiểu thương tiểu thương tiểu thương rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise

dịch vụ - thương mại tiểu thương rue Maréchal-Pétain

dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại tiểu thương Xuất nhập khẩu place Nationale rue Chinoise

dịch vụ - thương mại Xuất nhập khẩu rue Chinoise dịch vụ - thương mại Hop My Ich Loi dịch vụ - thương mại Tchane Kuone Sang dịch vụ - thương mại Ma Siac Min On Cheong Lo Fong Sane Liou Siou Ming Tai Ly Phong Sang Tchao Peng Mane Tsoi Poong Chi Fong Ly Koan Tso Trien Chan Chao Chi Kou chenh Kée Chong Yane Tat Chéong

Vong Koc Pang công nghiệp - TTCN Chavassieux

Luong Sec Thon công nghiệp - TTCN rue Chinoise

Chiou Ving Cheong công nghiệp - TTCN rue Chinoise

Ho Sie Tang công nghiệp - TTCN rue Chinoise Xưởng sản xuất, buôn bán giấy Xưởng sản xuất, buôn bán giấy Xưởng sản xuất, buôn bán giấy Xưởng sản xuất, buôn bán giấy

công nghiệp - TTCN Làm bánh, tiệm ăn rue Chinoise

176

Vong Sune Tchan Hinh Chéong công nghiệp - TTCN Làm bánh, tiệm ăn Moc Yong Kane công nghiệp - TTCN Làm bánh, tiệm ăn Tseng Bok Nong công nghiệp - TTCN Luong Yi Yen công nghiệp - TTCN Yi Long công nghiệp - TTCN Hoi Tsoi Long dịch vụ - thương mại Phong Tchec Nam Ao Yao Sing dịch vụ - thương mại Kuong Sang Thong dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại Siou Tchiou dịch vụ - thương mại Su Mang Sang dịch vụ - thương mại Ho Ying Yune dịch vụ - thương mại Siou Pou Fong dịch vụ - thương mại Ly Chane Tine dịch vụ - thương mại Tchan Heng Can dịch vụ - thương mại Liou Yin Va dịch vụ - thương mại Ly Y Lang dịch vụ - thương mại Lay Chang Shuong dịch vụ - thương mại Lao Ping Tcheng Xưởng cơ khí Xưởng cơ khí Xưởng cơ khí Hiệu thuốc tây Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc Hiệu thuốc bắc rue Chinoise rue Chinoise Rue du Commerce Rue du Commerce Rue du Commerce Rue de Metz Chavassieux rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue de Foutcheou rue de Foutcheou Paul Doumer

Paul Doumer Rue du Commerce Rue du Commerce Tchong Tsac Kai Luong Koc Thong Tsan Tio dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại

rue Chinoise Ly Chi Yu dịch vụ - thương mại

Rue de Formose Chen Wen Lun dịch vụ - thương mại

rue Chinoise Luong Siou công nghiệp - TTCN

Tuong Sao Nine công nghiệp - TTCN rue Chinoise

Yang Yu Pao công nghiệp - TTCN rue Maréchal-Pétain Hiệu thuốc bắc Hiệu ảnh Hiệu ảnh buôn bán đồ gốm sứ Chiếu bóng Buôn đồng nát, tái chế Buôn đồng nát, tái chế Buôn đồng nát, tái chế

quán ăn rue Chinoise dịch vụ - thương mại

quán ăn quán ăn Rue de Formose Chavassieux

quán ăn Chavassieux dịch vụ - thương mại

quán ăn quán ăn quán ăn quán ăn quán ăn quán ăn quán ăn quán ăn rue Maréchal-Pétain rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise

quán ăn rue Chinoise dịch vụ - thương mại

dịch vụ - thương mại công nghiệp - TTCN quán ăn xưởng xà phòng rue Maréchal-Pétain rue de la marine

công nghiệp - TTCN xưởng xà phòng rue de la marine Tyan Sune Kong Wo Tchuong Nam Sang dịch vụ - thương mại Shan Kam Tsune dịch vụ - thương mại Ly Piou Hong On Chan dịch vụ - thương mại Leung Hao Wa dịch vụ - thương mại Tching Kai Poui Kung Chock Leung dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại Chong Nam dịch vụ - thương mại Cheong Vinh dịch vụ - thương mại Vong Tchou Fane dịch vụ - thương mại Luong Hong Sing Chuy Fin Hang dịch vụ - thương mại Tuong Kam Kuong Soui Long Tchong hy Lam Tchong yao Shi My Wa Ly Koune Tat

Vong Chi công nghiệp - TTCN rue de Foutcheou

Chan Yu Lai dịch vụ - thương mại rue de la marine

Vong Chan Tai công nghiệp - TTCN rue Maréchal-Pétain

Ly Chan Va công nghiệp - TTCN rue Maréchal-Pétain

Vong Vay Pane công nghiệp - TTCN rue Maréchal-Pétain

177

Ma Siao Min công nghiệp - TTCN rue Chinoise Sản xuất, buôn bán mía đường sản xuất bánh bao, sủi cảo Sản xuất bánh bao, sủi cảo Sản xuất bánh bao, sủi cảo Sản xuất bánh bao, sủi cảo sản xuất bánh bao, sủi cảo

công nghiệp - TTCN Thợ may Amiral Courbet

Yong Cheong Tchan Peng Wang Luong Yiou Si Fong Tchong Tchao Tsan Tao công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN Paul Bert place Nationale Chavassieux rue Maréchal-Pétain

Chang Kong Yip công nghiệp - TTCN Rue du Commerce

Ly cheong sane Li Kit Sho Wong Tek Fou Poon Chi Ping Wing Mao Quan Fan Fat Ly Cheong Sam Ich Ky Tchan Yi Kay Tchan Siac On Luong Yiou Lay Ho Sune Cheong dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại dịch vụ - thương mại công nghiệp - TTCN dịch vụ - thương mại Thợ may Thợ may Thợ nhuôm Thợ nhuộm Sản xuất nhựa thông trà trà trà trà trà trà trà Buôn bán lụa Buôn bán lụa Buôn bán lụa Sản xuất lụa Vận tải rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise rue Chinoise Rue du Commerce Chavassieux

Luong Yut LoK dịch vụ - thương mại Vận tải đường thủy Rue de Saigon

Tsiou Thong & Cie dịch vụ - thương mại Vận tải đường thủy rue Maréchal-Pétain

công nghiệp - TTCN sản xuất bún, mì rue Maréchal-Pétain

công nghiệp - TTCN Thợ thủy tinh rue Chinoise

công nghiệp - TTCN công nghiệp - TTCN Thợ thủy tinh Thợ thủy tinh rue Maréchal-Pétain rue Maréchal-Pétain

178

công nghiệp - TTCN Thợ thủy tinh B. Bonnard Hong Vinh Cheong Vong Lay Tac Fong Tai Tchu Pan Lao Tai Long Chan Va Rou Cheong Fat

STT

Họ tên

Địa chỉ thường trú

Nguyên quán

ghi chú

Năm sinh

Giới tính

Cách thức phỏng vấn

Nghề nghiệp hiện tại

1

Ung Kinh Sang

1931

Nam

Phúc Kiến

Số 15, hẻm 182 Phùng Tá Chu, An Lạc A, Bình Tân, TP HCM

Phỏng vấn trực tiếp

Đã mất 2018 (thời gian phỏng vấn: 4/2018)

1932

Nam

2

Trung Bình Nguyệt (Trần Xuân Trúc)

60 Trần Quang Khải, P. Đa Kao, quận 1, TP HCM (lúc còn sống)

Phỏng vấn trực tiếp

Nam Hợp, Tân Hội, Quảng Đông

Đã mất 2018 (thời gian phỏng vấn: 12/2017)

Lăm Xám Muối

1933

Nữ

Phúc Kiến

3

Số 15, hẻm 182 Phùng Tá Chu, An Lạc A, Bình Tân, TP HCM

Nghỉ hưu

Phỏng vấn trực tiếp

La Trung Liệt

1938

Nam

Quảng Đông

4

25/121 Hùng Vương, Hồng Bàng, Hải Phòng

Phỏng vấn trực tiếp

Đã mất năm 2019 (thời gian phỏng vấn: 4/2018)

Tăng Phúc Sếnh

1941

London, Vương quốc Anh

Nam

Quảng Đông

5

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua điện thoại

186

4: Danh sách người được phỏng vấn

1945

Hồng Kông, Trung Quốc

Nam

6

Feng Taiping (Phùng Thái Bình)

Hợp Phố, Quảng Đông

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

Ngô Khởi Lai

1947

London, Vương quốc Anh

Nữ

Quảng Đông

7

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua điện thoại

Tiêu Châu Chiêu

1950

Nữ

Quảng Đông

8

Giang Thành, Dương Giang, Quảng Đông, Trung Quốc

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

Trần Liên Hoa

1951

Ontario, Canada

nữ

Quảng Đông

9

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua điện thoại

10

Khổng Minh Lợi

1952

Nam

Quảng Đông

3B Trần Bình Trọng, Ngô Quyền, Hải Phòng

Phỏng vấn trực tiếp

Nghỉ hưu

11

Tiêu Phụng Tiên

1952

Nữ

Quảng Đông

Giang Thành, Dương Giang, Quảng Đông, Trung Quốc

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

12

Lương Văn Bảo

1953

Nam

Quảng Đông

Miếu Quan Thánh, 427 Tỉnh lộ 10, An Lạc A, Bình Tân, TP HCM

Nghỉ hưu

Phỏng vấn trực tiếp

13

Âu Tùng Hoa

1953

Ontario, Canada

Nam

Quảng Đông

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Viber)

187

14

Âu Tài

1954

Toronto, Canada

Nam

Quảng Đông

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Viber)

15

Tô Hoa Đại

1955

Quảng Đông

Cát Cụt, An Biên, Lê Chân, Hải Phòng

lao động tự do

Phỏng vấn trực tiếp

16

Tiêu Hoài Siêu

1955

London, Vương quốc Anh

Nam

Quảng Đông

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Viber)

17

Ngô Song Phùng

1956

London, Vương quốc Anh

Nam

Phúc Kiến

công nhân

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

18

Hoàng Kim Đa

1956

Phượng Sơn, Cao Hùng, Đài Loan

Nam

Quảng Đông

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

19

Bùi A Cường

1957

Nam

Quảng Đông

Tự do

238 Trần Nguyên Hãn, Lê Chân, Hải Phòng

Phỏng vấn trực tiếp

20

Trần Diễm Phương

1957

Nữ

Quảng Đông

Hải Thành, Bắc Hải, Quảng Tây Trung Quốc

Nghỉ hưu

Phỏng vấn quan email

21

Trần Thị Thu

1958

Nữ

Quảng Đông

Phỏng vấn trực tiếp

Cát Cụt, An Biên, Lê Chân, Hải Phòng

Kinh doanh hộ gia đình

22

Jason Hong

1958

Toronto, Canada

Nam

Quảng Đông

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Viber)

188

23

Hoàng Bích Chân

1958

London, Vương quốc Anh

Nữ

Quảng Đông

Chủ tiệm ăn

Phỏng vấn qua điện thoại

24

Tô Ngọc Sáng

1959

Nam

Quảng Đông

Số 55 Ngõ 72 Đồng Bún, Lê Chân, Hải Phòng

lao động tự do

Phỏng vấn trực tiếp

25

Trần Minh Nguyệt

1960

London, Vương quốc Anh

Nữ

Quảng Đông

Chủ tiệm nail

Phỏng vấn trực tiếp

26

Bùi Sùi Sềnh

1961

47 An Đà, Ngô Quyền, Hải Phòng

Nữ

Quảng Đông

Phỏng vấn trực tiếp

Công nhân may

Lương Tuệ An

1961

London, Vương quốc Anh

Nữ

Quảng Đông

27

Phỏng vấn trực tiếp

Nhân viên văn phòng

Kim Wong

1961

Sudbury, Ontario, Canada

Nữ

Quảng Đông

28

Nghỉ hưu

Phỏng vấn qua điện thoại

29

Triệu Quang Bằng

1961

London, Vương quốc Anh

Nam

Quảng Đông

chủ tiệm ăn

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

30

Trần Minh Phương

1962

New zealand

Nữ

Quảng Đông

Nội trợ

Phỏng vấn trực tiếp

31

Tô Ngọc Ngưỡng

1962

Nam

Quảng Đông

nghỉ hưu

Cát Cụt, An Biên, Lê Chân, Hải Phòng

Phỏng vấn trực tiếp

189

32

Tiêu Căn Thụy

1963

Nam

Phúc Kiến

126 L{ Thường Kiệt, Hồng Bàng, Hải Phòng

Phỏng vấn trực tiếp

Viên chức nhà nước

33

Tô Mùi

1964

Nữ

Quảng Đông

Số 57 Ngõ 72 Đồng Bún, Lê Chân, Hải Phòng

lao động tự do

Phỏng vấn trực tiếp

34

Ung A Lẩu

1964

Nam

Phúc Kiến

Số 15, hẻm 182 Phùng Tá Chu, An Lạc A, Bình Tân, TP HCM

Phỏng vấn trực tiếp

Kinh doanh hộ gia đình

35

Tạ Thiên Hồng

1964

Mai châu, Quảng Đông

Nữ

Quảng Đông

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

Kinh doanh hộ gia đình

36

Dương Khắc Mạnh

1964

Bản Kiều, Tân Bắc, Trung Quốc

Nam

Quảng Đông

công nhân

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

37

Lâm Xuân Thu

1965

162 Văn Cao, Hải Phòng

Nam

Phúc Kiến

Phỏng vấn trực tiếp

HTX Rồng Đen

38

Trần Thị Nga

1966

nữ

Quảng Đông

Cát Cụt, An Biên, Lê Chân, Hải Phòng

Phỏng vấn trực tiếp

Kinh doanh hộ gia đình

190

39

Vương Bích Ngọc

1966

Nữ

Triều Châu

374 Nguyễn Duy Dương, phường 9, quận 10, TP HCM

Buôn bán

Phỏng vấn trực tiếp

1966

Hồng Kông, Trung Quốc

Nữ

Quảng Đông

40

Lin Huangtai Yuan (Lâm Hoàng Thái Uyên)

Nhân viên văn phòng

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

Tô Từ Lâm

1966

Kuala Lumpur, Indonesia

Nữ

Quảng Đông

41

Phỏng vấn quan email

Nhân viên văn phòng

Bùi Sùi Zếnh

1967

190 Hạ L{, Hồng Bàng, Hải Phòng

Nữ

Quảng Đông

42

Buôn bán

Phỏng vấn trực tiếp

Bùi Sùi Hồ

1970

Nữ

Quảng Đông

Tự do

43

Ngõ 68 Cát Cụt, Lê Chân, Hải Phòng

Phỏng vấn trực tiếp

Peter Luc

1970

Thomhill, Ontario, Canada

Nam

Quảng Đông

44

Kinh Doanh

Phỏng vấn quan email

1970

London, Vương quốc Anh

Nữ

Quảng Đông

45

Amie Lee Jin (L{ Kim Thoa)

Chủ tiệm ăn

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

46

Trần Hạ Phùng

1970

To Kwa Wan, Hong Kong

Nữ

Quảng Đông

Nhân viên văn phòng

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

47

Tô Thị Cứu

1971

Nữ

Quảng Đông

Số 55 Ngõ 72 Đồng Bún, Lê Chân, Hải Phòng

lao động tự do

Phỏng vấn trực tiếp

191

48

Ung Sập Mùi

1971

Nữ

Phúc Kiến

Số 24, hẻm 182 Phùng Tá Chu, An Lạc A, Bình Tân, TP HCM

Phỏng vấn trực tiếp

Kinh doanh hộ gia đình

49

1971

Toronto, Canada

Nữ

Phúc Kiến

Hoa Haiyan (Hoa Hải Yến)

Công nhân

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

50

Lương Cẩm Kiên

1971

Bản Kiều, Tân Bắc, Trung Quốc

Nam

Quảng Đông

công nhân

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

La Hải Bình

1972

Nam

Quảng Đông

Lái xe

51

25/121 Hùng Vương, Hồng Bàng, Hải Phòng

Phỏng vấn trực tiếp

L{ A Vinh

1972

Saint-Herblain, Nates, Pháp

Nam

Quảng Đông

52

Phỏng vấn quan email

Nhân viên văn phòng

53

Trần Trí Hào

1972

Nam

Quảng Đông

Kim Bình, Sán Đầu, Quảng Đông, Trung Quốc

công nhân

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

54

Huznh Quang Long

1973

Quận 10, TP. Hồ Chí Minh

Nam

Quảng Đông

Phỏng vấn trực tiếp

Nhân viên văn phòng

55

Dương Vĩ Thăng

1973

San Jose, California

Nam

Quảng Đông

Phỏng vấn quan email

Nhân viên văn phòng

56

Vương Vân Nam

1974

Chương Hóa, Đài Loan

Nữ

Quảng Đông

Phỏng vấn quan email

Nhân viên văn phòng

192

57

Tăng Hiến Phóng

1974

Nam

Quảng Đông

Số 8, hẻm 11 Phùng Tá Chu, An Lạc A, Bình Tân, TP HCM

Phỏng vấn trực tiếp

Kinh doanh hộ gia đình

58

Lâm Thiên Kim

1977

Quận 4, TP. Hồ Chí Minh

Nữ

Quảng Đông

Phỏng vấn trực tiếp

Kinh doanh hộ gia đình

59

Phùng Ngọc Thái

1977

London, Vương quốc Anh

Nam

Quảng Đông

Nhân viên nail

Phỏng vấn quan email

60

Trần Trương Tú

1977

London, Vương quốc Anh

Nam

Quảng Đông

Nhân viên văn phòng

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Viber)

61

1978

nữ

Quảng Đông

Hennessy Road, Wanchai, Hong Kong

Nhân viên văn phòng

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

Xiè Chong (Tạ Trang)

62

Tạ Thanh Phong

1979

Northwood, Ontario, Canada

Nam

Quảng Đông

công nhân

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Viber)

63

Lâm Vệ Khánh

1980

Đài Bắc, Đài Loan

Nữ

Quảng Đông

Phỏng vấn quan email

Nhân viên văn phòng

64

1982

Hồng Kông, Trung Quốc

Nam

Quảng Đông

Chen Xuanming (Trần Xuân Minh)

Nhân viên văn phòng

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

193

65

Âu Tiến Phát

1982

London, Vương quốc Anh

Nam

Quảng Đông

Phỏng vấn qua điện thoại

Kinh doanh hộ gia đình

66

Vưu Lâm Long

1982

Kuala Lumpur, Indonesia

Nam

Quảng Đông

Nghiên cứu sinh

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

67

Giang Tiểu Hi

1982

Chương Hóa, Đài Loan

Nữ

Quảng Đông

công nhân

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

68

Hồ Bình Nguyên Quân

1984

Nam

Quảng Đông

North York, Toronto, Ontario, Canada

công nhân

Phỏng vấn qua email

69

1992

Toronto, Canada

Nữ

Quảng Đông

Sinh viên

Annie Chau (Châu Lệ Băng)

Phỏng vấn qua mạng xã hội (Facebook)

70

Tạ Quyền Phong

1992

Mai châu, Quảng Đông

Nam

Quảng Đông

Sinh viên

Phỏng vấn trực tiếp

71

Hà Mẫn Oanh

1993

Thuận Đức, Quảng Đông

Nữ

Quảng Đông

Phỏng vấn qua điện thoại

Nhân viên văn phòng

72

La Bảo Long

1995

Nam

Quảng Đông

Sinh viên

25/121 Hùng Vương, Hồng Bàng, Hải Phòng

Phỏng vấn trực tiếp

194

5. Mẫu Phiếu Phỏng vấn

(Mẫu phiếu dành cho việc phỏng vấn người Việt gốc Hoa, Hoa Kiều đã từng

hoặc đang sinh sống tại Hải Phòng)

Thưa ông/bà!

Để cung cấp dữ liệu, thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu đề tài: “Cộng đồng người Hoa ở thành phố Hải Phòng (1888-1980)”, chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của ông/bà thông qua việc trả lời các câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn sau đây.Với mỗi câu hỏi, ông/bà có thể ghi câu trả lời hoặc đánh dấu “x” vào câu trả lời mà ông/bà cho là thích hợp. Xin chân thành cảm ơn ông/bà!

1. THÔNG TIN CÁ NHÂN

- Họ và tên: ..................................................................................................................

- Giới tính: Nam/Nữ

- Năm sinh:…..

- Nhóm ngữ hệ:

Quảng Đông Phúc Kiến Triều Châu Hải

Nam

Hẹ Khác:…………..

- Hiện đang sinh sống tại: Trong nước Nước ngoài

+ Địa chỉ hiện tại: ......................................................................................................

.....................................................................................................................................

+ Địa chỉ sinh sống tại Hải Phòng trước kia (nếu có): ..............................................

.....................................................................................................................................

- Nghề nghiệp trước năm 1979 (nếu có): ....................................................................

- Nghề nghiệp hiện tại: ................................................................................................

2. THÔNG TIN DÀNH CHO NGƢỜI VIỆT GỐC HOA, HOA KIỀU

ĐANG SINH SỐNG TẠI NƢỚC NGOÀI

- Lý do ông/bà di cư, sinh sống nước ngoài?

.....................................................................................................................................................

.....................................................................................................................................................

- Năm di cư:…..........

- Cách thức di cư:

195

Đi chui, mua bán Bán chính thức Chính thức

- Phương tiện di cư:...................................................................................................................

- Địa điểm xuất phát di cư: .......................................................................................................

- Nước trung gian (nếu có): ......................................................................................................

- Điểm đến: ................................................................................................................................

- Lý do lựa chọn điểm đến đó: .................................................................................................

.....................................................................................................................................................

- Có người bảo trợ, bảo lãnh tại địa điểm đến hay không: ....................................................

- Tình trạng quan hệ với thân nhân hiện đang ở Việt Nam: .................................................

.....................................................................................................................................................

- Tình trạng quan hệ với thân nhân hiện đang ở Trung Quốc: .............................................

.....................................................................................................................................................

- Tình trạng quan hệ với thân nhân hiện đang ở các nước khác: ..........................................

.....................................................................................................................................................

- Đã trở về Việt Nam bao lần: ..................................................................................................

- Lý do trở về Việt Nam (nếu có): ...........................................................................................

.....................................................................................................................................................

- Thông tin khác:

.....................................................................................................................................................

.....................................................................................................................................................

3. THÔNG TIN DÀNH CHO NGƢỜI VIỆT GỐC HOA ĐANG SINH

SỐNG TẠI VIỆT NAM

- Lý do ông/bà không di cư?

.....................................................................................................................................................

196

.....................................................................................................................................................

- Có người thân di cư không?

.....................................................................................................................................................

- Tình trạng quan hệ với thân nhân hiện đang ở Việt Nam: .................................................

.....................................................................................................................................................

- Tình trạng quan hệ với thân nhân hiện đang ở Trung Quốc: .............................................

.....................................................................................................................................................

- Tình trạng quan hệ với thân nhân hiện đang ở các nước khác: ..........................................

.....................................................................................................................................................

- Thông tin khác:

.....................................................................................................................................................

.....................................................................................................................................................

197

Xin cảm ơn ông/bà đã cung cấp những thông tin quí báu và cần thiết!