ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM VŨ THỊ PHỤNG

DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN VỀ THỜI CHỐNG PHÁP TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN - 2015

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM VŨ THỊ PHỤNG

DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN VỀ THỜI CHỐNG PHÁP TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI Chuyên ngành: Lí luận và phƣơng pháp dạy học Văn - Tiếng Việt Mã số: 60 14 01 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG HỮU BỘI

THÁI NGUYÊN - 2015

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất

cứ công trình nào khác.

Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2015

Tác giả luận văn

Vũ Thị Phụng

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn i

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp cuối khóa, em

đã được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa

Sau Đại học, Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, đặc biệt là

sự hướng dẫn tận tình, chu đáo và chỉ bảo những kiến thức về chuyên môn thiết

thực, những chỉ dẫn khoa học quí báu của TS. Hoàng Hữu Bội.

Em xin chân thành cảm ơn quí thầy cô và bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ

nhiệt tình, vô tư về điều kiện vật chất, tinh thần và những kinh nghiệm làm

khoa học giúp em hoàn thành luận văn này.

Do điều kiện thời gian và năng lực của bản thân có hạn nên luận văn

không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em kính mong sự lượng thứ và đóng

góp ý kiến của các thầy cô và các bạn.

Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2015

Tác giả luận văn

Vũ Thị Phụng

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 7

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 7

5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 8

6. Cấu trúc luận văn ......................................................................................... 8

Chƣơng 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA

VIỆC DẠY HỌC TRUYỆN THỜI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC .................. 9

1.1. Cơ sở lí luận .............................................................................................. 9

1.1.1. Một số khái niệm mở đầu ................................................................... 9

1.1.2. Đặc điểm truyện thời kì kháng chiến chống Pháp ............................ 12

1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài ........................................................................ 30

1.2.1. Truyện thời kì kháng chiến chống Pháp trong chương trình và

sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học ..................................................... 30

1.2.2. Giáo viên với việc dạy học truyện thời kì kháng chiến chống Pháp ..... 31

1.2.3. Học sinh với việc học truyện thời kì kháng chiến chống Pháp ........ 33

Chƣơng 2: ĐỊNH HƢỚNG VỀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC

TÁC PHẨM TRUYỆN THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN CẤP TRUNG HỌC................. 35

2.1. Định hướng chung về phương pháp dạy học các tác phẩm truyện

theo thể loại .................................................................................................... 35

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii

2.1.1. Ý kiến của tác giả Trần Thanh Đạm ................................................. 35

2.1.2. Ý kiến của tác giả Nguyễn Viết Chữ ................................................ 39

2.1.3. Ý kiến của tác giả luận văn ............................................................... 41

2.2. Định hướng riêng cho từng tác phẩm...................................................... 55

2.2.1. Định hướng dạy học truyện ngắn Làng của Kim Lân ...................... 55

2.2.2. Định hướng dạy học truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài .... 65

Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ...................................................... 81

3.1. Thiết kế dạy học tác phẩm truyện “Vợ chồng A Phủ” ........................... 81

3.2. Dạy thực nghiệm ..................................................................................... 90

3.2.1. Mục đích ........................................................................................... 90

3.3.2. Đối tượng thực nghiệm ..................................................................... 90

3.3.3. Kế hoạch thực nghiệm ...................................................................... 90

3.3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm .......................................................... 91

3.3.5. Kết luận chung về thực nghiệm ........................................................ 95

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 99

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1.Lí do lí thuyết

Truyện viết về thời kì kháng chiến chống Pháp đã được lựa chọn vào

chương trình sách giáo khoa Ngữ văn từ lâu và được sắp xếp ở các cấp học:

Trung học cơ sở và Trung học phổ thông.

Từ lâu nhiều người dạy văn ở trường phổ thông và ở bậc đại học đã có

những đề xuất về phương pháp dạy học truyện viết về thời kháng chiến chống

Pháp nhưng cũng chỉ là phương pháp dạy học chung cho từng thể loại chứ chưa

có nhiều công trình nghiên cứu viết về truyện thời kháng chiến chống Pháp trong

nhà trường phổ thông để đưa ra một định hướng về phương pháp dạy học cụ thể.

Bởi vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn có được

một đóng góp nhỏ bé vào định hướng việc dạy học các tác phẩm truyện thời

chống Pháp theo đặc trưng thể loại.

1.2. Lí do thực tiễn

Truyện về thời chống Pháp phản ánh hiện thực cuộc sống kháng chiến

của nhân dân tộc ta trong 9 năm trường kỳ kháng chiến (1946 - 1954). Tuy

nhiên trong quá trình dạy học cả giáo viên và học sinh không phải không gặp

những khó khăn, trở ngại bởi vì tuy thời kì kháng chiến chống Pháp là một giai

đoạn lịch sử chưa xa nhưng với một số giáo viên và học sinh ngày nay chưa có

những hiểu biết đầy đủ và sâu sắc nên có nhiều khó khăn, sai sót trong việc tiếp

cận tác phẩm.

Các tác phẩm truyện viết về thời chống Pháp đã được đưa vào sách giáo

khoa trung học. Tuy nhiên trong quá trình dạy học cả giáo viên và học sinh

không phải không gặp những khó khăn, trở ngại trong việc thực thi đổi mới

phương pháp dạy học. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài này với hi vọng khắc phục

những khó khăn, trở ngại trong dạy và học, nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy

trong nhà trường.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 1

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những công trình nghiên cứu truyện viết về thời chống Pháp

Truyện về thời chống Pháp là một trong những chặng đường phát triển

mới của truyện Việt Nam hiện đại. Chặng đường này, truyện đã kịp ghi lại hình

ảnh cả dân tộc đang trỗi dậy trong không khí sôi sục của những ngày toàn dân

kháng chiến. Bởi vậy, đã có nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại

quan tâm tới truyện thời kì này.

* Cuốn “Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại tập II, từ sau Cách

mạng tháng Tám 1945” (Do Nguyễn Văn Long chủ biên, Nhà xuất bản Đại

học Sư phạm 2010) là một cuốn chuyên luận để dạy phần lịch sử Văn học Việt

Nam hiện đại ở các trường Đại học. Ở chương VI, phần nói về thời kì đầu cách

mạng và kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, tác giả Nguyễn Văn Long đã

viết những nội dung sau:

1. Tình hình sáng tác các thể truyện, kí

2. Những đặc điểm

Phản ánh đời sống xã hội- lịch sử và hướng vào thể hiện quần chúng

nhân dân đã đưa tới những biến đổi đáng kể trong xây dưng nhân vật và thi

pháp thể loại của truyện kí kháng chiến.

a. Con người được thể hiện trước hết ở tư cách công dân, ở phương diện

con người chính trị, được đặt giữa dòng chảy lịch sử và những biến cố của đời

sống xã hội...Con người của gia đình, gia tộc, của làng xóm đã trở thành con

người của cách mạng, của kháng chiến [21, tr.158- 159]

b. Văn xuôi kháng chiến cũng đã có những biến đổi khá rõ về hình thức, thể

loại, về phương thức trần thuật, về giọng điệu và ngôn ngữ, tạo nên những đặc

điểm của thi pháp thể loại tự sự trong giai đoạn văn học này [21, tr.159-160].

. Quan điểm trần thuật: Đó là sự xích gần lại và tiến tới hòa nhập giữa

quan điểm trần thuật của tác giả - người trần thuật và nhân vật quần chúng

. Các tác phẩm truyện và tiểu thuyết đậm đặc các chi tiết, sự kiện của đời

sống xã hội và được trình bày theo tiến trình thời gian. Phương thức trần thuật

thiên về thuật, kể sự kiện.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 2

. Nhân vật được thể hiện ra chủ yếu ở hành động, việc làm chứ chưa đi

sâu thể hiện thế giới bên trong.

. Cốt truyện ít cốt truyện tâm lí mà nếu có chỉ khai thác những nét tâm lí

gắn với cộng đồng.

Như vậy, tác giả Nguyễn Văn Long đã khái quát những đặc điểm về giá

trị nội dung của truyện viết về thời kì kháng chiến chống Pháp (1945-1954): về

tâm tư thời đại “những tình cảm cộng đồng rộng lớn và những biến cố của đời

sống lịch sử”, về nhân vật trung tâm trong tác phẩm truyện “con người của

cách mạng, của kháng chiến, họ sống cùng một nhịp với cả dân tộc”. Về giá trị

nghệ thuật, tác giả nhấn mạnh vào những biến đổi khá rõ về hình thức thể loại,

về phương thức trần thuật về giọng điệu và ngôn ngữ.

* Cuốn “Văn học Việt Nam (1945-1954)” (Tác giả Mã Giang Lân, Nhà

xuất bản Giáo dục, 1998) là một cuốn sách chuyên nghiên cứu về văn học Việt

Nam giai đoạn 1945-1954. Cuốn sách gồm hai phần. Phần I: Văn học Việt Nam

đầu cách mạng, phần II: Văn học Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp

(1946-1954). Trong phần II, chương 2: Truyện và ký, tác giả Mã Giang Lân

viết về các nội dung sau:

I. Xu hướng tiếp cận cuộc sống

Nhà văn chỉ có thể tiếp cận cuộc sống và khám phá hiện thực mới, khi đã

thay đổi “đôi mắt’, có đôi mắt của nhân dân; và từ đó nhìn vào kháng chiến sẽ

nhận ra bao điều mới mẻ. Quả thật truyện những năm kháng chiến đã phát

hiện ra vẻ đẹp của nhiều gương mặt bộ đội, cán bộ, người nông dân, công nhân

ở khắp nơi, trên mọi mặt trận. [19, tr.114]

II. Nhân vật trung tâm của truyện ký

Nhân vật trung tâm của truyện ký giai đoạn 1946- 1954 là con người

mới, là con người cầm vũ khí trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm...Con

người mới phát triển kết hợp được hai mặt: hành động và suy nghĩ. Họ quan

niệm được hạnh phúc và nghĩa vụ, cái mất và cái còn, sự hi sinh và thắng lợi.

[19, tr.129].

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 3

III. Thể loại

Song song với sự phát triển và thành công của ký là truyện ngắn...Ở đây

chúng ta gặp một hiện tượng là có truyện ngắn còn lẫn nhiều chất ký, chất chủ

quan, ghi chép, miêu tả; việc khắc họa nhân vật, độ sâu tâm lí nhân vật chưa

được chú ý...đội ngũ viết truyện ngắn được bổ xung có thêm Hồ Phương,

Nguyễn Khải, Minh Lộc, Nguyễn Đình Thi...Tiểu thuyết so với ký và truyện

ngắn xuất hiện dè dặt hơn...tiểu thuyết kháng chiến chống Pháp chỉ nên coi là

những khúc dạo đầu, những phác thảo cần thiết để tạo đà phát triển cho tiểu

thuyết đích thực sau này. [19, tr.145]

* Cuốn “Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1945-1954)”

(Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội,

1986) là một cuốn sách nghiên cứu khá sâu về Văn học Việt Nam kháng chiến

chống Pháp (1945-1954). Cuốn sách gồm bốn phần: phần 1: Lý luận, phê bình

văn học; phần 2: Văn xuôi; phần 3: Thơ ca; phần 4: Các thể loại sân khấu.

Trong phần 2 đề cập tới ba vấn đề lớn:

Chương I: Bối cảnh và tiến trình. Tác giả- tác phẩm.

“Thời kì 1945-1954 gắn với hai sự kiện vĩ đại: Cách mạng tháng Tám và

cuộc kháng chiến chống Pháp mười năm....Do vậy nhìn trên toàn cục, mười

năm mở đầu của văn xuôi, chủ đề Cách mạng và Kháng chiến trở thành một

nội dung chung, chan hòa, xen cài...Diễn ra cuộc tập hợp đội ngũ rất nhanh

trước hết là những tác giả hiện thực như Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nam Cao,

Kim Lân...Bước vào buổi đầu những năm 50, văn xuôi dần dần xuất hiện

những sáng tác có bề rộng bao quát và chiều sâu khái quát nhất định đời sống

kháng chiến của dân tộc...Xung kích (1951) của Nguyễn Đình Thi là thiên

truyện kí đầu tiên thành công về anh bộ đội trong các chiến dịch lớn- chiến

dịch Trung du, đánh về đồng bằng...Trong các sáng tác về nông thôn chiến

đấu, Con trâu (1953) của Nguyễn Văn Bổng viết từ chiến trường Liên khu

Năm, có một vị trí nhất định...Làm nghề thợ, sống và viết cùng người thợ, qua

Vùng mỏ, Võ Huy Tâm đã góp cho ta hình dung về giai cấp công nhân Việt

Nam trong một hoàn cảnh đặc thù...” [22, tr.73-74]

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 4

Chương II: Nhân vật trung tâm của văn xuôi: con đường tìm kiếm và

nhận diện.

“Người nông dân vẫn là một đối tượng quan trọng, đứng ở hàng đầu sự

chú ý của văn xuôi sau 1954 [22, tr.102] .Không phải đến 1945, gương mặt

người cán bộ cách mạng, người chiến sĩ cộng sản mới xuất hiện trong văn xuôi.

Nhưng phải đến 1945, văn xuôi mới có hoàn cảnh khắc họa trên diện rộng hình

ảnh người cách mạng [22, tr.105].Bức tranh kháng chiến, với nhân vật trung

tâm là người lính, từ sau 1950, dần dần đậm nét hơn. Cùng với sự mở rộng

diện phản ánh: các vùng nông thôn tự do và địch hậu, các vùng giáp ranh của

ta và địch xen cài, miền núi Việt Bắc, Tây Bắc,vùng mỏ...thế giới nhân vật văn

xuôi dần dần đông đảo. Đó là hình ảnh một cuộc kháng chiến toàn dân, một

cuộc chiến tranh nhân dân” [22, tr.115-116]

Chương III: Ngôn ngữ - Thể loại

“Trở lại phong cách đại chúng của ngôn ngữ đã nói ở phần trên, nhằm

sao cho câu văn thật giản dị, dễ hiểu, cần bổ xung thêm ở đây, về một phía khác,

là phong cách hiện thực, nhằm sao câu văn áp sát, ôm khít, lột tả được sự sinh

động, chuyển động của đời thực...Có điều cần lưu ý hoàn cảnh kháng chiến căng

thẳng, thiếu thốn nhiều mặt, trình độ của công chúng không có yêu cầu viết dài,

những giá trị mà văn xuôi đã giành được trước hết là thuộc về văn báo chí, và

các thể văn ngắn, trong đó truyện ngắn sớm dành được ưu thế trội” [22, tr.132].

* Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12, tập I- Bộ cơ bản (Nhà xuất bản Giáo

dục, 2008), đã có những nhận định về văn xuôi kháng chiến chống thực dân

Pháp nói chung như sau: “Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và

kháng chiến; hướng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của quần chúng; thể hiện

niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.

Truyện ngắn và kí là những thể loại mở đầu cho văn xuôi kháng chiến chống

thực dân Pháp. Kí sự Một lần đến thủ đô, Trận Phố Ràng của Trần Đăng,

truyện ngắn Đôi mắt và Nhật kí Ở rừng của Nam Cao, truyện ngắn Làng của

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 5

Kim Lân, Thư nhà của Hồ Phương...là những tác phẩm tiêu biểu. Từ năm 1950,

đã bắt đầu xuất hiện những tập truyện , kí dày dặn. Đáng chú ý là các tác phẩm

được tặng giải thưởng truyện- kí của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1951-1952:

Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Con trâu của

Nguyễn Văn Bổng, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng và các tác phẩm

được tặng giải nhất trong giải thưởng truyện - kí năm 1954-1955: Đất nước

đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.” [3, tr.5].

Văn xuôi nói chung và truyện nói riêng viết về thời kì kháng chiến chống

Pháp đã được nhiều nhà nghiên cứu trăn trở, tìm hiểu để khẳng định giá trị. Các

công trình nghiên cứu đó đã đóng góp những kiến thức bổ ích, quý báu giúp

người thực hiện luận văn về truyện viết về thời kì kháng chiến chống Pháp

trong sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học.

2.2. Những tài liệu nghiên cứu về dạy truyện thời chống Pháp

* Sách giáo viên:

- Bộ sách giáo viên Ngữ văn bậc THCS (Tác giả Nguyễn Khắc Phi tổng

chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006)

- Sách giáo viên Ngữ Văn 12, tập II - Bộ cơ bản (Tác giả Phan Trọng

Luận tổng chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, 2008)

- Sách giáo viên Ngữ Văn 12, tập II - Bộ nâng cao (Tác giả Trần Đình Sử

tổng chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, 2008)

* Sách tham khảo:

- Bộ sách “Thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng tích hợp” (Tác giả

Hoàng Hữu Bội, Nhà xuất bản Giáo dục, 2004)

- Bộ sách “Thiết kế hệ thống câu hỏi Ngữ văn” (Tác giả Trần Đình

Chung, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006)

- Bộ sách “Thiết kế dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp” (Tác giả

Trương Dĩnh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2005)

- “Thiết kế dạy học Ngữ văn 12” - Nâng cao (Tác giả Hoàng Hữu Bội,

Nhà xuất bản Giáo dục, 2008)

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 6

- “Thiết kế dạy học Ngữ văn ” (Tác giả Phan Trọng Luận, Nhà xuất bản

Giáo dục, 2008)

- “Thiết kế bài giảng Ngữ văn ” (Tác giả Nguyễn Văn Đường, Nhà xuất

bản Hà Nội, 2008)

- Bộ sách “Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn”

2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo

Mỗi cuốn sách, mỗi tác giả có cách nhìn khác nhau, thành công khác

nhau khi khai thác các tác phẩm truyện viết về thời chống Pháp. Mỗi vấn đề

được các tác giả đề cập đến đều rất thiết thực, có tính thực tiễn cao, góp thêm

giải pháp vào vấn đề dạy học văn ở bậc Trung học hiện nay.

Các công trình nghiên cứu trên đã là những gợi dẫn rất quý báu cho

chúng tôi trong quá trình làm đề tài. Tuy nhiên, chúng tôi mong muốn có cái

nhìn tổng quát hơn về truyện viết về thời chống Pháp trong nhà trường để tìm

ra được phương án dạy học phù hợp với đặc điểm truyện viết về thời chống

Pháp và tầm tiếp nhận của thế hệ trẻ ngày nay. Bởi thế, chúng tôi mạnh dạn lựa

chọn vấn đề này để nghiên cứu.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

1. Nghiên cứu các tác phẩm truyện về thời chống Pháp được lựa chọn

vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn Trung học.

2. Hoạt động dạy học của thầy và trò về các tác phẩm truyện viết về thời

chống Pháp trong sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học theo đặc trưng thể loại.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích

Đề tài nghiên cứu “Dạy học các tác phẩm truyện về thời chống Pháp

trong sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học theo đặc trưng thể loại” nhằm

mục đích:

Tìm ra đặc điểm của các tác phẩm thuộc loại truyện thời chống Pháp về

nội dung và nghệ thuật. Trên cơ sở đó xác định được định hướng về phương

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 7

pháp dạy và học các tác phẩm truyện thời kì kháng chiến chống Pháp theo thể

loại. Từ đó đề ra một phương án dạy học có hiệu quả.

4.2. Nhiệm vụ

Đề tài “Dạy học các tác phẩm truyện về thời chống Pháp trong sách

giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học theo đặc trưng thể loại”, có nhiệm vụ:

- Nghiên cứu trên bình diện lí thuyết: Các công trình nghiên cứu về văn

học thời kháng chiến chống Pháp; Lí thuyết về phương pháp giảng dạy các tác

phẩm truyện theo đặc trưng thể loại;

- Nghiên cứu thực tiễn: Vị trí của các tác phẩm truyện viết về thời chống

Pháp trong chương trình Ngữ văn bậc trung học; Hoạt động dạy học của giáo

viên về các tác phẩm này: (họ đang dạy học như thế nào?); Học sinh với các tác

phẩm truyện này: (hứng thú, hiểu biết, năng lực cảm thụ của các em về các tác

phẩm truyện viết về thời chống Pháp).

- Đề xuất phương án dạy học qua thiết kế một tác phẩm truyện viết về

thời chống Pháp trong chương trình Ngữ văn bậc trung học.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết

- Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các vấn đề lí luận

- So sánh, đối chiếu

5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Điều tra, khảo sát, thống kê, phân loại

- Thực nghiệm sư phạm (Thiết kế bài học và dạy thực nghiệm)

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần “mở đầu” và “kết luận”, luận văn này gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học truyện thời

kháng chiến chống Pháp trong sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học.

Chương 2: Định hướng về phương pháp dạy học các tác phẩm truyện

thời kháng chiến chống Pháp trong sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học.

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 8

Chƣơng 1

MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC

DẠY HỌC TRUYỆN THỜI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP TRONG

SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Một số khái niệm mở đầu

1.1.1.1. Thời kì kháng chiến chống Pháp

Trong lịch sử Việt Nam, thực dân Pháp đã hai lần xâm lược nước ta.

Nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp.

* Cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất từ năm 1858 đến năm 1945.

Cuộc kháng chiến đó có những sự kiện lịch sử trọng đại như sau:

*) Từ năm 1858 - 1884: Rạng sáng 1.9.1958, Pháp nổ súng ở bán đảo

Sơn Trà - Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Vua Tự Đức của danh

tướng Nguyễn Tri Phương ra Đà Nẵng chặn giặc.

- Gặp khó khăn ở Đà Nẵng, giặc Pháp chuyển hướng tấn công vào Nam

Kỳ: Ngày 9.2.91859, giặc Pháp tấn công vào sông Cần Giờ, vào Gia Định và

lần lượt đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ. Nhân dân Nam Kỳ đánh giặc quyết liệt,

tiêu biểu nhất là các anh hùng Trương Định, Nguyễn Trung Trực...

- Sau đó, Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Phong trào kháng chiến

lan rộng ra khắp cả nước.

*) Phong trào Cần Vương (1885- 1896) với các sự kiện:

- Đêm ngày mùng 4 rạng ngày mùng 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất

Thuyết và Trần Xuân Soạn nổ súng đánh úp đồn Mang Cá (Huế).

- Ngày 13.7.1885 Vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương.

- Cuộc khởi nghĩa Ba Đình của Phạm Đình Bành và Đinh Công Tráng (1887).

- Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1885).

- Cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng (1890- 1895).

*) Phong trào Đông Du (1904 - 1908) của Phan Bội Châu.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 9

*) Phong trào Duy Tân (1906 - 1908) của Phan Châu Trinh.

*) Phong trào nông dân ở Yên Thế (1883 - 1913) của cụ Đề Thám.

- Nhưng tất cả đều bị thực dân Pháp đánh bại. Mãi đến khi các tổ chức

cách mạng ra đời gắn liền với hoạt động của Nguyễn Ái Quốc thì phong trào

cách mạng Việt Nam mới phát triển và kết thúc thắng lợi với cách mạng tháng

Tám năm 1945, nhân dân ta giành lại nền độc lập sau 80 năm nô lệ dưới ách

thống trị của thực dân Pháp. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời dưới sự

lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân ta

bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Nhưng thực dân Pháp lại không để cho

dân tộc ta yên, chúng quay trở lại đánh chiếm lần thứ hai.

* Cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 đến năm 1954 (9 năm).

Cuộc kháng chiến này xảy ra ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa mới ra đời. Mọi người dân nước Việt Nam từ những người nô lệ trở thành

công dân của nước Việt Nam độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ

do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Sau đây là những sự kiện lịch sử trọng đại

diễn ra trong 9 năm kháng chiến trường kì:

*) Chưa đầy một tháng khi nhân dân ta giành chính quyền, thực dân

Pháp được quân Anh giúp đỡ đã gây hấn ở Nam Bộ ngày 23-8-1945. Nhân dân

Nam Bộ đã chiến đấu kiên cường, bảo vệ quê hương và đồng bào cả nước lập

tức chi viện cho Nam Bộ. Các đơn vị “Nam Tiến” được thành lập, khẩn trương

lên đường vào “chia lửa” với quân dân Nam Bộ.

*) Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách nhân

nhượng “nhưng càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới”. Chúng mở

rộng chiến tranh ra khắp cả nước. Cho nên, 20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946,

cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của

Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền đi khắp cả nước. Ngay từ tối ngày 19 tháng 12

năm 1946, vệ quốc đoàn và tự vệ ở Thủ đô đã tấn công Pháp, nhân dân Thủ đô

xây dựng chiến lũy trên đường phố. Từ đó lực lượng vũ trang của nhân dân ta

lớn mạnh dần lên, đã mở liên tiếp các chiến dịch tấn công Pháp và chiến thắng:

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 10

- Chiến dịch Việt Bắc

- Chiến dịch Biên Giới năm 1950

- Chiến dịch Hòa Bình năm 1951

- Chiến dịch Tây Bắc năm 1952

- Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954

*) Một ngày sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về

chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương họp ở Giơnevơ (Thụy Sĩ) và hiệp định đình

chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia được kí kết. Hòa bình được lập lại

nhưng nước ta tạm thời chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân

sự tạm thời. Cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp chấm dứt.

1.1.1.2. Truyện thời kì kháng chiến chống Pháp

* Khái niệm về truyện

Có nhiều định nghĩa khác nhau về truyện, nhưng trong luận văn chúng

tôi chọn định nghĩa trong Cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân biên

soạn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999 định nghĩa về truyện như sau: “Là

tác phẩm tự sự...Ở văn học trung đại Việt Nam, truyện là thuật ngữ mà văn học

vay mượn từ sử học (truyện là thể loại trước thuật của sử gia, chép tiểu sử,

hành trạng, công tích của các nhân vật lịch sử). Ở văn học hiện đại, “truyện”

là khái niệm không thật xác định. Một mặt nó vẫn được dùng để trỏ mọi loại

tác phẩm tự sự có cốt truyện nói chung (bao gồm cả truyện, tiểu thuyết), mặt

khác lại có lối dùng nó như thuật ngữ trỏ dung lượng tác phẩm tự sự (“truyện

dài”, “truyện vừa”, “truyện ngắn”) [1, tr.349].

* Truyện thời kì kháng chiến chống Pháp

.Thời gian sáng tác: là những tác phẩm được viết trong và sau cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta (1945-1954).

. Đội ngũ nhà văn: khá đông đảo và thuộc nhiều tầng lớp, các nhà văn

Tiền chiến (các tác giả có sáng tác từ những năm trước Cách mạng tháng Tám

năm 1945), không phân biệt xu hướng giờ đây đã tập hợp thành một đội ngũ.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 11

Các nhà văn thuộc dòng văn học Cách mạng vẫn tiếp tục hướng đi cũ, sáng tác

các tác phẩm kịp thời phục vụ kháng chiến, họ trở thành những cây bút chủ lực.

Các nhà văn thuộc dòng văn học Lãng mạn và Hiện thực phê phán trước

Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã giác ngộ cách mạng và hăng hái tham gia

kháng chiến chống Pháp cùng với toàn bộ dân tộc: Nguyễn Tuân, Nguyễn

Công Hoan, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao...

Cùng với lớp nhà văn đó là đội ngũ các nhà văn trưởng thành lên từ

trong kháng chiến: Nguyễn Đình Thi, Võ Huy Tâm, Nguyễn Khải, Hồ Phương,

Trần Đăng...). Họ sinh ra và được nuôi dưỡng từ phong trào văn hóa văn nghệ

quần chúng. Họ trưởng thành mau chóng và xông xáo trên mọi lĩnh vực. Vì vậy

xuất hiện kiểu nhà văn - chiến sĩ, những người vừa trực tiếp chiến đấu vừa

dùng ngòi bút như một thứ vũ khí để đấu tranh với kẻ thù và động viên, cổ vũ

quần chúng kháng chiến.

Những tác phẩm truyện đặc sắc thời kì kháng chiến chống Pháp:

Truyện ngắn mở đầu cho truyện kháng chiến chống thực dân Pháp

- “Một lần đến thủ đô” của Trần Đăng (1946)

- “Đôi mắt” của Nam Cao (1948)

- “Làng” của Kim Lân (in 1948)

- “Thư nhà” của Hồ Phương (1949)...--

Từ những năm 1950, đã bắt đầu xuất hiện những tập truyện khá dày dặn:

- “Vùng mỏ” Võ Huy Tâm (1951)

- “Con trâu” Nguyễn Văn Bổng (1953)

- “Xung kích” Nguyễn Đình Thi (1951)

- “Đất nước đứng lên” Nguyên Ngọc (1971)

- Tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài (1953)...

1.1.2. Đặc điểm truyện thời kì kháng chiến chống Pháp

Qua việc đọc trực tiếp các tác phẩm truyện thời kháng chiến chống Pháp

và qua các công trình nghiên cứu về truyện kháng chiến chống Pháp (cuốn Văn

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 12

học Việt Nam 1945 - 1954 của Mã Giang Lân, NXB Giáo dục, 1998; cuốn Văn

học Việt Nam kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, Phong Lê (chủ biên), Vũ

Anh Tuấn, Vũ Đức Phúc, NXB Khoa học xã hội, 1986; cuốn Tác giả văn xuôi

Việt Nam hiện đại(từ sau 1945), NXB Khoa học xã hội, 1997; Giáo trình “Văn

học Việt Nam hiện đại tập II - Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 chủ biên

Nguyễn Văn Long, NXB Đại học sư phạm, 2010...), chúng tôi đã có được

những hiểu biết về đặc điểm của truyện thời kì kháng chiến chống Pháp.

A. Đặc điểm về nội dung của truyện thời kì kháng chiến chống Pháp

Trong cuốn sách Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1945-

1954) Phong Lê (chủ biên), Vũ Anh Tuấn, Vũ Đức Phúc, NXB Khoa học xã

hội, 1986, ở phần hai Văn xuôi, chương I: Bối cảnh và tiến trình, tác giả - tác

phẩm, tác giả viết: “Ở giai đoạn nhận đường... những trang văn ánh lên được

hơi thở đời sống kháng chiến hòa được vào mạch đập của dân tộc, biểu đạt

được tâm tư, nguyện vọng đích thực của quần chúng đông đảo [22, tr.81]...

bước vào buổi đầu những năm 50, văn xuôi dần dần xuất hiện những sáng tác

có bề rộng bao quát và chiều sâu khái quát nhất định đời sống kháng chiến của

dân tộc [22, tr.85-86]...Nhưng trên diện nhân vật được mở rộng và trên các mối

quan hệ của nhân vật được triển khai, bức tranh đời sống kháng chiến từ sau

năm 1950, mới thật sự khơi được vào dòng chảy chính, để qua đó mà làm rõ

lên được hình ảnh một cuộc chiến tranh nhân dân, trong những gian khổ, khốc

liệt của nó, nhưng không mờ khuất những nét lạc quan và khí thế trưởng

thành...” [22, tr.89]. Từ nhận định trên có thể khái quát nội dung truyện thời kì

kháng chiến chống Pháp (1946-1954) như sau:

Truyện thời kì kháng chiến phản ánh chân thực, sinh động cuộc

sống kháng chiến và con ngƣời kháng chiến

1. Hình ảnh cuộc sống kháng chiến trong truyện thời kì kháng chiến

chống Pháp

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, truyện đã phát huy được ưu thế của

thể loại, bám sát các sự kiện và diễn biến của cuộc kháng chiến, dựng lại bức

tranh nhiều vẻ về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện ở mọi miền đất nước.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 13

* Đó là cuộc sống đau thương, đầy mất mát ở những vùng quê bị giặc

tàn phá, giày xéo

Các nhà văn thời kì chống Pháp đã nhìn thẳng vào hiện thực đau thương

để phản ánh một cách chân thực và sinh động. Những vùng quê yên ả, thanh

bình nay bị giặc tàn phá. Qua câu chuyện giản dị của một người lính về thăm

nhà ở vùng Đông Triều (Quảng Ninh) trong truyện ngắn Thư nhà, nhà văn Hồ

Phương đã không né tránh hiện thực tàn khốc của chiến tranh “Đông Triều tan

tác, điêu linh lắm, giặc tàn phá không còn một búi cỏ... Chúng nó đốt làng ta

bốn lần. Bốn lần bị đốt, đốt lần nào làng làm lại, chúng lại đốt. Cứ thế giằng

co mãi...”[8, tr.285].

Truyện ngắn Tây đầu đỏ của nhà văn Sơn Nam đã tái hiện sinh động bức

tranh làng quê Nam Bộ khi Tây đầu đỏ xuất hiện. Nó cậy quyền, ỷ thế “vận

động khẩn phần, quản hạt mà giựt tuốt đất của dân. Người dân bị cướp hết

ruộng đất trở thành tá điền, con nợ của Tây đầu đỏ tưởng như trọn đời, mãn

kiếp, đến nỗi con cá dưới kênh, con tôm trong đìa họ cũng không dám bắt ăn,

vì sợ đòn roi của cặp rằng, sợ gông cùm của chủ” [26, tr.7]

Tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc đã phản ánh sinh

động hiện thực đau thương và bộ mặt tàn ác của kẻ thù. Thực dân Pháp đi đến

đâu chúng gieo giắc tội ác, tàn phá xóm làng của ta. Giữa lúc đang đói nặng

Pháp đốt làng Bông - pra, lấy tất cả rìu, rựa, giáo mác, nó muốn cho người Ba-

na chết hết. Đau thương hơn“từng người họ đi lại chỗ cái nhà mình bị đốt cháy

ngồi xuống, hốt đầy một gùi tro tranh. Núp nhìn những bàn tay hốt tro đó: đầy

một gùi tro này có thể ăn thay muối được hai năm đấy”. Người Ba- na phải ăn

tro thay muối. Nhưng người Ba- na vẫn hát theo điệu Pe trong Luai (Điệu hát

hái cà) để tự động viên mình:

“Không phải đâu, thằng Pháp ơi

Mày lầm rồi! Mầy lầm rồi

Mày lấy hết lúa của tao

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 14

Mày lấy hết bắp của tao

Mày lấy hết cái sắt của tao

Mày muốn tao chết trước mày

Không phải đâu, thằng Pháp ơi!

Mày lầm rồi! Mày lầm rồi!

Coi thử tao chết trước hay mày chết trước nhé!...” [27, tr.62]

Có thể nói, những tác phẩm truyện thời kì kháng chiến chống Pháp đã

phản ánh thật thấm thía và sâu sắc nỗi đau mất mát của nhân dân ta thời ấy.

Nhưng hiện thực đó không gây nên sự bi lụy mà trở thành động lực mạnh mẽ

giúp cho dân tộc Việt Nam nung nấu căm thù, nuôi ý chí quyết chiến, quyết

thắng với kẻ thù giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

* Đó là cuộc sống vừa chiến đấu vừa lao động sản xuất hăng say của

quân và dân ta trong kháng chiến

Nói kháng chiến ở chiến trường với vai trò của người lính, không được

bỏ quên “kháng chiến sau lũy tre làng, trên đồng lúa”, nhưng thử thách đặt ra

cho những người nông dân trong chiến đấu và sản xuất, vừa phải chống giặc

vừa bám đất, giữ làng. Truyện ngắn Đánh trận giặc lúa Bùi Hiển đã miêu tả

chân thực cuộc chiến tranh của nhân dân: nhân dân trong vùng địch tạm chiếm

hăng say sản xuất với tinh thần dũng cảm, óc mưu trí cùng sự đoàn kết, giúp đỡ

đắc lực của bộ đội và dân quân du kích. Đến mùa gặt, các anh về gặt giúp dân

và cũng vừa làm nhiệm vụ đánh đồn quấy rối giặc, không cho chúng thì giờ và

tâm trí để cản trở việc thu hoạch mùa màng của nhân dân “Khắp cả cánh đồng

ruộng trăm mẫu, ba ngàn con người còng lưng hối hả gặt”, gặt suốt đêm chưa

xong, gặt thâu tới sáng. Nhà văn khẳng định, nhân dân ta không chỉ đánh giặc

giỏi, chiến đấu dũng cảm, mà trong lửa đạn chúng ta vẫn sản xuất rất giỏi, đảm

bảo cho nhân dân và bộ đội có đủ lúa gạo ăn, bảo đảm cơ sở vật chất cho cuộc

kháng chiến lâu dài.

Tiểu thuyết Con trâu của Nguyễn Văn Bổng viết từ chiến trường Liên

khu Năm. Trong tiểu thuyết con trâu không còn là chuyện “đầu cơ nghiệp” của

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 15

một gia đình riêng lẻ, mà là chuyện gắn với sự sống còn chung của dân tộc.

Bảo vệ trâu là bảo vệ sản xuất, nuôi dưỡng sức dân, chiến đấu lâu dài “Nó

thường hăm dọa giết hết thanh niên thì Việt Minh hết kháng chiến, mà giết hết

trâu Việt Minh không làm ăn được cũng hết kháng chiến” [6, tr.5] .Thực dân

Pháp muốn bắt hết trâu để triệt phá sản xuất của người nông dân ở xã Hồng

Phong, chúng tìm mọi cách bắt trâu. Vì vậy ông Đẩu, ông Hoạch tìm mọi cách

để giấu trâu “Không đánh chạy được, không rúc cấm được, không gởi đi tản cư

được thì chỉ còn có hai cách: một lên trời, hai xuống đất. Cứ cho nó độn thổ

như mình đi” [6, tr.8] và mọi người đào hầm bí mật cho trâu. Bảo vệ trâu cũng

là một thử thách quết tâm chiến đấu bám địch giữ làng của người nông dân

vùng địch hậu: Chức nói “Phải, phải cho nên vấn đề con trâu bây giờ là vấn đề

sản xuất mà cũng là vấn đề du kích. Giữ được con trâu lúc này mới làm mùa

được, và cũng như chú nói, có giữ được con trâu bên này đồng bào mới trở về

làm ăn. Mà đồng bào có trở về làm ăn thì hàng ngũ mới chấn chỉnh lại, du kích

mới vững” [6, tr.11]. Kháng chiến còn dài, còn lắm gian khổ, nhiều thử thách

đặt ra, nhưng người nông dân trong quá trình trưởng thành dưới sự lãnh đạo

của Đảng đã có đủ những trang bị tinh thần và vật chất để làm thất bại từng âm

mưu của địch và đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

* Đó là cuộc sống kháng chiến ở nơi “tản cư” của nhân dân ta trong

những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trước hết ta biết được trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp,

Chính phủ ta có chủ trương cho đồng bào các vùng sắp bị giặc đánh chiếm tạm

rời làng quê đang ở đến những vùng tự do dưới sự kiểm soát của chính quyền

ta. Việc đó gọi là tản cư. Cuộc sống kháng chiến của nhân dân ta buổi đầu đúng

như ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân nói: “Hừ, đánh nhau cứ

đánh nhau, cấy cày cứ cấy cày, tản cư cứ tản cư... Hay đáo để”. Khẩu hiệu của

chúng ta bấy giờ là “vườn không nhà trống”.

Cuộc sống ở nơi tản cư của ông Hai: hàng ngày ông đến phòng thông tin

nghe đọc báo: “Bao nhiêu là tin hay. Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 16

phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa...Một anh trung

đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối

cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một

tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ...” [20, tr.24]. Như vậy, ngay những năm

đầu thực dân Pháp đánh chiếm ra miền Bắc, nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng

chống giặc ngoại xâm.

Trong tiểu thuyết Con trâu của Nguyễn Văn Bổng: Thực dân Pháp tập

trung quân ở các đồn, chúng ra lệnh cho đồng bào ta ở tản cư. Xã Thái học bị

thực dân chiếm đóng, đồng bào tản cư ở đó phải có đủ các giấy tờ, phải khai tên

của mình, tên của cha mẹ, cho chúng nó ghi vào trên cái đó có ba xéo đo đỏ như

trên lá cờ ba que. Nhưng có giấy cạc của lý hương di chuyển, đi lại rất tiện. Khi

Hiếu có ý định cho Sơn sang bên Thái học để chữa thương, Trợ không đồng ý,

anh nói: “...qua đó lãnh giấy, lãnh cạc ở với Tây, với Việt gian thì không còn

lòng dạ chi hế...Rồi phải đi chợ của nó, ra phố, ra Đà Nẵng, lả lơi với Tây, với

bọn bảo vệ hương dũng, để nó mang lọt đồ ngoại hóa đi” [6, tr.72]. Nhưng trên

thực tế, anh Chức vẫn thường xuyên liên lạc và giao cho Hiếu ở tản cư bên Thái

học nắm tình hình, tuyên truyền, vận động bà con. Ở Thái học ỷ vào bọn lý

hương vào ba cái giấy cạc chúng nó cấp cho...Đỗ Biên cũng muốn bên Hồng

Phong có lý trưởng như bên này cho yên ổn nhưng dân không nghe, nó ra ba

điều kiện: “nhổ hàng rào kháng chiến, lấp hầm bí mật, chúng nó qua không

được báo động”. [6, tr.148]. Thực dân đánh vào tinh thần người dân. Anh em du

kích bên ngoài vẫn bám đồn, đảm bảo cho bà con về được bên Hồng Phong.

* Trong truyện thời kì kháng chiến chống Pháp, cuộc sống kháng

chiến hiện lên không chỉ có những gian khổ, hi sinh, mất mát mà còn có cả

cuộc sống vui tươi, lạc quan trong tình quân dân thắm thiết.

Trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao: Độ là một nhân vật có lối

sống theo hướng ngày càng hòa mình vào quần chúng nhân dân, vào kháng

chiến. Độ tìm đến cách mạng, kháng chiến xảy ra, Độ khoác ba lô đi kháng

chiến, làm cán bộ tuyên truyền, ngày đêm lăn lộn với quần chúng, với những

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 17

người thợ in, có chấy rận trong người (do điều kiện chiến tranh) mà vẫn thấy

hạnh phúc. Độ rất lạc quan vào thắng lợi của cuộc kháng chiến vì anh tin tưởng

vào sức mạnh của quần chúng, những người nông dân“răng đen, mắt

toét...phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng

thương” [38, tr.78] nhưng lúc ra trận giáp mặt với cái chết anh thấy họ “xung

phong can đảm lắm”. Chính vì vậy, từ một nhà văn, Độ sẵn sàng làm người

“tuyên truyền nhãi nhép” cho cách mạng, anh có thể ngủ ngay trong nhà in đèn

sáng và máy chạy ầm ầm...

Trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc: làng

Kông- hoa của Núp mấy năm nay mất mùa, lại thêm giặc Pháp liên tục bắn phá,

đốt làng, người dân phải đi xâu, đi thuế cho Pháp. Đến mùa mình ăn cỏ, giặc

Pháp ăn lúa, đói, Pháp không cho đi tìm củ mài...Nhưng Núp và người dân Ba-

na vẫn tin tưởng vào Bok- Hồ, vào chính phủ. Họ chưa gặp Bok- Hồ bao giờ,

chỉ nghe kể “Bok- Hồ giỏi lắm, làm cái rẫy cũng giỏi, biết thương yêu người

già, người trẻ, biết yêu thương đất nước” [27, tr.19]. Chính vì vậy, ngày bộ đội

về làng là ngày vui nhất của Kông- hoa, bộ đội dạy cho dân bắn súng, cùng dân

đi giã gạo, cho heo ăn, nấu nồi cơm, làm cái rổ, cái mủng cho đồng bào, con nít

đi với bộ đội bốn năm ngày biết hát bài Hồ Chí Minh “Núp muốn sao bộ đội ở

đây miết, đất nước mình mạnh thế này, tốt thế này, vui sướng quá” [27, tr.27]

.Thực dân Pháp tìm cách lấy hết sắt của đồng bào, lũ làng phải bỏ làng lên núi

Chư- lây sống kham khổ. Cán bộ Thế mang rìu rựa của người Kinh, của Bok-

Hồ gửi, người Ba-na càng vững tin “mình càng phải làm rẫy giỏi nữa, ăn no

nữa, nhất định thằng Pháp phải chết trước mình, lũ làng ạ.” [27, tr.28]. Khi có

rìu rựa để lao động sản xuất: “Trên chín mươi khuôn mặt tự nhiên nở bao nhiêu

nụ cười, có nụ cười của chị phụ nữ như một cái hoa trắng của cây kơ-pông, có

nụ cười của ông cụ già mất hết cả răng rồi, có nụ cười của thằng con nít...Cả

làng ai cũng cười” [27, tr.30]. Núp nghĩ đến cuộc đời khổ cực của mình, của

mẹ, của Liêu của người Kông- hoa. Bây giờ có cán bộ của Đảng về chỉ huy

người khổ, Núp muốn đi theo Đảng.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 18

Trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài (gồm ba truyện: Cứu đất cứu

mường, Mường Giơn, Vợ chồng A Phủ), đã tái hiện bức tranh cuộc sống cơ

cực, khổ ải của nhân dân vùng núi Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân

Pháp và bọn chúa đất. Đồng thời tác phẩm thể hiện tinh thần chiến đấu, chủ

động đứng lên của người dân tộc thiểu số để giải phóng cuộc đời, giải phóng

quê hương. Họ lạc quan, tin tưởng, đi theo cách mạng. Truyện Cứu đất cứu

mường với tục làng Cuông tìm người hầu cho quan, cô Ảng đẹp nức tiếng

Mường Cơn, 17 tuổi đem thân nâng giấc cho ông lão 60 tuổi. Từ đó cô trở

thành vật chuyền tay hầu chăn đệm cho các quan lang, quan châu. Rồi cô sinh

được hai đứa con nhưng không quan nào nhận. Tục không chồng mà có con, cô

không được làng chia đất, đành phải ôm con đi la liếm cối giã gạo ngoài suối.

Năm tháng trôi đi cô Ảng nhan sắc héo mòn, rách rưới, ốm đau, người dân

Mường Cơi gọi là bà Ảng ăn mày. Tưởng chừng cuộc đời của bà Ảng chìm mãi

trong bóng tối, Sơn con trai bà đi theo cách mạng, là người cách mạng, về làng

tìm mẹ, hai mẹ con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Trong cả cuộc đời đau khổ

dài dằng dặc, cuối cùng bà Ảng cũng tìm được sự an ủi: bà được cách mạng

giao trông nom nương ngô, khoai, sắn, bí để lấy lương thực phục vụ kháng

chiến. Bà như người được sống lại, thấy công việc mình làm có ích. Bà làm

việc tích cực, hăng say “Bà Ảng đuổi thú rừng cả ngày, cả đêm...cả những đêm

giông bão, bà Ảng vẫn thức. Mà sao bà Ảng không thấy một điều gì quạnh quẽ

trong lòng”. Bà nghĩ: “Một đời tao không biết mặt cái ruộng, tao không biết đi

làm nương. Bây giờ già sắp chết mới được biết ngồi canh nương của mình thế

này” [18, tr.14] nghĩ thế trong lòng bà thấy bùi ngùi, vui. Còn trong truyện Vợ

chồng A Phủ nói về cuộc đời đau khổ, bất hạnh của Mị ở Hồng Ngài khi bị bắt

làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pa Tra. Mị sống như đã chết, vùi đầu vào công việc

cả ngày lẫn đêm. Mị nghĩ mình sẽ suốt đời phải ở trong “địa ngục trần gian”

nhà Pá Tra cho đến chết mới thôi. Khi cùng A Phủ chốn sang Phiềng Sa, họ nên

vợ nên chồng, A Phủ kết nghĩa anh em với cán bộ A Châu... vùng Phiềng Sa

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 19

trở thành một khu du kích, nhà nào cũng làm nương bí mật, có lán trong rừng,

thằng Tây lên cướp bị du kích phục bắt, đuổi...Tết đầu tiên ở Phiềng Sa nhà Mị

giã bánh dày, là tết đầu tiên hai người có rượu, thịt ăn. Hai vợ chồng mừng rỡ,

vui sướng như trẻ con thấy tết. A Phủ cười thật to: “Bây giờ thành khu du kích,

có ủy ban về ta, ta chơi tết không còn đứa ăn mặc đẹp đi đánh nhau cướp vợ

đâu. Đây khác Hồng Ngài rồi.”[18, tr.48]. Giờ A Phủ là tiểu đội trưởng du

kích, hoạt động cách mạng tích cực giải phóng quê hương.

2. Hình ảnh con ngƣời trong truyện thời kì kháng chiến chống Pháp

Nhân vật trung tâm của truyện kí giai đoạn 1946-1954 là người cầm vũ

khí trong kháng chiến chống ngoại xâm... Những chuyến đi vào cuộc kháng

chiến, với văn xuôi chính là tìm nhân vật. Hội Văn nghệ Việt Nam từ lúc thành

lập đã tổ chức nhiều chuyến đi cho văn nghệ sĩ, tạo điều kiện cho anh em vào

sâu quần chúng, bộ đội... Nhà văn chỉ có thể tiếp cận cuộc sống và khám phá

hiện thực, khi đã thay đổi “đôi mắt”, có đôi mắt của nhân dân. Quả thật truyện

những năm kháng chiến đã phát hiện ra vẻ đẹp của nhiều gương mặt bộ đội,

cán bộ, cán bộ, người nông dân, công nhân ở khắp nơi, trên mọi mặt trận (Văn

học Việt Nam (1945-1954), Mã Giang Lân, NXB Giáo dục, 1997).

* Hình ảnh người chiến sĩ Vệ quốc quân và dân quân du kích

Qua câu chuyện Thư nhà, Hồ Phương đã miêu tả vẻ đẹp của người chiến

sĩ. Vẻ đẹp của Lượng là vẻ đẹp của chủ nghĩa nhân đạo. Truyện đặt ra số phận

riêng của một con người và số phận chung của dân tộc. Chiến sĩ Lượng về thăm

nhà sau ba năm, biết tin giặc Pháp tàn phá quê hương, cha mẹ bị giặc bắn chết,

người yêu bị giặc Pháp làm nhục, nỗi đau càng thêm chồng chất nhưng người

chiến sĩ dày dạn đã dũng cảm nén chịu và vượt qua một cách tự nhiên. Gặp

người yêu bên căn nhà cũ “Tôi nắm lấy tay Chi: Các chuyện anh rõ cả rồi. Anh

không giận Chi. Anh vẫn...vẫn yêu Chi. Tại thằng Pháp cả!”[8, tr.290]. Tất cả

những đau thương ấy không đưa đến tiêu cực mà càng thôi thúc người chiến sĩ

quyết tâm đấu tranh trả thù cho người thân, quê hương.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 20

Trong truyện ngắn Một lần đến thủ đô của Trần Đăng: kể về bốn chiến

sĩ du kích từ chiến khu về thủ đô tham dự lớp học ở trường quân chính ở ngoại

ô Hà Nội. Hình ảnh những người chiến sĩ hiện lên cụ thể với: “những bộ quần

áo đen xám mỏng tanh, chẽn vào lưng, thắt vào bắp chân mỗi người, khẩu súng

lớn đeo bên hông của người đi sau”... “bốn khuôn mặt to, đen sạm, hiền hậu vô

cùng, nhưng yên lặng và thản nhiên vô cùng” [13, tr.3]. Đặc biệt là đôi mắt, đôi

mắt biểu hiện ý chí và nghị lực, đôi mắt nhìn thẳng không hề ngỡ ngàng hoặc

bị lôi cuốn bởi không khí đông vui của phố phường. Họ thật bình dị giữa một

Hà Nội tráng lệ, họ lặng lẽ thản nhiên giữa phố phường náo động, họ theo đuổi

một trách nhiệm giữa cảnh vui chơi.

Trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, hình ảnh người

cán bộ kháng chiến xuất hiện nhiều, với tư cách là những cán bộ cách mạng

được Đảng giao nhiệm vụ lên vùng cao để tuyên truyền, dạy nhân dân làm cách

mạng. Họ cùng ăn, ở, sinh hoạt, chiến đấu cùng đồng bào, được đồng bào yêu

quí, tin tưởng. Trước hết phải kể đến anh Cầm, bị bắt bỏ tù ở Kom- Tum,vì có

thời gian tham gia đánh Pháp, anh Cầm học tiếng Ba-na ở Kom- Tum. Anh ở

lại nhà Núp, hai anh em nói chuyện suốt đêm, anh dặn Núp: “Anh Núp ạ, muốn

đánh Pháp lâu năm thì phải thương yêu, không ghét nhau. Phải làm rẫy nhiều,

lúa tốt, ăn no. Phải biết tổ chức lũ làng lại. Nhất định mình lấy độc lập lại

được”[27, tr.54]. Anh Cầm bày cho Núp đi tuyên truyền cách mạng cho bà con

ở nhiều nơi như ở Ba-lang, Ta-lung, Kông-ma, Đê-pu... Ở với dân làng anh

Cầm đóng khố, cầm rựa đi chặt cây, đốt rẫy, tỉa bắp. Ghíp dạy anh Cầm thổi

kèn, anh Cầm dạy Ghíp bài hát Kinh. Rồi đến cán bộ Thế lại về giúp người Ba-

na làm cách mạng. Cuộc đời anh Thế, khi nhỏ đi ở cho nhà giàu, bị nó đánh

không cho ăn cơm. Lớn lên, tức quá, đi theo Đảng làm cách mạng, cho tới bây

giờ chưa có vợ con. Anh Thế dạy chữ cho Xá, anh còn bày cho bà con cách làm

rẫy chung “chia ra từng tốp, làm chung, tốp nào cũng có người mạnh người

yếu. Hôm nay kéo hết tới chặt cây đốt rẫy cho bếp này, ngày mai lại kéo hết tới

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 21

chặt cây đốt rẫy cho bếp khác. Làm rất mau, rẫy nào cũng tốt, cuối năm nay

chắc bếp nào cũng dư ăn” [27, tr.68]. Trong làng có việc chi khó Núp đi tìm

hỏi, anh Thế đều bày cho làm được tốt hết cả. Anh Thế chỉ cách cho Núp đánh

Pháp: “Bok-Hồ dạy: phải làm rẫy ăn no thì mới đánh Pháp lâu được. Chạy mãi

bỏ rẫy mãi thì không no được, không đánh lâu được. Bây giờ phải tìm cách ở

một chỗ, đánh Pháp, làm rẫy, không chạy nữa” [27, tr.73]. Anh còn bày cho

Núp cách tổ chức làng Kông-hoa thành làng kháng chiến, phải tổ chức dân

quân, phải làm thêm nhà bí mật, làng bí mật trong rừng, giấu bớt lúa, phải làm

đường bí mật cho người già, phụ nữ, con nít rút lui khi Pháp tới, phải làm nhiều

chông hơn, canh giữ kĩ hơn.... Chính những ngày tháng ở bên cạch anh Thế,

Núp hiểu ra vì sao anh Cầm, bộ đội, anh Thế, người Kinh ở xa, leo núi khổ như

vậy mà lên đến đây, gửi dao, rựa lên cho người Thượng....đều là do Đảng chỉ

cho cả. Bây giờ có Đảng chỉ huy người khổ, Núp muốn đi theo Đảng. Núp hỏi

anh Thế “Tôi... có được người Đảng không”, trong cuộc đời hoạt động cách

mạng, chưa bao giờ Thế thấy sung sướng như vậy.

* Hình ảnh người nông dân

. Phần lớn họ là những người nông dân nghèo, hiền lành, chất phác nhưng

lại có tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt, tha thiết. Nhân vật ông Hai người

làng chợ Dầu trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, ông yêu, tự hào và đi đâu

cũng khoe về làng của mình. Khi rời làng đi tản cư trong kháng chiến chống thực

dân Pháp, ông không muốn bỏ làng, muốn ở lại chiến đấu để giữ làng. Tình yêu

sâu nặng với làng chợ Dầu của ông, ông muốn đứa con nhỏ ghi nhớ câu: “Nhà ta

ở làng chợ Dầu”. Khi nghe tin làng theo giặc, ông dứt khoát lựa chọn theo cách

của ông: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù nó”....“Về

làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây” [20, tr.27]. Tình yêu nước đã

rộng lớn bao trùm lên tình cảm với làng quê.

.Từ khắp mọi miền của Tổ quốc, những người nông dân “chân lấm, tay

bùn" họ đứng lên đấu tranh với một tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hi sinh cho

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 22

đất nước. Trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, qua đôi mắt nhìn của Độ

ta thấy những người nông dân “răng đen, mắt toét” nhưng họ có thể làm được

cách mạng, mà bằng chứng hùng hồn nhất là lúc ra trận giáp mặt với cái chết

“họ xung phong can đảm lắm”. Độ nhìn thấy người nông dân “đi đánh phủ”.

Sau cách mạng anh gặp họ trong mặt trận Nam Trung Bộ.

Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, tác phẩm viết về giặc Pháp

không ít nhưng chỉ trong Tây đầu đỏ của nhà văn Sơn Nam, chân dung của kẻ

cướp nước mới hiện ra rõ ràng, đầy đủ như thế, từ vẻ ngoài đến sự ác độc trong

hành động của chúng. Nhà của Tư Phước một nông dân Nam Bộ nghèo, hiền

lành, chỉ có một con bò mà thằng Sơn đi ở đợ hai năm mới mua được, con bò

đang chửa mà nó đòi bắt lấy, mổ bụng moi cái thai ra nhắm rượu. Con gái của

bảy Cần mới có 14 tuổi mà nó bắt đi tiếp nấu nướng đến sáng hôm sau mới

được về, biết con gái bị làm nhục nhưng Bảy Cần cũng chỉ đành'' giả dại cho

qua ải chớ biết làm thế nào''. Tội ác của Tây đầu đỏ nhiều kể hoài không hết,

những người nông dân hiền lành có người định bạo động theo kiểu''miểng dừa

chọi vô chén kiểng'', cũng có người còn sợ hãi'' tù rạc khổ lắm, khởi nghĩa làm

chi, tôi sợ Tây rồi''. Thế nhưng...tức nước vỡ bờ, thời cơ rồi cũng đến, năm sau,

Nhựt đảo chính ở Đông Dương, Tây đầu đỏ ''phất khăn trắng đầu hàng''. Nỗi

uất hận sắp bung ra thành cơn bão cuốn trôi đi tất cả bùn nhơ, đau thương, tội

ác của bọn giặc.

Ở nhà của Bảy Cần, ngoài Tư Phước, bây giờ có thêm Chín Hiển. Anh

phân tích tình hình và vận động mọi người đứng lên khởi nghĩa. Chúng ta thấy

Chín Hiển có phong thái của người cán bộ đã giác ngộ cách mạng, hình ảnh của

nhân vật Chín Hiển ở đây có nét tương đồng với A Châu ở Phiềng Sa (truyện

ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài). Sự có mặt của Chín Hiển cho thấy cuộc khởi

nghĩa của những người dân ở đây đã chuyển hóa từ tự phát sang tự giác, từ đấu

tranh đơn lẻ sang tập trung, từ đấu tranh cho lợi ích cá nhân giờ đây đã thành

việc cứu nước. Tại đây ''một lời thề'' đã được lập ra''thà chết súng chết đạn chớ

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 23

không làm tá điền cho Tây nữa''. Lời thề trong ngôi nhà nhỏ mà sức lay động

thật lớn lao, nó như hình ảnh thu nhỏ của hội nghị Diên Hồng năm xưa, những

người nông dân đất Việt chân chất phút chốc đã trở thành anh hùng.

Câu chuyện khép lại trong kết quả viên mãn, khởi nghĩa thành công.

Xóm nhỏ Bần Ổi lại trở về trong thanh bình, yên vui, sung túc. Người dân

trong xóm đang chuẩn bị cho buổi diễn kịch tối nay ''mừng Đảng của mình ra

đời, mừng Cha Già thêm tươi khỏe''.

* Hình ảnh người công nhân.

Từ một người thợ mỏ, Võ Huy Tâm bước vào văn học với tất cả vốn

hiểu biết và lòng say mê với vùng đất mỏ của mình. Võ Huy Tâm viết tiểu

thuyết Đình công sau đổi tên là Vùng mỏ, đã đem lại cho văn xuôi hình ảnh

một nhân vật mới: người công nhân. Toàn bộ tác phẩm toát lên một bầu không

khí lao động nặng nề. Đó là hiện thân của cuộc sống lam lũ, đầu tắt mặt tối của

người phu mỏ “Ăn cơm với cá mòi he, lấy chồng Cẩm Phả đun xe suốt đời”

[37, tr.17].Võ Huy Tâm còn miêu tả tỉ mỉ khung cảnh làm việc ở các tầng lò,

các trục, ở máy, ở goòng, của người lái xe, đội than, nhặt đá, ni-vê...Người đi

làm và cả người ở nhà đều nơm nớp lo sợ. Cảnh sập lò, sập tầng vì lối khai thác

hàm ếch bừa bãi của Pháp xảy ra như cơm bữa. Ở tầng lò nào cũng có cảnh

“những hạt than cám nổi lên một lớp đen đen trên vũng máu”. Trẻ con ốm quặt

quẹo, gầy nhom, mới bảy, tám tuổi đã đi làm “nhau” đội than, nhặt đá lấy ngày

vài xu. Được ít phút nghỉ ngơi giữa hơi nóng hầm hập và bụi bay mù trời,

người phu “ăn bữa trưa bằng những vấu cháo và cá mặn, uống nước lã không

lọc lấy từ bể tắm, bọt xà phòng và bông băng đầy miệng bể” [37, tr.19]. Bộ mặt

kẻ thù hiện ra rất rõ nét trong tác phẩm. Chính bọn chúng tạo ra không khí căng

thẳng của vùng mỏ. Đó là thằng Si-mô-nét cáo già, vừa nhận lương lính của

bọn Tây để đốc thúc phu làm; hắn tìm mọi cách hành hạ, ăn bớt của thợ, hễ ai

trái ý là đánh hộc máu mồm. Đó là vợ chồng lão chủ thầu Quang nham hiểm và

ti tiện, tìm mọi cách để đục đẽo và nặn bóp của công nhân: từ cái ông đong gạo

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 24

hai đáy, cái hàm ếch trong cối giã gạo đến việc cho vay gạo, mua sổ lương

trước kì đều để làm căng thêm túi tiền của vợ chồng hắn. Đó là xếp Cẩm mật

thám, thằng Chố chỉ điểm. Và xung quanh chúng là bọn cai Tây, Tây lính, hùng

hổ, cấu kết với nhau bóc lột, đánh phá giai cấp công nhân.

Trong tác phẩm, bên cạch hiện thực tối tăm của vùng mỏ ngày thực dân

Pháp tạm chiếm, Võ Huy Tâm đã chú ý miêu tả hiện thực của vùng mỏ trong

đấu tranh. Tinh thần xung phong, xả thân nổi lên rất rõ ở những đảng viên như

Thiết, Tài Bá, Tuấn; ở những quần chúng tích cực như cụ Thứ, Hàn, Le, Min,

Bảo...Tất cả là đòn bẩy đưa phong trào đi lên và giữ vững phong trào. Hình

thức đấu tranh của công nhân khá phong phú: Từ những đợt đấu tranh lẻ tẻ

(như phu trục đòi được đi trục, các tầng lò đòi có nước sạch để uống, đòi phát

lương, phát gạo đúng kì, đòi tiền thưởng..), tổ chức Đảng đã khéo léo tập hợp

quần chúng, vận động một cách linh hoạt các hoàn cảnh để tổ chức một cuộc

đình công lớn “... Người mỗi lúc một đông dần, dần dần biến thành một cuộc

đình công để ủng hộ cuộc bãi công lớn...Chủ nhất đứng dậy nhìn ra đám thợ và

phu cũ. Họ không sợ, họ vẫn đứng yên nhìn lại...Những cánh tay nắm chặt giơ

lên, cả anh chị em cũ đứng phía ngoài cũng gào thét lẫn trong ấy” [37, tr.132]

.Cuộc đấu tranh lớn, kéo dài, gặp nhiều khó khăn và còn nhiều đổ máu, nhưng

dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tình thương yêu giai cấp nồng thắm, với ý chí

cách mạng kiên cường, ta đã thu được thắng lợi.

B. Đặc điểm nghệ thuật của truyện thời kì kháng chiến chống Pháp

Trong giáo trình “Văn học Việt Nam hiện đại tập II - Từ sau cách mạng

tháng Tám 1945”, Nguyễn Văn Long (chủ biên), Nguyễn Thị Bình, Lã Thị Bắc

Lý, Mai Thị Nhung, Trần Đăng Suyền, NXB Đại học Sư phạm, 2010. Ở

chương VI: Văn xuôi (Truyện và kí) giai đoạn 1945-1975, nhận định về đặc

điểm nghệ thuật truyện thời kì kháng chiến chống Pháp (1946-1954) như sau:

“... trong các tác phẩm truyện, tiểu thuyết đậm đặc các chi tiết, sự kiện của đời

sống xã hội và được trình bày theo tiến trình thời gian của các sự kiện, biến cố.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 25

Nhân vật được hiện ra chủ yếu ở hành động, việc làm chứ chưa được đi sâu thể

hiện thế giới bên trong... phương thức trần thuật thiên về thuật, kể sự kiện...”

[21, tr.160]. Từ đó có thể khái quát đặc điểm nghệ thuật truyện thời kì kháng

chiến chống Pháp như sau:

Đặc điểm 1: Nghệ thuật kết cấu truyện đƣợc trình bày theo tiến

trình của các sự kiện, biến cố.

Trong truyện Vợ chồng A Phủ (Truyện Tây Bắc) của Tô Hoài: Kể về

cuộc đời của Mị, thời gian sống những ngày tăm tối ở Hồng Ngài làm dâu gạt

nợ nhà thống lí Pá Tra. Đến khi gặp A Phủ, cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi hai

người chốn đến Phiềng Sa. Thời gian ở Phiềng Sa họ nên vợ nên chồng, gặp

cán bộ A Châu kết nghĩa anh em, tích cực hoạt động cách mạng, giải phóng quê

hương. Truyện Cứu đất cứu mường câu chuyện diễn ra theo trình tự thời gian,

kể về thân phận đau khổ của cô Ảng, từ một cô gái đẹp nức tiếng Mường Cơi bị

xem như món đồ chơi qua tay các quan lang, quan châu, chúa đất cho đến khi

tàn tạ thành bà lão Ảng ăn mày. Rồi gặp lại con trai là Nhấn, bà lên núi trông

nương cho cách mạng, rồi bị thằng Cầm Vàng giết chết.

Tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc`là cuốn tiểu thuyết

viết về anh hùng Đinh Núp và cuộc đấu tranh của một miền đất Tây Nguyên

trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Kết cấu của tiểu thuyết theo kiểu tường

thuật trực tiếp các chi tiết, sự kiện theo trình tự thời gian: Cuộc cách mạng

tháng Tám thành công tạo nên những chuyển động lớn ở Tây Nguyên. Niềm

vui chưa được bao lâu thì giặc Pháp lại tràn tới đẩy người dân Tây Nguyên vào

kiếp sống trâu ngựa như ngày xưa. Người dân Tây Nguyên lại đứng lên quyết

tâm đánh giặc. Cuộc chiến đấu của làng Kông-hoa được sự giúp đỡ của cán bộ

cách mạng vừa đánh vừa xây dựng lực lượng. Cuộc chiến đấu của dân làng

diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn. Phải dời làng vào rừng sâu tạo nên cơ sở mới

để tổ chức đánh giặc. Không có lương thực họ phải làm nương rẫy, không có

vũ khí họ phải sáng chế ra các vũ khí từ bẫy đá, hầm chông, cung tên, giáo mác

để đánh giặc. Họ nhẫn nại, chịu đựng và lạc quan tin vào thắng lợi.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 26

Tiểu thuyết Con trâu của Bùi Hiển là một trong những tác phẩm hay viết

về người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Đối với người nông dân, con

trâu không chỉ là công cụ sản xuất mà còn là người bạn cùng chia sẻ với họ

những nỗi nhọc nhằn, vất vả. Kết cấu của tác phẩm cũng diễn ra theo thứ tự

thời gian: Mở đầu bằng một trận càn, ta phải tạm thời rút lui vì sức yếu, tổ chức

chưa tốt, anh Phận chỉ huy dân quân và chị Bai bị giết. Kết thúc tác phẩm cũng

bằng một trận càn, nhưng tình hình đã đổi khác hẳn: tinh thần nhân dân được

giữ vững, du kích đánh tốt, trâu được bảo vệ chu đáo. Một quá trình trưởng

thành của dân quân vùng địch hậu. Một bước tiến lên của cuộc kháng chiến.

Đặc điểm 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật chủ yếu là miêu tả hành

động và việc làm chứ chƣa đƣợc đi sâu miêu tả thế giới nội tâm bên trong.

Nhân vật trung tâm của truyện thời kì kháng chiến chống Pháp là những

con người cầm vũ khí trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Họ là những

người nông dân, bộ đội, công nhân với tất cả những mặt phong phú của họ

không phải là một đối tượng tĩnh, dễ nắm bắt. Vì vậy việc tìm hiểu, phát hiện,

khái quát thành những tính cách, số phận của nhân vật trong truyện thời kì này

chỉ dừng lại ở việc miêu tả hành động, việc làm chứ chưa đi sâu khai thác thế

giới nội tâm của nhân vật.

Nhân vật Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, tác giả đã dựng

lên một điển hình của hạng “trí thức nửa mùa” “chẳng yêu một cái gì” “chỉ tài

chửi đổng”. Tác giả tập trung miêu tả cuộc sống, cung cách sinh hoạt của

Hoàng. Trong lúc toàn dân đánh giặc, Hoàng tản cư về một nơi yên ổn ở “ba

gian nhà gạch sạch sẽ”, nằm “màn tuyn trắng toát” hút thuốc lá thơm, ăn mía

ướp hoa bưởi và giao du với một viên “tuần phủ về hưu”, một viên “đốc học bị

thải hồi vì một vụ hiếp học trò”. Hoàng có thói quen nằm nghe vợ đọc Tam

Quốc. Thế mà y luôn có hành động chế nhạo người nông dân là dốt, là “ngu độn,

lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, bần tiện cả”. Nam Cao còn đặc tả ngoại hình của

Hoàng “người khí to béo quá, vừa bước vừa bơi hai cánh tay kềnh kệch ra hai

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 27

bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá”

[38, tr.81]. Rồi y có hành động mỉa mai những nhà báo tiến bộ là “những nhà

văn vô sản” và cho họ là “một bọn khố rách áo ôm đã đến ngày phát mả”.

Tiểu thuyết Con trâu, Nguyễn Văn Bổng xây dựng các nhân vật còn sơ

lược, thế giới bên trong còn mờ nhạt, chủ yếu thông qua hành động: chị Bai một

nữ du kích mới xin vào vùng đội, trước khi quyết định vượt hầm, người đọc vẫn

nhớ hành động “rút mấy cái kẹp tóc xuống ngậm giữa hai hàm răng, rủ rủ mớ

tóc, mấy ngón tay xóc xóc lên cho tóc xõa đều xuống hai vai” [6, tr.21] đủ nói

lên tư thế bình tĩnh, thanh thản của chị khi nhận lấy cái chết cho đồng đội được

sống. Hình ảnh của Phận chỉ huy dân quân in đậm trong trí nhớ của người đọc

qua hành động “giặc bắt dẫn đi chỉ hầm đã thừa cơ quật ngã thằng quan hai

xuống, ôm ghì lấy nó, lăn tràn trên đất, đến khi kiệt sức, bị chúng chĩa súng, đạp

chân lên ngực, còn cố ngoi dậy, bứt tung áo, chỉ vào ngực, hét lớn “hầm đây,

hầm bí mật đây”. Hay chị Mai, tay bồng con nhỏ, xông vào ngăn không cho

thằng Sát Sanh bắt Hiếu đi, cuối cùng mẹ con chị bị nó bắn chết...

Trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc đã xây dựng

thành công hình ảnh người anh hùng Núp trong cuộc kháng chiến chống Pháp

của đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Hình ảnh nhân vật hiện lên chủ yếu thông

qua những hành động, Nguyên Ngọc ít miêu tả nội tâm của nhân vật. Thực dân

Pháp ra sức tàn phá, đốt làng của đồng bào, nhưng Núp vẫn kiên quyết vận động

bà con làng Kông- hoa giữ vững tinh thần: “Không đi xâu, không nộp thuế cho

Pháp...” Địch ra sức càn quét bình định, khủng bố vùng du kích Tây Nguyên rất

gắt gao, Núp vẫn kiên trì cùng dân làng ra sức rào làng chiến đấu sáng tạo nhiều

cách đánh dùng chông mìn, cạm bẫy, tên nỏ diệt địch, bảo vệ nương rẫy và dân

làng. Khi Đảng cử cán bộ về bám vùng cùng dân làng đánh giặc, Núp hăng hái

hoạt động cách mạng, được cán bộ tin tưởng, cùng lao động, chiến đấu với anh

Cầm, anh Thế, Núp hiểu ra: “Đúng rồi, đều là do có Đảng chỉ cả...Bây giờ có

người chỉ huy người khổ, Núp muốn đi theo” [27, tr.115]

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 28

Đặc điểm 3: Phƣơng thức trần thuật thiên về kể, tƣờng thuật, cũng

có những biến đổi rõ rệt.

Trong tiểu thuyết Xung kích Nguyễn Đình Thi sử dụng phương pháp

chủ yếu là tường thuật, dựng lại một không gian xung quanh vùng diễn ra chiến

dịch và thời gian gồm 4, 5 ngày chuẩn bị, chiến dịch kết thúc thắng lợi, dựng

lại khung cảnh chiến trường, những đám đông sôi nổi nhộn nhịp “Tiếng nổ của

quả bộc phá lớn đập vào ngực tất cả những anh bộ đội. Cái lô cốt rụng xuống

một mảng lớn bụi mù. Thông ngã lăn quay, thở hồng hộc, mắt vẫn nhìn lại,

nom rõ cái lô cốt đã bị phá thủng. Kha quát “Đột kích một vào”, trung đội

trưởng Phú vung mạnh tay chạy lên. Giác xách khẩu trung liên đạp qua quãng

dây thép gai cuối cùng...Xung kích nhô lên, thụp xuống thoăn thoắt. Kha thét

“Chiếm lô cốt!” [39, tr.61]. Sự kiện dồn dập, từ nhiều mặt khác nhau tạo ra

một cái nhìn tổng quát, toàn diện về vấn đề. Cùng một thời điểm nhiều cảnh,

nhiều việc lần lượt được thuật lại.

Viết Con trâu , Nguyễn Văn Bổng dựng lại cuộc chiến tranh du kích của

đồng bào khu Năm, bảo vệ trâu, bảo vệ sản xuất và bảo vệ sức sống để kháng

chiến. Tiểu thuyết được xây dựng theo lối kết cấu dân gian. Sự việc diễn ra

theo thứ tự thời gian, bố cục theo chương hồi, mỗi chương giải quyết trọn vẹn

một phần của truyện. Nội dung của từng chương được tác giả kể lại bằng những

câu văn ngắn gọn, cách viết đại chúng, rõ ràng.

Tiểu thuyết Vùng mỏ của Võ Huy Tâm người đọc thấy được không khí,

ý chí đấu tranh bền bỉ của người công nhân mỏ. Tác giả tỏ ra hiểu biết đầy đủ,

chi tiết về đời sống, công việc lao động của công nhân mỏ và nhà văn đã miêu

tả bằng ngôn ngữ của nhân dân vùng mỏ. Lời văn gọn, giản dị, trình bày được

nhiều bức tranh gân guốc, đập mạnh vào người đọc. Dù còn sơ lược, nhiều chỗ

tác giả kể hơn là miêu tả nhưng Vùng mỏ ngoài ý nghĩa là một bức tranh hiện

thực, còn là tác phẩm mở đầu viết về phong trào công nhân cách mạng.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 29

Cùng với quá trình khám phá và thể hiện đối tượng chủ yếu của văn học

là con người quần chúng có sự chuyển biến rõ rệt trong quan điểm trần thuật

của các tác phẩm truyện. Đó là sự xích lại gần và tiến tới hòa nhập giữa quan

điểm trần thuật của tác giả - người trần thuật và nhân vật quần chúng. Trong

những tác phẩm hồi đầu cách mạng và kháng chiến như Một lần đến thủ đô

của Trần Đăng, Đôi mắt của Nam Cao thường thấy có một người trần thuật từ

bên ngoài hướng vào để quan sát, miêu tả những con người quần chúng với một

sự cảm phục, có cả sự ngỡ ngàng thì ở những như truyện ngắn Làng của Kim

Lân, tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài đã hầu như không có khoảng cách giữa

người trần thuật và nhân vật quần chúng, quan điểm của người trần thuật đã

hòa nhập vào trong tâm trạng, ý nghĩ, quan điểm của các nhân vật tạo nên sự

thống nhất cả trong giọng điệu và ngôn ngữ. Trần Đăng thì muốn dứt khoát từ

bỏ “cái xác chủ quan” trong những tác đầu của mình (Một lần đến thủ đô, Lúa

mới) để cho sự thực khách quan của con người và đời sống kháng chiến tự nói

lên. Còn những cây bút xuất thân từ phong trào quần chúng như Hồ Phương,

Siêu Hải, Võ Huy Tâm thì ngay từ trang viết đầu tay của họ đã có sự thống nhất

giữa quan điểm trần thuật của người kể chuyện với các nhân vật quần chúng.

1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài

1.2.1. Truyện thời kì kháng chiến chống Pháp trong chương trình và sách

giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học

TT Tác phẩm Tác giả Năm sáng tác Lớp

Làng

Kim Lân 1 2 Vợ chồng A Phủ Tô Hoài 1948 1953 9 12 Tiết học theo PPCT 62-63 55-56

* Nhận xét

Các tác phẩm truyện thời kì kháng chiến chống Pháp được sắp xếp ở cả

hai bậc THSC và THPT. Việc sắp xếp này làm nổi bật vai trò của thể loại, đồng

thời phù hợp với việc dạy đọc-hiểu, phân tích văn bản theo đặc trưng thể loại.

Các tác phẩm được lựa chọn vào chương trình giảng dạy của cả hai bậc

học chưa nhiều nhưng đều là những tác phẩm tiêu biểu cho đặc điểm nội dung

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 30

cũng như hình thức nghệ thuật của truyện thời kì kháng chiến chống Pháp

(1946-1954).

Ở giai đoạn đầu kháng chiến (1946-1948) có tác phẩm truyện ngắn Làng

của Kim Lân. Giai đoạn sau có tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Sự lựa chọn tác

phẩm ở các giai đoạn khác nhau đã giúp học sinh thấy được toàn bộ diện mạo

của truyện thời kì kháng chiến chống Pháp từ buổi đầu cho đến khi kết thúc.

1.2.2. Giáo viên với việc dạy học truyện thời kì kháng chiến chống Pháp

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát việc dạy học truyện kháng chiến chống

Pháp tại các địa điểm:

- THSC Nam Tiến - xã Nam Tiến - huyện Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên

- THPT Lê Hồng Phong - huyện Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên

- TTGDTX huyện Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên

Chúng tôi thu được kết quả như sau:

- Về hứng thú dạy học: Các giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn đều yêu

thích và hứng thú dạy học các tác phẩm truyện kháng chiến chống Pháp trong

chương trình sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học. Cô giáo Nguyễn Thị

Hằng - giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn trường THPT Lê Hồng Phong đã nói

về hứng thú khi dạy truyện thời kì kháng chiến chống Pháp trong bậc THPT:

“Truyện thời kì kháng chiến chống Pháp trong chương trình sách giáo khoa

bậc THPT không có nhiều, với tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ở lớp

12, đã thể hiện rõ bức tranh cuộc sống tăm tối, khổ cực với hủ tục lạc hậu của

đồng bào các dân tộc miền núi dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến.

Đồng thời tác phẩm cũng nói lên quá trình đấu tranh để giải phóng quê hương

dưới ánh sáng soi đường của Đảng. Tác phẩm có sự sáng tạo nghệ thuật độc

đáo, thể hiện rõ nội dung tư tưởng chủ đề của truyện”. Trong tổng số 35 phiếu

phát ra cho giáo viên các trường khác nhau, chúng tôi thấy rằng có 32 số phiếu

giáo viên cho rằng các tác phẩm truyện kháng chiến chống Pháp hay. Đây

chính là động lực tốt để giúp người giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cảm

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 31

nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Đồng thời các giáo viên đều mong

muốn chương trình học sẽ có thêm nhiều tác phẩm truyện thời kì kháng chiến

chống Pháp hơn nữa để khơi dậy trong các em hứng thú và tình yêu, lòng say

mê đối với môn Ngữ văn nói chung.

- Về phương pháp giảng dạy: Sau mấy lần đổi mới về phương pháp dạy

học, giáo viên được học về đổi mới phương pháp. Trước đây, phần lớn thầy

thuyết trình, học sinh nghe, ghi chép một cách thụ động .Giáo viên dạy Ngữ văn

vận dụng ít các phương pháp trong quá trình dạy chủ yếu là phương pháp thuyết

giảng. Thì bây giờ trên thực tế giảng, chúng tôi nhận thấy, giáo viên đã áp dụng

phong phú các phương pháp dạy học. Đặc biệt là sử dụng kiểu dạy học nêu vấn

đề, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến

thức của chính mình. Hình thức tổ chức hoạt động giữa thầy và trò ngày càng đa

dạng và linh hoạt trong các giờ dạy. Giáo viên sử dụng các hình thức: trao đổi,

thảo luận nhóm, kể chuyện, đóng vai...trong việc dạy các tác phẩm truyện thời kì

kháng chiến chống Pháp. Việc ứng dụng khoa học công nghệ thông tin trong

giảng dạy được nhiều giáo viên chú ý, quan tâm. Họ thường sưu tầm các tư liệu

sát hơn để bài giảng hấp dẫn và có hiệu quả cao hơn.

Tuy nhiên, khi trao đổi với nhiều giáo viên dạy truyện thời kì kháng

chiến chống Pháp, họ cho biết những khó khăn, vướng mắc trong việc vận dụng

phương pháp mới. Cô giáo Vũ Thị Dương Thùy trường THCS Nam Tiến huyện

Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên tâm sự: “Khi hướng dẫn học sinh học truyện kháng

chiến chống Pháp, cần phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu cốt truyện cho đến

các chi tiết (cả nội dung và nghệ thuật). Trong quá trình giảng dạy, giáo viên

cần gợi mở, nêu vấn đề, để học sinh suy luận, hình thành nhận định. Đồng thời

giáo viên cần giúp học sinh giải đáp vấn đề trong tác phẩm, cho học sinh ghi

lại kiến thức một cách khái quát, cô đọng nhất.”

Cô giáo Hoàng Thị Minh Phương, giáo viên dạy Ngữ văn TTGDTX Phổ

Yên, tỉnh Thái Nguyên lại chia sẻ kinh nghiệm dạy truyện thời kì kháng chiến

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 32

chống Pháp: “Khi tìm hiểu truyện thời kì kháng chiến chống Pháp trong sách

giáo khoa Ngữ văn bậc THPT, tuy số lượng tác phẩm đưa vào chương trình học

không nhiều nhưng bản thân tôi luôn hướng học sinh tìm hiểu giá trị của tác

phẩm thông qua những câu hỏi gợi mở, câu hỏi nêu vấn đề, cho học sinh xem

phim, đóng vai để các em vừa tái hiện vừa khắc sâu kiến thức trọng tâm”. Qua

phiếu khảo sát, chúng tôi nhận thấy các giáo viên đã đặc biệt chú ý đến việc tìm

tòi hướng khai thác và các phương pháp để đạt hiệu quả cao trong quá trình

giảng dạy. Tuy nhiên, phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng đổi mới như:

Dạy học theo đặc trưng thể loại, dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của

học sinh, hướng dẫn học sinh đọc - hiểu... chưa được quan tâm, chú trọng.

- Một số giáo viên có tâm tư nguyện vọng như sau: cần có nhiều hơn nữa

các đợt tập huấn về phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng để các giáo

viên kịp thời nắm bắt và vận dụng phương pháp giảng dạy mới để mỗi giờ dạy

văn không còn nhàm chán với học sinh.

- Hiện tại thái độ đối với môn văn của học sinh có sự phân lập rõ rệt. Số

đông học sinh hiện nay có thiên hướng thi vào các khối tự nhiên (do dễ kiếm

việc làm sau khi ra trường), số còn lại rất ít dự thi vào khối C, D. Bởi vậy, việc

học văn nói chung và học truyện nói riêng, không được học sinh hứng thú.

Điều này khiến người giáo viên gặp không ít trở ngại.

1.2.3. Học sinh với việc học truyện thời kì kháng chiến chống Pháp

Học sinh chưa có sự hiểu biết nhiều về truyện thời kì kháng chiến

chống Pháp

Kết quả khảo sát cho thấy còn tới 35% học sinh chưa thể phân biệt được

tác phẩm nào thuộc truyện thời kháng chiến chống Pháp, những tác phẩm nào

thuộc thời kì chống Mỹ. Việc hiểu các giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của

truyện giai đoạn này của học sinh còn hời hợt.

Năng lực đọc hiểu tác phẩm truyện kháng chiến chống Pháp của học sinh

còn yếu. Khi kiểm tra phần đọc hiểu tác phẩm, cho thấy các em còn lí giải hời

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 33

hợt, nông cạn hoặc chưa hình dung được một số hình ảnh, chi tiết trong tác

phẩm. Em Lê Thị Lan lớp 9B, trường THCS Nam Tiến, huyện Phổ Yên, tỉnh

Thái Nguyên nói:“Thời kì kháng chiến chống Pháp đã qua lâu, em không hiểu

thế nào là tản cư? Không hình dung được cuộc sống tản cư”.

Em Nguyễn Thị Vân Anh học sinh lớp 12A, TTGDTX Phổ Yên, tỉnh

Thái Nguyên tâm sự: “Học Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, em mở rộng

thêm hiểu biết của mình về nội dung nhân đạo của các tác phẩm văn học.

Trước đó, em hiểu nhân đạo chỉ yêu thương, cảm thông hoặc lên án cái xấu,

bảo vệ cái đẹp, cái tốt. Với Tô Hoài ông đã đem đến một giá trị mới mẻ, đặc

sắc cho nội dung nhân đạo: hướng nhân dân đến với cách mạng và tìm ra lối

thoát để giải phóng con người”.

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy việc giảng dạy truyện kháng chiến

chống Pháp thực sự vẫn còn nhiều vấn đề đang được đặt ra trước mắt với người

đứng lớp.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 34

Chƣơng 2

ĐỊNH HƢỚNG VỀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM

TRUYỆN THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN CẤP TRUNG HỌC

Ở chương 1, luận văn đã làm sáng tỏ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của

việc dạy học truyện thời kì kháng chiến chống Pháp. Sang chương 2, luận văn

sẽ đề cập đến vấn đề định hướng dạy học truyện thời kì kháng chiến chống

Pháp ở trường phổ thông với hai mục lớn:

1) Định hướng chung về phương pháp dạy học các tác phẩm truyện theo

thể loại.

2) Định hướng dạy học cho từng tác phẩm truyện thời kì kháng chiến

chống Pháp được lựa chọn vào SGK Ngữ văn bậc trung học

2.1. Định hƣớng chung về phƣơng pháp dạy học các tác phẩm truyện theo

thể loại

2.1.1. Ý kiến của tác giả Trần Thanh Đạm trong cuốn“Vấn đề giảng dạy tác

phẩm văn học theo loại thể”, (NXB Giáo dục Hà Nội, 1971) đã bàn về vấn đề

giảng dạy truyện như sau:

Muốn cho học sinh cảm thụ và nắm vững hình tượng trong truyện, ngoài

nhiều yêu cầu khác, cần chú trọng ba yêu cầu sau đây về mặt phương pháp:

1) Làm cho học sinh nắm vững đƣợc sự phát triển của tình tiết trong

tác phẩm tức là nắm đƣợc cốt truyện

Có nhiều cách làm cho học sinh nắm được tình tiết tác phẩm. Đối với các

truyện dân gian có thể yêu cầu nắm tình tiết bằng cách kể lại. Các truyện dân

gian thường có tình tiết đơn sơ mà đẹp đẽ, khêu gợi tưởng tượng và hứng thú

của học sinh các em dễ nhớ, dễ kể lại. Tuy vậy, không phải thiên truyện nào

học sinh cũng có thể kể lại một cách đầy đủ. Không thể yêu cầu học sinh kể lại

được một cách hoàn chỉnh truyện Chí Phèo hoặc Vợ chồng A Phủ. Hơn nữa,

trừ các truyện dân gian vốn không có lời kể cố định, còn các truyện đã có lời kể

nghệ thuật của tác giả, việc kể lại một cách thô thiển cốt truyện có thể vô tình

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 35

xuyên tạc hoặc hạ thấp tác phẩm. Cho nên điều quan trọng để nắm vững tình

tiết tác phẩm là phân tích các chặng đường phát triển chủ yếu của nó. Đây phải

là nội dung chủ yếu của phần phân tích bố cục (kết cấu), tức là phần phân tích

cấu tạo đại cương của tác phẩm, trong quá trình giảng văn. Phần này thường bị

các thầy giáo bỏ qua một cách quá vội vàng trong khi dạy, nhưng thật ra nó có

vị trí và vai trò rất quan trọng, giúp học sinh nắm vững cấu tạo bài văn.

Việc phân tích các chặng tình tiết trong truyện sẽ giúp học sinh bước đầu

nắm được hình tượng tác phẩm. Tất nhiên đây mới là bước đầu nhưng là bước

rất cần thiết và quan trọng. Trước khi đi sâu vào phân tích chi tiết, một sự phân

tích đại cương như vậy về các chặng tình tiết của truyện sẽ củng cố ấn tượng

hoàn chỉnh đầu tiên của học sinh với hình tượng tự sự của tác phẩm. Ví dụ

truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một tác phẩm hiện đại trong đó sự

phát triển của tình tiết qua các chặng vừa rất rõ ràng vừa rất nhuần nhị. Số phận

hai nhân vật chính phát triển qua hai giai đoạn kế tiếp nhau. Ở Hồng Ngài, đất

thống trị của cha con thống lý Pa Tra, những con người cùng khổ trong vòng nô

lệ của bọn chúa đất, chúa mường. Tác giả kể về cuộc đời bất hạnh của Mỵ làm

dâu gạt nợ nhà thống lý Pa Tra, rồi khéo léo kể sang hoàn cảnh A Phủ bị bắt làm

nô lệ cho Pa Tra, rồi hai con người đau khổ ấy cứu lấy nhau và chạy trốn. Ở

Phiềng Sa họ nên vợ nên chồng tham gia cách mạng, giải phóng quê hương.

Cốt truyện chưa phải là toàn truyện. Nhưng nắm được cốt truyện thì có

điều kiện tốt để hiểu toàn truyện.

Trong tác phẩm tự sự, tức là trong truyện, nội dung chủ yếu của kết cấu

tác phẩm chính là sự phát triển của tình tiết. Sự phân tích kết cấu của truyện

nên hướng vào việc tìm ra được các chặng phát triển của tình tiết, từ đó mà

nắm được cấu tạo hình tượng tác phẩm. [10, tr.177-178]

2) Làm cho học sinh cảm thụ đƣợc sâu sắc, đánh giá đƣợc đúng đắn

nhân vật trong tác phẩm

Nhân vật là nơi tập trung biểu hiện tư tưởng, tình cảm của tác phẩm và

tác giả. Nhân vật gắn liền, hòa hợp với tình tiết không rời. Nếu phân tích nhân

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 36

vật một cách biệt lập thì nó sẽ mất hết sức sống, trở thành trừu tượng. Dạy học

truyện, sau khi làm cho học sinh nắm được sự phát triển đại cương của tình tiết,

cần tiến lên giúp học sinh cảm thụ được sâu sắc và đánh giá được đúng đắn

nhân vật trong truyện.

Phân tích một nhân vật trong tác phẩm không phải đơn thuần là dùng

một số tính từ xác đáng nào đó để đánh giá, để khen hoặc chê nhân vật đó. Điều

này cũng rất cần thiết nhưng chưa đủ. Cần tìm trong lai lịch, diện mạo, hình

dung, ý nghĩ, cảm xúc, lời nói, cử chỉ, hành động, thái độ của nhân vật đó

những căn cứ dẫn ta đi đến sự đánh giá bên trên. Hơn nữa cần phát hiện ở mỗi

nhân vật một vấn đề, một bài học. Có như vậy sự phân tích nhân vật mới bổ ích

và sâu sắc. Yêu cầu chủ yếu đối với sự phân tích nhân vật về mặt phương pháp

là sự phân tích đó phải cụ thể, hay nói đúng hơn phải đi từ cụ thể đến trừu

tượng, từ riêng biệt đến khái quát. Phân tích nhân vật phải là sự phân tích hình

tượng. Muốn vậy, trong khi phân tích cần chú trọng những điều sau đây:

* Cho học sinh lưu ý đến các chi tiết miêu tả, tự sự, nhận xét về nhân vật

trong bài văn.

Để cho việc phân tích nhân vật là sự phân tích cụ thể, cần bám thật chắc

vào các chi tiết, xuất phát từ các chi tiết đó, không nên vội sớm đưa ra những

nhận xét khái quát hoặc liệt kê những đặc điểm của nhân vật dựa vào những ấn

tượng còn lờ mờ, chung chung sau khi mới đọc qua tác phẩm. Chi tiết chính là

da thịt, là thần kinh, là mạch máu của hình tượng. Tính nhạy cảm trong sự cảm

thụ chi tiết, đồng thời trong sự phát hiện ý nghĩa khái quát sâu sắc của các chi

tiết đối với hình tượng, đó là dấu hiệu của năng lực thẩm mỹ cao. Cảm thụ và

phân tích nhân vật cũng phải chú trọng trau dồi và nâng cao năng lực đó.

* Phát hiện và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp phân loại chung

theo trình tự hợp lý nhằm làm sáng tỏ tính cách của nhân vật

Cần phát hiện và lựa chọn những chi tiết nào tiêu biểu, có ý nghĩa nhiều

nhất, có ý nghĩa làm sáng tỏ khía cạch này hay khía cạch khác của tính cách

nhân vật. Phân tích nhân vật cũng như phân tích hình tượng nghệ thuật nói

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 37

chung tức là dùng tư duy lô gích và ngôn ngữ lý luận để tách riêng ra và sắp đặt

lại những điều vốn là kết quả của tư duy hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật.

Trong truyện, nhân vật vốn là hình tượng hoàn chỉnh và sinh động.

Nhưng khi phân tích các nhân vật đó, chúng ta phải sắp xếp, phân loại các chi

tiết về họ theo từng mặt để có một nhận thức và đánh giá đúng đắn, sâu sắc về

họ. Ví dụ như có thể lần lượt xem xét hình tượng thông qua các mặt:

- Dung nhan

- Lai lịch

- Lời nói

- Hành động

-Tâm trạng...

Đi vào từng mặt một, vừa nhắc lại các chi tiết liên quan chúng ta vừa

bình luận các chi tiết đó từ nhiều phía làm sáng tỏ tính cách nhân vật. Việc

phân tích xuất phát từ các chi tiết như vậy sẽ làm cho hình tượng nhân vật tiếp

tục sống trong quá trình phân tích, không trở thành những hình mẫu cứng đờ.

* Cuối cùng, tổng hợp các mặt phân tích về nhân vật thành một nhận định

khái quát, nêu bật được ý nghĩa và tác dụng nhận thức cũng như giáo dục của nhân

vật, gợi ra những vấn đề liên hệ, suy nghĩ, thảo luận, tranh luận về nhân vật

Tác dụng giáo dục của các nhân vật văn học được phát huy chính từ đặc

điểm : nhân vật thường gợi ra những thiện cảm hay ác cảm, những suy nghĩ và

thảo luận, nhiều lúc gợi ra nhiều mối liên tưởng đến những con người tương

đồng hay tương phản trong văn học, trong cuộc sống, xui người ta liên hệ với

thực tế, với bản thân mình.... Vì vậy khi phân tích nhân vật không chỉ dừng lại

ở chỗ phân tích mà phải tổng hợp, khái quát lại, nêu bật lên tính điển hình của

nhân vật, từ đó mà nâng cao, mở rộng, đi sâu vào ý nghĩa xã hội và giáo dục

của hình tượng nhân vật. [10, tr.183 -185]

3) Làm cho học sinh cảm thụ và hiểu đƣợc cái ý vị trong lời kể của

tác giả (hay ngƣời kể chuyện)

Lời kể chính là ngôn ngữ nghệ thuật của truyện. Phân tích lời kể của tác

giả chính là thực chất, là nội dung chính của việc phân tích ngôn ngữ khi giảng

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 38

dạy truyện. Khi phân tích lời kể trong truyện cần chú trọng chỉ ra được sức

mạnh gợi tả của ngôn ngữ, chỉ rõ các từ ngữ, câu văn, cách viết, lối kể của tác

giả đã làm hiển hiện được cảnh, việc, người như thế nào, đồng thời làm xúc

cảm người đọc như thế nào.

Khi giảng dạy truyện, cần phân tích sức biểu hiện, gợi cảm thường khi rất

tế nhị trong lời kể của truyện. Vì những lời kể, những câu văn được viết ra

thường nặng trĩu chất sống, kết tinh những nhận xét, suy nghĩ, xúc cảm của nhà

văn, không có vốn sống dồi dào không thể viết được. Khi đọc văn, giảng văn nếu

không có tấm lòng tri âm đối với văn chương thường không thấy được và không

chỉ ra được cái công phu chất chứa trong lời văn tưởng chừng như đơn giản đó.

Giảng dạy truyện thì phải phân tích lời kể của truyện, phân tích phong

cách ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm. Lời kể của truyện là những sợi tơ dệt

nên tình tiết và nhân vật, dệt nên toàn bộ hình tượng. Sự phân tích lời kể do đó

gắn chặt với việc phân tích tình tiết và nhân vật, cùng làm nên cái đặc sắc của

việc dạy truyện như là tác phẩm có một phương thức kết cấu đặc biệt theo loại

thể. [10, tr.194-195].

2.1.2. Ý kiến của tác giả Nguyễn Viết Chữ trong cuốn “Phương pháp dạy học

tác phẩm văn chương theo thể loại” (NXB Đại học Hà Nội, 2001) Ở phần II,

chương I: Phương pháp và biện pháp dạy học các tác phẩm tự sự, trong mục

I.2, tác giả đưa ra ý kiến về Phương pháp và biện pháp dành cho loại tự sự tác

giả như sau:

Khác với tự sự dân gian, tự sự tác giả thường biểu hiện cá tính sáng tạo

của mình, cá tính sáng tạo càng rõ, phong cách nhà văn càng đậm, người dạy tự

loại sự này phải phát hiện được thi pháp tư tưởng, có thể bộc lộ trong lời kể

(gián tiếp hay trực tiếp), yếu tố quan trọng “dệt nên hình tượng của tác phẩm

tự sự”. “Đã là tự sự phải có tình tiết, tình tiết là dấu hiệu đặc trưng đầu tiên”.

Điều nữa phải quan tâm tới là “sự tồn tại hoạt động của nhân vật giữa các hệ

thống, các sự việc, các biến cố của cốt truyện”. Với tiểu thuyết và truyện ngắn

hiện đại cần đặc biệt chú ý tới yếu tố khách quan, sự “trầm tĩnh”, “thản nhiên”,

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 39

giọng điệu lại luôn thay đổi làm cho mỗi nhân vật có cách nói riêng và tiết tấu

riêng. Đây là yếu tố quan trọng tạo nên đặc trưng của tiểu thuyết, Bakhtin gọi là

“tính chất phức điệu” (polyphonie). Chúng ta phải tìm ra được cái khả năng và

cảm hứng riêng của thể loại này, “cái thần tình của thể loại” (génie de genre).

Từ ba tính chất tự sự, trữ tình và kịch mà tiểu thuyết hình thành với

những “độc thoại bên trong” với những “chiều sâu tâm lý”...được thể hiện với

nhiều phương pháp sáng tác khác nhau. Trong khi đó nhiều thuật ngữ chưa

thống nhất như “tính cách- số phận” và “tính cách điển hình”....Nhưng dù thế

nào điều đáng lưu ý là bây giờ chúng ta dạy “Văn”, dạy tác phẩm trọn vẹn chứ

không phải là “trích giảng” hay “Văn tuyển” như trước đây cho nên công việc

giới thiệu tóm tắt tác phẩn là vô cùng quan trọng. Việc dạy một chương hay

một đoạn nào đó chỉ là minh họa cho tác phẩm cho tác phẩm mà thôi. Hiện nay,

việc dạy những chương, những đoạn trích mà giáo viên chưa đọc tác phẩm

không phải là ít trong nhà trường của ta.

Ở các loại này phải huy động cả chín loại câu hỏi, khi dạy học linh hoạt

tận dụng ba con đường (theo bước chân tác giả, theo chủ đề, đề tài hoặc theo

nhân vật). [7, tr.113-114]

* Trong chương này tác giả Nguyễn Viết Chữ cũng đưa ra quan niệm

của mình về phương pháp dạy học truyện ngắn cụ thể như sau: đã là truyện trữ

tình hay tự sự, cũng phải kể lại được, tóm tắt được, nhớ được, hình dung ra

được những bức tranh nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ cao. Với những truyện

ngắn tự sự, biết được thi pháp tác giả có thể theo bước chân tác giả, theo nhân

vật...để tìm ra tư tưởng chủ đề. Nhưng lại có những nhà văn đi tới những triết

luận bất ngờ mà sâu sắc kiểu Nam Cao, những trữ tình ngoại đề giàu chất suy

tưởng kiểu Nguyễn Khải, những phát hiện độc đáo từ suy tư đến ngôn ngữ và

hình ảnh của Nguyễn Tuân, những liên tưởng duyên dáng, mà sắc sảo, trong

sáng kiểu Nguyễn Minh Châu...., ta tùy từng tác phẩm cụ thể mà có phương

pháp và biện pháp tích cực qua đọc diễn cảm kết hợp giảng với bình.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 40

Tránh những qui trình nhàm chán lặp đi, lặp lại như: giới thiệu, chủ đề,

bố cục, phân tích, tổng kết. Đây vẫn có thể là logic bên trong của một tiết dạy

học tác phẩm văn chương nói chung, nhưng không phải là công thức chung cho

mọi giờ dạy học tác phẩm, mà hết sức linh hoạt. [7, tr 120-121]

2.1.3. Ý kiến của tác giả luận văn

Thể loại văn học là dạng thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm văn học.

Tác phẩm văn học nào cũng có một hình thể nhất định (thể thức về cấu tạo, thể

thức về ngôn từ) các hình thức cá biệt ấy rất đa dạng, song giữa các tác phẩm

khác biệt ấy lại có những đặc điểm gần gũi nhau về ngôn ngữ, hình tượng, cấu

tạo. Vì vậy người ta đã chia tác phẩm văn học ra từng loại nhất định. Mỗi loại

hình lại có một số thể loại. Mỗi thể loại lại có đặc thù riêng về nội dung và hình

thức. Từ lâu người ta đã chia văn học làm ba loại: tự sự, trữ tình, kịch. Các nhà

lí luận văn học Việt Nam chia làm năm loại: thơ, truyện, kí, kịch và văn nghị

luận.Truyện là một tác phẩm tự sự có đặc trưng là kể một câu chuyện có cốt

truyện, nhân vật và lời kể để phản ánh hiện thực cuộc sống và bộc lộ tư tưởng,

tình cảm của tác giả. Truyện gồm có ba thể loại: truyện ngắn, truyện vừa và

tiểu thuyết. Trong văn học Việt Nam một số truyện vừa cũng được gọi là tiểu

thuyết và có thêm một thể loại nữa là truyện kí.

* Đặc trƣng về nội dung của truyện:

Là một thể loại văn học phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó

qua con người, hành vi, sự kiện được miêu tả và kể lại bởi một người nào đó.

Phạm vi miêu tả của truyện không bị hạn chế bởi thời gian và không gian

Một tác phẩm thuộc thể loại truyện là tác phẩm vừa tái hiện lại bức

tranh cuộc sống xã hội, con người ở thời đại nào đó, vừa là nơi tác giả giãi

bày, gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình trước hiện thực ấy. Bởi thế, đến

với một tác phẩm văn học thuộc loại truyện, người đọc sẽ đến với hai thế

giới: thế giới xã hội và con người ở thời kì lịch sử nào đó và thế giới tâm

hồn của tác giả cuốn truyện.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 41

A. Hiện thực cuộc sống được nhà văn khám phá

Đó là những khám phá riêng của nhà văn về xã hội, cuộc sống con

người ở nhiều mặt, nhiều góc độ khác nhau:

Trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân, hiện thực cuộc sống

được nhà văn phản ánh là lòng yêu làng, yêu nước của người nông dân được

biểu hiện rõ vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

Nhà văn đặt nhân vật vào tình huống có ý nghĩa: là một nông dân suốt đời sống

ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà, thửa

ruộng...giờ đây vì giặc ngoại xâm, ông Hai phải xa rời quê hương đi tản cư. Do

đó lòng ông đau đáu nhớ quê. Ban ngày bận lo việc sản xuất, buổi tối ông Hai

lại sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ quê quê hương của mình. Trong câu

chuyện, ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê mình...Nghe

những chuyện ấy, mọi người đều cảm thông với lòng nhớ quê hương da diết

của ông. Đó là một người yêu quê hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên.

Tình cảm ấy bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống từ những sự vật, con

người gắn bó hàng ngày.

Không chỉ bằng tình cảm tự nhiên, ông Hai còn biết yêu quê hương

bằng sự nhận thức sâu sắc của người dân Việt Nam tự nguyện đi theo kháng

chiến, gắn bó với cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Tình yêu quê hương đã

gắn bó với tình yêu Tổ quốc. Ở nơi tản cư, nghe tin làng mình theo giặc ông

Hai sững sờ “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng

đi, tưởng như đến không thở được” [20, tr.26]. Về đến nhà ông nằm vật ra

giường... ông thấy tủi hổ “nước mắt ông lão cứ trào ra”. Nhà văn đã miêu tả

rất cụ thể, sâu sắc những biến động dữ dội trong nội tâm nhân vật. Những đau

đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống phải

lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc bên nào nặng hơn? Quê hương đáng yêu,

đáng tự hào...Nhưng giờ đây....Tình yêu quê hương và tình yêu Tổ quốc xung

đột dữ dội trong lòng ông...Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc, nhưng trong cõi

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 42

sâu thẳm của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến “Ủng hộ

cụ Hồ”. Như vậy, đối với người nông dân thuần phác ấy, tình yêu nước rộng

lớn đã bao trùm lên tình cảm quê hương.

Trong truyện ngắn Làng, Kim Lân đã tái hiện một cách chân thực cuộc

sống sinh hoạt của nhân dân ta nơi tản cư: Nhân dân nơi tản cư tập trung tăng

gia sản xuất. Nhân dân theo dõi thông tin ở phòng thông tin: ông Hai trong lúc

mong tin làng mình, những tin vui chiến thắng ở khắp mọi miền, khiến ông Hai

“ruột gan cứ múa cả lên”. Đồng thời tái hiện cả thế giới nội tâm của nhân dân

ta thời ấy, đó là lòng yêu làng hòa quyện với lòng yêu nước, trung thành với

cách mạng“Ủng hộ cụ Hồ” cùng tinh thần kháng chiến của nhân dân “tản cư

âu cũng là kháng chiến”.

Ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, nhà văn lại phản ánh hiện

thực cuộc sống thống khổ của đồng bào dân tộc Tây Bắc dưới ách thống trị

của thực dân phong kiến miền núi. Đồng bào không chỉ có cuộc sống nghèo

khổ mà còn phải gánh chịu nhiều những hủ tục hà khắc. Đó là tục cho vay

nặng lãi đã trói Mị vào món nợ truyền kiếp. Mị phải sống cuộc đời của người

con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Định mệnh bi thảm đã giáng xuống cuộc

đời người thiếu nữ ấy, buộc chặt cô vào số phận nô lệ không có lối thoát. Đó

là tục cướp vợ trình ma: Mị là cô gái đẹp, thổi kèn hay, nhiều người mê Mị

“trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Tết năm ấy, Mị bị A Sử -

con trai thống lí Pá Tra đánh lừa, lợi dụng tục này cướp cô về làm vợ. Xót xa

thay, hắn đâu cưới Mị vì tình yêu, hắn và người nhà hắn bắt Mị về ép duyên

để gạt nợ: “Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng

ma đương rập rờn nhảy múa”.Đó là tục xử kiện, phạt vạ, trình ma người vay

nợ: A Phủ đánh A Sử bị phạt một trăm đồng bạc trắng, anh vĩnh viễn trở

thành nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra.

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ còn nói lên quá trình giác ngộ cách mạng

từ tự phát đến tự giác của nhân dân miền núi: ở Hồng Ngài Mị và A Phủ sống

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 43

một cuộc sống nô lệ, tối tăm của kiếp trâu ngựa. Hành động cởi trói cho A Phủ

của Mị là một hành động tự phát nhưng nó đã chứng minh rõ ràng qui luật “tức

nước vỡ bờ” bị đè nén tới một mức độ nào đó con người đã vùng lên đấu tranh.

Ở Phiềng Sa A Phủ tích cực, chủ động tham gia cách mạng, kết nghĩa anh em

với cán bộ A Châu, là đội trưởng đội du kích cùng đồng bào đấu tranh giải

phóng quê hương.

B. Tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả trước hiện thực đó.

Đằng sau mỗi câu chuyện kể thường là những nhận xét, suy ngẫm, xúc

cảm của nhà văn. Thái độ, tình cảm của nhà văn trước hiện thực cuộc sống có

thể là ngợi ca, đồng tình, biểu dương, có khi là phê phán, lên án.

Trong truyện ngắn Làng, Kim Lân ca ngợi tấm lòng yêu quê hương sâu

sắc của ông Hai. Ông không chỉ gắn bó mà còn tự hào về làng mình, kiên quyết

không dời đi ở lại để bảo vệ làng. Ở nơi tản cư ông hay khoe và hãnh diện về

làng Chợ Dầu. Hằng ngày ông ra phòng thông tin để nghe tin về làng. Khi nghe

tin làng mình theo giặc ông đau đớn, nhục nhã tưởng chừng bế tắc, nhưng trong

cõi sâu thẳm của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến “Ủng

hộ cụ Hồ”. Như vậy, đối với người nông dân thuần phác ấy, tình yêu nước rộng

lớn đã bao trùm lên tình cảm quê hương.

Đó là sự khám phá của nhà văn Kim Lân về vẻ đẹp tâm hồn của người

nông dân Việt Nam, ông đã có một cái nhìn rất đúng đắn về người nông dân,

một cái nhìn vừa thiện cảm vừa tin tưởng ở họ. Cái nhìn đó của nhà văn đem

đến cho người đọc một niềm tin vào sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống

Pháp của dân tộc thời bấy giờ.

Trước hiện thực được phản ánh trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô

Hoài vừa bày tỏ thái độ, tình cảm vừa ca ngợi vừa lên án, phê phán:

Tác giả bộc lộ thái độ căm ghét chế độ thực dân phong kiến miền núi đã

chà đạp lên quyền sống, quyền được hạnh phúc của con người. Một người con

gái xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo như Mị phải làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 44

Tra, sông kiếp sống trâu ngựa, bị hành hạ cả về thể xác (A Sử trói đứng Mị trong

đêm tình mùa xuân, vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm), hành hạ về tinh

thần (Mị nghĩ nó trình ma nhà nó rồi thì Mị chỉ có ở đây cho đến chết mới

thôi...). Đồng thời nhà văn lên án mạnh mẽ những hủ tục lạc hậu, hà khắc như

tục vay nặng lãi, cướp vợ trình ma, tục xử kiện, phạt vạ, trình ma người vay nợ...

Tô Hoài đã phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp của cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn

của con người Tây Bắc. Đọc truyện ngắn, ta được trải nghiệm những phong tục

đẹp, giàu bản sắc văn hóa của đồng bào vùng Tây Bắc: mùa xuân trên vùng cao

thật rực rỡ, con gái Mèo phơi những chiếc váy hoa sặc sỡ, ở đám đất rộng trẻ

con nô đùa chơi quay, chơi cù, trai gái đánh pao và tiếng sáo gọi bạn tình đã lấp

ló đầu núi...Thiên nhiên đẹp, con người Tây Bắc cũng đẹp. Tô Hoài đã phát

hiện vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong con người của Mị. Một cô Mị

tưởng chừng sống như đã chết “lùi lũi như con rùa nuôi xó cửa” nhưng lại có

sự thay đổi kì diệu trong đêm tình mùa xuân: Mị nhớ về quá khứ tươi đẹp, Mị

thấy mình trẻ lắm, Mị muốn đi chơi, Mị thay áo váy đi chơi. Sức sống tiềm ẩn

trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết trong con người Mị là đêm cởi trói cho A

Phủ. Một việc làm táo bạo, bất ngờ nó đồng nghĩa với việc Mị đã chiến thắng

nỗi sợ hãi của bản thân, cũng có nghĩa cắt đứt mối quan hệ giữa gia đình gia

đình Pá Tra với Mị. Hay nhân vật A Phủ đứa con tự do của núi rừng cũng để lại

ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Một người giàu lòng tự trọng, không sợ

uy quyền, cường quyền. Ở Phiềng Sa Mị và A Phủ nên vợ nên chồng, tích cực

tham gia cách mạng giải phóng quê hương. Như vậy không chỉ ngợi ca mà nhà

văn còn tin tưởng vào khả năng làm cách mạng và chỉ ra con đường để giải

phóng cho đồng bào miền núi.

* Đặc trƣng về nghệ thuật của truyện:

Truyện tái hiện đời sống khách quan và thể hiện những tư tưởng, tình

cảm chủ quan của nhà văn thông qua hệ thống sự kiện, biến cố... tại nên cốt

truyện, gắn với cốt truyện là nhân vật. Nhân vật trong truyện được khắc họa

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 45

một cách tỉ mỉ từ ngoại hình đến thế giới nội tâm, từ quá khứ đến hiện tại. Bức

tranh cuộc sống và hình tượng nhân vật được tái hiện qua người kể chuyện với

lời kể chuyện. Như vậy, đặc trưng nghệ thuật của truyện gồm: nghệ thuật xây

dựng cốt truyện, nghệ thuật miêu tả nhân vật và nghệ thuật trần thuật (ngôi kể,

lời kể, giọng kể).

A. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện

Cốt truyện là một hệ thống sự kiện, những biến cố trong tác phẩm tự sự

và tác phẩm kịch, thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một

hoàn cảnh xã hội nhất định, nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Về phương diện kết cấu và quy mô nội dung, nhìn chung có thể chia cốt

truyện thành hai loại: cốt truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến. Cốt truyện

đơn tuyến có hệ thống sự kiện gọn gàng và thường là đơn giản về số lượng, tập

trung thể hiện quá trình phát triển tính cách của một vài nhân chính. Cốt truyện

đơn tuyến thường tồn tại trong các truyện ngắn, truyện vừa. Cốt truyện đa

tuyến là cốt truyện trình bày một hệ thống các sự kiện phức tạp, nhằm tái hiện

nhiều bình diện của đời sống của một thời kì lịch sử, tái hiện những con đường

diễn biến phức tạp của nhiều nhân vật.

Dù đa dạng, mọi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động có

hình thành, phát triển và kết thúc. Vì vậy mỗi cốt truyện bao gồm năm thành

phần: trình bày, khai đoạn (thắt nút), phát triển, đỉnh điểm (cao trào) và kết

thúc (cởi nút).

Cốt truyện Làng của Kim Lân là cốt truyện đơn tuyến, xoay quanh nhân

vật ông Hai một người yêu làng yêu nước. Cốt truyện đơn giản, không nhiều

tình tiết, nhà văn đã cho nhân vật của mình hoạt động trong những tình huống

cụ thể để bộc lộ rõ nhân cách của mình:

- Tối nào cũng vậy,ở nơi tản cư cách quê nhà vài chục cây số, ông Hai

thường sang nhà hàng xóm trò chuyện. Khi những câu chuyện tin tức hằng

ngày nhạt dần, ông nói chuyện về làng ông. Ông vẫn có tính khoe làng...Chẳng

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 46

biết người nghe có chú ý không, “ông lão nói cho sướng miệng và đỡ nhớ cái

làng của ông” [20, tr.18]. Ở nơi tản cư, trong thân phận nhờ cậy người khác,

lòng ông luôn day dứt nhớ tới quê hương.

- Buổi trưa hôm ấy, trên đường từ phòng thông tin về nhà, ông Hai nghe

lao xao mấy người tản cư từ mạn dưới lên đưa tin giặc Tây đánh vào quê ông,

làng Dầu của ông “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”. Cổ ông nghẹn đắng

lại, da mặt tê rân rân. Suốt mấy ngày liền, nhất là khi nghe chủ nhà ngỏ ý đuổi

gia đình đi... thì ông Hai “rợn cả người”. Về làng ư? Không thể được!...

- Vài ngày sau, khoảng ba giờ chiều, ông chủ tịch làng Dầu lên chơi, mời

ông Hai đi họp và báo tin mới ... “Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này

cải chính,...cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo!

Láo hết!...” [20, tr.34]. Ông lão cứ múa tay lên khoe cái tin ấy với mọi người.

Và tối tối, như trước kia, ông Hai lại sang nhà hàng xóm kể chuyện về cái làng

của ông.

Cốt truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài cũng là cốt truyện đơn tuyến

gồm hai phần rõ ràng: Cuộc sống của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài và cuộc sống

của hai con người ấy ở Phiềng Sa.

*Cuộc sống của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài gồm các sự kiện:

- Cuộc sống làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra của Mị.

- Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân.

- A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra.

- Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.

*Cuộc sống của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa gồm các sự kiện:

- Mị và A Phủ lấy nhau

- A Phủ kết nghĩa anh em với cán bộ A Châu, tích cực tham gia cách

mạng, giải phóng quê hương.

Cốt truyện Vợ chồng A Phủ thể hiện hai ý nghĩa: diễn tả chân thực về

nỗi cực nhọc, khổ đau cùng sức sống mãnh liệt của người dân lao động các dân

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 47

tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến miền

núi. Đồng thời thể hiện niềm cảm thông, thương xót những con người bất hạnh,

bị chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc. Tô Hoài thấu hiểu, trân trọng

những đức tính cao quý của con người trong nghịch cảnh. Đồng thời, tác giả

lên án, phê phán xã hội thực dân nửa phong kiến hà khắc.

B. Nghệ thuật miêu tả nhân vật

Có nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau trong việc xây dựng nhân vật:

miêu tả nhân vật qua ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ và hành động.

1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình

Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục, cử chỉ,

tác phong, diện mạo... Đây là yếu tố quan trọng góp phần cá tính hóa nhân vật.

Ngoại hình nhân vật cần góp phần biểu hiện nội tâm. Đây cũng chính là sự

thống nhất giữa cái bên ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính

cách, đời sống bên trong của nhân vật thay đổi, nhiều nét bên ngoài của nhân

vật cũng thay đổi theo.

Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay cho thấy nhà

văn bao giờ cũng chọn lựa công phu những chi tiết nghệ thuật đặc sắc để khắc

họa nhân vật.

Trong truyện ngắn Làng của Kim Lân: Khi nghe tin cải chính, ông Hai

như người được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đối cùa trạng thái tâm lí lại

được khắc hoạ sinh động, tài tình qua nét vẽ về ngoại hình "Cái mặt buồn thiu

mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt

hung hung đỏ hấp háy..." [20, tr.33].

Với tác phẩm Vợ chồng A Phủ Tô Hoài đã xây dựng hình tượng nhân

vật A Phủ với những nét ngoại hình ấn tượng:A Phủ trở thành chàng trai Mông

khoẻ mạnh chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi

và đi săn bò tót rất bạo. Con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói:

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 48

"Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc

mà giàu" [18, tr.143].

2. Miêu tả nhân vật qua biểu hiện nội tâm

Khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc cuộc sống

bên trong của nhân vật. Ðó là những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản

ứng tâm lí... của nhân vật trước những cảnh ngộ, những tình huống gặp phải

trong cuộc đời.

Trong truyện ngắn Làng Kim Lân đã miêu tả nội tâm nhân vật bằng

những chi tiết nghệ thuật đặc sắc.

* Chi tiết ông Hai đi khoe về làng mình:

- Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường.

Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. Ông khoe làng

ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát

thanh thì cao bằng ngọn tre...[20, tr.15].

- Ông mê man giảng giải cho họ: cái tượng đá này là ông Hoàng Thạch

Công đánh rơi giày. Những người bằng sứ kia là bát tiên quá hải...[20, tr.16]

Ông luôn mang trong mình niềm tự hào lớn về làng Chợ Dầu giàu đẹp,

cái gì cũng nhất vùng. Một ngôi làng như thế khiến ông rất say mê, hãnh diện,

tự hào, những câu chuyện kể như lời mời gọi tất cả đến thăm “đường làng lát

bằng đá xanh, trời mưa gió, đi từ đầu làng đến cuối làng không sợ bùn dính gót

chân”, là những nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh” [20, tr.15]. Dường như

hình ảnh ngôi làng luôn thường trực trong tâm trí của lão nông ấy để khi nói về

nó “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”. [20, tr.15]

* Chi tiết ông Hai đau buồn và xấu hổ khi nghe tin đồn làng mình

theo Tây

- “Cổ lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi, tưởng như không thở

được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì đó vướng ở cổ, cất tiếng hỏi,

giọng lạc đi: Liệu có thật không hở bác, hay là chỉ lại...” [20, tr.26].

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 49

- “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ

con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy

ư?...Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên: Chúng bay ăn miếng cơm hay

miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế

này.” [20, tr.27].

Qua đó, thấy được tâm trạng sững sờ, ngạc nhiên cao độ đến hoảng hốt,

nghẹn cả giọng của ông Hai trước tin dữ làng mình theo giặc.

* Chi tiết ông Hai đối thoại với đứa con:

- “Nhà ta ở làng Chợ Dầu...Thế con ủng hộ ai?...Ủng hộ cụ Hồ Chí

Minh muôn năm...Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má.Ông

nói thủ thỉ: Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.”[20, tr.32]. Ông nói như thế để

ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Đoạn độc thoại này đã

biểu hiện thật cảm động nội tâm yêu làng yêu nước của ông Hai. Có lẽ, phải

thật sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lý người nông dân, nhà văn

Kim Lân mới diễn tả tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai đúng và hay

đến vậy!

* Chi tiết ông Hai mừng rỡ khi tin đồn được cải chính:

Ông “Lật đật đi thẳng sang gian bác Thứ; lật đật bỏ lên nhà trên, lật đật

bỏ đi nơi khác; múa tay lên mà khoe; vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về

cái làng của ông...” [19, tr.33]

Nếu như trước ông Hai buồn khổ bao nhiêu thì lúc tin đồn được cải

chính ông vui mừng bấy nhiêu. Cái khuôn mặt buồn thỉu, đau đớn, sầu khổ

mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rõ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt

hung hung đỏ, hấp háy. Ông tất bật đưa quà cho con rồi lật đật đi khoe. Ông

kể việc làng bị đốt, nhà bị đốt mà ông vẫn vui. Vì sao ông không tỏ ra

thương tiếc buồn rầu gì cả? Bởi ông hiểu nhà ông bị đốt cháy chính là một

bằng chứng minh oan cho sự hiểu lầm và sự nghi ngờ từ tin xấu rõ ràng là

được thanh minh. Niềm vui thật kỳ lạ, nó xua đi tất cả những gì đen tối trong

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 50

đầu ông Hai. Ông vui sướng vì niềm tin, tình yêu làng trong ông là đúng,

không bao giờ có thể dập tắt được.

3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật

Khái niệm ngôn ngữ nhân vật nhằm chỉ những lời nói của nhân vật trong

tác phẩm. Lời nói đó phản ánh kinh nghiệm sống cá nhân, trình độ văn hóa, tư

tưởng, tâm lí, thị hiếu...

Nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ nhân vật cũng là một nét đặc sắc, thể hiện

tài năng của Kim Lân: ngôn ngữ của ông Hai là ngôn ngữ mang đậm chất khẩu

ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân vùng quê:

. Nói những câu khoe làng: “Chết, chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào

mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi. Có lăm lắm là của... Cái ông

đắp bằng xi măng lù lù ở giữa hồ bát giác kia là là...lấy kiểu tận xa lắm, đâu từ

tận bên chùa Đế Thích. Còn như cái cọc sắt nhọn hoắt cắm vào cái bầu rượu

có đắp bốn con dơi quét vôi vàng mãi tít trên ngọn sinh phần kia là máy thu lôi.

Khiếp lắm! Sấm sét là thu tất cả vào trong ấy” [20, tr.16]

. Nói những câu khi đau buồn:

- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người

ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát.

- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống

Việt gian bán nước để nhục nhã thế này

- Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!

- Im! Khổ lắm! Nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ [20, tr.27]

. Nói những câu khi tâm sự với con:

“Nhà ta ở làng Chợ Dầu...Thế con ủng hộ ai?...Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh

muôn năm...Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má.Ông nói

thủ thỉ: Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.” [20, tr.32]

. Nói những câu khi vui sướng:

- Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho nào.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 51

- Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới

lên trên này cải chính, ông ấy cho biết...cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng

tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn sai sự mục đích cả. [20, tr.33]

Qua ngôn ngữ của nhân vật ông Hai, ta thấy tình cảm chân thành, chất

phác của những người nông dân dành cho quê hương mình thật giản dị. Tình

yêu ấy, nó cũng giống như chính cuộc sống dân dã, bình dị của họ sau lũy tre

làng. Tình yêu làng còn thống nhất với tình yêu Tổ quốc, một lòng trung thành

với Đảng và Bác Hồ.

4. Miêu tả nhân vật qua hành động

Hành động nhân vật là khái niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật.

Đây là phương diện đặc biệt quan trọng để thể hiện tính cách nhân vật vì

việc làm của mỗi người là căn cứ quan trọng có ý nghĩa quyết định nói lên tư

cách, lí tưởng, phẩm chất cũng như những đặc điểm thuộc về thế giới tinh

thần của người đó. Hơn nữa, trong các tác phẩm tự sự, tính cách nhân vật

không phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn vẹn. Chính hành động có

tác dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách và thúc đẩy sự diễn biến

của hệ thống cốt truyện.

Thông thường, khi miêu tả hành động nhân vật, nhà văn thường kết hợp

với những biểu hiện nội tâm tương ứng vì đằng sau mỗi hành động, bao giờ

cũng có một tâm trạng hoặc một động cơ nào đó. Dùng nội tâm để lí giải hành

động, sử dụng hành động để làm sáng tỏ nội tâm là một hiện tượng phổ biến

trong việc miêu tả nhân vật.

Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã rất thành công khi xây

dựng nhân vật Mị thông qua một số chi tiết nghệ thuật về hành động của Mị

* Những hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân:

- Mị uống rượu “Mị lén lấy hủ rượu, cứ uống ức từng bát” [18, tr.135].

Cô đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua và muốn thoát khỏi thực

tại.Rượu làm thân xác cô say, nhưng tâm hồn cô lại tỉnh, Mị với cõi lòng phơi

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 52

phới trở lại với thời con gái trẻ trung, hạnh phúc.Mị như sống lại, Mị thấy yêu

đời. “Mị thấy lòng mình vui sướng lại. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ”.

- “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho

sáng...Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái

váy hoa vắt ở phía trong vách”[18, tr.136]. Nếu như lúc trước Mị hoàn toàn

mơ hồ về thời gian. Mị không nhớ mình về đây được mấy năm vì trước nay Mị

đâu có mùa xuân. Nhưng giờ đây Mị muốn có cái quyền đơn giản như bao

người khác: “Mị muốn đi chơi”. Có thể đối với Mị là một sự thay đổi lớn lao

và vẫn còn kịp lúc, tuy bắt nguồn từ cảm xúc nhất thời nhưng nó cũng chứng tỏ

Mị vẫn còn đó bao khát khao.

* Những hành động của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ:

“Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ

đương biết có người bước lại...Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây...Mị

chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay...”, rồi Mị nghẹn lại”[18, tr.147]

“Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”[18,

tr.148]. Đây mới là thời điểm Mị thật sự cắt sợi dây trói vô hình, tự giải thoát

khỏi cảnh nô lệ. Hành động ấy đã khẳng định khát vọng sống, khát vọng tự do

mãnh liệt của nhân vật Mị.

Sự thay đổi tâm trạng khác thường của Mị còn được thể hiện trong đêm

cởi trói cho A Phủ. Đây là hành động táo bạo, bất ngờ, mặc dù tự phát nhưng

nó đã chứng minh một cách rõ ràng quy luật: bị đè nén tới một mức độ nào đó

con người sẽ vùng lên đấu tranh. Như vậy sức sống tiềm tàng trong con người

Mị đã trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Trên đây là những biện pháp chung nhất trong việc xây dựng nhân vật.

Ngoài những biện pháp trên, nhà văn còn có thể khắc họa nhân vật thông qua

việc đánh giá của các nhân vật khác trong tác phẩm, thông qua việc mô tả đồ

dùng, nhà cửa, môi trường xã hội, thiên nhiên...mà nhân vật sinh sống. Ở

những tác phẩm tự sự, ngôn ngữ người kể chuyện là một yếu tố rất quan trọng

trong việc bộc lộ, miêu tả và đánh giá nhân vật.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 53

C. Nghệ thuật trần thuật (ngôi kể, lời kể, giọng kể)

Trong tác phẩm tự sự, việc lựa chọn ngôi kể, lời kể và giọng kể có tác

dụng rất lớn đến việc làm nổi bật hai mặt nội dung tác phẩm: Trước hết làm

cho bức tranh cuộc sống hiện thực hiện nên rõ nét. Sau đó là tác giả thể hiện

được tình cảm, thái độ, suy nghĩ của mình trước những vấn đề của hiện thực

được mình phát hiện.

Ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã lựa chọn

* Ngôi kể : thứ ba từ điểm nhìn bên ngoài, nhưng có nhiều đoạn thâm

nhập vào ý nghĩ và lời thoại của nhân vật Mị

* Lời kể:

Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài , lời kể chuyện kết hợp

miêu tả : Mở đầu bằng việc miêu tả Mị trong không gian đặc trưng: cô thường

ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa nhà thống lí Pá Tra.

Tiếp đó mới kể về lai lịch của Mị và việc Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ.

* Giọng kể: nhẩn nha, rành rẽ, giản dị, trong sáng, thấm đượm được nỗi

xót xa, thương cảm của người kể. Có đoạn với nhịp điệu trần thuật chậm, trầm

lặng và giọng điệu thể hiện sự đồng cảm với tình cảnh và số phận nhân vật của

tác giả.

Với tác phẩm Làng Kim Lân đã lựa chọn:

* Ngôi kể : được kể theo ngôi thứ ba. Nó đảm bảo tính khách quan của

những sự việc được kể, gợi cảm giác chân thực cho người đọc

* Lời kể: Lời kể chuyện tự nhiên, hồn hậu, đậm ý vị quần chúng nông

dân với cách dùng từ, đặt câu hết sức dễ hiểu, mộc mạc: dám đơn sai, Cụ Hồ

trên đầu, trên cổ, nó thì rút ruột ra, ru rú xó nhà...

* Giọng kể : Giọng kể chuyện tự nhiên, thân mật và đôi khi dí dỏm

nhưng đôn hậu phù hợp với quan điểm của nhân vật. Lời trần thuật nhiều khi

hòa vào giọng và lời nhân vật, nhập vào ý nghĩ và tâm trạng của nhân vật. Sự

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 54

xích lại gần nhau và đi đến thống nhất của quan điểm và ngôn ngữ người trần

thuật với nhân vật quần chúng cũng là một đặc điểm khá phổ biến trong văn

xuôi thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

2.2. Định hƣớng riêng cho từng tác phẩm

2.2.1. Định hướng dạy học truyện ngắn Làng của Kim Lân

A. Định hƣớng của sách giáo viên (Ngữ văn 9 tập 1, Nhà xuất bản Giáo

dục, 2008)

1. Mục tiêu cần đạt

- Cảm nhận được tình yêu làng quê thắm thiết thống nhất với lòng yêu

nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai trong truyện. Qua đó, người

đ thấy được một biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân

dân ta trong thời kháng chiến chống Pháp.

- Thấy được những nét đặc sắc trong nghệ thuật truyện: xây dựng tình

huống tâm lí, miêu tả sinh động diễn biến tâm trạng, ngôn ngữ của nhân vật

quần chúng.

- Rèn luyện năng lực phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự, đặc biệt là

phân tích tâm lí nhân vật.

2. Nội dung bài học

- Tìm hiểu tình huống truyện và diễn biến tâm trạng của ông Hai: Tác

giả đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gây cấn để bộc lộ sâu sắc tình

cảm yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc, lập tề mà

chính ông nghe được từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên. Qua diễn

biến tâm trạng của ông Hai ta thấy được tình yêu làng và tinh thần yêu nước

của nhân vật.

- Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật ông Hai

của tác giả.

3. Phương pháp dạy học

- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tác phẩm: Giáo viên đọc một đoạn.

Trước khi đọc có thể nêu tóm tắt phần đầu của truyện mà SGK lược bớt. Sau đó

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 55

cho hai học sinh đọc tiếp. Giáo viên yêu cầu học sinh tóm tắt truyện (phần trong

SGK. Trong quá trình phân tích sẽ đọc tiếp và đọc lại những phần quan trọng.

- Giáo viên dựa vào các câu hỏi trong sách giáo khoa hướng dẫn học sinh

hoạt động.

B. Định hƣớng của các sách tham khảo

1. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9 (Nguyễn Văn Đường chủ biên, Nhà

xuất bản Hà Nội, 2009)

* Mục tiêu bài học

- Kiến thức: Cảm nhận được tình yêu làng quê thắm thiết thống nhất với

lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai; qua đó thấy được

một biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân dân trong thời

kì kháng chiến chống Pháp; Thấy được những nét đặc sắc trong nghệ thuật xây

dựng truyện: xây dựng tình huống, miêu tả sinh động diễn biến tâm trạng, ngôn

ngữ nhân vật quần chúng nông dân.

- Tích hợp với phần Tiếng Việt ở bài Chương trình địa phương, với phần

tập làm ở bài Đối thoại, độc thoại nội tâm trong văn tự sự.

- Rèn kĩ năng phân tích tâm trạng nhân vật trong tác phẩm tự sự, đặc biệt

là phân tích tâm lí nhân vật, kể chuyện và tóm tắt truyện.

* Nội dung bài học

- Tìm hiểu tình huống truyện: ông Hai yêu và tự hào về làng của mình,

tình cờ ông nghe được tin làng Chợ Dầu yêu quí của ông thành làng Việt gian

theo Pháp, phản lại kháng chiến, phản lại Cụ Hồ.

- Diễn biến tâm trạng và hành động của ông Hai khi nghe tin làng Chợ

Dầu theo giặc: đầu tiên ông đau khổ, nhục nhã, ông nguyền rủa họ đã làm hại

đến danh dự của làng, nhưng rồi ông lại khó tin chuyện tày đình, ghê gớm ấy

có thể xảy ra. Ông Hai tin những người ở lại ấy đã quyết tâm sống mái với

giặc nghĩa là họ còn anh dũng, liều mạng hơn ông, thì làm sao họ có thể đổ

đốn, sa đọa như thế được. Nhưng rồi chứng cứ hiển nhiên trở lại làm ông đành

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 56

một lần nữa cay đắng chấp nhận sự thật và sự nhục nhã, giày vò tâm trí ông:

Cực nhục chưa?

- Tâm trạng ông Hai mấy ngày sau: Không dám ra khỏi nhà, không dám

đi đến đâu, chỉ ru rú trong nhà nghe ngóng tình hình bên ngoài trong lo lắng, sợ

hãi thường xuyên. Khi mụ chủ nhà khó tính đến chỗ không biết sẽ sống nhờ ở

đâu, tâm trạng của ông Hai càng trở nên u ám, bế tắc, tuyệt vọng. Rồi trong ông

diễn ra cuộc tự đấu tranh quyết liệt: Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ;

về làng là chịu đầu hàng thằng Tây, là lại cam chịu kiếp sống nô lệ...Nỗi đau

trong lòng vơi bớt khi ông trò chuyện với đứa con út ít bé bỏng.

* Phương pháp dạy học

- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kể: Kết hợp đọc diễn cảm với kể tóm

tắt từng đoạn truyện nối nhau cho đến hết. Những đoạn kể tóm tắt do giáo viên

làm hoặc cũng có thể do học sinh đã được chuẩn bị ở nhà đảm nhiệm.

- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm qua hệ thống câu hỏi

gợi dẫn (Ở mỗi phần câu hỏi đều có định hướng rõ ràng).

2. Thiết kế bài học Ngữ văn 9 theo hƣớng tích hợp (Hoàng Hữu Bội,

Nhà xuất bản Giáo dục, 2005)

* Mục tiêu bài học Giúp học sinh:

- Đến với hình tượng một người nông dân yêu làng quê của mình gắn với

lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Qua hình tượng người nông dân đó

(nhân vật ông Hai), biết được cuộc sống và tinh thần kháng chiến của nhân dân

ta những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Thấy được nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật của nhà văn

Kim Lân.

* Nội dung bài học: Lâu nay khi dạy - học tác phẩm này, người ta chỉ

tập trung khai thác hình tượng nhân vật ông Hai. Tiếp cận như vậy là đúng

hướng nhưng chưa đủ. Theo chúng tôi, cần hướng thêm sự chú ý của HS vào

bức tranh cuộc sống và tinh thần kháng chiến của nhân dân ta thời kì đầu cuộc

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 57

kháng chiến chống Pháp, bởi vì trong truyện có nhiều chi tiết sinh động về điều

đó được kể xen vào mạch tâm trạng của nhân vật.

Do vậy, nội dung chính của bài học sẽ là:

- Tấm lòng của ông Hai với quê hương, đất nước và cách mạng, kháng

chiến: ông Hai hay khoe làng của mình, tự hào về làng Chợ Dầu. Trước tin đồn

làng ông theo giặc ông tủi thân, nước mắt lão cứ giàn ra, ông thấy tủi nhục. Cái

tin đồn ấy choán hết tâm trí ông Hai, nó trở thành nỗi ám ảnh nặng nề, day dứt

“ông Hai không bước chân ra ngoài...”. Bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối

tiếp bời bời trong óc ông: “Hay là quay về làng?...Về làm gì cái làng ấy nữa...

Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ... Không thể được! Làng thì yêu thật,

nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”

- Bức tranh cuộc sống của nhân dân ta thời kì đầu cuộc kháng chiến

chống Pháp: Chính phủ ta có chủ trương cho đồng bào các vùng sắp bị giặc

đánh chiếm tạm rời làng quê đang ở đến những vùng tự do dưới sự kiểm soát

của chính quyền ta. Việc đó gọi là tản cư . Cuộc sống kháng chiến của nhân

dân buổi đầu đúng như ông Hai nói: “Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ

cầy cấy, tản cư cứ tản cư...”

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật của tác giả.

* Phương pháp dạy học

Giáo viên dùng hệ thống những lời gợi dẫn để khơi gợi, dẫn dắt học sinh

đi sâu dần vào tác phẩm để tự chiếm lĩnh những nội dung trên.

C. Định hƣớng do luận văn đề xuất

Định hướng tiếp cận văn bản theo đặc trưng thể loại

Trong khâu chuẩn bị bài để lên lớp, chúng tôi đã xác định hướng dạy tác

phẩm thông qua bốn thao tác sau đây:

1. Xác định thể loại của văn bản

2. Xác định định hướng tiếp cận văn bản

3. Xác định nội dung bài dạy

4. Phương pháp dạy học

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 58

Các bước định hướng cụ thể như sau:

Bước 1: Xác định thể loại văn học

Tác phẩm Làng thuộc thể loại truyện ngắn, truyện có cốt truyện đơn

giản, truyện tập trung miêu tả tâm lí của nhân vật chính, không xây dựng trên

các biến cố, sự kiện bên ngoài mà chú trọng tới các tình huống nội tâm nhân

vật, miêu tả các diễn biến tâm lí, từ đó làm nổi bật tính cách nhân vật và chủ đề

tác phẩm (nội dung tư tưởng của tác phẩm)

Bước 2: Xác định hướng tiếp cận

Giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản truyện từ ba yếu tố

hình thức của thể loại: cốt truyện, nhân vật, lời kể để từ đó học sinh vừa biết

được những sáng tạo nghệ thuật của tác giả vừa hiểu được ý đồ nghệ thuật của

nhà văn.

Bước 3: Xác định nội dung bài dạy

Xác định nội dung bài dạy gồm ba phần, mỗi phần sẽ được khám phá ở

hai mặt: sự sáng tạo ở các yếu tố hình thức nghệ thuật và ý nghĩa của sự sáng

tạo đó trong việc thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm. Ba phần đó là:

. Cốt truyện và ý nghĩa cốt truyện

. Nhân vật và ý nghĩa của nhân vật

. Lời kể và ý nghĩa của lời kể

Nội dung 1: Cốt truyện và ý nghĩa cốt truyện

1.1. Nội dung cốt truyện:

Làng là một truyện ngắn có cốt truyện đơn giản. Cốt truyện này được dệt

nên bởi các sự kiện:

- Tâm trạng của ông Hai ở nơi tản cư - tính khoe làng của ông Hai.

- Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin dữ: làng Chợ Dầu theo giặc.

- Tâm trạng của ông Hai khi được nghe tin cải chính

Có thể coi đây là kiểu cốt truyện tâm lí, tức là chỉ tập trung diễn tả tâm

trạng của nhân vật chính.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 59

1.2. Ý nghĩa cốt truyện:

- Cốt truyện đó cho người đọc biết được cuộc sống của nhân dân ta vào

những năm đầu đánh thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta (1948)

- Cốt truyện trên đã tái hiện rất sinh động hình ảnh người nông dân Việt

Nam của thời đại cách mạng và kháng chiến. Từ thân phận người nô lệ trước

Cách mạng tháng Tám 1945, những người nông dân Việt Nam vốn có tình yêu

làng quê sâu nặng đã có thêm lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng

chiến: căm thù giặc, có ý thức tham gia vào cuộc kháng chiến, tin tưởng vào

Bác Hồ...

Nội dung 2: Nhân vật và ý nghĩa của hình tượng nhân vật ông Hai

2.1. Tâm trạng của ông Hai khi phải rời làng đi tản cư:

Nhà văn Kim Lân đã thấu hiểu và diễn tả sinh động nét tâm lí của người

nông dân vốn gắn bó tha thiết với làng quê mình bây giờ phải rời làng đi tản cư:

. Chi tiết ông Hai nấn ná ở lại làng, không muốn đi tản cư

“Năm bảy lần bà Hai nhắn về thúc phải lên ngay, ông chỉ nhăn mặt kêu:

Công việc đang như lửa đốt đầu thế này, đã lên thế nào được...Ông lão bảo vợ:

Tôi thì tôi không đi được đâu. Mẹ con mày trên ấy liệu bảo nhau xoay xỏa mà làm

ăn. Ở nhà rồi tôi cũng cố cày cấy, thêm thắt vào tôi gửi lên cho...” [20, tr.19]

. Chi tiết ông Hai tối tối sang nhà hàng xóm để khoe làng mình và trút đi

nỗi nhớ làng.

“...Cứ như vậy, suốt cả buổi tối, ông lão ngồi vén quần lên tận bẹn trên

chõng tre nhà bác Thứ mà nói liên miên hết cái đường xóm kia tốt, cái giếng

xóm kia trong với những chuyện đẩu chuyện đâu về cái làng của ông lão...Thực

ra ông lão chỉ nói cho sướng miệng và đỡ nhớ cái làng của ông chứ cũng

chẳng chú ý gì đến người nghe có thích nghe lắm không”[20, tr.17]

2.2. Tâm trạng của ông Hai trong tình huống nghe tin dữ: làng Chợ Dầu

theo giặc

- Khi nghe tin do những người tản cư ở Gia Lâm cho biết làng ông theo

giặc, thái độ và tâm trạng của ông Hai được miêu tả qua các chi tiết:

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 60

Cổ lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi, tưởng như không thở

được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì đó vướng ở cổ, cất tiếng hỏi,

giọng lạc đi: Liệu có thật không hở bác, hay là chỉ lại... [20, tr.26]

Qua đó, thấy được tâm trạng sững sờ, ngạc nhiên cao độ đến hoảng hốt,

nghẹn cả giọng của ông Hai trước tin dữ làng mình theo giặc.

- Về đến nhà, ông nằm vật ra giường như bị cảm, nhìn lũ con chơi sậm

sụi với nhau, tâm trạng ông Hai được miêu tả qua các chi tiết:

+“Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ

con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?...Ông

lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào

mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.”[20, tr.27]

Ông Hai thương con, ông vô cùng căm giận dân làng mình - những kẻ

ông gọi là chúng bay một cách khinh bỉ.

+ Nhưng rồi ông lại khó tin chuyện ghê gớm này có thể xảy ra. Ông tin

rằng những người ở lại làng quyết anh dũng, liều mạng với giặc: “Ông kiểm

điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả

mà...”[20, tr.27]

+ Nhưng chứng cứ hiển nhiên “Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những

chuyện ấy làm gì?” ông Hai cay đắng chấp nhận, sự nhục nhã giày vò tâm can

“Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”. Ông nghĩ đến sự tẩy chay của mọi người,

tới tương lai không biết sinh sống sao, làm ăn như thế nào.

- Cuộc trò chuyện hai vợ chồng ông Hai: Thái độ ông Hai vừa bực bội

vừa đau đớn, trằn trọc thở dài, lo lắng đến mức chân tay nhủn ra, nín thở, lắng

nghe, không nhúc nhích

- Mấy ngày sau đó:

+ Ông ở nhà trong tâm trạng lo lắng, sợ hãi thường xuyên; lúc nào cũng

nghĩ đến chuyện ấy, cũng tưởng mọi người nói chuyện ấy “..lúc nào ông cũng

nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến cái chuyện

ấy” [19, tr.29].

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 61

+ Khi mụ chủ nhà khó tính đẩy đến chỗ không biết sẽ sống nhờ ở đâu,

tâm trạng ông Hai càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng. Những câu hỏi liên tiếp cuộn

trào trong đầu ông: “Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố

con ông mà đi? Thật là tuyệt đường sinh sống!”[20, tr.31]. Chính trong giây

phút tuyệt vọng ấy, ông Hai chớm có ý định quay về làng cũ. Nhưng trong ông

lập tức diễn ra cuộc tự đấu tranh quyết liệt: “Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ

Cụ Hồ; về làng là chịu đầu hàng thằng Tây, là cam chịu kiếp sống nô lệ...về là

chịu mất hết ư?”[20, tr.31]

- Tâm trạng của ông Hai trong cuộc trò chuyện với thằng con út (thằng

Húc): những giọt nước mắt của ông lại giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má.

Những lời tâm tình thủ thỉ của ông với đứa con nhỏ dại chính là tiếng lòng sâu

kín của ông, nói lên thành ý chí, quyết tâm của ông Hai: “Ủng hộ Cụ Hồ Chí

Minh muôn năm!”[20, tr.32]

2.3. Tâm trạng của ông Hai khi được nghe lời cải chính của ông chủ tịch xã

Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin cải chính: vui mừng, hớn hở “Cái

mặt buồn thỉu mọi ngày tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp

mắt hung hung đỏ, hấp háy”[20, tr.33]

2.4. Ý nghĩa của hình tượng nhân vật ông Hai

Hình tượng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng đã tạo nên nội

dung đặc sắc của tác phẩm:

. Truyện đã rất thành công trong việc thể hiện hình ảnh người nông dân

Việt Nam. Ở họ, tình yêu làng quê đã hòa nhập trong lòng yêu nước và tinh

thần của người dân kháng chiến

. Truyện còn cho thấy vốn hiểu biết và tình cảm của nhà văn Kim Lân về

người nông dân. Tác giả đã chứng tỏ rất am hiểu cuộc sống nông thôn ở các

làng quê Bắc Bộ và tâm hồn những người nông dân ở đó.

Nội dung 3: Lời kể và ý nghĩa của lời kể

3.1. Ngôi kể:

Truyện được trần thuật theo ngôi kể thứ ba. Chọn ngôi kể thứ ba, giúp

cho nhân vật ông Hai trong truyện được đánh giá một cách khách quan, tự

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 62

nhiên. Tình yêu làng, yêu nước của ông được đánh giá khách quan chứ không

phải chủ quan của người kể.

3.2. Lời kể:

Lời kể chuyện tự nhiên, hồn hậu, đậm ý vị quần chúng nông dân với

cách dùng từ, đặt câu hết sức dễ hiểu, mộc mạc: dám đơn sai, Cụ Hồ trên đầu,

trên cổ, nó thì rút ruột ra, ru rú xó nhà...

3.3.Giọng kể:

Giọng kể chuyện tự nhiên, thân mật và đôi khi dí dỏm nhưng đôn hậu.

Phù hợp với quan điểm của nhân vật, lời trần thuật nhiều khi hòa vào giọng và

lời nhân vật, nhập vào ý nghĩ và tâm trạng của nhân vật. Sự xích lại gần nhau

và đi đến thống nhất của quan điểm và ngôn ngữ người trần thuật với nhân vật

quần chúng cũng là một đặc điểm khá phổ biến trong văn xuôi thời kì kháng

chiến chống thực dân Pháp.

3.4. Ý nghĩa của lời kể

Trong truyện ngắn Làng với ngôi kể chuyện thứ ba, lời kể tự nhiên, hồn

hậu, đậm ý vị quần chúng nông dân, giọng kể thân mật và đôi khi dí dỏm

nhưng đôn hậu đã thể hiện hai ý nghĩa:

3.4.1.Hiện thực cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm:

Với cách kể chuyện đôn hậu của nhà văn Kim Lân người đọc dễ dàng

cảm nhận được tình yêu làng, yêu nước sâu đậm của ông Hai. Trong trái tim

ông, tình yêu quê hương và tình yêu đất nước hài hòa, nồng thắm. Người đọc

cũng hiểu rõ được cuộc sống của nhân dân ta những năm đầu kháng chiến

chống Pháp: đó là cuộc sống nơi tản cư nhân dân tập trung tăng gia sản xuất,

vừa theo dõi tin tức thời sự. Đặc biệt lời kể chuyện mang đậm ý vị quần chúng

nông dân với cách dùng từ, đặt câu hết sức dễ hiểu, mộc mạc, người đọc cảm

nhận và thấy trân trọng tinh thần kháng chiến của nhân dân: đi tản cư cũng là

kháng chiến; yêu làng, nhớ làng nhưng “về làng tức là rời bỏ kháng chiến, bỏ

cụ Hồ”; Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 63

3.4.2.Tư tưởng, quan điểm của nhà văn:

Truyện ngắn Làng dễ dàng đi vào lòng bạn đọc, trước hết phải kể đến cái

duyên kể chuyện tự nhiên, gần gũi của nhà văn Kim Lân, một nhà văn có sự

gắn bó và hiểu biết sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn. Qua tác phẩm, Kim Lân

đã đề cao những điều đáng quý về nhân dân, ca ngợi những phẩm chất của

người nông dân trong kháng chiến cũng là cách nhìn đầy tin tưởng của nhà văn

với cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta. Từ đấy, truyện giáo dục chúng

ta về tình yêu làng xóm, quê hương, đất nước.

Bước 4: Dự kiến về phương pháp dạy học.

Giáo viên dẫn dắt học sinh tiến hành hoạt động đa dạng bằng hệ thống

lời gợi dẫn như sau:

* Nội dung 1: Hoạt động tìm hiểu cốt truyện

- Gợi dẫn phát hiện: Nhằm kiểm tra hiểu biết của học sinh về tác phẩm.

Giúp học sinh ôn lại những gì đã biết, đã trải qua để làm cơ sở lĩnh hội, tìm tòi

kiến thức, thông tin mới có hệ thống.

+ Cốt truyện của truyện ngắn Làng thuộc kiểu cốt truyện nào?

+ Em hãy kể lại cốt truyện của truyện ngắn Làng ?

* Nội dung 2: Hoạt động khám phá về nhân vật

Giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện các chi tiết nghệ thuật, phân tích

các chi tiết nghệ thuật, ý nghĩa của nhân vật...bằng hệ thống các câu hỏi gợi dẫn

như sau:

- Gợi dẫn phát hiện: Giúp người học có khả năng nêu ra được những kiến

thức cơ bản trong tác phẩm. Biết cách so sánh các kiến thức trong tác phẩm với

những tác phẩm có cùng chủ đề...

+Gợi dẫn tái hiện : Ở nơi tản cư ông Hai nhớ làng như thế nào? Tâm trạng

của ông được nhà văn miêu tả như thế nào khi nghe tin làng mình theo giặc?

+Gợi dẫn liên tưởng, tưởng tượng: Qua câu chuyện với mụ chủ nhà, vợ

chồng ông Hai bị đẩy đến tình hình như thế nào? Em có cảm nhận gì sau khi

đọc đoạn trò chuyện giữa ông Hai và thằng Húc?

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 64

+Gợi dẫn liên hệ, so sánh: Bên cạch Kim Lân, nhiều nhà văn viết rất hay

về hình ảnh làng quê, người nông dân. Em hãy tìm những tác phẩm truyện viết

về người nông dân đã học?

Em có nhớ truyện ngắn hay bài thơ nào cũng viết về tình cảm quê hương

đất nước? Hãy nêu nét riêng của truyện ngắn "Làng" so với những tác phẩm ấy?

+ Gợi dẫn liên hệ: Em có nhớ truyện ngắn hay bài thơ nào cũng viết về

tình cảm quê hương đất nước? Hãy nêu nét riêng của truyện ngắn "Làng" so

với những tác phẩm ấy?

- Gợi dẫn khái quát, tổng hợp: giúp học sinh rèn khả năng nhận xét khái

quát, tổng hợp vấn đề sau khi học xong một đơn vị kiến thức

Tâm trạng của ông Hai là tâm trạng của ai? Trong hoàn cảnh nào? Qua

nhân vật ông Hai, em có ấn tượng gì về người nông dân Việt Nam nói chung?

Gợi dẫn hiểu biết, khái quát: rèn cho học sinh từ những kiến thức hiểu biết

về tác phẩm để đưa ra những lời nhận xét, đánh giá, những hiểu biết có tính chất

khái quát: Qua truyện ngắn Làng, em biết được những gì về cuộc sống kháng

chiến của nhân dân ta vào những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp?

Gợi dẫn phát hiện: Thái độ, tình cảm của nhà văn Kim Lân dành cho

nhân vật ông Hai được thể hiện như thế nào?

* Nội dung 3: Nghệ thuật viết truyện.

Câu hỏi đánh giá: Nhằm kiểm tra khả năng đóng góp ý kiến của học sinh

trong việc nhận định đánh giá kiến thức tác phẩm: Em có nhận xét gì về nghệ

thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật của tác giả? Em có nhận xét gì về

nghệ thuật kể chuyện: lời kể, ngôi kể?

2.2.2. Định hướng dạy học truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

A. Định hƣớng của sách giáo viên (Ngữ văn 12 tập 2, Nhà xuất bản

Giáo dục, 2010)

1. Mục tiêu bài học

Giúp học sinh:

- Hiểu được cuộc sống cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số

vùng cao dưới ách áp bức, kìm kẹp của thực dân và chúa thống trị; quá trình

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 65

người dân các dân tộc thiểu số từng bước giác ngộ cách mạng và vùng lên tự

giải phóng đời mình.

- Nắm được những đóng góp của nhà văn trong nghệ thuật khắc họa tính

cách các nhân vật; sự tinh tế trong diễn tả cuộc sống nội tâm; sở trường của nhà

văn trong quan sát những nét mới lạ về phong tục, tập quán và cá tính của

người Mông; nghệ thuật trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế, mang màu sắc dân

tộc và giàu chất thơ.

2. Nội dung bài học

2.1 Phân tích hình tượng nhân vật Mị

+ Đoạn văn mở đầu giới thiệu nhân vật Mị đầy ấn tượng

+ Phần tiếp theo kể về số phận éo le và những phẩm chất tốt đẹp của

nhân vật Mị: Cô Mị với cuộc đời cơ cực, khổ đau bề ngoài là con dâu nhưng

thực chất bên trong là con nợ nhà thống lí Pa Tra. Mị chấp nhận cảnh sống “lùi

lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”; “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”...;

và cô Mị với sức sống tiềm tàng dẫn tới sức phản kháng mãnh liệt, táo bạo:

trong đêm tình mùa xuân Mị muốn đi chơi; đêm cởi trói cho A Phủ, cùng A

Phủ bỏ trốn.

2.2. Phân tích hình tượng nhân vật A Phủ

+ A Phủ với số phận đặc biệt: mồ côi cả cha lẫn mẹ, gan góc, táo bạo,

lớn lên là một thanh niên khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa... đi săn bò tót rất

bạo” là đứa con tự do của núi rừng Tây Bắc

+ A Phủ với cá tính đặc biệt: có cá tính mạnh mẽ dám đánh con quan thứ

“con trời” không ai dám đụng tới, nhưng A Phủ không sợ. Khi bị làm mất bò A

Phủ lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây để người ta trói mình, A Phủ không sợ cả

cái chết...

2.3. Những đặc sắc về nghệ thuật

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc biết là nghệ thuật miêu tả tâm lí

nhân vật

+ Tô Hoài là nhà văn có biệt tài miêu tả thiên nhiên và những nét lạ trong

phong tục, tập quán xã hội: thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, con người

Tây Bắc ngay thẳng, hồn nhiên, phong tục độc đáo (thổi khèn, uống rượu...)

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 66

+ Nghệ thuật trần thuật sự kiện theo trình tự thời gian, tạo nên một dòng

chảy liền mạch nhưng có lúc đan xen các hồi ức một cách tự nhiên, có lúc pha

trộn quá khứ và hiện tại một cách ý nhị.

3. Phương pháp dạy học

- Ở phần tác giả cần lưu ý học sinh một số điểm nổi bật: Tô Hoài là nhà

văn lớn. Là nhà văn viết theo xu hướng hiện thực. Tô Hoài có vốn hiểu biết

phong phú và sâu sắc, đặc biệt là những nét lạ trong phong tục, tập quán ở

nhiều vùng khác nhau của đất nước.

- Giáo viên giúp học sinh vận dụng các phương pháp phân tích tác phẩm,

so sánh đối chiếu, khái quát, tổng hợp... để học sinh vừa nhận biết những nét

đặc sắc cụ thể vừa có thể nắm được các giá trị cơ bản của tác phẩm trong sự

vận động của văn xuôi Việt Nam từ sau 1945.

B. Định hƣớng của các sách tham khảo

1. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12 (Tập 2, Nguyễn Văn Đường chủ biên,

Nhà xuất bản Hà Nội, 2008)

* Mục tiêu bài học

Giúp học sinh:

- Qua cuộc đời và số phận của cặp vợ chồng người Mông: Mị - A Phủ,

hiểu được cuộc sống cơ cực, tăm tối của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng

cao dưới ách áp bức, thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai; quá

trình người dân lao động nghèo cực thức tỉnh, giác ngộ cách mạng, vùng lên tự

giải phóng đời mình, đi theo tiếng gọi của Đảng.

- Những đóng góp riêng của tác giả trong nghệ thuật kể chuyện linh hoạt,

khắc họa tính cách nhân vật, sự tinh tế trong diễn tả nội tâm, sở trường trong

quan sát những nét lạ về phong tục, tập quán và cá tính người dân tộc Mông;

lời văn mang màu sắc dân tộc và giàu chất thơ.

- Tích hợp với tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài, đã được học

ở lớp 6 THCS.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 67

* Nội dung bài học

1. Nhân vật Mị

+ Giới thiệu nhân vật Mị (ở đoạn văn mở đầu)

+ Từ cô gái Mông xinh đẹp đầy sức sống trở thành con dâu gạt nợ - vợ A

Sử - trong nhà thống lí Pa Tra.

+ Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa

xuân và đêm cởi trói cho A Phủ

2. Nhân vật A Phủ:

+ Một số phận đặc biệt: từ chú bé mồ côi, lưu lạc trở thành một chàng

trai người Mông khỏe mạnh, tài hoa, khéo léo, niềm mơ ước của bao cô gái. Vì

đánh A Sử trở thành nô lệ cho nhà Pa Tra

+ Cá tính mạnh mẽ, ít nói, làm nhiều, chịu đựng, quyết liệt

3. Đặc sắc nghệ thuật:

+ Nghệ thuật trần thuật theo trình tự thời gian đan xen quá khứ và hiện

tại, đồng hiện...

+ Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật, miêu tả diễn biến tâm trạng

trong hoàn cảnh đặc biệt.

+ Biệt tài miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán hấp dẫn

* Phương pháp dạy học

- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc và kể tóm tắt văn bản truyện. Đọc

diễn cảm theo sát từng đoạn truyện, chú ý đoạn miêu tả, đoạn đối thoại, đoạn tả

tâm trạng và hành động. Những đoạn cần đọc: đoạn mở đầu, đoạn tả Mị bị trói

trong bóng tối, đoạn tả Mị cứu A Phủ.

- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm qua hệ thống câu hỏi

gợi dẫn (Ở mỗi phần câu hỏi đều có định hướng rõ ràng)

2. Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 phần văn học (Hoàng Hữu Bội, Nhà

xuất bản Giáo dục, 2008)

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 68

* Định hướng dạy học:

Dạy đoạn trích Vợ chồng A Phủ theo hướng tập trung vào những điểm

cốt lõi nhất, khắc sâu ở học sinh ấn tượng về hình tượng nhân vật Mị, nội dung

bài học sẽ là:

1. Hình tượng nhân vật Mị

a) Tết đến trên vùng núi cao và những ngày tháng tươi đẹp của Mị

b) Chặng đời Mị làm dâu nhà thống lí Pá Tra

c) Sức sống tiềm tàng trong con người Mị

2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất đặc sắc của nhà văn Tô Hoài

3. Ý nghĩa hình tượng nhân vật Mị

* Nội dung bài học

1. Tìm hiểu hình tượng nhân vật Mị:

1.1. Tết đến trên vùng núi cao và những ngày tháng tươi đẹp của Mị:

Mị là một cô gái dân tộc H'mông sinh ra trong một gia đình nghèo, xinh

đẹp, có tài thổi sáo và kèn lá“Có bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo

Mị...”. Mị còn là cô gái hồn nhiên, yêu đời, hiếu thảo, siêng năng. Cũng như

bao cô gái vùng cao khác. Mị khao khát yêu đương và đã có những đêm tình

mùa xuân rạo rực, đắm say. Dưới ngòi bút của Tô Hoài bức tranh thiên nhiên

và những phong tục tập quán của người vùng núi cao ngày Tết thật sinh động:

“trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên các mỏm đá

xòe như những con bướm sặc sỡ... Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân

chơi trước nhà...”

1.2. Vì sao Mị trở thành con dâu nhà thống lí Pá Tra?

Ngày xưa cha mẹ Mị lấy nhau, không có tiền phải vay nhà thống lí. Cha

mẹ Mị làm cả đời không trả hết nợ. Cho tới khi Mị lớn, thống lí Pá Tra đến bảo

bố Mị: “Cho tao đứa con gái mày về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho”. Sau đó,

Mị bị bắt cóc vào một đêm khuya đến sáng hôm sau Mị bị bắt trình ma nhà

thống lí.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 69

1.3. Những năm tháng làm dâu trong nhà thống lí Pá Tra của Mị:

Có thể khái quát chuỗi ngày làm dâu của Mị như sau: “Con ngựa, con

trâu làm còn có lúc, đêm nó còn đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái

nhà này thì vùi vào việc cả ngày lẫn đêm”. Sự lao động cực nhọc triền miên đã

biến một cô gái hồn nhiên, yêu đời ngày nào trở thành một cô gái tiều tụy, nhẫn

nhục, lặng câm “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Không những thế Mị

còn bị đánh đập tàn nhẫn, không một tết nào A Sử cho Mị đi chơi. Khi Mị

chuẩn bị đi chơi thì bị A Sử trói đứng vào cột. Đau khổ hơn Mị còn chịu thêm

sự áp chế của thần quyền. Mị luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ mình đã bị “trình ma”

nhà thống lí rồi nên chỉ biết sống trong nhà nó cho đến chết

1.4. Sức sống tiềm tàng trong con người Mị:

+ Tâm trạng, hành động của Mị trong những ngày tết ở Hồng Ngài: Từ

chỗ nhớ về thời con gái, sống lại với những say mê yêu đời của tuổi trẻ. Mị ý

thức rõ quyền sống của con người và thân phận của mình: Mị thấy mình còn

trẻ và Mị muốn đi chơi tết. Tiếng sáo gọi bạn tình đã thức tỉnh tâm hồn Mị, làm

cho sức sống trong con người Mị trỗi dậy “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo” A

Sử về trói đứng Mị nhưng không thể trói được sức sống đang trỗi dậy trong tâm

hồn Mị : “Trong bóng tối Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói,

hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẳng nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc

chơi, những đám chơi”. Tô Hoài đã miêu tả tâm lí nhân vật thật sâu sắc và tinh

tế. Ông đặt nhân vật vào tình huống đặc biệt để miêu tả những tiềm ẩn sâu xa

trong tâm hồn. Tác giả chẳng những đã khắc họa được sức sống mãnh liệt của

tuổi trẻ, mà còn thể hiện được sự nâng niu, trân trọng những giấc mơ tình tứ,

đẹp đẽ của con người

+ Đêm cởi trói cho A Phủ: Sự việc đó diễn ra như thế nào? Lúc đầu thấy

A Phủ bị trói Mị vô cảm vì cô chịu quá nhiều sự tàn nhẫn, độc ác của cha con

thống lí. Nhưng rồi, có một đêm Mị nhìn thấy những giọt nước mắt lăn dài trên

gò má đen sạm của A Phủ làm Mị chợt bừng tỉnh: “Mị chợt nhớ lại đêm năm

trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 70

chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng

người ta đến chết, chúng nó thật độc ác”.Ý nghĩ cứu A Phủ đã nảy sinh trong

Mị, nhưng liền sau đó Mị thấy sợ khi nghĩ mình sẽ bị bắt thay thế vào chỗ A

Phủ, song lòng thương người đã chiến thắng nỗi sợ hãi. Hai người cùng trốn

đến Phiềng Sa.

2. Ý nghĩa hình tượng nhân vật Mị

- Mị là một cô gái H'mông xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo.

- Cam chịu cảnh sống làm dâu gạt nợ với bao khổ đau, tủi nhục

- Nhưng trong Mị vẫn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt

Cuộc đời đau khổ, tủi nhục của Mị có ý nghĩa tiêu biểu cho kiếp sống

khốn khổ của người dân miền núi dưới ách thống trị của các thế lực phong kiến

và thực dân. Và sức sống tiềm ẩn mạnh mẽ trong con người Mị là điển hình

sinh động cho sức sống tiềm tàng của con người từ trong hoàn cảnh tăm tối

hướng tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do.

* Phương pháp dạy học

Giáo viên dùng hệ thống những lời gợi dẫn để khơi gợi, dẫn dắt học sinh

đi sâu dần vào tác phẩm để tự chiếm lĩnh những nội dung trên.

C. Định hƣớng do luận văn đề xuất

Định hướng tiếp cận văn bản theo đặc trưng thể loại

Khi chuẩn bị dạy - học tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, chúng

tôi đã tiến hành 4 thao tác sau đây để xác định hướng dạy học cho tác phẩm:

1. Xác định thể loại văn bản

2. Xác định định hướng tiếp cận văn bản

3. Xác định nội dung bài dạy

4. Dự kiến câu hỏi - Lời gợi dẫn (Phương pháp dạy học)

Các bước định hướng cụ thể như sau:

Bước 1: Xác định thể loại văn học

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ thuộc thể loại truyện ngắn, là truyện ngắn

xuất sắc nhất trong tập truyện ngắn “Truyện Tây Bắc” (1953). Tác phẩm đạt

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 71

giải nhất - giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1954-1955), cũng là tác phẩm

đầu tiên của văn học cách mạng Việt Nam viết về đề tài miền núi, về cuộc sống

và số phận của nhân dân các dân tộc miền núi Tây Bắc trước và sau cách mạng.

Bước 2: Xác định hướng tiếp cận

Giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản truyện từ ba yếu tố

hình thức của thể loại: cốt truyện, nhân vật, lời kể để từ đó học sinh vừa biết

được những sáng tạo nghệ thuật của tác giả vừa hiểu được ý đồ nghệ thuật của

nhà văn (nội dung, tư tưởng của tác phẩm).

Bước 3: Xác định nội dung bài dạy

Với hướng tiếp cận trên, nội dung bài dạy gồm 3 phần:

- Cốt truyện và ý nghĩa của cốt truyện

- Nhân vật và ý nghĩa của hình tượng nhân vật

- Lời kể và tác dụng của lời kể

Nội dung 1: Cốt truyện và ý nghĩa của cốt truyện

1.1. Cốt truyện

Truyện gồm hai phần: phần đầu viết về cuộc đời Mị và A Phủ khi ở

Hồng Ngài trong nhà thống lí Pá Tra khi miền Tây Bắc còn dưới ách đô hộ của

thực dân phong kiến. Phần sau viết về cuộc đời của vợ chồng A Phủ ở Phiềng

Sa, hai vợ chồng gặp gỡ cách mạng, rồi A Phủ trở thành du kích.

1.2. Ý nghĩa cốt truyện

Cốt truyện Vợ chồng A Phủ thể hiện rõ hai mặt nội dung tác phẩm:

* Bức tranh cuộc sống cực nhọc, khổ đau cùng sức sống mãnh liệt của

người dân lao động các dân tộc thiểu số vùng cao, đặc biệt là lớp trẻ tuổi dưới

ách thống trị tàn bạo của bọn chúa đất cấu kết với thực dân Pháp trong giai

đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

* Tư tưởng, tình cảm của nhà văn: Cốt truyện cũng cho thấy niềm cảm

thông, thương xót những con người bất hạnh, bị chà đạp lên quyền sống, quyền

hạnh phúc của nhà văn. Tô Hoài thấu hiểu, trân trọng những đức tính cao quý

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 72

của con người trong nghịch cảnh. Đồng thời, tác giả lên án, phê phán xã hội

thực dân nửa phong kiến hà khắc.

Nội dung 2: Nhân vật và ý nghĩa của hình tượng nhân vật

Với sở trường quan sát đời sống sắc sảo, với tri giác tập quán và phong

tục nhạy bén cùng năng lực khám phá chiều sâu nội tâm con người tinh tế, Tô

Hoài đã để cho hai nhân vật Mị và A Phủ hiện diện như những cá tính nghệ

thuật đặc sắc.

2.1. Các chi tiết nghệ thuật miêu tả nội tâm:

- Đoạn văn mở đầu tác phẩm là những dòng văn đầy xúc động, gợi sự

thương cảm sâu sắc: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông

thấy một cô gái...cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”[18, tr.131]

- Khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra:

+ Ở lâu trong cái khổ thành quen, Mị cũng tưởng mình là con trâu, con

ngựa: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”

+ Mị sống âm thầm như cái bóng “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi

như con rùa nuôi trong xó cửa” [18, tr.134]

- Đêm tình mùa xuân:

+“Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những

đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ” [18, tr.136]

+ Khi bị A Sử trói đứng: “Mị đứng im lặng, như không biết mình đang

bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn...Mị vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không

cựa được...Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”[18, tr.137]

+ Khi tỉnh rượu, Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: ...“đời

trước, nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi,

khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn

sống hay chết”[18, tr.138]

- Đêm cởi trói cho A Phủ:

+ Lúc đầu nhìn A Phủ bị trói “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 73

+ Đêm nay chứng kiến những giọt nước mắt lăn dài trên gò má đen sạm

của A Phủ “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói

đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không

biết lau đi được.Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết

cũng thôi...Chúng nó thật độc ác.”[18, tr.146-147]

2.1. Các chi tiết nghệ thuật miêu tả hành động

* Nhân vật Mị:

- Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra Mị là một cô gái giàu lòng tự

trọng, Mị có hành động xin cha đừng bán mình cho nhà giàu: “Con nay đã biết

cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán

con cho nhà giàu”[18, tr.132]

- Khi mới về làm dâu gạt nợ “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng

khóc”[18, tr.133]. Mị trốn về nhà, quỳ lạy cha để chết nhưng vì thương cha Mị

lại ném nắm lá ngón xuống đất.

- Trong đêm tình mùa xuân:

+ Mị nghe tiếng sáo thiết tha, bổi hổi, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát: “Mày

có con trai con gái rồi/ Mày đi làm nương/ Ta không có con trai con gái/ Ta đi

tìm người yêu”[18, tr.135]

+ Ngày tết, Mị cũng uống rượu “Mị lén lấy hũ rượu, cứ ực từng bát”

[17, tr.135]

+ “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho

sáng...Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái

váy hoa vắt ở phía trong vách.”[18, tr.136]

- Đêm cởi trói cho A Phủ: “Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt,

nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại...Mị rút con dao nhỏ

cắt lúa, cắt nút dây mây...Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay...”, rồi Mị

nghẹn lại”[18, tr.147].

“Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”[18,

tr.147]. Đây mới là thời điểm Mị thật sự cắt sợi dây trói vô hình, tự giải thoát

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 74

khỏi cảnh nô lệ. Hành động ấy đã khẳng định khát vọng sống, khát vọng tự do

mãnh liệt của nhân vật Mị.

* Nhân vật A Phủ:

- A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ, là một thanh niên khỏe mạnh, là đứa con

tự do của núi rừng. Thấy sự bất bình A Phủ có hành động đánh A Sử: “Một

người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay

gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái

vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”[18, tr.140]

- “A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá”[18, tr.141]

2.3. Tính cách của nhân vật

* Nhân vật Mị:

- Mị là một cô gái H'mông xinh đẹp, trẻ trung, yêu đời, có khát vọng

hạnh phúc.

. Cần cù lao động, hiếu thảo với cha. Có tài hoa thổi kèn lá, được nhiều

trai bản yêu mến.

- Mị là người có sức sống mãnh liệt, có khát vọng hạnh phúc đã giúp Mị

chiến thắng số phận tăm tối.

* Nhân vật A Phủ:

- Cá tính, mạnh mẽ, gan góc, ít nói, không sợ uy quyền, cường quyền.

Khi bị đánh vẫn chai lì, cứng rắn, lạnh lùng như hòn đá tảng.

- Khát khao tự do, tính cách mạnh mẽ thể hiện rõ nét nhất trong đoạn A

Phủ dắt tay Mị băng chạy xuống dốc để đến miền đất mới ở Phiềng Sa

2.4. Ý nghĩa của hình tượng nhân vật.

2.4.1. Phản ánh hiện thực cuộc sống

- Phản ánh chế độ phong kiến miền núi khắc nghiệt, tàn ác với những

cảnh tượng hãi hùng như địa ngục trần gian.(nạn cho vay nặng lãi; cảnh phạt

vạ, xử kiện; tục lệ trình ma ; sự bóc lột sức lao động và áp chế về tinh thần của

người dân lao động hết sức tàn bạo…)

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 75

- Phản ánh cuộc sống cơ cực, bị đè nén bởi áp bức nặng nề của người

dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn phong kiến và thực dân (số

phận bi thảm của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra)

 Bức tranh đời sống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc - một

thành công có ý nghĩa khám phá của Tô Hoài về đề tài miền núi.

- Phản ánh những quy luật của xã hội

+ Bị đày ải lâu trong một thế giới không có nhân tính, không có tình

người, cả Mị và A Phủ đều trở thành những con người an phận, thiếu ý thức

đấu tranh, thậm chí lạnh lùng vô cảm

+ Nhưng khi bị ức hiếp, bị đẩy đến đường cùng, người lương thiện (Mị

và A Phủ) sẽ vùng dậy tự giải phóng mình. Tình hữu ái giai cấp sẽ tạo sức

mạnh để họ tự giải thoát .

 Tô Hoài đã nắm bắt và miêu tả hiện thực trong xu thế của cách

mạng.Từ đó mở ra lối thoát cho nhân vật vùng lên làm cách mạng, xóa bỏ

chế độ phong kiến - gắn cuộc đấu tranh tự giải phóng cá nhân với cuộc đấu

tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

2.4.2. Tư tưởng, quan điểm của nhà văn:

- Lòng thương cảm sâu sắc của nhà văn với người dân lao động nghèo

miền núi:

+ Cảm thông sâu sắc với số phận cùng khổ của người dân bị áp bức.

+ Căm ghét, lên án thế lực thống trị tàn bạo.

+ Ngợi ca những gì tốt đẹp của người dân lao động.

- Trân trọng, đề cao những khát vọng chính đáng và tin vào khả năng tự

làm chủ cuộc đời của người dân lao động.

- Đi tìm hướng đi cho nhân vật bằng cách chỉ ra con đường giải phóng

cho những người dân lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm.

Nội dung 3: Lời kể và tác dụng của lời kể

3.1. Ngôi kể:

Lời trần thuật ở ngôi thứ ba từ điểm nhìn bên ngoài, nhưng có nhiều

đoạn thâm nhập vào ý nghĩ và lời độc thoại của nhân vật Mị. Lời kể chuyện kết

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 76

hợp miêu tả: Mở đầu bằng việc miêu tả Mị trong không gian đặc trưng: cô

thường ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa nhà thống lí Pá

Tra. Tiếp đó mới kể về lai lịch của Mị và việc Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ. Tô

Hoài miêu tả thiên nhiên thường sống động và đầy chất thơ (cảnh mùa xuân về

trên núi cao, lời ca và giai điệu tiếng sáo trong những đêm tình mùa xuân, cảnh

uống rượu ngày tết...).

3.2.Lời kể:

Lời kể nhẩn nha, chậm rãi, trầm lắng, thấm đượm nỗi xót xa và thương

cảm khi kể về cuộc đời và số phận của nhân vật Mị:

“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói.

Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị ... Mị thổn thức nghĩ

mình không bằng con ngựa”.[18, tr.137]

“Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ

giữa nhà, lại bị người nhà xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt

giập chảy máu…”[18, tr.141]

“Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách

làm hiệu, rủ người yêu dở vách ra rừng chơi. Mị nín khóc. Mị lại bồi hồi.” [18,

tr.137]

“Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói

thít lại đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo, tiếng

chó sủa xa xa. Mị lúc tỉnh lúc mê. Cho đến khi trời tang tảng rồi không biết

sáng tự bao giờ”[18, tr.137]

3.3. Giọng kể

Giọng trần thuật phù hợp với nội dung từng đoạn. Các đoạn văn “Rượu

đã tan lúc nào… quả Pao rơi rồi”, “Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ

lại đêm năm trước…Người kia việc gì phải chết thế. A Phủ …” giọng trần thuật

của tác giả nhập vào dòng tâm tư của nhân vật Mị, diễn tả được những ý nghĩ,

tâm trạng và cả những trạng thái mơ hồ, vô thức của Mị. Giọng trần thuật nhiều

chỗ hòa vào dòng ý nghĩ và tiếng nói bên trong của nhân vật, vừa bộc lộ đời

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 77

sống nội tâm nhân vật, vừa tạo được sự đồng cảm. “Trời ơi, nó bắt trói....Mị

phảng phất nghĩ như vậy.”[18, tr.147]

3.4. Ý nghĩa của lời kể

Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài với ngôi kể chuyện thứ

ba, lời kể chuyện ngắn gọn, tự nhiên, hấp dẫn, giọng kể chuyện trầm lắng, cảm

thông đã thể hiện hai ý nghĩa:

3.4.1.Hiện thực cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm:

Người đọc thấy được cuộc sống cơ cực, bị áp bức, bóc lột nặng nề của

người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn phong kiến và thực

dân Pháp (qua hai nhân vật Mị và A Phủ). Tác phẩm cũng nói lên một quy

luật tất yếu của cuộc sống “Tức nước vỡ bờ” bị đè nén tới một mức độ nào đó

con người sẽ vùng lên đấu tranh. Truyện ngắn cũng chứng minh sức sống

mãnh liệt tiềm ẩn trong con người không bao giờ bị dập tắt, khi có cơ hội nó

sẽ bùng lên dữ dội.

3.4.2. Tư tưởng, quan điểm của nhà văn:

Với giọng kể tự nhiên, trầm lắng đầy chia sẻ và cảm thông, yêu mến hai

nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn đã thể hiện rõ tư tưởng, tình cảm của mình:

- Sự cảm thông sâu sắc của nhà văn với số phận bất hạnh của Mị và A

Phủ và phê phán gay gắt các thế lực tàn bạo

- Trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của những người bất hạnh và vạch

ra hướng đi cho họ

Tô Hoài đã trân trọng từng bước trưởng thành của Mị và A Phủ. Cái nhìn

của ông về hai nhân vật này là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông

nỗi đau của Mị và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng

giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau

khổ này. Phải chăng, chính cái nhìn đó đã tạo nên giá trị của tác phẩm.

Bước 4: Dự kiến về phương pháp dạy học.

Giáo viên dẫn dắt học sinh tiến hành hoạt động đa dạng bằng hệ thống

lời gợi dẫn để tự chiếm lĩnh những nội dung trên.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 78

* Nội dung 1: Tìm hiểu cốt truyện

.Gợi dẫn nhận biết: Nhằm kiểm tra hiểu biết của học sinh về tác phẩm.

Giúp học sinh ôn lại những gì đã biết, đã trải qua để làm cơ sở lĩnh hội, tìm tòi

kiến thức, thông tin mới có hệ thống.

+ Em hãy kể lại cốt truyện của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ?

* Nội dung 2: Hoạt động khám phá về nhân vật

Giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện các chi tiết nghệ thuật, phân tích

các chi tiết nghệ thuật, ý nghĩa của nhân vật...bằng hệ thống các câu hỏi gợi dẫn

như sau:

Gợi dẫn nhận biết: Giúp người học có khả năng nêu ra được những kiến

thức cơ bản trong tác phẩm. Biết cách so sánh các kiến thức trong tác phẩm với

những tác phẩm có cùng chủ đề...

+ Gợi dẫn tưởng tượng:

. Em thử hình dung cảnh ngộ Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà Pá Tra

trong truyện Vợ chồng A Phủ? Từ đó em có nhận xét gì về cuộc đời làm dâu

của Mị ở nhà Pá Tra?

. Em thử hình dung tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ?

. Em hãy tái hiện lại bức tranh trong đêm tình mùa xuân qua truyện Vợ

chồng A Phủ? Bức tranh ấy thể hiện khát vọng gì của Mị? Chi tiết nào thể hiện

điều đó?

+ Gợi dẫn so sánh: Nêu sự tương đồng và khác biệt giữa hai nhân vật Mị

và A Phủ?

+ Gợi dẫn cảm xúc:

. Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nhân vật Mị đã để lại cho em ấn

tượng gì?

. Ấn tượng của em về tính cách của nhân vật A Phủ (qua hành động đánh

nhau với A Sử, lúc bị sử kiện và về làng làm công gạt nợ ở nhà thống lí Pá Tra)

+ Gợi dẫn khái quát, tổng hợp: giúp học sinh rèn khả năng nhận xét khái

quát, tổng hợp vấn đề sau khi học xong một đơn vị kiến thức.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 79

. Em nghĩ thế nào về số phận của người dân miền núi dưới ách thống trị

của thực dân phong kiến qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ?

. Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, em hãy phát biểu ý kiến của mình về giá

trị nhân đạo của tác phẩm?

+ Gợi dẫn khái quát: rèn cho học sinh từ những kiến thức hiểu biết về tác

phẩm để đưa ra những lời nhận xét, đánh giá, những hiểu biết có tính chất khái

quát: Qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, em biết được những gì về cuộc sống

của đồng bào ta dưới chế độ phong kiến miền núi?

+ Gợi dẫn phát hiện: Thái độ, tình cảm của nhà văn Tô Hoài dành cho

nhân vật Mị được thể hiện như thế nào? Thái độ của nhà văn trước hiện thực

cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm ?

* Nội dung 3: Nghệ thuật viết truyện

Gợi dẫn đánh giá: Nhằm kiểm tra khả năng đóng góp ý kiến của học sinh

viên trong việc nhận định đánh giá kiến thức tác phẩm: Em có nhận xét gì về

nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả? Em có nhận xét gì về ngôn ngữ,

nghệ thuật kể chuyện: lời kể, ngôi kể?

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 80

Chƣơng 3

THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM

Dựa vào định hướng dạy học đã được đề xuất ở chương 2, chúng tôi tiến

hành thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khả thi của định hướng dạy học

tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Chương 3 này sẽ trình bày quá trình và kết quả thực

nghiệm sư phạm của chúng tôi.

3.1. Thiết kế dạy học tác phẩm truyện “Vợ chồng A Phủ”

A. Mục tiêu cần đạt: Bài học này nhằm giúp học sinh:

1. Cảm và hiểu được những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác

phẩm “Vợ chồng A Phủ” một trong những truyện ngắn hay nhất của văn xuôi

Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Cụ thể:

- Cảm và hiểu được cuộc sống và số phận cơ cực của người nông dân

nghèo miền núi dưới ách thống trị của phong kiến và thực dân khi miền núi Tây

Bắc chưa được giải phóng (trước 1952). Đồng thời cảm và hiểu được sức sống

và khát vọng tự do của con người miền núi và sự vùng lên quyết liệt ở họ khi bị

đè nén quá mức chịu đựng.

- Cảm phục tài năng và phong cách kể chuyện của nhà văn Tô Hoài qua

tác phẩm: xây dưng được một cốt truyện giản dị nhưng hấp dẫn về số phận và

con đường giác ngộ của người nông dân miền núi; miêu tả tâm lí nhân vật sắc

sảo, tinh tế; lối trần thuật nhẩn nha, tỉ mỉ, hóm hỉnh, trữ tình...

2. Từ đó mà hình thành ở học sinh năng lực đọc hiểu một tác phẩm văn

học thuộc các thể loại truyện.

B. Hướng tiếp cận văn bản và nội dung bài học

Luận văn chọn hướng tiếp cận văn bản từ nghệ thuật đến nội dung, cho

nên nội dung bài học gồm các phần:

1. Cốt truyện và ý nghĩa của cốt truyện

2. Nhân vật và ý nghĩa của hình tượng nhân vật

3. Lời kể và tác dụng của nghệ thuật trần thuật.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 81

Đây là một hướng thử nghiệm để tìm đường - tìm kiếm một con đường

dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại cho có hiệu quả.

C. Tiến trình bài học

Hoạt động 1: Đọc “tiểu dẫn” và văn bản đoạn trích

1.1. Học sinh đã tự học phần “Tiểu dẫn” ở nhà. Đến lớp, đọc lại một lần

nữa (nhờ một học sinh thực hiện). Sau đó, giáo viên nêu ra câu hỏi để học sinh bộc

lộ những hiểu biết của mình về nhà văn Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ:

- Tác giả Tô Hoài (1920-2014) là một trong những cây bút văn xuôi hàng

đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông là tác giả của những tác phẩm:

+ Truyện ngắn: Dế mèn phiêu lưu kí (1941); O chuột (1942); Nhà nghèo

(1944); Truyện Tây Bắc (1953).

+ Tiểu thuyết: Quê người (1942); Miền Tây (1967); Ba người khác (2006)...

- Tô Hoài viết Truyện Tây Bắc vào năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào

giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi ấy, nhà văn đã cùng ăn, ở, chiến đấu với đồng

bào các dân tộc. Chính những năm tháng đó để lại cho Tô Hoài những kỉ niệm,

hiểu biết về cuộc sống, con người miền núi. Để thể hiện lòng biết ơn của mình

với nghĩa tình Tây Bắc, Tô Hoài đã viết tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện:

Cứu đất cứu mường; Mường Giơn; Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm đạt giải nhất

Hội nhà văn Việt Nam (1954-1955).

- Truyện Vợ chồng A Phủ kể chuyện về cuộc đời của một đôi trai gái

người Mèo(H'mông) ở vùng núi cao Tây Bắc. Khi Tây Bắc còn dưới ách cai trị

của thực dân và chúa đất, Mị và A Phủ sống khổ nhục trong nhà thống lí Pá Tra

ở Hồng Ngài. Sau đó, Mị cứu A Phủ thoát chết, hai người chạy đến Phiềng Sa,

trở thành vợ chồng, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Câu chuyện

xảy ra vào những năm 1950-1952, trước khi bộ đội ta vào giải phóng Tây Bắc.

Văn bản có trong SGK là phần đầu của truyện.

1.2. Đọc diễn cảm toàn bộ văn bản đoạn trích để tạo không khí cho giờ học,

kích thích hứng thú ở học sinh, lôi cuốn họ vào bài học (giáo viên thực hiện)

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 82

Hoạt động 2: Tìm hiểu cốt truyện (toàn bộ truyện và đoạn trích)

Gợi dẫn 1: Cốt truyện là toàn bộ các sự kiện được nhà văn kể ra. Ở tác

phẩm Vợ chồng A Phủ nhà văn Tô Hoài đã kể ra những sự kiện nào?

Yêu cầu:

* Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ gồm hai phần. Phần đầu kể về cuộc đời

của Mị và A Phủ khi sống ở Hồng Ngài. Phần sau kể về cuộc đời của hai người

khi chạy đến Phiềng Sa.

. Ở phần đầu có các sự kiện như sau:

- Mị và cuộc đời làm dâu trừ nợ trong nhà thống lí Pá Tra

- A Phủ bị bắt làm người ở gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra

- A Phủ đi chăn trâu để hổ bắt mất một con, bị Pá Tra trói đứng vào cọc

giữa nhà đã nhiều đêm, Mị trở dậy thổi lửa, thấy một dòng nước mắt bò xuống

hai hõm má đã xám đem của A Phủ. Mị thoát khỏi tình trạng vô cảm, bừng

tỉnh, đến cắt dây trói cứu A Phủ, cùng A Phủ chạy đến Phiềng Sa.

Ở phần sau có các sự kiện: Mị và A Phủ trở thành vợ chồng, gặp cán bộ

cách mạng, được giác ngộ và trở thành du kích đánh thực dân Pháp.

* Trích đoạn trong Sách giáo khoa Ngữ văn 12 ở phần đầu tiên của tác phẩm.

Gợi dẫn 2: Cốt truyện đó đã làm rõ nội dung gì của tác phẩm?

Yêu cầu: Cốt truyện đó đã làm cho tác phẩm có được một bức tranh

chân thực về cuộc sống và số phận cơ cực của người nông dân nghèo ở miền

núi dưới ách cai trị của bọn thống trị ở các bản làng vùng cao ở Tây Bắc trước

khi miền Tây Bắc được giải phóng (trước 1952). Tác phẩm còn là một bài ca về

sức sống và khát vọng tự do của con người miền núi.

Hoạt động 3: Tìm hiểu kỹ về hai nhân vật: Mị và A Phủ

3.1. Cuộc sống và số phận của Mị, nghệ thuật miêu tả tâm lí.

Gợi dẫn 3: Những chi tiết nghệ thuật nào cho em ấn tượng về cuộc sống

và số phận của Mị?

Yêu cầu:

* Những chi tiết về cuộc đời làm dâu trừ nợ của Mị trong nhà thống lí

Pa Tra.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 83

- Làm dâu nhà thống lí nhưng Mị bị đối xử như một nô lệ. Những năm

tháng làm dâu gạt nợ là một chuỗi dài những cực nhọc, vất vả nối tiếp nhau: Mị

vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm, công việc cứ quanh năm ngày tháng lần

lượt: xe đay, bẻ ngô, dệt vải, hái củi...suốt năm, suốt đời như thế. Lúc nào trên

tay cũng cài một bó đay để tước thành sợi. Có thể khái quát chuỗi ngày làm dâu

của Mị như sau: “Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng

gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả

ngày” [18, tr.134].

- Sự lao động vất vả, triền miên đã biến cô gái trẻ hồn nhiên, yêu đời trở

thành cô gái tiều tụy, nhẫn nhục, lặng câm. Điều đó đã được Tô Hoài diễn tả

ngay ở đoạn văn mở đầu “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đến phần sau, tác giả

lại tô đậm thêm chân dung ấy bằng hình ảnh ấn tượng “Mỗi ngày Mị càng không

nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” [18, tr.134]. Hình ảnh về căn buồng

Mị ở “kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra

cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng cứ chỉ

ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”[18, tr.134].

* Những chi tiết về sức sống tiềm tàng, khát vọng hạnh phúc và sự trỗi

dậy mãnh liệt ở Mị.

Đêm tình mùa xuân:

- Thiên nhiên Tây Bắc vào xuân căng tràn sức sống với những hình ảnh

tươi sáng và âm thanh quen thuộc của quê hương đã làm thức tỉnh tâm hồn tê

dại của Mị. Cô nhớ về quá khứ êm đềm, hạnh phúc với niềm say mê, yêu đời.

Mị ý thức rõ quyền sống của con người và thân phận của mình. Mị thấy mình

còn trẻ, Mị muốn đi chơi tết. Như vậy sức sống bấy lâu bị đè nén, bây giờ bỗng

trào dâng. Lòng ham sống đã trỗi dậy.

- Tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân đã thức tỉnh tâm hồn

của Mị. Tiếng sáo say đắm lòng người: “Anh ném pao, em không bắt / Em

không yêu quả pao rơi rồi” đã thổi bùng lên trong Mị niềm khao khát sống,

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 84

khao khát hạnh phúc. Mị có hành động “Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, sắn một

miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng

sáo”[18, tr.136].Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi tết. A Sử trở về trói

đứng Mị lại. Sợi dây trói kia đã dập tắt đi ước mơ của người đàn bà khốn cùng

ấy nhưng không thể trói được sức sống đang trỗi dậy trong tâm hồn Mị: “Trong

bóng tối Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói, hơi rượu còn nồng

nàn. Mị vẳng nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám

chơi”[18, tr.137]

- Khi bị A Sử trói đứng, ý nghĩ về cái chết nảy ra trong đầu Mị: “Mị

chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có

một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến vợ chết rồi.

Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết”[18, tr.138], lúc

này là biểu hiện của sự phản kháng mạnh mẽ, chứng tỏ sức sống trong con

người Mị chưa bao giờ bị dập tắt.

- Tô Hoài đã miêu tả tâm lí nhân vật thật sâu sắc và tinh tế. Ông đặt nhân

vật vào tình huống đặc biệt để miêu tả những tiềm ẩn sâu xa trong tâm hồn. Tác

giả không chỉ miêu tả sức sống mãnh liệt của nhân vật mà còn thể hiện sự nâng

niu, trân trọng những ước mơ đẹp của con người. ngòi bút tài hoa của nhà văn

đã nắm bắt đúng diễn biến và những thay đổi tinh vi của nội tâm nhân vật, qua

đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Đêm cởi trói cho A Phủ

- Chỉ vì đánh mất một con bò A Phủ bị trói đứng vào cột đến nỗi: “Đàn

bà trong nhà mỗi khi đi qua đều cúi mặt. Không dám hỏi, cũng không ai dám

nhìn ngang mắt”[18, tr.145]. Lúc đầu Mị cũng vô cảm, thờ ơ ngồi thổi lửa, hơ

tay vì chuyện đánh người, trói người ở nhà này thành quen và cũng vì Mị đã

chịu đựng quá nhiều sự tàn nhẫn, độc ác của cha con thống lí. Nhưng rồi đêm

nay chứng kiến những giọt nước mắt lăn dài trên gò má đen sạm của A Phủ. Mị

chợt bừng tỉnh: “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 85

trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không

lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết...”[18, tr.146-147]. Từ

chỗ thương thân, xót mình chuyển sang thương người “Mị rút con dao nhỏ cắt

lúa, cắt nút dây mây”[18, tr.147]. A Phủ chạy đi. Mị đứng lặng trong bóng tối,

rồi Mị cũng vụt chạy ra. Mị đuổi kịp A Phủ và nói “A Phủ cho tôi đi với”. Đó

chính là giây phút bất ngờ nhất trong cuộc đời của Mị.

- Nhận xét về hành động của Mị: Đây là việc làm táo bạo, bất ngờ, cũng

có nghĩa cắt đứt mối quan hệ giữa Mị và gia đình Pá Tra. Nó đồng nghĩa với

việc Mị đã chiến thắng nỗi sợ hãi của bản thân. Như vậy sức sống tiềm ẩn trong

con người Mị trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đây là hành động tự phát,

nhưng nó chứng minh một cách rõ ràng qui luật “Tức nước vỡ bờ”. Bị đè nén

đến một mức độ nào đó con người sẽ vùng lên đấu tranh.

Gợi dẫn 4: Em có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của

Tô Hoài?

Yêu cầu :

Nhà văn Tô Hoài đã có một bút pháp miêu tả tâm lí rất sâu sắc và tinh tế.

Đây là một đóng góp đáng kể của Tô Hoài khi ta đặt Vợ chồng A Phủ trong văn

xuôi thời kỳ kháng chiến chống Pháp chưa chú ý đến nghệ thuật miêu tả tâm lí.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí dặc sắc của Tô Hoài thể hiện rất rõ ở những

đoạn văn tả diễn biến tâm lí của Mị khi sống trong nhà thống lí Pá Tra. Thời

gian đầu về làm dâu trong nhà thống lí, Mị đã phản kháng quyết liệt: mấy tháng

ròng, đêm nào Mị cũng khóc và định tự tử bằng lá ngón. Nhưng Mị đã nghĩ đến

bố nên không đến với cái chết.

Sau đó là một chuỗi dài triền miên những vất vả, cực nhọc đã làm tê liệt

cả ý thức về bản thân ở Mị. Cùng với sự áp chế về tinh thần bởi mê tín, thần

quyền đã làm cho Mị sống như một cái bóng vật vờ “lùi lũi như một con rùa

nuôi trong xó cửa”[18, tr.134]

Đoạn văn tả về diễn biến trong tâm hồn Mị khi mùa xuân về trên miền

núi cao Tây Bắc cũng là một đỉnh điểm về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật:

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 86

Tiếng sáo gọi bạn tình trong những đêm mùa xuân đã làm cho ngọn lửa ham

sống trong tâm hồn Mị bừng lên: Mị sống lại với những hồi tưởng về những

ngày xuân quá khứ, những kỉ niệm đẹp thời thanh xuân...Từ đó Mị ý thức được

tình cảnh đau xót của mình và bước tới hành động: “Mị đến góc nhà, lấy một

ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”[18, tr.136],rồi quấn lại

tóc, rút lấy cái váy hoa, sửa soạn đi chơi Tết...

3.2. Cuộc sống và số phận A Phủ - nghệ thuật miêu tả tính cách

Gợi dẫn 5: Những chi tiết nghệ thuật nào làm cho em có ấn tượng về A Phủ?

Yêu cầu :

* Chi tiết về A Phủ xuất hiện trong cuộc đánh nhau của trai làng với bọn

A Sử

Là người gan góc, ngang tàng, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu: “Một người to

lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát

lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ,

kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”[18, tr.140].

* Chi tiết về A Phủ bị bắt làm người ở gạt nợ: “A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ

im như cái tượng đá”. Một năm rừng động, A Phủ để hổ bắt mất một con bò.

Pá Tra đã trói đứng anh vào một cái cọc bằng một cuộn mây

Gợi dẫn 6: Từ những chi tiết trên,em có được cảm nhận gì về tính cách

của A Phủ?

Yêu cầu:

Hình tượng A Phủ ở tác phẩm này rất tiêu biểu cho hình ảnh những

thanh niên nghèo các dân tộc thiểu số ở miền núi cao Tây Bắc. A Phủ mồ côi

cha mẹ, suốt đời đi làm thuê, làm mướn, nhưng trời phú cho anh một sức sống

mạnh mẽ, một tính cách gan góc và một tài năng lao động “biết đúc lưỡi cày,

biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Cuộc sống tự do, phóng

khoáng giữa thiên nhiên của núi rừng miền Tây Bắc đã hun đúc nên tính cách

rất đặc trưng của người Mông ở A Phủ: hồn nhiên, chất phác, gan góc, mạnh

mẽ, ham chuộng tự do...

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 87

3.3. Ý nghĩa của hai hình tượng Mị và A Phủ

Gợi dẫn 7: Hình tượng nhân vật Mị và hình tượng nhân vật A Phủ đã

làm cho nội dung của tác phẩm hiện lên rõ nét như thế nào?

Yêu cầu :

* Hình tượng nhân vật Mị và hình tượng nhân vật A Phủ đã làm hiện lên

rất rõ nét cuộc sống và số phận của những người lao động nghèo ở vùng núi

cao Tây Bắc dưới ách áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân trong một

thời kì dài đằng đẵng trước khi Tây Bắc được giải phóng (1952)

* Hai hình tượng Mị và A Phủ cũng làm hiện lên rõ nét những nét đẹp

trong tâm hồn con người ở miền núi: mặc dù sống trong đau khổ vì bị áp bức

và đè nén bạo tàn của bọn cường hào và những tập tục mê tín, nhưng ở người

miền núi vẫn tiềm ẩn một sức sống tiềm tàng, tiềm ẩn một khát vọng tựu do

mãnh liệt...

* Hình tượng Mị và A Phủ đã tạo nên giá trị nhân đạo của tác phẩm, bởi

ngòi bút của nhà văn Tô Hoài thấm đượm sự đồng cảm với cuộc sống và thân

phận của người miền núi, thấm đượm sự trân trọng những phẩm chất đẹp đẽ

trong tâm hồn những con người sống trên vùng núi cao xa xôi. Nhà văn Tô

Hoài miêu tả Mị và A Phủ không dừng lại ở sự quan sát từ bên ngoài mà đã hòa

nhập sâu sắc vào cảnh sống, vào số phận, vào cuộc đời của các nhân vật...

Hoạt động 4: Tìm hiểu những sáng tạo của Tô Hoài về ngôi kể, lời kể

và giọng kể?

Gợi dẫn 8: Em có phát hiện gì về những sáng tạo của nhà văn Tô Hoài

trong nghệ thuật trần thuật ở tác phẩm này?

Yêu cầu:

* Nhà văn Tô Hoài đã chọn lời kể ở ngôi thứ ba tức là đứng ngoài để kể

về những gì mà nhà văn chứng kiến trong chuyến đi với bộ đội trong chiến dịch

Tây Bắc cuối năm 1952. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tượng

sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho Tô Hoài. Đất nước và con người miền Tây Bắc

đã “để thương để nhớ” cho nhà văn. Bởi thế ông đã tái hiện lại rất chân thực và

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 88

sinh động cảnh sắc, phong tục tập quán và tâm hồn người Mông trên vùng cao

miền Tây Bắc.

* Lời kể và giọng kể ở truyện ngắn này mang rất đậm phong cách trần

thuật của Tô Hoài: kể nhẩn nha, rành rẽ, giản dị, trong sáng, thấm đượm nỗi xót

xa và thương cảm của người kể: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra

thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa

cạch tàu ngựa...trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa đã gặt xong, ngô lúa

đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ tinh nghịch, đã đốt những lều

canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn tết khi gặt hái

vừa xong...” [18, tr.131].

* Bằng lời kể và giọng kể ấy nhà văn Tô Hoài đã làm cho tác phẩm Vợ

chồng A Phủ đậm chất thơ, rất lôi cuốn người đọc. Đến với tác phẩm này,

người đọc như bước vào một thế giới hình tượng của núi rừng Tây Bắc với

những cảnh sắc thiên nhiên đẹp đẽ cùng với những cảnh sinh hoạt, những

phong tục mới lạ của người Mông ở vùng núi cao...

Hoạt động 5: Kết thúc bài học bằng việc khơi gợi học sinh bộc lộ những

cảm nhận riêng của mình về tác phẩm sau khi học đã đọc - hiểu văn bản

Sau khi học xong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, em có

những hiểu biết gì về cuộc sống, con người Tây Bắc trong những năm kháng

chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)?

- Nhân dân miền núi có cuộc sống khổ cực, chịu nhiều tầng áp bức của

phong kiến chúa đất và thực dân. Không chỉ bị đè nén, bóc lột về vật chất, họ

còn chịu nhiều gánh nặng về tinh thần, đó là các hủ tục lạc hậu như: cướp vợ

trình ma, tục xử kiện, phạt vạ...

- Biết được những phong tục, tập quán sinh hoạt của người miền núi: ăn

tết, thổi sáo, uống rượu...

- Con người miền núi ít nói, nhẫn nhục, cam chịu nhưng có sức sống

tiềm ẩn mãnh liệt. Họ đã tự đứng lên giải phóng cuộc đời mình, đi theo tiếng

gọi của Đảng.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 89

3.2. Dạy thực nghiệm

3.2.1. Mục đích

Thực nghiệm dạy học nhằm kiểm chứng tính khả thi của định hướng dạy

học truyện theo thể loại do luận văn đề xuất, nhằm tìm kiếm một con đường

nâng cao hiệu quả việc dạy học tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông.

3.3.2. Đối tượng thực nghiệm

- Học sinh lớp 12 Trung tâm giáo dục Thường xuyên Phổ thuộc địa bàn

huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên

Chúng tôi chọn dạy thực nghiệm ở các lớp 12A, 12B Trung tâm giáo dục

Thường xuyên Phổ thuộc địa bàn huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên

3.3.3. Kế hoạch thực nghiệm

Chọn bài thực nghiệm: Trong chương trình Ngữ văn lớp 12 chúng tôi

chọn dạy thực nghiệm tác phẩm truyện ngắn viết trong thời kì kháng chiến

chống Pháp (1946-1954) đó là tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài .

* Thời gian: Thời gian thực nghiệm được tiến hành ở tuần thứ 20, tiết 55,

56 trong học kì II năm học 2014 - 2015, theo Phân phối chương trình Ngữ văn

lớp 12 cơ bản do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

* Công việc thực nghiệm:

Những nội dung được luận văn xác định trong thực nghiệm gồm:

- Bài thực nghiệm: 01

- Số tiết dạy: 04

- Số lớp dạy: 02

- Số bài kiểm tra: 03

- Giáo viên tham gia dạy thực nghiệm: 02

1. Hoàng Minh Phương, tổ Ngữ văn, Trung tâm giáo dục Thường xuyên

Phổ Yên dạy thực nghiệm lớp 12A

2. Vũ Thị Phụng, tổ Ngữ văn, Trung tâm giáo dục Thường xuyên Phổ

Yên (người thực hiện luận văn), dạy thực nghiệm lớp 12B TTGDTX Phổ Yên.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 90

3.3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm

. Mục đích và nội dung của việc đánh giá

Chúng tôi tiến hành đánh giá kết quả thực nghiệm sau khi dạy thử

nghiệm để thấy được tính khả thi của phương án dạy học tác phẩm truyện Vợ

chồng A Phủ theo đặc trưng thể loại.

. Nội dung đánh giá:

Để đánh giá xem bài học có đạt được kết quả như mục tiêu đã đề ra

không. Cụ thể

* Sau giờ học, học sinh có cảm và hiểu đúng và đầy đủ nội dung, tư

tưởng của tác phẩm Vợ chồng A Phủ không? ; có cảm và hiểu được nét đặc sắc

trong nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Tô Hoài không?

* Học sinh có kĩ năng đọc hiểu một tác phẩm truyện theo thể loại không?

. Cách thức đánh giá:

Sau giờ học thực nghiệm, chúng tôi cho học sinh làm một bài kiểm tra

viết trong một tiết. Đề kiểm tra gồm 3 câu:

- Câu 1: Sau khi học xong tác phẩm, em có được cảm nhận như thế nào

về nội dung tư tưởng của tác phẩm Vợ chồng A Phủ ?

- Câu 2: Em có ấn tượng ấn tượng sâu về những chi tiết nghệ thuật nào ở

hai nhân vật Mị và A Phủ?

- Câu 3: Em cảm nhận được những gì về nghệ thuật kể chuyện đặc sắc

của nhà văn Tô Hoài ở tác phẩm Vợ chồng A Phủ ?

* Thang điểm cụ thể:

- Câu 1: 3 điểm (tối đa)

- Câu 2: 4 điểm (tối đa)

- Câu 3: 3 điểm (tối đa)

. Kết quả thu được qua bài làm của học sinh:

Về mức độ cảm - hiểu nội dung tư tưởng tác phẩm:

. Học sinh nói được hai nội dung: Bức tranh hiện thực cuộc sống; Tư

tưởng, tình cảm của nhà văn.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 91

+ Nói đầy đủ, chính xác hai nội dung trên: 60/77 học sinh, chiếm 80%

+ Nói được một nội dung: 13/77 học sinh, chiếm 17%

+ Nói không chuẩn xác: 4/77 học sinh, chiếm 3%

Học sinh ở Trung tâm giáo dục thường xuyên Phổ Yên phần đông có lực

học trung bình, nhưng với phương án dạy học tác phẩm truyện Vợ chồng A Phủ

theo đặc trưng thể loại, đa số học sinh đã cảm - hiểu được nội dung tư tưởng

của tác phẩm, như em Phạm Thu Sương lớp 12B, Trung tâm giáo dục Thường

xuyên Phổ Yên đã có những cảm nhận khá sâu sắc về nội dung tư tưởng của

truyện như sau: Qua truyện ngắn này, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả chân thực,

sinh động về cuộc sống khổ cực, chịu nhiều tầng áp bức của nhân dân miền núi

Tây Bắc. Tác phẩm cũng phản ánh quá trình đấu tranh của đồng bào chống lại

bọn phong kiến thực dân, đem lại cuộc sống tự do, giải phóng quê hương.

Chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1952, Tô Hoài cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu

với đồng bào các dân tộc, nên nhà văn hiểu, trân trọng, đồng cảm và miêu tả

cặn kẽ, tường tận cuộc sống, con người nơi đây. Chính vì vậy truyện ngắn trở

nên gần gũi và có sức sống lâu bền.

Em Nguyễn Thị Hạnh lớp 12A Trung tâm giáo dục Thường xuyên Phổ

Yên lại có những cảm nhận rất thú vị về hiện thực cuộc sống mà truyện ngắn

mang lại: Truyện ngắn đã đưa em tới miền đất với những phong tục, tập quán

mà ở quê em không có như tục cướp vợ, tình ma, tục xử kiện, phạt vạ. Bên

cạch đó em còn được trải nghiệm những sinh hoạt văn hóa đậm bản sắc dân tộc

của người Tây Bắc: ngày tết nhà nào cũng uống rượu, trẻ con chơi quay, chơi

cù, cười nói trước sân, đặc biệt mùa xuân đến thường có tiếng sáo gọi bạn tình,

là dịp tỏ tình của trai gái yêu nhau.

Em Trương Anh Ninh lớp 12B Trung tâm giáo dục Thường xuyên Phổ

Yên có những hiểu biết: Tác phẩm cũng đã tái hiện bức tranh chân thực về

cuộc sống khổ đau, bi thảm củ a ngườ i lao đô ̣ng miền nú i. Cuô ̣c đờ i củ a Mi ̣ (con dâu ga ̣t nơ ̣) và A Phủ (đứ a ở trừ nơ ̣) là cuộc đời của những kẻ nô lệ mang thân

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 92

.

, sự nâng niu , trân tro ̣ng những nét , đồng

phâ ̣n khổ đau như con trâu , con ngựa, là những na ̣n nhân tiêu biểu cho chế đô ̣ thực dân phong kiến tàn ba ̣o , dã man .“Vợ chồng A Phủ ” cũng phản ánh đư ợc mă ̣t hiê ̣n thực cơ bản lú c ấy . Đó là con đườ ng đi từ tự phát đến tự giác củ a ngườ i lao đô ̣ng và sự vươn lên dướ i ánh sáng tự do và nhân phẩm củ a ho ̣ Truyện ngắn còn thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả , đó là niềm cảm thôn g sâu sắc đối vớ i nỗi đau khổ củ a con ngườ i đe ̣p trong tâm hồn con ngườ i và lòng tin vào khả năng vươn dâ ̣y củ a ho ̣ thờ i lên án những thế lực tàn ba ̣o, đen tối chà đa ̣p lên quyền sống, ước mơ hạnh

phúc và phẩm giá của con người.

Về mức độ cảm - hiểu nghệ thuật độc đáo của tác phẩm

- Học sinh nói được 3 yếu tố (ngôi kể, lời kể, giọng kể): 58/77 học sinh,

chiếm 75%

- Học sinh nói được hai yếu tố (ngôi kể, giọng kể): 12/77 học sinh, chiếm

15,6%

- Học sinh nói được một yếu tố (ngôi kể): 5/77 học sinh, chiếm 6,5%

- Học sinh nói không chuẩn xác: 2/77 học sinh, chiếm 2.9%

Kết quả như trên cho thấy, phần lớn các em đều nắm được nét độc đáo

trong nghệ thuật trần thuật của tác phẩm, ví dụ em Nguyễn Thị Vân Anh, lớp

12A Trung tâm giáo dục Thường xuyên Phổ Yên viết: Trong truyện ngắn này,

nhà văn đã thành công với nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc, tinh tế.

Những đoạn văn miêu tả diễn biến trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh, lòng ham

sống và khát vọng hạnh phúc, tình yêu là những trang viết hay, chứng tỏ sự hóa

thân của nhà văn vào chiều sâu nội tâm của nhân vật. Bên cạch đó, sức hấp dẫn

của tác phẩm còn ở nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, các tình tiết dẫn

dắt một cách khéo léo. Giọng trần thuật của tác giả hòa vào những độc thoại

nội tâm.

Em Nguyễn Thị Hằng, lớp 12B Trung tâm giáo dục Thường xuyên Phổ

Yên lại có những hiểu biết về nghệ thuật viết truyện Vợ chồng A Phủ như sau:

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 93

Trong truyện ngắn, với ngôi kể thứ ba, câu chuyện được kể tự nhiên, linh hoạt,

khách quan. Người kể có mặt ở mọi nơi, có nhiều đoạn nhà văn đã thâm nhập

vào đời sống nội tâm thầm kín của nhân vật. Làm cho diễn biến tâm lí nhân vật

hiện ra rõ nét, chân thực, dễ nắm bắt. Lời kể chuyện tự nhiên cùng giọng kể

từng trải, tinh tế, giàu chất thơ đã tạo nên một tác phẩm có giá trị nghệ thuật

dặc sắc, thành công của Tô Hoài.

Em Nguyễn Tiến Điều, lớp 12A Trung tâm giáo dục Thường xuyên Phổ

Yên viết: Tô Hoài có biệt tài miêu tả tự nhiên và phong tục, truyện ngắn đã tạo

dựng được một không gian nghệ thuật mang đậm màu sắc dân tộc độc đáo ở

vùng núi Tây Bắc. Đó là bức tranh thiên hùng vĩ và thơ mộng của mùa xuân

Tây Bắc: mùi vị của hương rừng gió núi, cái tê lạnh của không khí vùng cao,

cái hôi hổi nồng nàn của lòng người, cái rực rỡ sáng tươi của màu sắc. Những

trái bí đỏ, những cái váy hoa phơi trên mỏm đá xoè như những con bướm sặc

sỡ, cỏ gianh vàng ủng, gió rét dữ dội, những bếp lửa rực cháy hơi men. Đặc

biệt thanh âm réo rắt của tiếng sáo trên núi rừng, khơi gợi những khát khao. Đó

là những bức tranh sinh hoạt và phong tục độc đáo mang màu sắc xứ lạ phương

xa: cảnh vui chơi trong ngày tết, cảnh thổi sáo gọi bạn tình, cảnh xử kiện, tục

cướp vợ được miêu tả chân thực, sinh động, giàu chất thơ.

Những ấn tượng riêng về nhân vật của học sinh

- Học sinh yêu thích và có ấn tượng với nhân vật Mị: 45/77 học sinh,

chiếm 58%. Trong đó có 30/45 em thích nhất hai chi tiết về nhân vật Mị trong

đêm tình mùa xuân và đêm cởi trói cho A Phủ (chiếm 67%)

- Học sinh yêu thích và có ấn tượng với nhân vật A Phủ: 32/77 học sinh,

chiếm 42%

Sau khi học xong tác phẩm, học sinh đều có ấn tượng sâu sắc về nhân vật

và thể hiện những cảm nhận rất riêng về mỗi nhân vật mà mình yêu thích.

Ví dụ em Nguyễn Văn Nghiệp, lớp 12A Trung tâm giáo dục Thường

xuyên Phổ Yên yêu thích nhân vật Mị và viết khá cảm xúc về tâm trạng của Mị

khi bị A Sử trói: Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị chứ không trói được tâm

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 94

hồn cô, bởi tâm hồn Mị đang tự do dạo chơi trong thế giới của khát vọng sống

“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu

nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đưa Mị đi theo những cuộc chơi,

những đám chơi...”Mị không biết mình bị trói nghĩa là cô không sống bằng thể

xác mà thực sự đang sống bằng tâm hồn. Có lúc tiếng sáo gọi bạn tình nhập vào

hồn Mị “Mị vùng bước đi trong dây trói”. Và thực sự Mị chỉ tỉnh khi “tay chân

đau không cựa được”. Tỉnh rồi lại nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Giấc

mơ tan biến, tiếng sáo gọi bạn tình không còn. Tỉnh rồi mới thấy lòng cay đắng

“Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Em Nguyễn Thị Tuyên, lớp 12B Trung tâm giáo dục Thường xuyên Phổ

Yên lại có ấn tượng nhất với nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ: Lúc

đầu Mị thản nhiên ngồi thổi lửa hơ tay, Mị không chú ý gì đến A Phủ bị trói

đứng gần đó. Nhưng đêm nay, chứng kiến những giọt nước mắt lăn dài trên gò

má đen sạm của A Phủ, Mị nhớ lại cảnh mình đã từng bị trói đứng như thế. Từ

chỗ thương thân chuyển xang thương người, Mị chợt thấy căm ghét bố con A

Sử. Chúng nó thật độc ác!. Tình thương người cùng cảnh ngộ và lòng căm thù

cái ác khiến Mị có thêm sức mạnh. Mị không còn nghĩ gì đến sự sống của bản

thân để quyết cứu A Phủ. Tình thương đã mạnh hơn nỗi sợ. Lòng căm thù giúp

Mị hành động nhanh nhẹn, khéo léo, dùng dao cắt dây trói, giục A Phủ đi ngay!

Em Nguyễn Thị Liên lớp 12A Trung tâm giáo dục Thường xuyên Phổ

Yên lại thích nhất nhân vật A Phủ, em viết: A Phủ là người có cá tính gan góc,

mạnh mẽ, gan lì, ít nói, chịu đựng quyết liệt. Là người giàu lòng tự trọng, sẵn

sàng trừng trị kẻ xấu (A Sử). Khi trở thành người làm công gạt nợ A Phủ vẫn là

con người tự do, không biết sợ cường quyền, kẻ ác: lẳng lặng đóng cọc, lấy dây

mây tự trói mình thản nhiên, lạnh lùng như hòn đá tảng.

3.3.5. Kết luận chung về thực nghiệm

- Khi xây dựng giáo án chúng tôi đã bám sát vào định hướng dạy học đã

đề ra đồng thời bám sát với yêu cầu kiến thức do Bộ Giáo dục qui định.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 95

- Xây dựng xong giáo án chúng tôi đã tham khảo ý kiến của đồng nghiệp

và tiến hành dạy thực nghiệm. Trong thời gian cho phép chúng tôi đã tiến hành

thực nghiệm ở ba lớp. Số lượng giờ thực nghiệm còn ít và chưa có điều kiện

mở rộng địa bàn thực nghiệm.

Tuy vậy, với kết quả thử nghiệm trên, chúng tôi tin rằng phương án dạy

học do luận văn đề xuất có tính khả thi khi ứng dụng vào thực tế dạy học trong

nhà trường phổ thông.

Qua quá trình thực nghiệm chúng tôi thấy:

- Đối với giáo viên:

+ Những yêu cầu trong giáo án đều được giáo viên thực hiện tốt, tạo hiệu

quả cho giờ học. Khi tiến hành thực nghiệm giáo án giáo viên không gặp bất kì

trở ngại nào.

+ Thời gian thực nghiệm giáo án là 90 phút (2 tiết). Hoạt động của giáo

viên và học sinh đều được chủ động, bài dạy vận dụng những phương pháp dạy

học tích cực, giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức học sinh khám phá những

giá trị của tác phẩm. Sau đó có bài kiểm tra, đánh giá vận dụng kiến thức.

- Đối với học sinh:

Chúng tôi sử dụng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề gợi dẫn học sinh khám

phá từng nội dung bài học. Nhìn chung giờ học sôi nổi, học sinh chủ động, tích

cực, từng bước khám phá đầy đủ cả những yếu tố hình thức và nội dung của tác

phẩm truyện

Giờ dạy học thực nghiệm cho thấy tính khả thi của việc ứng dụng đề tài:

Dạy học các tác phẩm truyện về thời chống Pháp trong sách giáo khoa bậc

trung học theo đặc trưng thể loại

Tuy nhiên, với số lượng giờ thực nghiệm còn ít ỏi và chưa có điều kiện

để mở rộng địa bàn thực nghiệm nên chúng tôi vẫn chưa thực sự hài lòng về kết

quả đạt được. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm tòi, học hỏi thêm theo hướng nghiên

cứu của đề tài.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 96

KẾT LUẬN

1. Đề tài “Dạy học các tác phẩm truyện về thời chống Pháp trong sách

giáo khoa bậc trung học theo đặc trưng thể loại” nhằm định hướng dạy học

tác phẩm truyện về thời chống Pháp trong sách giáo khoa trung học theo đặc

trưng thể loại. Đề tài đã triển khai theo trình tự hợp lí và thu được kết quả bước

đầu: Nghiên cứu lí luận về thể loại và đặc trưng thể loại truyện, về truyện ngắn

“Làng”, “Vợ chồng A Phủ” để làm cơ sở cho việc dạy học tác phẩm theo đặc

trưng thể loại, nghiên cứu thực tiễn về tình hình dạy và học tác phẩm “Làng”,

“Vợ chồng A Phủ” trong nhà trường Trung học phổ thông để làm cơ sở cho đề

xuất dạy học tác phẩm theo đúng đặc trưng thể loại (Chương 1). Luận văn cũng

đã đề xuất định hướng học sinh tiếp cận văn bản truyện từ ba yếu tố hình thức

của thể loại: cốt truyện, nhân vật, lời kể để từ đó học sinh vừa biết được những

sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, vừa biết được ý đồ nghệ thuật của tác giả gửi

ngắm trong tác phẩm (Chương 2). Cuối cùng, luận văn thiết kế bài học“Vợ

chồng A Phủ” và tiến hành dạy thực nghiệm cho học sinh Trung tâm giáo dục

Thường xuyên ở huyện Phổ Yên để kiểm tra tính khả thi của phương án dạy

học mà luận văn đề xuất (Chương 3).

2. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại không còn là

vấn đề mới, song dạy học một tác phẩm truyện theo đặc trưng thể loại là một

vấn đề chưa được quan tâm nhiều. Những đề xuất dạy học của luận văn chỉ là

một ý kiến chủ quan qua quá trình thực tế dạy học cho học sinh ở địa bàn một

huyện. Do điều kiện chủ quan, khách quan mà người thực hiện luận văn chỉ

tiến hành thực nghiệm trong phạm vi một trường. Luận văn cũng chưa tiến

hành dạy đối chứng để so sánh hiệu quả trong cảm thụ văn học của học sinh về

tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Vì vậy vấn đề đặt ra trong luận văn còn là vấn đề

cần tiếp tục tìm tòi thêm.

3. Người thực hiện luận văn đã cố gắng kế thừa những công trình khoa

học và những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước. Song quả thực

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 97

đây là một vấn đề khó đối với việc nghiên cứu những văn bản tác phẩm truyện

viết về thời kì kháng chiến chống Pháp (1946-1954) vì số lượng tác phẩm dạy

trong nhà trường không nhiều, học sinh còn ít kiến thức về lịch sử. Đến với đề

tài này, người thực hiện luận văn hi vọng đây sẽ là một gợi ý cho bạn bè đồng

nghiệp tham khảo nhằm đạt kết quả cao hơn trong việc dạy học các tác phẩm

truyện viết về thời kì kháng chiến chống Pháp (1946-1954) nói riêng và các tác

phẩm truyện nói chung.

4. Cuối cùng, do năng lực người làm luận văn còn hạn chế, vấn đề

nghiên cứu lại không dễ dàng, điều tra thực tiễn và dạy thực nghiệm chưa được

rộng khắp và chưa nhiều nên vấn đề nghiên cứu ở đề tài này không tránh khỏi

những mặt hạn chế, thiếu sót. Người thực hiện luận văn rất mong nhận được sự

đóng góp chân thành sâu sắc của giáo sư, tiến sĩ, bạn bè đồng nghiệp để đề tài

được hoàn thiện hơn và thực sự là một giải pháp cho việc dạy học các tác phẩm

truyện viết về thời kì kháng chiến chống Pháp.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân biên soạn (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản

Giáo dục Đại học quốc gia Hà Nội.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (2011), Hướng

dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 12.

3. Bộ giáo dục, Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12, tập I- Bộ cơ bản (2008) Nhà

xuất bản Giáo dục

4. Hoàng Hữu Bội (2005), Thiết kế bài học Ngữ văn 9 theo hướng tích hợp,

Nhà xuất bản Giáo dục.

5. Hoàng Hữu Bội (2007), Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 phần văn học, Nhà

xuất bản Giáo dục.

6. Nguyễn Văn Bổng (1971), Con trâu, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội

7. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương,

Nhà xuất bản Đại học Hà Nội.

8. Các nhà văn Việt Nam thế kỉ XX (1990), Nhà xuất bản Văn nghệ

9. Nguyễn Thị Khánh Dư, Thi pháp học và vấn đề giảng dạy trong nhà

trường, Nhà xuất bản Giáo dục.

10. Trần Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Huỳnh Lí, Phan Sĩ Tấn, Đàm Gia Cẩn

(1971), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể, Nhà xuất bản

Giáo dục Hà Nội.

11. Nguyễn Văn Đường (2011), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9, tập II, Nhà

xuất bản Hà Nội.

12. Nguyễn Văn Đường (2008), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập II, Nhà

xuất bản Hà Nội.

13. Trần Đăng (1975), Truyện và ký sự, Nhà xuất bản Văn học

14. Giáo sư Hà Minh Đức (1991), Tác phẩm Văn học 1930-1975, tập II Phân

tích bình giảng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội.

15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nhà xuất bản Giáo dục.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 99

16. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nhà xuất bản

Giáo dục.

17. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Giáo trình Phương pháp dạy học Ngữ văn ở

trung học cơ sở, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.

18. Tô Hoài (1971), Truyện Tây Bắc, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội

19. Mã Giang Lân (1998), Văn học Việt Nam (1945-1954), Nhà xuất bản

Giáo dục.

20. Kim Lân (2008), Vợ nhặt, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội

21. Nguyễn Văn Long (chủ biên) Nguyễn Thị Bình, Lã Thị Bắc Lý, Mai Thị

Nhung, Trần Đăng Suyền (2010) Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, tập

II (Từ sau cách mạng tháng Tám 1945), Nhà xuất bản Đại học sư phạm.

22. Phong Lê, Vũ Tuấn Anh, Vũ Đức Phúc (1986), Văn học Việt Nam kháng

chiến chống Pháp (1945-1954), Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội.

23. Phan Trọng Luận (chủ biên), Trương Dĩnh (2012), Phương pháp dạy học

văn, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.

24. Phan Trọng Luận (1996), Phương pháp dạy học văn, Nhà xuất bản Đại

học Quốc gia Hà Nội.

25. Nguyễn Đăng Mạnh (2008), Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12

(Nâng cao), Nhà xuất bản Giáo dục.

26. Sơn Nam (2013) tái bản, Hương quê, Tây đầu đỏ và một số truyện ngắn

khác, Nhà xuất bản Trẻ

27. Nguyên Ngọc (1971), Đất nước đứng lên, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội

28. Nhiều tác giả (2005), Giảng văn văn học Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục.

29. Nhiều tác giả (2007), Tác phẩm và thể loại văn học, Nhà xuất bản Đại học

Sư phạm.

30. Nguyễn Khắc Phi tổng chủ biên (2007), Sách giáo viên Ngữ văn 9, tập II,

Nhà xuất bản Giáo dục.

31. Nguyễn Kim Phong chủ biên (2008), Kĩ năng đọc- hiểu văn bản Ngữ văn

12, Nhà xuất bản Giáo dục.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 100

32. Nguyễn Kim Phong chủ biên (2008), Kĩ năng đọc- hiểu văn bản Ngữ văn

12, Nhà xuất bản Giáo dục.

33. Vũ Dương Qũy, Lê Bảo (2008), Bình giảng văn 9 một cách đọc- hiểu văn

bản trong SGK, Nhà xuất bản Giáo dục.

34. Nguyễn Huy Quát, Hoàng Hữu Bội (2001), Một số vấn đề phương pháp

dạy học văn trong nhà trường, Nhà xuất bản Giáo dục.

35. Trần Đăng Suyền (2012), Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm

văn học, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.

36. Trần Đình Sử chủ biên (2008), Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 9,

Nhà xuất bản Giáo dục.

37. Võ Huy Tâm (1971), Vùng mỏ, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội

38. Tuyển tập Nam Cao (2011), Nhà xuất bản Văn học.

39. Nguyễn Đình Thi (1971), Xung kích, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội

40. Trần Nho Thìn (2009), Phân tích tác phẩm Ngữ văn 12, Nhà xuất bản

Giáo dục.

41. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam- Viện Văn học (1977), Tác giả văn xuôi

Việt Nam hiện đại từ sau 1945, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 101