TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHÔ HỒ CHÍ M1NH
KHOA NGỮ VĂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH LÍ LUẬN NGÔN NGỮ
UĐề tài
ĐẶC ĐIỂM
KHẨU NGỮ NAM BỘ
TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
Mã số: 50408
Người hướng dẫn : Tiến sĩ Trịnh Sâm
Người thực hiện : Châu M1nh Hiền
Thành phố Hồ Chí M1nh
Năm 2002
MỤC LỤC
0TMỤC LỤC0T ............................................................................................................ 3
0TQUI ƯỚC TRÌNH BÀY0T ..................................................................................... 6
0TNGỮ LIỆU0T ........................................................................................................... 7
0TDẪN NHẬP0T .......................................................................................................... 9
0T1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI0T ...................................................................................................... 9
0T2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU0T ........................................................................................... 11
0T3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU0T ................................................................ 11
0T3.1. Phạm vi nghiên cứu0T ................................................................................................. 11
0T2. Đối tượng nghiên cứu0T ................................................................................................. 14
0T4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ0T ......................................................................................................... 15
0T5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU0T ................................................................................... 17
0T6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN0T ..................................................................................... 17
0T7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN0T ........................................................................................... 18
0TCHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM KHẨU NGỮ NAM BỘ TRONG TIỂU
THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH XÉT TRÊN BÌNH DIỆN TỪ VỰNG0T .......... 19
0T1.1. TỪ NGỮ KHẨU NGỮ0T ................................................................................................ 19
0T1.2. ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ KHẨU NGỮ NAM BỘ TRÊN BÌNH DIỆN TỪ VỰNG-NGỮ
NGHĨA TRONG TIÊU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH0T ...................................................... 20
0T1.2.1. Đặc điểm của từ láy khẩu ngữ Nam Bộ về mặt ý nghĩa0T ....................................... 27
0T1.2.2 Đặc điểm về mặt ý nghĩa của từ láy đô0T ................................................................. 28
0T1.3.VAI TRÒ CỦA LỚP TỪ NGỮ KHẨU NGỮ NAM BỘ TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA HỒ BIỂU CHÁNH0T .................................................................................................... 34
0T1.3.1. Lớp từ ngữ khẩu ngữ và tính quần chúng0T ............................................................. 34
0T1.3.1.1. Ngữ cảnh là cầu nổi giữa yếu tố khẩu ngữ từ ngữ với người tiếp nhận0T ...... 34
0T1.3.2. Lớp từ ngữ khẩu ngữ với việc Miêu tả tính cách nhân vật0T ................................... 37
0T1.3.3. Lớp từ ngữ khẩu ngữ với việc khắc họa một vùng đất Nam Bộ0T .......................... 43
0T1.3.3.1 Từ ngữ khẩu ngữ khắc họa thiên nhiên Nam Bộ Thử so sánh các đoạn văn
Miêu tả như sau:0T ........................................................................................................ 44
0T1.3.3.2 Từ ngữ khẩu ngữ khắc họa con người Nam Bộ0T ............................................. 47
0T1.4. TẠM KẾT0T .................................................................................................................... 53
0TCHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM KHẨU NGỮ NAM BỘ TRONG TIỂU
THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH XÉT TRÊN BÌNH DIỆN CÚ PHÁP0T ........... 54
0T2.1. CÚ PHÁP KHẨU NGỮ0T ............................................................................................... 54
0T2.2.ĐIỂM VỀ HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA CÂU KHẨU NGỮ TRONG TIỂU
THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH0T ............................................................................................ 56
0T2.2.1.Câu có yếu tố nhấn mạnh,lặp, dư0T .......................................................................... 56
0T2.2.1.1 Dạng câu nhấn mạnh0T ..................................................................................... 56
0T2.2.1.2 Dạng câu lặp bằng cách dùng từ thay thế0T ...................................................... 59
0T2.2.1.3 Dạng câu có yếu tố dư0T ................................................................................... 61
0T2.2.2. Câu có ngữ khí tự tình thá? (xem thêm phụ lục 6)0T ............................................... 62
0T2.2.2.1 Nhóm ngữ khí tự tình thai đứng đầu câu0T ....................................................... 63
0T2.2.2 Nhóm ngữ khí tự tình thủi đứng ở cuối cấu0T .......................................................... 66
0T2.2.3. Câu có dùng ngữ khí tự nghi vấn0T ......................................................................... 71
0T2.2.3.1 Câu có dùng ngữ khí tự " hôn"0T ...................................................................... 72
0T2.2.3.2 Câu có dừng ngữ khí tự " há (hả, hử)"0T ........................................................... 75
0T2.2.4. Câu có quán ngữ đặc trưng của khẩu ngữ Nam Bộ0T .............................................. 77
0T2.2.4.1 Câu có quán ngữ diễn đạt thời gian0T ............................................................... 80
0T2.2.4.2 Câu có quán ngữ diễn đạt sự vật, sự việc không xác định "giống gì"0T ........... 82
0T2.2.4.3 Câu có quản ngữ diễn đạt nội dung tương phản với thá? độ ngạc nhiên lớn
"té ra"0T ......................................................................................................................... 84
0T2.2.4.4 Câu cổ quán ngữ diễn đạt tâm lí xót thương, ân hận0T ..................................... 87
0T2.2.4.6 Câu có quán'ngữ diễn đạt hành động bị bắt buộc " cực chẳng đã" và "túng Hít0T
................................................................................................................................... 90
0T2.2.4.8 Câu có quán nại! diễn đạt sự không quan tâm hay chấp nhận "thây kệ"0T ....... 93
0T2.3.MỘT VÀI MÔ HÌNH CÚ PHÁP KHẨU NGỮ0T ........................................................... 94
0T2.3.1.Dạng câu có nội dung câu kết cấu 3 phần0T ............................................................. 96
0T2.3.2. Dạng câu tạo nên cách nói gián tiếp0T ................................................................... 100
0T2.3.2.2. Trường hợp 2 chủ ngữ khác vai0T .................................................................. 102
0T2.3.2.3. Dạng câu "đề thuyết" có nhiều nội dung diễn đạt cho "đề"0T ........................ 102
0T2.3.2.4. Dạng câu diễn đạt ý nghĩa theo cách liệt kê0T ............................................... 104
0T2.3.2.5. Dạng câu diễn đạt ý nghĩa theo cách đối lập0T .............................................. 106
0T2.4. TẠM KẾT0T .................................................................................................................. 107
0TKẾT LUẬN0T ...................................................................................................... 108
0TPHỤ LỤC0T ......................................................................................................... 115
0TPHỤ LỤC 10T .................................................................................................................. 116
0TPHỤ LỤC 20T .................................................................................................................. 122
0TPHỤ LỤC 40T .................................................................................................................. 129
0TPHỤ LỤC 50T .................................................................................................................. 140
0TPHỤ LỤC 60T .................................................................................................................. 143
0TPHỤ LỤC 70T .................................................................................................................. 149
0TPHỤ LỤC 80T .................................................................................................................. 154
0TPHỤ LỤC 90T .................................................................................................................. 171
0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T .............................................................................. 181
QUI ƯỚC TRÌNH BÀY
oOo
1.[ ; ] : Tên tài liệu tham khảo và số trang trích dẫn được ghi bằng số tự nhiên
đặt trong ngoặc vuông, số đầu tiên là số thứ tự của tài liệu tham khảo, số sau là số
trang nơi trích dẫn trong tài liệu. Hai số này được ngăn cách bởi dấu chấm phẩy.
2.( ) : Số thứ tự của ví dụ trong luận văn ghi bằng số tự nhiên và được đặt
trong dấu ngoặc đơn.
3.( ,tr ) :Ghi xuất xứ của ví dụ, gồm 2 phần đặt trong dấu ngoặc đơn: phần đầu
là các chữ viết tắt của tên tác phẩm, phần sau của "tr" là số tự nhiên ghi trang sách
chứa ví dụ trích dẫn, hai phần này ngăn cách bởi dấu phẩy .
4.Cách viết tắt:
Ví dụ:
- Nxb GD : Nhà xuất bản Giáo dục.
- Nxb KHXH: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
- Nxb VN Tp. HCM : Nhà xuất bản Văn nghệ
Thành phố Hồ Chí M1nh.
- Tên các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh được viết tắt bằng các con chữ cái đầu
tiên :
- ĂTTƠTT : viết tắt của tác phẩm "Ăn theo thuở ở theo thời".
- NCGĐ : viết tắt của tác phẩm "Ngọn cỏ gió đùa" .
- TTN : viết tắt của tác phẩm 'Thầy thông ngôn" .
- NĐ : viết tắt của tác phẩm "Nợ đời".
-... (Xem thêm trong phần ngữ liệu.)
NGỮ LIỆU
Nhà văn Hổ Biểu Chánh : (1884-1958)
- Tên thật là Hồ Văn Trung, nguyên quán Gò Công, Mỹ Tho (Tiền Giang).
- Đã sáng tác và phỏng tác trên 64 cuốn tiểu thuyết, có công trong lĩnh vực sáng
tác tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ ở giai đoạn đầu của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
1. Những cuốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh dùng làm ngữ liệu nghiên cứu
trong luận văn nay là 27 cuốn ở 3 thời điểm sáng tác của tác giả (đầu- giữa- cuối):
1- Ai làm được (ALĐ) 1912-1922, Nxb Tiền Giang (TG), 1988.
2-Chúa tàu Kim Qui (CTKQ) 8/1922, Nxb TG, 1988.
3-Cay đắng mùi đời (CĐMĐ) 1923,Nxb VN Tp. HCM, 1997.
4-Ngọn cỏ gió đùa (NCGĐ) 1926, Nxb TG, 1988.
5-Thầy thông ngôn (TTN) 6/1926, Nxb TG, 1988
6-Kẻ làm người chịu (KLNC) 12/1928, Nxb TG, 1988.
7-Vì nghĩa vì tình (VNVT) 3/1929, Nxb TG, 1988.
8-Khóc thầm (KT) 9/1929, Nxb VN Tp.HCM, 1997.
9-Cha con nghĩa nặng (CCNN) 1929, NxB Tỏ, 1988.
10-Con nhà nghèo (CNN) 8/1930, Nxb VN Tp.HCM, 1997.
11-Lời thề trước M1ếu (LTTM) 5/1935, Nxb TG, 1988.
12-Một đời tài sắc (MĐTS) 8/1935, Nxb TG, 1988.
13-Cười gượng (CG) 9/1935, Nxb TG, 1988.
14-Thiệt giả, giả thiệt ( TGGT) 12/1935, Nxb VN TP.HCM, 1997.
15-Ăn theo thuở, ở theo thời (ĂTTƠTT) 5/1936, Nxb TG, 1988.
16-Nợ đời (NĐ) 1936, Nxb VN Tp.HCM, 1997.
17-Từ hôn (TH) 10/1937 , Nxb VN Tp.HCM, 1997.
18-Tân Phong nữ sĩ (TPNS) 12/1937, Nxb VN Tp.HCM, 1997.
19-Tại tôi (TT) 3/1938 Nxb VN Tp.HCM, 1997
20-Bỏ chồng ( BC) 10/1938, Nxb TG, 1988.
21-Cư Kỉnh (CK) 7/1941, Nxb VN Tp.HCM, 1997.
22-Bỏ vợ (BV) 1/1954, NXB TG, 1988.
23-Đại nghĩa diệt thân (ĐNDT) 8/1955, Nxb VN Tp.HCM, 1997.
24-Vợ già chồng trẻ (VGCT) 11/1956, Nxb TG, 1988.
25-Hạnh phúc loi nào (HPLN) 2/1957, Nxb TG, 1988
26-Sống thác với tình (STVT) 3/1957, Nxb TG, 1988.
27-Chị Đào, Chị Lý (CĐCL) 8/1957, Nxb TG, 1988.
2. Các tác phẩm văn hoe khác :
1.Hoàng Ngọc Phách, Tô Tâm ,Nxb VN Tp.HCM 1996.
2.Sơn Nam , Hương rừng Cà Mau, Nxb Trẻ Tp.HCM 1986.
3.Nguyễn Thi , Truyện và Kí, Nxb Văn học Giải phóng, 1975.
4.Khá? Hưng, Hồn bướm mơ tiên, Nxb VN Tp.HCM 1998
5.Thạch Lam, Tập truyện ngắn "Gió đầu mùa" ,Nxb VN Tp.HCM 1998
DẪN NHẬP
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.Hồ Biểu Chánh là một nhà văn có nhiều ảnh hưởng đến việc hình thành thể
loại tiểu thuyết ở Nam Bộ nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung vào những
năm đầu của thế kỉ ;xx. Đọc các tác phẩm của ông, người đọc đễ nhận thấy ngôn ngữ
dung dị, mang đậm dấu ấn của phương ngữ Nam Bộ và có cái gì đó thật gần gũi, quen
thuộc, hình thành một đặc điểm nối tiếp, xuyên suốt từ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn
Trị, đến cả một số nhà văn Nam Bộ hiện đại. Trong những đặc điểm về hình thức diễn
đạt đặc biệt ấy, không thể không có sự góp phần của khẩu ngữ.
2.Xét về mặt phong cách học, hầu như các tài liệu viết về lĩnh vực nay đều có đề
cập đến vai trò của phong cách khẩu ngữ hoặc trong thế đối lập với phong cách gọt
giũa, hoặc được gọi là phong cách sinh hoạt hằng ngày nằm trong sự phân biệt với tất
cả các phong cách còn lại. Tuy nhiên, những mô tả nay chỉ có tính chất đặt vấn đề
và.được quan sát trên phạm vi ngôn ngữ cả nước chứ không tập trung ở một phương
ngữ nào. Nói rõ hơn, trong các tài liệu như nêu trên, khẩu ngữ Nam Bộ tuy có quan
tâm nghiên cứu nhưng chưa được chú ý đúng mức.
3.Tìm hiểu về khẩu ngữ Nam Bộ không thể không đề cập đến phương ngữ tương
ứng, trong đó khẩu ngữ hành chức. Công bằng mà nói, sau năm 1975, nhờ điều kiện
nước nhà thống nhất, số lượng công trình nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ nói
riêng, văn hóa Nam Bộ nói chung đã tăng lên nhiều. Riêng về phương ngữ Nam Bộ
thì có thể nói được rằng, những công trình nghiên cứu chỉ tập trung ở hệ thống từ ngữ,
một hệ thống có tính chất tĩnh tại, trong khi phần sử dụng, phần ngữ dụng hầu như
chưa được chú ý đúng mức. Do vậy, khi nghiên cứu phương ngữ Nam Bộ trong hoạt
động hành chức, không thể không chú ý đến khẩu ngữ địa phương, vả lại, như nhiều
nhà nghiên cứu đã chỉ ra, khẩu ngữ chính là nền tảng của mọi phong cách, nơi thường
xuất hiện nhiều cái mới và cũng chính nơi đây sẽ loại trừ những hiện tượng chưa nhập
hệ.
Cho nên, nghiên cứu khẩu ngữ nói chung, khẩu ngữ Nam Bộ nói riêng sẽ mở ra
một triển vọng lớn trong việc tìm ra qui luật xúc tác và thu nhập các yếu tố ngôn ngữ
tích cực từ phương ngữ vào tiếng Việt toàn dân.
4.Trước nay, khi giải thích hiện tượng độc giả bình dân say mê đọc tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh, các nhà nghiên cứu đề cập đến nhiều nguyên nhân, nhiều yếu tố,
trong đó có yếu tô" ngôn ngữ. Nói rõ hơn, trên cái nền của phương ngữ Nam Bộ,
thông qua lời ăn tiếng nói của. nhân vật, thông qua lối kể chuyện của tác giả, tác giả
đã xây dựng được bối cảnh, con người, phong tục tập quán của một vùng đất mới khai
phá. Điều nay đã tạo nên một ngữ cảm chò người tiếp nhận tiểu thuyết của Hề Biểu
Chánh. Nếu tìm hiểu vấn đề nay một cách thâu đáo, chắc chắn sẽ gợi mở nhiều vấn đề
về phong cách cá nhân - mà quả thật-, Hồ Biểu Chánh đã tạo lập cho mình một phong
cách ngôn ngữ riêng rất khó lẫn lộn với các tác giả cùng thời. Đạt được điều đó,
không thể không có sự góp phần của khẩu ngữ Nam Bộ.
5.Như mọi người đều biết, vào đầu thế kỉ XX, thể loại văn biền ngẫu ngự trị
trong giao tiếp bác học ở Việt Nam. Thế nhưng, để cải tiến và đổi mới cách diễn đạt
nẩy, có thể thấy có hai khuynh hướng:
a. Mô phỏng câu văn của tiếng Pháp, học tập cách diễn đạt của Pháp và tìm cách
điều chỉnh câu văn biền ngẫu cho thích hợp hơn với lối diễn đạt Việt Nam.
b. Xuất phát từ lời ăn tiếng nói Việt Nam, từ khẩu ngữ để xây dựng lối văn viết
thuần túy Việt Nam.
Hồ Biểu Chánh thuộc khuynh hướng thứ hai (b). Điều nay rất lạ. ở Hồ Biểu
Chánh, Tây học và Hán học, ông đều rất am tường, thế mà, tại sao ông không chộn
con đường thuận lợi là con đường thứ nhất (a), mà lại xuất phát từ khẩu ngữ? Tất
nhiên, nếu mới chỉ nghiên cứu khẩu ngữ trong tác phẩm của ông thì không thể trả lời
được câu hỏi nẩy. Tuy nhiên, từ các cách chọn lựa ngôn từ, có thể hiểu thêm về quan
điểm sáng tác của Hồ Biểu Chánh và đặc biệt là sẽ góp phần xác định đạc điểm ngôn
ngữ mang tính cá nhân của nhà tiểu thuyết tiên phong này.
6. Ngoài những lí do vừa nêu trên, là một người dân Nam Bộ, từ nhỏ chúng tôi
đã yêu thích văn chương Hồ Biểu Chánh. Gần đây, chúng tôi rất vui mừng vì thấy tác
phẩm Hồ Biểu Chánh đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Tuy
nhiên, khi chúng tôi nghiên cứu khẩu ngữ Nam Bộ nói chung, toàn bộ ngôn ngữ trong
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nói riêng, không phải chúng tôi nghiên cứu lời ăn tiếng
nói của cư dân Nam Bộ trong thời đã qua mà thực chất là để hiểu thêm về tiếng Việt
hôm nay và cả cho ngày mai. Bởi vì, nếu như quan sát kĩ, trong khoảng gần ba mươi
năm trở lại đây, những yếu tố tích cực của nhiều phương ngữ, trong đó có phương ngữ
Nam Bộ đã góp phần làm phong phú cho cách định danh, cách diễn đạt của tiếng Việt
toàn dân.
Vì tất cả những điều nêu trên, chúng tôi mạnh dạn chọn hướng đề tài về " Đặc
điểm khẩu ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh".
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Những nỗ lực của luận văn cố gắng vươn tới là:
- Thu thập, Miêu tả, phân loại các yếu tố khẩu ngữ, chủ yếu tập trung ở cấp độ từ
vựng và cú pháp.
- Xem xét vai trò của các yếu tố khẩu ngữ trong hành chức, đặc biệt là trong
cách diễn đạt, trong việc tạo lập nên cá tính nhân vật, màu sắc địa phương, nghĩa là
bước đầu xác lập vai trò tích cực của chúng trong việc tạo nên một phong cách ngôn
ngữ Hồ Biểu Chánh.
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Bất cứ nhà ngôn ngữ học thuộc trường phát nào, khi nghiên cứu về ngôn ngữ
cũng đều thừa nhận và đánh giá cao vai trò của ngữ liệu khẩu ngữ; thậm chí, có một
thời gian dài khẩu ngữ được xem như là ngữ liệu chính, ngữ liệu chuẩn mực khi bắt
tay vào nghiên cứu một ngôn ngữ cụ thể.
Như đã nêu, ở Việt Nam, những thành tựu nghiên cứu khẩu ngữ chưa nhiều
nhưng kết quả đạt được thì chủ yếu có trong nghiên cứu gián tiếp hơn là trực tiếp.
Nghĩa là, tuy khẩu ngữ không hoàn toàn đồng nhất với phường ngữ, nhưng những tri
thức có được chủ yếu là rút ra từ cứ liệu phương ngữ . Điều nay có lí do riêng, bởi vì
nếu nghiến cứu một cách bài bản, chúng ta phải sưu tập tư liệu đủ lớn bằng hình thức
thu âm lời nói tự nhiên trong giao tiếp hằng ngày, rõ ràng trong điều kiện hiện nay là
rất khó thực hiện.
Như đã xác định, phạm vi khảo sát của luận văn nay là đặc điểm khẩu ngữ Nam
Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Nói cụ thể, đó là lời nói hằng ngày của nhân vật
và lời kể chuyện của người viết. Và vì phải Miêu tả cuộc sống hàng ngày một cách
chân thực, nên tuy khẩu ngữ trong tác phẩm văn chương đã có sự gạn lọc nhưng vẫn
là thứ khẩu ngữ tự nhiên tiếu biểu cho ngôn ngữ của nhân vật. Do vậy, có thể có
những mô hình khẩu ngữ hiện nay không còn hoặc ít được sử dụng mà xuất hiện trọng
tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, chúng tôi vẫn sưu tập; ngược lại, có thể trong thực tế
hằng ngày có nhiều cách nói độc đáo mang đậm màu sắc khẩu ngữ, nhưng không
được Hồ Biểu Chánh sử dụng, nên chúng tôi không thu thập.
Như vậy, khá? niệm khẩu ngữ Nam Bộ trong nhận thức của chúng tôi là lời ăn
tiếng nói trong sình hoạt hằng ngày của người dân địa-phương và được ghi lại trong
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Do vậy, có thể có những đơn vị ngôn ngữ xuất hiện ở
trong khẩu ngữ các vùng khác nhưng nó vẫn được thấy Miêu tả ở đây, bởi vì ,như ai
nấy đều biết, tiếng Việt là một ngôn ngữ thống nhất khá cao, việc phân chia phương
ngữ trong đó có khẩu ngữ địa phương, là chỉ có giá trị tương đối. Việc phần chia này,
có thể coi như một nguyên tắc bắt buộc để làm việc nhưng lại cũng hết sức uyển
chuyển, bởi vì, trong các công trình của các nhà phương ngữ học đi trước vẫn chưa
thoát khỏi sự "nhập nhằng" này. Tóm lại, ngữ liệu sử dụng trong luận văn này đều có
ghi rõ xuất xứ.
Cũng cần thấy, trước nay các nhà phong cách học xác định nội hàm và ngoại
diên của thuật ngữ khẩu ngữ, hay phong cách khẩu ngữ, chưa phải đã thật sự rõ ràng.
Chẳng hạn " Phong cách khẩu ngữ tự nhiên còn được gọi là phong cách khẩu ngữ sình
hoạt, phong cách khẩu ngữ hàng ngày vì nó được dùng trong sinh hoạt hàng ngày của
mỗi cá nhân: một mẩu tâm sự, một câu thăm hỏi người thân hay bạn bè, một lời đàm
tiếu về cách thức ăn ở, một thá? độ trước những biến đổi đột ngột của thời tiết, một
phản ứng tức thì trước tin"sốt dẻo" trong cuộc sống hàng ngày...'" [112; 62].
Như vậy, theo tác giả Cù Đình Tú, việc xác định phong cách khẩu ngữ, như đã
thấy, là hoàn toàn dựa vào nội dung đề tài. Thế nhưng, vấn đề không đơn giản như
vậy. Với tư cách là một phương tiện diễn đạt, hơn thế nữa, lại còn là một phong cách
giao tiếp, cũng như eáẹ phong cách khác, phong cách khẩu ngữ lệ thuộc rất nhiều vào
các nhân tố: nội dung giao tiếp, đôi tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp và mục đích
giao tiếp. Điều cần nhấn mạnh ở đây ià về nguyên tắc với một hình thức phải đánh
dấu được, có nghĩa là phải có những đặc điểm hình thức thì việc lựa chọn, phân loại,
xác định ngữ liệu mới tránh được sai lạc.
Khi bàn đến khẩu ngữ, ở phạm vi khá? quát, người ta thường nhắc đến hai đặc
điểm cơ bản:
- Tính dữ thừa do nhấn nhá, đệm lót, đẩy đưa, thiếu tính gọt giũa chuẩn mực.
- Tính tỉnh lược tối đa, do lệ thuộc vào ngữ cảnh và tính kế thừa hội thoại.
Từ hai đặc điểm trên, ở mỗi bình diện, mỗi cáp độ ngôn ngữ lại có những điểm
riêng khác, chẳng hạn như : dùng từ có biến thể ngữ âm địa phương, dùng ngữ khí tự,
dùng từ giàu màu sắc biểu cảm, dùng tiếng lóng..., dùng câu dài lặp đi lặp lại với
những mô hình rất khác với mô hình câu trong phong cách ngôn ngữ gọt giũa, và bao
trùm lên cả là cách diễn đạt khẩu ngữ..
Luận văn này thu thập và xử lí tất cả các ngữ liệu trên. Tuy nhiên, để tránh sự
trùng lặp với một số chủ điểm trong các tài liệu nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ,
tại đây, ngoài việc phân loại Miêu tả, chúng tôi còn chú ỷ đến hiệu quả diễn đại của
những phong cách này. Hơn thế nữa, đối với những thành tựu nghiên cứu đã ổn định,
luận văn này cố gắng không nhắc lại. Ví dụ, lâu nay khi nhận xét về cú pháp phương
ngữ Nam Bộ, từ tác giả Nguyễn Kim Thản [96] cho đến Trần Thị Ngọc Lang [58] đều
chỉ thường đề cập đến mô hình như: Bao lớn? Bao dai? Bao sâu?... hoặc " cổ...hà",
"tài... lận" ... Tuy tần suất của các kiểu nói này trọng tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh rất
cao nhưng trong luận văn này chúng tôi sẽ không trình bày kĩ. Bởi vì chúng tôi nhận
thức rằng, nếu quá sa vào lớp ngữ liệu mà người đi trước đã mô tả kĩ, chắc chắn sẽ
khó mà tìm ra cái mới, chi bằng cố gắng Miêu tả trên cứ liệu, ngữ liệu mới, hi vọng
góp một tiếng nói nhỏ của mình vào việc xác định rõ hơn một phong cách ngôn ngữ
tác gia đa dạng, phong phú và đầy cá tính của Hồ Biểu Chánh.
2. Đối tượng nghiên cứu
Trong tiếng Việt toàn dân, do đặc thù về điều kiện địa lí, từ lâu đã hình thành
nhiều phương ngữ: phương ngữ Bắc Bộ, phương ngữ Trung Bộ, phương ngữ Nam
Bộ...Sự phân định ranh giới như thế là sự phân định dựa trên những đặc trứng tiêu
biểu của ngộn ngữ đo cư dân trong vùng sử dụng và sự phân định đó còn nhằm để
nghiên cứu, Miêu tả,.. Trong các phương ngữ của tiếng Việt thì sự khác biệt đậm nét
nhất là sự khác biệt giữa phương ngữ Bắc Bộ với phường ngữ Nam Bộ. Tuy vậy,
trong giai đoạn hiện nay, sự di dân, sự chọn lựa từ ngữ trong giao tiếp... đã làm cho
các phương ngữ xích lại gần nhau hơn, thẩm thấu, chen lẫn nhau tạo nên sự phong phu
cho tiếng Việt toàn dân.
Vấn đề xác định phương ngữ không phải là đơn giản, bởi sự giao lưu sinh hoạt
của người sử dụng nó không phải cố" định, rạch ròi nên đường ranh giới phương ngữ
luôn mờ nhạt. ở đây, khi nói về phương ngữ Nam Bộ, luận văn này thừa nhận sự phân
định mà các nhà Việt ngữ học đã đề ra, đó là phương ngữ mà được cư dân Nam Bộ sử
dụng trải dài từ Đồng Nai, Sông Bé đến Cà Mau.
Khẩu ngữ địa phương là sự thể hiên của phương ngữ trong giao tiếp, nhưng khẩu
ngữ là cái hiện hành còn phương ngữ có thể còn tồn đọng những đơn vị ngôn ngữ mà
hiện tại không sử dụng (từ ngữ cổ). Do đó nghiên cứu khẩu ngữ cũng ỉa nghiên cứu
phương ngữ trong sự hành chức của nó.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là khẩu ngữ Nam Bộ được thể hiện trong
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh và nó được xét cả trên hai bình diện từ vựng-ngữ nghĩa
và cú pháp-ngữ nghĩa. Những đơn vị khẩu ngữ được luận văn xem xét là từ, ngữ và
các mô hình câu khẩu ngữ , và luận văn cũng rất quan tâm đến cách diễn đạt, đặc biệt
là cách diễn đạt mang đặc điểm của khẩu ngữ Nam Bộ. Khách quan mà nhận xét, do
chưa có điều kiện so sánh đối chiếu với khẩu ngữ của các phương ngữ khác nên
nghiêm ngặt có lẽ chỉ nên sử dụng thuật ngữ khẩu ngữ, còn việc dùng định ngữ Nam
Bộ trong khẩu ngữ Nam Bộ chỉ nhằm diễn đạt ý này: khẩu ngữ được dùng ở Nam Bộ
và được tác giả Hồ Biểu Chánh ghi lại trong tác phẩm của mình.
4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Liên quan đến vấn đề khẩu ngữ và khẩu ngữ Nam Bộ trong sáng tác của Hồ Biểu
Chánh, ít nhất có mấy vấn đề sau:
- Ngôn ngữ sáng tác của Hồ Biểu Chánh.
- Khẩu ngữ và khẩu ngữ Nam Bộ với tư cách là một phong cách chức năng và là
một phương tiện biểu đạt có tính cục bộ.
1. Trước năm 1975, tại M1ền Nam, tác gia Hồ Biểu Chánh nói chung và phong
cách ngôn ngữ của tác giả nay nói riêng, đã được giới nghiên cứu chú ý, tuy nhiên số
lượng bài viết không nhiều, đặc biệt là không có bài nghiên cứu kĩ về mặt ngôn ngữ.
Trong tạp chí Văn, số 80 xuất bản tại SàiGòn năm 1967 [60], có một số bài viết
như: Thanh Lãng với bài Hồ Biểu Chánh, Đông Hồ với bài " Hồ Biểu Chánh nhà văn
bạch thoại M1ền Nam , Thiếu Sơn với bài " Nhớ Hồ Biểu Chánh ; đặc biệt, Nguyễn
Khuê với tác phẩm " Chân dung Hồ Biểu Chánh" xuất bản trước 1975, sau này in lại
năm 1998, một cuốn sách gần 300 trang ,khổ giấy 13x19 , đề cập rất nhiều lĩnh vực,
thế nhưng, về mặt hình thức ngôn ngữ, tác giả viết không quá lo dòng, xin dẫn lại toàn
bộ đoạn này: " ... văn Hồ Biểu Chánh tuy cũng có những sáo ngữ, những cấu những
đoạn chải chuôi và nhịp nhàng đãng đối, nhưng nói chung thì bình dị tự nhiên trơn
tuột như lời nói thường của đại chúng, dùng nhiều tiếng địa phương và viết đủng theo
lối phát âm đặc biệt của người M1ền Nam,. Do đó, về phương diện hình thức, tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh còn cống hiến cho các nhà ngữ học nhiều điều rất hữu ích trong
việc nghiên cứu những đặc điểm ngôn ngữ M1ền Nam." [ 51; 267-268]
Tầm Vu, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Y trong "Địa chí văn hóa TP Hồ Chí
M1nh", Nxb Tp.HCM, năm 1988 , trang 241, có viết về tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh: " ... cái mà độc giả M1ền Nam lúc nào cung thích thú là vãn chương giản dị, tả
thực, phản ánh được nhiều đặc điểm xã hội và con người M1ền Nam. trong một thời
kì, thời kì giữa hai cuộc chiến tranh thế giới" [114; 241]
Trần Hữu Tá trong sách "Văn học lớp li", tập 1, khi giới thiệu về tác phẩm " Cha
con nghĩa nặng", cũng có một nhận định khá? quát: " Trong số 65 tập tiểu thuyết của
ông, không ít cuốn còn hạn chế về tư tưởng, nghệ thuật, nhưng nhìn chung ông đã góp
công sức tích cực vào việc hình thành thể loại tiểu thuyết của dân tộc ta trong chặng
đường phôi thai đầu tiên.
Cảnh trí, con người, phong tục tập quán, lời ân tiếng nói... tất cả đều thắm đượm
sắc thá? Nam Bộ." [93; 106]
Như vậy, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã được xem xét trên nhiều phương diện,
nhưng về mặt phong cách ngôn ngữ, trước nay chỉ tập hợp ở một vài nhận xét; một
trong những nhận xét được các nhà nghiên cứu dẫn đi, dẫn lại nhiều lần, đó là về mặt
diễn đạt thì giản dị, sử dụng nhiều yếu tố phương ngữ. Thế nhưng, vai trò của chất
liệu này đối với hiện tượng Hồ Biểu Chánh, đâu là mặt tích cực, đâu là mặt tiêu cực và
sâu xa hơn về mặt hình thức thì cái gì đã tạo nên tính hấp dẫn của tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh? Quả là vấn đề còn để ngỏ.
2.Trước năm 1975, do điều kiện đất nước bị chia cắt, phương ngữ Nam Bộ, nhất
là khẩu ngữ Nam Bộ, ít được chú ý. Sau khi đất nước được thống nhất, có một số công
trình nghiên cứu, đáng kể nhất là các tác phẩm sau:
- Hoàng Thị Châu: ""Tiếng Việt trên các M1ền đất nước", Nxb KHXH, Hà Nội,
1989.
- Bài giới thiệu" Vài nét về phương ngữ Nam Bộ" trong quyển "Từ điển phương
ngữ Nam Bộ" do Nguyễn Văn Ái chủ biên , Nxb Tp HCM, 1994.
- Trần Thị Ngọc Lang: 'Thương ngữ Nam Bộ ", Nxb KHXH, 1995.
3.Về mặt phòng cách khẩu ngữ, hầu như tất cả các tài liệu về phong cách học
đều có đề cập. Tụy cách diễn đạt có khác nhau nhưng những đặc điểm đều tập trung
trên tất cả các bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và diễn đạt. Tuy nhiên, từ tác giả
Cù Đình Tú [112], Nguyễn Nguyên Trứ [110]... đến Đinh Trọng Lạc [52], [53], đều
xác định phong cách khẩu ngữ ở những đặc điểm hết sức khá? quát và chủ yếu trích
dẫn từ các tác phẩm văn học, chứ thật sự chưa có cuộc điều tra bằng cứ liệu khẩu ngữ
tự nhiên như một số công trình nghiên cứu về khẩu ngữ và hội thoại ở nước ngoài.
Điều này đã đặt ra cho người nghiên cứu về khẩu ngữ nói chung, khẩu ngữ Nam Bộ
nổi riêng những khó khăn nhất định trong việc sưu tập tài liệu, cần nhắc lại, khẩu ngữ,
đối tượng nghiên cứu của luận văn này là lời ăn tiếng nói của người dân Nam Bộ được
Hồ Biểu Chánh làm phương tiện diễn đạt trong tác phẩm của mình.
4. Luận văn này trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu về văn học, về
phương ngữ Nam Bộ và đặc biệt về các định hướng có tính chất lí thuyết của lĩnh vực
khẩu ngữ và hội thoại, sẽ khảo sát chúng trong các tác phẩm văn học của Hồ Biểu
Chánh.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Ngoài các thủ pháp nghiên cứu mà bất cứ công trình nào trong nghiên cứu khoa
học cũng đều sử dụng, nhất là ở lĩnh vực khoa học xã hội như: thu thập tư liệu, phân
tích, Miêu tả, thống kê... luận văn còn sử dụng một phương pháp có tính chất bao trùm
, đó là phương pháp hệ thống.
Phương pháp này được sử dụng một cách uyển chuyển, một mặt, xem xét đối
tượng khảo sát trong hệ thống lớn bằng cách nội suy từ các quan hệ bằng con đường
qui nạp, nhưng không tuyệt đối hóa cấu trúc của chúng; mặt khác, cũng hết sức chú ý
đến phạm vi sử dụng có tính chất ngữ đụng và đặc biệt xem xét ngữ liệu đó có giá trị
như thế nào trong việc xác định đặc trưng phong cách cá nhân.
Ví dụ, đối với ngữ khí tự " hôn " , theo cảm nhận có tính trực giác, chúng tôi
thấy chúng xuất hiện rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, của cư dân Nam
Bộ. Khi làm tư liệu, chúng tôi sẽ xem xét tất cả các ngữ cảnh có từ hôn , tiếp theo , sẽ
xem xét nó trong mối quan hệ với các yếu tố gần gũi khác như hôn/ hổng/ ha/ há/ hả/
hử... có tính chất tĩnh tại. Bằng những hiểu biết thu thập được từ con đường này,
chúng tôi sẽ khảo sát chúng trong văn bản để xem thử hoạt động của chúng như thế
nào khi nằm ở vị trí đầu câu, giữa câu, cuối câu... nghĩa là với các chức năng khác
nhau. Sau khi đã có cái nhìn tương đối đầy đủ về phương diện động cũng như tĩnh,
chúng tôi mới tìm hiểu đặc điểm về mặt phong cách đo chúng mang lại.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Khẩu ngữ và khẩu ngữ trong tác phẩm văn học là một vấn đề rất lổn, rất phức
tạp, thành tựu nghiên cứu về chúng chưa nhiều. Do vậy, ở đây chúng tôi không có
tham vọng gì lớn, mà chỉ cố gắng nỗ lực lí giải một số trọng điểm sau đây:
1.Xác định rõ hơn một số đặc điểm về khẩu ngữ, nhất là khẩu ngữ Nam Bộ về
phương diện cấu trúc cũng như chức năng.
2.Phân tích vai trò của chúng với tư cách là một phương tiện diễn đạt về cá tính
của nhân vật cũng như bối cảnh xã hội mang đậm dấu ấn của vùng đất mới khai phá.
3.Từ đó, khắc họa rõ hơn một truyền thống văn học mà đặc điểm dễ nhận biết
nhất là ở ngôn ngữ diễn đạt được xây dựng trên cái nền khẩu ngữ- cái nền mà có thể
kể là bắt nguồn từ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, ... đến HỒ Biểu Chánh, Lê
Hoang Mưu, Phi Vân, Sơn Nam, đến cả Nguyễn Thi, Ánh Đức, Nguyễn Quang
Sáng...
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Dân nhập, phần Kết luận , 9 phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn tập trung ở hai chương:
Chương một:
Đặc điểm khẩu ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh xét trên bình diện
từ vựng.
CHƯƠNG HAI:
Đặc điểm khẩu ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biếu Chánh xét trên bình diện
cú pháp.
CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM KHẨU NGỮ NAM BỘ TRONG
TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH XÉT TRÊN BÌNH DIỆN TỪ
VỰNG
1.1. TỪ NGỮ KHẨU NGỮ
Từ ngữ khẩu ngữ địa phương là một trọng những yếu tố cơ sở xây dựng nên
phương ngữ địa phương, đồng thời nó cũng là một hệ thống từ ngữ nhỏ nằm trong hệ
thống từ ngữ toàn dân. Do yêu cầu giao tiếp trực tiếp và đặc tính địa phương nên lớp
từ ngữ nay có đặc trưng là:
- Giàu tính cụ thể.
- Giàu tính cảm xúc.
- Mang dấu ấn chủ quan (Dấu ấn chủ quan về tâm lí, xã hội của người tham gia
hội thoại, bộc lộ sự hồn nhiên trong khẩu ngữ.)
Từ đặc trưng chung nêu trên, xét về mặt lừ vựng, từ ngữ khẩu ngữ có những đặc
điểm sau:
+ Lớp từ ngữ khẩu ngữ tồn tại và được nhận diện qua các lớp từ :
- Từ địa phương, bao gồm cả biến thể ngữ âm địa phương.
- Thành ngữ, tục ngữ địa phướng.
- Tiếng lóng.
- Lớp từ ngữ khẩu ngữ mang ý nghĩa từ vựng thích ứng với hoàn cảnh giao tiếp,
đó là:
- Diễn đạt có nhiều hình ảnh.
- Diễn đạt giàu màu sắc biểu cảm.
- Thường tạo nên từ ngữ lâm thời có ý nghĩa hàm ẩn trong ngữ cảnh cụ thể.
Khảo sát các ví dụ:
(1)" Mà chàng cũng xem vợ ở nhà như cái cối xay lúa, hay là cái cối giã gao nên
vợ muôn đi chỗ nào, muốn làm việc chi chàng cũng không thèm để ý tới"
(HPLN,tr21)
(2)Tao với mầy kết làm anh em với nhau, hễ tao vui thì mầy phải vui với tao chớ
sao mày lại làm 'mặt quỉ thần hoài vậy?" (CĐMĐ,tr300)
"Cối xay lứa, cối giã gạo", vừa so sánh vừa ẩn dụ để hàm ý nói về người VỢ;
"quỉ thần" vừa so sánh vừa ẩn dụ để nói gương mặt buồn, lạnh lùng. Cũng cần thấy,
cách xưng hô tao/mày, hoặc nhóm tiểu từ hoài vậy ở cuối câu cũng là những dấu hiệu
có thể coi là đặc trưng của khẩu ngữ.
Như vậy từ ngữ khẩu ngữ có những đặc điểm riêng so với lớp từ ngữ trong các
phong cách gọt giũa. Còn từ ngữ khẩu ngữ Nam Bộ, bên cạnh các đặc điểm thể hiện
lời ăn tiếng nói trong giao tiếp hằng ngày, nó còn xuất hiện các yếu tố của phương
ngữ nữa.
1.2. ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ KHẨU NGỮ NAM BỘ TRÊN BÌNH DIỆN TỪ
VỰNG-NGỮ NGHĨA TRONG TIÊU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
Khi tiến hành khảo sát từ địa phương mang màu sắc khẩu ngữ trong tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh, mặc dù chỉ khảo sát 27 tác phẩm (gần bằng phân nửa số tác phẩm
của tác giả ) nhưng chúng tôi cho rằng vẫn có đủ cơ sở để đánh giá, nhận xét. Bởi vì,
từ tác phẩm được sáng tác đầu tiên cho đến tác phẩm sau cùng, phong cách ngôn ngữ
của tác giả vẫn luôn ổn định:
- Từ ngữ địa phương luôn được lặp đi lặp lại trọng các tác phẩm. Câu vẫn luôn
ổn định xét trên bình diện cấu trúc và trên bình diện mục đích phát ngôn.
Riêng về đoạn văn , trong quá trình sáng tác ở Hồ Biểu Chánh có sự chuyển
biến. Trong tác phẩm đầu tay "Ai làm được", (1912-1922), cấu trúc đoạn chỉ mới là
đoạn mang tính hình thức và đại đa số "đoạn vãn" tương đương với "câu" ; nhưng từ
''Chúa tàu Kim Qui", (1922) trở đi thì đoạn văn đã đảm bảo được yêu cầu của đoạn
nội dung và trong đoạn có nhiều câu hơn. Tất nhiên, có thể có lí do ngoài ngôn ngữ,
chẳng hạn như phải lộ thuộc vào yêu cầu Viết cho kịp để in trong nhật báo (cũng cần
thấy thêm rằng, phần lớn các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh trước khi in thành sách đều
đã được đăng trên nhật báo). Đơn cử 7 đoạn mang tính hình thức nhưng thật ra khi
ghép lại chỉ là hai đoạn nội dung :
(3)" Nếu mẹ cháu chết rồi, cháu học làm được ông gì cũng vô ích.
Cháu thương mẹ cháu quá, nên nửa đêm cháu lén mở rương gói áo quần trốn về
Vũng Liêm.
Khi cháu bước vô nhà thấy mẹ cháu nằm thiêm thiếp trên giường, trong nhà
vắng teo chẳng có ai hết, cháu quăng gói chạy lại ôm mẹ mà khóc, Mẹ cháu nhướng
mắt nhìn cháu rồi tắt hơi, không nói được một tiếng chỉ hết." (ALĐ , tr 12)
(4)" Anh ta vào làm việc gặp thầy tên Tú, vốn là bạn học anh ta hồi trước ờ Vĩnh
long, vì thỉ rớt không vào trường Mỹ Tho được nên xin việc làm.
Chí Đại ngó thấy mừng rỡ hết sức, nên lật đật chạy lại hỏi thăm.
Chẳng dè thầy nọ làm ngơ, đã không chịu làm quen với Chí Đại, lại còn bắt lỗi
Chí Đại vô phép, làm cho Chí Đại hổ thẹn mà nực cười, thẹn là thẹn thân hèn hạ, cười
là cười thói kiêu căng, thầm nghĩ chớ chỉ mình giàu sang, chắc người không quen
cũng xúm lại niềm nở," (ALĐ, tr 67)
So với các tác phẩm "Ai làm được" thì trong các tác phẩm sáng tác sau, loại
đoạn lớn hơn câu xuất hiện nhiều hơn . Ví dụ:
(5)Đi được một khúc ước chừng chín mười cổng đất, xảy thấy núi dựng đứng,
sát. mé biển, Chỗ ấy lại cũng có một cái ụ thuyền đậu cơi êm hơn cái ụ hồi nãy nữa,
Anh ta đứng nhắm cái ụ rồi nhắm hòn núi, lại thầy đá dựng đứng đó có một cái hang
lớn, M1ệng hang bề ngang có vài sải và bề cao hơn một tầm, song dây cóc kèn với
dây bìm bìm giăng hết phân nửa." (CTKQ, tr 64)
(6)Ai đi đường Chợ Lớn xuống Gò Công, hễ qua đò Bao Ngược rồi lên xe chạy
khỏi chợ Mỹ Lợi, tới khúc quanh thì sẽ thấy bên phía tay trái, cách lộ chừng ít trăm
thước, có một xóm đông, kêu là Xóm Tre, nhà ở chật, cái trở cửa lên, cái day cửa
xuống, tre xanh kịch bao trùm kín mít, ngoài vuông tre thì ruộng bằng trang sấp liền
từ giây. Qua mùa mưa cây đượm màu, ruộng nổi nước, thì trông ra chẳng khác nào cù
lao nằm giữa sông lớn," (CĐMĐ, tr 5)
c Trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh , nhìn từ góc độ từ ngữ khẩu ngữ địa
phương thì số lượng rất lớn. Để có cái nhìn rõ hơn, số liệu thống kê ở chỉ một tác
phẩm "Chúa Tàu Kim Qui", (ỉ92 trang, hại khổ 13 X 79), sẽ cho chúng tá hình dung ra
số lượng từ địa phương trong tác phẩm: (Số liệu nay chỉ là tương đối chính xác và
không thống kê tần suất của từ.)
Và nếu xem xét trong phạm vi một đoạn, chúng ta sẽ thấy vai trò của từ ngữ
khẩu ngữ địa phương trong việc tạo nên phong cách dung dị của HỒ Biểu Chánh:
(7) " Chứa tàu nghe nói như vây liền trơ qua dựa cửa sổ phía tay trái mà coi, thì
thấy một chú đàn ông ở dưới ghe lươn huôc dựa gốc da đó, đương lum khum tát nước
gheịl). Chúa tàu biết đó là Kỉnh Chi nên trong lòng hồi hộp, mắt ngó chằng chằng, đợi
ngước mặt lên đãng xem coi có quả là Kỉnh Chi hay không (2). Người ấy tát nước
xong rồi liền lại trước mũi ghe mà mở dây, rồi ra sau lái gay chèo mà chèo ngang qua
sông (3). Khi ghe day mũi ra ngoài sông, Chúa tàu dòm thấy mặt người ây chán
chường rồi thì liền cúi đầu xuống, hai hàng nước mắt nhỏ giọt, ngó không được nữa
(4). Trần Mừng thấy Kỉnh Chi ra thì lật đát bơi tam bản qua, có ý chỉ cho Chúa tàu coi
(5."(GTKQ,trl33)
- Câu 1: 8 từ ngữ địa phương
- Câu 2: 4 từ ngữ địa phương
- Câu 3: 4 từ ngữ địa phương
- Câu 4: 5 từ ngữ địa phương
- Câu 5: 4 từ ngữ địa phương
Số lượng từ ngữ địa phương xuất hiện ở các câu trên khá nhiều , chính các từ địa
phương này là một trong những phương tiện làm cho ý nghĩa diễn đạt trong đoạn
mang màu sắc của khẩu ngữ địa phương. Và như vậy, khi đề cập đến khẩu ngữ Nam
Bộ chúng ta không thể không xem xét đến hệ thống từ ngữ tương ứng.
1. Đặc điểm của từ ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh về mặt
ngữ nghĩa so vời từ toàn dân
Bước đầu khảo sát từ ngữ địa phương Nam Bộ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh, có thể khá? quát thành một số đặc điểm chung nhu sau:
1.2.Từ ngữ địa phương có cùng nội dung biểu đạt với từ ngữ toàn dân nhưng
cách thức định danh khác nhau
Ví dụ:
(8)" Cô Năm Đào liếc mắt dòm coi thì thấy Chánh Tâm hình dạng ốm hơn, mặt
mày buồn hơn hồi cô mới gặp." (VNVT,tr 67)
(9)" Đàn bà, chồng con đi làm ăn xa, ở nhà khi không mà có con, làm chồng ai
lại không nghỉ." (CĐMĐ, tr 67)
Ở (8), thay vì dùng "nhìn" hoặc "xem", tác giả dùng "dòm coi" để diễn tả cái
nhìn vừa tò mò vừa e dè của cô Năm Đào đối với Chánh Tâm; hoặc ở (9), "khi không"
vừa mang ý nghĩa "tự nhiên, vô cớ" mà lại còn mang ý nghĩa biểu cảm, bày tỏ thá? độ
bực dọc của Trần Văn Hữu khi nói về vợ là Ba Thời.
Lớp từ ngữ' loại này có số lượng khá nhiều trong sáng tác của Hồ Biểu Chánh.
Chúng là lớp từ đặc biệt thể hiện cách thức định danh riêng của phương ngữ Nam Bộ.
Tuy vậy, cũng có khi làm cho người tiếp nhận khó hiểu bởi cách định danh khá độc
đáo, nếu không có thực tế tiếp xúc hoặc không có ngữ cảnh. Chẳng hạn như '."thầy
hù" để chỉ người thợ cắt tóc, hớt tóc, nhưng nếu mới tiếp xúc, chúng ta chưa thể liên
tưởng để hiểu được ý nghĩa của từ , và chỉ hiểu được khi có ngữ cảnh. Ví dụ:
(10) " Nói chuyện với bạn một hồi rồi gởi thuyền bước lên bờ, kiếm thầy hù cạo
đầu giấc bính và mua hai bộ quần áo khách rồi trờ xuống thay đổi quần áo, bạn tàu
xem thấy chưng hửng không biết anh là khách Quảng Đông hay là người An Nam."
(CTKQ, tr 69)
1.2. Lớp từ ngữ do một yếu tố mang ý nghĩa địa phương kết hợp với một yếu tố
toàn dân
Thực ra, lớp từ ngữ này có cách câu tạo cũng theo qui tắc chung của tiếng Việt
toàn dân, nhưng có lẽ do tâm lí sử dụng của người dân Nam Bộ, Ưa lối diễn đạt rành
rọt, với các cách nói mang tính biểu cảm cao, cho nên lớp lừ này rất đa dạng và phong
phú vồ cấu tạo, ngữ nghĩa, ngữ dụng trong khẩu ngữ nói chung,và khẩu ngữ trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh nói riêng. Ý nghĩa của yếu tố địa phương rất khó xác định , nó
có thể làm tăng thêm hoặc giảm đi ý nghĩa của yếu tố toàn dân và đại đa số các yếu tố
địa phương này đều là yếu tố phụ trong loại từ ghép chính phụ.
Giá trị của lớp từ nay một mặt vừa làm tăng giá trị biểu cảm, mặt khác còn diễn
đạt được ý nghĩa khá? quát.
Ví dụ:
(11) " Tố Nga cúi xuống vỗ con mèo một cái nó chạy đì xa, rồi nàng kéo ống
quần lê mà phủi bụi, lòi bắp chuối trắng nõn mà tròn vo." (KLNC, tr 31)
(12) " Thầy nằm trên ghế xích đu lúc lắc một hồi, mặt mày buồn m" (TTN, tr 88)
Trong (11), "trắng nõn" để Miêu tả khá? quát bắp chân có màu đa thật trắng, mịn
và đẹp, "tròn vo" cũng Miêu tả hình dáng tròn đẹp. Và trong (12), "buồn xo" để Miêu
tả gương mặt rất buồn.
1.3 Lớp từ ngữ hoàn toàn mang ý nghĩa của địa phương tiêu biểu đặc trưng của
khẩu ngữ Nam Bộ.
Ngoài lớp từ ngữ được sử đụng khá phổ biến ở khắp mọi M1ền tổ quốc, bất cứ
một khu vực, địa phương nào cũng.có những lớp từ địa phương "thuần chủng" nhằm
phản ảnh cái riêng, cái "đặc sản" của địa phương, ở đây, trong lớp từ ngữ thể hiện
trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, lớp từ hoàn toàn mang ý nghĩa của địa phương
Nam Bộ có thể được chia ra các nhóm như sau:
a. Nhóm. từ ngữ gọi tên sự vật, đặc sản
- về động vật: vọp, ba khía, cá kèo ...
-Về cây, trái: bần, hùm sum, sưa đũa, ô rô, dừa nước...
- về đồ ăn, thức uống và các từ liên quan: bánh cam, bánh ú, mắm sặc, xé
phay,....
- về đồ dùng trong sinh hoạt: khăn rằn, áo bà ba, tam bản, xuồng, lọp, trùm,...
h. Nhóm từ ngữ chỉ hành động, tính chất, hiện tượng -Hành động: chà lết, te rẹt,
cầm chầu, ... -Tính chất: phì lũ, lộn thinh, cùi đày,...
-Hiện tượng: chạng vạng, nước ương, nước rong, nước giựt, ...
c. Nhóm từ ngữ biểu thị sắc thá? biểu cảm
- Cảm thán: úy, cha cha, cha chả, ý hi, dữ hôn, mèn ơi...
- Nghi vấn: hông, hôn, há, hả,...
- Dùng để nhấn nhá, đệm lót: na, mà, đa, đó, hoài,...
d/ Nhóm từ ngữ dùng để thay thế (hồi chỉ)
- Cho người: ổng, chỉ, cổ, mở, cẩu, thấy, ảnh,thẳng, dưởng, cỏn...
- Cho vị trí: bển, trỏng, ngoải, trển, đẳng.
- Cho thời gian: hổm, nam.
đ. Nhóm từ ngữ dừng để liên kết, đẩy đưa
- bèn, ngặt, chớ, thà...
- thiệt quả, té ra, chẳng thà, nào dè, chẳng dè,...
- cực chẳng đã, không có chi gì, cơ khổ hôn...
(xem thêm phụ lục số 3)
Các nhóm từ ( c), (d ), (e) sẽ được nêu thêm ở Chương Hai. Riêng ở hai nhóm
(a) và (b) có một đặc điểm khá thú vị đó là một số từ được cấu tạo với một hình tượng
gợi ý khá cụ thể làm nổi bật lên cá tính "thấy sao nói vậy" của cư dân Nam Bộ. Chẳng
hạn như: hùm sạm, chang ba, xuồng ba lá, bao đồng, tréo ngoáy, chà lết... ; những từ
ngữ này được liên tưởng bởi hình tượng gợi ý, thể hiện sự tri nhận của cư dân đồng
bằng sông cửu Long trong cách định danh sự vật:
- băm sạm (danh từ): loại cây thấp, nhiều cành nhỏ, lá nhỏ, rậm rạp, thường dùng
làm hàng rào và cây cảnh, từ đây có sự phát triển nghĩa theo hướng mở rộng, "hùm
sum" còn được dùng như một tính từ để chỉ sự um tùm của một cụm cây, cụm hoa...
- chảng ba: nơi tiếp giáp giữa thân cây và cành hoặc nơi cành lớn rẽ thêm cành
nhỏ.
- xuồng ba lá: loại thuyền nhỏ, thân thuyền được ghép bằng 3 M1ếng ván mỏng
dài.
- hao đồng: (khắp cánh đồng), Thường dùng"ftỡỉ bao đồng" là nói chung chung
không đâu vào đâu .
- tréo ngoáy : Ngồi ghế mà tréo chân với nhau.(thường dùng với ý xấu)
- Chà lết: hành động lặp đi lặp lại của tư thế ngồi, ngụ ý chỉ người hay la cà ở
nhà người khác. (thường dùng với ý xấu)
Cần thấy, khi Miêu tả bằng từ ngữ, rõ ràng đó có thể là dấu hiệu dễ nhận biết
nhất về khẩu ngữ địa phương:
(13) " Hai người đứng nói chuyện tới đó, kế con Ngó bưng ra một mâm bánh để
trên cái bàn giữa, trong mân có bốn dĩa bánh, một dĩa bánh bao, một dĩa bánh xếp,
một dĩa bánh bót lọc và một dĩa bánh bông lan nhún đậu đen." ( KLNC, tr 39)
1.2.1. Đặc điểm của từ láy khẩu ngữ Nam Bộ về mặt ý nghĩa
Nhìn chung, cách cấu tạo từ láy khẩu ngữ Nam bộ cũng không có gì khác biệt
với cách cấu tạo chung của từ láy toàn dân toàn dân: láy phụ âm đầu, láy vần, láy
thanh điệu, láy hoàn toàn. ở đây không đi sâu vào cách câu tạo cũng như so sánh sự
khác biệt, nét đặc thù của từ láy khẩu ngữ Nam Bộ với từ láy toàn dân mà chỉ nêu ra
một số đặc điểm về mặt ý nghĩa của lớp từ láy này. ị về mặt cấu tạo xin xem phụ lục
4).
1.2.2 Đặc điểm về mặt ý nghĩa của từ láy đôi
Lớp từ láy đôi trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, về mặt ý nghĩa có những đặc
điểm chung sau:
- Thường dùng để diễn đạt cho "người" với hình tượng gợi ý độc đáo.
- Thường dùng để diễn đạt cho "sự vật, động vật" với sự tượng thanh, cách điệu
hóa.
a. Nhóm từ láy với hình tượng gợi ý
Dùng để diễn đạt hành động, hình dáng, cử chỉ, và tâm lí cho "người", ví dụ:
(I) Diễn đạt hành động:
- (chạy) lúc thúc/ lục thục/lểnh nghinh...
- (ngó) trân trấn/láo liên/dáo dác/chằn chằn/ ...
- (coi) ngó ngộ/xui xi/chăm bẩm/...
- (khóc) thúc thíưnhề nhệ/rấm ríu, rấm rức...
(II) Diễn đạt hình dáng, cử chỉ:
- (mặt) bèo nhèo/bùng thụng/chừ bự/...
- (tay) dịu nhĩu/oam oam/cong vòng/...
- (người) vâm vỡ/dình dàng/...
(III) Diễn đạt tâm lí:
- (sợ) lâm lét/ phập phồng/...
- (đứng) cóm róm/xơ rơ/...
- (tánh) tiện tặn/quạu quạ/...
Tất cả từ láy thuộc (i), (ii) và (iii), nếu tách rời từng từ một, tuy ngữ nghĩa của
chúng có gợi ra những liên tưởng lạ nhưng dù sao vẫn là những nét nghĩa rời rạc và
chúng chỉ thật sự phát huy chất đậm đặc khẩu ngữ khi được tác giả dùng để mô tả
ngoại hình hoặc tâm lí nhân vật.
Ví dụ:
(14)" Thằng Tý với con Quyên day lại, thấy cậu ha Giai đứng chần
ngần giữa chòi thì kinh tâm loạn trí, mặt mày tái xanh, mở mắt nhìn cậu trân
trân mà không nói được một tiếng." (CCNN, tr 135)
(15)" Trần Văn Sửu ở nhà dưới, cóm róm bước lên xá bà." (CCNN, tr 142)
(16)" Một đôi tháng chồng về một lần, mà về thăm một ngày một buổi rồi đi, chớ
không cho vợ một cắc nào, mà coi bộ còn quạu quạ nữa" (CĐMĐ, tr 12)
(17)" Cổ vào đơn xin phá hôn thú, tòa chưa xử thì cổ có nghén, bụng thè lè."
(VNVT, tr 24)
Như đã nói, nhóm từ láy này thường dùng chủ yếu để mô tả hoạt động, trạng
thá?, tính chất của các nhân vật, nhưng cũng có một số từ lại được sử dụng cho sự vật,
hiện tượng tự nhiên, ví dụ:
- (nhà) xịch xạc/lum hùm/khoảng khoái/...
- (đêm) tịch mịch/...
- (trời) chạng vạng/...
- (mưa) dầm dồ/...
Quả nhiên, các từ láy trong ngôn bản sau đã phát huy được tác dụng Miêu tả bức
tranh rất động của nông thôn Nam Bộ, khó lẫn với vùng khác:
(18)" Chung quanh nhà không có một cọng cỏ. Hai bên chá? nhà có hai hàng sưa
đũa, trái tòn ten gió đánh đùng đưa. Dọc theo mé rạch, có một đám lá dừa râm rạp,
ánh phong trần không cho lọt vào nhà. Còn phía sau hè cớ mây bụi chuôi tiêu, tàu xu
xop quày lòng thòng, để quen bầy dơi rần rát." (NCGĐ, tr 69)
b. Nhóm từ láy tượng thanh-cách điệu hóa
Theo quan sát bước đầu của chúng tôi, nhóm từ này không nhiều, thường được
phân bố trong phạm vi Miêu tả cảnh, động vật và cũng không thể hiện sự đều đặn
trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh , chủ yếu dùng cho hiện tượng tự nhiên và động
vật.
(i) Dùng cho hiện tượng tự nhiên:
- (gió) ồ ào/ sạt sạơ xào xào/vần vũ...
- (mưa) đùng đùng/giéo giắưrần rần/rỉ rả...
- (nước chảy) ro re/ ồ ào/nhóc nhách...
(ii) Dùng cho động vật, sự vật:
- (kêu) cạp cạp/ Liệt oạc/ chét chét/...
- (sủa) ẳng ẳng/ inh ỏi/...
Ví dụ:
(19)" Tàu rút chạy, chân vịt quay đùng đùng, súp lê thổi inh ỏi." (BV, tr 15)
(20)" Đêm nay trời mưa rỉ rả, như tiếng đơn thảm., như giọng hát sầu. Sau vườn,
ảnh ương kêu uênh oang, trên vách thằn lằn chắc lưỡi." (KT,tr213)
2.2. Đặc điểm của từ láy tư
Trong sáng tác của Hồ Biểu chánh, số lượng từ láy tư không nhiều và nhóm từ
láy này cũng thường sử dụng cho người, sự vật, động vật và giá trị của nó là làm tăng
thêm giá trị Miêu tả hình ảnh, hoạt động, âm thanh.
Ví dụ như:
- bơ hơ bãi hãi
- hôn thơ hôn thú
- bồng chanh bốc chá ch
- lao nhao lố nhố
- hôn trơ hôn trát
- cắc ca cắc cùm
- ni na ni nan
- râm ra râm rít
(21) .... Sắp chăn trâu thây trời gần tối nên đuổi trâu về chuồng, trâu đì dưới
ruộng ni na rú nần, mấy đứa chăn cỡi trên lưng hát râm ra rẩm rít." (CĐMĐ, tr 29)
Bên cạnh kiểu từ láy này, trong cách diễn đạt phổ biến ở Nam Bộ còn có dạng
dùng cặp từ " vừa ... vừa...", đi... đi..." nói... nói..." ( "vừa đi vừa nói", "đi đây đi đó",
"nói đông nói tây"),rõ ràng hiện tượng này về mặt hình thức cấu tạo liên quan đến cấp
độ ngữ pháp. Tuy nhiên, xét về mặt hiệu quả diễn đạt thì lại gần với hiệu quả của láy
tư mang lại, đặc biệt cách lặp rất đa dạng, tự nhiên, mang đậm dấu ấn khẩu ngữ. Xin
được lưu ý, về hệ tôn ti, ở đây, các cặp từ này có liên quan đến các cấu trúc cú pháp,
nhưng trọng tâm của luận văn là muốn vươn tới xác lập một số đặc điểm khẩu ngữ
trên cấp độ từ vựng, chứ thực ra cũng không hiếm lí do khác để xếp chúng vào tổ hợp
cú pháp, nghĩa là nên xem xét chúng dưới góc độ cú pháp. Có thể nêu lên một số cách
dùng như sau:
- và... và...
- kể ... kể...
- thiệt... thiệt...
- là ... là...
- liếm...liếm ...
- nát... nát...
- lớp... lớp...
- giựt... giựt... "
- nháy... nháy...
- ra... ra...
Ví dụ:
(22) " Chúa tàu nghĩ tới đó mới tính hễ Triều đình hủy án cho mình rồi thì mình
chường mặt, bày thiết ho thiệt tên, rồi về Tân Châu mua đá làm. mả cho cha mẹ, đặng
mồ phần cho ấm cúng. " (CTKQ, tr 188)
(23)" Lúc thằng nhỏ đương đóng cửa chuồng vịt thì con chó thủng thẳng bước ra
ngoắt đuôi mừng, rồi liếm cẳng liếm tay, coi như hình tiếp rước." (CĐMĐ, ừ 7)
(24)" Mầy phải nói tên nó chơ tao biết, đặng tao đến nhà nó tao đào nát ông nát
cha nó cho nó biết mặt tao." (CCNN, tr32)
2.3 Từ láy ba
Từ láy ba rất hiếm, theo quan sát của chúng tôi trong 27 tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh, mới chỉ tìm thấy được 3 từ láy ba: " lắc cắc cụp" (tượng thanh), "đánh đùng
đưa" (tượng hình), "dửng dừng dưng" (bày tỏ thá? độ).
(25)" Ngoài đường chẳng có ai đi, duy có một tên lính mã tà thơ thẩn đi tuần,
gặp thầy lật đật xú, và xa xa thấy có mấy đứa nhỏ đương vây gánh mì mà ân, còn chú
chậc bán mì thì đứng chống tay trên đòn gánh mà gõ lắc cắc cụp, lắc cắc cụp... . " (
TTN, tr 89)
(26)" .... Hai bên chá? nhà có hai hàng sưa đũa, trái tòn ten gió đánh đùng đưa."
(NCGĐ, trố9)
(27)" Vợ chồng tôi thấy cái óc của mẹ con chị cả thiệt dửng dừng dưng!"( CG. tr
191)
Nhìn chung, cách sử dụng từ láy của Hồ Biểu Chánh là thường nghiêng vồ diễn
đại cái cụ thể. Nhưng cái cụ thể ấy không làm nghèo nàn cho ý nghĩa diễn đạt, trái lại,
qua đó tạo cho đối tượng Miêu tả những hình tượng có nét đặc sắc sinh động, bất ngờ
mà rất gần gũi với lời ăn tiếng nói bình thường của người lao động.
Chẳng hạn như khi diễn đạt hành động "đứng", chúng ta thường gặp cách nói
"đứng trang nghiêm", "đứng co ro" , nhưng ở Hồ Biểu Chánh thì dùng khá nhiều từ
láy để hình tượng hóa cách "đứng" : " đứng châm bẩm", "đứng chàng ràng", "đứng ké
né", "đứng dụ dự", "đứng xớ rớ", "đứng chần ngẩn", "đứng chưng hửng", "đứng bợ
ngợ", " đứng xụi lơ", "đứng xui xi", "đứng tồng ngồng"
(28)" Thằng Được với con liên bước vô nhà thấy nhà cửa kinh dinh, ghế tủ hực
hơ thì ké né không dám ngồi. " (CĐMĐ, tr 90)
(29)" Như Thạch thấy chú Hưng đứng xớ rớ trước sân thì kêu mà biểu ra xe vác
cái rương và va li đem vô nhà." (TT, tr 26)
(30)"Cô Phùng Xuân bối rối quá, không biết dùng chước nào mà từ, nên đứng du
dư hoài." (TGGT, tr 41)
(31)" Đứng chần ngần dựa mé ao một hổi rồi Thủ Nghĩa quày quả trở ra, đi
ngang qua mấy cái nền nhà là chỗ khi mới vô trông thấy rất đau lòng mà anh ta cũng
không thèm dừng bước, cứ lầm lũi đì riết ra ngoài đường rồi băng xuống ruộng nhắm
hướng nam mà đi tới." (CTKQ, tr 47)
(32)" Hương thị Tào đứng chưng hửng, thằng Tý bỏ chạy ra lộ, ông ngoại nó
muốn níu lại mà níu không kịp." (CĐMĐ, tr 125)
Như trên đã nêu, nhóm từ láy tượng thanh tuy số lượng sử dụng không nhiều
nhưng khi quan sát kĩ chúng ta sẽ nhận được sự biến âm và biến ý rất thú vị. Ở đây
các từ tượng thanh nhờ ngữ cảnh xuất hiên, câu chữ bỗng nhiên cựa quậy, nhiều khi
người đọc cảm được mà rất khó lí giải.
Trở lại với ví dụ (21):
"... 1 Sấp chăn trâu thấy trời gần tối nên đuổi trâu về chuồng, trâu đi dưới ruộng
ni na ni nần, mấy đứa chăn cỡi trên lưng hát rẩm ra râm rít. " (CĐMĐ, tr 29)
Từ láy "ram ra râm rít" không những tạo âm thanh hát nho nhỏ vu vơ không
nghe được lời cửa "sắp chăn trâu" mà còn gợi lên hình ảnh thảnh thơi thong dong của
người mục đồng cưỡi trâu về nhà.
Và, người đọc cũng sẽ như vừa nghe "tiếng sóng", "tiếng gió", vừa như thấy hiện
lên trước mắt cảnh ở bờ sông :
(32) " Gió thổi lao rao, đưa sóng đánh vào mé đất lách xách, nhánh bần lức lắc,
lá xuôi một phía khua tiếng lào xào. " (CCNN, tr42)
Một vấn đề khác cỏ thổ nhận thấy qua lớp từ láy trong tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh nói riêng và của từ địa phương Nam bộ nói chung là : lớp từ láy khá phong phú
và đa dạng về mặt hệ thông, tinh tế và hiệu quả về mặt ngữ dụng. Chúng tôi sẽ trở lại
vấn đề này trong các tiểu mục tiếp theo.
1.3.VAI TRÒ CỦA LỚP TỪ NGỮ KHẨU NGỮ NAM BỘ TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA HỒ BIỂU CHÁNH
Như đã xác định, lớp từ ngữ khẩu ngữ Nam Bộ có vai trò hết sức quan trọng
trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Tính chất quan trọng không chỉ bó hẹp trong phạm vi
ngôn ngữ mà còn liên quan đến các nhân tố bên ngoài ngôn ngữ, chẳng hạn như tính
quần chúng, sự chuẩn bị của ngữ cảnh...
Trong phạm vi xác định, tiểu mục này sẽ khảo sát vai trò của chúng trong việc
diễn đạt cũng như tác dụng trong tiếp nhận văn học do chúng mang lại.
Nếu xét về mặt giá trị nội dung, tiểu thuyết của Hồ biểu Chánh luôn được sự ủng
hộ của độc giả Nam Bộ, đặc biệt là người bình dân, bởi các nguyên nhân sau:
- Đề tài, chủ đề phù hợp, gần gũi với tâm lí của cư dân địa phương: Cư dân vùng
đất mới, gặp nhau, kết bạn với nhau, hình thành quan niệm sống có thủy có chung, sẩn
sàng "cứu khổ phò nguy", lên án cái xấu, bênh vực lẽ phải, chân thật, thong dong tự
tại, và " Tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim"...
- Kết cấu của tác phẩm luôn luôn có hậu : "ở hiền gặp lành".
- Ngoài ra, ngôn ngữ kể truyện như lời ăn tiếng nói hằng ngày phù hợp với tâm lí
tiếp nhận của người đọc. Tại đây, luận văn sẽ phân tích kĩ đặc điểm này.
1.3.1. Lớp từ ngữ khẩu ngữ và tính quần chúng
Tính quần chúng ở đây được hiểu theo nghĩa rộng: tính đại chúng, tính toàn dân.
Mặc dù lớp từ địa phương trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có nhiều từ xa lạ với từ
toàn dân nhưng lớp từ này vẫn được quần chúng hiểu được nhờ vào các điều kiện sau:
1.3.1.1. Ngữ cảnh là cầu nổi giữa yếu tố khẩu ngữ từ ngữ với người
tiếp nhận
Sự tri nhận của người đọc đối với lớp từ địa phương có lúc sẽ không hiểu được
nội dung ý nghĩa, nhất là đối với lớp từ mang tính "đặc sản" nhưng khi đặt nó vào
trong ngữ cảnh cụ thể hoặc so sánh với từ toàn dân thì vẫn hiểu được ý nghĩa của từ.
Do đó, nếu chỉ đơn thuần tiếp nhận "từ " một cách "từ điển" thì dễ dẫn đến ngộ nhận
rằng từ ngữ địa phương Nam Bộ chỉ sử dụng được cho cư dân vùng này. Hay nói khác
đi, tính quần chúng của lớp từ ngữ địa phương trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
được ngữ cảnh làm nền để người tiếp nhận hiểu được ý nghĩa của từ.
Chẳng hạn, nếu chỉ đơn thuần tiếp xúc từ "chíp" , "khắc bạc", "bẻ đẩu, luốt lát" ,
thì khó mà hiểu được nghĩa của các từ này; nhưng khi tiếp xúc văn bản thì nội dung
đoạn, câu sẽ giúp chúng ta tìm ra được ý nghĩa của nó . "Chíp " mang ý nghĩa "giữ,
ghi, khắc ghi" ; "khắc bạc " mang ý nghĩa "hà tiện, keo kiệt" ; "bẻ đầu" mang ý nghĩa
"lấy lãi, lấy công, lấy phần" và "luốt lát" mang ý nghĩa "ít, qua loa" :
(33)" Bà than rằng rừng xứ nấy dễ phá, đất xứ nẩy phân nhiều vì người trong xứ
không có tiền bạc mà qui dân cho đông, nên chưa mở rừng làm ruộng được bao nhiêu.
Lê Văn Đỏ nghe như vậy thì chíp trong bụng thầm tính về Tân Hòa hễ kiếm chị dâu
với sắp nhỏ được rồi thì dắt hết trở qua đây ở mở rừng làm ruộng. " ( NCGĐ, tr 61)
(34)" Tôi là Lê Văn Tố gốc ở Trường Bình, vợ chồng nghèo nên phải mướn
ruộng của tên Trương Công Sanh mà làm. Trương Công Sanh giàu lớn mà nó khắc
bác lắm." (NCGĐ, tr.30)
(35)"Khi nào không có đồ may, trong nhà phải thiếu hụt thì gói bánh ú đem gởi
cho mấy quán họ bán, giao 12 bánh cho họ bẻ dầu 2 bánh, tự nhiên họ chịu liền."
(VGCT, tr 40)
(36)" Vĩ trong mình đã cố bịnh sẵn lại thêm sinh sản, mà cũng vì tiền bạc khiếm
khuyết nên thuốc men luốt lát, bởi vậy thân thể cô Nhung ngày một thêm ôm mặt mày
của cô ngày một coi thêm mệt." (TT, tr 118)
Như đã phân tích, có thể bạn đọc không biết nghĩa của các từ "chíp", "khắc bạc",
"bẻ đầu", "luốt lát" nhưng do tác giả chuẩn bị ngữ cảnh khá cụ thể nên người đọc có
thể dễ dàng lĩnh hội được nội dung mà tác giả muôn diễn đạt.
Cũng xin được lưu ý, một số từ vừa phân tích ở trên có thể coi là những từ đậm
chất phương ngữ Nam Bộ nhưng xét về mặt hành chức thì chưa ổn định, bởi hiện nay
ít còn được sử dụng.
1.3.1.2. Sự biến thể ngữ âm và sự đồng dạng của từ ngữ địa phương với từ toàn
dân cũng là cơ sở để người tiếp nhận hiểu được nghĩa của chúng về mặt lí thuyết, như
ai này đều biết, tiếng Việt là một ngôn ngữ thông nhất ở mức độ cao. Tuy vậy, tiếng
Việt lại tồn tại dưới các giọng địa phương cụ thể. về mặt ngữ âm, giọng Nam Bộ có
một số biến thể ngữ âm do xuất phát từ hệ thống âm vị địa phương. Hơn nữa, do nhiều
lí do ngoài ngôn ngữ, như hiện tượng kiêng húy, cũng làm cho bộ mặt ngữ âm ở đây
có phần khác biệt so với hệ thống ngữ âm tiếng địa phương khác. Điều này thể hiện
trước hết trong giọng nội, và cũng được phần nào phản ánh trong khẩu ngữ trong tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh, bao gồm cả trên hai bình diện: ngôn ngữ nhân vật và ngôn
ngữ của người dẫn truyện.
Mặc dù khẩu ngữ địa phương trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh rất đậm đặc , phát
âm nghe lạ tai , nhưng nhờ sự biến thể ngữ âm và sự đồng dạng về cách cấu tạo với từ
toàn dân nên vẫn giúp cho người tiếp nhận tự liên hệ, liên tưởng để hiểu được nghĩa
của từ.
Ví dụ như khi tiếp xúc với lừ địa phương nghe lạ tai, người tiếp nhận sẽ tự liên
hộ, so sánh và hiểu được ý nghĩa:
+ "bợ ngợ " có sự tương đồng về loại lừ láy, có sự gần gũi về ngữ âm nên sẽ hiểu
là ." bỡ ngỡ"; tương tự như thế sẽ hiểu được nhiều từ láy: chộn nhộn/nhộn nhịp ,
quanh quất /quanh quẩn, dục dặc/chần chờ, thè lè/lồ lộ ... Tất nhiên ở đây, về mặt
tương quan ngữ nghĩa thì cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì đó chỉ là nội dung liên
tưởng ngữ nghĩa chứ về thực chất là hoàn toàn không đồng nhất về mặt vỏ ngữ âm.
Hoặc, hiểu được sự biến trại ngữ âm sẽ tiếp nhận được ngay ý nghĩa của các từ "
đương/đang, chơn/chân, ngãi/nghĩa, nhứt/nhắt.".
Các đại từ dùng thay thế mang tính chất hồi chỉ " Ổng, bả, cẩu, mở, dường,
ngoải, nam,.." trong liên hệ sẽ hiểu được " ông đố, bà đó, cậu đó, mợ đó, dượng đó,
ngoài đó, năm xưa...1'
Ví dụ:
(37)" Té ra dượng Hai ở dưới Thốt Nốt đi xe hơi lên, dường ngừng xe ngay chỗ
bụi gừa lớn đó, rồi dường lại nhà kêu cửa." (KT, tr 215)
(38)" Mợ Hai mở nói mượn trà sao mượn hoài, mở biểu lại quán mà mua mà
uống chớ mở không cổ trà mà cho mượn nữa. May có cậu Hai ở nhà cẩu nghe cấu rầy
rỗi cẩu lấy cho mượn đỏ đa. " (CCNN, tr 65)
+ Các nhóm từ loại "đỏ chạch, cay xé, ngó riết, tái lết, xanh chành,... " khi so
sánh với dạng từ toàn dân có cấu tạo tương đương : " yếu tố chính có ý nghĩa rõ ràng
kết hợp với yếu tố phụ để tạo nên ý nghĩa mới (tăng hoặc giảm ý nghĩa của yếu tố
chính.) " thì sẽ hiểu được mức độ ý nghĩa của từ.
1.3.2. Lớp từ ngữ khẩu ngữ với việc Miêu tả tính cách nhân vật
Như trên đã nêu, nội dung tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là rất gần gũi với đặc
điểm tâm lí của cư dân Nam Bộ, bởi đề tài, chủ đề, kết cấu đều là những sự việc,
những vấn đề gần gũi với cược sống.
Tư tưởng chủ đề của các truyện luôn tuân thủ theo quan niệm đạo lí của những
người tha hương mong muốn nối kết tình bạn, xây dựng một cuộc sống lí tưởng đẹp
đẽ. Do đó, trong tác phẩm luôn có sự phân định rạch ròi trong suy nghĩ, hành động
của nhân vật: căm ghét cái ác, ca ngợi thủy chung, hiếu nghĩa, phê phán cái xấu, xây
dựng cái tốt, sẩn sàng cứu khổ phò nguy và " làm ơn há dễ trong người trả ơn" V
Vì bị chi phối bởi quan niệm ấy nên trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh luôn có
hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện là đại diện cho chính
nghĩa, cho cái tốt, còn nhân vật phản diện thì ngược lại.
Hồ Biểu Chánh chẳng những xuất thân là nhà nho thấm nhuần đạo lí Khổng
Mạnh mà còn là một cư dân Nam Bộ mang đậm tính cách đặc thù của con người vùng
đất này, cho nên khi xây dựng nhân vật trong tác phẩm ông luôn chú trọng khắc họa
tính cách nhân vật bằng hệ thống từ ngữ có lựa chọn.
Như trên đã nêu, lớp từ ngữ địa phương Nam Bộ, nhất là từ láy, được Hồ Biêu
Chánh sử dụng khá nhiều, song chủ yếu dùng để Miêu tả ngoại hình , hoai đông của
nhãn vát hơn là Miêu tả về tâm li nhân vát ,và thường thiên về cảm lính hơn là lí tính,
thường thiên về cái bên ngoài hơn là cái sâu kín bên trong. Từ đó, khi khảo sát lớp từ
ngữ địa phương này, một điều đặc biệt có thê nhìn thấy là gần như hình thành hai
tuyến từ ngữ cho hai tuyến nhân vật bong tác phẩm:
2.1 Lớp từ ngữ khâu ngữ với việc Miêu tả ngoại hình nhân vật Thử so sánh hai
đoạn Miêu tả ngoại hình của hai nhân vật mà tác giả giới thiệu khi nhân vật xuất hiện
lần đầu tiên trong tác phẩm:
(39) " Thị Lựu, là vợ của Sửu, mình mặc cái quần lãnh đen, một cái áo vải đen
còn mới, đầu gỡ láng nhuổt. răng đánh trắng nõn, tai đeo một đôi bông có nhận hót
thủy tinh, cổ đeo một sợi dây chuyền có trái tim treo nhồng nhảnh, tay mặt có đeo một
chiếc đồng í rơn, tay trái có đeo một chiếc niết chỉ.
Đang bồng đứa con nhỏ hết, đứng tựa cửa, thấy chồng về đã không thèm hỏi mà
lọi còn nguýt một cái (CCNC, tr12)
(40) " Nàng để đầu trần, tóc vuốt mà bới chớ khổng cần lược nhưng mà tóc nàng
xấp xải hai bàn tang, đầu tóc nàng xu xop đứng sau ót, làm cho chiều lả lơi pha lộn
với vẻ hữu tình. Mặt nàng không đồi phấn mà trắng hồng hồng, môi nàng không thoa
son mà ưng đỏ đỏ; hàm răng nàng khít rít mà lai trắng trong; Chơn mày nàng cong
vòng mà lại nhỏ mức; ngón tay nàng dài mà lại nhọn như mũi viết, lại thêm phao hồng
hồng; móng tay nàng suôn đuôi nên đánh đơn xa coi diu nhíu, bàn chân nàng không đi
giày, mà gót ừng đỏ, bàn nơ vun, nên hễ gió phất ống quần thì ai cũng phải ngó.
Tướng mạo nàng đẹp đẽ dường ấy mà lại thêm tánh tình nàng Chơn chánh, cử chỉ
nàng thanh tao nữa, bởi vậy tuy nàng ở trong nhà dân giả bần hàn, song phẩm giá
nàng chẳng kém gì gái trâm anh phiệt duyệt." (NCGĐ, tr. 71)
Ở hai đoạn trên, chúng ta thấy số lượng từ ngữ địa phương M1ên tả ngoại hình
của nhân vật khá nhiều. Cảm nhận đầu tiên của chúng ta về cách giới thiệu sẽ hình
dung được nhân vật (Thị Lựu) trong (39) có một điều gì đó khác thường, còn nhân vật
(Ánh Nguyệt) ở (40) có dáng dấp của người chân chính. Nếu so sánh cách dùng từ
ngữ trong Miêu tả thì sẽ có nhận ra sự chủ ý về cách dùng từ của tác giả:
Trong hệ thống tĩnh tại, ý nghĩa của từ luôn là cố định, song trong ngữ cảnh và
với dụng ý của tác giả thì giá trị ý nghĩa của nó có khác đôi chút, các trường hợp nêu
trên là ví dụ cho ý định của tác giả khi sử dụng từ ngữ để Miêu tả. Hay nói khác đi, để
khắc họa ngoại hình nhân vật, Hồ Biểu Chánh luôn tận dụng từ ngữ vừa đặc biệt của
địa phương vừa mang tính toàn dân để Miêu tả .
Đối với "Thị Lựu", tác giả Miêu tả hình dáng, ngắn gọn, một chiều : những từ
ngữ " láng nhuốt, trắng nõn", ý nghĩa của từ ngữ này là bình thường nhưng nằm trong
một trường liên tưởng thì hoàn toàn khác; từ " nhông nhảnh " ý nghĩa của từ càng
được tăng cao khi nằm trong ngữ cảnh có yếu tố chủ quan của tác giả; ở từ "nguýt"
cũng bị chi phối bởi ngữ cảnh và ý định tác giả nên làm tăng thêm ý nghĩa xấu cho
nhân vật; tất cả cho thấy ý định chủ quan của tác giả khi giới thiệu một nhân vật mà
tương lai sẽ không phải là người chân chính, đứng đắn.
Đối với "Anh Nguyệt", tác giả Miêu tả tỉ mỉ hơn và với chủ định làm lộ ra người
con gái nết na đằm thắm - đây cũng là cách diễn đạt tương phản theo phạm trù thẩm
mĩ dân giã bắt nguồn từ các hình tượng nhân vật trong hát bộ - và dùng các từ "mà,
nhưng mà, mà lại" để khẳng định thêm ý nghĩa của những từ Miêu tả trước đó. "Ảnh
Nguyệt" không se sưa, chưng diện nên tóc chỉ " vuốt mà bới" chứ không "gỡ láng
nhuốt" và cổ không "đeo dây chuyền... " như "Thị Lựu" và việc chăm sóc nhan sắc
của nàng cũng rất bình thường "hàm răng khít khao mà lại trắng trong' chứ không
"đánh răng trắng nõn" như "Thị Lựu" . v.v...
Rõ ràng, cách Miêu tả như thế là để thấy chứ không phải để cảm.
Đôi với nhân vật nam, khi Miêu tả, Hổ Biêu Chánh cũng với ý định chủ quan
như vậy nên thường dùng những từ ngữ địa phương gợi hình khi tả một mẫu người
tốt, cương trực thẳng thắn hoặc tả một người xấu.
Chẳng hạn, khi tả người tốt thì "mắt rạng ngời", còn khi giới thiệu kẻ gian manh
thì " mắt láo liên, mắt nháy lìa nháy lịa"...
(41) " Khiếu Nhàn bước vào kéo ghế mà ngồi, ngó quanh quất không thấy khách
ăn uống, duy có một người trai trạc chừng mười bảy, mười tám tuổi, đương ngôi tại
bàn gân cửa mà viêt. Ong thay người M1ệng rông, moi dày, vai ngưng, trán trợt, tóc
hớt cút, mắt rang ngời, tư cách nghiêm trang, mặt mày sáng rỡ, tuy y phục tầm thường
mà hình dung không phải như người thường, bởi vậy ông cứ ngơi ngó hoài." (ALĐ, tr
3)
(42)" Chúa tàu ngồi ngắm Trần Tấn Thân, thấy vóc thì cao hơn, cằm có mọc râu
lém đém, coi khác hơn xưa, nhưng mà cặp mắt nháy lia nháy lịa, mát thỏn mà dài thiệt
là tướng người gian giảo tham lam, chẳng đổi chút nào hết." (CTKQ, tr 175)
Khi Miêu tả ngoại hình nhân vật, nói chung, Hồ Biểu Chánh thường Miêu tả các
bộ phận trên đầu (tóc mặt, mắt, M1ệng , mũi, má, môi, tai...), hình dạng (tay, chân,
dáng đi) và cách tả thường đơn giản với những từ ngữ địa phương, đồng thời hay dùng
cách tả ước lệ nhưng nhân vật của Hồ Biểu Chánh vẫn toát lên nét tính cách riêng của
một lớp người và mang đậm màu sắc Nam Bộ.
Do đó, chúng ta có thể nhìn thấy những người phụ nữ đoan trang hoặc người đàn
ông đứng đắn ở những tác phẩm khác nhau đều có những nét tương đồng với nhau về
tướng mạo, trang phục:
(43)" Sáng bữa sau, anh ta thức dậy sớm, rửa mặt rồi bước ra trước hiên mà xem
kiểng. Cách chẳng bao lâu có một cổ trạc chừng mười lãm, mười sáu tuổi, mình mác
áo tím, đầu choàng khăn trắng, đi giày thêu, cáp dù dỏ, gương, mất sáng như hoa nở,
hàm răng đều như hát bắp, tướng đi diu dàng, dung nhan tuấn tú ở ngoài bước vào
sân, bộ muốn đi thẳng lại cái của mà thấy có Chí Đại đứng đó, nên quẹo qua tay trái,
đi dọc theo tưởng rồi đi thẳng vô nhà sau." (ALĐ, tr 16)
(44)" ...Cô là người chớn chất, khổng chịu thoa son gioi phấn, chẳng hề tỉa mải
tóc, nhổ Chơn mày, y phục thì dừng hàng đen với trắng, chớ không ưa màu đỏ xanh,
nói chuyện thì dừng tiếng ngọt lời êm, chẳng hề thấy cô lả lơi giễu cợt. ... " (TTN, tr
50)
(45)" Thầy Bình ra sau hết, thầy mặc cái áo đỉa M1nh lương, với mót cái quần
tây trắng, đầu đôi nón nỉ xám, chân mang giày, tây vàng, thầy đứng tại của nhà hầu
mà ngó, M1ệng có ngâm điếu thuốc, tướng mao đẹp đẽ mà lại nghiêm nghị, " (BV,
tr.6)
(46)" Ông Cái Lân Cư, tuổi đã sáu mươi bốn, mà sức còn mạnh mẽ, tóc xúp ráp,
râu le the, mình mác mót cái quần vải trắng cũ trổ màu luốc luốc, với môi cái áo quàn
đông vải xiêm tay rông, vai có dắt mót cái khăn vằn sóc xanh sóc trắng.... " (NĐ, tr.7)
2.2 Lớp từ ngữ khẩu ngữ với việc Miêu tả tâm lí nhân vật a. Tâm lí nhân vật khi
bộc lộ thường gắn liền với lời nổi và hành đông. Cá tính nhân vật trong tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh rất dễ nhận ra khi nhân vật đó nói hoặc hành động. Cũng không phải
là hữu ý, nhưng khi tạo cho nhân vật một câu nói, một hành động nào đó, với tính
phong phú của khẩu ngữ Nam Bộ, tác giả sẽ cho nhân vật tuôn ra những lời thô lỗ nếu
đó là nhân vật phản diện và sẽ có những lời nói đầy ân tình, đạo nghía, nếu đó là nhân
vật chính diện.
Chẳng hạn như thể hiện tâm lí tức giận của một nhân vật không đoan chính,
chanh chua với chồng, Hồ Biểu Chánh đã cho nhân vật ấy chửi theo những mô hình
khẩu ngữ rất phổ biến ở Nam Bộ:
(47)" Mà thằng nào nói với mầy điều đó kìa. Mầy phải nối tên nó cho tao biết,
đặng tao đến nhà nó tao đào nát ông nát cha nó cho nó biết mặt. Tao lấy Hương hào
Hội hồi nào, tao có đem lên bàn thờ cha nó tao lấy hay sao nên nó ngó thấy mà nó
dám nói như vậy hử? Thằng nào nói xấu tao đó, mầy phải chỉ tên nó cho mau. "
(CCNN, tr 31)
hoặc lời nói hờn đỗi của người mẹ giận con:
(48)" Oi! Thôi thôi! Tao với nó không còn tình mẹ con gì nữa. Nó đừng có về
đây mà choe giàn tao. Tao đã nhứt định tao từ nó rồi. Tao nói cho vợ chồng bây biết;
Ngày nào tao chết, bay cũng đừng cho thằng quỉ đó hay; nếu bây cãi lời tao cho nó về
đây, nè, tao bứt néo đa. Tao nghĩ lại cha của bây thật là vô phước. Đầu đuôi có thằng
con trai, mà nó hoang đàng, làm xấu hổ cho tông môn không biết chừng nào."
(CCNN, tr 96)
Và khi nói về đạo lí, đạo nghĩa thì từ ngữ cũng vừa bình dân, vừa phù hợp với
tâm lí ưa giản dị , vừa mang đặc trưng xem trọng đạo lí của cu' dân phương Nam.
Trong "Ai làm được", Chí Đại bày tỏ lòng chân thành của mình với Bạch Tuyết vừa
bình dân mà ngữ điệu thật trang trọng, và ở đây, trong các tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh, chứng ta sẽ thường thấy xuất hiện cách nói khẩu ngữ trong lời đối thoại của
nhân vật , đặc biệt có khá nhiều thành ngữ, tục ngữ trong câu nói. (xem thêm phụ lục
số 5)
(49)" Chớ chi thương cô mà có thể báo thù giùm cho cô được, lại cũng giữ giùm
cho cô toàn vẹn danh thơm tiếng tốt, thì dầu cho tôi mang hại đến nỗi tan xương nát
thít đi nữa, tôi cũng chẳng xá gì." (ALĐ, tr 59).
(50)"Cồn một điều nấy lấy ìàm«khỏ cho cô nữa; cô vấn con nhà sang trọng, thuở
nay ăn no ngủ kỹ. vào ra kẻ da người thưa, phận tôi nghèo nàn hèn hạ. cổ kết tóc với
tôi sợ e cổ phải dầm sương gọ ị nắng cực khổ thân cô." (ALĐ, tr 60)
hoặc Thu Thủy bày tỏ lòng biết ơn cứu tử của Chúa tàu Kim Qui:
(51)" Vậy em xỉn Chua tàu thương giùm thân em cho em ở dưới tàu nấu cơm
nấu nước, giặt áo, giặt quần cho Chúa tàu, trước là nhờ hột cơm manh áo đặng no
bung ấm thân, sau nữa trả nghĩa đền ơn hườn sanh cứu tử." (CTKQ, tr 94)
b. Khi Miêu tả tâm trạng của nhân vật, một điểm đặc biệt nữa của Hồ Biểu
Chánh là cũng không thoát khỏi tâm trạng truyền thống trong nghệ thuật Miêu tả "
người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", nhưng Hồ Biểu Chánh Miêu tả cụ thể, "trần tục
" hơn , như cách nghĩ, cách nói thẳng thắn bộc trực; tâm trạng nhân vật thiên về cảm
tính, cái bên ngoài hơn là lí tính, cái bên trong.
Quan sát hai đoạn Miêu tả tâm trạng của hai tác giả, một của Khá? Hưng và một
của Hồ Biểu Chánh, để thấy rõ hơn những nhận xét sau:
(52)" Ngọc ở nương chè về, dáng điệu buồn rầu, đứng tựa cột hiên chùa, nhìn vơ
vẩn. Dưới chần đồi, thẳng cửa Tam quan trông ra, con đường đất đỏ ngòng ngoéo đi
tắt về phía rặng tre xanh biếc, bao bọc mây xóm xa xa. Bên đường lạch nước phàng
lặng phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh như tấm kính dài." (Khá? Hưng, Hồn bướm mơ
tiện, tr 35, NXB Khanh Hòa, 1992)
(53)" Ánh Nguyệt chong đèn một mình, lúc ngó ngọn đền thấy gió tát đèn xao dạ
những bàng hoàng, khi ngó ra sân thây bọt nước hiệp tan lòng thêm áo não. Nhìn
quanh quất thì có một người với một bóng, lóng tai nghe thì tiếng dế lon với hạt mưa
sa. Người buồn mà cảnh còn giục buồn thêm, thân đã khổ mà phận lại còn khổ nữa,"
(NCGĐ, tri36)
- Trong (52), nhân vật "Ngục" với tâm trạng buồn rầu lặn sâu trong tim , dường
như lạnh lùng với cảnh vật và cũng dường như ngậm ngùi man mác hòa nhập nỗi lòng
của mình vài cảnh.
- Còn ở "Ánh Nguyệt", trong (53), tâm trạng buồn của nàng biểu hiện ra khá rõ
ràng ở cách nói khẩu ngữ: ngồi một mình, ngó, nhìn, nghe những cái cụ thể chung
quanh nàng. ớ đây không so sánh về nghệ thuật của hai tác giả mà chỉ nêu lên vai trò
của từ ngữ địa phương và đặc điểm Miêu tả của Hồ Biểu Chánh. Nói rõ hơn, lớp từ
ngữ địa phương cũng là một trong những nhân tố làm cho việc Miêu tá tâm lí nhân vật
có nét riêng.
1.3.3. Lớp từ ngữ khẩu ngữ với việc khắc họa một vùng đất Nam Bộ
Như ở mục II.1 và II.2 đã nêu , các lớp từ ngữ hoàn toàn mang tính địa phương
này vừa khắc họa cho việc Miêu tả nhân vật, vừa phản ánh một cách rõ nét sinh hoạt
của một vùng đất. Ớ đây, khi đặt vấn đề này, một vấn đề rất rộng , do đố trong phạm
vi của chuyên luận, chúng tôi chỉ trình bày ở hai vấn đề : từ ngữ khẩu ngữ trong tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh khắc họa cho thiên nhiên và khắc hoa cho con người của
vùng đất Nam Bộ.
1.3.3.1 Từ ngữ khẩu ngữ khắc họa thiên nhiên Nam Bộ Thử so sánh
các đoạn văn Miêu tả như sau:
(54)" Buổi chiều thửa ruộng của Tân đã gặt xong. Cả cánh đồng chỉ còn trơ
cuốrtíỊ ra. Bọn thợ ịịặl đều thu xếp liềm. há? để trở về. trên con đường vào làng, các
lực điền gánh những gánh lúa vàng nặng trĩu."
(Thạch Lam, Gió đầu mùa, Những ngày mới, ÍT 30, NXB Khánh Hòa, 1992)
(55)" Vừa mới tầng sáng, ngọn lúa sương dầm ướt, dưới hào vít tắm loi ngoi.
Đàn bà gánh bông súng ra chợ, hai thúng nặng nhún xuống nhún lên: đùn ông đi câu
cá trở về, cần câu vác oăc òa ọăc oai." (CCNN, tr 31)
(56)" Đoàn Thôn là một cái phố chợ tồi tàn gần ngay một huyện lỵ nhỏ ở trung
châu. Hai dãy nhà lụp xụp, mái trạnh xuống thấp gần tới thềm, che nửa những cái giai
nứa đã mục nát. Gần đấy là những quán chợ xiêu vẹo, đứng bao bọc một căn nhà gạch
cá gác, bưng bít như một cái tổ chim, nhà cửa một người giàu trong làng làm ra đây đề
bán hàng."
(Thạch Lam, Gió đầu mùa, Nhà mẹ Lê, tr 12, NXB Khánh Hòa, 1992)
(57) " Ở trên Chợ Lớn đi xuống cần Giuộc. khi gần tới dốc cầu đúc bắt để qua
chợ, nếu bạn lưu ý thì tự nhiên các bạn sẽ thấy bên phía tay mặt có mót thớt vườn sum
sê. nằm cách công lộ chừng một trăm thước. Từ mé lộ vô tới vườn có một bờ đắp rộng
lớn cao ráo, xe ngựa, xe hơi vô ra dễ dàng. Bờ phóng ngang qua đám mông, hai bên
không cổ trồng cây cối chi hết, đầu trong đi ngay vô giữa vườn, không có cửa ngõ,
nhưng phía nẩy mỗi bẹn có trồng một hàng cây bông hụp để làm hàng rào. Dài theo
rào thì có trồng cây sụa đũa, đến mùa nạy nó trổ bông trắng nõn xem cũng vui vui.
Qua khỏi rào rồi thì tới một cái sân lớn bỏ trống để mùa gặt chất lúa bó mà đạp, còn
một bên thì có một cái chuồng lợp lá dừa để nhốt trâu." (HPLN,tr 7)
Khi so sánh, khảo sát các đoạn văn nêu trên, chúng tôi không chủ định so sánh
nghệ thuật viết văn của hai tác giả với hai tác phẩm ở các thời điểm khác nhau -Thạch
Lam, Gió đầu mùa, 1937 và Hồ Biểu Chánh, Hạnh phúc lối nào,ỉ957- mk qua đây
nhằm chứng M1nh cho sự hiện diện của thiên nhiên, vùng đất được phản ánh trong tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh.
Thiên nhiên, vùng đất, quê hương đã được Hồ Biểu Chánh giới thiệu thật rõ và
gần gũi và hết sức chân thật theo kiểu " thấy gì nói nấy, có gì nói nấy" không cần phải
đẹp. Do đó những cảnh vật bình thường tầm thường cũng được nêu lên ngổn ngang
như bức tranh thủy mạc với nhiều màu không được lựa chọn là những từ ngữ địa
phương, khẩu ngữ bình dân. Và do vậy, bức tranh sinh hoạt Nam Bộ với những đặc
điểm riêng rất lạ so với nông thôn Bắc Bo" Qua ngòi bút tả chân của Hồ Biểu Chánh
nông thôn đã hiện lên; và bằng lớp từ ngữ khẩu ngữ Nam Bộ bao gốm nhiều loại từ
định danh sự vật, đặc sản cùng các lớp từ liên quan khác như láy, ghép là những nhận
tố có ý nghĩa quyết định là làm rõ đặc trưng về thiên nhiên của một vùng đất.
Ở ví dụ (54) và (55), cùng là cảnh sinh hoạt có người, có hoạt động có cây cảnh,
nhưng cảnh lao động trong (54) như một bức tranh đẹp, điều này dễ hiểu bởi đây là
cách Miêu tả của ngôn ngữ văn chương "Tự lực văn đoàn". Nhưng, ở (55) cũng cách
sinh hoạt đó mà người tiếp nhận thấy hồn nhiên, hay nói khác đi, chính tính địa
phương đã làm cho đoạn Miêu tả có nét riêng. Hàng loạt hình ảnh, từ ngữ của địa
phượng đã tô đậm cho việc giới thiệu địa phương : tảng sáng, hào, vịt, bông súng, loi
ngơi...
Thiên nhiên là đối tượng trữ tình của việc Miêu tả, mà thực tế d đây được phản
ánh trong tác phẩm lại như "bê nguyên xi", đó là nét đặc biệt trong việc sử đụng từ
ngữ địa phương của Hồ Biểu Chánh để khắc họa cho thiên nhiên Nam Bộ.
Cũng thế, khi khảo sát (56) và (57), thiên nhiên, đặc trưng của vùng đất Nam Bộ
hiện lên ngồn ngộn với từ ngữ chỉ địa danh, từ ngữ chỉ đặc sản, với cảnh vật, cách
sống khác hẳn với địa phương khác : Chợ Lớn, cần Giuộc, bông hụp, SÚC! đũa, bờ
phóng ngang qua đám ruộng ... thể hiện đặc trưng vừa là giới thiệu địa phượng Nam
Bộ ,vừa là giới thiệu vùng đất tự nhiên khoáng đạt; chính khẩu ngữ từ ngữ địa phương
đã góp phần cho việc khắc họa này. Chúng ta sẽ bắt gặp cách giới thiệu nnhư thế trong
nhiều tác phẩm khác của Hồ Biểu Chánh với nhiều từ ngữ địa phương , thói quen
trọng cuộc sống , kiểu cách riêng của địa phương Nam Bộ:
(58) " Thầy giáo Thư ở mót cát nhà lá ba căn xông, đầu trên, phía mặt trời lặn,
có cất một cái nhà cũng lợp lá, song rộng hơn, mót khúc để chứa lúa, còn mót khúc để
nấu ăn. trước nhà có một cái sân, Cái sân ấy chạy ra sát mí lộ, nhưng vì chủ nhà muốn
phân biệt nên có trồng một hàng cây bông búp để làm hàng rào, lại có làm cửa ngõ, tối
khép lại, đặng để cho kẻ đi đường khỏi trà trộn vào sân." (ĂTTƠTT, tr 40)
Để diễn đạt điều này, rất nhiều tờ ngữ địa phương được sử dụng, chẳng hạn nếu
lấy một đặc trưng về thiên nhiên của Nam Bộ là vùng đất nhiều sông nước chằng chịt
thì sẽ có hàng loạt từ liên quan:
(i) Định danh liên quan sông nước
- rạch, kinh, vũng, hào , bưng, tráp, đìa, lung, ao,...
- (cái)bung, thời, đăng, rọ, bè, chộp, gió, trùm,
- (cá) lóc, sặc, ngát, linh, trên, lìm kìm, lòng tong...
- (con) vọp, ram, ba khía, tép lóng, tép rong, tôm he,tôm tích...
- (cây) bần, mắm,đước, tràm, dừa nước, ô rô, cóc kèn, chà là,...
- xuồng, ghe, đầm, tam bản, ba lá, tắc rán, cà dom...
- (nước) ương, sình, đứng, rong, giựt,...
(ii) Biểu thị hoạt động liên quan sông nước
- lội,hụp, cạy, thả ngửa, xốc đứng...
- vét (mương),gay (chèo), rộng(cá), đăng (cá), chộp (cá)...
- bụm, hớt, múc, nhận, rê, nhử ....
(iii) Biểu thị tính chất liên quan sông nước
- lum chũm, len bền,
- (nước) ương, sình, đứng, rong, giựt,sát, ninh, sình...
- (nước) lợ, phèn, chua, chát,...
- chậm như cua bò,ốm nhách như con M]2, đeo cứng như sam.... Ví dụ:
(59)" Còn ngoài đồng thì rải rác có người đứng theo mấy bờ ruộng mà câu cá,
đầu đội nón lá, mình mặt áo sơ sài, đứng châm bẩm, dầu tê. cá lốc hay là nhử cá rổ.
cũng bền chí đứng cả buổi, không sợ nắng, khống biết mỏi. Giữa cánh đồng M1nh
mông, gần hay xa đâu đâu cũng là lúa, mấy chú câu nẩy giúp tạo ra một bức tranh đẹp
đẽ, hữu cảnh hữu nhơn, lại có mấy xóm dạng dạng (ỳ trong xa, với giăng cây trâm bầu
áng trước mấy cái nhà sùm súp. " (HPLN, tr 6)
(60)" Tuy ông nhổ sào gay chèo êm ái, không ai hay, nhưng mà trước khi xô ghe
ra, ổng đứng ngó quanh quất, ông lóng tai nghe tứ hướng, thấy đâu đố đều im lìm, rồi
ông mới cất mái chèo Mà chèo. Ghe ra tới sộng lớn, ông oaỵ mà đi xuống phía dưới
Rừng Sát. Ông chèo cho tới sáng bét, gặp một cái vàm rách nhỏ, mà hai bên vàm có
hai cây đước lớn, ông bèn quay ghe vô vàm. Rạch thì quanh co khó đì, mà hai bên mé
lại vét, cóc, bần mọc xen lộn với nhau, nhánh giao du, lá rậm rạp, bởi vậy ghe chè ọ
trong rách mà cũng như chun trong hang." (NCGĐ, tr 264)
Rõ ràng, từ ngữ khẩu ngữ liên quan đến hiện thực Nam Bộ, tự bản thân nó đã
cung cấp một sỐMặc trưng khó lẫn lộn với vùng khác. Có điều, như đã nói, lớp từ ngữ
này không hoàn toàn trung tính mà thông qua cách cảm nhận, cách đánh giá hiện thực,
nhờ vào cảnh để ngụ tình theo quan niệm truyền thống... Tất cả đủ tạo nên bức tranh
/đúng hơn, đó là hoàn cảnh mà trong đó nhân vật hoạt động gắn liền với một vùng
thiên nhiên rất dễ xác định.
1.3.3.2 Từ ngữ khẩu ngữ khắc họa con người Nam Bộ
Khắc họa về chân dung của con người có thể nhìn thấy ở nhiều mặt: ngoại hình,
ngôn ngữ, cử chỉ, hành động.... Trong chuyên luận này, khi nêu lên vấn đề khắc họa "
con người Nam Bộ" ý định không phải là giới thiệu một "mẫu" tiêu biểu mà là nhấn
mạnh về vai trò của từ ngữ khẩu ngữ địa phương góp phần tạo nên hình ảnh con người
địa phương.
Trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, những nhân vật do ông xây dựng khá đa
dạng: quan phủ, quan huyện, thầy thông, thầy ký, hương thị, hương hào, hội
đồng,chánh tổng, cai tổng,điền chủ, tá điền, bạn ở, thợ gặt, ... nhưng phần lớn là
những người trung lưu trở xuống, sinh sống gắn liền với ruộng đồng. Nếu tổng hợp
chung về cách giới thiệu nhân vật, lời đối thoại, chủ đề được đề cập.. trong tác phẩm
được diễn đạt bởi lớp từ ngữ địa phương, chúng ta sẽ có được một số dấu hiệu riêng
của con người Nam Bộ mà Hồ Biểu Chánh đày công khắc họa về: trang phục, ngôn
ngữ, cử chỉ và quan niệm sống.
Thực ra, nếu mở rộng cách tìm hiểu thì rõ ràng có thể còn có nhiều phương diện
khác cũng góp phần;tô đậm cá tính của con người Nam Bộ, như cách "giữa đường gặp
chuyện bất bình chẳng tha" chẳng hạn, hoặc như cá tính cương trực, yêu thương nhân
nghĩa, ghét cay ghét đắng cái xấu... Tuy nhiên, đẫy là những vấn đề thuộc phạm vi nội
dung và cũng là cá tính của con người Việt Nam nói chung. Đó là lí dó mà vì sao ở
đây, chúng tôi chỉ chọn trang phục; ngôn ngữ, cử chỉ và quan niệm sống để phân tích.
a. Đặc trưng về trang phục
Trang phục của những nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh được giới thiệu
không nhiều và cũng có trang phục mang tính truyền thống của người Việt như "áo
dài, khăn xếp..." nhưng ở đây,tác giả giới thiệu những trang phục khá đặc trưng không
thể lầm lẫn với trang phục ở địa phương khác: áo bà ba, quần xà lỏn, quần cụt, khăn
rằn....; nếu người giàu thì dùng "quấn lãnh" , "áo bà ba lụa trang" "áo dài cấm nhung
đen" "áo màu bông hường" và đeo "dây chuyền", "nỉệt chỉ", "đồng thoa" ... và nếu
người nghèo thì trang phục giản đơn , xấu xí hơn.
Ví dụ:
(61)" Nó đứng dựa đầu ván mà chờ thì Lê Văn Tiết ở ngoài bước vô trước, rồi có
một người lạ đầu bịt một cái khăn nhiễu trắng, mình bận quần lãnh đen lưng xanh, áo
bà ba lua trắng dài phủ mọng tron, tay cặp một cây dù máy cán cong như mỏ giằng
xay lúa." ( CĐMĐ, tr 31)
(62)" Nó dòm ông già ấy thì thấy ông mình mặc một cái áo xuyến dài cũ, trong
có áo cổ giữa trắng, dưới mặc quần lãnh đen, đầu bịt khăn be nhiễu đen, chờn đì giày
hàm ếch da láng, người vóc lớn, M1ệng rộng, moi dày, râu thưa mà dài lại bạc hoa
răm,trán cao, mặt đùn da mà cặp mắt lớn, đôi chớn mày rậm." (CĐMĐ, tr53)
(63) " Anh ta mặc một cái áo đen nhún nhục, một cái quẩn vắn lai đứt tả tơi, đầu
bít mót cái khan rằn, M1ệng ngậm trầu một búng, tay mặt cầm một khúc cây cóc, tay
trái xách một xâu hai con cá lóc với ba bốn con cá rô." (CCNN, tr 11)
Như vậy, lối Miêu tả đặc trưng về trang phục như trên, một mặt phản ánh chính
xác sinh hoạt ở Nam Bộ vào đầu thế kỉxx, mặt khác, như đã nói, đề cập đến trang
phục ở đây, không phải Miêu tả để mà Miêu tả, thực chất đó còn là tín hiệu giúp
người đọc phân biệt: trang phục nào là của bọn nhà giàu, trang phục nào gắn liền với
người lao động, và khá? quát hơn, trang phục nào gắn liền với loại người tốt và ngược
lại. Tuy Hồ Biểu Chánh chưa thoát khỏi những quan niệm thẩm mĩ của đạo đức truyền
thống, nhất là ảnh hưởng của lối trang trí, phục trang của những nhân vật trong tuồng,
có điều do biết gắn với sinh hoạt riêng của một vùng đất, nên những trang viết của ông
rát sát với thực tế.
b. Đặc trưng về ngôn ngữ nói
Như đã biết, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh rất đậm đặc từ ngữ địa phương, phản
ánh cái riêng của vùng đất mà không thể lầm lẫn với nơi khác. về mặt ngôn ngữ, để
khắc họa cho một vùng đất, từ ngữ khẩu ngữ địa phương sẽ giữ vai trồ này. vấn đê cần
nhấn mạnh ở đây là từ ngữ địa phương, nhất là khẩu ngữ địa phương như một phương
tiện luôn ngự trị và được bảo tồn trong một vùng đất rộng lớn, mà ở đó do nhiều lí do
khác nhau rất thuần nhất về văn hóa, phong tục tập quán và cả về mặt ngôn ngữ. Điều
này hoàn toàn khác với phương ngữ Bắc Bộ và Trung Bộ. Và chính điều này cũng giải
thích được vì sao tác phẩm của Hồ Biểu Chánh vẫn còn được nhiều người, trước hết là
dân Nam Bộ vẫn còn ưa thích đến ngày nay.
c. Đặc trưng về quan niệm sống
Phản ánh trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là hình tượng của con người
'Trang, Hiếu, Tiết, Nghĩa1' và từ cơ sở đó, chúng ta thấy trong truyện thường xuất
hiện nhiều hành động, lời nói, đạo lí, đạo nghĩa, xem việc cứu người làm trọng, làm
ơn không mong người trả ơn ... Quan niệm sống này không phải chỉ được nhìn thấy từ
Hồ Biểu Chánh mà nó là một nét đặc biệt của cư dân tứ phương tự đồng ỷ lây đó làm
cơ sở, thước đo để kết bạn, kết thân với nhau , điều này được ghi nhận phản ánh rất rõ
trong ca dao, cổ tích địa phương và ở nhiều tác giả đi trước ( Nguyễn Đình Chiểu,
Phan Văn Trị...), và cũng được nhiều tác giả đi sau thể hiện ( Bình Nguyên Lộc, Sơn
Nam....).
Chúng ta không còn lạ với lí tưởng nhân nghĩa trong Lục Vân Tiên của Nguyễn
Đình Chiểu : "Lạc Vân Tiên, Hớn M1nh, Ông Ngư, Kiều Nguyệt Nga" những con
người đại diện cho "Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa" , sẩn sàng làm việc nghĩa , luôn giữ vẹn
tiết trinh... và trong ca dao, dân ca Nam Bộ chúng ta cũng thấy nhiều câu hát xem
nặng ân tình:
(64)" Ngó lên chữ Tứ, ngớ xuống chữ tư... Anh có thương thì thủng thẳng em ừ,
Anh đừng thương vội, phụ mẫu em từ... không hay ĩ"
(65)" - Ruộng năm dây cầy lúa cà dúm chùm,
Chỗ nào nhơn nghĩa chỉ dúm cho em.
- Ruộng năm dây bắt nhẽ đất mềm, Nhà anh nhơn nghĩa em xem có vừa!"
(66)"- Bước lên đường vắng, hỏi bạn chung tình,
Vậy chớ, bướm xa ong tại nhị, còn em xa mình tại ai?
- Câu oằn vì bởi trái sai,
Anh xa em. vì bớt ông mai ừ lời!"
Trong những sáng tác gần đây, Sờn Nam cũng giới thiệu những hành động vừa
nghĩa hiệp vừa đạo lí vừa phảng phất kiểu cách của "người nghĩa hiệp , người trọng
nghĩa"
Trong các truyện “Một cuộc bể dâu”, "Bắt sấu rừng u M1nh Hạ", (Sơn Nám,
Hương rừng Cà Mau, NXB Trẻ 1986) có những sen truyện gây XÚC động bởi hành
động "giúp người làm phước" . Vợ chông Ong Hai Tích sẩn sàng dùng "cái thớt trên
của cối xay lúa" để giúp cho thằng Kim neo, chôn người cha bị chết trong mùa nước
nổi ở Đồng Tháp Mười (Một cuộc bể dâu), hoặc hành động sẩn sàng đi bắt cá sấu để
trừ hại cho dân làng của ông Năm Hên (Bắt sấu rừng ƯM1nh Hạ).
Ở tác phẩm của Hồ Biểu Chánh có không ít những hành động vì nghĩa: Kỉnh Chi
chỉ mới dạm hỏi Thị Xuân, biết Thị Xuân bị bọn cường hào hãm hiếp mà vẫn một
lòng hi sinh giúp gia đình bên vợ, kể cả nuôi con của kẻ ác, khi có người khen sự hi
sinh lớn lao đó thì Kỉnh Chi chỉ trả lời một cách ngắn gọn:
(67)" Có ơn chi đâu." (CTKQ, tr 194);
hoặc Ông Thiên Hộ trông thấy ông Sáu Thổi bị chìm xuồng giữa sông, gió to
sóng dữ mà vẫn quyết chí bơi xuồng ra cứu:
(68)" Ông Thiên Hộ thấy vậy thì nhăn mặt châu mày. Ông tuốt áo quần nhảy
xuống chiếc xuồng nan của ai buộc gần đó, ông cầm cây dầm bơi riết, coi mạnh dạn
vô cùng. hơn một trăm người đứng trên bờ ai thấy cũng đều chắt lưỡi xanh mặt....
Ông Thiên Hộ mặc áo vô rồi cũng đi về nhà, ông đi trước, tá điền kéo theo sau,
chẳng ai mà chẳng trầm trồ khen ngợi." (NCGĐ, tr 220)
Công bằng mà nói, để thể hiện một quan niệm sống đã được hình thành từ lâu
mà đến nay vẫn còn rõ nét trong một số tác gia Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh đã sử dụng
mọi cấp độ ngôn ngữ. Có điều hình như quan niệm về cái đẹp mang ý nghĩa trang
trọng, đài các có phần dễ quan sát hơn khi ở cấp độ từ ngữ. Những M1nh họa sau đây
là cố gắng đi theo hướng phân tích này.
(i) Đôi với những sự việc đạo nghĩa thì thường dùng lớp từ trang trong và hay
dùng tục ngữ, thành ngữ để Miêu tả, ám chỉ.
Đặc điểm này cũng có thể do ảnh hưởng của bản thân tác giả là một người xuất
thân từ nho họe, chẳng hạn như khi Chí Đại bày tỏ lòng biết ơn đối với Bạch Khiếu
Nhàn:
(69)" Thôi phận cháu nghèo hèn, ví dầu kiếp nẩy không đền ơn trọng, đáp nghĩa
dày được thì cháu nguyền kết cỏ ngâm vành kiếp sau." (ALĐ, tr 38)
hoặc lời than của Lê Thủ Nghĩa về hoàn cảnh gia đình của mình:
(70)" Nào dè, đến Cái vừng, nghe cha mẹ đà sớm tách suối vàng: em gai cũng
hồn du đìa phủ: em rể thì vì thế mặt cho mình mà tấn gia bai sản, thân bình bồng
khống biết trồi nại đến xứ nào." (CTKQ, tr 52) .
Vấn đề vân dung và sáng tao thành ngữ của Hồ Biểu Chánh là vấn đề khá đặc
biệt, chuyên luận này chỉ nêu lên để chứng M1nh cho việc khắc hoa con người Nam
Bộ coi trong đạo lí đạo nghĩa nên khi nói về đề tài này thì bao giờ cũng sử dụng lớp từ
ngữ trang trọng hoặc những từ ngữ mang ý nghĩa trung tính chứ không đi sâu vào giải
thích, cấu tạo.
(ii) Ngoài những tác dụng do lớp từ ngĩí khẩu ngữ nói riêng, khẩu ngữ Nam bộ
nói chung mà bước đầu luận văn đã phân tích ở trên, một số đặc điểm khác cũng toát
lên từ việc biết khai thác lớp từ ngữ khẩu ngữ một cách tự nhiên.
Hồ Biểu Chánh sử dụng so sánh cũng thật tự nhiên, nghĩ sao thì nói vậy:
(71)" .... cái áo bông lủng hết nên có lỗ như đừ rổ." (ALĐ, tr 89),
(72)"... bà mợ xuống nước chay te như gà mái mắc mưa.... " (HPLN, tr43)
(73)" Bên hè có cây đu đả ngọn lên cao gần ngang đầu song, cổ có tới vài chục
trái, dưới lớn hằng cái chén ăn cơm, trên nhỏ như trái cau ăn trầu."(CĐCL,tr4)
Hoặc khi sử dụng ẩn dụ để ám chỉ một điều nào đó thì cũng dùng những hình
ảnh rất gần với cuộc sống. Ví dụ để ám chỉ "người vợ":
(74)" ... Ông phải cắn răng rán bận cái áo chát hẹp của me sắm, rán chịu cái cối
xay nằm chàng ràng đặng có làm ra gạo" (HPLN, tr 110) và cũng rất dí đỏm dung tục
khi sử dụng hình tượng so sánh, ẩn dụ " ruộng lớn, ruộng nhỏ" trong đoạn đối thoại:
(75)" Hương tuần Tam cười nói với thằng Xuyên rằng:
- Mầy muốn làm mộng thì biểu vợ mầy quen với Hương hào Hội, tự nhiên có đất
chứ gì.
- Sao vậy?
- Thì vậy chớ sao. Thằng Sửu nó cũng nhờ có vợ nó quen với Hương hào Hội,
nên nỏ mới mướn được ha chục công đất đó chớ. Vợ mầy còn nhỏ, không biết chừng
mầy mướn còn nhiều hơn thằng Sửu nữa à.
Thằng Xuyên suy nghĩ một hồi rồi nói rằng; " Chú nói kỳ quá! Ai mà chịu vậy."
Hương tuần Tam cười ngất rồi đáp rằng:
- Vậy chớ thằng Sửu đó sao? Phải thí mông nhỏ mới có mông lớn chớ.
- Thà là chịu chết đói, chớ ai chịu khốn nạn như vậy được.
- Không chịu thì thôi. " (CCNN,tr23)
1.4. TẠM KẾT
1.Các yếu tố từ vựng khẩu ngữ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh mặc dù đã
có sự chọn lọc, nhưng do yêu cầu Miêu tả, tác giả đã tạo nên một lớp lừ ngữ đa dạng.
Sự đa dạng của các lớp từ ngữ địa phương này về ý nghĩa đã làm cho chúng mang
màu sắc khá đặc biệt, nhất là lớp từ hoàn toàn mang đặc trứng Nam Bộ ở đơn vị định
đanh . Trong lớp từ này thì ở nhóm từ láy giữ một vai trò rất quan trọng trong Miêu tả,
diễn đạt; nó làm cho câu nói, câu văn có một dáng vẻ riêng khó mà lẫn với các
phương ngữ khác, hoặc nhóm từ đơn dùng để thay thế hồi chỉ, những từ này sẽ tạo nên
ấn tượng ngay cho người đối thoại khi tiếp xúc với người sử dụng nó.
2.Về mặt cấu lạo, mặc dù lớp từ địa phương mang màu sắc ý nghĩa địa phương
nhưng trong cấu tạo cũng không vượt khỏi qui tắc cấu tạo từ của tiếng Việt. Chẳng
hạn như cách cấu tạo từ ghép cũng có mô hình chính phụ ị giáp mặt, trịch bóng, rởn
óc.) , mô hình đẳng lập ( chọc ghẹo, dòm coi,xứì giục.) , và cấu tạo từ láy cũng láy
âm, vần và gợi hình, tượng thanh ị trạo trực, oăm oăm, gieo giắt...)
3.Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tác dụng của lớp từ ngữ khẩu ngữ nói riêng,
khẩu ngữ Nam Bộ nói chung, đã góp phần khắc họa được đặc trưng của vùng đất
phương Nam : đặc trưng về thiên nhiên và đặc trưng về con người của vùng đất mới.
4.Khảo sát lớp từ ngữ địa phương Nam Bộ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
không phải là tô son cho phương ngữ Nam Bộ mà là để tìm hiểu thêm về đặc điểm
chung của lớp từ này. Ở mỗi khu vực địa phương, địa bàn nhỏ hay lớn, đều có lớp từ
mang tính địa phương và cùng đều góp phần làm giàu thêm cho kho tư vựng tiếng
Việt, từ ngữ địa phương Nam Bộ cũng có vai trò như vậy.
5.Cách sử dụng từ ngữ khẩu ngữ của Hồ Biểu Chánh cũng có hạn chế, nhất là
dùng nhiều từ ngữ mang đậm "đặc phương ngữ", mặc dù xét về mặt lịch sử, có khi lớp
từ này ở một giai đoạn nào đó, là sản phẩm của tiếng Việt toàn dân nhưng đến ngày
nay ít dùng trên phạm vi cả nước, lại được bảo lưu ở phương ngữ Nam Bộ. Nhưng dù
sao, lớp từ ngữ khẩu ngữ Nam Bộ với tư cách là một phương tiện diễn đạt, đã hình
thành nên một phong cách cá nhân Hồ Biểu Chánh rất khó lẫn lộn. Điều nay sẽ tiếp
tục được khảo sát trên bình diện cú pháp d chương tiếp theo.
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM KHẨU NGỮ NAM BỘ TRONG
TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH XÉT TRÊN BÌNH DIỆN CÚ
PHÁP
2.1. CÚ PHÁP KHẨU NGỮ
Cũng như trong ngôn ngữ viết, ở khẩu ngữ cũng có sử đụng các loại câu đơn,
câu ghép, câu tỉnh lược, câu đặc biệt, nhưng với đặc trưng của khẩu ngữ là phải phản
ứng ngay tức thời, do đó về mặt cầu khi sử đụng những đặc điểm chung như sâu:
- Trong câu có nhiều quan hệ từ , đại từ hoặc cụm từ thay thế, các tiểu tố tình
thá? để tạo thêm ngữ điệu, sắc thá? biểu cảm trong giao tiếp.
- Cấu tạo câu tự nhiên, ít gọt giũa nên thường có nhiều mệnh đề ghép liền nhau
trong câu (trường cú) và cũng thường dùng câu tỉnh lược cả trong đối thoại lẫn trong
độc thoại.
- Nội dung câu được trình bày cụ thể theo trật tự thời gian, trước sau hoặc theo
tâm lí của chủ thể giao tiếp, và trong câu thường có yếu tố dư đùng để đệm hoặc nhấn
mạnh cho một nội dung diễn đạt nào đó. Cũng như ở cấp độ từ ngữ, vai trò của ngữ
cảnh rất quan trọng vì nổ thường được dùng để hỗ trợ cho nội dung diễn đạt của câu.
Ví dụ: Xem 2 câu đối thoại sau:
(76)"... - Chị dắt nổ đi coi con thầy Cai, như nó đành thì cưới liền cho nó đi. (ạ)
- Nghe nói con thầy Cai nước da khổng được trắng sợ nó chê chớ, (b) (TT,tr 17)
Dấu hiệu khẩu ngữ tong 2 câu trên có thể nhận thấy như sau:
- Nếu xét về từ ngữ khẩu ngữ Nam Bộ trong hai câu trên thì dễ dàng nhận ra
trong hai câu khá nhiều từ ngữ địa phương, và cách diễn đạt khẩu ngữ:
- Nếu xét về các yếu tố câu tạo trong câu thì:
. Ở (a) có yếu tố đệm vào cuối câu " đi" và lặp lại đại từ "nó " để nhấn mạnh
nội dung muốn nói.
.Ở (b) có yếu tố đệm cuối câu " chớ" và tỉnh lược chủ ngữ ở cả 2 vế câu, một dấu
hiệu khá rõ trong khẩu ngữ : (tôi) nghe nói..., (tôi) sợ... Cách diễn đạt như thế làm cho
cả 2 câu có màu sắc của khẩu ngữ.
Với những dấu hiệu đặc trưng của cú pháp khẩu ngữ nêu trên, luận văn sẽ dùng
đó làm cơ sở để mô tả một số đặc điểm cú pháp khẩu ngữ Nam Bộ được thể hiện
trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh.
Khi khảo sát câu trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, có rất nhiều vấn đề được
đặt ra chung quanh cú pháp khẩu ngữ Nam Bộ, chẳng hạn như cấu trúc các loại câu,
nhưng trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi chỉ đi vào khảo sát, nghiên cứu tìm
hiểu một số hình thức tồn tại của câu xét trên bình diện ngữ nghĩa và mục đích phát
ngôn.
2.2.ĐIỂM VỀ HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA CÂU KHẨU NGỮ TRONG
TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, dấu hiệu của câu khẩu ngữ rất đa dạng và
thường xuất hiện trong cấu trúc câu ở một số dạng sau:
- Câu có yếu tố nhấn mạnh, yếu tố lặp, yếu tố dư
- Gâu có ngữ khí tự địa phương
- Câu có dùng từ ngữ nghi vấn địa phương
- Câu có lừ và quán ngữ đặc trưng
2.2.1.Câu có yếu tố nhấn mạnh,lặp, dư
2.2.1.1 Dạng câu nhấn mạnh
Đây là loại câu mà nội dung ý nghĩa diễn đạt của câu được nhấn mạnh bởi những
yếu tố nào đó, cách nhấn mạnh này là thông thường trong hành động ngôn ngữ.
Ở đây, trong khẩu ngữ Nam Bộ, để nhân mạnh nội dung diễn đạt cũng có nhiều
cách nhưng trong luận vãn này, chúng tôi chỉ trình bày cách sử dụng hệ từ "thì" và
quan hệ từ "mà" . Hai yếu tố này được sử dụng rất phổ biến trong khẩu ngữ, có điều
chúng được sử đụng với những đặc điểm riêng có tác dụng làm nổi bật ý nghĩa muốn
diễn đạt. Cũng xuất phát từ dấu hiệu này mà cổ nhiều ý kiến cho rằng, phong cách
khẩu ngữ Nam Bộ thường có ngữ điệu "nói cà nói kê" vì rất thường dùng "thì, mà"
trong câu nói.
a. Câu có dùng "thì" để nhấn mạnh nội dung biểu đạt
Trong câu , thông thường , khi "thì " xuất hiện với vai trò hệ từ, đó là dâu hiệu
đế ngăn chia bộ phận chủ ngữ và vị ngữ . Nhưng qua khảo sát sự xuất hiện của từ "thì"
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, chúng tôi ghi nhận có những câu có nhiều mệnh đề
và từ "thì" được dùng liên tục, sẽ tạo ra sự nhấn mạnh cho nội dung diễn đạt nào đọ
của câu. Trong khẩu ngữ Nam Bộ, "thì" vừa thực hiện nhiệm vụ là một yếu tố cấu tạo
thuộc về cấu trúc trong câu, lại vừa thể hiện ý định của người phát ngôn muốn nhấn
mạnh nội dung biểu đạt, đồng thời lại làm cho câu dàn trải , mộc mạc mang đậm màu
sắc khẩu ngữ tự nhiên, ít gọt giũa. Ví dụ:
(77)"Vì chiếc xuồng thì nhỏ mà ông Sáu Thời thì nặng, bởi vậy ông Sáu Thơi
vừa lên được thì chiếc xuồng lật úp". (NCGĐ, tr 290)
(78)"Hễ rước được nó về tới nhà thì má sẽ làm thịt một con heo mà tạ ơn đất
nước ông bà, rồi đãi cậu Đốc, mợ Đốc mà tỏ lòng tri ân đáp nghĩa". (HPLN, tr 102)
- Ở (77), câu ghép chính phụ, vai trò của "thì" khi phân tách chủ ngữ và vị ngữ là
khá rõ: "thì" làm nhiệm vụ phân chia chủ ngữ và vị ngữ cho cả 2 mệnh đề ở vế trước
(M1) và 1 mệnh đề (M2) ở vế sau:
(Mía): chiếc xuềng/thì nhỏ (Mlb): ông Sáu Thới/thì nặng
(M2): ông Sáu Thơi vừa lên được/thì chiếc xuồng lật úp. Trong (M1) có thể bỏ
"thì" ở (Mía) hoặc ở (Mlb) hoặc ở cả hai mà ý nghĩa câu vẫn không thay đổi, nên khi
dùng "thì" lặp lại ở đây nhằm nhấn mạnh nội dung đối lập của 3 mệnh đề.
- Ở (78), câu ghép chính phụ, hai vế câu nối nhau bởi cặp từ "'hễ... thì", trường
hợp này người ta cũng thường bỏ bớt "thì " để cho cảu văn nhẹ nhàng; nhưng ở đây
vẫn giữ "thì" và như vậy tác dụng của nó làm cho ý nghĩa được nhấn mạnh hơn đối
với hành động của chủ ngữ “má”
Chúng ta sẽ gặp rất nhiều cách sử dụng "thì" để nhấn mạnh như dạng câu nêu
trên:
(79)" Một tay thì cầm con mắm sặc, còn một tay thì bốc cơm nguội, trên đầu trời
nắng, dưới chân lấm bùn, mà anh ta ăn cơm coi bộ ngon lắm." (CCNN, tr 25)
(80)" Nếu mình lớn mà không tới, thì té ra mình nhỏ mọn."b(MĐTS, tr 71)
(81)" Chúa tàu thấy Kỉnh Chỉ nghèo khổ thù chẳng xiết nỗi thương, bởi vậy cho
nên khi xuống tàu ngồi ăn cơm thì chổng đũa mà ngó ra ngoài cửa sổ, ăn hoài không
biết ngon." (CTKQ, tr 140)
Tóm lại, cách sử dụng từ "thì" của Hồ Biểu Chánh vừa mang tính qui tắc của
tiếng Việt nhưng đồng thời thể hiện cách nói nhấn mạnh của khẩu ngữ nhằm khắc họa
ý nghĩa diễn đạt của câu, trong đó có một số trường hợp coi là phản đề đối với quan
niệm của ngữ pháp chức năng, khi cho rằng "thì" là phương tiện đánh dấu giữa đề
/thuyết.
b. Câu có dùng từ "mà" để nhấn mạnh nội dung diễn đạt Từ "mà" được dùng
trong câu với nhiệm vụ là từ nối các vế câu hoặc giữa thành phần chính và phụ (rong
ngữ đoạn. Trong khẩu ngữ, yếu tố "mà" được sử dụng khá linh hoại : thay thế cho một
vài từ khác gần gũi về mặt chức năng như "nhưng, để, và...". Khi "mà" được sử dụng
một cách linh hoạt như thế , tác dụng của nó là nhân mạnh nội dung ý nghĩa của câu,
hoặc ý nghĩa ngữ đoạn đi sau nó.
Chúng ta thường gặp hiện tượng này trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, nổi
bật ở 2 trường hợp sau:
- Từ "mà " đứng ở vị trí giữa câu.
- Từ "mà " đứng ở vị trí đầu câu
( Riêng "mà" được dừng ở cuối câu với vai trò ngữ khí tự tình thá? sẽ trình bày
trong mục 2.2.)
(1) Từ "mà" đứng ở vị trí giữa câu
Khi ở giữa câu như vai trò từ nối, "mà" dùng để nhấn mạnh cho nội dung ý nghĩa
của ngữ, hoặc mệnh đề đi sau nó, cách dùng này làm cho câu văn khá nặng nề.
Ví dụ:
(82)" Còn trong nhà, từng dưới, mà phía trước, thì để trọn phòng tiếp khách, phía
trong, mà chỉnh giữa là phồng ăn cơm., bên tay mặt là phòng khách đàn bà, hên tay
trái là phòng đọc sách." (ĐT, tr 16)
Trong câu trên, "mà" dùng nhấn mạnh cho nội dung diễn đạt " ở trước và ở chính
giữa nhà" mục đích Miêu tả cụ thể về vị trí; hoặc trong ví dụ (83), từ "mà "(à) dùng để
nhấn mạnh ý nghĩa của vế câu ". năm ba bữa" và từ "mà" (b) nhấn mạnh cho "ăn
bánh".
(83)-" Tụy cô dặn, song hai đứa nhỏ về không dấm nói ra, mà (a) hễ năm ba bửa
thì giả bộ đi chơi rồi lên nhà cô mầ (b) ăn bánh. (CĐMĐ, tr 91)
(ii) Từ "mà " đứng ở vị trí đẩu câu
Từ "mà" còn được dùng ở đầu câu cũng vừa nhấn mạnh ý nghĩa của câu chứa nó
và đồng thời giữ vai trò của một phương tiện liên kết câu trong đoạn hoặc liên kết
đoạn theo hướng hồi chỉ (anaphoric). Ví dụ:
- Trong hai đoạn văn sau đây, "mà" vừa nhấn mạnh ý nghĩa câu chứa nó và đồng
thời làm nhiệm vụ của một phương tiện liên kết câu trong đoạn:
(84)" Chí qua muốn thong thả, ở một chỗ từ túng qua chịu không được. Mà em
biểu qua đừng đì thì tiền đâu có cho qua xài, cơm đâu có cho qua ăn." (CĐMĐ, ti" 94)
(85)" Đường học 4 năm. Mà năm sau chàng cứ bịnh hoài, học không tấn phát.
Thím Xã lên đem con đến cho bác sĩ khám sức khỏe. Bác sĩ nói Đường phổi với tim
đều khổng tốt. Ông khuyên kiếm chỗ có cảnh thanh tịnh, có gió mắt mẻ cho Đường ở
tốt hơn là ở Saigòn." (HPLN, tr 12)
- Và "mồ " giữ vai trò liên kết đoạn trong trường hợp sau:
(86)" [I] Từ lúc qua nhà Khiếu Nhàn, anh ta lại đổi ý, tính vào quán ở đậu ít
ngày đặng kiếm thử coi có chỗ dạy học khống rồi sẽ về thăm quê quán.
[II] Mà lên tới Bạc Liêu rồi, anh ta lại đổi ý, tính vào quán ở đậu ít ngày đặng
kiếm tũử coi có chỗ dạy học hay không, rồi sau sẽ về thăm quê quán." (ALĐ, tr 44)
Trong phần trích (86),"mà" ở vị trí đầu đoạn [ li ] làm nhiệm vụ của một phương
tiện liên kết hướng hồi chỉ và có tác dụng nhấn mạnh ý nghĩa "tới Bạc Liêu" của Chí
Đại , trong cảm nhận bình thường, chúng ta cũng có lúc xem "mà" ở vị trí này như là
một từ đệm, quên đi tác dụng ngữ nghĩa của nó.
Tóm lại, cách sử dụng "mà" như nêu trên là rất thường gặp và nó mang màu sắc
đặc trưng của cú pháp khẩu ngữ Nam Bộ.
2.2.1.2 Dạng câu lặp bằng cách dùng từ thay thế
Về mặt ý nghĩa, việc lặp lại từ trong câu là nhằm nhấn mạnh một nội dung nào
đó, cách thức này là phổ biến trong cú pháp tiếng Việt. Ở Hồ Biểu Chánh, việc lặp lại
từ để nhấn mạnh nội đung nào đó của câu cũng như cách dùng chung của toàn dân,
nhưng điều đáng quan tâm, đó là lặp nhưng không phải dùng lại yếu tố đã có mà dùng
ngữ đoạn hổi chỉ để lặp lại đối tượng hoặc lặp lại ngữ canh làm cho nội dung thông
báo rõ ràng hơn. Đây là cách đùng rất phổ biến của khẩu ngữ Nam Bộ và ứng với cách
dùng này có nhóm đại từ đặc trưng của địa phương:
-Lặp lại đối tượng: ổng, bả, chỉ, cổ,mở, dưởng,...
-Lặp lại ngữ cảnh: trỏng, ngoải, trển, đẳng, bển...; hổm, nằm...
Ở đây, chúng tôi quan niệm các đại từ đặc trưng này là "vốn có" của phương ngữ
Nam Bộ chứ không phải là do hiện tượng rút gọn kiểu : ông ấy -> ổng, bởi vì nó
thường xuyên sử dụng với ý nghĩa định danh rõ ràng. Nói khác đi, mặc dù giữa "ông1'
và "ổng", giữa "trong" và "trỏng", giữa "bên" và "bển"... có mối quan hệ về hình thức
và ngữ nghĩa , nhưng chúng đã có sự phân hóa về ngữ nghĩa và ngữ dụng. Đây cũng là
một vấn đề lí thú nhưng do khuôn khổ của một luận văn không cho phép chúng tôi lí
giải sâu hơn. Vả lại, trọng tâm ở đây là thông qua các cấu trúc cú pháp chúng tôi
muốn xác lập một số đặc điểm khẩu ngữ bằng các mô hình ngữ đoạn.
Ví dụ :
(87)" - Có, thầy qua ở một bữa rồi quá giang ghe hàng mà đì Bạc Liêu. Thầy đì
có chở rương theo nữa. Vậy chớ thầy thôi làm việc ở bền rồi sao cô ? ( ALĐ, tr37)
(88)" Cha nó nắm tay kéo lại và nói rằng: " Ra ngoải làm gì? Xe cán chết. Đứng
trong lề đây mà coi." (CCNN, tr 14)
(89)" Mợ Hai mở nói mượn trà sao mượn hoài, mả biểu lại quán mà mua mà
uống chớ mở không có trà mà cho mượn nữa. May có cậu Hai ở nhà cẩu nghe cẩu rầy
rồ ì cẩu lây cho mượn đó đa. (CCNN, tr 65)
Các từ "thầy" ở ví dụ (87) để diễn đạt sự nhấn mạnh của người nói cho người
nghe chú ý là nói về "Chí Đại", và "ngoải" ở ví dụ (88) thì thấy tính nhấn mạnh ngữ
cảnh và ở (89) " mợ, cậu" để nhân mạnh cho các chủ ngữ trong câu. (Chúng tôi sẽ trở
lại dạng câu khẩu ngữ như kiểu (89) " Mợ Hai mở nói." ở mục III. 2 của chương này.)
Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, chúng ta cũng gặp ở đây sự lặp lại cấu trúc
câu, cấu trúc vế câu, cấu'trúc mệnh đề nhưng đây là sự rơi rớt lại của lối văn biền
ngẫu- cổ văn- khi chuyển sang văn mới-kim văn-, ví dụ:
(90)"Thấy Phát đứng ngó một hồi trong lòng thơ thơi, rồi lại cảm xắc, nhà những
việc đã qua, lo những chuyên sẽ tới, buồn tấm thân côi cứt, mừng chút phân ấm no."
(ẴTTƠĨT, tr 40)
Hiện tượng này không phải là đặc trưng riêng của Hồ Biểu Chánh mà là một
hiện tượng chung của các nhà văn đi tiên phong ở những năm đầu thế kỉ XX, chẳng
hạn như Hoàng Ngọc Phách cũng đã có những câu biền ngẫu trong "TốTâm";
(91)" Mà hôm nay, vẫn da trời kìa, vẫn mát nước ây, núi Tam Đảo vẫn lờ mờ
đằng xa. chiếc thuyền ván vẫn từ từ qua lau thân thể năm xưa, mà sao phong cảnh rất
âu sầu hình như đương vì tôi mà thương người vừa đi đó." (TỐ Tâm, tr 75, NXB Văn
nghệ, 1996)
Điều đáng trân trọng là khi các nhà văn đồng thời như Phạm Duy Tốn, Hoàng
Ngọc Phách... đổi mới câu văn xuôi tiếng Việt bằng cách mô phỏng cấu trúc của câu
tiếng Pháp, điều chỉnh lối diễn đạt biền ngẫu để diễn đạt theo lối bác học, thì Hồ Biểu
Chánh lại bắt nguồn từ cú pháp khẩu ngữ để xây đựng cách diễn đạt mới cho tác phẩm
của mình. Hãy khoan bàn đến việc sử đụng ấy thành công đến mức độ nào, nội chỉ ở
việc tạo được câu văn thuần túy Việt Nam trong thời điểm cú pháp tiếng Việt còn
nhiều hạn chế, cũng đủ để chúng ta trân trọng.
2.2.1.3 Dạng câu có yếu tố dư
Yếu tố dư là yếu tố có hay không có trong câu cũng không làm ảnh hưởng, thay
đổi nội dung diễn đạt của câu. Nhưng khi yếu tố dư xuất hiện sẽ làm cho câu dàn trải,
luộm thuộm mang tính tự nhiên của ngôn ngữ nói, bởi trong ngôn ngữ nói thông
thường có nhiều lời chen vào để giải thích, Miêu tả thêm..., những yếu tố dư có khi là
từ ngữ, hoặc câu. Trong tác phẩm cửa Hồ Biểu Chánh, những yếu tố dư thường được
thấy ở những trường hợp dùngđể:
-Yếu tố dư dùng như vai trồ từ đệm, và có lức như yếu tô" nhấn mạnh.
- Tái hiện hoặc thêm ngữ cảnh chơ câu, giải thích thêm cho một điều nào đó của
định ngữ hoặc của bổ ngữ trong câu.
a. Yếu tố dư là từ ngữ được dùng rất thường xuyên thể hiện một thói quen trong
khẩu ngữ , chẳng hạn dùng các ngữ khí tự tình thá?, nghi vấn chen vào câu để đệm
hoặc nhấn mạnh: đa, mà, nà, cà...
Ví dụ:
(92)Ai mà bán kỳ cục vậy nà, để tao coi còn cơm nhiều hay ừ tao cho mà ăn, chớ
bấn giống gì" (VNVT, tr 159) hoặc có khi dùng thêm một đại từ theo sau chủ ngữ ,
như trường hợp ở ví dụ (89) "Mợ Hai mở nói.."
b.Yếu tố dư là một ngữ đoạn hoặc câu rất thường xuyên được dùng để giải thích,
Miêu tả, tái hiện ngữ cảnL Ví dụ:
(93)" Năm nào ông cũng trả tiền lời, mà nói ngược giông gì. ông giàu có làm tới
Cai tổng, có mười mây ngàn đồng bạc lẽ nào ông chối hay sao mà sợ." (MĐTS, tr
20)
(94)" Nhờ cô giáo Đào thiệt tình cô không giấu chi hết, mà nghĩ có hai gì nên sơ
mà phải giấu, bởi vậy cô oanh mới hay hồi trước, Đường kết tình với cô giao Hưởng
có sanh một đứa con trai " (HPLN, tr 120)
Ở (93), có 1 yếu tố dư "mà nổi ngược giong gì " chen vào câu nhằm giải thích
thêm uy tín của ông "Cai tổng"!
Ở (94), có một yêu tô chen vào " mà nghĩ có hại gì nên sợ mà phải giấu", ngữ
đoạn này nhằm giải thích cho lí do "Cổ Đào không giàu chi hết", nó có thể là suy nghĩ
của nhân vật nhưng cũng là của tác giả, không ảnh hưởng đến nội dung câu nên đó chỉ
là một yếu tố dư trong câu.
Như vậy, chính đặc điểm thường dùng yếu tố dư thừa trong câu văn đã góp phần
lạo nên cách nói kể lể không chọn lọc của cú pháp khẩu ngữ và đây cũng là một trong
những dạng câu khẩu ngữ.
2.2.2. Câu có ngữ khí tự tình thá? (xem thêm phụ lục 6)
Ngữ khí tự là loại từ mang ý nghĩa chung nhất về ngữ dụng trong ngôn ngữ toàn
dân , nhưng ở mỗi địa phương có những nhóm ngữ khí tự riêng cùng với cách sử dụng
mang tính đặc thù của địa phương.
Ở đây không bàn về sự giống, hay khác nhau trong cách dùng ở các địa phương
khác nhau mà chỉ muốn nêu lên một số ngữ khí tự tình thá? được dùng trong
tiểiríhuyết Hồ Biểu Chánh mà người viết cho rằng mang đậm dấu ấn diễn đạt của cư
dân Nam Bộ.
Cần thấy rằng, hệ thông ngữ khí tự tình thá? được Hồ Biểu Chánh sử dụng rất đa
dạng, nhưng ở đây chỉ tập trung Miêu tả chúng ở các lời thoại của nhân vật. Sở dĩ luận
văn chọn hoạt động của loại ngữ khí tự này trong hội thoại là vì các lí do sau:
- Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản thường xuyên, phổ biến của sự hành
chức ngôn ngữ.
- Trong câu trúc của hội thoại, từ mối quan hệ giữa lời trao, lời đáp, cấu trúc
khẩu ngữ dễ nhận diện, dễ Miêu tả hơn.
2.2.2.1 Nhóm ngữ khí tự tình thai đứng đầu câu
Nhóm ngữ khí tự tình thá? thường ở vị trí đầu câu của đoạn hoặc chen trong
đoạn, tiêu biểu như: ủa ,à, (ạ), hư, ý, úy (húy), ờ, ừ, Ối, í hi (ý hi), cha chả, trong một
số trường hợp cụ thể các ngữ khí tự này tạo nên câu đặc biệt. Đặc trưng về mặt ý
nghĩa của nhóm này là thường tạo nên một mức độ trạng thá? tâm lí cho hành động
nhân vật: sự ngạc nhiên, sự bất bình, sự chán nản... . Đây cũng là cách biêu hiện mang
đặc trưng của khẩu ngữ Nam Bộ khi thể hiện trạng thá? tâm lí của nhân vật phát ngôn.
a. Biểu thị sự ngạc nhiên
Sự xuất hiện của ngữ khí tự "ủa, à, (ạ), ý, úy (húy), cha chả" nhằm biểu lộ sự
ngạc nhiên của nhân vật phản ứng trước một sự tình nào đó . ở đây , sự ngạc nhiên
được bộc lộ ở hai mức độ: sự ngạc nhiên ở mức thấp ("ủa, à, ạ") và sự ngạc nhiên ở
mức cao (" ý, úy, húy, cha chả").
(i) Biểu thị sự ngạc nhiên ở mức thấp :
Trong trạng thá? tâm lí bình thường khi biểu lộ sự ngạc nhiên thì dùng " ủa, à, ạ"
để diễn đạt. Ví dụ:
(95) "ưa! Cái Côn, mà thuộc bên Sốc Trăng hay là bên cân Thơ?" (TGGT, tr 39)
Trong (95),"íỉa" biểu lộ sự ngạc nhiên của ông Phán khi hỏi thăm cô Phùng
Xuân về quê quán, vì ông đã biết "Cái Côn" nên ông chỉ tỏ thá? độ ngạc nhiên vừa
phải trong lời nói.
Sự xuất hiện của "tỉa", "à" cũng khá nhiều trong lời đối thoại:
(96)" ủa, sao chị về sớm vậy?'' (BC, tr 29)
(97)"ứa! Nói nó nghèo rồi bây giờ mình bỏ tiền mình hay sao?" (KT.tr 1.52)
(98)" A! té ra cô em cũng bị tai nạn như con nên con nên cổ cũng kiếm chỗ dung
thân mà lánh xa đời nhơ con." (STVT, tr 19)
(99)"À/ Chị nói tôi mới nhớ. " (HPLN, tr 81)
Tuy vậy, cũng không ít trường hợp một số ngữ khí tự tình thá? đầu câu chỉ có
chức năng đệm lót và màu sắc khẩu ngữ ở đây hoàn toàn chỉ là cách diễn đạt có nét
riêng chứ chưa mang lại hiệu quả gì lớn.
(II) Biểu thị sự ngạc nhiên ở mức độ cao:
Trong trạng thá? tâm lí không bình thường bởi một điều gì đó thì thường dùng
"úy, cha chả". Ví dụ:
(100)"... Ông đi được một tháng thì cô hai ở nhà trốn đi mất.
- Cô hai nào?
- Bẩm ông, cô hai là con quan phủ ở bển.
- Uý! cha chả! Nó trốn đi đâu?...''(ALĐ, tr 84)
Ở (100), "Úy" "cha chả" được sử dụng nhằm nói sự ngạc nhiên ở mức độ cao bởi
sự đột ngột của sự kiện mà "ông- Bạch Khiếu Nhàn-" tiếp nhận được. Trong tiểu
thuyết Hồ Biêu Chánh thì việc sử dụng như thế rất thường xuyên, đơn cử thêm vài
trường hợp khác như:
(101)" Húy! Trời đất ơi! Khốn khổ chưa! Hai bữa rày trong bụng
tôi buồn bực nên tôi nghi có chuyện gì đây, thiệt chẳng sai. Cha tôi bây giờ ở
đâu." (NCGĐ, tr73)
(102)" Cha chả, còn xa lắm, sợ mình còn phải đợi lâu, mà trời bữa nay coi xấu
quả, có mây khói đen cùng hết, sợ dông lớn biển động" (STVT, tr 160).
(103)" Cha chả ! Rủi quá, hà tôi không có ở nhà." (TPNS, tr 86)
b. Biểu thị sự đồng ý và không đồng ý (bất bình) "ừ, ờ", "hư"
Sự xuất hiện của "ừ, ờ" thường được dùng để biểu lộ sự đồng ý trước một vấn
đề (thay vì tỏ cử chỉ "gật đầu" trong đối thoại.) hoặc sự kiện nào đó, còn "hư" thì biểu
thị sự ngược lại. Cả hai cách biểu hiện này đều xuất hiện ở trạng thá? tâm lí giao tiếp
bình thường.
(i) Biểu thị sự đồng ý: "ừ, ờ" Ví dụ:
(104)" £ biểu dọn riết đi. (BC, tr 9)
(105)" Ừ, để ra Nha Trang rồi tôi sẽ lột da gấu của anh cho anh coi. (TPNS, tr
203)
(106)"Ừ, lâu quá rồi chó nó lạ, nên nó sủa dử quá. (HPLN, tr 122)
(1.07) " Ừ, thôi nằm đó, để qua rót nước giầm cho. (CĐMĐ, trl68)
(ii) Biểu thị sự bất bình : "hư"' ( 108) " Trần Văn Sửu chưng hửng, ngồi ngó
Hương tuần Tam trân trân một hồi rồi hỏi rằng:
- Vợ tôi lấy Hương hào Hội sao? Đâu có. Anh khéo bày đặt. Ai nói vài anh đó?
- Trời ơi! Thiên hạ hay tràn đồng hết. Có một mình mầy ngu quá, nên mầy
không hay chớ.
- Lấy hồi nào ở đâu?
- Hư! Khéo hỏi hôn! Lấy nhau đã mấy năm nay đẻ được một đứa con, mà chưa
hay chớ! Tội nghiệp quá! Mầy về coi lại nó giống Hương hào Hội hay không tỉa biết!
" (CCNN, tr 26)
"Hư" được dùng để biểu lộ sự bất bình và tỏ lòng thương hại thương hại của
Hương hào Tam trước sự "ngây thơ" của Trần Vãn Sửu.
Trong đoạn, có khi "hư" và "cha chả" thường thấy cả hai cùng xuất hiện,"tó"
xuất hiện trước biểu thị sự bất bình và sau đó là sự nóng giận với từ "cha chả" :
(109) " Hứ, mầy nói chơi sao chớ? Cha chả! Con tao làm tới thầy thông ma nó
chê, vậy chớ nó kén bực nào nữa?" ( TTN, tr 114)
& Biểu thị sự từ chối và chán nản " ối, í hi.(ý hi)"
Trong tiểu thuyết Hồ Biểu chánh, khi nhân vật bộc lộ sự từ chối thì dùng "ơi" và
bộc lộ sự chán nản, buồn rầu thì dùng "í hị, ứ hự".
Ví dụ:
(i) Bộ lộ sự từ chối:
(110) "Ối- Thôi thôi! tao với nó không còn tình mẹ cơn gì nữa." (CCNN, ti- 96)
(111) " ân Chút đỉnh mà hại gi " (KLNC, tr 54)
(112) " QÍL Chút đỉnh có đáng gì đâu." ( TGGT, tr 55)
(ii) Bộc lộ sự chán nản:
(113)" Ý hụ Khổ lắm! Không biết sắp con tôi nổ cỏ hiểu bụng tôi hay không."
(CCNN, tr 44)
2.2.2 Nhóm ngữ khí tự tình thủi đứng ở cuối cấu
Nhóm ngữ khí tự thường dùng thêm ở cuối câu như la một yếu tố dư, yếu tố đệm
nhưng lại bộc lộ sắc thá? ý nghĩa của câu, gần đây giới Việt ngữ học còn gọi là tiểu từ
tình thá? dứt câu. Chúng ta gặp ngữ khí tự loại này trong tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh khá nhiều, nhưng ở đây chỉ khảo sát 4 ngữ khí tự có tần số xuất hiện nhiều nhất
là: đa, nè, mà, nà.
Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi ở 3 tác phạm, tần số xuất hiện của các ngữ
khí tự này như sau:
a. Ngữ khí tự có tác dụng nhấn mạnh "đa"
Xem các ví dụ sau: (114) "Tôi ăn rồi mai mốt tôi gặp chị nữa tôi sẽ trả tiền
đa."(NĐ.tr 44)
(115) "Nỏ là chồng của con Ánh Nguyệt đó đa. "(NCGĐ,tr279)
Ở (114) nội dung thông báo là "lời hứa trả tiền" và " đa" làm tăng thêm giá trị
thông báo của lới hứa, khẳng định thêm cho lời hứa một lần nữa. Nói khác đi, "đa" có
tác dụng nhấn mạnh - lần thông báo lần thứ hai- nội dung vừa diễn đạt; ở câu (115)
cũng thế, "đa" nhấn mạnh lại nội dung thông báo của câu “nó là chồng của con Ánh
Nguyệt”. Chúng ta bắt gặp cách dùng này khá thường xuyên trong tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh:
(116) " Tiền đó là tiền của sắp nhỏ đa." (LTTM, tr 109)
(117)" Bả vo bả nói với dì đặng cưới cháu cho con bả là cậu Ba đó đa. chớ
không phải đi chơi đâu, cháu ưng hay khổng?" (KLNC, tr 92)
(118)"Sáng ngủ dậy thì làm liền,đừng có quên đa."(VNVT, tr 15)
Theo chúng tôi, "à" trong một vài trường hợp được dùng để thay thế "đa", có lẽ
trong phát âm /d/ bị nhược hóa, như:
(119) " (Bữa nào ra nhà tôi nghe hôn.) Tôi trổng lắm a." (KLNC, tr 41)
Cũng có ý kiến cho rằng ngữ khí tự địa phương "đa" có tác dụng như các từ toàn
dân ''đó, nhé" , trong thực tế không xảy ra trường hợp "đa, đó, nhé " được sử dụng như
nhau.
"Đó" là đại lừ với cương vị làm yếu tố kết thúc ngữ đoạn và ý nghĩa của nó là
xác định, định vị thêm ý nghĩa của cho thành tố chính trong ngữ , nó không mang ý
nghĩa nhấn mạnh, lặp lại ý nghĩa của câu như "đa". Còn ở "nhé", mặc dù cũng la ngữ
khí tự tình thá? nhưng nó biểu thị sắc thá? biểu cảm của người phát ngôn với thá? độ
khá thân mật. Do đó trong thực tế chúng ta chì thấy có trường hợp dùng chung "đó đa"
chứ không không thể dùng "đó nhé" . Ví dụ:
(120) "... Nhà của Cai tuần Kim đổ đa!" (NĐ, tr 10)
(121) "... Con của anh hai đó đa." (NĐ, tr26)
Và tất nhiên, vì ở phương ngữ Nam Bộ không có ngữ khí từ "nhé", nên những
M1nh họa và kiến giải ở đây chỉ nhằm mục đích xác lập về những đặc điểm về mặt
ngữ dụng mà thôi.
b. Ngữ khí tự có tác dụng giới thiệu "nè "
"nè" chủ yếu xuất hiện ở cuối câu và cũng có khi xuất hiện ở đầu câu, nhưng
"nè" luôn có vai trò tự giới thiệu của chủ thể phát ngôn hoặc "cái, sự, điều" nêu trong
câu cho người đối diện, đối thoại biết, hàm ý chỉ sự vật xác định. Ví dụ:
(122)" Cái áo anh bận đã rượu vai rồi đây nè." (LTTM,tr6)
(123)”Tên Đó là mầy đây ai”. (NCGĐ, 1x258)
(124)" Đánh bằng gì mà có đính máu đây nè." (KT, tr 142)
Trong
(122), "nè"' giới thiệu cho "anh" biết cái áo bị rượn vai; trong (123) "nè" giới
thiệu cho người khác biết "Lê Văn Dớ"; trong (124) "nè" giới thiệu "dính máu".
Và, khi "nè" đứng ở đầu câu nhiều khi có tác dụng như một sự hô gọi:
(125)"Nè, mà tôi có trong hội tề, không có chức nào sướng cho bằng chức hương
trưởng." (LTTM, tr 23)
(126)" Nè, uống chớ, hai ông sao uống lôi thôi quá." (LTTM, tr 30)
(127)" (Ý!) Nè má, hồi hôm con coi hát, con gặp một cô nhỏ nhỏ thiệt là lịch
sự." (KLNC, tr 27)
Ngoài ra cũng có ý kiến cho rằng "nè" tương ứng với "nóc, này1 của phương
ngữ Bắc Bộ [60], nhưng khi xét về vai trò ý nghĩa của "nè" không giống như vai trò ý
nghĩa của "nào, này". Chúng tôi sẽ có dịp trở lại vấn đề này.
c. Ngữ khí tự có tác dụng khẳng định "mà ", "nà " Khảo sát ý nghĩa của 2 câu
sau:
(128)"Ta nói ta là Tư Hoành mà” (NCGĐ, tr 258)
(129)"Ra ngoài mà ngủ với sắp nhỏ nà.” (CCNN, tr 30)
Trong câu (128), nếu không có "mà" thi đó cũng chỉ là lời nhân vật Tư Hoành tự
giới thiệu mình chưa có màu sắc gì, nhưng khi cuối câu thêm yếu tố "mà" nó lại làm
tăng ý nghĩa xác định, khẳng định thêm cho ý diễn đạt và trong một số ngữ cảnh thì
lời xác định này có tính chất hồi chỉ.
Trong câu (129), "nà" cũng mang ý nghĩa khẳng định nhưng so vôi "mà" ý nghĩa
này có phần mờ nhạt hơn, và đo trong tương tác ngữ cảnh, tính chất mệnh lệnh lại là
một nét nghĩa phụ trội: "Thị Lựu buộc Trần Văn Sửu phải đi ra ngủ với các con" .
Nói chung, "mà" và "nà " mặc dù xuất hiện như yếu tố đệm nhưng vẫn có vai trò
trong khẳng định nội dung biểu đạt của câu và trong thực tế thì tần số xuất hiện của
"mà" thường nhiều hơn "nà"'. Đơn cử thêm một vài ví dụ:
(130) " Má bổng em đi chơi từ nãy giờ lận mà." " (CCNN, tr 13)
(131)" Công cổ may tới nửa tháng, cực nhọc quá mà ỉ" ( TGGT, tr55)
(132; "Tôi ở đây 16 năm lận mà. " (STVT, tr 68)
(133) " Đàn ông con trai gì mà hư lắm vậy nà." (KLNC, tr 67)
Theo quan sát của chứng tôi, trong khẩu ngữ Nam Bộ, "mà" có lẽ có hình thức
sử dụng biến đổi ngữ âm " mồ".khi người sử dụng nhấn mạnh hoặc đệm với thá? độ
thân thiện hoặc nũng nịu. Ở tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không gặp cách dùng này
nhưng trong sáng tác của các tác giả sau này "mù" rất thường xuất hiện:
(134)" Lập tức hai tay con Anh lắc lia:
- Em giống má, chị Hai cho em đi mịt... Em không ở nhà mù...
- Mầy giống má hồi nào ?
- Má nói mủ giống em mừ...
- Mầy giống má hay má giống mầy?
- Em giống má cái mũi con mèo mù... Rồi nó ngửa cổ muốn khóc giơ cái mũi
con mèo lên. Đờ linh đanh sắc đánh... mà không chơ người ta đi mừ..." (Nguyễn Thi,
Truyện và kí, Mẹ vắng nhà, tr, 82, Nxb VH GP, 1975)
(135)" Bà mẹ hổi dồn tới:
- Bả qua đây hồi nào?
- Hồi chiều. Bả nồi má mầy ngồi trên công sở, ở nhà không ai nấu cơm. Bả cho
con mừ... " (Nguyễn Thi, Truyện và kí, Ở xã Trung Nghĩa, ít, 336, Nxb VHGP, 1975)
Có ý kiến cho rằng "nà" và "nè" là biến thể của nhau, nhưng điều này không phù
hợp, ít ra là đối với phương ngữ Nam Bộ, bởi khi chúng thay đổi cho nhau thì đẫn đến
nội dung biểu đạt của câu bị thay đổi. Thử thay đổi "nà" bằng "nè" như sau: (tr. 136).
"Đàn ông con trai gì mà hư lắm vậy nà." (KLNQtr 67)
--> "Đàn ông con trai gì mà hư lắm vậy nè. "_-)
Ở câu (136), "nà " nhằm khẳng định, xác định thêm cái tính hư của "đàn ông con
trai", khi thay đổi "nà" bằng "nè" thì ý nghĩa của câu đã có sự thay đổi, nó không còn
ý nghĩa khẳng định mà là chỉ nhằm giới thiệu ra cái tính hư của "đàn ông con trai",
thậm chí câu này khổng được tự nhiên lắm.
Và, ngược lại, chúng ta không thể thay đổi "nè" bằng "nà" trong các trường hợp
sau:
( 137) " Nè, uống chớ, hai ông sao uống lôi thôi quá." (LTTM, tr 30)
--> " Nà, uống chớ, hai ông sao uống lôi thôi quá." (-)
(138) "... Tên Đó là mày đây nè." (NCGĐ, tr258)
—> "... Tên Đó là mầy đây nà." (-)
2.2.3. Câu có dùng ngữ khí tự nghi vấn
Trong tiếng Việt toàn dân, ngữ khí tự nghi vấn thường là đại từ "sao, vậy, gì, ..."
(còn gọi đại từ nghi vấn) và nó thường được sử dụng trong câu hỏi. Trong khẩu ngữ
địa phương, ngoài việc dùng các ngữ khí tự nghi vấn mang tính toàn dân như vừa nói
ở trên, người ta còn dùng nhóm ngữ khí lự mang ý nghĩa thể hiện màu sắc khẩu ngữ
địa phương. Nếu như ở phương ngữ Bắc Bộ có nhiều ngữ khí tự dùng để hỏi như: " ư,
nhị nhé...", thì ở phương ngữ Nam Bộ cũng có khá nhiều từ: hôn, ha, hả, hèn, bộ... .
Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát 2 ngữ khí tự mang
hành động nghi vấn trong phương ngữ Nam Bộ được sử dụng trong tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh, ít nhiều tiêu biểu cho đặc trưng của khẩu ngữ Nam Bộ.
Đó là các từ : hôn (hổng), há (hả, hử) . Có nhiều cơ sở khoa học để chúng tôi
chọn nhóm từ này. Như ai nấ}' đều biết, cùng với ngữ điệu, các ngữ khí tự mang chức
năng nghi vấn ở cuối câu như hôn (hông), há (hả, hử) là những cấu trúc cú pháp rất
riêng của khẩu ngữ Nam Bộ. Nhìn vào bảng tần suất của các từ này dưới đây, rõ ràng
dễ nhận thấy là không cao. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ chúng tham gia như thế nào
trong việc tạo nên màu sắc khẩu ngữ của câu văn. Đơn cử số lần xuat hiện của 2 từ
nêu trên trong 2 tác phẩm như sau:
2.2.3.1 Câu có dùng ngữ khí tự " hôn"
Ngữ khí tự "hôn" của phương ngữ Nam Bộ đã được nhiều ý kiến xác định rằng
là biến thể của "không" trong từ toàn dân, chẳng hạn như ý kiến của Trần Thị Ngọc
Lang : " Người M1ền Nam nói nhanh "khổng" thành "hông". Trong câu hỏi dùng"
Hông" thay cho "không" trong hầu hết cấc trường hợp. "Hông" lại được đọc lướt
thành "hôn". Như vậy "không" có hai biến thể ngữ âm là "hàng" và "hôn". " [58, 141].
Ở đây, chúng tôi không bàn về sự biến âm của từ mà chỉ đi vào xem xét vai trò
của từ về mặt ý nghĩa trong câu.
a. Ngữ khí tự "hổn" dùng trong câu hỏi
''Hôn' thường ở vị trí cuối trong loại câu hỏi phải chọn lựa. Đây là loại câu hỏi
mà hành động hỏi của câu buộc người đối thoại phải lựa chọn một nội dung đã nêu
trong câu hỏi để trả lời. Cũng như ''không", trong câu, hầu hết phía trước "hôn"'là. vị
từ : nghe hôn, thây hôn, phải hôn, mừng hôn, vui hôn, biết' hôn, nhớ hôn, nhiều hôn, ít
hôn, sợ hôn...
(139) " Lúc nay đồ may nhiều hôn?" (TGGT. tr 55)
(140) " Bị kia kìa, nhà má tao đó thấy. hân?" (CĐMĐ, tr 215)
(141) " Cậu rú Tài bây giờ rầu lung hôn?" (VNVT, tr 29)
Và nếu muốn nhấn mạnh thêm chơ hành động hỏi kèm theo sắc thá? âu yếm,
thân mật, thì trong câu khẩu ngữ lại xuất hiện thêm các đại từ nhân xưng phía sau
"hôn".
Ví dụ:
(142) " Tía tôi như tía thằng Cam vậy phải hôn má ? (CĐMĐi, tr 30)
(143) " Tối nay mình nghỉ viết một bữa đặng đi chơi với tôi nghe hôn mình?" (
BC. tr 8)
Qua khảo sát ngữ liệu trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, ngữ khí tự "hôn" và
"không" đều được dùng nhưng "không" xuất hiện nhiều hơn và xuất hiện trong ngữ
cảnh "trung tính", còn "/lơn" thường xuất hiện trong ngữ cảnh có không khí thân thiện
thân mật giữa các vai trong đối thoại, hay nói khác đi, khi "hân" xuất hiện thì câu nói
mang màu sắc biểu cảm.
Có lẽ, chính đo đặc trưng đó nên "/tơn" sử dụng hạn chế hơn so với "không'' .
Đây cũng là một dấu hiệu khu biệt chức năng ngữ nghĩa của "hôn" và "khổng",
Ví dụ, trong "Bỏ chồng, tr 7.", cô Oanh (vợ) đi về nhà muộn hơn chồng nhưng
khi về đến nhà thì thì người chồng vẫn vui vẻ:
(144)" Thầy Thiện ngó vợ và cười hỏi:
- Mình đi lấy áo phải hôn? (BC, tr 7) Đó là cách nói có nhiều tình cảm của người
chồng đón chào vợ, nhưng khi nói chuyện về quần áo một cách bình thường thì thầy
Thiện chán ngán về việc " áo quần " cua vợ nên bình thản đùng từ "không" thay cho từ
"hôn" đã dùng trong ngữ cảnh âu yếm ban đầu:
(145)" ừ, khéo thiệt. Mình đặt áo mà có đặt may luôn cái quần không? (BC, tr 7)
Tương tự , ở các trường hợp khác, chúng ta cũng gặp cách dùng "hôn", "không"
như thế:
Đây là lời nói thân mật của người bạn:
(146) " Để toi kể cho chị nghe. Chị Quế hô đó chị nhớ hôn?" (TGGT, tr 84)
Và trong câu trả lời nghiêm chỉnh của bà Tư với ông Phán thì dùng "không":
(147) "Mà chuyên gì chớ? Phải ông muốn cậy tôi làm mai hay khàng?"
ịTGGT, trói)
Do đó, "hôn" , mặc dù là biến thể của "không" , nhưng "/lổn" được dùng với một
màu sắc biểu cảm trong môi trường giao tiếp thân mật, còn "không" chỉ dùng trong
các ngữ cảnh "trung tính". (Riêng "Hông" là biến thể của "không" và cách sử dụng
cũng tương tự như "không" [58], nhưng trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh rất hiếm gặp
cách sử dụng từ này.)
b. Ngữ khí tự "hôn" dừng trong câu mệnh lệnh
Với đặc trưng của "hôn" như vừa nêu trên, khi sử dụng trong câu mệnh lệnh thì
"hôn" được đùng ở trong ngữ cảnh " có vấn đề": thần mát hoặc không thân mật của
các vai đối thoại. Ý nghĩa của "hôn" trong trường hợp này cũng có hành động hỏi
nhưng không yêu cầu trả lời mà ý nghĩa chính \ầ yêu cầu, dặn dò để thực hiện một
hành động nào đó trong ngữ cảnh cụ thể.
Ví dụ:
(i)Đây là lời yêu cầu , dặn dò trong ngữ cảnh thân mật:
(148)"Này cháu nhớ viết thơ cho bà Cai nghe hôn!" (TGGT, tr 73)
(149)" Cháu ở đó nghe hổn!" (CĐMĐ, tr 238)
(150)" Thôi chị về đi, nghe hôn chị Hai, để em đi" (LTTM, tr 21)
(ii)Đây là lời yêu cầu đặn đò trong ngữ cảnh không thân mật:
(151)" Mày phải nhớ sớm mơi mai mày quét dọn cái phòng khách phía đàng
trước cho sạch sẽ nghe hôn." (VNVT, tr 18)
(152)"Qua đi rồi, ở nhà em phải vái nghe hôn: vải cho qua giàu to rồi em muốn
sung sướng cách nào cũng được hết thảy. " (LTTM, tr 19)
Như vậy, phạm vi sử dụng của "hận" trong câu mệnh lệnh là khá rộng và nhiều
khi tổ hợp "nghe hôn" thường xuyên xuất hiện và có chức năng của một ngữ đoạn
nhấn mạnh về một lời nhắc nhở, một lời dặn dò, một lời âu yếm.
Trong khẩu ngữ hằng ngày, cũng như trong hội trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh, chúng ta thường xuyên bắt gặp tổ hợp "kỳ hôn", "dữ hôn" được sử dụng như
cụm cố định ở vị trí đầu câu và cuối câu , khi đó thì "hôn" không còn là ngữ khí tự
dùng để hỏi hoặc yêu cầu, dặn dò mà tổ hợp đó lại là ngữ khí tự cảm thán thể hiện ý
nghĩa : buồn, trách cứ, từ chối hoặc ngạc nhiên .
Trong thực tế của khẩu ngữ Nam Bộ cách dùng như thế là khá phổ biến, nhưng
trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thì không nhiều. Ví dụ:
Đứng ở cuối câu thể hiện ý nghĩa buồn, từ chối, trách cứ:
(153)" Thằng khéo nói kỳ hôn!" ( CĐMĐ, tr 229)
(154)"Ai vô đây mà mua, khéo hỏi kỳ cục dữ hôn!" (BC, tr 46)
(155)" Tội nghiệp vợ con nó dữ hon!" ( CCNN, tr 135)
Đứng ở đầu câu thể hiện sự ngạc nhiên:
(156)"Dữ hôn, con thợ tư nó sửa đổ, vậy mà được hay không?" (TGGT, tr 56)
(157)" Chị, dữ hôn, ở khít một bên, mà mắc đi sớm về tối, nên ít gặp chị quá!" (
BC, tr 43)
2.2.3.2 Câu có dừng ngữ khí tự " há (hả, hử)"
"Há" có biến thể ngữ âm là "hả, hử" hay là ngược lại, ở đây chúng tôi không đi
sâu vào vấn đề này. Nhưng qua khảo sát sự xuất hiện của các yếu tố đó trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh, chúng tôi thấy "há" xuất hiện nhiều nhất, nên tạm xem "hả,
hử" là biến thể ngữ âm của "/lá", (xem lại bảng thống kê đã nêu ở mục 3 )
Trong trường hợp "há" đứng ở vị trí cuối câu thì được dùng trong cả hai loại câu:
câu hỏi và câu cảm thán.
a. Ngữ khí tự "há " được dùng trong câu hỏi
Khi " há" sử dụng trong câu hỏi thì đây là loại câu hỏi mà phạm vi yêu cầu trả
lời rất rộng, không bó buộc phải trả lời kiểu "có, không" (Khác với loại câu hỏi có
"hôn" ). Ví dụ:
(158) " Không biết giá con heo đó chừng bao nhiêu thím há?"(CĐMĐ, tr204)
(159) " Dây thép gió là giông gì mày há?" (VNVT, tr 137)
Yêu cầu phải trả lời của cả hai câu trên là rất rộng "bao nhiêu" (158), "là giống
gì" ở (159), do đó người trả lời có quyền đưa ra nhiều nội dung trả lời, hay nói khác
đi, phạm vỉ trả lời không bi bó buộc bởi câu hỏi.
Ở hai biến thể "hả, hử" cung được dùng tương tự, nhưng "hả", "hử" thì xuất hiện
trong ngữ cảnh có vấn đề còn "há" trong ngữ cảnh thân thiện, bình thường.
(160)" Hai đứa nhỏ làm gì mà nằm đây hử?" (VNVT, tr 153)
(161)" Em muốn làm hôn thú chi vậy hử? (NĐ, tr 137)
(162)" Nó chạy thứ nhì đó hả? (HĐ, tr 178)
(163)" Nó thây chị xuống chắc nó mừng lắm hả ?" (HPLN, tr 27)
b. Từ "há" dừng trong câu cảm thán
Khi "há" sử dụng trong câu cảm thán thì lại mang giá trị của ngữ khí tự cảm thán
nhằm bóc lô tình cám của chủ thể phát ngôn, Chẳng hạn như bộc lộ sự ngạc nhiên của
người vợ khi biết tin người chồng thi đậu số một:
(164) "- Đậu số một là sao?
- Là đậu đầu, đậu trên người ta hết thầy chớ sao.
-Maydữ há"(BV,tr8)
Hoặc bộc lộ sự bực bội, tức giận,
Ví dụ:
(165)" Ê! Sao anh chửi tôi ? Anh muốn chết a há! ( VNVT, tr 93)
Các biến thể "hả, hử" cũng được sử dụng như thế trong câu cảm thán. Đây là ví
dụ bộc lộ sự tức giận của nhân vật phát ngôn:
(166)" Con quỉ lớn thì đau, còn thằng quỉ nhỏ đi mất biệt một buổi chiều nay, nó
bắt tôi giữ con Lựu, chịu nỗi hôn hử!" (VNVT, tr 120)
(167)" Mầy mê đĩnhưvậy đó, mầy nên lắm hả!" ( NĐ, tr 145)
Trong ngữ cảnh, 'há" và các biến thể "hả, hử" được sử dụng một cách có chọn
lựa theo tình huống sự việc hoặc theo tâm lí tình cảm của các vai trong đối thoại, cố
thể khá? quái như sau:
(i) Dùng "há'\ trong ngữ cảnh mà sự việc, mối quan hệ của các nhân vật đối thoại
là thân thiện, bình thường.
(ii) Dùng "/lả, hử" trong ngữ cảnh mang màu sắc biểu cảm, sự việc, mối quan hệ
của các vai trong đối thoại "có vấn đề".
Trở lại với các ví dụ (158), (160), (164):
(158) " Dãy thép gió là giống gì mày há?"
(160) " Hai đứa nhỏ làm gì mà nằm đây hử?"
(164) " Con quỉ lớn thì đau, còn thằng quỉ nhỏ đi mất biệt một buổi chiều nay, nó
hắt tôi giữ con Lựu, chịu nỗi hôn hử!"
Đây là các câu nói thể hiện trong những ngữ cảnh:
- (158) là lời nói bình thường trong ngữ cảnh thân thiện bình thường của thằng
Hồi hỏi thằng Quì khi hai đứa đến Sàigon và nhìn thấy "dây thép gió". Vai giao tiếp ở
đây là ngang bằng.
- (160) là lời nói trong ngữ cảnh không bình thường giữa các vai -người có
quyền (người lính ) và người không có quyền (thằng Hồi, Quì)- với ngụ ý xua đuổi,
không cho hai đứa nhỏ nằm ngủ trong nhà ga xe lửa Mỹ Tho. Vai giao tiếp ở đây là
mệnh lệnh của người lớn cho người nhỏ.
- (164) là lời nói trong ngữ cảnh mà vai nói (Thị Đen) với tâm lí tức giận vừa
rượt đuổi vừa mắng chửi thằng Quì.
2.2.4. Câu có quán ngữ đặc trưng của khẩu ngữ Nam Bộ
(Phụ lục số 8)
Theo Nguyễn Thiện Giáp, thì "...quấn ngữ là những cụm từ được dùng lặp đi lặp
lại trong các loại văn bản để liên kết, đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh nội dung cần
diễn đạt nào đó. Mỗi phong cách thường có những quán ngữ riêng..." [36; 107]. Quả
đúng như vậy, nhưng theo chúng tôi, quán ngữ còn mang dấu an của khẩu ngữ địa
phương.
Quán ngữ đặc trưng của khẩu ngữ Nam Bộ là những từ, cụm từ cố định thường
được sử dụng trong ngôn ngữ giao tiếp của địa phương, là dấu hiệu đánh dấu cho cách
diễn đạt mang màu sắc khẩu ngữ; loại này rất nhiều và đa dạng, trong phạm vi của
luận văn và trong khả năng của người viết, chúng tôi không thể trình bày đầy đủ về
loại này.
Từ nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, sẽ có Gái nhìn về vấn đề này khác nhau,
ở đây,về mặt ngữ nghĩa của câu,với sự cảm nhận chủ quan khi tiếp xúc tác phẩm,
chúng tôi chỉ xin giới thiệu một số từ và cấc cụm từ cố định quen dùng trong câu, vừa
mang màu sắc khẩu ngữ vừa mang ý nghĩa biểu đạt khá đặc biệt của phương ngữ Nam
Bộ như về: thời gian, về cách diễn dạt của chủ ngữ trong câu...
Chứng tôi có thử thống ke, phân loại các cụm từ gần như cố định thường
thấy.xuất hiện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, mà theo cảm nhận của chúng tôi, nó
mang màu sắc của khẩu ngữ Nam bộ; điều cần nói thêm, cụm từ theo lý thuyết thì rất
khó mà giống nhau khi xuất hiện trong ngữ cảnh giao tiếp, nhưng qua khảo sát chúng
tôi lại thấy nó xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm nên ghi nhận nó như cụm từ cố định
khá đặc biệt để khảo sát và để liên sử dụng chúng tôi tạm gọi là quán ngữ.
Quán ngữ được lựa chọn để nghiên cứu như nêu trên đều có xuất hiện trong tất
cả các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Tương ứng với từng nhóm có các quán ngĩf
"tương tự" cùng được sử dụng, đó là:
- Nhóm (1) có thể kể : từ rày sắp lên, từ rày sắp về sau, xưa. rày...
- Nhóm (3) có thể kể : té ngửa, ngã ngửa
- Nhóm (4) có thể kể : tội nghiệp dữ hôn, bất nhơn dữ hôn
- Nhóm (5) có thể kể : làm bậy giả bộ
- Nhóm (6) có thể kể : túng thế
- Nhóm (7) có thể kể : ai dè, không dè, đâu dè, mà dè...
- Nhóm (8) có thể kể : kệ, thây kệ
Chúng tôi căn cứ vào ý nghĩa của chúng trong câu để phân chia ra các dạng câu
tương ứng với các nhóm quán ngữ mang màu sắc khẩu ngữ, mặc dù biết rằng:
(i)Các quán ngữ mô tả ở sau, phần nào, về mặt ý nghĩa, nó không còn mang
nghĩa thực mà đã bị hư hỏa do được dùng đi dùng lại, lặp đi lặp lại nhiều lần trong
câu.
(ii)Theo lô gích diễn đạt, khi mô tả quán ngữ , thì hợp lẽ nhất là chỉ mô tả chức
năng ngữ pháp như nhấn mạnh, đẩy đưa ... chứ không nên dựa vào ý nghĩa định danh.
Tuy nhiên, như Nguyễn Thiện Giáp đã băn khoăn: " về ý nghĩa cũng như về hình
thức, các cụm từ trên chẳng khác gì các cụm từ tự do, nhưng do nội dung của chúng
đã trở thành điều thường xuyên phải cần đến trong sự suy nghĩ và diễn đạt mà chúng
được dùng lặp đi lặp lại như một đơn vị có sẳn." [36; 17]
Do vậy, sự qui ước thuật ngữ quán ngữ ở đây chỉ tiện để Miêu tả, chứ chưa bàn
sâu từ góc độ của ngôn ngữ học đại cương. Câu có quán ngữ diễn đạt thời gian .(nhóm
1)
- Gâu có quán ngữ diễn đạt sự việc, sự vật không xác định. (nhóm 2)
- Câu có quán ngữ diễn đạt một nội dung tương phản với độ ngạc nhiên cao.
(nhóm 3)
- Câu có quán ngữ diễn đạt tâm lí xót thương, ân hận. (nhóm 4)
- Câu có quán ngữ diễn đạt bộ dạng và tánh ý. (nhóm 5)
- Câu có quán ngữ diễn đạt hành động bị bắt buộc. (nhóm 6)
- Câu có quán ngữ diễn đạt hành động trái ngược với nhận định.
(nhóm 7)
- Câu có quán ngữ^diễn đạt sự.không quan tâm hay chấp nhận.
(nhóm 8)
2.2.4.1 Câu có quán ngữ diễn đạt thời gian
Những quán ngữ nhằm diễn đạt thời gian thường được sử dụng trong câu khẩu
ngữ Nam Bộ rất nhiều , có thể được chia ra như sau:
(a) - Diễn đạt thời gian hiện tại: bữa nay.
(b)- Diễn đạt thời gian đã qua: bữa hôm, hồi mơi, hồi trưa, hồi chiều, hồi nãy, lúc
nãy...
(c) - Diễn đạt thời gian tương lai: lát nữa, mơi, mốt, tì bữa,...
(d) - Diễn đạt thời gian đã qua mang tính qui ước : thuở nay, xưa rày, hôm. nay,
nãy giờ...
(đ) - Diễn đạt sự diễn biến thời đoạn của thời gian '.từ rày, từ rày sắp lên, từ rày
về sau...
Trong nhóm quán ngữ này, chúng tôi chú ý khảo sát hai nhóm quán ngữ (đ) và
(đ) vì các quán ngữ này có điểm đặc biệt về vai trò ý nghĩa của nó trong câu.
- Nhóm quán ngữ diễn đạt thời gian đã qua mang tính qui ước như: thuở nay,
xưa rày, hổm nay, nãy giờ..," (d)
- Nhóm quán ngữ diễn đạt sự diễn biến thời đoạn của thời gian như: từ rày, từ
rày sắp lên, từ rày về sau...(đ.)
a. Câu cỏ quản ngữ diễn đạt thời gian đã qua mang tính quỉ ước " thuở nay, xưa
rày, hom nay, nãy giờ. "
Trong câu, các quán ngữ này đều đảm nhiệm vai trò trạng ngữ chỉ thời gian cho
câu hoặc cho vế câu như qui tắc chung của tiếng Việt. Để qui ước cho sự diễn đạt
khoảng thời gian dài và không xác định thì các quán ngữ thường dùng là " thuở nay,
xưa rày" và khoảng thời gian ngẩn cổ tính xác đinh " hổm nay, nãy giờ, hồ ì nãy, từ ây
đến nay "
(i) Khoảng thời gian dài không xác định
Các quán ngữ " Thuở nay, xưa rày" được dùng trong các ngữ cảnh mà nội dung
của câu muốn tái hiện lại cái quá khứ (thời gian qui ước) không ai nhớ rõ là bao lâu
nên làm cho ý nghĩa của câu mang tính chất qui ước, phải chấp nhận. Đây là cách nói
thường dùng trong câu kể, tường thuật, ví dụ:
(168)" Thuở nay, bà ở với tá điền tú thổ có nhơn, ở với bà con bên chồng có
nghĩa, bởi vậy trong làng trong xóm, từ già chí trẻ, ai cũng kính mến hà." ( HPLN, trô)
(169)" Còn xưa rày tài thấy ai vồ mình cũng coi mạch có một một chút xíu, sao
hồi nãy con đó vô phỏng mình coi mạch lâu dữ vậy?" (TPNS, tr 71)
(ii) Khoảng thời gian ngắn có tính xác định
Các quán ngữ:" Hổm nay, nãy giờ, hồi nãy," được dùng trong các ngữ cảnh mà
nội dung của câu tái hiện lại thời gian đã qua nhưng không quá xa vổ! hiện tại ( thời
gian có thực) và có thể xác định được.
Ví dụ:
(170) " Bẩm quan lớn hổm nay trong xóm người ta bàn luận vụ ấy lung lắm,
song không ai hiểu tại sao Chí Cao bị đâm và cũng không ai hiểu đứa đâm đó là ai " (
CK, tr 82)
(Hì) "Nè em, bà kêu nãy giở ở trỏng." (NĐ, tr 29)
b. Câu có quân ngữ diễn đạt sự diễn biến thời đoạn của thời gian Trong nhóm
quán ngữ này với kiểu " từ rày sắp lên, từ rày về sau, từ sớm mơi tới giờ..." thường
được sử dụng rất linh hoạt trong ngữ cảnh để diễn đạt khoảng thời gian diễn biến
mang tính qui ước tương đối rõ ràng hơn từ quả khứ đến hiện tại hoặc từ hiện tại đến
tương lai . Kiểu quán ngữ này thường cấu tạo theo mô hình:
" từ.. Ạ...tớỉ(sắp,đến)... B " , trong đố A, B là quán ngữ hoặc từ chỉ thời gian . Ví
dụ:
(i)Để chỉ sự diễn biến của thời gian từ quá khứ đến hiện tại:
- xưa rày -> từ xưa đèn nay (rày)
- hổm nay -> từ hổm tới nay
- nãy giờ -> từ nãy tới giờ
(ii)Để chỉ sự diễn biến của thời gian từ hiện tại đến tương lai:
- nay , mai -> từ nay tới mai
- sáng, tối -> lừ mơi lối tối
- rày(nay), tướng lai -> từ rày sắp lên (từ rày sắp về sau, từ nay sắp tới,...)
Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thường dùng nhất là "từ rày sắp lên" để diễn
đạt diễn biến của khoảng thời gian mang tính qui ước trong tương lai.
(172)" Tôi sẽ lìa cô Julie Mai, mà từ rày sắp lên tôi không tính cưới vợ và cũng
không gần người đơn bà nào nữa hết." (TPNS, tr 227)
(173)" Từ rày sắp lên, anh đừng có đi đâu mà bỏ em ở nhà như vậy nữa nghe
hôn." (STVT, tr 59)
(174)" Vậy tói khuyên chú nó với dì nó đừng có cãi lẫy với nhau nữa; M1ễn là từ
rày sắp về sau đừng có ở quây như vậy nữa thì thôi." (CĐMĐi,tr310)
(175) " Ngôi nhà của Xã Nhẫn muốn dọn về ở hay sao, mà nghe bầy trẻ nói từ
sớm mơi tới giờ có người lo quét dọn ở đẳng." ( CK, tr 7)
Ở (172), (173), (174), "từ rày sắp lên"," từ rày sắp về sau" nhằm chỉ một thời
đoạn từ hiện tại đến tương lai; còn trong (175) "từ sớm mơi tới giờ" nhằm chỉ khoảng
thời gian qui ước đã qua mà bà Huyện phỏng đoán để nói chuyện quét dọn nhà của
người hàng xóm.
2.2.4.2 Câu có quán ngữ diễn đạt sự vật, sự việc không xác định
"giống gì"
" Giống gì " là quán ngữ được sử dụng khá linh hoạt về mặt ý nghĩa trong câu
khẩu ngữ Nam Bộ. Qua khảo sát, chúng tôi gọi đây là quán ngữ diễn đạt sự việc, sự
vật không xác định, bởi vì "giống gì" mang một ý nghĩa giả định theo ngữ cảnh phù
hợp với ý nghĩa biểu niệm của vị từ đứng trước nó, ví dụ:
- (học) giống gì : học điều gì đó, học cái gì đó, học gì đó .
- (lo) giống gì : lo điều gì đó...
- ( vui) giống gì : vui về điều gì đó...
- ( mắc cở) giống gì: mắc cở về điều gì đó...
Quán ngữ "giống gì" bản chất có tính nghi vấn (do đại từ "gì") và nó được sử
dụng trong mọi ngữ cảnh của loại câu hỏi và câu cảm thán. Trong tố hợp thì "giống "
là yếu lố đóm, dư nhưng mang ý nghĩa nhấn mạnh cho yếu lố "gì"
a. Khi được sử dụng trong câu hỏi, "giống gì" ( tương đương với "cái gì ? " trong
ngôn ngữ toàn dân) được đặt ở vị trí kết thúc câu hoặc nếu trong câu có đại từ dùng để
hỏi thì vị trí của "giống gì " có khác đi. Loại câu hỏi có " giống gì " là loại câu hỏi mà
nội dung trả lời không phải chọn lựa , người trả lời sẽ tùy vào ngữ cảnh và tâm lí để
trả lời.
Xem đối đáp sau đây giữa "thằng Quì" và thằng Hổi trong "Vì nghĩa vì tình ":
(176) "...
- Má mầy dữ quá! Tao sợ thất kinh!
Sợ giống gì mậy?
- Đánh đau...
- Thứ dọi lên đâu mà đau giống gì? " (tr 94)
Tâm lí của thằng Quì là rất sợ má của thằng Hồi, nên khi nghe thằng Hồi hỏi " sự
giống, gì" thì nó trả lời ngay cái sợ gần gũi nhất là "sự đánh đau'', trong số nhiều cái
nổ sợ.
Hoặc lời nũng nịu của Hữu Nhơn hỏi xin bà ngoại cho "giống gì" và bà ngoại
cũng đồng ý cho "giống gì" , trong giao tiếp cả hai đều chưa biết được "giống gì" của
nhau là gì. Như vậy ''giống gì" là: loại gì, thứ gì, cái gì...
(177)" Hữu Nhơn nói giọng chùng chừng:
- Cơn đi kêu ông ngoại rồi ngoại cho con giống gì?
- Con muốn giống gì ngoại cũng cho hết.
- Ngoại biểu con Tí bồng con vô chợ chơi nghe hôn.
- ừ, chiều mát rồi ngoại cho đi." (TT, tr 8)
Như vậy, tính chất quán ngữ, tức "những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong
các loại văn bản để liên kết, đưa đẩy, rào đón, hoặc nhấn mạnh..".[36;107] của "giống
gì" là rít.rõ, và do dùng đi dùng lại nhiều lần trong nhiều ngữ cảnh khác nhau nên hầu
như có phần bị bào mòn ngữ nghĩa thực, nhiều khi chỉ còn lại đì ức năng đưa đẩy là
chính.
b. Khi sử dụng trong câu mang ý nghĩa cảm thán thì "giống gì" tạo nên ý nghĩa
cảm thán hoặc chất vấn nhưng không cần có câu trả lời, có thể xem nó tương đương
với " gì, chỉ" trong ngôn ngữ toàn dân. Trong các trường hợp này ý nghĩa của "giống
gì" mang tính chung chung và "giống" là một yếu tố đệm nên trong "giống gì" thì chỉ
có "gì" là mang ý nghĩa chính.
Ví dụ: Trong câu sau "giống" nhấn mạnh thêm ý nghĩa cho "gì", nhưng nếu bỏ
"giống" thì câu vẫn có ý nghĩa.
(178)" Mầy giỏi mày làm giống gì tao đâu, mầy làm thử coi họ còng đầu mầy
không mà." (CCNN, tr 39)
Tương tự như thế chúng ta cũng thấy ở các câu:
(179)" Ai mà bản kỳ cục như vậy nà, để tao coi còn cơm nhiều ít tao cho mà ăn,
chớ hem giống gi" (VNVT, tr 159)
(180)" Đời Hầy học cho biết mà thôi, bằng cấp bằng kéo làm giống gì." ( MĐTS,
tr 18)
2.2.4.3 Câu có quản ngữ diễn đạt nội dung tương phản với thá? độ
ngạc nhiên lớn "té ra"
Quán ngữ "té ra" rất thường được dùng trong khẩu ngữ Nam Bộ với chức năng
của quan hệ từ để giúp diễn đạt một nội dung trái ngược lại với nội dung đã có trong
câu hoặc trái với nội dung của câu, đoạn trước đó.
a. Vai trò của "té ra" khi ở vị trí giữa câu
Khi ở vị trí giữa câu, quán ngữ "té ra" được sử đụng trong 2 trường hợp :
(i) Ngăn cách và tạo nên mệnh đề có ý nghĩa trái với lô gích ý nghĩa của mệnh
đề đi trước, mệnh đề đi trước có nội dung là hành động dự định. Nếu gọi A là nội
dung ý nghĩa của mệnh đề thì có thể khá? quát mô hình như sau:
(tính, định, tưởng...) A "té ra" (không) A Ví dụ:
(181)" Mầy tỉnh ghé cần Đước kiếm. tiền té ra không kiêm được thêm, mà lại
tổn của mình hết một đồng bạc nữa." (GĐMĐ, tr 213)
(182) "Anh ta đi một hồi, lại nghe có tiếng người ồ ào phía sau, anh ta tưởng
xóm làng theo bắt nên day mặt lại mà ngó, té ra không có ai hết." (CCNN, tr 42)
(183) "Trong lúc cô Oanh hăm hở định đì xuống nhà bà mẹ chồng cũ quyết tranh
gia tài với cô Hưởng, là tinh địch năm xưa đã bị cô sỉ mạ giữa chợ Cần giuộc, nên xấu
hổ phai bỏ xứ trốn đi mất, tê ra cô không gặp bà xã Cầm hay mẹ con cô Hưởng, mà lại
gặp cô Thậm, cũng là một tình địch khác, nhưng tình địch thật thà hèn hạ, khổng đáng
ăn thua, bởi vậy cô dụ dỗ hiệp hòa kết phe, đặng thêm sức mà đánh bại kẻ nghịch,
mặc dù có bà Xã cầm cán nên mạnh mẽ." (HPLN, tr 130)
Ở (181), mệnh đề đứng sau "té ra" có nội dung phản ngược lại hành động dự
định " tính ghé cần Đước kiếm tiền của mệnh đề đứng trước.
Ở (182), mệnh (le đứng sau "té rạ" biên hiện nội dung "không cổ ai" trái ngược
với suy nghĩ " (lừhĩíỊ xóm làng theo bổi" của mệnh-đề đứng trước.
Ở (183), mệnh đô đi sau "té ra" có nội dung " không gặp mẹ con cô Hưởng" trái
ngựơc với dự định của cô Oanh " gặp mẹ con cổ Hưởng để tranh gio tài "
(ii) Khi "té ra" làm nhiệm vụ ngăn cách giữa các vế câu trong câu ghép chính
phụ biểu thị ý nghĩa điều kiện - kết quả, thì nó có giá trị như từ đệm, một yếu tố dư để
nhấn mạnh thêm cho chủ ngữ của câu.
Ví dụ:
(184) " (Mình làm lớn không nên nóng. Vợ chồng chú Hội đồng có quây thì để
cho chú mắc cở thầm.) Nếu mình mà khổng tới, thì té ra mình nhỏ mọn."(MĐTS, tr
71)
Trong câu "Nếu mình.... nhỏ mọn", "tể ra" nhấn mạnh cho chủ ngữ " mình. " và
lạo the Hì ý nghĩa khung, định cho hành động dự định của chủ ngữ; Tương-tự như thế
chúng la cũng nhận thấy trong các câu sau.
(185)" Anh thiệt tình đãi tôi, nếu tôi theo thường tình ái ngại hoài té ra tôi xưa
quá. " (TT, tr 109)
(186)" Con đương lửng lơ dụ dự, thầy Hiển lại chơ con hay cổ nghị định gởi
xuống chấp thuận đơn từ chức của cô giáo Hưởng và vợ chồng thầy giao một ngàn
đồng cho cô Hưởng thì cồ khổng chịu nhận, cô nói nếu cô lấy tiền của con té ra cô bán
trinh tiết hay sao." (HPLN, tr 45)
b. Vai trò cứa "té ra" khi ở vị trí đầu câu
Khi ở vị trí đầu câu, "té ra" làm nhiệm vụ như phương tiện liên kết câu trong
đoạn, và nếu ở vị trí đầu câu của đoạn thì là phương tiện liên kết đoạn theo hướng hồi
chỉ. Trong các trường hợp nẩy thì "té ra" có vai trò như một quán ngữ biểu thị sự ngạc
nhiên bởi sự việc nối tiếp trái ngược với dự định.
Ví dụ:
(187) " Không có. Tánh tôi dề dật, có ý đợi coi con Thậm hoặc cha mẹ nó có mở
hơi, nói xa nói gần hay không. Té ra không ngờ, không ai chịu ló mòi gì hết.(HPLN, tr
28)
(188) "Một buổi sớm mơi, mặt trời xán lạn, xe tới Ba Hòn la chỗ đường Rạch
Giá qua gặp đường Hà Tiên xuống Hòn Chông chạy dọc theo mé biển. Chợt thất một
quang cảnh đồ sộ xanh dờn, dài thôn, cao vọi hiện lên ngoài biến, Chúng tôi biểu
ngừng xe leo xuống hỏi cái gì?
Người ta nói đó là hòn Phú Quốc.
Té ra hòn Phú Quốc là vậy đó!" ( STVT, tr 7)
Trong đoạn văn ỏ ví dụ (187), và phần trích 3 đoạn ở ví dụ (188), "té ra" đều
biếu.thị'sự ngạc nhiên do sự việc xảy ra trái với suy nghĩ dự định của nhân vật: "bà xã
cầm ngạc nhiên vì không ngờ gia đình cô Thậm không nói gì về việc cô Thậm'đã có
con với đứa con của bà" và " tác giả ngạc nhiên khi biết hòn Phú Quốc đồ sộ như thế
vì trong suy nghĩ của tác giả Phú Quốc chỉ lù một hòn đảo nhỏ"
(iii) Bên cạnh quán ngữ "té ra" đứng ở đầu câu, chung ta còn gặp các quán ngữ "
té ngửa", "ngã ngửa" đứng ở vị trí cuối câu. Qua khảo sát, chúng lôi thấy rằng ý nghĩa
của các quán ngữ này cũng biểu thị nội dung trái ngược với dự định và dùng để biểu
thị sự ngạc nhiên .
Ví dụ:
(189) " Qua đọc hết công chuyện cho cậu nghe, qua đưa thơ của TỐ Nga cho cậu
coi, cậu biết cậu nghi lầm, nên cậu té-ngửa!..." ( VNVT, tr 28)
(190) " (Chứ cãtiỊỊ khoỉĩỊỊ biết.) Chừng buổi chầu chiều chứ trở lại quan quận
nói chú mới ngã ngửa." ( STVT, tr 74)
2.2.4.4 Câu cổ quán ngữ diễn đạt tâm lí xót thương, ân hận
Trong liêu thuyết Hồ Biếu Chánh, chúng ta thường gặp các cụm từ biểu thị tâm
lí xót thương, ân hận, các cụm từ này gần như cố định trong kết hợp để sử dụng trong
các ngữ cảnh khác nhau, đó là 3 cụm từ:
- cơ khổ + dữ hôn -> cơ khổ dữ hổn
- tội nghiệp 4-dữ hôn -> tội nghiệp dữ hôn
- bất nhờn + dữ hôn -> bất nhơn dữ hôn
Ở đây, chúng tôi gọi là quán ngữ bởi vì mặc dù các cụm từ nêu trên thường
dùng làm câu đặc biệt mang ý nghĩa cảm thán nhưng đồng thời nó cũng xuất hiện như
một cụm từ cố định trong câu.
Qua khảo sát, so sánh về nét nghĩa của các quán ngữ nêu trên , chúng ta sẽ nhận
thấy được sự khác biệt của nó khá rõ khi sử dụng trong ngữ cảnh nhất định.
(i)"Cơ khổ dữ hôn" : được dùng trong ngữ cảnh biểu hiện sự xót thương, ân hận
hối tiếc trước một vấn đề chưa biết.
Ví dụ:
(191)" Vậy hay sao? Cơ khổ dữ hôn! Vậy mà có hay đâu! Chị có chồng về trên
nầy hay sao?" (TGGT, tr 87)
(192)" Cơ khổ dữ hôn! Vậy mà em cố hay đâu! Một năm mấy nay em không gặp
anh, mà anh cũng khàng gập hác tổng. Anh cưới vợ hay chưa?" (MĐTS, tr 93)
(193)" Cơ khổ dữ hôn có biết ở đâu! Qua nhắn hổm nay hơn nửa tháng rồi, sao
bữa nay em mới lên." (NCGĐ, tr 77)
(ii)" Tội nghiệp dữ hôn" được dùng trong ngữ cảnh biểu hiện sự xót thương, ân
hận trước một vấn đề đã biết.
Ví. dụ:
(194)" Tội nghiệp dữ hôn cháu có mấy anh em? Từ khi ông già cháu mất rồi
cháu ở đâu? Có chồng con hay chưa?" (MĐTS, tr 205)
(195) " Tôi nghiêỊ? dữ hôn! Phải làm sao đi lên mà rước cậu về, chớ cậu đau mà
để cậu ở trển sao được." (NCGĐ, tr 75)
(iii)" Bất nhơn dữ hồn" dược dùng trong ngữ cảnh biểu hiện sự đồng cảm,
thương xót và ngạc nhiên trước mội vấn đề chưa biết.
Ví dụ :
(196) " Bất nhơn dữ hôn! Vậy mà tôi không biết chớ! Từ nhỏ tới lớn, tôi khổng
có thấy thầy chùa mà cũng không có vổ chùa lần nào, nên tôi không biết." (NCGĐ, tr
50)
(191) " Bất nhơn dữ hôn, đi hồi nào ?" ( TTN, tr 63)
Như vậy các quán ngữ này không còn được sử dụng với nghĩa đen mà ít nhiều
dùng theo nghĩa thành ngữ, thậm chí nhiều khi chỉ thuần túy đảm nhận chức năng đưa
đẩy trong giao tiếp khẩu ngữ.
2.2.4.5 Câu có quán ngữ diễn đạt bộ dạng và tánh ý " coi bộ " Quán ngữ diễn đạt
bộ dạng và tánh ý trong phương ngữ Nam Bộ gồm: coi bộ, làm bộ (giả bộ) . Các quán
ngữ này được cấu tạo bởi từ chính là "bộ" với ý nghĩa gốc là "điệu bộ, dáng bộ, dáng
vẻ, thá? độ" để chỉ hình dáng bên ngoài của con người. Khi được sử dụng trong khẩu
ngữ, các quán ngữ trên tuy mang nét nghĩa mới do yếu tố kết hợp chi phối nhưng
không khác lạ với nét nghĩa gốc.
- "coi bộ" với ý nghĩa: đối lượng nay nhìn xem điệu bộ, dáng bộ, dáng vỏ, thá?
độ của đối tượng khác; nó mang hành động đánh giá, nhận xét hướng ngoại và hướng
nội, nhưng sự đánh giá đó thường không phải là chắc chắn.
- "Làm bộ" (giả bộ) với ý nghĩa: đối tượng tự thay đổi điệu bộ, dáng bộ, dáng vẻ,
thá? độ của bản thân; nó mang hành động tự đánh giá, nhận xét hướng nội.
Với nói nghĩa như thế, các quán ngữ này diễn đạt ý nghĩa trong câu như sau:
a. Câu có dùng "coi bộ"
Trong khẩu ngữ, ngữ cảnh đóng vai trò rất quan trọng để biểu đạt ý nghĩa của
câu, ở đây, chính sự chi phối của ngữ cảnh đã tạo nên 2 cách thể hiện ý nghĩa của " coi
bộ" và nó như là một từ thay thế có mang tính sở hữu cho chủ ngữ hoặc đối tượng
được nói đến:
- A coi bộ B... : dáng bộ, dáng vẻ... của B...
- A coi hộ A X... : dáng bộ, dáng vẻ... của A....
(i) Dạng " À coi bọ B" : Trong trường hợp nay,"cơ/ bộ" được dùng với ý nghĩa
của hành động hướng ngoại: đối tượng nầy(A) nhìn xem, đánh giá, nhận xét điệu bộ,
đáng bộ, dáng vỏ, thá? độ của đối tượng khác (B) ; trong đó B là đối tượng được đề
cập đến, đang có mặt hoặc vắng mặt hoặc là một nhận xét không chắc chắn về (B) .
Ví dụ:
(198) " Ý, tôi coi bô nó cỏ thai thiệt cậu đa." (CG, tr 44)
(199)" Con nhà ai ở đầu, coi bô thì nghèo mà ngộ nghĩnh quá vậy kìa." ( CCNN,
tr- 77)
Trong (198), A là "tôi" và B là "nó" , do đó "coi hộ" mang ý nghĩa nhận xét đánh
giá của "tôi" về con người của "nó". Trường hợp này "coi bộ" như là một ngữ động từ
dẫn đầu vị ngữ trong câu đơn.
Trong (199) A là người đang phát ngồn (vai thứ nhất) , B là người đang được nói
đến (vai thứ ba) " con nhà ai = nó" , do đó "coi bộ" mang ý nghĩa nhận xét đánh giá
của A về dáng bộ của B, với ý nghĩa " dáng bộ , dáng vẻ của nó thì nghèo...". Trưởng
hợp này về cấu trúc câu, "cơi bộ1' như giữ vai trò chủ ngữ của vế thứ 2 trong câu
ghép.
(ii) Dạng " A coi bộ AX " : Trong trường hợp này,"coi bộ" được dùng với ý
nghĩa của hành động hướng nội: đối tượng (A) tự thay đổi về bản thân: điệu bộ, dáng
bộ, dáng vẻ, thá? độ... ; trong đó A giữ vai trò là chủ ngữ, luôn có mặt trong câu và
AX là dạng thay đổi của A.
Ví dụ:
(200)" Bà hỏi vậy chớ kiếm được chị với cháu không, thì anh ta lắc đầu, coi bô
buồn bực lắm." (NCGĐ, tr 67)
(201)"Còn cậu Ba Giai, cậu đứng chấp tay xá mẹ rồi đứng xó ró dựa cái tủ rượu,
tay xây tròn cúi ly, mạt ngó cúi xuống đất, coi bô buồn hực mà lại xẻn lẻn lắm."
(CCNN, tr 108)
Trong (200), A là "anh ta" và AX là " dáng hộ của anh buồn bực lắm". Đây la
cách nói của khẩu ngữ dựa vào ngữ cảnh để tỉnh lược chủ ngữ, một cách dùng rất phổ
biến. Ở (201) cũng thế.
b. Câu cỏ dàng "làm hộ (giả bộ)"
- "Làm bộ" , "giả bộ" với vai trò vị ngữ trong câu, khi xuất hiện làm thay đổi
trạng thá? của chủ ngữ , tạo nên một hành động hướng nội của câu, vế câu hoặc mệnh
đề chứa nó. Cách sử dụng "tòm bộ, giả bộ" trong câu cũng tương tự như "coi bộ" ở
dạng " A coi hộ AX” Ví dụ:
(202)" Cô Tân Phong làm bổ như không nghe mây lời nói sau đó." (TPNS, tr)
2.2.4.6 Câu có quán'ngữ diễn đạt hành động bị bắt buộc " cực chẳng
đã" và "túng Hít
Hai quán ngữ " cực chẳng đã" và "táng thế" đều có ý nghĩa từ vựng khá? quát
chung là " khó khăn lắm.., không lối thoát mới làm như thế..." .
Trong hầu hết các ngữ cảnh, "cực chẳng đã" và "túng thế" đều được sử đụng
trong mọi .loại câu và nó. ở vị trí giữa câu làm vai trò của quan hệ từ; ngoài ra nó còn
ở vị trí đầu câu làm phương tiện liên kết câu (nối) hoặc liên kết đoạn. Mặc dù cả hai
quán ngữ trên có chung ý nghĩa khá? quát nhưng không phải có thể thay thế cho nhau,
bởi mỗi quán ngữ xuất hiện ở ngữ cảnh khác nhau để biểu đạt một hành động bắt buộc
khác nhau.
Hành động bắt buộc có thể thấy ở hai tình huống: Tình huống bắt buộc và tình
huống bị hắt buộc. Với hai lình huống này, các quán ngữ "cực chẳng đã" và "túng thê*
được sử đụng như sau:
a. Diễn dại hành động bắt buộc: "cực chẳng đã"
b. Thử xem ví dụ sau:
(203)" Cậu trai ấy xin từ, nói rằng mình đã dùng cơm chiều rồi, Khiếu Nhàn theo
ép dùng -thêm, nên cực chẳng đã phải vung lời vào ăn thêm một chén." (ALĐ, tr 8)
Trong (203) cùng với ngữ cảnh và cổ sự xuất hiện "cực chẳng đã", cho phép
chúng ta phân (ích thá? độ có lính chất gượng ép về tâm lí cho "Cậu trai", đó là: " Chí
Đại đã ăn cơm rồi, đốn nhà ông Bạch Khiếu Nhàn, ông cứ mời ăn cơm thêm, Chí Đại
nghĩ rằng từ chối thì không tiện - vì đang trong không khí thăm hỏi xã giao- nên Chí
Đại "bấm bụng, gượng gạo ăn cơm thêm để vừa lòng chủ nhà."
Chúng ta thường xuyên gặp "cực chẳng đã" được sử dụng trong tình huống như
thế.
(204)" Có Phùng Xuân hi ép quá, không thể chối từ được, cực chẳng đã phải đi
ăn cơm với áng Phán." ( TGGT, tr 42)
(205)" Ngặt vì trong cơn ương yếu, túng rỗi, một đổng bạc quý bằng một trâm
đồng, nên cực chẳng đã tôi phải đưa tay mà lây hai chục đồng bạc ấy, ở ăn cơm sâm
mơi rồi mới đi xe trưa mà trở xuống cần Thơ." (CK, tr 76)
Tiền giả định của cá 4 câu (a, b, c, d, đ) đều là có chung một nhận định trước là
"nó không đến" , do đó lại mang một hàm nghĩa là sự kiện "nó đến" là rất hất ngờ và
gây ra sự ngạc nhiên. Ở (e) tiền giả định là "nó đến", nhưng tác dụng của "phải dè" tạo
nôn " nó không đến".
Khi xem xét về mặt sử dụng, vị trí xuất hiện trong câu, chứng tôi chia các quấn
ngữ trôn ra lùm 2 nhóm:
- Nhóm (a) gồm các quán ngữ: Chẳng dè, nào dè, phải dè .
- Nhóm (b) gồm các quán ngữ: Không dè, có dè, đâu dè, mà dè.
Một đặc điểm chung của các quán ngữ này, khi dùng trong câu đều dẫn đầu cho
bộ phận vị ngữ và ý nghĩa từ vựng cũng không thay đổi, nhưng khi biểu hiện trong
câu khẩu ngữ thì có khác nhau, tạo nên dấu hiệu đánh dấu cho cách dùng của khẩu
ngữ.
a. Các quán ngữ : "Chẳng dè, nào dè, phải dè"
Thường được dùng ở đầu câu hoặc đầu vế câu trong câu ghép có tác dụng
chuyển tiếp để báo hiệu cho một nội dung trái với tiền giả định hoặc báo hiệu thay đổi
nội dung thông báo của vế câu chứa nó với phần nội dung đã thông báo trong các vế
câu trước đó; trường hợp này các quán ngữ có vai trò như quan hệ từ .
Ví dụ:
(208)" Nào dè về đến nhà cũng không thấy chồng, nàng ngồi không yên cứ ra
đứng dựa cửa ngóng trông hoài." (NCGĐ, tr 130)
(209)" Chẳng dè Thị Lựu chạy lại níu áo chồng mà trì lằn nhằn làm cho Trần
Vân Sửu rượt không được, để cho Hương hào Hội thót ra lộ rồi chạy mất" (CCNN, tr
39)
(210)" Phải dè như vậy, hồi chiều tao biểu thằng Điệu kêu xe vô rước nó là
xong" (KLNC, tr 62)
(211)" Thủ Nghĩa hỏi vậy chớ tại sao mà không đào hang ra phía đổ lại đào trở
lộn vây thì Mạc Tiễn cắt nqhĩa rằng mình thấy phía đó có lính ở, sự đào ra đó chúng
hay nên đào vô phía trong, tưởng là trổ ra ruộng được, nào dè không trổ đi đâu lại trơ
qua khám khác." (CTKQ, tr 36)
(212)" Cô lật đật lên nhà trên mà tiếp khách, chẳng dè cô vừa mới đứng dậy, thì
vợ Bả Hỉ đã xuống tới chỗ cồ dạy học." (KT, tr 169)
Trong (208) , "nào dè" đứng ở vị trí đầu câu vừa là từ nối với câu hoặc đoạn
trước đó vừa là dấu hiệu chuyển tiếp để thông báo một nội dung khác với cái đã cổ
(tiền giả định) ; "nàng tưởng cố chồng ở nhà" , và quán ngữ " nào dè " làm nhiệm vụ
chuyển tiếp để giới thiệu nội dung ngược lại với tiền giả định "về đến nhà cũng không
thây chồng" ; trong ví dụ (209), "chẳng dè" làm nhiệm vụ chuyển tiếp để giới thiệu "
Thị Lựu chạy lại níu áo chồng" trái ngược với nội dung trước đó " Thị Lựu đứng
sững" và ở ví dụ (210) vai trò của "phải de" cũng như thế.
Trong ví dụ (211) , "nào dè" dẫn đầu cho vế câu sau cùng của câu ghép vừa là
một từ nối vừa làm nhiệm vụ báo hiệu cho một nội dung thông báo ngược lại đã có
trước đó của Mạc Tiễn "hầm trổ ra ruộng" nhưng lại " đào trổ qua khám khác'; và ở ví
dụ (212), vai trò của "chẳng đè" cũng như thế.
b. Các quán ngữ: "Không dè, có dè, đâu dè, mà dè "
Nhóm các quán ngữ này về mặt ý nghĩa biểu hiện và vai trò trong
câu cũng như nhóm (a) nêu trên, nhưng có một điểm khác biệt về chức năng ; đó
là thường làm bộ phận vị ngữ cho câu để diễn đạt một trạng thá? tâm lí ngạc nhiên cho
chủ ngữ. Cho nên thường có kết cấu : tôi không dè.,., ai có dè..., tôi mà dò..., tôi đâu
dè... và cũng có khi do cách diễn đạt của khẩu ngữ nếu chủ ngữ thường bị tĩnh lược.
Ví dụ:
(213)" Tôi không dề hà lởn lại đi thăm tôi trước." (Cư kỉnh, tr 9)
" Qua với em. mà gần nhau đây, qua không tính trước, mà qua chắc em cũng
không dè," (TGGT, tr 11)
(214)" Quan tổng đốc chỉ Chúa tàu mà nói rằng: " Hai quan lớn này, té ra Lê
Hữu Nghĩa là Chúa tàu này đây, mà thuở nay mình có dè đâu!" (CTKQ, tr 189)
(215)" Thỉếm giáo cũng chết điếng trong lòng, hai hàng nước mắt chảy ròng
rồng, khàng dè sự nhơ nhuốc của con đến nâng nỗi ấy." (CG, tr 23)
2.2.4.8 Câu có quán nại! diễn đạt sự không quan tâm hay chấp nhận
"thây kệ"
Để diễn đạt sự không quan lâm, khẩu ngữ Nam Bộ thường dùng từ "kệ" , "thây"
và còn dùng luôn cả tổ hợp như từ ghép đẳng lập " thây kệ", "mặc kệ" . Như đã biện
giải, sở dĩ chúng tôi tạm coi là quán ngữ vì nó được sử dụng lặp di lặp lại nhiều lần,
dặc biệt là mát dần nghĩa thực, ở đây bên ngoài nghĩa định danh còn có ý nghĩa nhấn
mạnh.
Về mặt ý nghĩa từ vựng của các quán ngữ " Thây kệ, mặc kệ" là biểu hiện sự
chỏi (ừ, sự không quan (âm hay chấp nhận; khi sử dụng trong câu nổ cũng có ý nghĩa
như thế và nó còn góp phần tạo nên hành đông phủ đinh hoặc giá trị biểu cám của câu.
Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, hầu hết ở các tình huống này, khi sử dụng đều dùng
"thây kệ" hoặc " thây" rất ít dùng "mặc kệ, kệ"
a. Tạo nên hành động phủ định
Trong câu, khi để biểu hiện một thá? độ không quan tâm hay chấp nhận, "thây
kệ1' được sử dụng như một hành động phủ định, thể hiện sự không quan lâm đốn đối
tượng khác hoặc phải chấp nhận như vậy, và phía sau liền với "thây kệ" là một đại từ
nhân xưng để chỉ đối tượng không cần quan tâm, đo đó thường hay gặp cách nổi "thây
kệ nó, thây kệ họ..., thây nó...
(217)" Họ là xã trí họ không biết thương nhà nghèo, họ không kể nòi giống, họ
làm sao thây kệ họ, mình phân bì với bọn quấy như vậy mà làm gì?" (KT, tr 179)
(218)" Thây nó, để coi nó nói giống chớ, sao thím lại cản?" (CG,tr 20)
b. Tạo nên giá trị biểu cảm
Trong các câu cảm thán, hoặc câu kể, "thây kệ" cũng được dùng đổ diễn đạt
hành động phủ định nhưng kèm theo đó là trạng thá? tâm lí của người phát ngôn: vui,
buồn, tức giận...
Ví dụ: Khi thằng Hồi dùng hết tiền bị thằng Quì trách thì nó buồn bã nói:
(219)" Thây kệ mà! Hết rồi mình còn kiếm cái khác lo gì mậy," (VNVT,tr139)
hoặc khi nhân vật "giận lẫy" thì:
(220) " Tôi ác thây kệ tôi. Ai có thương thứ đồ hư như vậy thì cưới nó đi" (CG,
tr 38)
2.3.MỘT VÀI MÔ HÌNH CÚ PHÁP KHẨU NGỮ
( Xem thêm phụ lục số 9) Như ở mục I đã nêu, cứ pháp khẩu ngữ có đặc điểm ít
gọt giũa và thường dùng các yếu tố dư, lặp, dùng đại từ để thay thế... và phải phản ứng
ngay tức thời nên các dạng câu tỉnh lược hoặc dạng câu mang tính "kể lể" cũng
thường được sử dụng cần lưu ý thêm rằng, ở đây không phải trong khẩu ngữ không có
những câu có cấu trúc chặt chẽ mang tính gọt giũa, nhưng do gắn liền với hoàn cảnh
giao tiếp nên thường mang hai đặc điểm là vừa tỉnh lược, thậm chí tỉnh lược tối đa,
mặt khác lại chứa các yếu tố dư thừa với chức năng nhấn nhá, đốm lót, như đã thấy
phần nào khi mô tả một số nhóm quán ngữ ở trên.
Để xác định dạng câu khẩu ngữ, các nhà nghiên cứu thường-sử dụng các liêu
chí: cấu trúc đung nạp cả cách dùng tỉnh lược và dùng nhiều yếu tố dư, diễn đạt dùng
nhiều từ địa phương, thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ và thiên về sự cụ thể, bộc lộ cảm
xúc hơn là khá? quát,trung tính. [110 ], [112]; hoặc thiên về tiêu chí mật độ "hư từ"
trong câu như quan điểm của DavidNunan [78].
Ở đây, khi khảo sát về câu khẩu ngữ Nam Bộ trên bình diện cấu trúc ngữ nghĩa
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, luận văn không nêu thêm tiêu chí nào khác mà chỉ
vận dụng các quan điểm, tiêu chí của các nhà nghiên cứu đã nêu ra như trên. Tuy
nhiên, đây là một vấn đề khá lớn mà cũng chưa có nhiều, công trình nghiên cứu, và do
khả năng có hạn, chúng tôi chỉ nêu ra một vài mà hình cú pháp khẩu ngữ Nam Bộ mà
thôi.
Khi nêu ra một vài mô hình cú pháp khẩu ngữ Nam Bộ xét trên bình điện cấu
trúc ngữ nghĩa, chúng lôi không quan tâm đến mô hình cấu trúc đặc trưng cho các loại
câu đơn, câu ghép mà chỉ quan tâm hình thức cú pháp nhằm diễn đạt nội dung thông
báo của câu. Với mục đích như thế, chúng lôi khảo sát các dạng câu như sau:
- Dạng câu có nội dung câu kết cấu 3 phần.
- Dạng câu tạo nên cách nói gián tiếp.
- Dạng câu "đề thuyết" cổ nhiều nội dung diễn đạt cho "đề" .
- Dạng câu diễn đạt ý nghĩa theo cách liệt kê.
- Dạng câu diễn đạt ý nghĩa theo cách đối lập.
Sở dĩ chọn như thế vì qua khảo sát, chúng tôi có nhận thấy các mô hình cấu trúc
ngữ pháp khẩu ngữ như thế thường được Hồ Biểu Chánh sử dụng trong sáng tác của
ông, tuy không nhiều nhưng nó gần gũi với khẩu ngữ cả trong lời dẫn chuyện của tác
giả và trong hội thoại, và cũng cần thấy rằng đây là các cấu tạo làm nên độ đậm đặc
của khẩu ngữ xét về mặt cú pháp. Chúng tôi đã thử thống kê số lượng câu có dạng như
thế trong một tác phẩm và có được số liệu như sau:
2.3.1.Dạng câu có nội dung câu kết cấu 3 phần
Trong tiêu thuyết của Hồ Biếu Chánh chúng ta thường gặp loại câu khá dài được
cấu tạo bằng nhiều vế câu (M) và nối kết các vế câu bởi các yếu tố nối (ytn) : là các
quan hệ từ , các ngữ khí tự địa phương, hoặc yếu tố dư . Nội dung ý nghĩa của câu
được kết cấu 3 phần, mô tả trọn vẹn một sự việc, sự tình, tương đương như mội đoạn
văn hay diễn ngôn (discourse) có nội dung 3 phần.
Mô hình chung của loại câu này:
Đặc điểm của dạng câu này là:
- Về mặt ý nghĩa: các vế câu chứa nội dung của câu thường được trình bày theo
hướng diên dịch ; vế câu đứng đầu câu mang ý nghĩa chung, khá? quái, các vố can tiếp
theo nhằm trình bày thêm nội dung theo cách liên tưởng xoay quanh nội dung của vế
câu chính và vế câu kết thúc như là kết luận lại sự việc, nội dung thông báo của câu
khá nhiều, tương đương với nội dung của đoạn văn.
- Về mặt hình thức: đặc điểm trong dạng câu này là những vế câu nối tiếp theo
sau vế câu chính thường có kết cấu tỉnh lược chủ ngữ và có thể tách ra thành nhiều
câu đơn hoặc câu ghép. Những yếu tố dư được dùng trong câu có khi ỉa để nối, có khi
là đệm để tái hiện ngữ cảnh hỗ trợ cho nội dung ý nghĩa của vế câu đi sau.
Chúng ta xem 3 ví dụ dạng câu kết cấu 3 phần ở 3 tác phẩm được sáng tác ở các
giai đoạn đầu, giữa, cuối của Hồ Biểu Chánh:
Ví dụ
(221) " Bạch Tuyêí cản hêi sức không được, nên sủng bữa sau phải để cho chồng
đi (M1), ma Chí Đại vừa ra khói nhà thì có cũng đội khan đi nữa (M2), tính đi kiếm
chỗ làm mướn, chớ không đành để cho chồng cực khổ một mình (M3), may có vợ lon
ton Thiệt chạy theo níu lại, nói rằng có bụng có dạ phải dưỡng lấy thai (M4), nên cỏ
mới chịu trở vổ nhà nằm mà khóc.(M5) " (ALĐ, tr 75)
+ Trong ví dụ (221):
- Đây là câu mang màu sắc của khẩu ngữ bởi có dùng nhiều từ ngữ và cách diễn
đạt địa phương:
- Về mặt ý nghĩa, vế câu(M1) mang ý nghĩa khá? quát của cả câu, các vế câu
(M2, M3, M4, M5 ) đều nhằm nêu thêm những vấn đề, sự việc xảy ra liền theo ý
nghĩa khá? quát của (M1) với đại ý:
. Mở đầu câu (M1): Bạch Tuyết không cho chồng đi làm. Diễn biến sự việc (M2,
M3, M4) : Chồng đi làm nên cô cũng đi, có người cản lại.
. Kết thúc câu (M5): Cô khóc vì thương chồng:
Ý nghĩa của cá câu là một diễn biến sự việc trọn vẹn : có mở đầu, có diễn biến,
có kết thúc.
Ví dụ
(222) Hồi chồng bà chết thì để cho bà có một trăm năm chục mẫu ruộng(M1),
mà bây giờ ruộng của bà và của chồng bà đứng bộ cộng hết thảy trên hai trăm mẫu
(M2), bà để làm ba trăm công, còn bao nhiêu bà cho mướn(M3), mỗi năm bà góp lúa
thường thường từ năm ngàn rưởi tới sáu ngàn giạ (M4). " (CCNN, tr 70)
+ Trong ví dụ (222):
- Đây là câu mang màu sắc của khẩu ngữ hỏi có dùng nhiều từ ngữ và cách diễn
đạt địa phương:
- Về mặt ý nghĩa, vế câu (M1) mang ý nghĩa khá? quái của cả câu, các vế câu
(M2, M3, M4 ) đều nhằm nêu thêm những vấn đề, sự việc xảy ra liền theo ý nghĩa
khá? quát của (M1) với đại ý:
. Mở đầu câu (M1): giới thiệu "hà" chỉ có một trăm năm chục mẫu ruộng.
. Diễn biến sự việc (M2,M3) ; bây giờ bà có ruộng nhiều bà cho mướn...
.Két thúc câu (M4): do ruộng nhiều nên thu lúa ruộng đến sáu ngàn giạ..
Ý nghĩa của cả câu là một sự việc trọn vẹn : mở đầu " giới thiệu người có ruộng"
, diên biến là" tạo thêm ruộng" và kết thúc là "thu huê lợi nhiều".
Ví dụ
(223) " Rồi đó bà Xã mới xin ông Đốc thuật tỉ mĩ lại cho bà nghe tại sao ông biết
chổ cô Hưởng ở mà kiếm (M1), trót mười mấy năm cô đi làm việc ở đâu (M2), nói lại
cho kỹ một lần nữa tại sao yêu Đường mà cô có con rồi phải trốn tránh không dám
gần người yêu nữa(M3), còn con thì cậy người ta nuôi giùm không dám giao cho
Đường(M4), chừng qua chùa gặp Càn thì thá? độ của Càn thể nào (M5), Càn nói
những chuyện gì thuật lại y cho bà nghe (M6), không sót một mảy (M7)." (HPLN, tr
82)
+ Trong ví dụ (223):
- Cũng như ở 2 ví dụ trên, đây là câu mang màu sắc của khẩu ngữ bởi có dùng
nhiều từ ngữ và cách diễn đạt địa phương:
- Về mặt ý nghĩa, câu diễn đạt sự việc trọn vẹn, đó là : vế câu (M1) mang ý nghĩa
khá? quát của cả câu : " Bà Xã yêu cầu ổng Đốc thuật lại tỉ mỉ sự việc.", các vế câu
(M2, M3, M4, M5, M6 ) đều nhằm nêu thêm những vấn đề, sự việc xảy ra mà "bà Xã
yêu cầu" và ở vế câu cuối cùng (M7) cũng là yêu cầu " thuật không sót một mảy".
Ở đây, trong diễn đạt, có một số trường hợp, dạng câu này được nhận biết bởi ở
vị trí cuối câu có "hết thảy".
(224)" Có việc làm ở bên phủ thì Chí Đại đã sẵn có tánh thông M1nh mẫn cán
mà lại biết đọc biết nói tiếng Lang Sa, công việc làm chẳng trễ nải (M1), hễ có quan
Lang Sa đến thì anh ta thông ngôn (M2), hễ có giấy tờ chi hằng chữ Lang Sa thì anh ta
cắt nghĩa (M3), bởi vậy quan phủ càng ngày càng trọng dụng(M4), các việc cho Chí
Đạt coi sóc hết thảy.(M5)" (ALĐ, tr19)
(225)" Ở đất này tốn hao trăm bề, chớ như ở dưới mình hay sao(M1), phải trả
tiền phố(M2), phải mua gạo(M3), phải mua dầu đèn(M4), phải ăn bánh hàng(M5),
mỗi mỗi đều phải tốn hết thay.(M6)" (CG, tr 74)
Mô hình cú pháp Miêu tả ở trên, như đã thấy, là những cách diễn đạt nhằm nêu
sự kiện để "kể" và cũng phần lớn là lời của người kể chuyện, Chắc hẳn sẽ có mối quan
hệ giữa các cấu trúc này với chức năng tổ chức văn bản, rất tiếc do không có điều kiện
khảo sát thêm nên chúng tôi tạm dừng lại ở đây.
2.3.2. Dạng câu tạo nên cách nói gián tiếp
Đây là dạng câu có chủ ngữ liên kết với chủ ngữ để tạo nên cách nói gian tiếp
của chủ ngữ đi sau, thường dùng trong câu kể và trong hội thoại. Mô hình hai chủ ngữ
trong câu là:
CN1 vị từ CN1
Trong khẩu ngữ, cách diễn đạt câu có hai chủ ngữ như thế rất thường gặp, bởi
trong giao tiếp thường hay diễn ra hành động kể lại, suy tính của người phát ngôn mà
người phát ngôn chính thức lại muốn né tránh không muốn cho đó là ý kiến của mình .
Về mặt hình thức, trong dạng câu này từ loại dùng ở chủ ngữ là danh từ chỉ
người và đại từ chỉ người, thường gặp là:
danh lừ - vị từ - đại từ -vị từ... Ví dụ : Ông Tư nói cổ chưa đi...
- danh từ " danh từ " ..Ví dụ : Ông Tư thấy cô Hai chưa đi...
-đợi từ - đại từ " ... Ví du: Bả nói ổng ăn rồi...
'đại từ - danh nì " ... Ví dụ: Bả nói ông Tư chưa đi...
- danh từ riêng " đại từ Ví dụ: Thằng Hồi nói nó đói bụng.
Nếu xét về vai của chủ ngữ trong câu, thì các vai như sau:
-Vai 1 : Người đang phát ngôn.
- Vai 2: Người đang trực tiếp đối thoại với người phát ngôn.
- Vai 3: Người vắng mại mà người đang phát ngôn đề cập đến.
Từ đó có hai trường hợp xảy ra trong dạng câu khẩu ngữ nay như sau:
- Nên lặp lại vai (cùng vai) thì là cách nói gián tiếp dùng để nhấn mạnh nội dung
ý nghĩa.
- Nếu khác vai thì đó là cách diễn đạt ý nghĩa gián tiếp của người phát ngôn.
Ví dụ:
(226) “Qua dặn trước em, hễ gặp cậu Hai, em phải làm mặt giận cho hung, em
nói em có chủa, em buộc cậu phải tính cho vuông tròn, không thôi thì em kéo lưng
cậu.” (NĐ, tr 82)
(227) “Tôi nói đến gia tài thì cậu nói cậu hết mê trần tục, cậu đã dứt nợ đời rồi.”
(HHLN, tr 80)
Trong ví dụ (226), đây là lời căn dặn của người phát ngôn "Qua (tôi)" (vai 1) với
người đang trực tiếp đối thoại "em" (vai 2) , sự lặp lại chủ ngữ trong vế câu “em nói
em có chửa” là cách nói nhấn mạnh gián tiếp của vai 1 nhằm để nhấn mạnh hành động
của chủ ngữ 'em". Và sự lặp lại "cậu" trong ví dụ (227) cũng thế.
Cũng lừ mô hình câu có chủ ngữ lặp cùng vai, chúng ta thấy khẩu ngữ thường
dùng cách diễn đạt khác với bình thường như:
2.3.2.2. Trường hợp 2 chủ ngữ khác vai
Ví dụ:
(228)" Cô Thậm nói cha lên sớm dữ và hối con nấu nước chế một bình trà cho
ông ngoại uống..., " (HPLN, tr 147)
(229)" Ông nói thằng Ba bị chị đuổi thì nó lên Sài Gòn xin vô dạy trường Vân
Thê liền." ( TT, tr 142)
Trong cả 2 ví dụ trên, đều là cách nói gián tiếp của CN1 với CN2 nhằm kể lại sự
việc mà CN1 thể hiện " Cô Thậm nói, Ông nói..." .
2.3.2.3. Dạng câu "đề thuyết" có nhiều nội dung diễn đạt cho "đề"
Chúng tôi tạm gọi dạng câu về thuyết có nhiều nội dung diễn đạt cho "đề" là loại
câu có cấu tạo nhiều vế câu, trong đó vế câu đầu tiên (M) mang vai trò của "chủ đề" ,
các vế câu tiếp theo mang vai trò của "thuyết", có đặc điểm:
- Nội dung ý nghĩa của các vế câu theo sau (M1, M2, ...) nhằm bổ sung thêm cho
ý nghĩa của vế câu đầu liên để hoàn chỉnh cho ý định Miêu tả, đặc biệt là tả người, tả
cảnh và tả hoạt động; ý nghĩa của các vế câu theo sau được diễn đạt theo cách liên
tưởng hoặc liệt kê. Trong khẩu ngữ cách diễn đạt kiêu " mô tả trọn vẹn" Nầy là rất
thường dùng nên thường xuất hiện trường hợp đoạn văn chỉ có một câu.
- Về hình thức của câu tương tự như câu ghép nối tiếp. (hoặc có khi là câu đơn
có nhiều vị ngữ.)
Ví dụ:
(230) "Anh tư mặc một cúi áo đen nhùn nhục, một cái quần vắn lai đứt tả tơi
(M), đầu bịt trùm một cái khăn rằn (M1), Miệng ngậm trầu một húng (M2), tay mặt
cầm một khúc cây cóc (M3), tay xách một xâu hai con cả lóc với ba bốn con cá rô
(M4)." (CCNN, tr 11)
Trong ví dụ nêu trên, nội dung diễn đạt của câu là miêu tả con người và hoạt
động của nhân vật (Trần Văn Sửu, nhân vật trong "Cha con nghĩa nặng") một cách
trọn vẹn từ vóc dáng đến hoạt động.
Nếu lấy con mắt của ngôn ngữ học gọt giũa mà xét thì câu này có thể chia cắt
thành nhiều câu đơn có nội dung thông báo rõ ràng về từng mặt của nhân vật:
- Anh ta mặc một cúi áo đen nhún nhục, một cái quần vắn lai đứt tả tơi (1)
- Đầu (của anh ta) bịt trùm một cái khăn rằn,(2)
- Miệng (của anh ta) ngậm trầu một búng .(3)
- Tay mặt (của anh ta)cầm một khúc cây cóc.(4)
- Tay (của anh ta) xách một xâu hai con cá lóc với ba hốn con cá rô.(5)
Chúng ta cũng sẽ gặp khá nhiều loại câu như thế trong tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh trong các tình huống phát miêu tả:
(231) " Nàng không thấy cha mà lại thấy có một người đàn bà ở nhà sau bước rư
trạc chừng ba mươi lăm, ba mươi bảy tuổi (M), mình choàng một cái yếm chớ không
có áo (M1), miệng rộng, môi mỏng, cặp mắt lươn, chơn mày thưa(M2), thấy tướng
mạo thì biết người lanh lợi mà lại khắc bạc nữa(M3)." (NCGĐ, tr 78)
(232) "Từ ngoài rào trúc dựa lộ vô tới thềm nhà lá thì có một cái sân rộng lớn
(M), sân xẻ đường ngang đường dọc (M1), dài theo mỗi đường trồng xoài mít xen lộn
vài nhau (M1), mà sau những hàng cây ấy lại có xây bồn trồng hàng đủ màu, đủ thứ
(M3), nhờ sẵn nước trong cái giếng ở góc rào, cất lên tưới mỗi ngày hai lần, nên dầu
mùa nắng nóng bông cũng thường tốt tươi.(M4)" (TT, tr 152)
Tất cả đều phản ánh cách mô tả có lặp có láy theo qui tắc quan sát, phối cảnh
hoặc từ xa đến gần và ngược lại, hoặc từ trên xuống và ngược lại, hoặc từ ngoài vào
trong và ngược lại, hoặc từ lớn đến bé và ngược lại, hoặc từ cảnh cụ thể đến trừu
tượng và ngược lại... Cách tổ chức văn bản như vậy rất phù hợp với tâm lí người đọc
có trình độ không cao lắm, giúp họ dễ theo dõi câu chuyện, cho nên có thể nói tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh là một truyện kể vừa dung dị mà hiện đại.
2.3.2.4. Dạng câu diễn đạt ý nghĩa theo cách liệt kê
Liệt kê là cách sử dụng thông thường trong bất kì ngôn ngữ nào ở cả hai mặt
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết nhằm nêu ra hàng loạt sự việc, sự kiện trong câu nói,
trong đoạn văn. ơ đây, trong các dạng câu của khâu ngữ Nam Bộ mà Hồ Biểu Chánh
thể hiện trong tiểu thuyết của ông cũng có sử dụng dạng này, nhưng hình thức thể hiện
có khác.
Qua khảo sát, dạng câu khẩu ngữ diễn đạt theo cách liệt kê được tìm thấy ở cách;
- Dùng từ ngữ chỉ trình tự diễn đạt " nào là, một là, hai là (hai lẽ là)..." dẫn đầu
cho vế câu để diễn đạt sự liệt kê nhằm khẳng định ý nghĩa.
- Dùng kết cấu " chủ ngữ + thì ... " dẫn đầu vế câu để diễn đạt sự liệt kê nhằm để
Miêu tả.
2.3.2.4.1 Dùng từ ngữ chỉ trình tự diễn đặt "nào là, một là, hai là .." để liệt kê
nhằm khẳng định ý nghĩa
Ví dụ:
(233) " Chí đại lên tới Bạc Liêu thì thẳng vô tòa, đọc hết các việc gian của Bà
phủ Cà Mau cho quan Biện lý nghe, nào là tráo thuốc giết bà phủ lớn mà giựt chồng,
nào là ép gả con ghẻ cho cháu mà đoạt của, nào (là) giả thương yêu rước con ghẻ về
mà làm hại, nào là vu oan cho Trường Khanh với Băng Tâm đặng rảnh tay, nào là đè
con ghẻ đổ thuốc độc cho chết đi đặng có đoạt hết gia tài của Khiếu Nhàn. " (ALĐ, tr
171)
Trong ví dụ trên, "nào là" được dùng lặp lại ở các đầu vế câu nhằm liệt kê ra các
việc làm xấu của "Bà phủ", đồng thời vai trò của "nào là" còn tạo cho lời nói của Chí
Đại thêm ý nghĩa khẳng định.
Hoặc cách sử dụng "một lẽ là, hai lẽ là..." trong ví dụ sau đây cũng nhằm khẳng
định cho các lí lẽ mà "Ông Phán" tự đưa ra để phân tích trước khi hỏi cưới “cô Phùng
Xuân”:
(234)" Không lý muốn mà cũng không nên muốn như vậy; một lẽ là tuổi ông
bằng hai tuổi cô, cô đáng con của ông, hai lẽ là ông già rồi, nếu ông có vợ nhỏ, trong ít
năm ông chết, ông bỏ vợ bơ vơ, còn như sanh con lại càng tội nghiệp hơn nữa, ba lẽ
ông có gây cuộc gia thất một lần rồi, tại số mạng cửa ỏng phải cô độc, nên trời phật
mới khiến vợ con chết hết, bây giờ còn miễn cưỡng tính gây cuộc thất gia một lần nữa
mà làm chi, bốn lẽ là cô đương uất tình, đương khổ thân, chẳang khác nào người chơi
vơi giữa dòng sông, nếu không thể cứu vớt dùm tánh mạng cùng danh giá của cô được
thì thôi, chở có lẽ nào lại thừa lúc cô nguy khốn mà dụ dỗ ép uổng. " (TGGT, tr 58)
4.2 Dùng kết câu " chủ ngữ + thì..." dãn đầu vế câu đế diễn đạt sự liệt kê nhằm
để miêu tả
Câu có dùng kết cấu "chủ ngữ + thì" là dạng kết câu bình thường, nhưng nếu
trong câu có nhiều vế câu mà các vế câu có chủ ngữ kết cấu như thế thì câu lại mang
màu sắc của khẩu ngữ bởi sự lặp lại cấu trúc và ý nghĩa diễn đạt của câu dàn trải kể lể
.
Dạng câu nầy trong khẩu ngữ rất nhiều và khi dùng chủ yếu vừa là liệt kê vừa là
miêu tả tâm lí, tả người, tả cảnh, tả sự việc. Các kết cấu ở vai trò chủ ngữ luôn là danh
từ hoặc ngữ danh từ, chẳng hạn như: lức thì, bữa thì, một tay thì, trong buồng thì...
Ví dụ:
(235)" Cô nằm trăn trở hoài, lúc thì buồn giọt châu lã chã, lúc thì giận gan ruột
phừng phừng, nằm đã thèm rồi ngồi dậy ăn trầu, làm như vậy cho đến gần sáng, vợ
chồng quan phủ di du hồ về mà cô cũng chưa ngũ." (ALĐ, tr 28)
(236)" Ông dắt cô đi luôn mấy đêm, bữa thì đi nhà hàng ăn cơm tây, bữa thì
mướn xe đi hóng gió, bữa thì đi coi hát hóng, bữa thì đi coi hát cải lương." (TGGT, tr
81)
(237)"Thiệt trong nhà chẳng có vật chi xứng đáng, phía trước ngay cửa thì có
một cái bàn viết bằng cây dầu với một cặp ghế bằng mây, dựa vách buồng thì lót một
bộ ván dầu nhỏ giá chừng năm đồng bạc, còn trong buồng thì chỉ có một cái giường
cây để ngủ." ( TT, tr95)
2.3.2.5. Dạng câu diễn đạt ý nghĩa theo cách đối lập
Trong câu, cách tạo nên ý nghĩa đối lập thường được thể hiện ở cách đối lập giữa
các vế câu hoặc đối lập giữa các cụm từ xếp gần nhau trong câu. Khi được sử dụng
trong văn bản nghệ thuật cách đối lập tạo nên một biện pháp tu từ đôi ngữ giàu sắc
thá? biểu cảm:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Trong khẩu ngữ thì sự đối lập thường được nhìn thấy bởi sự xuất hiện của những
cặp đại từ trỏ nơi chốn, khoảng cách, thời gian : này-nọ, kia-nọ, trước-sau... hoặc của
các tính từ : đúng-sai, phải-quấy, chính-tà... và sự xuất hiện của các cặp từ thể hiên sự
đối lập trong câu có ý nghĩa luôn theo một trật tự nhất định, theo kiểu "Tôn ti trật tự" .
Dạng câu khẩu ngữ có dùng cặp từ thể hiện sự đối lập chủ yếu là dùng trong câu
kể để miêu tả sự tình, sự việc xảy ra một cách bình thường khống mang màu sắc biểu
cám (trung tính). Ý nghĩa của cặp từ đối lập trong câu là tách sự việc chung (khá?
quát) thành những sự việc nhỏ để diễn đạt theo kiểu " có đầu có đuôi", một thói quen
trong khẩu ngữ khi kể.
Ví dụ: Một số cách diễn đạt đối lập như:
Đe Miêu tả một con người "leo mép", cách diễn đạt khẩu ngữ:
(238)" Bổn tánh bà thuần hậu, vui vẻ, nên ai cũng thương, ngặt hà có một tật là
lẻo mép, chuyện đầu nẩy bà hay đem nói đầu kia mà thôi." (ALĐ, tr 113)
Để nói chuyện dư 'luận:
(239) Người này nói với người kia, người kia nói chuyện với người nọ, đến
chiều cả chợ An Giang, từ già chí trẻ, ai cũng đều hay việc Thử Nghĩa là Chúa tàu hết
thảy." (CTKQ, tr 191)
Để diễn đạt cá tánh của con người:
(240)" Nhiều người họ nói một đường, họ luôn làm một ngã, họ ăn bữa trước, họ
quên bữa sau." (TGGT, tr 13)
Để diễn đạt một sự cố định của hành động "đi":
(241) " Anh ta ở Giồng Ké, mà làm ruộng của bà Hương quan Tồn dưới đồng
Phú Tiên, nên bận đi cũng vậy mà bân về cũng vậy, phải do khúc lộ đá Càng Long lên
Vũng Liêm, chớ không có ngã khác." (CCNN, tr 11)
Tuy số liệu lchảo sát ở đây chưa đủ lớn, các mô hình cú pháp khẩu ngữ như liệt
kê với các từ ngữ chỉ trình tự diễn đạt như: nào là,., nào là, một lẽ... hai lẽ,.., lúc thì...
lúc thì, bữa thì... bữa thì... chưa được Miêu tả kĩ về cấu trúc hình thức và ngữ nghĩa,
nhưng các mô hình cú pháp khẩu ngữ này có một tác dụng lớn trong việc tổ chức văn
bản theo xu hướng đơn giản, phù hợp với một tầng lớp công chúng có trình độ thấp...
Chính điều này sẽ là một trong những nguyên nhân góp phần giải thích tính quần
chúng của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
2.4. TẠM KẾT
Tóm lại, như đầu chương Hai đã nêu, cú pháp khẩu ngữ Nam Bộ là một nét riêng
của phương ngữ Nam Bộ, nhưng mặt nay hiện nay vẫn chưa được đồ cập đến nhiều,
cỏ lõ chưa được một cuộc khảo sát qui mô. ơ đây, trong sự nỗ lực của người viết, tuy
bước đầu chỉ mới đề xuất một số vấn đề nhưng cũng có những kết quả đáng chú ý mà
luận văn nay gợi ra, chẳng hạn như:
Vai trò của các yếu tố nhấn mạnh, lặp, dư là đặc điểm của cú pháp khẩu ngữ, vai
trò của Gác nhóm ngữ khí tự bộc lộ tình cảm trong ngôn ngữ diễn đạt, vai trò của
quán ngữ đậm nét địa phương... Tất cả ít nhiều góp phần cho đặc điểm cú pháp khẩu
ngữ Nam Bộ.
Về một số mô hình cú pháp đề cập ở chương nầy, một mặt luận văn đã cố gắng
mô hình hóa thành các dạng, các kiểu câu nhất định, mặt khác cũng đã cố gắng vươn
tới chỗ lìm cách giải thích các đặc trưng ngôn ngữ theo xu hướng bước đầu xác định
một phong cách ngôn ngữ cá nhân có tính chất đặc thù của Hồ Biểu Chánh.
KẾT LUẬN
Khẩu ngữ nói chung, khẩu ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nói
riêng là một vấn đề thoạt nhìn tưởng đơn giản dễ tiếp cận, bởi vì, đặc điểm phương
ngữ có thể coi là dấu hiệu rõ ràng dễ nhận diện và nghiên cứu khẩu ngữ ở một địa
phương, là nghiên cứu các đặc điểm của phương ngữ ở tất cả các bình điện từ ngữ âm
đến việc tổ chức văn bản. Thế nhưng, tìm hiểu khẩu ngữ cũng có thể là tìm hiểu lời ăn
tiếng nói của nhân dân biểu hiện trong tác phẩm văn học, và cũng không có nghĩa là
chỉ khảo sát các yếu tố ngôn ngữ có tính chất tĩnh tại nằm trong hệ thống phương ngữ
mà còn phải xem bản thân chúng hành chức như thế nào và hiệu quả tiếp nhận mang
lại như ra sao.
Vả lại, tuy khẩu ngữ và phương ngữ gắn bó với nhau, phương ngữ tồn tại và phát
triển ngay trong lòng khẩu ngữ và nói tới khẩu ngữ là nói tới các yếu tố địa phương,
thế nhưng, hai lĩnh vực nẩy không phải là đồng nhất. Quả nhiên, đây là một vấn đề
phức tạp không chỉ trên địa hạt lí thuyết mà cả trong những xử lí ngữ liệu cụ thể. Điều
đó trở nên rối rắm hơn, khi khẩu ngữ Việt ngữ có những dặc điểm thống nhất rất cao.
Và khách quan mà nhận xét, từ trước đến nay, chưa thấy ai vạch ra được một cách dứt
khoát ranh giới giữa các phương ngữ, nhất là trên cứ liệu từ vựng. Tuy nhiên, đối
chiếu với các yêu cầu đặt ra ở chương dẫn nhập, đến đây luận văn có thể rút ra một số
nhận xét khá? quát như sau:
1. Về phương diện từ vựng
Luận văn đã khảo sát tất cả các từ thuộc lớp từ khẩu ngữ, ở mỗi một loại như
vậy, bên cạnh việc mô tả, cấu tạo- ngữ nghĩa, trong một chừng mực nhất định, luận
văn đã chỉ ra tác dụng diễn đạt của các từ loại này, cũng như xem xét vai trò, chức
năng của chúng trong một số tác phẩm tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh.
Tại đây, với nhận xét bước đầu, chúng tôi cũng đã chỉ ra được:
1.1Một số đặc điểm của từ ngữ khẩu ngữ Nam Bộ so với từ toàn dân như:
- Lớp từ ngữ cùng ý nghĩa biểu đạt với từ ngữ toàn dân nhưng cách thức định
danh khác nhau.
- Lớp từ ngữ được cấu tạo bởi một yếu tố địa phương kết hợp với một yếu tố
toàn dân.
- Lớp từ ngữ hoàn toàn mang tính địa phương.
- Ở lớp từ láy đôi, vô mặt ý nghĩa, luận văn đã có sự phân loại đế giới thiệu hai
nhóm từ láy: nhóm từ láy với hình tượng gợi ý và nhóm từ láy tượng thanhc cách điệu
hóa. Tuy đặc điểm nay cũng là đặc điểm chung của từ láy loàn dan nhưng ở lớp lừ lấy
trong khẩu ngữ Nam Bộ mang một đặc trưng, là thường dùng Miêu tả cho người và
chủ yếu Miêu tả cái bên ngoài hơn là Miêu tả nội tâm; nếu là Miêu tả hiện tượng, sự
vật thì chỉ chú ý đến cái thấy được, nghe được, chẳng hạn " (đứng) cóm róm, (ngó)
trân trân, (mặt) bèo nhéo, (nước) nhóc nhách, (nhà) xịch xạc, (trái) tòn ten...".
1.2Vai trò của lớp từ ngữ khẩu ngữ Nam Bộ
a/ Từ ngữ khẩu ngữ Nam Bộ vẫn được người tiếp nhận nhận biết mặc dù trong
lớp từ ngữ khẩu ngữ có rất nhiều từ ngữ hoàn toàn là "đặc sản" của phương ngữ, bởi
nó cũng được cấu tạo như cách cấu tạo của từ ngữ toàn dân và vai trò ngữ cảnh trong
câu, đoạn đã giúp người tiếp nhận hiểu được ý nghĩa của từ. Mặt khác, mặc dù về mặt
ngữ âm, từ ngữ khẩu ngữ Nam Bộ có biến thể nhưng người tiếp nhận có thể liên hệ so
sánh với vỏ âm thanh từ ngữ toàn dân thì cũng vẫn hiểu được ý nghĩa. Nói một cách
khá? quát, lớp từ ngữ khấu ngũ' Nam Bộ vẫn mang /ÍỈIỈÌ quầii chúng rộng rãi và nhất
lù trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn đất nước thống nhất, sự giao lưu giữa các vùng,
M1ền của đất nước không còn là vấn đề khó khăn. Và thực tế đã chứng tỏ một điều,
những yếu tố tích cực của khẩu ngữ Nam Bộ đã nhập vào hệ thống ngôn ngữ toàn dân,
làm cho hệ thống từ ngữ phổ thông càng ngày càng thêm phong phú, như: đồ lô, chìm
xuồng, dễ sợ, hổng dám đâu ...
b/ Lớp từ ngữ khẩu ngữ Nam Bộ có vai trò rất lớn trong việc khắc họa một vùng
đất phương Nam, từ sản vật địa phương đến phong tục, tập quán, cá tính của cư dân
Nam Bộ. Tiếp xúc với lớp từ ngữ nay, chí ít là trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chúng
ta vẫn nhìn thấy được những đặc sản, cảm thấy được phong cách sinh hoạt của một
cộng đồng và nhận diện được quan điểm thẩm mĩ, quan điểm sống của người dân ở
vùng đất mới khai phá.
Tất nhiên, ở đây việc xem xét này chủ yếu đều đứng trên địa hạt ngôn ngữ, thế
nhưng, sẽ là phiến diện nếu không liên hệ đến truyền thống văn hóa- ngôn ngữ Nam
Bộ- một truyền thống có thể nói được hình thành từ khá lâu, tồn lại khá vững chắc với
khởi đầu là Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị... và nỏ được bảo tồn đến cả Anh Đức,
Nguyễn Quang Sáng... Đó là truyền thống của ngôn ngữ diễn đạt đơn giản, dung dị,
viết như nói...
Khoan bàn đến mặt tích cực, hay mặt tiêu cực của sự kiện, nhưng rõ ràng khi bàn
đến văn chương miền Nam nói chung, văn chương của Hồ Biểu Chánh nói riêng thì
không thể không đề cập đến vai trò của khẩu ngữ tự nhiên. Đó là chưa kể, chính tính
tích cực của lớp từ ngữ khẩu ngữ về mặt miêu tả đã là phương tiện rất hữu dụng khi
đánh dấu, tức cũng có nghĩa là phân loại các tuyến nhân vật: trung/nịnh, tốt/xấu, hiền
lành/độc ác... một cách miêu tả nhân vật rất gần với thẩm mĩ của nghệ thuật tuồng.
Ngoài ra, lớp từ khẩu ngữ còn có tác đụng khắc họa cá tính một vùng đất, cá tính của
cư dân thông qua về các từ ngữ chỉ đặc trưng trang phục, về ngôn ngữ hằng ngày, về
quan niệm sống.
2. Về phương diện diện cú pháp
Cú pháp khẩu ngữ là vấn đề rất khó. Trước nay khi đề cập đến vấn đề nay, các
nhà phương ngữ học hầu như chỉ chú ý đến một số mô hình cấu trúc nhất định và
đồng thời khi quan niệm về sự khác biệt giữa cấu trúc cú pháp khẩu ngữ của địa
phương nay với địa phương khác hay với cú pháp toàn dân, các nhà phương ngữ học
cũng thừa nhận rằng có sự khác biệt ở cách dùng từ về vị trí, ý nghĩa, vai trò của nó
trong câu. ở đây,trong sự cố gắng nhát, luận văn đã nỗ lực nghiên cứu, tìm để lí giải
một số đặc điểm của cú pháp khẩu ngữ Nam Bộ sau:
2.1Câu có yếu tố nhấn mạnh, yếu tố lặp và yếu tố dư
Nói đến khẩu ngữ là nói đến sự nhấn nhá, đệm lót. Tuy nhiên khẩu ngữ Nam bộ
có những cấu trúc đảm nhận các chức năng này rất khác so với tiếng Việt toàn dân. Ví
dụ, như trên nền chung của ngữ pháp chức năng, các nhà ngữ pháp đã chỉ ra rằng "thì
" , " là " là yếu tố hình thức để phân biệt bộ phận đề thuyết trong câu, thế nhưng, trong
khẩu ngữ, hay ít ra trong phạm vi quan sát của chúng tôi ở khẩu ngữ Nam Bộ thì
nhiều khi " thì " chỉ có giá trị nhấn mạnh.
Tương tự như vậy, luận văn cũng đã khảo sát chức năng ngữ pháp của các yếu tố
như" ổng, bả, cẩu., ngoải, bển, nẳm..." hoặc các yếu tố ngữ khí tự tình thá? biểu thị sự
ngạc nhiên " ủa, à, úy, cha chả,,." , hay các ngữ khí tự tình thá? biểu thị sự nhấn mạnh
" đa, này nè..." ở những mức độ khác nhau. Đặc biệt ở phạm vi nầy, luận văn không
chỉ bó hẹp khảo sát ở cấp độ câu mà còn chú ý đến các diễn ngôn, nhất là diễn ngôn
miêu tả, tường thuật và hội thoại.
2.2Câu có chứa ngữ khí tự tình thá?, nghi vấn và các quán ngữ mang màu sắc địa
phương
a/ Luận văn đã xác lập được một hệ thống ngữ khí tự tình thá?, ngữ khí tự nghi
vấn và xác định được vai trò ý nghĩa của các ngữ khí tự nay ở các vị trí đầu câu hoặc
cuối câu trong cả loại câu hỏi và câu cảm thán. Ví dụ, đối với ngữ khí tự "hôn", các
tác giả đi trước chỉ dừng ở nhận xét nét khu biệt với "không" khi dùng để trả lời cho
câu hỏi tuyển [58], nhưng ở đây luận văn đã chỉ ra thêm hoàn cảnh, ngữ cảnh mà
"hôn" xuất hiện, một điểm khác biệt nữa của "hôn" với "không".
Cần thấy, với cách hình dung như vậy, luận văn đã tập hợp được một hệ thống
ngữ khí tự tương đối lớn, và chúng được Miêu tả, phân loại theo cấu trííc-chức năng
như:
- Biểu thị sự ngạc nhiên ở những mức độ khác nhau.
- Biểu thị sự đồng ý và không đồng ý ở những mức độ khác nhau.
- Biểu thị sự từ chối, chán nản.
- Biểu thị sự nhấn mạnh.
- Biểu thị sự hô gọi, giới thiệu...
b/ Luận văn cũng đã sưu tập, phân loại và miêu tả về mặt cấu trúc chức năng
một số quán ngữ tuy có chức năng rào đón, nhấn mạnh, đưa đẩy... nhưng ở một chừng
mực nhất định nó vẫn còn ý nghĩa định danh như:
- Quán ngữ diễn đạt thời gian.
- Quán ngữ diễn đạt sự việc, sự vật không xác định.
- Quán ngữ diễn đạt sự tương phản.
- Quán ngữ điên đạt tâm lí xót thương ân hận.
- Quán ngữ diễn đạt bộ dạng tánh ý.
- Quán ngữ diễn đạt hạnh động bị bắt buộc.
- Quán ngữ diễn đạt hành động trái ngược với nhận định.
- Quán ngữ diễn đạt sự không quan tâm hay chấp nhận.
Cần thấy các quán ngữ nay đều được phân tích với những ví dụ minh họa cụ thể.
Nếu ở những công trình đi trước, các nhà phương ngữ học thường chú ý đến các
dạng câu có cách diễn đạt rút gọn theo kiểu "bao lớn, bao dai.." hay loại câu có ý
nghĩa tác dụng bởi cặp từ " có... hà", "tới.,, lận" hay kiểu nói dư " không cớ đâu...,
không có làm đâu" thì trong luận văn đã giới thiệu thêm nhiều dạng câu mà vai trò của
các quán ngữ đã tạo nên cách nói khá đặc trưng cho khẩu ngữ Nam Bộ. Chẳng hạn
tưởng chừng như ý nghĩa của các quán ngữ nay giống'nhau "cực chẳng đã" và "túng
thế" , sẽ thay thế cho nhau nhưng thực ra, tùy theo ngữ cảnh mà khẩu ngữ Nam Bộ sẽ
chọn dùng một quán ngữ thích hợp: khi nào gượng ép thì dùng "cực chẳng đã", khi
nào không còn cách giải quyết nào khác thì dùng "túng thế"; hoặc ở các quán ngữ " tội
nghiệp dữ hôn, bất nhơn dữ hôn, cơ khổ dữ hôn" không chỉ đơn thuần là những từ ngữ
mang chức năng than gọi và không phải lúc nào cũng có thể dùng thay thế cho nhau
được.
Tương tự, bộ máy khá? niệm của dụng học (pragmatics) sẽ cho phép chúng ta
phân biệt các cách sử dụng khẩu ngữ một cách tinh tế đối với những cụm từ cố định
như: chẳng dè, nào dè, phải dề... hay trong té ra, té ngữa, ngã ngữa...cùng nằm trong
một trường nghĩa chỉ nội dung tương phản với nhận định ở mức độ cao nhưng mỗi
một ngữ đoạn có những sắc thá? khẩu ngữ riêng.
Trên cái nền chung của khẩu ngữ tiếng Việt toàn dân, luận văn cũng đã ch? ra
những nét riêng về cấu tạo, về ngữ nghĩa gắn liền với những mô hình cú pháp có tần
xuất rất cao trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, và cần lưu ý, cũng như ở cấp độ từ
vựng, luận văn rất chú ý đến hoạt động đa dạng của tất cả các hệ thống này. Nói cụ
thể, đó là xem xét sự xuất hiện của chúng ở mọi vị trí trong câu, mọi chức năng trong
câu. Có lẽ đóng góp dễ thấy nhất của luận văn là viộc mỏ tả tất cả các dạng quán ngữ.
về mặt cấu trúc và chức năng.
3. Luận văn dừng lại ở việc khảo sát một số mô hình cấu trúc cứ pháp của khẩu
ngữ
Trước nay, khi nghiên cứu về mô hình câu khẩu ngữ thì hầu như các nhà ngôn
ngữ học, các nhà phương ngữ học chỉ dừng ở những đặc điểm khá? quát như: câu ít
gọt giũa, câu có nhiều hư từ, câu có nhiều yếu tố đệm, câu có dùng nhiều từ ngữ địa
phương... chứ chưa giới thiệu được mô hình cấu trúc câu có dạng khẩu ngữ cụ thể.
Trong sự cố gắng của bản thân và mặc dù sự phân loại chưa thật sự cân đối, nhưng
luận văn đã giới thiệu một số mô hình cấu trúc câu khẩu ngữ được nhìn từ mọi góc độ:
cấu tạo, ngữ nghĩa, cú pháp, ngữ dụng. Những mô hình này là thực tế ngôn ngữ rất
sinh động tồn tại trong khẩu ngữ nổi chung, khẩu ngữ Nam Bộ nói riêng. Đó là các
dạng:
- Dạng câu có kết cấu 3 phần.
- Dạng câu CN1 vị từ CN2 (tạo nên cách nói gián tiếp).
- Dạng câu đề-thuyết với nhiều thành phụ bổ nghĩa cho khung đề.
- Dạng câu diễn đạt theo ý nghĩa liệt kê.
- Dạng câu diễn đạt theo ý nghĩa đối lập.
Mỗi một dạng câu, đúng hơn, ở mỗi một mô hình diễn ngôn như vậy, luận văn
phân tích hàng loạt những biến thể tương ứng và trong một chừng mực nhất định,
chúng tôi đã cố gắng giải thích sự tồn tại của chúng theo quan điểm chức năng. Chẳng
hạn: mô hình câu mô tả trọn vẹn -tức mô hình kết cấu 3 thành phần- rất phổ biến trong
khẩu ngữ, bởi sự phù hợp với kết cấu kể theo trật lự tuyến tính, có đầu có đuôi, có mở
đầu , có kết thúc. Hay mô hình CN1vị từ CN2 cũng là một biểu thức quen thuộc trong
khẩu ngữ, một mặt nó phát huy được tác dụng nhấn mạnh, mặt khác cho thấy tính chất
rề rà của khẩu ngữ.
Rõ ràng khi đi sâu vào phân lích các diễn ngôn khẩu ngữ, hàng loạt vấn đề lí thú
và bổ ích đặt ra. Chẳng hạn như các diễn ngôn khẩu ngữ với tư cách là một yếu tố cấu
thành, sẽ có vai trò như thế nào trong các phong cách chức năng khác? Một câu hỏi lí
thú như vậy, rất tiếc lại vượt ra khỏi giới hạn của luận văn này.
oOo
PHỤ LỤC
Những ví dụ nêu trong phẩn phụ lục được trích ra từ 27 tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh đại diện cho 3 giai đoạn sáng tác của tác giả, và vì với ý định minh họa thêm,
cho những nhận xét, miêu tả ở phần chính của đề tài nên việc thống kê chưa thật đầy
đủ :
- Các phụ lục số 1, 2, 3, 4, 5 (phần từ ngữ của chương Một)
- Các phụ lục .6, 7, 8, 9 (phần ngữ khí tự, quán ngữ và dạng câu khẩu ngữ của
chương Hai.)
PHỤ LỤC 1
Lớp từ ngữ địa phương cùng có nội dung biếu đạt với từ ngữ toàn dân nhưng
cách thức định danh khác nhau.
Từ ngữ địa phương Từ ngữ toàn dân
- bã bổ,cuộn
- bái lạy
- bao bố bao tải
- bao thơ phong bì
- bần dùng chần chờ
- bận mặc (quần, áo)
- bình tích ấm tích
- bố đay (cây)
- bồng bế, ẩm
- cá lóc cá qủa
- cạ cọ
- cánh chõ khuy tay
- các đảng rim hồn
- cạp gặm
- cắc hào (tiền)
- chàng hiu chau chàng
- chân mày lông mày
- chíp ưa,thích
- choàng hầu quàng cổ
- chớp bóng chiếu phim
- chun chui
-chửi thề văng tục
- coi mắt xem mặt
- con nít trẻ con
- Gườm (tay) cổ (lay, chân)
- dầu măng dầu bạc hà
- dầu phông dầu lạc
- dây thép điện tín
- dơ bẩn .
- dứt (sữa) cai (sữa)
- đi khỏi vắng nhà
- đồ tây âu phục
- đổ quạu nổi cáu
- dồn dột hải sâm
- đỡ (ở) tạm
- đui mù
- đút nhét hối lộ
- dụt (mưa) trú (mưa)
- gụi lừa
- ghe thuyền
- giề mảng, chùm, bè
- Giọi (đầu) cốc (đầu)
- gióng quang đảng
- giỡn đùa
- giùm giúp, hộ
- gõ gụ (ván)
- hì hợm kỳ dị
- hít hà xuýt xoa
- học mách
- hồi hoãn ,
- hối giục
- hờ sẩn
- hờ thình lình
- khóm (thơm) dứa
- lác cỏi(cây)
- lài thoai thoải
- làm bé Vợ lẽ
- lãng (tai) nghễnh ngãng
- lẫy dỗi
- lẹ (mau) nhanh
- léo hành bén mảng
- lóng đốt (tay, chân)
- lóng lắng (tai)
- lóng (rày) dạo (này)
- lõ (mắt) trố (mắt)
- lỗ (đầu) vỡ (đầu)
- lu mờ
- lúa thóc
- má mẹ
- mai dong mai mối
- màng tang thá? dương
- mãng cầu (ta) na
- máng treo
- mạnh giỏi mạnh khỏe
- may khâu
- mắc đắt
- mằn nắn
- mặt phải (tay)
- mền chăn
- mì sắn (củ)
- mùng màn
- muỗng thìa
- nhang hương
- nhầu làm đại, làm bừa
- nóng lạnh cảm sốt
- nôn vội vàng
- nước miếng nước bọt
- óc nóc đầy ăm ắp
- ót gáy (sau cổ)
- O dề thô kệch
- phải quấy đúng sai
- phí lũ mập, béo
- quày buồng (chuối)
-(hột) quẹt diêm
- rày nay
- rắn mối thằn lằn (loài bò sát)
- râu rìa (râu) quai nón
- rầy mắng
- rêm ê ẩm
- rượt đuổi
- sắp (nhỏ) bọn (nhỏ)
- sình lầy, đất nhão
- sóng (chén) (nơi để chén), chạn
- sớt chia sệ
- thường đền
- trái quả
- tréo ngoáy tréo khoèo (ngồi)
- trễ chậm, muộn
- trổng trống không (nói)
- trớ tránh
- trùn giun
- trừng đùa
- tù vù to tướng
- vần công đổi công
- vận mặc (quần, áo)
- vị tình vị nổ
- vịt xiêm ngan
- vô vào
- vớ bít tất
- xà lỏn quần đùi
- xá vái
- xí xỉa
- xông (nhà) chá?(nhà)
PHỤ LỤC 2
Lớp từ ngữ có một yếu lố toàn dan kết hợp với một yếu tố mang tính địa
phương:
Từ ngữ địa phương Nội dung biểu đạt
ấm hiểm rất hiểm
bóng lưỡng bóng loáng
bóng ngời bóng và sáng
bú thép bú nhờ
buồn xo buồn thiu
buông lung buôn tuồng
cao vọi rất cao
chậm lụt chậm chạm không thông minh, tháo vát
chúi nhũi chúi đầu về trước
chửi nát chửi không chừa chổ nào
cong vòng cong như vòng cung
cũ xì quá cũ
cụt ngủn quá cụt
cứng khừ rất cứng
dày đeo dày khít lại với nhau
dày cui dày có vẻ cứng
dễ ợt dễ lắm
dịu oặt dịu và dẽo đến mức oằn cong xuống
đầy nhóc rất đầy, đầy tràn
đầy vun đầy có ngọn
đỏ chạch đỏ nhiều
dông nức rất đông
hết ráo hết sạch, hết cả
khóc oé tiếng trẻ nhỏ khóc lớn lên
khóc mướt khóc và chảy nhiều nước mắt
khóc ròng khó sướt mướt
khỏe re không có gì khó nhọc, rất dể dàng
PHỤ LỤC 3
PHỤ LỤC 4
PHỤ LỤC 5
Thành ngữ, tục ngữ
ăn quán ngủ đình
bầm gan tím ruột
bạc tình bội nghĩa
bại sản tán gia
bán nợ đợ con
bẻ cổ vặn họng
bội ước bạc tình
bôi tro trét trấu
châu mày ứa lụy
cháy da phỏng trán
cliếc bóng đơn thân
chửa hoang đẻ lạnh
dòm hoa ngó nguyệt
đạp bước thang mây
đền ơn đáp ngãi
đường ngay nẻo dại
đón gió chào mây
đút cơm rữa đít
gạn đục lóng trong
ganh hiền ghét ngõ
gay mắt bẩy gan
ghẹo nguyệt giỡn hoa
hết xôi rồi việc
hẹn biển thề non
hồn tan phách tán
hơi hành giọng tỏi
hơi đời giọng quyền
kết tóc trăm năm
khêu dạ gợi tình
khua môi múa mỏ
lá đỗ nhánh oằn
lột da trút túi
miệng môi lưỡi lằn
ngậm sầu nuốt thảm
nghèo hèn côi cút
ngồi lê đôi mách
nhớ mây thương gió
ôm ấm ẩm bồng
ôm sầu ấp thảm
phận đẹp duyên ưa
rù quến bướm ong
sa chân sẩy bước
siết tay kết cánh
tai điếc mặt ngơ
teo gan héo ruột
té ngữa nhăn răng
thiếu trước hụt sau
thui gan đốt ruột
tiền góp bạc vay
tưởng nguyệt nhớ hoa
trôi sông lạc chợ
xảo ngôn đối thế
PHỤ LỤC 6
Một số ngữ khí tự tình thá?
(1) Ở vi trí đầu câu
- À, ạ! Ai biểu thầy kiện? (VNVT, tr 63)
- Ờ, thôi nằm đó, để qua rót nước giùm cho. (CĐMĐ, trl68)
- Ờ, có chuyện gấp lắm. Ông già cháu đau nặng quá, nên nhắn biểu cho cháu
hay. (NCGĐ, tr 73)
- Ừ, tao đặt năm cắc he, mày làm sao tao? (VNVT, tr 130)
- Ý! Không được đâu chú. Con xin ở luôn đây với chị Thiên hương con không
chịu về Sai gòn đâu. (STVT, tr 960)
-Ý, tôi sự tới hai ba chục đa chị! Đẻ sao mà đẻ hà rẩm vậy không biết! (TGGT, tr
85)
- Ý, hỏng được đa con, cỡi trâu làm chi? (VNVT, tr 225)
- Ý hị, Thân sáo mà khổ quá như vầy! Khi không mà mang tiếng lất trai! (ALĐ,
tr 35)
- Uý, Mẹ ơi, ai mà nuôi con nít cho đặng? (VNVT, ti* 6)
- Úy mẹ ôi! Sao mình không đánh giải vây? (VNVT, tr 8)
- Uý, Má tôi chết rồi hay sao? Chết hồi nào? (VNVT, tr 45)
- Uý! Cha chả ! Nó trốn đi đâu? (ALĐ, tr 84)
- Húy! Trời đất ơi! Khốn khổ chưa! Hai bữa rày trong bụng tôi buồn bực nên tôi
nghi có chuyện gì đây, thiệt chẳng sai. (NCGĐ, tr 73)
- Ủa! Nếu vậy thì người ấy ở trong quán ni hay sao? (ALĐ, tr4)
- Ủa, thiệt em không biết hay sao? (CĐMĐ, 168)
- Ủa! Đã năm giờ mấy rồi, thôi vô ăn cơm chớ. (TGGT, tr 82)
- Ủa! Sao vậy? (TGGT, tr 49)
- Ủa! Chị Tư! Cha chả lau gặp chị quá, bây giờ chị ở đâu? (TGGT, tr-82)
- Hứ! Nhơn tình bạc bẽo hết sức!... Mê giàu sang chớ không kể nhơn nghĩa gì!
(TGGT, tr 51)
- Hứ! Khéo hỏi khôn! Lấy nhau đã mấy năm nay đẻ được một đứa con mà chưa
hay chớ. (CCNN, tr 26)
- Ối! Chút đỉnh có đáng gì đâu. (TGGT, tr 55)
- Ôi thôn còn ba bốn gì nữa mà hỏi, con! (LTTM, tr46)
- Cha chả! Khổ đến thế hay sao? Hèn chi hồi sớm mơi ở trong tiệm cà phê họ
giành với nhau mà ăn cái tô hủ tiếu dư của toa đó. (ATTƠTT, tr 129)
- Cha chả, mà tôi coi sức nó yếu lắm. (ATTƠTT, tr 17)
- Cha chải chưa có gì mà kêu bằng má nghe ngon dữ! (TH, 121)
- Nếu cháu ưng ổng thì cháu hết lo cực khổ nữa; cha chả mà nếu cháu sanh cho
ổng được một chút con trai, ôi thôi, quí biết chừng nào. (TGGT, tr 70)
- Cha chả, còn xa lắm, sợ mình còn phải đợi lâu, mà trời bữa nay sao coi xấu
quá, cổ mây khỏi đen cùng hết, sự dông lớn biển động. (STVT, tr 160)
- Cha chủ, mợ Mai bày cho em thưa kiện thì mích lòng bà lắm. (HPLN, tr 126)
(2) Vị trí ở cuối câu " đa, nà, nè, mà"
- Ờ, phải đa. hai vợ chồng đi làm hết có lẽ nào không đủ ăn. (VNVT, tr 15)
- Sáng ngủ đậy thì làm liền, đừng có quên đa. (VNVT, tr 18)
- Cháu bày cái chước đó hay lắm đa, (VNVT, tr 330)
- Coi chừng đa. Lấp lửng đây thua hết, nói cho mầy biết. (VNVT, tr106)
- Tưởng đâu ta dại đa. (VNVT, tr 106)
- Mày đi đây má mầy đánh nữa đa. (VNVT, tr 120)
- Má không cho con cỡi. Con đừng có cãi lời, má giận đa. (VNVT, tr 225)
- Ra ngoải làm gì? Xe cán chết đa. (CCNN, tr 14)-
Ờ được đa. Ông lấy tiền rồi mua vải may cho con Quyên một cái áo, mội cái
quần đặng nó bận, còn bao nhiêu thì ông mua đồ mà bán, nghe hôn ông ngoại.
(CCNC, tr 67)
- Tao nói cho vợ chồng bây biết: Ngày nào tao chết, bây cũng đừng cho thằng
quỉ đó hay; nếu bây cãi lời tao bây cho nó về đây, nè, tao bứt néo đa. (CCNN, tr 96)
- Cô em đây là con gái của ông già ở đậu trong nhà mình đó đa. (NCGĐ, tr 78)
- Làm sao thì làm, phải trả cho đủ, chớ thiếu một đồng thì không được nữa đa.
(NCGĐ, tr 81)
- Ông biết tri huyện là ai hay không? Nó là chồng của con Anh Nguyệt đó đa.
(NCGĐ, tr 279)
- Mợ Hai mở nói mượn trà sao mượn hoài, mở biểu lại quán mua mà uống chớ
mở không có trà mà cho mượn nữa. May có cậu Hai ở nhà cẩu nghe nói cẩu rầy rồi
cẩu lấy cho mượn đó đa. (CĐMĐ, tr 65)
- Hồi trước tía bán con heo quắn của má, con kiếm mấy năm nay mới được nên
mua dắt về cho má đó đa, má coi có phải hay không? (CĐMĐ, tr 219)
- Nấu cháo cho ngọt, đừng làm lấy có tao đánh chết đa. (LTTM, tr 29)
- Làm cho mau đa. Mẹ con bây chậm như rùa, cứ dạ dạ hoài, mà không thấy gì
hết. (LTTM, tr 31)
- Tiền đó là tiền của sắp nhỏ đa, mình hiểu hay không? (LTTM, tr . 109)
- Nhà Cai tuần Kim ở đó đa. (NĐ, Ir 100
- Bà đó là thím dâu của cháu đa. (NĐ, tr 11)
- Con của anh Hai đó đa. (NĐ, tr 26)
- Tôi ăn rồi mai mốt tôi gặp chị nữa tôi sẽ trả tiền đa. (NĐ, tr 44)
- Bả vô bả nói với dì đặng cưới cháu cho con bả là cậu ba đó đa, chớ không phải
đi chơi đâu, cháu ưng hay không. (KLNC, tr 92)
- Trái đời mà trúng đạo lắm đa bà Tư. (TGGT, tr 32)
- Cô gần có chồng đa bà. (TGGT, tr 65)
- Trời ơi chỉ đẻ con liền xì, đẻ năm một, mới đây mà chỉ đã được 3 đứa con rồi
đa chị. (TGGT, tr 85)
- Anh hai đó mà còn khá hơn thằng khác nhiều lắm đa má à. (KLNC, tr 64)
- Ờ, cha, gạo còn cỏ vài nồi nữa thì hết đa cha. (CTKQ, tr 137)
- Tao ăn cướp của ai? Nói bậy đánh chết đa mầy! (VNVT, tr 103)
b/ “Nè, nà”
- Đừng nói bậy! Tên Đó là mầy đây ne. (NCGĐ, tr 258)
- Sáu thiện cứ la: Câu Sơn! Cậu Sơn! Trời đất ơi! Sao vầy nè? (STVT, tr 182)
- Đánh bằng cái gì mà có dình mấu đây nè. (KT, tr 142)
- Thằng được ôm Ba Thời chặt cứng mà nói rằng: Con về đây nè, má vui hôn?
Mừng hôn hử? (CĐMĐ, tr 217)
- Phục, có bà chỉ kiếm mầy đây nè, trở về nhà cho mau. (NĐ, tr 11)
- Nè, mà thầy dạy nó học đơn, thầy phải tập cho nó ca nữa đa, nghe hôn..(NĐ, tr
135)
- Nè, hồi nãy con bạch Yến nó đã nói mí với cậu đó. (TH, tr 153)
- Thầy Nhứt nè, thầy đã trông tuổi, mà lại có chỗ ăn chỗ làm, sao thầy chưa lo
cưới vợ đặng lặp gia thất với người ta? (ATTƠTT, tr 89)
- Y! Nè má! Hồi hôm con coi hát, con có gặp một cô nhỏ nhỏ thiệt là lịch sự.
(KLNC, tr 27)
- Cái áo anh bận đã rượn vai rồi đây nè. (LTTM, tr 6)
- Nè, mà tôi có trong hội tề, không có chức nào sướng cho bằng chức Hương
trưởng. (LTTM, tr 23)
- Đây nè, thầy giáo đương cậy bà mua giùm gà vịt làm thịt đặng nhậu chơi, làm
mau mau nghe hôn. (LTTM, tr 26)
- Nè, uống chớ, hai ông sao uống lôi thôi quá. (LTTM, tr 30)
- Nè, tối thầy về thì em dọn cơm cho thầy ăn nghe hôn, đừng có chờ qua.
(LTTM, tr 86)
c/"nà"
- Ra ngoải ngủ với sắp nhỏ nà! Lọ mọ đi đâu đó? (CCNN, tr 30)
-Ai biết đâu nà. (CCNN.tr 50)
- É! Đi đâu nà! Đồ gì ở đâu mà hì hợm lắm vậy! (NCGĐ, tr 40)
- Con gì mà bất hiếu lắm vậy nà! (NCGĐ, tr 78)
- Húy! Được dâu nà! Làm sao thì làm, phải trả cho đủ, chớ thiếu một đồng thì
không được nữa đa. (NCGĐ, tr 81)
- Nói bậy nà! Con nay thiệt kỳ quá. Nói chuyện gì nó cũng không được hết thảy,
hễ nói thì nó bắt quanh bắt quẹo hoài. (KLNC, tr 60)
- Đàn ông con trai gì mà hư lắm vậy nà. (KLNC, tr 67)
- Ai mà bán kỳ cục như vậy nà, để tao coi còn cơm nhiều ít tao cho mà ăn, chớ
bán giống gì. (VNVT, tr 159)
d/ "mà"
- "Thôi bây giờ tôi biết ông ăn năn rồi, tôi cũng không muốn hại ông làm gì? -
Tội nghiệp tôi mà. " (CTKQ, tr181)
- Ối là tưởng việc gì kia, chớ việc đó em đừng có lo mà. ( NCGĐ, tr135)
-Ta nói ta là Tư Hoành mà. (NCGĐ, tr 258)
- Thằng Tý lắc đầu nói rằng: "Má bồng em đi chơi từ nãy đến giờ mà." (CCNN,
ừ 13)
- Ta hỏi cho biết mà. (CCNN, tr 15)
- Mầy giỏi mầy làm giống gì tao đâu, mầy làm thử coi họ còng đầu mầy không
mà. (CCNN, tr 39)
-Ưa! Nghe nói ruộng nó làm đó năm nay trúng lắm mà. (CCNN, tr 63)
- Người đàn ông cười mà nói:" thiếu gì. Ăn không hết chớ. Đất tốt quá. Để rồi
con coi mà. Chú trồng đồ bán , chắc đủ cơm gạo cho chú cháu mình ăn. (STVT, tr 16)
- Tỏi ở đây 16 năm lận mờ. (STVT, tr 68)
- Thế khi nó tưởng của ông cha gì nó để lại đây sao mà. (KLNC, tr 30)
- Tôi biểu chị đánh ảnh cho ảnh thất kinh, hết dám chơi bời nữa mà. (KLNC, tr
63)
-Tôi đi bộ được mà. (NĐ, tr 10)
- Nhà à gần mà. (NĐ, tr 11)
- Ôi! Chút đỉnh có đáng gì đâu. Công cô may tới nửa tháng, cực nhọc qua mà
(TGGT, tr 55)
PHỤ LỤC 7
Một số ngữ khí tự dùng để hỏi
a/ "Hôn "
- Hổm nay tôi không có đi phía dưới ruộng của anh, nghe nói năm nay lúa anh
trúng lắm phải hôn! (CCNN, tr 23)
- Bữa nay tao đi gặt có hai ba người nói với tao rằng mày lấy Hương hào Hội, có
hôn! (CCNN, tr 31)
- Tiên nhơn tổ đường thằng cha mầy nửa đêm mầy về đây kiếm chuyện mà đánh
tao phải hân? (CCNN, tr 39)
- Xuống làm gì? Tao đã dặn hễ nó có tới thì lấy chổi cùn chổi quét mà quơ cho
nó ra, đừng cho nó vô nhà. Mầy có đuổi nó hôn? (CCNN, tr 96)
- Mầy thách đố coi tao đám từ mầy hay không phải hôn! (CCNN, tr 110)
- Tía tôi như tía thằng Cam vậy phải hôn má? (CĐMĐ, tr 30)
- Bĩ, Kia kìa, nhà má tao đó thấy hôn? (CĐMĐ, tr 215)
- Con về đây nè, má vui hôn! Mừng hôn hử? (CĐMĐ, tr 217)
- À, mầy nói tía má mầy thương tiếc mầy nên mới tìm mầy phải hôn! (CĐMĐ, tr
245)
- Mình không biết việc chi hết mà bị tù cũng ức lắm chớ, phải hôn! (CĐMĐ, tr
252)
-Hồi con mới lên năm tháng tuổi má với tía con lên ở chơi tại đó rồi bị họ bắt
giấu con đó đa, biết hôn! (CĐMĐ, tr 308)
- Hồi nhỏ má nó nghèo, nó đi gánh nước lở vai, nó lấy Tây mấy năm rồi sau đó
nó đụng một thằng mái chín mê nó quá, bây giờ nó có nhà tốt, nó đi xe hơi coi sướng
hôn ! (NĐ, tr 49)
- Qua bây giờ khá mà, qua có chồng rồi em hay hôn? (NĐ, tr 79)
- Ông coi cháu bây giờ tử tế quá thấy hôn? (NĐ, tr 200)
- Cái gì mà tiêu? mình sợ tôi làm tiêu, thôi mình để tôi sắm vài đôi vàng đặng để
dành nghe hôn! (VNVT, tr 15)
- Cậu tú tài bây giờ rầu lung hôn? (VNVT, tr 29)
- Thôi, sạt thì sạt mà đặt nhỏ nhỏ vậy đa, nghe hôn? (VNVT, 101)
- Thôi tối nay tao với mầy hùn mua cho chỉ một tô nghe hôn! (VNVT, tr 119)
- Tôi hỏi vậy chớ thầy có biết tại sao thằng Hồi nó ưa cỡi trâu hôn! (VNVT, tr
201)
- Lúc nay đồ may nhiều hôn? (TGGT, tr 55)
- Để cho tôi kể cho chị nghe: Chị Quế hô đó chị nhớ hôn1? (TGGT,tr 84)
- Cái xe hơi mới đó của chị, phải hôn chị? (TGGT, tr 101)
- Mình đi lấy áo phải hôn! (BC, tr 7)
- Cô biết khiêu vũ đã lâu rồi phải hôn? (BC, tr 25)
- Con biết khen giỏi thì con phải ráng học như hai chị con vậy nghe hôn? (
CĐCL, tr 81)
- Làm cho được rồi sẽ nói chớ nói rồi làm không được, hai chị cười biết hôn!
(CĐCL tr 81)
- Bà oai lắm phải hôn con? (CĐCL, tr 99)
- Ông phải cắn răng rán bận cái áo chật hẹp của mẹ sắm, rán chịu cái cối xay
nằm chạng ràng đặng có làm ra gạo, theo lời ông thân huynh đó nhớ hôn ? (HPLN, tr
110)
- Ai vô đây mà mua, khéo hỏi kỳ cục dữ hôn! ( BC, tr 46)
b/" Hôn! "
- Cháu ở đó nghe hôn! (CĐMĐ, tr 238)
- Để trưa anh ba em về đây, em nói em là bạn dì với qua nghe hôn! (NĐ, tr 79)
-Chị bán cho tôi, thì để bữa nào tôi gặp tôi sẽ trả tiền, chớ đừng có lại nhà mà đòi
đa, nghe hôn! (NĐ, tr 44)
- Mày phải nhớ sớm mơi mày quét dọn cái phòng khách phía đàng trước cho
sạch sẽ nhe hôn! (VNVT, tr 18)
- Này, cháu nhớ viết thơ cho bà Cai nghe hôn! (TGGT, tr 73)
- Cô có ra thì ra sớm, đặng ở chơi lâu một chút, nghe hôn! (KLNC, tr 41)
- Tối nay mình nghỉ viết một bữa đặng đi chơi với tôi nghe hôn mình. (BC, tr 8)
- Dữ hổn! Anh nói lòng dòng bây giờ mới ra mối. (VNVT, tr 21)
- Dữ hôn! Ta nhắn bữa hổm mà để đến bữa nay mới lên. (NCGĐ, tr78
)
- Dữ hôn! Con thợ Tư nó sửa đó,vậy mà được hay không? (TGGT, tr 56)
Lật đật dữ hôn! Nợ của người ta đây không lo, để lo đi ra mả mà lạy! (NCGĐ, tr
82)
- Dữ ác hôn, đi đâu mà biệt lích mấy năm nay, chị trông đợi hết sức không thấy
trở về, chị tưởng em đã chết rồi chứ. (LTTM, tr 54)
- Thằng khéo nói kỳ hôn! (CĐMĐ, tr 229)
c/"Há"
- Mi chờ ta khảo rồi mới chịu nói há! (NCGĐ, tr 254)
- Nầy má, thằng Cam thang Phát đứa nào nó cũng có tía nó hết, còn tía lôi là ai
đâu má há! (CDMĐ), tr 29)
- Mầy oán tao rồi mầy lấy tên ông nội tao mày đặt tên cho con mầy há? (CĐMĐ,
tr41)
- Này chú, không biết đường lại chợ đi ngã nào đâu chú há? (CĐMĐ, tr 130)
- Thưa thím không biết con heo đó của ai vậy thím há? (CĐMĐ, tr 203)
- Không biết giá con heo đó chừng bao nhiêu thím há? (CĐMĐ, tr204)
- Nếu mình trả ba chục đồng bạc thì họ chịu bán thím há? (CĐMĐ,tr 204)
- Thưa bà, thằng em đây bây giờ thiệt hết đau rồi, bà há? (CĐMĐ,tr 206)
- Không biết tiệm có cần dùng thợ may thêm nữa hay không thím há? (TGGT, tr
8)
- Bữa nay nhằm ngày mấy há? (VNVT, tr 14)
- Trời khuya trang lỗ quá cậu há? (VNVT, tr 82)
- Dây thép gió là giông gì mầy há? (VNVT, tr 137)
- Đường xe lửa nay đi đâu vậy anh há? (VNVT, tr 155)
- Ở đây có người gì kỳ cục quá vậy, thầy há? (VNVT, tr 199)
- Tôi may nhắm chừng mà vừa quá chớ há? (VNVT, tr 214)
- Không biết thầy đi làm việc chừng nào về anh há (LTTM, tr75)
- Coi lôi thôi mà mắc dữ há? (KLNC, tr40)
- Còn trẻ quá há? (CĐCL, tr 950)
- Ê! Sao anh chửi tôi? Anh muốn chết a há? (VNVT, tr 93)
- Ổng bị kêu án nửa tháng tù tội nghiệp quá há? (CĐMĐ, tr 130)
d/M “Hử”
- Chơi sao ngồi ngoài nắng vậy con, không sợ nhức đầu hay sao hử! (CCNN, tr
12)
- Mấy tháng nay con đi đau hử con? (GĐMĐ, tr 272)
- Đồ đĩ chó! Bữa nay tao bắt được rõ ràng rồi đó, mầy còn chối nữa thôi hử?
(CCNN, tr 39)
- Anh đi đâu mà mất biệt vậy hử! (LTTM, tr 80)
- Em muốn làm hôn thú chi vậy hử? ( NĐ, tr 137)
- Con quỉ lớn thì đau, còn thằng quỉ nhỏ đi mất biệt một buổi chiều nay, nó bắt
tôi giữ con Lựu, chịu nổi hôn hử? (VNVT, tr 120)
- Đồ ôn hoàng dịch lệ, tao biểu mầy đi quơ củi, mày còn về chi đó hử?(VNVT, tr
127)
- Bây ở đâu, sao đám lén vô đây mà ngủ như vậy hử? (VNVT, tr144)
đ/”Hả”
- Mầy mê đĩ như vậy đó, mầy nên lắm hả? (NĐ, tr 145)
- Nổ chạy thứ nhì đó hả? (NĐ, tr 178)
- Con chệch mà ngộ quá chị hả? Mấy tuổi vậy chị? (KLNC, tr 66)
- Bữa nay có bánh ú hả? Tôi thích bánh ú của cô lắm. Thôi trao một cặp cho tôi
đi. (LTTM, tr 11)
- Nó thấy chị xuống chắc nó mừng lắm hả? ( HPLN, tr 27)
PHỤ LỤC 8
Một số quán ngữ thường dùng
1- Quán ngữ chỉ thời gian
a/" thuở nay"
- Việc riêng của tôi, tôi đem mà tỏ với thầy từ hồi đầu hôm cho tới bây giờ, ấy là
tôi nói ra lần thứ nhất, chớ thuở nay tôi chưa nói cho một người nào nghe hết. (ALĐ,
tr 57)
- Thuở nay Trần Văn Sửu nói với con thì dịu ngọt luôn, bữa nay con Quyên nghe
cha nó nói xẳng, nó không hiểu tại sao mà cha nó quạu, nó lấy làm lạ mà lại sợ nên xụ
mặt rồi riu ríu trở lại, không dám đi theo. (CCNN, tr 29)
- Hai đứa nó yêu nhau, thuở nay, một bước cũng không rời. (STVT, tr89)
- Thuở nay em tưởng hai đứa mình đều không có cha, Té ra bây giờ anh có cha
thiệt anh có phước hơn em quá. (STVT, tr 89)
- Ông xã thấy quan tử tế với chú coi bộ ổng kiêng nên xá quan mà ra rồi ổng mời
chú trở lại nhà làng mua bánh đãi chú và hỏi thăm công việc ở trong Sài Gòn, vì thuở
nay ổng chưa có đi tới đó lần nào, ổng chỉ biết có Hà Tiên, Rạch Giá mà thôi. (STVT,
tr 73)
- Thuở nay mày có xài khăn mu xoa lụa xanh hay không? (CK, tr 115)
- Bụng chú có sao thì chú nói vậy, tuy chú ghét mẹ con chị Cả, song thuở nay
chú chẳng hề rũa cho chị Cả mạt, hay vái cho vợ chồng Hồng xương rã rời. (CG,tr
192)
- Cậu thiệt khó quá! Thuở nay không thấy ai kỳ như cậu vậy. (TH, tr 161)
- Thuở nay bà ở với tá điền tá thổ có nhơn, ở với bà con bên chồng có nghĩa, bởi
vậy trong làng trong xóm, từ già chí trẻ, ai cũng kính mến bà. (HPLN, tr 8)
- Má hỏi thiệt con, thuở nay con cảm tình với một cô gái nào hay không?
(HPLN, tr 16)
b/ "xưa rày, hổm nay, bữa hổm, mấy bữa rày..."
- Bởi vậy xưa rày tôi ghét, tôi không thèm ngó tới mặt nó. (CG, tr108)
- Xưa rày, má có ý hỏi thăm coi có ai xứng với con hay không. (HPLN, tr 16)
- Còn xưa rày tôi thấy ai vô mình cũng coi mạch có một chút xíu, sao hồi nãy
con đó vô phòng mình coi mạch lâu dữ vậy? (TPNS, tr 71)
- Bữa hổm ông Đốc có đọc cho má nghe rồi. Nhưng má muốn con đọc cho má
nghe một lần nữa. Đây là đồ của Đường để lại, má mới gặp được mấy bữa rày đây.
(HPLN, tr 88)
- Còn đối với nhà báo "Nam Kỳ" thì hổm nay em có ý chờ, nếu họ sai ai lại nói
lôi thôi về vụ đó thì em sẽ kêu lính bắt. (ĂTTƠTT, tr 166)
- Bẩm quan lớn, hổm nay trong xóm người ta bàn luận vụ ấy hung lắm, song
không ai hiểu tại sao Chí Cao bị đâm và cũng không ai hiểu đứa đâm đó là ai. (CK, tr
82)
- Lúc ấy, ông Huyện đã thâu góp lúa ruộng ấy đem về, làm xong rồi hết, nên ông
thong thả không bận việc gì, đã vậy mà mấy bữa rày em Ngọ nhức răng ăn ngủ không
được làm cho ông khó chịu muốn đem nó đi Sài Gòn đặng kiếm đốc tờ trị bịnh cho
nó. (CK, tr 33)
- Thưa bà, có một người đàn bà lạ mới lại ở đó ba bữa rày. (CK, tr41)
- Dữ hôn! ta nhắn bữa hổm mà để đến bữa nay mới lên! ( NCGĐ, tr78)
c/ "nãy giờ, hồi nãy"
- Nghe nói ông Chí Cao không có vợ, mà sao nãy giờ lại nghe có tiếng đờn bà
nói lớn ở bên? (CK, tr 41)
- Sạt đại đi mà! Nãy giờ trúng người ta luôn luôn khéo làm bộ!. (VNVT, tr l01)
- Nãy giờ tao nói chuyện tao biết tánh mầy ưa tự do. (CĐMĐ, tr188)
- Nãy giờ em nói phận em, còn em không nhớ đến Xuân Sơn. (STVT,tr87)
- Nè em, bà kêu nãy giờ ở trỏng. (NĐ, tr29)
- Thưa cô nãy giờ cô nói chuyện với má tôi, tôi ngồi trong buồng, song tôi nghe
đủ hết. ( CG, tr19)
- Nãy giờ má có nói chuyện cho chú con hay rồi. (CG, tr30)
- Nãy giờ chị Hai nói cháu đó, mà có thiệt như vậy hay không? (CG,tr35)
- Ông nói chuyện nghe rộn luột thiệt, hèn chi hồi nãy có dặn cũng phải lắm. (TH,
tr38)
- Hồi nãy con Hai nó mắng tôi, thiệt tôi muốn chết phức cho rồi. (CG, tr50)
- Hương quản xem lời khai của tên Quận hồi nãy lại, rồi kêu hương tuần mà biểu
dắt tên Quận trở ra ngoài. (CK, tr55)
- Thiên Mương thấy ông chú bỏ đi ra ngoài suối dường như muốn tránh không
chịu nói tiếp câu chuyện hồi nãy, cô mới kêu mà nói hồi chiều, con Diệp tưới đám ớt
ông gieo đó rồi. (STVT, tr79)
d/ "từ rày sắp lên, từ rày..."
- Từ rày sắp lên em đừng có đi đâu mà bỏ em ở nhà như vậy nữa nghe hôn.
(STVT, tr59)
- Từ rày sắp lên có hai cháu đây nó làm cho cô hết buồn nữa. ( CG,tr 113)
- Từ rày sắp lên hể chúa nhựt thì tôi rước cô lên trường đua chỉ cho tôi đánh
nghe hôn. (NĐ, trl79)
- Từ rày sắp lên má đừng có đi nữa nghe hôn má. (BC, tr 81)
- Từ rày sắp lên, ai vô coi mạch thì phải mở cửa bét ra, chớ tôi không cho đóng
bì bùng nữa. (TPNS, tr71)
- Tôi nói cho ông biết, từ rày sắp lên tôi không muốn thấy mặt ông nữa. (TPNS,
tr208)
- Vậy tôi trân trọng xin cô điều nay, là từ rày sắp lên cô tin chắc tôi là người lầm
lạc, chớ cô đừng tưởng tôi là đứa bội nghĩa: được như vậy, thì cũng đủ làm cho tôi bớt
ăn năn nhiều lắm vậy. (TPNS, tr220)
- Tôi sẽ lìa cô Julic Mai, mà từ rày sắp lên tôi không tính cưới vợ và cũng không
gần người đờn bà nào nữa hết. (TPNS, tr227)
- Bữa cơm tối ăn tại nhà cô giáo Đào thì chủ khách đều vui vẻ, nhứt là bà xã cầm
vui hơn hết, bà cứ nói từ rày sắp lên bà hết lo về tương lai; mà phật đã phân giải lỗi tại
ai chớ không phải tại mấy mẹ con bà, bởi vậy bà được an ủi nhiều, bà bớt ăn năn về dĩ
vãng. (HPLN, trl43)
- Vậy tôi khuyên chú nó với dì nó đừng có cãi lẫy với nhau nữa; Miễn là từ rày
sắp về sau đừng có ở quấy như vậy nữa thì thôi. (CĐMĐ, tr310)
- Con nguyện từ rày sắp về sau, con không dám làm nhơ danh tiết của con nữa.
(CG, tr52)
- Thôi việc cưới vợ cho con anh, anh làm sao anh làm, tôi không thèm biết tới
đâu, mà từ rày đến chết, tôi cũng không thèm bước chân đến nhà nầy nữa. (CG, tr 39)
- Còn con Liên với thằng Bĩ là bạn cơ hàn của con qua, vậy từ rày con qua được
sung sướng rồi thì qua cũng làm cho hai cháu được sung sướng như nó vậy. (CĐMĐ,
tr310)
- Từ ấy cho đến bây giờ tôi coi dì tôi là người thù, tôi không tin lòng cha tôi nữa,
ở trong nhà tôi muốn việc gì cũng không nói cho ai biết, tính việc gì cũng không nói
cho ai hay, ở với cha mẹ mà cũng như ở một mình trong rừng, dường ấy làm sao tôi
giống người thường được. (ALĐ, tr57)
- Việc riêng của tôi, tôi đem mà tỏ với thầy từ hồi đầu hôm cho tới bây giờ, ấy là
tôi nói ra lần thứ nhứt, chớ thuở nay tôi chưa nói cho một người nào nghe hết. (ALĐ,
tr57)
- Người nhà của xã Nhẫn muốn dọn về ở hay sao, mà nghe bầy trẻ nói từ sớm
mơi tới giờ có người quét dọn ở đẳng. (CK, tr7)
-Từ hồi sớm mai tới giờ, có ông Bác vật lại đây hay không? (TH, tr117)
2. Diễn đạt sự vật sự việc không xác định
“giống gì”
- Mà chối giống gì, theo tờ phúc bẩm của quan huyện nói rõ ràng nó nghịch
mạng triều đình lén theo đạo mấy năm nay. (CTKQ, tr 29)
- Cô nói áo quần An Nam may hết rồi, mà sao còn giống gì nữa đó?(CTKQ,
tr122)
- Thị Lựu day vô hư một cái rồi đáp rằng: " Chơi giống gì mà dơ dáy? Thứ con
nít thì nó chơi, giỏi sao không ở nhà đó mà giữ nó. (CCNN, tr13)
- Mầy giỏi mày làm giống gì tao đâu, mày làm thử coi họ còng đầu mầy không
mà. (CCNN, tr39)
- Cũng vậy chớ cực sướng giống gì. (NCGĐ, tr 24)
- Chú nói hơn một tháng nay bữa nào chú cũng có cữ, nên không ra khỏi nhà,
chú bịnh như vậy thì đi rước giống gì được. (NCGĐ, tr 75)
- Giỏi giống gì ! Cái đó là may chớ. (VNVT, trl4)
- Lo giống gì! Mầy sợ tao bị bắt sao. (VNVT, trl4)
- Bỏ giống gì! Hổm nay tỉnh trí rồi, nó nhớ con nó, nên nó buồn quá. (VNVT,
tr42)
- Thứ dọi lên đầu mà đau giống gì? Má tao đánh tao không sợ, tao sợ tía tao lắm
mày. Tía tao bạt tai thiệt là đau. (VNVT, tr94)
- Dây thép gió là giống gì mày há? (VNVT, tri37)
- Ai mà bán kỳ cục như vậy nà, để tao coi còn, cơm nhiều ít tao cho mà ăn, chớ
bán giống gì. (VNVT, tr 159)
- Em làm giống gì ở trong đó? (LTTM, tr 6)
- Cậu nói học làm chi, bày học đặng ở không đi chơi, chớ học giống gì (LTTM,
tr 7)
- Anh lấy đi mà! Tiền riêng của em mà anh ngại giống gì! (LTTM, tr 17)
- Con năn nỉ mà đánh giống gì. (LTTM, tr 46)
- Nói chuyện mà nghe chớ ăn năn giống gì. (LTTM, tr 73)
- Thơ nó nói giống gì đó. (KLNC, tr 29)
- Cô lại ăn cơm chơi mắc cở giống gì. Đi lại bàn ăn luôn thể. (KLNC, tr 59)
- Cưới giống gì được! Công việc chàm nhàm phải tính làm sao cho êm rồi sẽ
cưới chớ. (CG, tr30)
- Khổ giống gì! Nó nói lán chán, tao làm cho nó ở tù chớ. (CG, tr30)
- Chú nói phải quấy cho mà nghe chớ rũa giống gì. (CG, tr 40)
- Hễ cô ưng tôi thì tôi giao hết gia tài sự nghiệp của tôi cho cô làm chủ, cô muốn
giống gì cũng được hết thảy. (TPNS, tr 207)
- Con Túy nó đau mà hỏi giống gì! (CK, tr 118)
- M Phát bây giờ sướng quá! Có ruộng đất mênh mông, đi ra thì có xe hơi nhà,
làm việc thì gần mặt trời, vậy thì đúng bực sang giàu rồi, còn thiếu giống gì nữa đâu.
(ĂTTƠTT, tr 152)
- Đời nầy học cho biết thì thôi, bằng cấp bằng kéo làm giống gì. (MĐTS, tr 18)
- Khuya rồi sao cô chưa ngủ? Cô còn viết giống gì đó? (ĐT, trl68)
- Hôm trước cậu nói ông già cậu khuất rồi, vậy chớ bây giờ bà già cậu làm giống
gì ở đâu? (KT, tr41)
- Em đi qua buồn lắm, chắc qua chết, chớ học giống gì được nữa. (NĐ, tr 19)
- Con của anh Hai mà bả chở nó lên trên nầy làm giống gì? (NĐ, tr27)
- Giống gì lại chết, thứ cưới vợ chỗ nay không được ta kiếm chỗ khác, hết con
gái rồi hay sao. (TT, tr 230)
- Em có thấy anh Hai em làm giống gì ở ngoải hay không vậy em Giao? (VGCT,
tr 6)
3. Diễn đạt nội dung trái ngược
* " té ra, té ngửa, ngã ngửa"
- Khi ấy em thò tay mà níu mẹ em, té ra níu không kịp cùng thế , em đeo tấm ván
lấy chơn mà dò coi may có đụng hay chăng, chẳng dè mẹ em đã chìm mất không thể
nào cứu được. (CTKQ, tr 92)
- Té ra thằng nhỏ đó mầy đặt tên Được hay sao? (CĐMĐ, tr 41)
- Mầy tính ghé Cần Đước kiếm tiền té ra không kiếm được thêm, mà lại tốn của
mình hết một đồng bạc nữa. (CĐMĐ, tr 213)
- Té ra ông là thầy chùa hay sao? Chỗ nay là chùa phải hôn ông? (NCGĐ, tr50)
- Ờ, té ra em là con gái của ông Lý Kỳ Nguyên hay sao? (NCGĐ, tr77)
- Té ra mới nhắn bữa trước qua bữa sau ổng chết. (NCGĐ, tr 80)
- Anh ta đi một hồi, lại nghe có tiếng người ồ ào phía sau, anh ta tưởng xóm làng
theo bắt nên day mặt lại mà ngó, té ra không có ai hết. (CCNN, tr42)
- Mẹ đi, té ra ba tấm đây là ba trăm. (VNVT, tr, 7)
- Bây giờ cháu bỏ nó thì té ra cháu gạt gẫm nó. (CG, tr 36)Ngặt vì tôi với anh cả
là anh em ruột, bề nào cũng ruột thịt với nahu làm như vậy té ra tôi là em mà tôi ngỗ
nghịch với anh, tôi làm điều nhục nhã cho anh, thiên hạ thấy vậy người ta chê cười tôi.
(GG, tr 64)
- Hai Cường nói: " Ạ! Té ra cô em cũng bị tai nạn như con nên cô cũng kiếm chỗ
dung thân mà lánh xa đời như con. Cô em ngồi đó chơi, ngồi đặng tôi nói cho mà
nghe." (STVT, tr 19)
- Té ra cô cũng là nạn nhơn của ái tình như con Lê của tôi đây. (STVT, tr 23)
- Té ra cô là người thợ may mới mà bà Tư nói hôm qua đó phải hôn? (TGGT,
tr37)
- Té ra cũng ở gần tôi mà. Tôi gốc ở Ngã Bảy. (TGGT, tr 39)
- Tưởng là chị Hương sư được sống. Té ra chị cũng mất nữa. (CK, tr 13)
- Té ra người mua nhà xã Nhẫn là ông Chí Cao hay sao? (CK, tr23)
-Té ra bà cũng có đọc tiểu thuyết của tôi nên bà mới biết cô Thanh Xuân? (CK,
tr 30)
- Nghe nói quan lớn dạy giam tên bồi thì tưởng nó là đứa sát nhơn, té ra chiều lại
quan lớn cho nó về. (CK, tr 82)
- Té ra trưa bữa sau, tôi nghe gia dịch xạo sự với nhau rằng có vợ Chí Cao mới
xuống, người vợ nầy ở với Chí Cao có một đứa con. (CK, tr 135)
- Té ra con hai nó có cho ông một trăm đồng bạc hay sao? (KT, tr209)
- Ba gả con lấy chồng, ba tưởng chồng của con biết thương người, biết giúp đời,
té ra nó đã không thương không giúp ai mà nó lại báo thiên hạ nữa. (KT, tr 228)
- Té ra tôi cưới nó về rồi thì tôi thấy vợ tôi cử chỉ theo gái xưa, chớ không phải
như gái tân thời, nhưng mà tánh nết dị kỳ quá, không hạp với tánh nết của tôi chút nào
hết. (TPNS, tr 173)
- Té ra thiệt cô không tưởng tôi là đứa bất nghĩa, mà cũng không hờn giận tôi, tôi
cám ơn cô lắm. (TPNS, tr 224)
- Mình làm lớn mà không tới, thì té ra mình nhỏ mọn. (MĐTS, tr71)
- Thiên hạ ai cũng lo giành giựt tiền bạc, nếu mình bo bo nắm chặt nhơn nghĩa,
thì té ra mình khờ hơn người ta quá. (ĂTTƠTT, tr 176)
- Té ra cô nhỏ hơn tôi ba tuổi. (KLNC, tr 10)
- Té ra cô hồi nãy là mẹ con nhỏ xách nước ra tưới trầu ngoài sân đó sao?
(HPLN, tr 27)
- Con đương lửng lơ do dự, thầy Hiển lại cho con hay có nghị định gởi xuống
chấp thuận đơn từ chức của cô giáo Hưởng và vợ thầy giao một ngàn đồng bạc cho cô
Hưởng thì cô không chịu nhận, cô nói nếu cô lấy tiền của con té ra cô bán trinh tiết
hay sao. (HPLN, tr45)
- Cô Hưởng về cô buồn nên nằm tiêu hiu luôn mấy bữa tuy được biết con tu
hành tinh tấn, ấm áo no cơm, khỏi hoang đàng cực khổ, song con không muốn gần
mẹ; nên con lơ đảng không có tình nghĩa mẹ con; té ra có cũng như không; thế thì làm
sao mà vui mừng cho được. (HPLN, tr 58)
- Cô suy nghĩ một hồi rồi cô nói cô không thể đi được, vì cô đi té ra, cô muốn
tranh gia tài với mẹ con cô Thậm hay sao. (HPLN, tr 68)
- Qua đọc hết công chuyện cho cậu nghe, qua đưa thơ của Tố Nga cho cậu coi,
cậu biết cậu nghi lầm, nên cậu té ngửa! (VNVT, tr 28)
- Chú cũng không biết. Chừng buổi hầu chiều chú trở lại quan quận nói chú mới
ngã ngửa. (STVT, tr 74)
- Nói sao mà chú ngã ngửa. (STVT, tr74)
- Người đó đa. Con nghe con cũng 'ngã ngửa thấy chưa! (STVT, tr74)
4. Diễn đạt tâm lí xót thương, ân hận
* cơ khổ dữ hôn, tội nghiệp dữ hôn, bất nhơn dữ hôn"
- Cơ khổ dữ hôn! Quan họ bắt anh có vài bữa gì đó kế bác mất. (NCGĐ, tr 25)
- Ờ, té ra em là con của ông Lý Kỳ Nguyên hay sao? Cơ khổ, dữ hôn, có biết
đâu? (NCGĐ, tr 77)
- Cơ khổ dữ hôn có biết ở đâu! Qua nhắn hổm nay hơn nửa tháng rồi sao bữa nay
em mới lên. (NCGĐ, tr 77)
- Cơ khổ dữ hôn hai đứa nhỏ hồi trưa đến bây giờ còn đây mà bầy trẻ ăn cơm
không kêu nó ăn với chớ! (CĐMĐ, tr 142)
- Cơ khổ dữ hôn! Vậy mà tôi có hay đâu. (NĐ, tr 9)
- Vậy hay sao? Cơ khổ dữ hôn! Vậy mà có hay đâu! Chị có chồng về trên nay
hay sao? (TGGT, tr 87)
- Cơ khổ dữ hộn! Vậy mà em có hay đâu! Một năm mấy nay em không có gặp
anh, mà anh cũng không gặp bác Tổng. (MĐTS, tr 93)
- Tội nghiệp dữ hôn! Phải làm sao đi lên mà rước cậu về, chớ cậu, đau mà để cậu
ở trển sao được. (NCGĐ, tr 75)
- Tội nghiệp dữ hôn! Cháu có mấy anh em ? Từ khi ông già cháu mất rồi cháu ở
đâu? Có chồng con hay chưa? (NCGĐ, tr 205)
- Thưa, thầy tôi bị ở tù dưới Trà Vinh.
- Vậy sao? Tội nghiệp dữ hôn! Thôi vô đây. (CĐMĐ, tr 139)
- Tội nghiệp dữ hôn! Tôi nghe thầy đã lên Châu Đốc có vợ giàu lắm mà. (TTN,
tr 103)
- Tội nghiệp vợ con nó dữ hôn! Nó quấy chớ vợ con nó có can phạm gì đâu, mà
trời hành phạt như vậy. (CCNN, tr 135)
- Bất nhơn dữ hôn! Vậy mà tôi không biết chớ! Từ nhỏ tới lớn, tôi không có thấy
thầy chùa mà cũng không có vô chùa lần nào, nên tôi không biết. (NCGD, tr 50)
- Bất nhơn dữ hôn! Tôi có nói trước mà . (NCGĐ, tr 108)
- Bất nhơn dữ hôn!Đi hồi nào? (TTN, tr 63)
- Bất nhơn dữ hôn! Vậy mà em tôi nó kiếm hết sức song kiếm không ra mối.
(TT, tr, 246)
- Bất nhơn dữ hôn! Vậy mà xưa rày tưởng nó giận chị cả nó trở ra ngoài Bắc
chớ. (TT, tr 132)
5. Diễn đạt bộ dạng, tánh ý
* “coi bộ, làm bộ, bộ”
- Con nhà ai ở đâu, coi bộ thì nghèo mà ngộ nghĩnh quá vậy kìa. (CCNN, tr77)
-Còn cậu Ba Giai, cậu chấp tay xá mẹ rồi đứng xó ró dựa cái tủ rượu, tay xây
tròn cái ly, mặt ngó cúi xuống đất, coi bộ buồn bực mà lại xẻn lẻn lắm. (CCNN.tr 108)
- Bà hỏi vậy chớ kiếm được chị với cháu hay không, thì anh ta lắc đầu, coi bộ
buồn bực lắm. (NCGĐ, tr 67)
-Hổm qua chị có nổi xa nói gần mà dỗ Thu Thủy, coi bộ nó đã bổi buồn rồi.
(STVT, 11-64)
- Chuyện nẩy đối với người ta thì dễ mà đối với mình cơi bộ rắc rối lắm chớ
không phai dễ đâu. (STVT, tr 83)
- Ông là trai chưa vợ, ông ngồi trong gian hàng đây hơn một giờ đồng hồ rồi ông
thấy em với ba cô đây là gái chưa có chồng mà không tỏ một lời chọc ghẹo, lại coi bộ
ông không thèm để ý đến, thậm chí đến người ta áp vô vãi bông cùng mình chúng tôi
mà ông cũng không phiền. (TH, tr 37)
- Bạch Yến nói dứt rồi thì thấy Tất Đắc ngồi lững đững lờ đờ coi bộ không vui.
(TH, tr 143)
-Thầy Hội đồng ngồi yên lặng ngẫm nghĩ coi bộ thầy dụ dự, không biết phải
nhứt định lẽ nào. (KT, tr 45)
- Vĩnh Thái nghe vợ đòi dắt em theo, chàng không cản trở, nhưng mà chàng nhíu
chơn mày coi bộ không được vui. (KT, tr 57)
- Ý! Tôi coi bộ nó có thai thiệt đa cậu. (Cơ, tr 44)
- Bà cả với thím Giáo nói chuyện, mà coi bộ bợ ngợ lắm. (CG, tr 202)
- Trước ở bực giàu sang bây giờ rớt xuống bực hèn hạ, mà nó cũng thủ phận an
khang, coi bộ không phiền trách chi hết, (TGGT, tr 34)
- " Còn ông thì ông nổi việc nầy, hỏi việc nọ không dứt, coi hộ như ông vui mà
có một người khách ăn cơm với ông." (TGGT, tr 43)
- Tại sao mà nó mê con cẩm vân không biết, Con đó tao coi hộ không được,
(KLNC, tr 84)
-Ưa, coi bộ ổng đeo theo chị lắm, mà sao ổng lại bỏ mà về trước đi?(TPNS,tr
211)
- "Trời đi! Tây nó râu ria tới mép lai, thất ghê quá!
- Tuy vậy mà coi hộ hiền. (ĐNDT, tr 24)
- Thầy giáo roi bộ lớn tuổi hơn con Đào nhiều quá mà gả giống gì. (LTTM, tr
33)
- Từ Trần Mừng cho đến mười mấy tôn bạn dưới tàu ai thấy Chúa tàu trọng đãi
Thu Thủy thì trong bụng cũng đều tưởng chắc rằng Chúa tàu sẽ cưới làm thê thiếp chi
đây, song tưởng thì tưởng vậy, chớ thấy bộ Chúa tàu nghiêm trang nôn không ai dám
nói chi hết. (CTKQ, tr 95)
-Ông Phán nghe trả lời như vậy thì ông ngồi dậy đốt một điếu thuốc mà hút, bộ
ông suy nghĩ lắm. (TGGT, tr 45)
- Má đau như vậy mà bộ cậu không lo chút nào hết. (LTTM, tr 40)
- Thằng Tý về nhà nói với ông ngoại nó rồi, bây giờ nó trở xuống chòi ruộng mà
kiếm cha, bộ đi chăm hẳm sắc mặt nghiêm trang. (CCNN, tr 131)
- Trong đám hành khách chờ lấy đồ đây, có một người trai, nước da trắng, gương
mặt tròn, sơn đình cao, chơn mày rậm, mình mặc một bộ đồ âu phục bằng bố xám,
đầu đội nón trắng, chơn mang giày đen, đứng ngó dáo dác, bộ coi ngại ngùng lắm.
(ĂTTƠTT, tr 6)
- Bà xã nói Càn xin để nó suy nghĩ một bữa rồi nó sẽ trả lời. Mà bộ nó muốn
chịu rồi. (HPLN, ÍT 104)
- Cô Tân Phong làm bộ như không nghe mấy lời nói sau đó. (TPNS, tr67)
- Sạt đại đi mà! nãy giờ trứng người ta luôn luôn khéo làm. bội. (VNVT, tr 101)
- Ậy, giả đò như lôi là thằng chồng ngu không biết việc chi hết, bây giờ mình
dạy cho tôi biết cách giúp ích cho đời vậy mà. (KT, tr 78)
- Thu Hà giả đò không nghe, cô đứng dậy mà đi xuống nhà dưới.. (KT,tr 132)
6. Diễn đạt hành động bắt buộc
* " cực chẳng đã, túng thế "
- Cậu trai ấy xin từ, nói rằng đã dùng cơm chiều rồi, Khiếu Nhàn theo ép dùng
thêm, nên cực chẳng đã phải vừng lời vào ăn thêm một chén. (ALĐ, tr 8)
- Thu Thủy nhứt định không chịu coi, mà vì Chúa tàu ép quá, biểu phải coi cho
biết mặt, nên cực chẳng đã Thu Thủy phải lại cửa sổ mà dòm.(CTKQ, tr 143)
- Ở nhà không có ai hót, cực chẳng đã phải ráng mà đi đây. (CG, tr176)
- Vĩnh Thái sự vợ lên tòa nói lôi thôi rồi lòi sự cáo gian của mình, nên cực chẳng
đã chàng phải chịu. (KT, tr 161)
- Ông Hai Cường đứng dậy dụ dự, ngó quanh quất tứ phía một hồi rồi chậm rãi
theo Xuân Sơn trở vô đi mà ngập ngừng như cực chẳng đã phải rán mà bước, (STVT,
tr 79)
- Cực chẳng đã, cẩm vân phải theo Tố Nga mà lại bàn ăn. (KLNC,tr 59)
- Cực chẳng đã má phải lấy chồng, tưởng lấy chồng đặng có chỗ nương dựa mà
nuôi chị em mình, nào dè đụng cậu, thiệt cũng như mắc họa lớn. (LTTM, tr 8)
- Ngại vì trong cơn ương yếu, túng rỗi, một đồng hạch quý bằng một trăm đồng,
nên cực chẳng đã tôi phải đưa tay mà lấy 20 đồng bạc ấy, ở ăn cơm sớm mơi rồi mới
đi xe trưa mà trỏ xuống Cần Thơ. (CK, tr 76)
- Cô Phùng Xuân bị ép quá, không thể từ chối được, cực chẳng đã phải đi ăn
cơm với ông Phán. (TGGT, tr 42)
- Hai đứa cực chẳng đã phải ăn, rồi thằng nhỏ cũng lấy mà ăn nữa. (CĐMĐ, tr
148)
- Ông lên Sài Gòn hỏi thăm ông Nhiêu Tâm với lon ton Thiệt, thì họ nói không
thấy, ông đi bơ vơ ít ngày tìm không ra mối, túng thế ông phải trở về. (ALĐ, tr 141)
- Ông Phán có một đứa con trai còn học ngoài Hà Nội, nên trong nhà chỉ có trẻ
nhỏ bầu bạn cho vui, túng thế nó (thằng Được) phải chơi với con Liên; tuy con gái
chơi không được vui, song gần gũi nhau nhiều ngày rồi lần lần khắng khít cùng nhau
nên yêu mến nhau cũng như anh em ruột. (CĐMĐ, tr 105)
- Nó lần bước trở về, tính dắt con Liên ra chợ ăn cơm, vì trong túi còn được ba
cắc bạc, chẳng dè về đến nhà thì chị chủ nhà ép quá nên con Liên đã ăn cơm rồi; mà
chỉ lại có để dành cơm cho nó nữa, thấy nó về chỉ ép riết, túng thế nó phải ăn.
(CĐMĐ, tr 124)
- Hai mẹ con ép riết, túng thế hai đứa phải ăn. (CĐMĐ, tr 149)
- Thằng Bĩ mạnh mẽ vạm vỡ nên nó nắm thằng Được vùng không nổi, túng thế
phải theo nó mà qua chợ Bến Thành. (CĐMĐ, tr 253)
- " Người gặp cảnh nguy, bước đường cùn rồi, không biết làm sao mà day trở,
túng thế phải thắt họng hay là cắn lưởi, hay là uống thuốc độc, hay là nhào xuống
sông mà chết." (MĐTS, tr 95)
- Ông Đốc Thắng nài nỉ hết sức không được, túng thế ông mới cậy cô đưa ông
qua chùa đặng ông giáp mặt với Càn và lập thế rước Càn đi. (HPLN, tr 68)
7. Diễn đạt hành đông trái ngược với thực tế:
a/Chẳng dè"
- Má tôi ở nhà cứ uống thuốc thêm hoài cho thiệt mạnh, chẳng dè đêm nọ uống
thuốc vô rồi trong bụng quặn đau, đi sông không ngớt, đi thét má tôi nằm liệt tới sáng
thì tắt hơi. (ALĐ, tr 48)
- Chẳng dè thầy nọ làm lơ, đã không chịu quen với Chí Đại, lại còn bắt lỗi Chí
Đại vô phép, làm cho Chí Đại hỗ thẹn mà nực cười, thẹn là thẹn thân hèn hạ, cười là
cười thói kiêu căng, thầm nghĩ chớ chi mình giàu sang, chắc người không quen cũng
xúm lại niềm nở. (ALĐ, tr 67)
- Chẳng dè sáng bữa sau, lúc mặt trời mới mọc, ông sen đi thám dọ về bảo rằng
quan phủ đã sai lính giải Trường Khanh với Băng Tâm lên tòa hồi khuya rồi. (ALĐ, tr
168)
- Anh chủ nhà mời lơi Thủ Nghĩn ăn, chẳngThủ Nghĩa trỏ thiệt rằng hồi sớm
mơi hôm qua đến nay mình nhịn đói nên dầu không mời rồi đây mình cũng xin chút
cơm dư mà ăn cho đỡ dạ. (CTKQ, tr 50)
- Chẳng dè nằm trót canh mà ngủ không được, giận khoát mền ngồi dậy rồi đốt
đèn, tính kêu Thu Thủy vào phòng trong đặng to nhỏ bày tình cho dễ. (CTKQ, tr 126)
- Chẳng dè Thị Lựu chạy lại níu áo chồng mà trì lằn nhằn làm cho Trần Văn Sửu
rượt không được, để cho Hương hào Hội thót ra lộ rồi chạy mất. (CCNN, tr 39)
- Cô lật đật lên nhà trên mà tiếp khách, chẳng dè cô vừa mới đứng dậy, thì cợ Bá
Hỉ đã xuống tới chỗ cô dạy học. (KT, tr 169)
- Chẳng dè về rước má, mà má đã mất rồi, thiệt tức quá. (LTTM, tr 60)
- Đà công bẻ tay lái ghe day lại vô bờ, chằng nhè một lượn sóng khác còn CÍIO
hơn nữn ào lới phủ mất ghe. (STVT, tr 164)
- Chẳng dè lại cửa đứng dòm vô tôi thấy chủ tôi nằn co dưới đất, máu chảy đỏ áo
quần, tôi kinh hải không dám vô, liền chạy đi báo cáo với thầy Hương cảng. (CK, tr
48)
- Chẳng dè lại tới đó thấy cửa đóng chặt cứng. (CG, tr 110)
- Chẳng dè em càn ở chừng một năm rồi em bỏ đi mất không biết đâu mà kiếm.
(HPLN, tr 56)
b/ "nào dè "
- Thủ Nghĩa hỏi vậy chớ sao không đào hang ra phía đó lại đào trở lộn vô, thì
Mạc Tiễn cắt nghĩa rằng mình thấy phía đó có lính ở, sợ đào ra đó chúng hay nên đào
vô phía trong, tưởng là trổ ra ruộng được, nào dè không trổ đi đâu lại trổ qua khám
khác. (CTKQ,tr 36)
-Nào dè về đến nhà cũng không thấy chồng, nàng ngồi không yên cứ ra dứng
dựa cửa ngỏng trông hoài. (NCGĐ-,tr 130)
- Nào dè việc xưa tưởng như đã vùi lấp, lại cũng tưởng biển rộng giúp ngăn
ngừa, tình cờ mình không nhắc nhở mà nó lần mò bò ra tới đây phá rối cảnh đời ôm
ấm vui vẻ của mình như vầy. (STVT, tr 93)
- Nào dè đụng cậu, thiệt cũng như mắc họa lớn. (LTTM, tr 8)
- Tôi làm quen với cô, ý muốn nói chuyện chơi, nào dè chị em mình đồng một
bịnh. (CG, tr 105)
- Bậy quá, phải dè như vậy, đưa tiền cậy cô mua giùm cho tôi xong hơn. (LTTM,
tr 47)
c/ "không dè,có dè, phải dè "
- Chừng nghe nói Trần Như chốt thì Trần Tấn Thân chưng hửng, nói rằng năm
ngoái Trần Như có ghé thăm rồi nói đi Biển Hồ, lại hẹn chừng trở về rồi ghé mà trông
hoài không thấy, tưởng Trần Như đi thẳng chứ không dè đã từ trần. (CTKQ, tr 73)
- Trần Mừng biết Chúa tàu đi lấy vàng bạc, song không dè của cải mà giấu chỗ u
hiểm như vậy, nên tuy đi thì không sợ nhưng mà trong lòng cũng bồi hồi. (CTKQ, tr
81)
- Em không dè nói chuyện chơi mà em làm cực lòng ông đến như thế. (TPNS, tr
167)
- Té ra ông không dè chúng tôi ra đây hay sao? (TPNS, tr 205)
- Tôi không dè nước ta cũng có cảnh sơn thủy đẹp như vầy. (TPNS,tr 214)
- Tôi không dè sự cương quyết năm trước là lầm, mà sự lầm đó bây giờ bị hình
phạt về phần trí nặng nề đến thế nầy. (TPNS, tr 210)
- Qua với em mà gần nhau đây, qua không tính trước, mà qua chắc em cũng
không dè. (TGGT, tr 77)
- Bề ăn ở của ông Phán thiệt là thảnh thơi, an ổn, ông không dè ngày gìa mà còn
được hưởng hạnh phúc thế nầy. (TGGT, tr 80)
- Cô Đào ngẩn ngơ không dè em có tiền đến dám làm mả bạc ngàn cho cha mẹ.
(LTTM, tr 63).
- Tôi không dè bà lớn lại đi thăm tôi trước. (CK, tr 9)
- Mua nhà về ở đây, tôi không dè đã có sẳn một độc giả rất xinh đẹp ở một bên
tôi chớ. (CK, tr 28)
- Qua không dè, thôi để mai mốt qua lên. (TH, tr 139)
- Thím Giáo cũng chết điếng trong lòng, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng,
không dè sự nhơ nhuốc của con đến nông nỗi ấy. (CG, tr 23)
- Tao thấy mầy mà lao không dè, chừng nghe mầy lên tiếng tao mới biết.
(VNVT, tr 131)
- Nó không dè chớ. Cũng như mình vậy, tự hồi đó đến bây giờ mình có dè đâu.
(VNVT, tr 118)
- Quan tổng đốc chỉ Chúa tàu mà nói rằng: "Hai quan lớn này, té ra Lê Thủ
Nghĩa là Chúa tàu này đây, mà thuở nay mình có dè đâu.(CTKQ, tr 189)
- Tôi có dè ngày nay còn được gặp chú nó đâu. (NCGĐ, tr 198)
- Đám cưới chị sao không cho hay, nên tôi có dè đâu. (TGGT, tr87)
-Ai dè có người thì thiếu nợ nhiều chỗ khác nữa, điền đất đã cầm cố cho chủ nợ
trước rồi, nợ trả không nỗi, chủ nợ sau trưng thi hành phát mãi lấy hối đi. (TTN, tr 45)
- Phải dè như vậy, hồi chiều tao biểu thằng Điệu kêu xe vô rước nó chẳng là
xong. (KLNC, tr 62)
8- Diễn dạt sự không quan tâm, khôg chú ý
* "thây kệ"
- Họ là xã trí họ không biết thương nhà nghèo, họ không kể nòi giống, họ làm
sao thấy kệ họ, mình phân bì với bọn quấy như vậy mà làm bì? (KT, tr 179)
- Ôi! Thây kệ nó. Rách lành cũng không hại gì. (LTTM, tr 16)
- Nó có chửa thây kệ nó chớ. Con gái dại lấy trai thì chịu, ai biết đâu. (CG, tr 33)
- Tôi ác thây kệ tôi. Ai có thương thứ đồ như vậy thì cưới nồ đi. (CG, tr. 38)
- Giận thây kệ nó!Tôi không màng nữa. (CO, tr 147)
- Thây kệ nó, để nó có sức nó nhịn đói. Trưa chiều đói thét phải ăn. Đánh kháo
làm gì. (VNVT, tr 14)
- Buồn cái gì? Thây kệ bỏ đi. (VNVT, tr 42)
- Thây kệ, để một lát tao mua một ổ bánh mì nhỏ tao ăn. (VNVT, tr 139)
- Thây kệ mà! Hết rồi mình kiến cái khác lo gì mậy. (VNVT, tr 139)
- Thây nó, để coi nó nói giống gì chớ, sao thím lại cản? (CG, tr 20)
PHỤ LỤC 9
Một số mô hình câu khẩu ngữ
1. Câu có nội dung kết cấu 3 phần (nhiều mệnh đề nối tiếp)
- " Khi cháu được bảy tuổi, ông đem cháu về nhà mà dạy học chữ nho, cháu học
tới mười hai tuổi thuộc hết bộ Minh Tâm và bộ Tứ Thơ, rồi ông nói với cháu đời nay
chữ nho để mà lập chí không phải để mà lập thân, ông mới đem cháu mà gởi ở nhà
người quen của ông là ông Hội đồng Viễn ở Vĩnh Long, đặng cháu vào trường nhà
nước mà học chữ Tây." (ALĐ, tr 9)
- " Nói cho phải, bà Phủ chẳng thiệt như người thường, bà khôn ngoan lanh lợi,
tuy bà được yêu và được quyền, nhưng mà chẳng hề khi nào bà dùng yêu hoặc dùng
quyền ấy mà yểm thế hay là cưởng bức chồng bao giờ; nếu ý bà muốn việc chi thì bà
dùng lời nhỏ nhoi khiêm nhượng mà phân với chồng luôn luôn, mà hễ bà phân thì ông
nghe, chưa thấy ông trái ý lần nào, nôn lời dịu ngọt của bà nghĩ thật là độc ác hơn lời
sổ sàng của các đàn bà khác." (ALĐ, tr 21)
- " Nội nhà Bạch Tuyết chỉ ưa nói chuyện với ông Sen mà thôi, bởi vì ông Sen
hồi trước ở với Khiếu Nhàn, chừng Khiêu Nhàn gả con cho quan Phủ thì ông theo
đặng đỡ tay chơn, đến khi mẹ Bạch Tuyết qua đời thì ổng ẩm bồng, săn sóc Bạch
Tuyết, nên Bạch Tuyết trìu mến." (ALĐ, tr 22)
- " Bạch Tuyết cản hết sức không được, nên sáng hôm sau phải để cho chồng đi,
mà Chí Đại vừa ra khỏi nhà thì cô cũng đội khăn đi nữa, tính đi kiếm chỗ làm mướn,
chớ không đành để cho chồng cực khổ một mình, may có vợ lon ton Thiệt níu lại, nói
rằng có bụng có dạ phải dưỡng lấy thai, nên cô mới chịu trở vô nhà nằm mà khóc."
(ALD, tr75)
- " Thiệt Băng Tâm thường hay kiếm lời khuyên giải, nói rằng đạo vợ chồng có
lìa nhau, chừng hiệp với nhau mới vui, nhưng mà Bạch Tuyết nỗi sầu dồn dập lâu rồi,
nhứt là chồng đi gần một năm mà chẳng có tin tức chi hết, chẳng hiểu chồng có bình
an hay không, bởi vậy nỗi sầu của cô không thể nào gỡ được." (ALĐ, tr 128)
- "Trong đơn Chúa tàu kể đủ mọi điều: Trần Mừng gởi bạc đặng đi Biển Hồ, khi
trở về Trần Tấn Than gạt nói quan Huyện đến xét nhà lấy hết bạc ấy, và hăm hễ Trần
Mừng về sẽ bắt mà bỏ tù, làm cho Trần Mừng sợ không dám ở mà đòi bạc; Chúa tàu
lại kể sự Trần Tấn Thân dạy bạn trong nhà là tên Cam tên Quít đưa Trần Mừng đi rồi;
mà đi rồi lại nghi cho hai đứa nói lậu ý gian của mình, nên lập mưu với quan Huyện
tính cáo hai đứa ăn trộm đồ đặng bỏ tù chúng nó cho nhẹm, may nhờ ông đội Sum lấy
lòng nhơn mà tha, nên hai đứa ấy khỏi oan ức (CTKQ, tr 164)
- " Trần Mừng chẳng có lòng mong đòi bạc gởi cho Trần Tấn Thân lại được, nay
nhờ Chúa tàu mà bạc trả lại đủ một trăm bốn mươi nén, thì lòng chẳng xiết nỗi mừng
nhưng mà nghĩ mình mang ơn của Chúa tàu đã nhiều, mình đã nguyện theo giúp đỡ
Chúa tàu trọn đời, đã vậy mà Chúa tàu lại tin cậy nên giao hết vàng bạc cho mình giữ,
thế thì mình cũng không lấy một trăm bốn mươi nén bạc nay làm gì, bởi vậy Trần
Mừng lãnh bạc rồi đem xuống tàu đưa hết cho Chúa tàu chớ không chịu lấy, Chúa tàu
chẳng để ý đến tiền bạc, nhân Trần Mừng đưa bạc thì Chúa tàu biểu đem cất rồi thôi,
chớ không nói lấy, mà cho Trần Mừng cũng không nói cho." (CTKQ, tư 186)
- " Hồi chồng bà chết thì để cho bà có một trăm năm chục mẫu ruộng, mà bây
giờ ruộng của bà và của chồng bà đứng bộ cọng hết thảy trên hai trăm mẫu, bà để làm
ba trăm công, còn bao nhiêu bà cho mướn, mỗi năm bà góp lúa thường thường từ năm
ngàn rưởi tới sáu ngàn giạ." (CCNN, tr 70)
- " Hương thị Tào dắt cháu xuống ở đợ với bà Hương quan, khi bước vô tới sân,
thằng Tý thấy cảnh vật lạ hoắc, nhà cửa cao, thì trong ngực nó hồi hộp, cặp mắt ngó
dáo dác, nên chưn vấp nhầm cục đất, may nó níu ông ngoại nó kịp, chớ không thì phải
té nhủi." (CCNN, tr 71)
-" Bà lại mua một cây lãnh, một xấp lụa đem về, lãnh thì bà cắt may quần, còn
lụa thì bà may áo dài, áo vắn đủ thứ cho nó mặc." (CCNN, tr 87)
- " Quan Phủ ngoe ngoảy đi lấy một cái hoa ly lớn mà quăng lên ván nghe một
cái xạch, gom góp quần áo xếp bỏ vô hoa ly, mở tủ bàn viết lấy cuốn sổ lãnh tiền hưu
hí và lấy giấy tờ gì đó nữa rồi cũng bỏ vô hoa ly." (BV,tr81)
- " Tự Cường biết con đương bối rối trong trí đương đau đớn trong lòng, nếu lúc
nay xen vô nói một tiếng, thì làm cho nó thêm rối, thêm đau chớ không ích chi, bởi
vậy ông cũng ngồi lặng thinh, một lát liếc mắt dòm con thôi, chớ không nói chi hết, có
ý chờ cho con khóc đặng có nước mắt mà rữa giùm bớt những nỗi bực tức trong lòng
con." (TT, tr 204)
- " Dạy học hơn 30 năm, tuy lương bổng không nhiều song nhờ ông Đốc siêng
năng, bà đốc tiện lặn, vợ chồng rán chịu cực khổ lúc tuổi trẻ đặng an vui khoan ngày
già, bởi vậy có một đứa con gái với một đứa con trai thì chăm nom nuôi chúng ăn học
đặng chúng nó lập thân mà bay nhảy theo đời, lần lần tạo cửa nhà dặng ăn ở cho ấm
êm, rồi còn sắm được mấy mẫu ruộng để có sẳn cơm áo mà độ nhựt." (HPLN, tr 33)
- " Bà mướn xe chạy xuống chợ bến Thành đặng bà mua một vóc hàng đen,
mươi thước hàng trắng với mươi thước vải đen đem về Cần Giuộc mướn thợ may cho
càn một cái áo dài để bận khi cúng ông bà và may đồ mát để bận thường ở trong nhà,
chớ áo của thầy tu thì ban đêm bận cúng phật mà thôi, còn ban ngày hay chừng ngủ
thì bận đồ mát cho tiện." (HPLN, tr 142)
- " Rồi đó bà Xã mới xin ông Đốc thuật tỉ mỉ lại cho bà nghe tại sao ông biết chỗ
cô hưởng ở mà kiếm trót mười mấy năm cô đi làm việc ở đâu, nói lại cho kỹ một lần
nữa tại sao yêu Đường mà cô có con rồi phải trốn tránh không dám gần người yêu
nữa, còn con thì cậy người ta nuôi giùm không dám giao cho Đường, chừng qua chùa
gặp Càn thì thá?iđộ của Càn thế nào, Càn nói những chuyện gì thuật lại y cho bà nghe
, không sót một mảy ." (Hạnh phúc lối nào, tr 82)
- " Biết cô ghen, làm vỡ lỡ cả chợ Cần Giuộc ai cũng ghét, biết chồng chết cô
theo ở bên chồng được lối một năm, chừng thấy mẹ chồng rước cháu ngoại của một
người tá điền đem về mà nuôi, lại nuôi luôn mẹ đứa nhỏ nữa, thì cô giận nên bỏ trở về
ở với cha mẹ, rồi trong vài tháng cô lấy chồng khác ở trên Sài Gòn, cải giá không đợi
mãn tang chồng, không thèm trình cho bà mẹ chồng trước hay, mà từ đó đến nay, đã
hơn ba năm rồi, cô cũng chẳng hề bước chân tới nhà mà thăm bà mẹ chồng cũ."
(HPLN, tr 117)
- " Trong đám hành khách chờ lấy đồ đây, có một người trai nước đa trắng,
gương mặt tròn, sơn đình cao, chơn mày rậm, mình mặc một bộ đồ âu phục bằng bố
xám, đầu đội nón trắng, chơn mang giầy đen, đứng ngó dáo dác, bộ coi ngại ngùng
lắm." (ĂTTƠTT, tr 6)
- Té ra ở được vài bữa, thấy rõ ý chồng tôi thiệt ghét và khinh tôi, tôi liệu làm cố
lì nữa vô ích, nên tối lại tôi mới chỉ cái thói đen bạc, cái óc thô bỉ, hễ được sang quên
hèn, được giàu quên nghèo của chồng tôi cho chồng tôi biết, đặng sáng bữa sau tôi đi,
thà tôi chết bờ chết bụi, chớ tôi không thèm gần người bất lương bất nghĩa như thế."
(CK, tr 75)
2. Câu có dạng “CNl+vị từ+CN2”
- " Mắc cha nói mẹ nhờ có ông thầy nầy nên bịnh đã bớt nhiều rồi, chớ không thì
em về rước ông thầy dưới lên coi mạch và hốt thuốc cho mẹ." (CTKQ, tr 17)
- " Ông nói thằng Ba bị chị đuổi thì nó lên Sài Gòn xin vô dạy trường Vân Thô."
(TT, tr 142)
- " Nghe nói cháu đã có hứa ưng thằng Nhơn, sao bây giờ cháu nói như vậy?"
(TT, tr 237)
- " Ba có dắt con Phục ra trình diện nói rằng nó là em bạn dì, chồng bỏ mà lại có
chửa, không có nơi nương dựa nên đến xin cho nó ở đậu." (NĐ, tr 80)
- " Qua dặn trước em, hễ gặp cậu Hai, em phải làm mặt giận cho hung, em nói
em có chửa, em buộc cậu phải tính cho vuông tròn, không thôi thì kéo lưng cậu." (NĐ,
tr 82)
- " Cậu giỏi cậu đánh còn khá hơn." (NĐ, tr 82)
- " Thầy thấy cô Hai ngồi tại bàn rửa mặt, tóc đã bới vẻn vang, phấn đã dồi sắc
lẻm, chơn mày đã vẽ nhỏ rức, bây giờ cô đương cầm cây son mà thoa môi cô, thì thầy
châu mày, để cái nón trên bàn, rồi trở ra xe máy lấy cái cặp da mà ôm vô." (LTTM, tr
75)
- "Thày Phát hỏi thầy Phùng lên Sài Gòn chơi hay là có việc chi." (ĂTTƠTT, tr
165)
- " Ông nói cô biết hy sinh tình yêu, cùng với các sự vui sướng mà vùi thây trong
cực khổ mười mấy năm, cho người yêu được trọn thảo với mẹ già, cho con dại có một
đời sống vững chắc, đức hy sinh cao cả dường ấy sớm hay muộn cũng sẽ được đền
đáp, không mất đâu mà buồn." (HPLN, tr66)
- " Nghe nói bà Nội cậu càng lạt lẻo hơn.", " Cậu nói thầy chùa biết tu niệm chớ
không kể nối dòng." , ". Tôi nói tới gia tài thì cậu nói cậu hết mê trần tục, cậu đã dứt
nợ đời rồi." , " Cậu khuyên chị nếu không biết để gia tài cho ai ăn, thì phân phát cho
kẻ thiếu hụt, chị làm lành chị sẽ được phước báo." (IIPLN, tr 80)
- " Bà xã nói Càn xin để nó suy nghĩ một bữa rồi nó sẽ trả lời." (HPLN, tr 104)
- " Cô Thậm nói cha lên sớm dữ và hỏi con nấu nước chế một bình trà cho ông
ngoại uống, ông nói ở nhà nằm không thì buồn, bởi vậy sáng thức dậy ông biểu bà nấu
cơm sớm cho ông ăn đặng ông thả lên chơi coi bà chủ điền đi Sài Gòn bà về rồi hay
chưa và nếu có mợ Hai xuống nữa ông xin mợ đừng có xúi con cháu ông nói tầm bậy
mích lòng người lớn." (HPLN, tr 147)
- " Người ấy nói chồng tôi nổi danh tiểu thuyết gia, tiền bạc không thiếu gì, đã
bỏ nghề viết báo, trở về Cần Thơ gần một năm nay, bây giờ không viết tiểu thuyết mà
bán." (CK, tr73)
3. Dạng câu có nhiều nội dung diễn đạt cho đề
" Gia đinh với lính tráng chộn lộn không biết thuốc chi mà cứu, đứa chạy ra, đứa
chạy vào, đứa rót nước trà, đứa thoa dầu gió." (ALĐ, tr 26)
- " Lê Văn Đó đi chừng một canh, tứ bề vắng vẻ, một mình bơ vơ, giọt mưa sa,
ngọn gió tạt, đói thắt ruột, lạnh run xương, nhờ tức giận quên đói lạnh nên mới đi
được, mà đi lâu rồi bụng bắt đầu đói lại, mình bắt lạnh thêm, cặp mắt chóa lòa, tứ chi
bủn rủn, lỗ tai lùng bùng, té xỉu nằm vắt ngang quy bờ. " (NCGĐ), tr 43)
- " Anh ta mặc một cái áo đen nhún nhục, một cái quần vắn lai đứt tả tơi, đầu bịt
trùm một cái khăn rằn, miệng ngậm trầu một búng, tay mặt cầm một khúc cây cóc, tay
trái xách một xâu hai con cá lóc với ba bốn con cá rô." " (CCNN, tr 11)
"Cậu ngó tay con Quyên cầm kim rút chỉ, ngó bàn tay rồi ngó tới trên mặt: gò
má trắng mà lại no tròn, hàm răng đều mà lại khít rịt, mái tóc đen thui mà lại láng lẫy,
chơn mày không vẽ mà lại cong vòng." (CCNN, tr 114)
- " Những điền chủ ở các tỉnh, nhứt là ở miệt Tiền Giang, Hậu Giang, đua nhau
cất nhà tốt, sắm xe hơi, mua hội xoàn, chơi bài bạc, bành trướng điền địa, cho con đi
Tây, gây ra cuộc vui dầu tốn một hai không cần, được chúng bẩm dạ dầu hao đôi ba
muôn cũng chịu." (MĐTS, tr 25)
- " Chàng mang chứng bịnh buồn đây là vì thiếu khúc đường Catinat, thiếu chợ
Bến Thành, thiếu vòng Bà Chiểu rộn rực, thiếu gốc Lăng Tô im lìm, thiếu nhà xét
đánh bài, thiếu nhà hàng khiêu vũ, thiếu trường đua cá ngựa, thiếu sơn thủy dạo chơi,
nhứt là thiếu một chuyện quan hệ hơn hết là cô Jeanne, cặp mắt lóng lánh, hàm răng
khít rịt, miệng cười như hoa nở, khiêu vũ như tiên sa." (MĐTS, tr 84)
- " Thầy dạy đã không tính tiền công, mà lại còn sắm giường sắt, mùng lưới cho
học trò nằm, sắm một đôi bông hột xoàn cho học trò đeo, sắm một sợi đây chuyền,
sắm áo sắm quần, sắm giày sắm dép, không thiếu vật chi hết." (NĐ, tr 136)
-" Từ ngoài hàng rào trúc dựa lộ vô tới thêm nhà lá thì có một cái sân rộng lớn,
sân xẻ đường ngang đường dọc, dài theo mỗi đường trồng xoài mít xen lộn với nhau,
mà sau những hàng cây ấy lại cổ xây bồn trồng bông đủ màu, đủ thứ, nhờ sẳn nước
trong cái giếng ở góc rào, cất lên tưới mỗi ngày hai lần, nên dầu mùa nắng nóng bông
cũng thường tốt tươi." (TT, tr 152)
- " Tuy cô ăn mặc tầm thường, không giồi phấn, không thoa son, không cạo chơn
mày lông mặt, không đeo đồ nữ trang, tay trái chỉ đeo một chiếc vòng cẩm thạch, hai
lỗ tai chỉ đeo một đôi bông hỗ nhưng mà nước da cô trắng lại ửng hồng, gương mặt cô
tròn lại đề đạm, môi cô mỏng mà lại đỏ, mắt cô sáng mà lại nghiêm, hai bàn chân nhỏ
mà no vun, nên ai thấy cô thì cũng trầm trồ gái đẹp." (TGGT, tr 7)
- " Cô Oanh ở trong buồng bước ra, bữa nay cô mặc một bộ đồ thiệt tốt, tay cầm
mội cái bóp thiệt đẹp, chơn mang một đôi giày cũng thiệt mới." (BC, tr 35)
" Thầy Bình ra sau hết, thầy mặc một cái áo địa mình lương, với một cái quần
tây trắng Ống rộng, đầu đội nón nỉ xám, chân mang gày tây vàng, thầy đứng tại cửa
nhà hầu mà ngổ, M1ệng có ngậm điếu thuốc, tướng mạo đẹp đẽ mà lại nghiêm nghị."
(BV, tr 16)
" Thuở nay hễ thầy Hai Thanh có lại chơi thì ông Ba Chánh mời thầy vào phòng
riêng của ông mà đàm đạo, vì trong phòng chẳng những có giường sắt để ông ngủ, mà
lại cũng có đi văng cho ông nằm xem sách, có ghế xích đu cho ông nằm đọc báo, có
bàn cho ông ngồi uống'trà, có tủ cho ông đựng quần áo, có kệ cho ông cất sách báo, có
ghế để cho ông tiếp khách " (BV,tr 103)
- " Thiếm cậy người trong xóm dạy con tập đọc tập viết, hễ rảnh thì thiếm giảng
điều nên lẽ hư cho con nghe, chỉ tánh tốt tật xấu cho con thấy, cố tâm ung đúc cho con
có một tâm hồn thảo thuận ôn hòa, thẳng ngay thành thiệt, biết ơn nghĩa, chuộng
thanh cao, có ý làm cho con trở nên người đúng đắn, mà cũng mong gây đời hạnh
phúc sẳn cho con an hưởng." (HPLN, tr 11)
- " Đằng tiệm may trưa nay cô Hưởng cũng không nghĩ ngơi, cô nằm đọc đi đọc
lại mấy trương di ngôn của Đường, cầm tấm hình chụp của Đường mà nhìn, lấy tờ
khai sinh của Càn với bản sao án tòa mà đọc, càng nhìn càng đọc cô càng yêu Đường
vì chữ thảo mà hư hỏng cảnh đời có thể vui sướng tốt tươi, rồi cô càng giận cô dại dột
nên xui xị chịu thua hạnh phúc mới sụp đổ." (HPLN, tr 94)
- "Quan lớn thong thả mà tra xét coi người nào ở bên vườn tôi đi qua vườn Chí
Cao luôn hai đem trong lúc tôi đi Sài Gòn, hai đêm ấy là hai đêm nào, có ý gì mà qua
lại bên vườn Chí Cao như vậy, cái bóng qua lại mà người ta thấy đó, đờn ông hay đờn
bà, sự qua lại đó có can hệ chi đến sự Chí Cao bị đâm chết cách ít bữa sau hay
không." (CK, tr 124)
4. Dụng câu diễn đạt theo cách liệt kê
a/ " nào là..., một là..."
" Chí Đại lên tới Bạc Liêu thì thẳng vô tòa, đọc hết các việc gian của bà Phủ Cà
Mau cho quan Biện lý nghe, nào là tráo thuốc giết bà Phủ lớn mà giựt chồng, nào là ép
gá con ghẻ cho cháu mà đoạt của, nào giả thương yêu rước con ghẻ về mà làm hại,
nào là vu oan cho Trường Khanh với Băng Tâm đặng rảnh tay, nào là đè con ghẻ đổ
thuốc độc cho chết đi đặng có đoạt hết gia lài của Khiếu Nhặn." (ALĐ, tr 171)
- " Tuy vậy mà một là vì không có trăng, nên cây cỏ ngó lờ mờ, hai là vì đường
không quen nên nhắm chừng mà đi chớ không chắc ý, bởi vậy Lê Văn Đó đi lạc trong
đồng lấn quấn trở đi trở lại hoài, đi cho đến khuya trăng mọc rồi mới tìm được cái
chòi rách hồi chiều." (NCGĐ, tr 64)
- "Không lý muốn mà cũng không nên muốn như vậy:một lẽ là tuổi ông bằng hai
tuổi cô, cô đáng con ông, hai lẽ là ông già rồi, nếu ông có vợ nhỏ, trong ít năm ông
chết, ông bỏ vợ bơ vơ, còn như sanh con lại càng tội nghiệp hơn nữa, ba lẽ ông đã có
gây cuộc thấy gia một lần rồi, tại số mạng của ông phải cô độc, nên trời phật mới
khiến vợ con chết hết, bây giờ còn miễn cưỡng tính gây cuộc thất gia một lần nữa mà
làm chi, bốn lẽ là cô đương uất tình, đương khổ thân, chẳng khác nào người chơi vơi
giữa dòng sông, nếu không thế cứu vớt dùm tánh mạng cùng danh giá của cô được thì
thôi, chớ có lẽ nào lại thừa lúc cô nguy khốn mà dụ dỗ ép uổng." (TGGT, tr 58)
- " Người gặp cánh nguy, bước đường cùn rồi, không biết làm sao mà day trở,
túng thế phải thắt họng hay là cắn lưỡi, hay là uống thuốc độc, hay là nhào xuống
sông mà chết." (MĐTS, tr 95)
- " Ông năm nay đã 55 tuồi rồi, có bốn người con, người con lớn đương làm nghị
viên Hội đồng địa hạt trong Rạch Giá, người kế đó là cậu Hà Thiện Ý 22 tuổi, học bên
tây, mới thi đậu tú tài, còn hai người nhỏ là gái, một người 18 tuổi, một người 16 tuổi,
thôi học ở nhà mà chưa hứa gả cho ai." (MĐTS, tr 6)
- " Thiệt chỉ mất vợ chồng tôi không hay, chớ nếu tôi hay thì dầu xa xuôi cách
nào tôi cũng xuống đặng trước là lo chôn cất chỉ, sau đem cháu về nuôi, ai nở để nó
bơ vơ như vầy." (NĐ, tr 15)
b/" lúc thì…, bữa thì...,khi thì…"
- " Cô nằm trăn trở hoài, lúc thì buồn giọt châu lã chã, lúc thì giận gan ruột
phừng phừng, nằm đã thèm rồi ngồi dậy ăn trầu, làm như vậy cho đến gần sáng, vợ
chồng quan phủ đi du hồ về mà cô cũng chưa ngủ." (ALĐ, tr 28)
- "Ông dắt cô đi luôn mấy ngày đêm, bữa thì đi nhà hàng ăn cơm tây, bữa thì
mướn xe đi hứng gió, bữa thì coi hát bóng, bữa thì coi hát cải lương." (TGGT, tr 81)
-" Trong đường hẻm chỗ cô Đào ở, người ta rải rác thức dậy, nên căn thì con nít
ngồi sật sư trước thềm, căn thì kẻ lớn mở bét cửa quét nhà chộn rộn." (LTTM, tr 98)
- "Tan buổi hầu chiều, mấy thầy thông thầy ký trong tòa bố Cần Thơ kẻ trước
người sau lần lượt ra cửa mà về, già thì bịt khăn đen, trẻ thì đội nón, song người nào
cũng mặc áo dài, mang giày tây, nơi cánh tay lại có máng một cây dù đen hoặc trắng."
(BV, tr 16)
- " Một tay thì cầm con mắm sạt, còn một tay thì bốc cơm nguội, trên đầu trời
nắng, dưới chân lấm bùn, mà anh ta ăn cơm coi bộ ngon lắm." (CCNN, tr 25)
- " Ở chôn kinh thành gần một năm, sớm mơi hoặc đi dạo đường Catinat, hoặc đi
vòng chợ Bến Thành mà khoe giày khoe áo; buổi chiều ngồi xe hơi, khỉ chạy vòng Bà
Chiểu khi chạy qua Lăng Tô mà xem nữ tú nam thanh; ban đêm hoặc vô nhà xét hút á
phiện rồi đánh bài, hoặc ngồi nhà hàng uống sâm banh rồi khiêu vũ; chúa nhựt khi thì
đi trường đua đánh cá ngựa, khi thì ra Nước Ngọt hứng thanh phong." (MĐTS, tr 84)
- " Thiệt trong nhà chẳng có vật chi xứng đáng, phía trước ngay cửa thì có một
cái bàn viết bằng cây dầu với một cặp ghế bằng mây, dựa vách buồng thì lót một bộ
ván dầu nhỏ giá chừng năm đồng bạc, còn trong buồng thì chỉ có một cái giường cây
để ngủ." (TT, tr 95)
- " Thưa ông, cháu mơn ơn ông rất nhiều, mấy năm nay cháu làm buồn ông thì
cớ, chớ trả ơn cho ông thì chưa" (ALĐ, tr 100)
- " Hoàng Kiết vô coi vừa ý, bèn giao cho Cao kiến lo sắp đặt trong ngoài, trong
thì dọn có chỗ ngồi uống rượu, có chỗ để nhảy đầm, ghế bàn đặt đóng theo kiểu kim
thời, vách cửa mướn vẽ bông hoa thiệt khéo, còn ngoài thì xẽ thêm đường, mua thêm
kiểng, để cho khách hữu tình cặp nhau đi hứng mát, gái mĩm cười dưới bóng đèn chấp
chóa, trai say tình bên nhành mận sum sê." (MĐTS, tr 76)
- " Bạch yến về rồi, Tất Đắc cứ đi qua đi lại trước hàng ba, mắt ngó xuống gạch,
một tay thì thọc trong túi quần, còn một tay thì gãi đầu suy nghĩ. (TH, tr 151)
- " Bẩm quan lớn ngoài chợ người ta bàn việc nay hung lắm, đi chỗ nào cũng
nghe họ nói; mà người thì đỗ cho mạng Chí Cao phải chết như vậy, kẻ thì nói tại Chí
Cao ăn ở làm sao đó nên mới phải bị đâm, chớ họ không có nói đến đứa sát nhơn, họ
không có ý nghi cho ai làm việc làn ác đó. " (CK, tr 67)
5. Dạng câu diễn đạt ý nghĩa theo hướng đối lập
* " này... nọ, kia…ấy,..."
- " Con Quyên chịu ở với bà bữa trước, thì bữa sau bà mua cho nó một đôi bông
tai nhỏ, một cái lược cài, một cái khăn lụa màu bông hường." (CCNN, tr 87)
- " Còn ông thì ông nói việc nầy, hỏi việc nọ không dứt, coi bộ như ông vui mà
có một người khách ăn cơm với ông." (TGGT, tr 43)
- " Bà bổn tánh thuần hậu, vui vẻ, nên ai cũng thương, ngặt bà có một tật là lẻo
mép, chuyện đầu nầy bà hay đem nói đầu kìa mà thôi." ( ALĐ, tr 113)
- " Người nầy nói với người kia, người kia nói với người nọ, đến chiều cả chợ
An Giang, từ già chí trẻ, ai cũng đều hay việc Thủ Nghĩa là Chúa tàu hết thảy."
(CTKQ, tr 191)
- “Nhiều người họ nói một đường, họ làm một ngã, họ ăn bữa trước, họ quên bữa
sau” (TGGT, tr 13)
- “Bà nói ở đây sửa đặng hễ cái nào rồi ông bận thử liền cái nấy coi như chưa
vừa thì sửa lại nữa, chứ đem về tiệm rồi nhắm chừng mà sửa, sợ e không
vừa.”(TGGT, tr 36)
- "Ba tôi nói mình làm việc nhà nước, nay đổi chỗ này, mai dời chỗ nợ, sắm cửa
nhà rồi đổi đi biết bỏ cho ai, nếu cho mướn thì họ ở hư hết, vì vậy mà Ba tôi không
chịu mua." ( TGGT, tr 145)
- “Cô Xuân Hương cầm bức thư đọc đi đọc lại đôi ba lần, đọc chừng nào cô lại
buồn chừng nấy:” (MĐTS, tr 103)
- " Con Quyên chịu ở với bà bữa trước, thì bữa sau bà mua cho nó một đôi bông
tai nhỏ, một cái lược cài, một cái khăn lụa màu bông hường." (CCNN, tr-87)
- " Chiều bữa trước quan Chủ quận sai một chú cai giải tên quận xuống tòa và
nạp tờ phúc bẩm với hồ sơ về vụ án mạng cho quan Biện Lý, thì sáng bữa sau mới
tảng sáng, ngài còn nằm nghỉ trong mùng, thình lình bà lớn vô phòng kêu ngài thức
dậy và nói có bà Huyện Hàm Tân đến xin tỏ cho ngài biết một việc cần kíp mà lại
quan hệ lắm." (CK, tr 92)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Văn Ai, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Khai,1994, Từ điển phương ngữ
Nam Bộ, Nxb Tp. HCM.
2.Diệp Quang Ban, 1981, Bàn về khởi ngữ (hay chả thể) trong tiếng Việt, Nxb
ĐH&THCN, Hà Nội.
3.Diệp Quang Ban, 1983, Bổ ngữ chả thể-một thuật ngữ cần thiết cho việc phân
tích ngữ pháp tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, số 4.
4.Diệp Quang Ban, 1996, Ngữ pháp tiếng Việt, Tập l,2, Nxb GD.
5.Diệp Quang Ban, 1998, Văn bản và liên kết trong văn bần, NxbGD.
6.Diệp Quang Ban,1998, Một số vấn đề về câu tồn tại trong tiếng Việt, Nxb GD.
7.Diệp Quang Ban, 1999, "Hai giai đoạn ngữ pháp văn bản và tên gọi phân tích
diễn ngôn" T/c Ngôn ngữ ,số 2.
8.Võ Bình, Lê Anh Hiền, 1983, Phong cách thực hành tiếng Việt,Nxb ĐH &
THCN, Hà Nội.
9.Nguyễn Phan Cảnh, 1987, Ngôn ngữ thơ, Nxb ĐH & THCN, HàNội.
10.Nguyễn Tài cẩn,1996. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
11.Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung,1983,Giáo trình
ngữ pháp tiếng Việt, Tập 1, 2, Nxb GD.
12.Cha le, Wallace L , ý nghĩa và cấu trúc cửa ngôn ngữ, bản dịch của Nguyễn
Văn Lai,1998, Nxb GD.
13.Đỗ Hữu Châu, 1981, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb ĐH &THCN, Hà
Nội.
14.Đỗ Hữu Châu, 1993, Đại cương về ngôn ngữ học, Nxb GD.
15.Đỗ Hữu Châu, 1994, Ngữ pháp văn bản, Nxb GD .
16.Đỗ Hữu Châu, 1995, Giản yếu về ngữ dụng học. Đại học Huế.
17.Đỗ Hữu Châu, Cao Xuân Hạo, 1997, Tiếng Việt lớp 12 ban KHXH, Nxb GD.
18.Đỗ Hữu Châu, 1997, Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà
Nội.
19.Đỗ Hữu Châu, 1998, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb GD.
20.Hoàng Thị Châu, 1989, Tiếng Việt trên các M1ền đất nước, Nxb KHXH, Hà
Nội.
21.Việt Chương, Từ điển thành ngữ tục ngữ-ca dao Việt Nam, quyển thượng, hạ,
Nxb Đồng Nai, 1998.
22.Hồng Dân, 1973, Hiện tượng tách từ, T/c Văn nghệ, số 23.
23.Nguyễn Đức Dân,1973, Các cấu trúc mơ hồ trong tiếng Việt, Nxb
ĐH&THCN, Hà Nội.
24.Nguyễn Đức Dân,1996, Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ, T/c Ngôn ngữ, số 3.
25.Nguyễn Đức Dân, 1996, Lô gích và tiếng Việt, Nxb GD.
26.Nguyễn Đức Dân, 1998, Ngữ dụng học, Nxb GD .
27.Nguyễn Đức Dân,1999, Sơ lược về lí thuyết tam thoại, T/c Ngôn ngữ, số 3.
28.Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào, 1993, Từ điển thành ngữ-tục ngữ
Việt Nam, Nxb GD.
29.Hoàng Dũng, 1999, Bàn thêm về vấn đề nhận diện từ láy tiếngViệt, T/c Ngôn
ngữ, số 2..
30.Hữu Đạt, 1980, Nghĩa vù hình tượng của từ, T/c Văn nghệ, số 45.
31.Đinh Văn Đức, 1986, Ngữ pháp tiếng Việt (Từ loại), Nxb ĐI1&THCN, Hà
Nội.
32.Nguyễn Công Đức, 1994, về kết cấu song tiết láy âm trong tiếng Việt hiện
đại, T/c Ngôn ngữ , số 4.
33.Galperin, LR. , Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ học, bản
dịch của Hoàng Lộc, 1987, Nxb KHXH, Hà Nội.
34.Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị, 1984, Ca
dao, dân ca Nam bộ, Nxb Tp. HCM.
35.Bằng Giang, 1998, Vãn học quốc ngữ ở Nam Kỳ Ỉ865-1930, Nxb Trẻ.
36.Nguyễn Thiện Giáp, 1978, Từ vựng tiếng Việt, Nxb ĐH&THCN,Hà Nội.
37.Nguyễn Thiện Giáp, 1996, Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb GD.
38.Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, 1997, Dẫn
luận ngân ngữ học, Nxb GD.
39.Nguyễn Thiện Giáp,2000, Nghiên cứu một vài khá? niệm mới trong ngôn ngữ
học, nhớ lại những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, T/c Ngôn ngữ, số 6.
40.Nguyễn Thị Hai, 2001, Hành động từ chối trong tiếng Việt hội thoại, T/c
Ngôn ngữ ,số 1.
41.Hoàng Văn Hành, 1985, Từ láy trong Tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.
42.Hoàng Văn Hành, 1998, Kể chuyên thành ngữ tục ngữ, Tập 1,2, NxbKHXH,
Hà Nội.
43.Cao Xuân Hạo, Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tất Tươm, 1982,
Câu trong tiếng Việt, cấu trúc-nghĩa-công dụng, NxbGD.
44.Cao Xuân Hạo, 1988, Hai vấn đề âm vị học trong phương ngữ Nam Bộ, T/c
Ngôn ngữ , số 1.
45.Cao Xuân Hạo, 1991, Tiếng Vìệt-Sơ thảo ngữ pháp chức năng quyển 1, Viện
KHXH tại Tp HCM.
46.Cao Xuân Hạo, 1999, Nghĩa của loại từ, T/c Ngôn ngữ ,số2,3.
47.Phi Tuyết Hình, 1983, Từ láy và biểu trưng ngữ âm, T/c Ngôn ngữ, số 3.
48.Nguyễn Thái Hòa, 1997, Dãn luận phong cách học, Nxb GD .
49.Nguyễn Thái Hòa, 1997, Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp, Nxb
KHXH.
50.Phan Khôi, 1997, Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Đà Nẵng.
51.Nguyễn Khuê, 1998, Chân dung Hồ Biểu Chánh, Nxb VN Tp. HCM.
52.Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa, 1993, Phong cách học tiếng Việt, Nxb
GD.
53.Đinh Trọng Lạc, 1994, Phong cách học văn bản, Nxb GD.
54.Dinh Trọng Lạc, Bùi Công cẩn, 2000, Trường cứ trong tiếng Việt, T/c Ngôn
ngữ, số 6.
55.Nguyễn Lai, 1996, Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học,NxbGD.
56.Nguyễn Lai, Nguyễn Văn Chính, 1999, Mật vài suy nghĩ về từ hư từ góc
nhìn ngữ dụng học, T/c Ngôn ngữ , số 5.
57.Trần Thị Ngọc Lang, 1992, Vài điểm khác biệt về ngữ pháp của phương ngữ
Nam Bộ so với phương ngữ Bắc Bộ trong " Tiếng Việt và các ngôi! ngữ dân tộc phía
Nam" Nxb KHXH.
58: Trần Thị Ngọc Lang, 1995, Phương ngữ Nam Bộ, Nxb KHXH.
59.Trần Thị Ngọc Lang, 2002, Vài điểm khác biệt về ngữ pháp của phương ngữ
Nam Bộ so với phương ngữ Bắc Bộ, T/c Ngôn ngữ, số 2.
60.Thanh Lãng, Đông Hồ, Thiếu Sơn, 1967, " Hồ Biểu Chánh", "Hồ Biểu Chánh
nhà vãn bạch thoại M1ền Nam", "Nhớ Hồ Biểu Chánh", T/c Văn số 80, Sàigòn.
61.Lưu Vân Lăng, 1988, Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà
Nội.
62.Nguyễn Lân, 1993. Từ điển thành ngữ, tục ngự Việt Nam, Nxb KHXH, Hà
Nội.
63.Hồ Lê, 1976, vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiền đại, Nxb KHXH, Hà Nội
64.Hồ Lê, 1992, Phương ngữ Nam Bộ trong văn hóa dân gian người Việt ở Nam
Bộ, Nxb KHXH, Hà Nội.
65.Hồ Lê, 1991,- 1992, 1993, Cú pháp tiếng Việt. Tập 1,2,3, Nxb KHXH, Hà
Nội.
66.Hồ Lê, 1996, Quy luật ngôn ngữ, Tập 1,2, Nxb KHXH.
67.Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, 1978, Thành ngữ tiếng Việt, Nxb KHXH. Hà
Nội.
68.Lê Văn Lý, 1972, Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, Trung tâm học liệu, BGD Sài
Gòn.
69.Lyons, John, Nhập mon ngôn ngữ học lý thuyết, bản dịch của Vương Hữu Lễ
,1996, Nxb GD.
70.Moskalskaja O.I., Ngữ pháp văn bản, bản dịch của Trần Ngọc Thêm, 1996,
Nxb GD
71.Sơn Nam, Đổng bằng Cửu Long nét sinh hoạt xưa, Nxb Tp.HCM, 1985.
72.Nguyễn Thị Thanh Nga, 1999, Ý nghĩa và tác dụng của phương thức láy
trong khẩu ngữ, T/c Ngôn ngữ , số 1.
73.Nguyễn Thị Thanh Nga, 1999, Từ vay mượn mang phong cách khẩu ngữ,
T/c Ngôn ngữ, số 3.
74.Phan Ngọc, Phạm Đức Dương, 1993, Tiếp xúc các ngôn ngữ ở Đông Nam Á,
Viện Đông Nam Á .
75.Phan Ngọc, 1994, Vãn hóa Việt Nam và cách riếp cận mới, Nxb - VHTT.
76.Bùi Mạnh Nhị, 1984, Một số đặc điểm ngôn ngữ ca dao dân ca
Nam Bộ, T/c Ngôn ngữ, số 1.
77.Đái Xuân Ninh, 1978, Hoạt động của từ tiếng Việt, Nxb KHXRHà Nội.
78.Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quans. Vương Toàn, 1984, 1986,
Ngôn ngữ học khuynh hướng, lĩnh xực, khái niệm, Tập 1,2 , Nxb KHXH, Hà Nội.
79.Nunan David ,Dẫn nhập phân tích diễn ngôn .bản dịch của Hồ Mỹ Huyền,
Trúc Thanh, 1998, Nxb GD.
80.Vũ Ngọc Phan, 1960, Nhà văn hiện đại, Nxb Thăng Long, Sàigòn.
81.Vũ Ngọc Phan, 1998, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
82.Hoàng Phê, 1989, Lôgíc ngôn ngữ học, Nxb KHXH.
83.Hoàng Phê (chủ biên), 1994, Từ điển tiếng Việt, Nxb GD.
84. Hoàng Phê (chủ biên), 1995, Từ điển chính tả , Nxb Đà Nang.
85.Nguyễn Thị Quy, 1995, Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của nó,
Nxb KHXH.
86.Nguyễn Hữu Quỳnh, 1994, Tiếng Việt hiện đại, Trung tâm biên soạn từ điển
bách khoa VN, Hà Nội.
87.Saussure F.De., Giáo trình ngôn ngữ học đại cươngỌoản dịch), 1973, Nxb
KHXH, Hà Nội.
88.Trịnh Sâm, 1986, về một hiện tượng láy trong phương ngữ M1ền Nam, trong
"Mấy vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông", Viện ngôn ngữ học .
89.Trịnh Sâm, 1998, Tiêu đề văn bản, Nxb GD .
90.Trịnh Sâm, 1998, về cơ chế ngữ nghĩa tâm lí trong tổ hợp song tiết chính phụ
tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ ,số 2.
91.Vương Hồng Sến, 1993, Tự vị tiếng Việt Miền Nam, Nxb Văn hóa.
92.Doãn Quốc Sỹ, Đoàn Quốc Bửu, 1970, Lược khảo về ngữ pháp Việt Nam,
Trường sư phạm Sài Gòn.
93.Trần Hữu Tá, 1998, Vấn học lớp 1, Tập 1, Nxb GD.
94: Lê Xuân Thại, 1999, Tiếng Việt trong nhà trường, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
95.Nguyễn Kim Thản, 1977, Động từ trong tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.
96.Nguyễn Kim Thản, 1997. Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb.GD.
97.Bùi Khánh Thế, 1995,-Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb GD.
98.Trần Ngọc Thêm, 1982, Chuỗi bất thường về nghĩa và hoạt động của chúng
trong văn bản, T/c Ngôn ngữ ,số 3.
99.Trần Ngọc Thêm, 1985, Hệ thống liên kết vãn bản trong tiếng Việt, Nxb
KHXH, Hà Nội.
100. Trần Ngọc Thêm, Trịnh Sâm, 1989, Hỏi đáp về ngữ pháp văn bản, Trường
CĐSP TP HCM .
101. Trần Ngọc Thêm, 1997, Tun về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp.HCM
102.Lê Quang Thiêm, 1989, Nghiên cứu, đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb
ĐH&THCN, Hà Nội.
103.Huê Thiên, 1999, Thử đì tìm nguồn gốc của dạng " láy ba", T/c Ngôn ngữ
,số 3.
104.Đoàn Thiện Thuật, 1980, Ngữ âm tiếng Việt, Nxb ĐH & THCN, Hà Nội.
105.Nguyễn Minh Thuyết,1996, Tiếng Việt thực hành, Nxb GD.
106.Phạm Văn Tinh, 1999. về khái niệm tỉnh lược, T/c Ngôn ngữ; số 9.
107.Bùi Đức Tịnh, 1972, Vãn phạm Việt Nam, Trung tâm học liệu BGD Sài
Gòn.
108.Hoàng Trinh, 1997, Từ kí hiệu học đến thi phấp học, Nxb Đà Nang.
109.Lê Đức Trọng, 1993, Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Tp.
HCM.
110. Nguyễn Nguyên Trứ, 1988-1989, Đề cương bài giảng phong cách học ,
Khoa ngữ văn, ĐHTH Tp. HCM.
111. Nguyễn Nguyên Trứ, 1989, Một số vấn đề về ngôn ngữ học Việt Nam, Nxb
ĐH&THCN, Hà Nội.
112.Cù Đình Tú, 1988, Phơn? cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb ĐH &
THCN,Hà Nội.
113.Hoàng Tuệ,1996, Bàn về vai trò văn hóa-xã hội của tiếng địa phương, trong
" Ngôn ngữ và đời sống văn hóa xã hội, Nxb GD.
114.Tầm Vu, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Ý, 1988, Địa chí thành phố Hồ
Chí Minh, Nxb Tp.HCM.
115.Lê Anh Xuân, 2001, Trả lời dưới dạng câu nghi vấn để thực hiện hành vi
khẳng định một cách gián tiếp, T/c Ngôn ngữ , số 2.
116.Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành, 1994, Từ điển giải
thích thành ngữ gốc Hán, Nxb Văn hóa.
117.Nguyễn Như Ý, Hà Quana Năng, Đặng Ngọc Lệ, 1996, Từ điển giải thích
thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb GD.
118.Nguyễn Như-Ý,"Đặng Ngọc Lệ, Phan Xuân Thành, 1999, Từ điển đối chiếu
từ địa phương, Nxb GD.
119.Trung tâm ngữ văn, 1997, Mấy vấn đề về ngôn ngữ học và văn học, Nxb
KHXH, Hà Nội.
120.Viện ngôn ngữ học,UBKHXH, 1986, Những vấn đề ngôn ngữ học về các
ngôn ngữ phương đông, Hà Nội.
121.Viện ngôn ngữ học, 1993, Từ điển thành ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa.
122.UBKHXH , 1983, Ngữ pháp tiếng Việt, Hà Nội.