BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Vũ Thị Kỳ Hương

HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số

: 66 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. DƯ NGỌC NGÂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010

DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài

Giao tiếp là hoạt động đặc trưng của con người, là cách thức để các cá nhân trong cộng

đồng gắn kết và phát triển. Trong xã hội hiện đại, giao tiếp ngày càng đóng vai trò quan trọng. Cùng

với sự phát triển không ngừng của các liên ngành và một số phân ngành ngôn ngữ học như Ngôn

ngữ học tâm lý, Ngôn ngữ học xã hội, Ngôn ngữ học tri nhận, Ngữ dụng học v.v…, việc nghiên cứu

những vấn đề liên quan đến giao tiếp trở thành một yêu cầu cấp thiết không chỉ của lý thuyết các

ngành khoa học mà còn của nhu cầu thực tế. Hành động bác bỏ là một trong những hành động giao

tiếp phổ biến và thông dụng của con người. Nó thúc đẩy tính hiệu quả và chuyển tải mong muốn đạt

được một nhu cầu nào đó trong giao tiếp. Do đó, nghiên cứu loại hành động này sẽ có nhiều ý nghĩa

thực tiễn và lý luận hữu ích để nghiên cứu các vấn đề khác có liên quan của hoạt động giao tiếp.

Mặt khác, xã hội càng phát triển, các mối quan hệ giao tiếp liên nhân ngày càng trở nên

phong phú về nội dung, phức tạp về cấu trúc, đa dạng về hành vi, đòi hỏi mỗi một cá nhân cần phải

biết cách vận dụng để xử lý khéo léo các nguồn thông tin được tiếp nhận. Bên cạnh hành động chấp

thuận, đồng tình được sử dụng một cách dễ dàng, tự nhiên, hành động bác bỏ lại chứa đựng nhiều

yếu tố tinh tế, phức tạp. Đây là hành động giao tiếp cần thiết trong các cuộc hội thoại; nắm vững và

sử dụng nhuần nhuyễn những hành động ngôn từ này sẽ giúp người giao tiếp đạt được hiệu quả giao

tiếp cao hơn.

Vấn đề nghiên cứu hành động bác bỏ thực ra không còn quá mới mẻ. Đã có một số công

trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, các nghiên cứu còn mang tính chất riêng lẻ, chỉ

xuất hiện rải rác trong những công trình nghiên cứu về ngữ pháp học, ngữ dụng học. Trên cơ sở sự

quan tâm sẵn có đối với đề tài, thực trạng nghiên cứu hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu

toàn diện về vấn đề này, chúng tôi đã chọn hành động bác bỏ tiếng Việt làm đề tài cho luận văn cao

học.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chúng tôi là những hành động bác bỏ được sử dụng trong

môi trường giao tiếp bằng ngôn ngữ, trong hội thoại giữa người và người. Để củng cố thêm những

nhận định và tính xác thực, chúng tôi sử dụng hệ thống dữ liệu trong các văn bản hội thoại hiện đại,

các tác phẩm truyện ngắn, truyện dài của một số tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, môi trường

giao tiếp không chỉ đơn thuần liên quan tới yếu tố ngôn ngữ, mà còn có thể xuất hiện một số yếu tố

phi ngôn ngữ khác như điệu bộ, cử chỉ, hành động nên những hành động thể hiện nhận định hoặc

hành động bác bỏ phi lời cũng là đối tượng nghiên cứu bổ sung của chúng tôi.

Do giới hạn của đề tài, chúng tôi không đi sâu vào việc đi tìm đặc trưng văn hóa trong hành

động bác bỏ, hay đối chiếu hành động bác bỏ giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau mà chỉ tập

trung chủ yếu vào việc nghiên cứu, tìm hiểu những phương thức, phương tiện bác bỏ đặc trưng

được sử dụng phổ biến trong tiếng Việt. Ngoài ra, chúng tôi cũng cố gắng đi tìm một quan niệm

thống nhất về hành động bác bỏ vốn đang ít nhiều gây tranh cãi trong giới ngôn ngữ học ngày nay.

3. Lịch sử vấn đề

Trước khi đi vào tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề hành động bác bỏ, chúng tôi không thể

không đề cập đến lịch sử nghiên cứu hành động ngôn ngữ - tiền đề lý thuyết quan trọng nhất của đối

tượng nghiên cứu.

Lý thuyết hành động ngôn từ, hay còn gọi là lý thuyết hành động lời nói được đánh cột mốc

ra đời kể từ công trình nghiên cứu “Những cơ sở lý thuyết của ký hiệu” (1938) của nhà ký hiệu học

Mỹ Charles W. Morris. Lần đầu tiên ông đã xem xét ký hiệu trên ba bình diện: Kết học, Nghĩa học

và Dụng học (tức Ngữ dụng học). Tuy nhiên, Ngữ dụng học chỉ phát triển rực rỡ trong vòng ba thập

niên gần đây. Sự phát triển của nó kéo theo sự phát triển của các lý thuyết mới như Lý thuyết hành

động ngôn từ.

Nếu Morris là người khởi xướng những tiền đề nghiên cứu thì chính John L.Austin là người

đã xây dựng nền móng cho lý thuyết hành động ngôn từ với công trình được công bố sau khi ông

qua đời hai năm “How to do things with words”. Tên gọi của công trình đã hé mở cho chúng ta thấy

lý thuyết hành động ngôn từ chính là lý thuyết về các hoạt động ngôn ngữ, trong đó, tác giả đã điều

chỉnh lại một cách sâu sắc mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói vốn được tách bạch từ thời của

Ferdinand de Saussure.

Hành động bác bỏ được Austin xếp vào lớp lớn thứ năm trong năm lớp lớn: 1. Phán xét; 2.

Hành xử; 3. Cam kết; 4. Ứng xử; 5. Bày tỏ. Ông coi bác bỏ, cũng như khẳng định, phủ định, giải

thích, minh họa, báo cáo, luận điểm…là những hành động dùng để trình bày các quan niệm, dẫn dắt

các lập luận, giải thích từ ngữ, đảm bảo sự quy dẫn. Sự phân loại này, ngay chính Austin cũng cảm

thấy còn có những điều không thỏa mãn, có chỗ chồng chéo, có chỗ mơ hồ không rõ ràng. Searle

bằng cách bổ sung thêm tiêu chí về nội dung, lại phân chia hành động bác bỏ này vào lớp thứ ba

được gọi là lớp chi phối, song song với các hành động như mệnh lệnh, thách thức, hỏi, yêu cầu, đề

nghị v.v…

Từ thời Aristotle, hành động phủ định, bác bỏ đã được chú ý nghiên cứu, nhưng dưới góc

nhìn của của Triết học và Logic học. Phải đến những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, hành động

bác bỏ mới được xem như một trong những đối tượng nghiên cứu của Ngữ dụng học- một phân

ngành của Ngôn ngữ học và dần được đề cập trong các công trình nghiên cứu độc lập.

Panfilov trong công trình Grammar and Logic đã tiến hành khảo sát hành động phủ định

theo hướng logic-cú pháp và nhận định sự phủ định như một hiện tượng ngôn ngữ phổ quát. A. M.

Peshkovsij là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ câu phủ định toàn bộ và phủ định bộ phận. Ông cho

rằng câu phủ định toàn bộ là câu mà vị ngữ bị phủ định, câu phủ định bộ phận là câu mà những bộ

phận khác bị phủ định.

Tại Việt Nam, trước đó trong ngôn ngữ học truyền thống, câu biểu thị hành động bác bỏ

được xem như một dạng câu song song bên cạnh những dạng như miêu tả, khẳng định, trần thuật…,

đôi khi nó được đồng nhất với câu phủ định. Lúc bấy giờ, câu chỉ được đánh giá là đúng hay sai về

mặt ngữ nghĩa theo tiêu chuẩn logic, và được phân tích chủ yếu dựa trên cơ sở cấu trúc hoặc những

khái niệm về chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ v.v… Những trợ từ, tiểu từ bị xem nhẹ và được coi

là những từ hư. Vì thế, những dạng câu như:

- Con ở nhà.

- Con ở nhà chứ bộ.

- Con ở nhà mà.

đều được coi là đồng nhất về cấu trúc và ngữ nghĩa. Do đó, các công trình nghiên cứu về hành động

bác bỏ theo quan điểm này hầu không có nhiều ý nghĩa, vì phần đông các câu có hành động bác bỏ,

hoặc bị đồng nhất vào những kiểu cấu trúc nhất định, hoặc không được nghiên cứu đến. Sau này,

khi đối tượng nghiên cứu được tiếp cận dưới những nền tảng lý thuyết mới của logic học, ngữ dụng

học, hành động bác bỏ dần được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu.

Hầu hết các công trình ngữ pháp, ngữ nghĩa trong giới Việt ngữ học đều đề cập ít nhiều đến

một đối tượng rất gần gũi và có khi thống nhất với hành động bác bỏ là câu phủ định. Từ Trần

Trọng Kim, Lê Văn Lý, Hoàng Tuệ, Nguyễn Đức Dân, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê… tới

Hoàng Trọng Phiến, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thị Hai… đều đề cập đến đối tượng nghiên cứu

này.

Công trình nghiên cứu có ý nghĩa lý thuyết quan trọng phải kể đến là bài viết “Phủ định và

bác bỏ” của Nguyễn Đức Dân đăng trên tạp chí Ngôn ngữ số 1-1983 và sau này được đề cập hoàn

chỉnh hơn trong công trình Logic- Ngữ nghĩa- Cú pháp. Tác giả là người đầu tiên có xu hướng xác

định ranh giới giữa phủ định và bác bỏ, phần nào phá bỏ thế nhập nhằng trước đây về hai loại hành

động này. Các tác giả khác, với những cách tiếp cận khác nhau, ít nhiều đề cập đến những mặt đa

diện về phương thức và cách thức của loại hành động này. Tiêu biểu có Hành động từ chối trong

tiếng Việt hiện đại của Nguyễn Thị Hai, Cách biểu hiện hành động từ chối lời cầu khiến bằng các

phát ngôn lảng tránh của Trần Chi Mai. Một số khác lại chú trọng vào việc nghiên cứu chiến lược

dùng trong giao tiếp như Một số chiến lược phản bác thường dùng trong tiếng Việt của Nguyễn

Quang Ngoạn, Một số kiểu hồi đáp tích cực của hành vi chê của Nguyễn Thị Hoàng Yến. Đi theo

con đường đối chiếu có các tác giả như Dương Bạch Nhật, Siriwong Hongsawan. Nếu Dương Bạch

Nhật chỉ tiến hành đối chiếu một khía cạnh nhỏ của hành động bác bỏ (khía cạnh lịch sự trong từ

chối lời mời) thì Siriwong Hongsawan trong bài báo “Đối chiếu hành động bác bỏ gián tiếp thông

qua hàm ý trong giao tiếp tiếng Thái và tiếng Việt” đã chủ trương đi sâu nghiên cứu phương thức

bác bỏ bằng hàm ý, cụ thể ở đây là đối chiếu giữa tiếng Thái và tiếng Việt.

Vấn đề của lập luận và lịch sự cũng được khá đông các nhà nghiên cứu quan tâm như

Nguyễn Đức Dân, Lê Thị Kim Đính, Lê Tô Thúy Quỳnh, Dương Bạch Nhật, Nguyễn Như Ý,

Nguyễn Thị Hoàng Yến… Ngoài các công trình dưới dạng sách, báo, tạp chí, một số luận án, luận

văn cao học viết về bác bỏ, lập luận, lịch sự cũng đã xuất hiện.

Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy, hành động bác bỏ không phải là một đề tài mới mà đã

được nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận ở các góc độ cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công

trình nào xem xét hành động này một cách toàn diện dưới góc độ Ngữ dụng học, và tìm hiểu đầy đủ

những phương thức và phương tiện biểu hiện hành động này. Đó cũng chính là cơ sở để chúng tôi

quyết định bắt tay vào thực hiện đề tài.

4. Các phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, ngoài những thủ pháp, phương pháp nghiên cứu khoa học chung như

thu thập ngữ liệu, phân loại ngữ liệu…, luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau.

- Phương pháp phân tích ngữ dụng học. Trên cơ sở nguồn dữ liệu đã thu thập, chúng tôi tiến

hành thao tác phân tích từng cơ sở dữ liệu về các mặt như mục đích phát ngôn, hành động

ngôn từ, hình thức biểu hiện, ngữ cảnh v.v… nhằm đem lại những nhận định có tính xác thực

và khái quát nhất của từng vấn đề. Đây cũng là cơ sở giúp chúng tôi tiến hành xây dựng các

biểu thức bác bỏ thông qua hệ thống dữ liệu thu thập được.

- Phương pháp miêu tả. Vì đối tượng nghiên cứu là dạng hành động ngôn từ phổ biến và tồn

tại trong giao tiếp, do đó trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi phải tiến hành mô tả các dạng

hành động bác bỏ từ hiện tượng tới bản chất, những nội dung rút ra từ miêu tả sẽ là cơ sở để

chúng tôi xây dựng các tiêu chí phân loại cũng đồng thời giúp chúng tôi giải thích, minh họa

cho các nhận định của mình.

- Phương pháp so sánh - đối chiếu. Chúng tôi tiến hành so sánh - đối chiếu trên cơ sở dữ liệu

và giữa các quan điểm nghiên cứu. Đối với dữ liệu, chúng tôi tiến hành đối chiếu từng dữ

liệu với nhau, hoặc giữa nhóm dữ liệu này với nhóm dữ liệu khác, từ đó tìm ra những điểm

khác biệt hoặc tương đồng về hình thức hoặc nội dung, trên cơ sở đó có thể rút ra các nhận

định cần thiết. Việc đối chiếu bổ sung với một số hành động bác bỏ của các nền văn hóa khác

cũng là một cách thức để chúng tôi đi tìm bản sắc riêng trong hành động bác bỏ của tiếng

Việt.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

a) Ý nghĩa khoa học

- Vận dụng những thành tựu về lý thuyết ngữ dụng học nói chung và lý thuyết hành động ngôn

từ, lý thuyết hội thoại, lý thuyết lập luận nói riêng vào việc khảo sát một hành động ngôn từ

cụ thể là hành động bác bỏ trong tiếng Việt.

- Xác định rõ khái niệm bác bỏ, phân biệt với các hành động ngôn từ khác trong giao tiếp.

- Kết quả của luận văn có thể góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý thuyết như phương thức

bác bỏ, mối quan hệ giữa hành động bác bỏ với vấn đề lập luận, vấn đề lịch sự.

b) Ý nghĩa thực tiễn

- Luận văn có thể là tài liệu hỗ trợ cho quá trình học và dạy tiếng Việt trong nhà trường.

- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo về các chiến thuật trong giao tiếp, về hành động bác bỏ.

- Hệ thống cứ liệu, tuy không đồ sộ về quy mô, nhưng đã được chọn kỹ lưỡng để người đọc có

thể hình dung về các phương thức, cách bác bỏ khác nhau trong tiếng Việt.

- Tư liệu và nội dung của luận văn này, có thể là tài liệu tham khảo cho các công trình khác

liên quan về ngữ dụng học, đặc biệt là các công trình có liên quan tới hành động bác bỏ.

6. Bố cục của luận văn

Luận văn bao gồm 133 trang chính văn, một danh mục các tài liệu tham khảo và tài liệu

trích dẫn, một phụ lục gồm 70 trang. Phần nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương.

Chương Một có tiêu đề Những cơ sở lý thuyết. Trong chương này, luận văn trình bày ba

vấn đề lớn: lý thuyết hành động ngôn từ; lý thuyết hội thoại; tổng quan về hành động bác bỏ bao

gồm các tiêu chí phân biệt bác bỏ và phủ định, khái niệm, mục đích của hành động bác bỏ.

Chương Hai có tiêu đề Hành động bác bỏ trong tiếng Việt và vấn đề lịch sự, vấn đề lập

luận. Chương này nghiên cứu về mối quan hệ qua lại giữa bác bỏ và lịch sự, bác bỏ và lập luận,

cách thức để tăng hiệu quả và thể hiện sự lập luận cũng như lịch sự trong bác bỏ.

Chương Ba có tiêu đề Phương thức, phương tiện biểu hiện của hành động bác bỏ trong

tiếng Việt. Chương này nghiên cứu về những phương thức thực hiện hành động bác bỏ, và các

phương tiện hình thức và biểu thức được sử dụng để bác bỏ.

Chương 1:

NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. LÝ THUYẾT HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ

1.1.1. Khái niệm hành động ngôn từ

Hoạt động giao tiếp là hoạt động có tính chất liên nhân diễn ra hai chiều: liên hệ xuôi từ

người phát tới người nhận, và liên hệ ngược từ người nhận đến người phát. Nếu chỉ có một nửa quá

trình thì sẽ không tạo thành hoạt động giao tiếp. Ngôn ngữ phục vụ cho việc giao tiếp như một cách

thức chuyển tải thông điệp và tạo hành động, do đó nó luôn chịu ảnh hưởng của người khác ngoài

chủ thể giao tiếp, đồng thời cũng mang tính quy ước xã hội sâu sắc.

Mối liên hệ giữa hành động ngôn từ và hành động của con người mang tính hiển nhiên,

không thể bỏ qua và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học liên quan, đặc biệt trong

ngữ dụng học, vấn đề này là một đối tượng nghiên cứu quan trọng.

Người ta cho rằng người đặt tiền đề, đi tiên phong cho lý thuyết này là nhà triết học người

Áo L.Wittgenstein với quan niệm đồng nhất hoạt động giao tiếp với hoạt động xã hội và coi việc sử

dụng ngôn từ như một loại hành động. Nếu L.Wittgenstein là người đặt tiền đề thì chính J. Austin

và J. Searle là người đã đặt nền móng vững chắc cho đối tượng nghiên cứu này. Các ông tin rằng

ngôn ngữ không chỉ được dùng để thông báo hay miêu tả cái gì đó mà nó thường được dùng để

“làm cái gì đó”, để thực hiện hành động. Với công trình nghiên cứu “How to do thing with words”,

J. Austin đã bày tỏ quan điểm “To say is to do something”, (nói là làm). Ông cho rằng để thực hiện

một hành động ngôn từ thì việc nói ra điều đó phải đi với việc làm một điều gì đó, tức phải tác động

một điều gì đó vào thực tế. Từ luận điểm trên, lý thuyết về hành động ngôn từ đã dần được xây

dựng. Khi chúng ta nói một câu, nghĩa là chúng ta thực hiện một hành động nào đó, chẳng hạn như

cầu khiến, van xin, bác bỏ, chúc mừng, tuyên bố… Chúng được xem là những hành động ngôn từ

và được thực hiện bằng ngôn từ.

Ví dụ 1

- Con chào mẹ ạ.

- Tôi tuyên bố khai mạc hội nghị.

- Tôi chúc anh sớm khỏi bệnh.

Dễ dàng nhận ra đây là những câu chào, câu tuyên bố, câu chúc phổ biến. Chính những

động từ như “chào, tuyên bố, khuyên” đã thể hiện lần lượt các hành động trên. Người ta gọi những

động từ này là động từ ngữ vi (hay ngôn hành).

J. Austin đã coi hành động ngôn từ là một thể thống nhất của ba loại hành động: hành động

tạo lời; hành động tại lời; hành động mượn lời, hay còn gọi là hành động sau lời.

Cái khó trong lý thuyết hành động ngôn từ là một phát ngôn thường không chỉ thực hiện

một hành động mà thực hiện hai hoặc ba hành động và không phải bao giờ cũng dễ dàng quyết định

được là phát ngôn ấy thực hiện hành động nào hoặc những hành động nào bởi vì nội dung của hành

động có khi không phụ thuộc vào bản thân nội dung phát ngôn mà còn tùy thuộc vào văn cảnh nơi

phát ngôn nảy sinh.

Ví dụ 2

Đứa con mới đi học về:

- Thưa mẹ, con mới về ạ.

Hình thức là một câu thông báo sự tình, tuy nhiên, mục đích của phát ngôn trên không chỉ

là đưa ra một thông báo, mà đó là một lời chào lễ phép của người nhỏ tuổi so với người lớn tuổi.

1.1.2. Các hành động ngôn từ

Phân tích cụ thể hơn, hành động ngôn từ bao gồm những hành động cụ thể như sau.

(1) Hành động tạo lời

Đây là hành động sử dụng các chất liệu vật chất tạo nên ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng,

ngữ pháp… để tạo nên một câu nói. Đây là một hành động thuần tính vật chất.

(2) Hành động tại lời

Hành động tại lời, hay còn được gọi là hành động ngôn trung là những hành động phát ra

một câu với nghĩa và sở chỉ xác định. Thực hiện hành động này tức là nói một điều gì đó và thực

hiện nó. Nó có thể tạo ra một lời tuyên bố, một lời chào, lời hứa… khi phát ra một câu nhờ hiệu lực

của những quy ước liên quan tới nó.

J. R. Searle khi nghiên cứu về hành động ngôn từ lại đặc biệt quan tâm đến người nói và

điều được nói. Dựa trên quan điểm và khắc phục những hạn chế trong lý thuyết của J. Austin, ông

đưa ra khái niệm hành động ngôn từ gián tiếp. Ông cho rằng: “Một hành động ngôn từ gián tiếp là

hành động ngôn từ được thực hiện bằng hình thức của một hành động ngôn từ khác”. Nói cách

khác, một hành động tại lời được thực hiện gián tiếp phải thông qua một hành động tại lời khác với

hai đặc điểm như sau.

- Một hành động ngôn từ gián tiếp được thực hiện thông qua những hành động tại lời khác

nhau.

- Cùng một hành động tại lời có thể tạo ra những hành động gián tiếp khác nhau.

Ví dụ 3

- Bố tôi sắp về rồi. Anh làm ơn đi ngay được không?

Ở ví dụ trên, hành động tại lời là hỏi, nhưng mục đích chính là để đề nghị, yêu cầu: Anh hãy

đi ngay đi.

J. R. Searle đưa ra 12 tiêu chí phân loại hành động ngôn từ, trong đó có 3 tiêu chí quan

trọng nhất như sau.

- Mục đích của hành động tại lời.

- Hướng thích nghi giữa lời lẽ và hiện thực.

- Trạng thái tâm lý được biểu hiện.

Dựa theo đó, ông đã phân chia hành động ngôn từ ra làm 5 loại.

a) Khẳng định

- Mục đích của hành động tại lời: người nói phải chịu trách nhiệm về những giá trị chân lý của

mệnh đề được biểu đạt.

- Hướng thích nghi: từ hiện thực tới lời lẽ.

- Trạng thái tâm lý: tin tưởng vào tính đúng đắn, giá trị chân lý của điều được nói ra.

b) Cầu khiến

- Mục đích của hành động tại lời: nhằm để người tiếp nhận làm một việc gì đó.

- Hướng thích nghi: lời lẽ có trước, hiện thực thay đổi theo lời lẽ, do người tiếp nhận thực

hiện.

- Trạng thái tâm lý: người nói mong muốn điều mình cầu khiến sẽ được thực hiện.

c) Hứa hẹn

- Mục đích của hành động tại lời: người nói tự gán trách nhiệm cho mình là phải thực hiện một

hành động nào đó đã cam kết trước đó.

- Hướng thích nghi: từ lời nói tới hiện thực đều do người nói thực hiện.

- Trạng thái tâm lý: khi hứa hẹn trạng thái tâm lý không xác định, phụ thuộc vào từng hành

động hứa cụ thể.

d) Bày tỏ

- Mục đích của hành động tại lời: bày tỏ một trạng thái tâm lý nào đó.

- Hướng thích nghi: người nói làm cho lời lẽ thích nghi với hiện thực. Hiện thực xảy ra trước,

lời lẽ làm cho thích nghi.

- Trạng thái tâm lý: không xác định, phụ thuộc vào hành động ngôn từ.

e) Tuyên bố

- Mục đích của hành động tại lời: gây ra một sự thay đổi nào đó bằng lời tuyên bố.

- Hướng thích nghi: từ lời lẽ tới hiện thực, hiện thực xảy ra ngay sau khi hành động ngôn từ

được thực hiện.

- Trạng thái tâm lý: không xác định được nhưng các yếu tố của thể chế làm cho hành động

ngôn từ của người nói có giá trị.

(3) Hành động mượn lời

Hành động mượn lời là hành động thông qua câu nói, người nói tác động đến tư tưởng, tình

cảm… của người tiếp nhận. Với một hành động mượn lời, người nghe có thể không nhận ra ngay

mặc dù hiểu được hành động tại lời. Một hành động tại lời có thể có nhiều hành động mượn lời khác

nhau.

1.1.3. Điều kiện sử dụng hành động ngôn từ

Việc sử dụng lời nói trong hoạt động ngôn từ sẽ phải chịu những sự chi phối nhất định mà

L.Wittgenstein gọi là “trò chơi ngôn ngữ”, và J. Austin đưa ra quan điểm “nói là làm”, tức sử dụng

âm thanh để bộc lộ ra một nội dung hành động nào đó. Để đạt được hiệu quả trong giao tiếp, người

nói cần quan tâm đến các điều kiện sử dụng của các hành động ngôn từ, bởi để hành động được thực

hiện thì mỗi hành động ngôn từ phải có những điều kiện nhất định. Muốn cho người nghe thực hiện

một hành động nào đó theo đúng như mong muốn, suy nghĩ của mình thì người nói phải lựa chọn

cách nói làm sao để người nghe không chỉ hiểu mình nói ở bề mặt ngôn từ mà còn tri nhận được

đích ngôn trung.

Đối với hành động ngôn từ tạo lời, các điều kiện sử dụng của nó liên quan đến ngữ âm, từ

vựng, ngữ pháp của một ngôn ngữ cấu tạo nên lời nói và có thể hiểu được đối với người nghe.

Người nói, khi phát ngôn, buộc phải tôn trọng tính hình thức và các quy tắc kết hợp của một ngôn

ngữ cụ thể. Đồng thời, cả hai bên đều phải có khả năng tiếp nhận và tạo thông tin, không bị những

hạn chế sinh lý như câm hay điếc hay không hiểu các mã ngôn ngữ mà cộng đồng tại nơi đó quy

định. Chẳng hạn, nếu ta đi ra nước ngoài và muốn trao đổi thông tin nào đó với người nước ngoài

(mua bán hay trao đổi hàng hóa v.v…), ta buộc phải hiểu rõ và sử dụng được những chất liệu ngôn

ngữ và các cách thức kết hợp đặc trưng chúng lại với nhau, khi đó hành động tạo lời mới có kết quả.

Đối với hành động tại lời, các hành động tại lời bị chi phối bởi các quy tắc hình thành tự

nhiên theo cộng đồng vì vậy mà mỗi loại hành động tại lời có những điều kiện sử dụng riêng mà

Austin gọi là những điều kiện thuận lợi. Về vấn đề này, Searle chia ra làm ba loại chính như sau.

- Điều kiện ban đầu: liên quan đến quan hệ của hai người, người nói và người nghe, tới những

ý nguyện, lợi ích và khả năng của người nghe.

- Điều kiện chân thành: còn gọi là điều kiện hiện thực. Tập trung chủ yếu nói đến trạng thái

tâm lý của hành động mà người nói thực hiện. Yếu tố chân thành ở đây liên quan tới trạng

thái tâm lý đặc trưng, khác với điều kiện chân thực về mặt logic tức tính đúng sai của mệnh

đề được nói ra. Thông báo một điều gì đó cho người khác là phải tâm niệm rằng thông tin đó

là sự thật. Ra lệnh không chỉ là ép buộc mà phải thực sự mong muốn người nhận lệnh chấp

hành. Dùng câu hỏi để tìm hiểu những thông tin mình chưa biết và thật sự muốn được biết về

thông tin đó chứ không phải là hỏi để xã giao, lấy lệ, hay mỉa mai, thực hiện hành động mời

mọc thì phải thực sự mong muốn người đối thoại tiếp nhận lời mời của mình.

- Điều kiện căn bản: là những điều kiện về trách nhiệm, sự ràng buộc với người nói hoặc

người nghe khi hành động đã được thực hiện. Đối với hành động ra lệnh, trách nhiệm thuộc

về người nhận lệnh. Đối với hành động mời mọc, điều kiện thiết yếu là người nghe sẵn sàng

chấp nhận lời mời mọc. Đối với hành động khuyên răn, điều kiện thiết yếu là người nghe

nhận thấy rõ giá trị của những lời khuyên răn và thực hiện một cách chủ động, tâm phục khẩu

phục lời khuyên ấy.

Trong hành động ngôn từ, tính cộng đồng không chỉ ảnh hưởng tới những yếu tố vật liệu

tạo nên ngôn ngữ, mà còn là một cách thức để hiểu rõ đích ngôn trung của lời nói.

Ví dụ 4

Hai cách thức hội thoại thể hiện một đích ngôn trung mời mọc, thúc giục người cùng bàn

hãy ăn uống thoải mái, tự nhiên của người Việt Nam và người Trung Quốc.

Người Việt: Ăn tự nhiên nhé.

Người Trung: Nĩmen màn chi.

Dịch sát nghĩa bề mặt của câu chữ, câu tiếng Trung có ý đối nghịch với câu tiếng Việt.

“Màn” có nghĩa là chậm, do đó, có thể hiểu là các bạn hãy ăn với tốc độ chậm lại, nhìn ở một

phương diện cụ thể, là đối ngược với cách thức ăn “tự nhiên” trong câu tiếng Việt, tức cứ ăn nhiều,

ăn thoải mái. Tuy nhiên, đích ngôn trung cuối cùng trong câu tiếng Trung lại thống nhất với câu

tiếng Việt, biểu lộ ý ngược lại nghĩa thực trên bề mặt câu chữ, là mời mọc các bạn hãy cứ ăn uống

tự nhiên đi.

Do đó, trong khi thực hiện các hành động ngôn từ, ta không thể bỏ qua các yếu tố ngữ cảnh

xung quanh, bao gồm yếu tố về môi trường, văn hóa và đặc trưng cộng đồng nơi câu nói được thực

hiện.

Dễ dàng nhận thấy hành động ngôn từ trong hoạt động giao tiếp nói chung, và đặc biệt hay

được nhắc tới trong các tác phẩm văn chương, thường bao hàm hai tầng ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là

“ý tại ngôn trung” tức ý ở trong lời, là ý tường minh của phát ngôn, được nói ra trực tiếp nhờ các

yếu tố ngôn ngữ như từ vựng, ngữ âm, câu, văn bản… Ý nghĩa thứ hai là “ý tại ngôn ngoại” tức ý ở

ngoài lời, là những tầng ý nghĩa mà người nghe phải dùng đến các thao tác suy ý và phải dựa vào

những yếu tố khác ngoài ngôn ngữ, vào văn cảnh, vào các quy tắc điều khiển hành động ngôn từ,

điều khiển lập luận, điều khiển hội thoại… mới nắm bắt được.

Ngoài ra, lý thuyết hành động ngôn từ của Searle còn đề cập đến các điều kiện khác như:

điều kiện xuất phát và tới đích, điều kiện nội dung mệnh đề… Những điều kiện này có tác động

không nhỏ vào hiệu quả giao tiếp trong hội thoại.

1.2. LÝ THUYẾT HỘI THOẠI

1.2.1. Khái niệm lý thuyết hội thoại

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người, là một trong những yếu

tố cơ bản dùng để phân tách con người ra khỏi những loại động vật khác trong tự nhiên. Giao tiếp

ngôn ngữ có hai dạng: giao tiếp một chiều, hay còn gọi là độc thoại; giao tiếp hai chiều: có bên nói

bên nghe và có sự phản hồi ngược trở lại lẫn nhau, đó là hội thoại. Hội thoại là hoạt động giao tiếp

phổ biến nhất, căn bản nhất của con người.

Vấn đề hội thoại được ngữ dụng học đặc biệt quan tâm. Hội thoại bao gồm ba loại chính.

- Song thoại (dialogue)

- Tam thoại (trilogue)

- Đa thoại (polylogue)

Lý thuyết về hội thoại được các nhà ngôn ngữ học, ngữ dụng học nghiên cứu chủ yếu tập

trung vào loại song thoại, vì loại hội thoại này có tính chất bao quát và mang hầu hết những đặc

trưng cơ bản của các loại hội thoại còn lại. Song thoại, đa thoại dù xảy ra ở quy mô như thế nào đi

nữa, cũng luôn được giữ ở trạng thái song phương đối thoại, tức có song song hai nguồn phát tín

hiệu và nguồn tiếp nhận tại cùng một thời điểm nói.

1.2.2. Những đặc điểm khái quát của cuộc hội thoại

(1) Những đặc điểm nội tại

- Tương tác qua lại: Sacks và Schegloff nêu nguyên tắc: trong cuộc thoại, mỗi lúc có người

nói và không nói đồng thời. Những người nói sẽ nói luân phiên nhau. Đó là nguyên tắc luân

phiên lượt lời.

- Sự liên kết: các lượt lời có liên kết với nhau và tạo ra sự liên kết hội thoại. Đó là nguyên tắc

liên kết hội thoại. Nguyên tắc này ảnh hưởng tới sự luân phiên lượt lời. Do đó, luân phiên

lượt lời không phải đi theo một thứ tự máy móc đơn thuần, hay lần lượt giữa những người

tham gia hội thoại, mà được xác định tự động, tự nhiên giữa những người tham gia trên cơ sở

tạo ra những lượt lời có sự liên kết.

- Tính mục đích: mọi cuộc thoại đều có mục đích, đều chứa đựng một hoặc nhiều chủ đề. Ở

mỗi một cá nhân lại tìm thấy những mục đích riêng.

- Tôn trọng nguyên tắc: Muốn cho cuộc thoại thành công, mỗi bên phải tôn trọng nguyên tắc

hội thoại và nguyên lý tế nhị.

(2) Những đặc điểm bên ngoài

Những đặc điểm bên ngoài được thể hiện ở ba phương diện: số lượng, quan hệ và chu cảnh.

- Về số lượng người tham dự. Mỗi cuộc thoại đều có một số người nhất định tạo thuận tiện cho

sự trao đổi. Số người tham dự hội thoại càng đông, thì tính chất tập trung vào một chủ đề

chính và không khí bổ sung, tán thưởng càng rõ nét.

- Về quan hệ giữa những người tham dự. Nguyễn Đức Dân cho rằng, “trong hội thoại, nói một

cách khái quát, không cần trước một quan hệ cá nhân. Quá trình hội thoại sẽ làm nên quan

hệ” (14 – tr.81). Chúng tôi nhận thấy quan hệ cá nhân không quyết định việc xảy ra hay

không xảy ra một hoạt động hội thoại, mà nó chỉ ảnh hưởng tới cấu trúc bên trong của cuộc

hội thoại: nội dung, không khí hội thoại v.v…

- Về chu cảnh của những cuộc hội thoại. Có hai phương diện chính là thời gian và không gian.

Về thời gian, những người tham dự có cùng một thời lượng. Thời lượng đó có thể không xác

định, cũng có thể được quy định nghiêm ngặt tùy vào từng ngữ cảnh. Ví dụ, một cuộc họp

bình bầu trong công ty có thể kéo dài cả ngày, hoặc một buổi tùy theo sự đơn giản hay phức

tạp của những nội dung đang bàn xét, nhưng một buổi làm thủ tục hành chính có thể quy

định thời lượng được phép đối với mỗi cuộc hội thoại giữa nhân viên nhà nước và mỗi một

công dân.

- Về không gian. Có những không gian khác nhau cho mỗi cuộc hội thoại, tuy nhiên, hầu như

không có hàng rào về không gian. Cuộc hội thoại có thể diễn ra trực diện khi hai người đối

diện nói chuyện trực tiếp với nhau, cũng có thể diễn ra ở một khoảng cách rất xa mà nhờ tiến

bộ khoa học kỹ thuật, người ta có thể thực hiện được như giữa người và người cách xa nhau

nửa vòng trái đất, giữa người ở mặt đất và người ngoài không gian vũ trụ…

1.2.3 Cấu trúc hội thoại

(1) Lượt lời

Lượt lời được đa số các nhà nghiên cứu coi như một đơn vị của hội thoại. Đó là một lần nói

xong của một người trong khi những người khác sẽ không nói, để rồi đến lượt một người tiếp theo

nói. Nếu có nhiều người khác nhau nói cùng một lúc, sẽ không xảy ra lượt lời, ngoại trừ những hành

vi xưng tụng, thề nguyền trong các lễ nghi tôn giáo.

Ví dụ 5

- Tôi nói đồng bào nghe rõ không?

- Rõ.

(Trích Tuyên ngôn độc lập)

Do mỗi lượt lời được xây dựng trên cơ sở lượt lời trước đó nên ta có sự luân phiên lượt lời

trong cấu trúc hội thoại. Cơ chế hoạt động của chúng chính là sự tranh lời và trao lời.

Trao lời là sự chuyển lời tự nhiên có ý thức chủ động của người đang giữ lời. Mỗi một

người đều có thể trực tiếp chuyển giao lượt lời cho một đối tượng xác định hoặc không xác định.

Trái với trao lời gọi là tranh lời hay ngắt lời, là những lời nói “xen ngang” vào giữa lượt lời

của người đang nói. Nguyên nhân có thể xuất phát từ sự nhầm tưởng họ đã nói xong, hoặc một phản

ứng tâm lý tức thời (tích cực hay tiêu cực). Lối nói tranh lời liên quan tới văn hóa, tập tục và quy

ước của từng dân tộc, chúng thường phản ánh những quan hệ tôn ti, những cương vị nào đó. Ví dụ

thầy cô có quyền ngắt lời học sinh, cha mẹ có quyền ngắt lời con, thủ trưởng có quyền ngắt lời nhân

viên nhưng hiếm khi có trường hợp ngược lại ngoại trừ cuộc hội thoại đang nằm trong một hoàn

cảnh đặc biệt nào đó (quá bức xúc hoặc quá tức giận chẳng hạn). Trong một số ngữ cảnh đặc biệt,

tranh lời là cần thiết và được cho là không vi phạm các nguyên tắc về tính lịch sự, hay chất lượng

giao tiếp. Chẳng hạn, trong các phiên tòa tại Mỹ, luật sư bên nguyên, trong quá trình chất vấn nhân

chứng, có thể tranh lời nhân chứng ngay tại một nội dung thông tin mà anh ta cho là quan trọng để

có thể thuyết phục tòa và bảo vệ ý kiến bào chữa của anh ta.

Trong hội thoại, khoảng cách giữa các lượt lời cũng được chú ý làm sao để không quá kéo

dài, tạo ấn tượng trống rỗng và ngắt quãng quá trình giao tiếp. Thường khi giai đoạn “im lặng” này

kéo dài lâu hơn mức thường lệ, nó lại được xem như một chiến thuật giao tiếp được áp dụng một

cách cố ý vào trong quá trình giao tiếp. Chẳng hạn, nguyên tắc im lặng kiểu Nhật Bản, hoặc kiểu

Phần Lan trong đàm phán thương mại thường dễ làm cho người đối thoại cảm thấy bối rối, lúng

túng.

(2) Mở thoại - thân thoại - kết thoại

Mở thoại là những lời nói được sử dụng trong một lúc nào đó để người khác cảm nhận được

là sẽ có một hoặc một chuỗi những lời nói tiếp theo.

Ví dụ 6

Người vợ nói với chồng:

- Anh ạ.

Điều đó có nghĩa là người vợ đang có câu chuyện gì đó muốn nói với người chồng. Tuy

nhiên, lời mở thoại này có thực sự thành công hay không, tức có hoàn thành được vai trò mở thoại

của mình hay không lại còn phụ thuộc vào mức độ sẵn lòng của người tiếp nhận lời mở thoại.

Đối với lời mở thoại trên, ba người chồng khác nhau có thể có ba cách phản ứng khác nhau

như sau:

Người thứ nhất:

- Có chuyện gì vậy em? -> Lời mở thoại được xem là thành công, vì người chồng đã chấp nhận

lời mở thoại và đang giữ cho cuộc thoại tiếp diễn.

Người thứ hai:

- Anh đang bận bù đầu đây.-> Lời mở thoại được xem là thất bại, vì người chồng có thái độ

bất hợp tác và đã có hành động kết thúc cuộc thoại.

Người thứ ba:

- Anh đang bận nhưng có chuyện gì quan trọng không hả em? -> Người chồng này có thái độ

lấp lửng, nửa muốn tiếp tục cuộc thoại, nửa lại muốn kết thúc cuộc thoại. Thái độ nước đôi

này cho thấy cuộc thoại có tiếp diễn hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào người mở thoại,

hay cụ thể hơn, là tầm quan trọng của nội dung vấn để sẽ được người mở lời nói tiếp sau đó

trong cuộc thoại.

Mở thoại - thân thoại - kết thoại được coi là một cấu trúc hoàn chỉnh, đầy đủ nhất của một

cuộc thoại. Tuy nhiên, trong thực tế, các cuộc thoại không phải khi nào cũng diễn ra một cách trình

tự và bài bản như vậy. Tùy vào mục đích giao tiếp và nội dung chuyển tải, cuộc thoại có thể đi đến

hoàn thiện một quy trình cũng có thể ngắt quãng tại một thời điểm nào đó của cuộc thoại.

(3) Cặp thoại

Khái niệm cặp thoại được hình thành từ chính bản chất của các lời thoại trong hội thoại. Các

hành động ngôn ngữ không đứng biệt lập nhau, hành động này kéo theo hành động kia, lượt lời này

tiếp ứng lượt lời kia trong một sự tương tác hội thoại.

Chúng ta hay bắt gặp các cặp thoại như sau: hỏi - đáp, chào - chào, đề nghị - đáp ứng, đề

nghị - bác bỏ…

Sau hoạt động mở thoại, người mở thoại sẽ mong đợi hành động tiếp nối cuộc thoại ngay

sau đó. Vai trò của lời mở thoại sẽ là định hướng nội dung ngữ nghĩa cho người thứ hai. Những

trường hợp đặc biệt như người ta cố ý vi phạm các phương châm hội thoại sẽ là những trường hợp

ngoại lệ không được tính đến ở đây. Lời mở thoại thường là câu hỏi, câu đề nghị, để tương ứng với

câu trả lời, câu đồng ý hay bác bỏ tạo thành một cặp thoại tương đối hoàn chỉnh và phổ biến.

Trong công trình nghiên cứu mang tên Ngữ dụng học (1988), tác giả Nguyễn Đức Dân có

đề cập đến hai yếu tố cấu trúc khác của cuộc thoại là lượt lời ưa dùng và lời chêm xen và coi đó

cũng là một chiến thuật giao tiếp. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định trên, và nhận thấy đây

cũng là một vấn đề thú vị cần được nghiên cứu trong một dịp khác. Lời chêm xen, trong một số ngữ

cảnh đặc biệt, cũng là một cách thức tạo ra sự bác bỏ.

Ví dụ 7

Khách:

- Cháu ngoan quá, mai cô cho cháu sang nhà chị chơi nhé.

Chủ nhà:

- Sáng ngày mai hả chị. Để em xem. Linh, sao lại vẽ đầy tường nhà thế kia. Mẹ nhắc hoài mà

vẫn chứng nào tật đấy. Đấy chị xem, đi đâu cũng phá thế đấy.

Theo logic thông thường, thì câu trả lời đã có sự xen ngang đột ngột của nội dung và đối

tượng tiếp nhận ngôn ngữ. Trong một lượt lời, vừa hướng đến hai cá nhân khác nhau. Tuy nhiên, đó

chính là chiến thuật “một mũi tên trúng hai đích”, vì người mẹ vừa nhắc nhở đứa con, vừa bày tỏ

thái độ từ chối không muốn cho đứa bé đi chơi.

1.3. KHÁI NIỆM BÁC BỎ, HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ

Bác bỏ là một trong những loại hành động ngôn từ đặc trưng thường được sử dụng phổ biến

trong các quá trình giao tiếp. Tuy nhiên, vai trò của nó có phần ít được chú ý hơn so với các hoạt

động ngôn từ được phân chia theo mục đích nói khác như nghi vấn, cầu khiến, trần thuật, cảm thán.

Trên cơ sở những công trình nghiên cứu trước đây, chúng tôi cố gắng hệ thống một số vấn đề lý

thuyết về hành động bác bỏ, làm căn cứ cơ sở cho các bước nghiên cứu cụ thể hơn của chúng tôi ở

các phần sau.

1.3.1. Khái niệm

Bác bỏ là một phương thức lập luận đã được chú ý ngay từ thời của Aristote. Nó gắn liền

với nghệ thuật hùng biện. Bác bỏ có mối quan hệ hữu cơ với lập luận và sự bảo vệ quan điểm của

cái tôi. Đó là một hành động phức tạp, phức hợp và có sự liên quan với nhiều hành động khác như

cầu khiến, nghi vấn, giải thích, cấm đoán, cảm thán… Chính sự phức tạp nội tại của hành động này,

mà người ta khó có thể sắp xếp bác bỏ vào làm một trong số những kiểu câu tiêu biểu theo đích

ngôn trung.

Bác bỏ là một vấn đề được nhiều bộ môn khoa học xã hội quan tâm và cũng là đối tượng

nghiên cứu quan trọng của một số ngành khoa học như Logic học, Ngữ dụng học. Logic học rất

quan tâm đến phủ định và bác bỏ và mối quan hệ của chúng với vấn đề lập luận.

Tuy nhiên, bác bỏ chỉ trở thành đối tượng chính thống của ngôn ngữ học kể từ khi có sự ra

đời của ngành Ngữ dụng học và bộ môn Phân tích diễn ngôn.

Bác bỏ về mặt giao tiếp, là một loại hành động có nguy cơ đe dọa thể diện của người nói

khá cao, vì bác bỏ, dưới góc độ nhẹ nhàng nhất, cũng là cách thức phủ định một vấn đề nào đó mà

người nói đồng tình, đặt ra nhưng người nhận không chấp thuận. Dưới áp lực này, khi thực hiện

hành động bác bỏ, người ta có nhiều hình thức bác bỏ khác nhau nhằm phù hợp với mục đích giao

tiếp, ngữ cảnh giao tiếp và đảm bảo khả năng bảo toàn thể diện cho cả đôi bên.

Khái niệm bác bỏ hiện nay cũng được sử dụng không nhất quán. Lý do là tùy theo đối tượng

khảo sát, mục đích khảo sát mà thuật ngữ này được các nhà logic học, logic học ngôn ngữ và ngữ

dụng học nhìn nhận rất khác nhau.

Phân tích theo phương thức chiết tự dựa trên từ điển Hoàng Phê, bác là gạt bỏ bằng lý lẽ

quan điểm, ý kiến của người khác, còn bỏ là không giữ lại, coi là đối với mình không có giá trị.

Cũng theo Hoàng Phê, bác bỏ là bác đi, gạt đi, không chấp thuận, ví dụ như bác bỏ ý kiến.

Cùng trường nghĩa với bác bỏ, chúng ta có các từ phản bác, phủ định, phủ nhận, phủ quyết,

cãi…

Có thể hình dung, bác bỏ là một hành động ngôn từ, ở đó người ta sử dụng lý lẽ của mình

để gạt bỏ quan niệm, nhận xét, đánh giá của người khác.

Một số nhà nghiên cứu có ý phân biệt hành động bác bỏ và hành động từ chối. Trong bài

nghiên cứu “Hành động từ chối trong tiếng Việt hội thoại” (Nguyễn Thị Hai, Ngôn ngữ số 1-2001-

trang 1), tác giả cho rằng “Sự bác bỏ, chối, cãi chỉ xảy ra khi trước đó có sự khẳng định. Do vậy,

trong mối quan hệ với hành động hỏi, hành động bác bỏ, chối, cãi có liên quan với các câu có hình

thức hỏi mang nội dung khẳng định. Còn hành động từ chối không liên quan tới những câu hỏi loại

này”. Tuy nhiên, tác giả cũng thấy được sự nhập nhằng của hai loại hành động này khi chỉ rõ “Mặt

khác, hành động từ chối lại cũng có thể liên quan đến hành động bác bỏ nói chung. Bởi vì khi thực

hiện hành động từ chối, người đáp lời không tránh khỏi việc phải nêu lý do từ chối. Những tham

thoại có nội dung chỉ ra các lý do ấy chính là tiền đề kích thích hành động bác bỏ nảy sinh, có thể

là, tiếp ngay sau đó”.

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng đã bắt gặp không ít các hiện tượng thuần tính

phủ định, tuy nó cũng nằm trong cặp thoại nhưng lại không có dấu hiệu của hành động bác bỏ.

Ví dụ 8

Bỗng anh người nhà về, nói:

- Thưa cụ, đích là chết rồi.

- Mày thấy tiếng khóc chưa?

- Chưa.

- Sao mày biết là chết?

- Con hỏi thăm.

- Thăm ai?

- Ngay chị cu Sứt ạ.

- Tốt. Thế mày không xui chị ta biện cái gì để đi trình làng à?

- Không ạ.

(21-tr.419)

Đoạn hội thoại chỉ đơn thuần là việc người mẹ đưa ra đề nghị mang tính lựa chọn và không

hề khẳng định bất cứ một điều gì, đưa ra một nhận định chủ quan nào. Do đó, lời thoại trả lời của

đứa con chỉ đơn thuần mang ý nghĩa phủ định nội hàm, tức thông báo, miêu tả một tình huống chứ

không hề có sự bác bỏ ý kiến của người mẹ trước đó.

Chúng tôi nhận thấy bên cạnh một số trường hợp nhập nhằng, thì yếu tố quan trọng nhất

phân biệt hành động bác bỏ và hành động từ chối là ở chỗ hành động bác bỏ chỉ xảy ra khi câu trước

hành động đó có ẩn chứa một ý kiến, một suy nghĩ, một quan điểm nào đó, có thể hiện thực trên bề

mặt câu chữ, có thể tiềm tàng trong các nội dung hàm ý, còn hành động từ chối xuất hiện trong

những lời thoại có tính lựa chọn. Trong những lời thoại ấy, chúng ta gần như không thể tìm ra được

bất cứ một sự khẳng định, một quan niệm hay một ý kiến cá nhân nào.

Tuy nhiên, cũng có những trường hợp rất nhập nhằng không thể phân tách trên bề mặt câu

chữ, mà phải dựa vào văn cảnh hoặc chỉ có những người trong cuộc đối thoại biết được.

Ví dụ 9

Tôi vừa nhai đậu phộng vừa trầm trồ:

- Nhà mày đẹp quá há?

- Ừ.

- Ba mẹ mày hiền quá hả?

- Ừ.

- Mày là con một hở?

- Không. Tao còn một đứa em gái. Nó học lớp mười một.

Đông Anh hí hửng khoe:

- Em tao dễ thương lắm. Người đẹp mà tên cũng đẹp. Tên nó là Đinh Lăng.

Tôi liếc vào trong nhà:

- Em mày ở đằng sau hở?

- Không. Nó đi mua đồ, lát về.

(11-tr.68)

Trong hai câu trả lời lần lượt cho câu hỏi “Mày là con một hở?” và “Em mày ở đằng sau

hở” nếu hiểu theo nghĩa hỏi đáp thông thường, không có hành động bác bỏ, vì nhân vật “tôi” không

biết, do đó không có dấu hiệu của một ý kiến hay một suy nghĩ, nhận định gì. Tuy nhiên, nếu đặt

nhân vật “tôi” vào hoàn cảnh đang ngờ ngợ, đang đoán mò những thông tin về nhà nhân vật “Đông

Anh”, và đang muốn khẳng định những điều mình đang suy đoán, thì hai câu trả lời lại chính là hai

hành động bác bỏ thông tin vừa được nêu ra.

Có thể thấy, để xác định hành động nào là bác bỏ, hành động nào không phải là bác bỏ,

không thể dựa vào bản thân hành động đó, mà phải dựa vào câu hội thoại trước nó. Và trong một số

trường hợp, đôi khi chúng ta còn phải dựa vào ngữ cảnh cụ thể bên ngoài câu, chữ nữa.

Do phạm vi của luận văn, chúng tôi sẽ không đi sâu vào nghiên cứu về hành động từ chối,

mà chỉ tập trung vào các vấn đề trọng tâm và xung quanh hành động bác bỏ.

1.3.2. Hành động phủ định1 và hành động bác bỏ2

Trong quá trình hành chức, các phán đoán về thuộc tính và quan hệ của các sự vật tất yếu

xảy ra, và tất yếu xảy ra thao tác tư duy khẳng định hoặc phủ định thuộc tính, sự vật ấy. Phủ định và

bác bỏ có một đặc trưng chung là không thừa nhận một đặc tính, một sự vật, một thuộc tính A nào

đó. Cũng chính từ đặc trưng chung này mà người nghiên cứu cũng như người tiếp nhận rất dễ có

những nhầm lẫn và đôi khi nghiên cứu nhầm đối tượng.

Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy cơ sở để có thể phân tách hai loại hành động này một

phần nằm sẵn ngay trong tên gọi loại hành động. Khi nói đến phủ định, người ta thường hiểu sự phủ

định đó mang tính nội tại, tức bản thân bên trong câu nói, thuộc phạm vi câu nói và quan điểm của

người phát ra câu nói, không có mối quan hệ liên nhân với ý kiến của người khác. Những câu dạng

này thường được gọi rõ ràng hơn dưới dạng câu phủ định miêu tả. Khi nói đến bác bỏ, người ta

thường hiểu đó là sự phủ định mang tính hướng ngoại, tức có liên hệ hữu cơ với một nhận định nào

đó bên ngoài câu nói, do một người đối thoại khác đem tới. Vì một cá nhân không thể tự mâu thuẫn

với chính mình, không thể bác bỏ chính những nhận định của mình (trừ một số ngữ cảnh rất đặc

biệt) do đó, hiện tượng bác bỏ hiếm khi xảy ra trong phạm vi của một cá nhân, trong một văn cảnh

không có tính hội thoại.

Chúng tôi nhận thấy giữa hai loại đối tượng này có những tiêu chí phân biệt nhau như

sau. Bảng 1.1

1 Chúng tôi thống nhất hiểu phủ định theo nghĩa hẹp, tức phủ định trong bản thân câu nói, hay được các nhà nghiên cứu hiểu dưới dạng phủ định miêu tả. 2 Bác bỏ cũng là một hành động phủ định, nhưng là hành động phủ định theo nghĩa rộng, còn gọi là phủ định bác bỏ.

Hành động phủ định Hành động bác bỏ

(tức phủ định miêu tả) (tức phủ định bác bỏ)

- Sử dụng những từ ngữ phủ - Sử dụng những từ ngữ đặc

định đơn thuần như không, trưng cho hành động bác bỏ

chẳng, chưa… như nào, đâu,mà…

Ví dụ 10 Ví dụ 11

Con cá này không tươi. Con cá này mà không tươi.

Tôi đâu có biết.

- Có thể sử dụng nhiều hình - Thường hạn chế trong hình

thức câu khác nhau như cảm thức câu trần thuật và ít gặp

thán, cầu khiến, nghi vấn….để trong giao tiếp hội thoại.

tạo thành hành động bác bỏ.

Hành động bác bỏ chỉ nảy

sinh trong môi trường có sự

đối thoại, có thể là song thoại, Hình thức

tam thoại hoặc đa thoại.

Ví dụ 13 Ví dụ 12

-Ngươi đứng lên, ta sẽ giết ngươi Nhưng bà nực, bà không ngủ

bằng cây kiếm này, vì ngươi đã được. Bà chỉ chợp mắt được độ

giết con trai ta. dăm phút là cùng. Vừa thấy ngọn

quạt phẩy không đều tay, bà đã Người thương gia run lẩy bẩy cựa, và giục (…) đáp:

(21-tr.101) - Làm sao tôi lại giết con ông

được? Tôi không biết anh ấy kia

mà.

(12-tr.26)

- Không thể thực hiện hành - Có thể dùng sự im lặng, hoặc

động phủ định bằng cách im ngập ngừng để thể hiện hành

lặng hoặc ngập ngừng. động bác bỏ.

Ví dụ 14

- Bây giờ tôi nuôi thằng bé này,

cũng như thằng bếp trước, vì nó

là người làng nhà tôi đây. Nó

ngoan lắm.

Tôi cười nhạt, không trả lời.

(21-tr.399)

- Bộc lộ nhiều đích ngôn trung - Chỉ chuyển tải thông điệp

và các sắc thái cảm xúc khác miêu tả thuộc tính mà không

nhau. góp phần vào việc biểu lộ

những sắc thái, ý nghĩa, cảm

xúc của câu nói.

Ví dụ 15 Ví dụ 16

Lần này, nó không thể thức hơn - Tại tôi không muốn để ông đi,

được nữa. Quả nhiên bà ngáy hơi mà ông cũng không đi được, vì

to. Nó không biết bà ngủ, song tự tôi biết ông rồi. Không ai tin ông

nhiên tay nó đưa thong thả dần, nữa đâu. Bởi vì ông là người thụt Nội dung rồi như chiếc đồng hồ hết dây, tay két, ông có biết không?

nó không phe phẩy nữa. - Tôi? Thụt két? Thưa cụ?

(21-tr.102) 21-tr.382)

- Ngoài thuộc tính nghĩa biểu

- Vì câu phủ định không nhất hiện của bản thân câu nói vừa

thiết phải nảy sinh ngay sau tiếp nhận, có thể phủ định tiền

một nhận định của người tham giả định của câu đó.

gia đối thoại nên không thể

phủ định tiền giả định của bản

thân câu nói mà chỉ phủ định

thuộc tính nội tại bên trong

câu nói.

Ví dụ 18 Ví dụ 17

Thấy Cóc cứ chõ vào nhà mình Vì muốn có tiền để thỏa mãn đời mà la. Trê đực quát hỏi: sống vật chất với chồng, nên cô

Này cái anh nhà kia, ở đâu không từ chối người Mỹ.

đến mà to mồm thế? (21-tr.478)

Tôi mất con thì tôi phải rao

chứ!

(28-tr.10-11)

- Chỉ xảy ra khi trước đó có sự

- Tại bất kỳ thời điểm nào của khẳng định hoặc trực tiếp,

quá trình tư duy về sự vật và hoặc gián tiếp, hoặc phi ngôn

mối quan hệ giữa chúng. Câu ngữ về một thuộc tính, một sự

phủ định có thể đứng một vật A nào đó, nói cách khác,

mình hoặc trong bất kỳ vị trí phải xuất hiện trong một cuộc

nào của đoạn mà không gây ra hội thoại. Nếu không có câu

sự bất thường về cách diễn đạt. trước đó, câu bác bỏ sẽ trở

nên “bất bình thường” trong

cách diễn đạt.

Ví dụ 20

Ví dụ 19 - Ông có ăn, tôi không nói sai.

Nhưng không hiểu sao, mãi không Nghĩa vẫn cãi: thấy ông vào nằm. Tôi bèn lắng

- Tôi không ăn gì cả. tai nghe, và cố giương mắt xem

ông làm những gì. Song, tôi chẳng (21-tr.20

trông thấy và nghe thấy ông đâu.

Góc nhà, thằng Quít vẫn ngáy khò

khò như tiếng hàng xóm xay lúa.

(21-tr.67)

Những cách thức phân biệt trên chỉ mới dựa vào mặt nội dung và hình thức về mặt ngôn

từ, còn một số yếu tố khác không thể nắm bắt về mặt câu chữ, mà thuộc về ngữ cảnh giao tiếp và

hành vi của những người tham gia thực hiện hành động.

Ví dụ 21

A: Món ăn này ngon không?

B: Món này không ngon.

Đặt trong bối cảnh A chỉ đơn thuần hỏi ý kiến B về món ăn, thì sự trả lời của B là một

hành động phủ định, tức tự loại trừ một thuộc tính “ngon” của món ăn, và không bác bỏ nhận định

nào cả (vì A không đưa ra nhận định, mà hỏi nhận định của B). Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh A hỏi

B trong tư thế đang ăn rất ngon lành, thích thú, thì mặc nhiên B sẽ hiểu là A đang nghĩ món ăn này

rất ngon, thì câu trả lời của B chính là một hành động bác bỏ: bác bỏ ý kiến của A về thuộc tính

“ngon”.

Do đó, sự phân tách hành động của B là bác bỏ hay phủ định không thể dựa vào bản thân

ý nghĩa của hành động ngôn từ, mà phụ thuộc vào cách thức tri nhận hành động và thái độ của

người tiếp nhận. Do đó, để hiểu đúng đích ngôn trung, đòi hỏi người tham gia đối thoại phải có kinh

nghiệm hiểu ý nghĩa của hành vi, ngữ cảnh cũng như kinh nghiệm xử lý những hành vi, hoặc bối

cảnh mà mình đang thực hiện hoạt động giao tiếp.

1.3.3. Mục đích của hành động bác bỏ

Mỗi một hành động ngôn từ đều hướng đến những cái đích khác nhau. Hành động bác bỏ

cũng vậy. Bên cạnh mục đích rõ ràng là “dùng để bác bỏ”, trong quá trình nghiên cứu hệ thống dữ

liệu, chúng tôi nhận thấy hành động bác bỏ còn tiềm tàng chuyển tải những mục đích cụ thể khác

hướng tới người đối thoại.

1.3.3.1. Thực thi những hành động ngôn hành cụ thể

(1) Mệnh lệnh, yêu cầu

Người thực hiện hành động bác bỏ có thể dùng chính hành động đó để yêu cầu người nghe

thực hiện một hành động nào đó đối nghịch với A, do đó, gián tiếp bác bỏ A. Yêu cầu có thể được

thể hiện trực tiếp, mà khẩu ngữ dân gian hay dùng là “nói huỵch toẹt”, tuy nhiên, cũng có thể vì

những lý do tế nhị (muốn giữ thể diện cho mình, tránh đề cập đến một vấn đề nhạy cảm, che giấu

đối với những người nghe…) mà người ta có thể dùng những lối nói vòng vo, liên tưởng xa xôi.

Mục đích cuối cùng là chuyển được đích xác đích ngôn trung tới người đối thoại.

Ví dụ 22

Người xúm quanh, mỗi người một điều:

- Thôi, bác quản, giời sinh ra thế, bác ngơ cho chị ấy, chị ấy không biết phép.

- Không được, nghĩa là không biết phép thì tôi làm cho biết phép. Tôi có tư cách coi đường

làng. Nếu tôi dễ dãi, ngộ rồi trên các cụ “trách nhiệm” tôi, thì ai ra chịu tội cho tôi.

(21-tr.425)

Ở ví dụ này, “bác quản” ngoài việc bác bỏ sự xin xỏ và yêu cầu làm ngơ cho “chị ấy”, còn

hàm ý yêu cầu nhân vật “chị ấy” phải làm theo đúng lệ làng (được bác ta gợi ý ngầm khi nói “không

biết phép thì tôi làm cho biết phép”. Dụng ý cuối cùng bác ta muốn chuyển tới người nghe là phải

gửi cho bác vài xu tiền gọi là tiền bảo vệ đường, chứ không phải là nhất quyết không cho “chị ấy”

đưa đám ma mẹ chồng.

(2) Van xin

Động thái van xin chỉ xảy ra khi người ta tha thiết cầu khẩn về một điều gì đó rất hệ

trọng, và người van xin ở trong vị trí “lép vế” rất nhiều so với người được van xin. Chính vì thế mà

sự bác bỏ ở đây cũng có những đặc trưng riêng: thường không trực tiếp, không thẳng thừng, không

dùng lý lẽ, lập luận mà chủ yếu nhằm đánh vào tư tưởng, tình cảm của người đối thoại, kẻ bề trên.

Ví dụ 23

Chị Cu choáng váng, vội đứng dậy. Chị thấy ông quản lộ giẫm một chân lên đầu đón để ghì xuống.

Chị khóc:

- Thôi, tôi lạy ông, tủi vong linh mẹ tôi lắm, ông ơi.

(21-tr.61)

Ví dụ 24

- Mai ai thổi cơm cho tao ăn? Mày phải chờ đến sáng, đến chiều, tao thuê được đứa khác cái

đã.

- Lạy ông, mai ba mươi mất rồi.

(21-tr.78)

Sự bác bỏ trong hai ví dụ này lộ rõ tâm lý sợ sệt, thái độ chống cự yếu ớt, đầy vẻ van xin

của nhân vật người ở. Nhân vật người ở, rõ ràng yếu thế hơn trước con người đang nắm nhiều quyền

lợi của họ trong tay, do đó, anh ta phải thực hiện sự bác bỏ của mình như một sự xin xỏ ơn huệ.

Hành động cầu xin thể hiện ở nhiều cấp độ, trong đó cấp độ lạy thể hiện cầu xin ở mức độ cao.

Nghĩa là khi người ta tha thiết với một việc gì đó lắm, thì người ta mới đi đến hành động này, và từ

đặc trưng đó, nó mới được mượn như một hình thức bên ngoài của nội dung bác bỏ bên trong.

Trong một số trường hợp, do tính chất “van xin” trở nên lấn át và bao trùm lên toàn bộ

những nội dung được nói ra khác nên tính chất bác bỏ trở nên mờ nhạt. Hay nói cách khác, người ta

vô thức quên đi đó là một câu bác bỏ.

Ví dụ 25

Alice trân trối nhìn tôi, ánh nhìn đầy vẻ van nài, đôi lông mày dài và đen của cô bạn nhíu sát vào

nhau kéo xếch lên, khóe môi run rẩy. Alice đang rất đau lòng.

- Mình xin bạn, mình xin bạn, mình xin bạn – Alice nói liền một nơi – Mình xin bạn đấy, Bella,

mình xin bạn – Nếu bạn thật lòng thương yêu mình… Xin bạn hãy để cho mình đứng ra tổ

chức đám cưới.

(34-tr.704)

Khi nhân vật “tôi” đang rất băn khoăn và có ý không đồng tình với đám cưới của Alice,

Alice đã bác bỏ thái độ đó nhằm mục đích cầu xin “tôi” đi tới một quyết định khác mà Alice mong

muốn hơn. Tính chất bác bỏ ở đây yếu, vì người bác bỏ không đưa ra bất cứ lỹ lẽ, dẫn chứng hay lời

nói biểu thị sự bác bỏ nào mà chỉ thực hiện hành động chuyển hướng nội dung sang phía có lợi cho

mình với một thái độ rất khẩn khoản, chân thành nhằm mục đích thể hiện sự tha thiết muốn đạt

được một điều gì đó khác.

(3) Khen, chúc tụng

Công thức chung của mục đích này là bác bỏ những yếu tố có phẩm chất thấp, thay thế

bằng những yếu tố có phẩm chất cao hơn, do đó, hình thành nên lời khen, lời chúc tụng. Trong quá

trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy hình thái bác bỏ nhằm khen, chúc tụng cũng có hai sắc thái,

hai mục đích thể hiện khác nhau: bác bỏ của đối tượng B bằng cách đưa ra những phẩm chất tốt đẹp

hơn được cho là có ở đối tượng A là sự khen ngợi từ bên ngoài; bác bỏ nhận xét của đối tượng B về

mình bằng cách đưa ra những thuộc tính tốt đẹp hơn của bản thân là sự tự tôn, tự khen.

Công thức 1: A nói về nội dung A

B bác bỏ nội dung A bằng một nội dung A’ cao hơn thì đây là lời khen ngợi, đề cao A.

Ví dụ 26

Thủ trưởng: Việc khó khăn vậy mà cậu cũng hoàn thành đúng hẹn. Tôi rất hài lòng.

Nhân viên: Em chỉ may mắn thôi, chứ sếp giao người khác chắc họ cũng làm được như em thôi.

Thủ trưởng: Làm gì có chuyện đó. Chỉ có cậu mới làm nổi cái việc khó khăn đấy thôi.

Thông qua thông điệp của người nhân viên: việc đó là bình thường, ai cũng làm được, ông

giám đốc đã bác bỏ nhận định đấy bằng cách bác bỏ tính chất của công việc (đó không phải là công

việc bình thường), qua đó, đề cao khả năng làm việc của anh nhân viên này.

Công thức 2: A nói về nội dung B

B bác bỏ nội dung B bằng B’ cao hơn thì đây là tời tự khen, tự tôn.

Ví dụ 27

Thủ trưởng: Cậu làm tốt đấy. Nhiệm vụ tôi phân công cũng nhẹ nhàng chứ hả.

Nhân viên: Tính chất công việc cũng có nhiều khó khăn hơn công việc của những người khác đấy

ạ.

Trái ngược với ví dụ trên, ở đây, cậu nhân viên tự bác bỏ nội dung nhận xét của thủ trưởng,

thông qua đó gián tiếp tự đề cao khả năng, công sức của mình cao hơn so những gì thủ trưởng của

cậu ta đánh giá. Thông thường, cách thức này không được sử dụng nhiều như cách thức trong công

thức 1. Một phần lý do xuất phát từ văn hóa của người phương Đông, đề cao sự khiêm tốn, khiêm

nhường, phần nữa xuất phát từ tâm lý thường có: không thích nghe người khác khen về mình và tự

khen mình là một cách thể hiện thông tin dễ khiến người ta lúng túng, ngại ngần nhất. Tất nhiên

ngoại trừ trường hợp những người bị cho là mắc bệnh ngôi sao, thích tự nói về bản thân mình.

(4) Thanh minh

Một khi ý kiến, quan điểm của người đối thoại trước được cho là sai, vô lý và không thỏa

mãn mong đợi của người đối thoại sau, tất yếu họ sẽ thực hiện hành động bác bỏ thông qua việc giải

thích, trình bày lý do dẫn tới sự bác bỏ.

Nếu như ở mục đích van xin như đã phân tích ở phần (2) trên đây thể hiện rõ cho thấy mối

quan hệ không cân xứng giữa hai bên đối thoại, thể hiện rất rõ sự thống trị của một bên và sự yếu ớt,

lép vế của một bên thì ở mục đích thanh minh, mối quan hệ đó không được chỉ định rõ nếu không

có các dấu hiệu trực chỉ như cách xưng hô, cách dùng các từ hô, gọi…

Ví dụ 28

Ông chủ cau mặt có vẻ giận:

- Tôi xem ý, thì ra ông không muốn làm với tôi, có lẽ tại ai đã trả ông hơn tôi. Vậy tôi xin nhắc

lại, ông cứ nói thực, tôi sẽ đãi ông như người ta, chứ không khi nào tôi để người ta cướp nổi

ông với tôi đâu.

- Bẩm không phải thế. Chỉ tại sức tôi yếu.

(21-tr.381)

Với ví dụ trên, ông chủ ngờ rằng người làm từ chối làm thuê tiếp bởi vì đã có người trả

cao hơn. Đây cũng là nội dung thông tin quan trọng nhất trong câu nói của ông chủ. Người làm đã

bác bỏ nguyên nhân này bằng cách trình bày một nguyên nhân khác mà anh ta cho là xác thực hơn,

đó là nghỉ làm vì lý do sức khoẻ.

Ở dạng mục đích này, hiệu quả bác bỏ sẽ phụ thuộc vào tính chất của lời giải thích, thanh

minh. Nếu lời giải thích, thanh minh được người nghe cho là xác thực, có lý và có độ tin cậy cao, thì

hiệu quả bác bỏ càng lớn. Ngược lại, nếu người nghe cảm thấy lời giải thích đó vô lý, nghe “không

lọt tai” thì tất nhiên sẽ làm cho lời bác bỏ trở nên vô ích.

Tuy nhiên, nó cũng phần nào phụ thuộc vào vị trí vai giao tiếp và tâm tư, suy nghĩ của

người tham gia giao tiếp. Nếu người phát ngôn ở vào vị thế thống trị, tức không sợ bị đe dọa về thể

diện, lý lẽ, họ có thể biến cái có lý thành vô lý, vô lý thành “có lý”. Hoặc tình cảm cũng có thể tham

gia làm cho chuyện vô lý trở thành có lý, có lý trở thành vô lý v.v… Dân gian có câu “Một trăm cái

lý không bằng một tý cái tình” và được nói chệch ra thành “Một trăm cái lý không bằng một tý cái

tiền”. Do đó, mục đích thanh minh có đạt được hay không, ngoài lý lẽ, chứng cứ xác thực còn phụ

thuộc vào các yếu tố ngoại biên nữa.

(5) Ám chỉ sâu xa

Trong một số trường hợp, người ta mượn lời bác bỏ để nhằm hiện thực hóa một nhận

định khác, một thông tin khác mà người bác bỏ mong muốn người tiếp nhận tri nhận được ý nghĩa

hàm ẩn sâu xa đấy.

Trong một số trường hợp, hành động bác bỏ mượn hình thức của hành động đồng ý, thừa

nhận như “ừ”, “phải”, “đúng”… đi kèm theo một nội dung vô lý khác để tạo thành hành động bác

bỏ.

Ví dụ 29

Học sinh: Băng Cốc là thủ đô của Singapore.

Thầy giáo: Ừ, như Luân Đôn là thủ đô của Pháp ấy.

Trong câu nói của học sinh không chứa bất kỳ một hàm ý nào, chỉ đơn thuần là sự thể hiện

kiến thức về địa lý của cậu ta. Còn câu nói của thầy giáo, xét về nghĩa biểu hiện, là một so sánh sai

thực tế, vì đối tượng được so sánh (Luân Đôn là thủ đô của Pháp) không xác thực. Tuy nhiên, đối

tượng so sánh (Băng Cốc là thủ đô của Singapore) sai, đưa tới đối tượng được so sánh cũng sai, và

mục đích “cố ý đưa một thông báo sai về chất” của thầy giáo là nhằm làm cho học trò tự nhận thức

được giá trị sai thứ hai, và do đó, đồng thời liên tưởng ngược và nhận thức được giá trị sai đầu tiên

do mình nói ra. Điều ám chỉ sâu xa mà thầy giáo muốn nói ở đây chính là việc tại sao cậu học sinh

lại có thể sai một điều đơn giản, căn bản như thế. Đây là một cách bác bỏ rất nhẹ nhàng, không gây

nhiều áp lực bị bác bỏ lên đối tượng, có phần hài hước nhưng vô cùng ý vị, sâu xa.

1.3.3.2. Bổ sung thông tin mới

Giữa hai mục đích thanh minh và bổ sung thông tin mới chúng tôi nhận thấy cũng có

nhiều điểm tương đồng. Vì xét về nội dung, thông tin sử dụng trong thanh minh cũng là một dạng

thông tin mới so với người tiếp nhận hành động bác bỏ. Nhưng xét về mục đích, có những thông tin

mà người bác bỏ sử dụng để thanh minh, nhưng cũng có những thông tin người ta chú trọng vào vấn

đề bổ sung thông tin mới hơn, hay nói cách khác, là làm xác thực hóa, minh bạch hóa thông tin,

nhận định sai lệch từ người phát chứ không nhằm mục đích phân trần, giãi bày.

Ví dụ 30

- Anh bắt được?

- Bà cụ nhà tôi, à, bà đẻ ra Huệ ấy mà, rình bắt được. Chứ tôi tin nó quá, nên không ngờ.

(21-tr.398)

Xét về phương diện phương châm hội thoại, câu trả lời đã không đi vào trọng tâm câu

hỏi, hay nói cách khác, yêu cầu về lượng không được coi trọng. Vì người hỏi có ý ngờ rằng người

đối thoại với mình là người bắt được. Người trả lời, ngược lại, không đi thẳng vào việc bác bỏ thông

tin sai này, mà đưa ra một thông tin khác bổ sung cho tính xác thực của sự việc, qua đó gián tiếp trả

lời trọng tâm nghi vấn là không phải tôi bắt được, mà là mẹ vợ tôi bắt được. Do đó, người hỏi đã có

được thêm thông tin mới mà anh ta chưa kịp có nhu cầu biết hoặc ngoài sự mong đợi của anh ta.

Hành động bác bỏ nhằm bổ sung thông tin mới thường xảy ra với những thông tin mang

tính dự đoán và không thỏa mãn nhu cầu của người tiếp nhận. Do đó, việc bổ sung thêm thông tin

trở thành một cách thức để người tiếp nhận “chế biến” và “làm đúng” thông tin mà mình nhận được.

1.3.3.3. Bộc lộ thái độ, cảm xúc

(1) Sửng sốt

Sửng sốt là một trạng thái tâm lý khi người ta đạt đến mức độ cao của sự ngạc nhiên, và

không thể tin được về một sự việc, hành động được cho là có thể xảy ra nào đó. Do đó, trong một số

trường hợp, khi một thông tin vừa tiếp nhận mang quá nhiều yếu tố bất ngờ đối với họ, họ phản ứng

lại thông qua việc bác bỏ. Mối quan hệ giữa hai yếu tố này có tính thuận chiều thống nhất.

Mức độ bác bỏ Sơ đồ 1.1 Mức độ sửng sốt

+ +

_ _

Mức độ bác bỏ Mức độ sửng sốt

Qua đó chúng tôi thấy, mức độ sửng sốt càng lớn, hiệu lực bác bỏ càng mạnh và ngược

lại. Ở đây, chúng tôi đặt tình huống nghiên cứu trong bối cảnh chân thật: chân thật về tâm lý và cách

thể hiện của những người tham gia đối thoại, không tính đến các trường hợp được cho là động tác

giả, hay tâm lý đóng kịch…

Ví dụ 31

Quan bà cau mặt, đáp:

- Thì ông ra lệnh cấm chợ kia mà?

Quan ông trợn mắt, ngạc nhiên nhìn vợ:

- Tôi cấm chợ à? Có đâu?

(21-tr.398)

Sự thực trong ý niệm của quan bà khác hẳn với ý niệm thực tế trong tâm thức của quan

ông nên đã dẫn vị quan ông này tới sự bất ngờ và một câu trả lời đầy băn khoăn “Tôi cấm chợ à? Có

đâu?. “Có” là một từ thường được dùng để thừa nhận, đồng ý một việc gì đó. Tuy nhiên, do đặc

trưng kết hợp từ ngữ của tiếng Việt, khi kết hợp với “đâu” thành cụm “Có đâu” nó đã trở thành câu

mang nội dung bác bỏ. Tuy nhiên, đây là hành động bác bỏ mang giá trị biểu cảm hơn là giá trị

đúng sai của nội dung sự tình.

(2) Chán nản

Chán nản là một trạng thái tâm lý tiêu cực xảy ra khi người ta đã nản lòng và không còn

thiết tha với bất cứ một điều gì nữa. Nguyên nhân của tâm trạng chán nản trong thực tế có thể phát

sinh từ tình huống, do những hoàn cảnh không mong muốn đưa đẩy. Nguyên nhân của trạng thái

chán nản bộc lộ trong hành động bác bỏ là do nội dung thông tin ám chỉ tới, hoặc gợi nhắc cho

người thực hiện hành động bác bỏ tới một yếu tố nào đó làm người ta cảm thấy bất lực, nản lòng với

nó.

Ví dụ 32

- Trong bếp khói quá, thở rất độc. Anh nên cho thằng cháu lên nhà trên.

Quý chán nản đáp:

- Mặc kệ, bảo mãi chẳng nghe. Biết thế tôi không cho về đây lại xong. Vì về đây, mà cả ngày

chúi xuống bếp, thì cũng thế.

(21-tr.393)

Khi nhân vật tôi đề cập tới việc nên cho con của Quý lên nhà trên ở cho thoáng mát, sạch

sẽ. Quý đã bác bỏ lại lời khuyên ấy bằng một thực tế đã diễn ra (bảo mãi rồi mà không chịu lên) và

bằng một thái độ bất lực có xuất phát từ chính thực tế ấy (bảo mãi không chịu nghe nên giờ mặc kệ,

không bảo nữa).

Tuy nhiên, dạng thái độ này thường được biểu hiện nhờ sự đi kèm của các từ, ngữ tình

thái kiểu như mãi, mặc kệ, cho xong… Những từ này tuy không trực tiếp biểu hiện nội dung ý nghĩa

của câu nhưng góp phần làm rõ sắc thái tình cảm của câu hội thoại.

(3) Bất bình

Trạng thái tiêu cực này thường xuất hiện khi lời tiếp nhận trong cuộc đối thoại ảnh hưởng

nghiêm trọng đến thể diện của bên tiếp nhận thông tin, do đó, phản ứng bất bình bằng hình thức bác

bỏ là phản ứng thường thấy. Theo tâm lý đối tượng, thường trạng thái này xảy ra nhiều ở trường

hợp vai thống trị trong giao tiếp tỏ thái độ bất bình với kẻ yếu thế hơn, hoặc giữa hai vai ngang hàng

những vai nào bị đe dọa thể diện và quyền lợi nhiều hơn, vai đó sẽ có thái độ bất bình và thực thi

hành động bác bỏ nhằm biểu đạt thái độ đó. Khi có những trường hợp ngoại lệ xảy ra, tức vai yếu

thế hơn thực hiện sự bác bỏ theo cách thức này, thì mức độ bác bỏ sẽ càng nghiêm trọng, tỷ lệ thuận

với mức độ bất bình.

Ví dụ 33

Hai mắt long lên, cụ ký giơ năm đầu ngón tay:

- Ông thì vả vỡ tan họng mày ra bây giờ! Mẹ mày chết, mày đã trình báo gì tao chưa, mà đã

dám khóc?

- Ối mẹ ơi, tôi có miệng thì tôi khóc, chứ ông cấm thế nào được tôi.

(21-tr.420)

Người tiếp nhận lời nói của cụ ký cảm thấy thông tin cụ ký phát ngôn chứa đựng rất nhiều

sự vô lý. Từ đe dọa, ức hiếp quá đáng, từ những quan điểm và yêu cầu hợp lý về mặt hình thức

nhưng vô cùng nực cười, vô lý, trái với đạo nghĩa thông thường là người nhà mất cũng không được

khóc, phải trình báo trước, quan cho khóc mới được khóc. Điều này đã dẫn người đàn bà nông dân

thấp cổ bé họng tới một phản ứng mạnh mẽ, cãi lý với cụ ký bằng một thái độ bất bình và không tỏ

vẻ sợ sệt.

(4) Cương quyết

Sắc thái cảm xúc bộc lộ thông qua hình thức bác bỏ này, phần nào soi rọi cho chúng ta thấy

được mối quan hệ giữa các vai giao tiếp trong cuộc đối thoại. Trạng thái này thường xảy ra với

những đoạn hội thoại có hình thức bác bỏ kép. Chúng tôi gọi là bác bỏ kép vì trong cùng một đọan

hội thoại, hai đối tượng trao đổi thông tin đều tham gia thực thi hành động bác bỏ.

Sơ đồ 1.2

A: Đưa ra nhận định: A -> Khẳng định A

B: Bác bỏ nhận định A: ~ A -> Phủ định A

A: Bác bỏ nhận định ~A: ~ (~A) -> Khẳng định A

Ví dụ 34

- Kia kìa, ve kia kìa, bếp bắt cho anh!

- Của nó đấy mà, bắt thế nào được?

- Cứ bắt cơ.

(21-tr.429)

Đối chiếu sơ đồ trên, dễ dàng ta thấy nội dung A của ví dụ đối chiếu theo biểu thức trên đây

là cậu con quan yêu cầu bắt con ve với thái độ rất cương quyết, một hai không thay đổi. Sự kiên

định này đôi khi xảy ra không phải do bản chất của vấn đề, mà do địa vị xã hội, vai vế của bên tham

gia đối thoại quyết định. Ở ví dụ trên, cậu con quan cứ bắt anh bếp phải bắt ve cho mình, mặc dù

anh bếp đã đưa ra một thông tin rất xác thực và hợp lý để bác bỏ hành động cậu chủ là con ve đó

thuộc sở hữu của người khác, mình không có quyền. Nhưng với địa vị “cha mẹ thiên hạ”, cậu con

quan tự bác bỏ cái điều có lý, và thay thế bằng một điều vô lý mà không ai dám trái lời, đó là phải

bắt cho anh ta con ve.

(5) Lúng túng, tránh né

Đây được coi là hình thức bác bỏ ở mức độ thấp. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi

nhận thấy có nhiều nguyên nhân để dẫn tới thái độ này. Thứ nhất, đó có thể là một vấn đề đe dọa

hoặc có ảnh hưởng đến thể diện người tiếp nhận, do đó, người ta có xu hướng lảng tránh hay vì đối

mặt với vấn đề. Thứ hai, nó có thể có xuất phát điểm từ vị thế của hai người tham gia đối thoại. Vị

thế được chúng tôi hiểu theo nghĩa hẹp, không phải vị thế xã hội, quan hệ liên nhân mà còn là vị thế

đối với vấn đề đang được bàn bạc trong cuộc hội thoại. Cụ thể có những quan hệ sau đây:

- Người phát ngôn quá đề cao người nghe -> người nghe (theo truyền thống văn hóa phương

Đông) sẽ trở nên lúng túng và không dám thừa nhận sự đề cao đó.

- Vấn đề được bàn tới là một trong “những yếu điểm” hoặc vấn đề mà người nghe ngại đề cập

đến.

- Tính cách của người nghe cũng ảnh hưởng đến hành động bác bỏ, làm cho hành động bác bỏ

đó trở nên cương quyết hoặc trở nên lúng túng, dè dặt.

Ví dụ 35

Bọn trẻ học hành tiến bộ thấy rõ. Ban chấp hành Đoàn trường khen thưởng tôi đã có thành tích

trong công tác xóa mù chữ, một phần thưởng ngoài mơ ước – Tôi được cấp học bổng.

Lần lãnh tiền đầu tiên, tôi mua quà tặng Hùng

- Thư phải cảm ơn anh – Tôi nói

Hùng đỏ mặt

- Thư đừng nói vậy…Tôi mà…Tôi có làm được gì đâu

- Không có anh, Thư đã bỏ cuộc lâu rồi.

(30-tr.45)

Hành động bác bỏ một cách ngượng ngùng của Hùng trong ví dụ trên là một điển hình của

việc tính cách có thể ảnh hưởng tới thái độ bác bỏ. Đặt trong trường hợp những người bạn rất thân

mật, tính chất giao tiếp có thể suồng sã hơn, và thay vì lúng túng, người ta có thể nói kiểu như “Quà

cho việc anh hùng cứu mỹ nhân à? Cảm ơn nha.” chẳng hạn.

Thực ra, chúng tôi cho rằng bác bỏ theo kiểu này thực chất không phải là bác bỏ mà mang

tính chất của một cuộc đối thoại trao đổi thông tin nhiều hơn. Hiện tượng bác bỏ có xảy ra, thì nó

cũng không gay gắt, và một cách vô thức, người ta ít tri nhận nó như một thái độ bác bỏ mà chỉ coi

đây như một lời đáp lại thông thường. Sự bác bỏ thường chỉ được nhận ra nếu phân tích và xem xét

kỹ về mặt hình thức câu chữ.

(6) Coi thường, mỉa mai

Trong một số trường hợp, lời bác bỏ không đơn thuần là sự bài bác, phủ định một ý kiến,

nhận định nào đó, mà còn là một phương thức được vay mượn để diễn tả thái độ coi thường, mỉa

mai của người tạo hành động bác bỏ lên người bị bác bỏ.

Ví dụ 36

- Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang bên nhà

anh, phòng khi tối lửa tắt đèn có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy sang…

Chưa nghe hết câu, tôi đã hếch răng lên, xì một hơi rõ dài. Rồi, với điệu bộ khinh khỉnh, tôi mắng:

- Hức! Thông sang ngách nhà ta? Dễ nghe nhỉ? Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta chịu sao

được. Thôi im cái điệu hát mưa dầm sụt sùi ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!

(27-tr.16-17)

Chúng tôi nhận thấy dạng bác bỏ này luôn xảy ra trong trường hợp đối tượng thực hiện

hành động bác bỏ ở thế thượng phong so với đối tượng còn lại. Hành động bác bỏ đồng thời là hành

động từ chối thẳng thừng và không tôn trọng ý kiến, yêu cầu của người tiếp nhận. Đây là một trong

những dạng thức dễ làm tổn thương thể diện và lòng tự trọng của người bị bác bỏ nhất.

1.3.4. CÁC NHÂN TỐ CHI PHỐI HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ

Hành động bác bỏ nói riêng, cũng như hành động ngôn từ nói chung, đều có những yếu tố

chi phối chung đặc trưng và thống nhất với nhau. Ngoại trừ những điều kiện cần mà chúng tôi đã có

dịp phân tích khi đề cập đến các điều kiện của hành động ngôn từ tại chương 1, ở đây, chúng tôi chỉ

đi sâu, nghiên cứu những nhân tố đặc trưng trực tiếp chi phối hành động bác bỏ.

1.3.4.1. Nhân tố vai giao tiếp

Đóng vai trò là chủ thể trong hoạt động hội thoại nói chung, là đối tượng thực hiện và tiếp

nhận hành động bác bỏ, nhân tố con người, cụ thể là vai giao tiếp, là bộ phận rất quan trọng trong

hành động bác bỏ.

Như chúng tôi đã phân tích ở trên, vai giao tiếp chi phối thái độ thể hiện của những người

tham gia cuộc đối thoại, do đó, tất yếu sẽ chi phối luôn hành động bác bỏ. Luôn có một quy luật liên

hệ giữa mức độ bác bỏ và người tham gia vào hành động bác bỏ như sau:

- Địa vị càng cao -> mức độ bác bỏ càng dứt khoát.

- Quyền lợi cá nhân càng lớn -> mức độ bác bỏ để bảo vệ quyền lợi càng mạnh.

- Quan hệ càng mang tính cá nhân -> tính chất bác bỏ càng suồng sã.

- Tâm lý càng căng thẳng, bức bối -> hành động bác bỏ càng mạnh mẽ, quyết liệt

Ví dụ 37

Khi bị bà mẹ chồng Thúy Thúy chì chiết vì sự vô dụng của nàng dâu, ông ngoại Thúy Thúy

đã bày tỏ sự bất bình của mình:

- Thật là bà già không biết điều! Nhà bà cưới con dâu hay nhà tôi cưới con rể? Tiền làm lễ cưới,

chúng tôi đã đưa bà 20 vạn tệ! Cưới con dâu, nhà bà bỏ ra một đồng xu nào không?! Tôn Đại

Lâm chính là con rể ở rể, còn kéo gì mà kéo!

(www.evan.vnexpress.net)

Những cách lựa chọn từ ngữ “bà già không biết điều”, “đồng xu”, “con rể ở rể” là những

lời khi đặt cạnh nhau sẽ dễ làm cho người nghe cảm thấy bị thiếu tôn trọng, bị tổn thương và đe dọa

thể diện. Tuy nhiên, trong tình huống bị bắt nạt thậm tệ, cháu gái bị vu oan một cách bất công, hành

động bác bỏ của người ông đã đi quá những gì gọi là sự bác bỏ trung tính, đơn thuần nhưng vẫn

được xem là ở trong mức chấp nhận được trong văn hóa cộng đồng.

1.3.4.2. Nhân tố môi trường

Giao tiếp không phải là một hoạt động diễn ra đơn thuần chỉ giữa những người tham gia. Nó

phải thể hiện trong những môi trường giao tiếp cụ thể và chịu sự tác động của những môi trường ấy.

(1) Thời gian

Trong tiến trình thời gian bình thường, tức thời gian không đe dọa tới quá trình tạm ngừng

nghỉ của hội thoại, các đặc trưng của bác bỏ sẽ phụ thuộc vào những nhân tố phi thời gian. Trong

điều kiện bị thời gian tác động, sẽ có hai xu hướng như sau.

- Người tham gia bị thời gian đốc thúc sẽ rút ngắn và tinh giản tối đa các chi tiết hội thoại nói

chung và hình thức bác bỏ nói riêng. Đôi khi, người ta chỉ bác bỏ bằng cách sử dụng những từ

chỉ ý bác bỏ, không có sự tham gia của lý lẽ, dẫn chứng để viện giải, chứng minh.

- Nếu họ không bị thời gian chi phối, những bác bỏ có thể mang tính chất kéo dài, nhiều khi có

thể phát triển thành một câu chuyện, mà hàm ý sau cùng để lại chính là một hành động bác bỏ.

(2) Không gian

Không gian không chỉ ảnh hưởng đến tâm lý con người theo kiểu “Người buồn cảnh có vui

đâu bao giờ” (Nguyễn Du) mà còn chi phối không nhỏ đến cách con người giao tiếp với nhau.

Không phải ngẫu nhiên mà càng ngày, người ta càng bỏ nhiều công sức và chi phí vào việc đầu tư

những không gian “nên thơ”, tạo sự thoải mái, thư thái cao nhất cho những người ở bên trong không

gian đó, nhằm hỗ trợ họ đạt được hiệu quả giao tiếp như mong muốn.

Một không gian thông thường, tức không có gì đặc biệt, sẽ không làm cho ta thấy rõ được

ảnh hưởng của nó tới hoạt động giao tiếp nói chung và bác bỏ nói riêng. Nhưng một không gian

nằm trên những thái cực sắc nét hơn, ta có thể dễ dàng nhận ra ảnh hưởng của chúng.

- Không gian đẹp càng giàu tính thẩm mỹ, hiệu quả giao tiếp càng cao. Đó là lý do mà những

cuộc đàm phán, trao đổi công việc hiện nay, ngoài phạm vi công sở, thường diễn ra tại các

quán cà phê, những nhà hàng sang trọng, được bày trí độc đáo, có nhạc êm dịu và một không

gian cởi mở nhưng ấm cúng, yên tĩnh. Không gian đẹp làm cho con người cũng trở nên thả

lỏng hơn, do đó, đón nhận các vấn đề dễ dàng hơn, thực hiện hành động bác bỏ nhẹ nhàng hơn,

và sự bác bỏ ít gây ảnh hưởng tiêu cực lên thể diện và cảm xúc của người tiếp nhận hơn.

Ngược lại, những không gian bí bách, gây phản cảm có thể tạo ra những căng thẳng không

đáng có, những cảm xúc khó chịu của người tham gia, có thể dễ dàng đưa đến những hành

động bác bỏ không mong muốn.

- Không gian càng công cộng, mức độ bác bỏ càng giảm nhẹ. Do phải tính toán, cân nhắc đến

đối tượng nghe nhìn trong một không gian đông người, nên người thực hiện hành động bác bỏ,

ngoài việc chuẩn bị những yếu tố chứng tỏ sự bác bỏ, cũng phải lựa chọn những nguyên vật

liệu từ ngữ sao cho dễ nghe và dễ lọt tai nhất. Ngoại trừ những nhóm cá nhân nhỏ thân thiết,

đồng trang lứa, mà sự bác bỏ có thể thẳng thừng, buông tuồng, hầu hết trong các nhóm cộng

đồng khác, hành động bác bỏ sẽ được cân nhắc để giảm thiểu tối đa nhất những lời “khó nghe”,

sự bác bỏ sẽ được thể hiện ở mức độ nhỏ nhất, cùng những từ ngữ trung tính nhất.

1.3.4.3. Nội dung sự tình

Nội dung sự tình là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới mức độ và hành động bác bỏ.

Nội dung sự tình là chìa khóa lý giải tại sao một người có thể có những hành động bác bỏ trái với

tính cách cư xử hằng ngày của họ, tại sao đôi khi mức độ bác bỏ lại không tương ứng với tính chất

của sự thật v.v…

Ví dụ 38

Tính cách của Thúy Thúy là, sỉ nhục tôi thì được, còn sỉ nhục bố mẹ tôi là điều không thể chấp nhận

được! Lúc này đây, cô thực sự đã tức giận đến độ mất hết lý trí, nói không cần suy nghĩ:

- Bà mới không có giáo dục đấy!

(www.evan.vnexpress.net)

Nếu không hiểu rõ căn cơ câu chuyện, người nghe có thể dễ dàng nghĩ rằng cách bác bỏ của

Thúy Thúy là vô lễ với bố mẹ chồng, thể hiện thái độ ngang ngược, không biết tôn ti, trật tự. Tuy

nhiên, đặt trong hoàn cảnh câu chuyện, thì đó là một lời nói dễ dàng được số đông chấp nhận, cảm

thông. Bởi lẽ trước đó, mẹ chồng cô đã đưa ra những lời nhục mạ cô, gia đình cô một cách vô căn

cứ. Do đó, theo tâm lý con người bình thường, Thúy Thúy nếu không có quyền bác bỏ một cách

mạnh mẽ cho mình, thì cũng không có gì sai khi căm giận một người đã vô cớ xúc phạm chính bố

mẹ đẻ của cô.

Nội dung sự tình trong một số trường hợp, có thể chi phối tất cả những nhân tố khác như

môi trường giao tiếp hay vai giao tiếp. Do đó, nội dung sự tình tích cực, tức người đối thoại cùng

nhìn nhận câu chuyện ở trạng thái chân thực nhất, cảm thông nhất, mức độ bác bỏ sẽ giảm thiểu và

trở nên nhẹ nhàng, ngược lại, nội dung sự tình không được tính đến, người tham gia chỉ cố ý bảo vệ

cái tôi của mình, sẽ dễ làm nảy sinh và gia tăng mức độ bác bỏ.

Tiểu kết

Hành động bác bỏ là một hành động ngôn từ gắn bó chặt chẽ với giao tiếp và có thể thông

qua giao tiếp để nhắm tới nhiều đích ngôn trung khác nhau. Hành động này có nhiều điểm tương

đồng nhưng không đồng nhất với hành động phủ định. Để hiểu được dạng hành động này, không thể

chỉ dựa vào bản thân câu bác bỏ, hoặc câu nhận định trước đó, mà đòi hỏi người đọc phải xem xét

kỹ và tri nhận được những yếu tố liên quan khác như vai giao tiếp, nội dung sự tình v.v…

Tên gọi bác bỏ đã chỉ rõ mối quan hệ hữu cơ giữa hai đối tượng chi phối để tạo hành động

bác bỏ (người - người). Nếu không tồn tại cặp quan hệ này, mọi câu nói mượn hình thức của bác bỏ

đều không được coi là bác bỏ mà có thể chỉ là một dạng phủ định đơn thuần nào đó.

Thông qua nghiên cứu, chúng tôi cũng nhận rõ tính chất đan xen của hành động bác bỏ về

hình thức, mục đích đối với các hành động ngôn từ khác. Cụ thể, hành động bác bỏ có thể mượn

hình thức hỏi của câu nghi vấn, có thể dùng các yếu tố của cảm thán, có thể thông qua những động

từ ngữ vi khác nhau để thực hiện cùng một đích ngôn trung. Do đó, nhận diện hành động bác bỏ

không thể dựa vào mặt hình thức mà phải đi sâu vào đích ngôn trung mà hành động này hướng tới.

Do hành động bác bỏ là một trong những dạng hành động ngôn từ được hình thành, phát

triển trong hội thoại nên việc nghiên cứu những vấn đề cụ thể của hành động bác bỏ phải luôn gắn

chặt với những đặc trưng của hành động ngôn từ và lý thuyết hội thoại. Thiếu những yếu tố gắn kết

với thực tiễn, việc nghiên cứu hành động bác bỏ sẽ mang tính chất lý thuyết suông, và không có giá

trị ứng dụng cả về lý thuyết và thực tiễn.

Chương 2:

HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ TRONG TIẾNG VIỆT

VÀ VẤN ĐỀ LỊCH SỰ, VẤN ĐỀ LẬP LUẬN

2.1. HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ VẤN ĐỀ LỊCH SỰ

2.1.1. Mối quan hệ giữa hành động bác bỏ và vấn đề lịch sự

Mối tương quan giữa bác bỏ và lịch sự là một lĩnh vực còn ít được tập trung nghiên cứu mà

mới chỉ được đề cập rải rác trong một số công trình nghiên cứu dưới dạng các bài báo, trong các tạp

chí chuyên ngành.

Theo P. Brown và S.Levinson, lịch sự chỉ bất cứ phương thức nào được dùng để tỏ ra lưu ý

đến tình cảm hay là thể diện của nhau trong hội thoại, bất kể khoảng cách xã hội giữa người nói và

người nghe như thế nào. Cũng theo hai ông, thể diện với lịch sự được thông qua hai mặt: thể hiện

âm tính và thể hiện dương tính. Thể hiện dương tính là nhu cầu, là mong muốn hình ảnh cái tôi của

mình được người khác xác nhận, bênh vực và ủng hộ. Thể hiện âm tính hay còn gọi là “lãnh địa

của cái tôi” là mong muốn được người khác tôn trọng sự riêng tư cá nhân, quyền tự chủ, quyền tự

do hành động và từ chối. Phần lớn các hành động bác bỏ tiềm ẩn nguy cơ cao trong việc làm tổn

thương thể diện của người khác.

Theo Lakoff, lịch sự là phương tiện để giảm thiểu sự xung đột trong diễn ngôn. Ông đề xuất

hai quy tắc sử dụng ngôn ngữ: quy tắc diễn đạt rõ ràng và quy tắc lịch sự. Ông chi tiết hóa quy tắc

lịch sự ra làm ba quy tắc cụ thể: (i) Không áp đặt; (ii) Để ngỏ sự lựa chọn; (iii) Hãy thể hiện tình

bằng hữu.

Quan điểm về lịch sự của Leech lại dựa trên khái niệm “thiệt” (cost) và “lợi” (benefit) giữa

người nói và người nghe do ngôn từ gây nên. Nội dung khái quát của nguyên tắc này là giảm tới

mức tối thiểu những cách nói không lịch sự và tăng tới mức tối đa những cách nói lịch sự. Trong

công trình Những nguyên lý dụng học của mình, ông cho rằng lịch sự là sự bù đắp những hao tổn

thiệt thòi do hành động nói năng của người nói gây ra cho người đối thoại. Leech cụ thể hóa nguyên

tắc lịch sự trong sáu phương châm:

- Phương châm khéo léo: giảm tới mức tối thiểu những điều thiệt và tăng tối đa những điều lợi

cho người.

- Phương châm hào hiệp: giảm đến mức tối thiểu những điều lợi và tăng tối đa những điều

thiệt cho ta.

- Phương châm tán thưởng: giảm đến mức tối thiểu những lời chê và tăng tối đa những lời

khen đối với người.

- Phương châm khiêm tốn: giảm tối thiểu việc khen ta, tăng tối đa việc khen người.

- Phương châm tán đồng: giảm tối thiếu sự bất đồng, tăng tối đa sự đồng ý giữa ta và người.

- Phương châm cảm thông: giảm tối thiếu ác cảm, tăng tối đa thiện cảm.

Dựa trên những nhận định nghiên cứu trên, chúng tôi rút ra quy luật về quan hệ giữa mức

độ lịch sự và mức độ bác bỏ như sau: Tính lịch sự càng gia tăng khi người đối thoại dành nhiều mức

thiệt hại về phía mình và đưa cho người tiếp nhận càng nhiều mối lợi, ngược lại, tính lịch sự sẽ giảm

khi người đối thoại chỉ chăm chăm giành càng nhiều điều lợi về mình và đẩy nhiều thiệt hại cho

người khác.

Trong giao tiếp, con người với tư cách là chủ thể xã hội có quyền lựa chọn các hành động

ngôn ngữ để biểu đạt các nội dung cần thể hiện gắn với từng ngữ cảnh và từng cá nhân cụ thể. Với ý

nghĩa này, khi có sự bất đồng chính kiến thì về nguyên tắc phải có hành động phủ nhận, bác bỏ. Bác

bỏ gắn trực tiếp với không khí diễn ngôn và các vai giao tiếp. Vì thế, nó cũng gắn rất chặt chẽ với

yếu tố lịch sự.

Nhân tố văn hóa và vai giao tiếp là các nhân tố ngoại ngôn phổ biến chi phối các chiến lược

giao tiếp nói chung cũng như hành động bác bỏ nói chung. Do đó, hành động bác bỏ phụ thuộc rất

nhiều vào cách sử dụng các từ xưng hô, cũng như sắc thái, giọng điệu của câu nói.

Trong hội thoại, để thực hiện sự bác bỏ ý kiến của người đối thoại, người bác bỏ có khi

không cần nói ra những từ ngữ chỉ sự bác bỏ, mà thể hiện nó bằng một cách thức nào đó. Chẳng hạn

người ta có thể sử dụng cách thức viện cớ, hay “đánh trống lảng”… theo đó, người ta có thể hiểu

“hàm ý bác bỏ” của người nói.

2.1.2. Các hình thức phản ánh lịch sự trong hành động bác bỏ tiếng Việt

Dựa theo 6 phương châm đã được Leech cụ thể hoá khi nghiên cứu về nguyên tắc lịch sự,

cùng với những kết quả rút ra được từ hệ thống dữ liệu dùng để nghiên cứu, chúng tôi đưa ra đây

những hình thức phản ảnh lịch sự trong bác bỏ.

2.1.2.1. Tự phủ nhận khả năng của mình

Đối với người Việt, việc tự hạ thấp thể diện khi tham gia giao tiếp ở một mức độ có thể

chấp nhận được là một hiện tượng khá tự nhiên và có tính văn hóa. Việc tự đề cao khả năng của

mình hơn những gì người khác nhận xét được coi là hành động không nên làm. Điều này có thể bắt

nguồn sâu xa từ toàn bộ hệ thống tư tưởng phương Đông. Đó là một truyền thống luôn có xu thế hạ

thấp hay xóa bỏ vai trò cá nhân, cái tôi mà coi trọng truyền thống văn hóa, lễ nghĩa, đề cao sự cung

kính, khiêm nhường với các quan hệ có trên có dưới, có trước có sau. Cũng do đặc trưng của văn

hóa, nên phương thức bác bỏ này chỉ hiệu quả ở các nước phương Đông, và không hiệu quả, hay có

thể gây hiệu quả ngược ở các nước phương Tây, vốn có phong cách đối thoại thẳng thắn, bình đẳng.

Cũng do ảnh hưởng của văn hóa truyền thống, mức độ chênh lệnh về vị thế của hai người

tham gia đối thoại càng cao, thì mức độ lịch sự càng tăng. Những vị thế có thể kể đến bao gồm tuổi

tác, địa vị, quan hệ họ hàng, chức vụ… Thường người có vị thế xã hội nhỏ hơn được khuyên phải

thể hiện thái độ khiêm nhường đối với những người có vị thế xã hội cao hơn. Tuỳ theo ngữ cảnh của

hội thoại, mà yếu tố vị thế nào sẽ được đề cao hoặc được giảm đi. Chẳng hạn, trong môi trường

công việc, một người A có thể là giám đốc và B là nhân viên, do đó, B phải tỏ rõ những thái độ kính

trọng nhất định đối với chức vụ nghề nghiệp của A, và quan hệ họ hang sẽ chiếm vai trò thứ yếu,

nhưng trong môi trường gia đình, A lại phải tỏ thái độ tôn kính với B nếu quan hệ giữa B-A là quan

hệ cha con, còn quan hệ nghề nghiệp hầu như không được tính đến. Do đó, để đánh giá mức độ lịch

sự trong hội thoại bác bỏ, cần phải tính đến các yếu tố liên quan trong suốt quá trình diễn ngôn.

Theo văn hóa của người Việt, trong hành động bác bỏ có thể thể hiện thái độ khiêm nhường,

của người nói.

Ví dụ 39

Thủ trưởng:

- Giỏi lắm. Công việc phức tạp thế mà cậu giải quyết được đâu vào đấy.

- Thủ trưởng quá khen rồi. Ai được giao nhiệm vụ cũng đều hoàn thành tốt như em thôi.

Trong trường hợp này, vị thủ trưởng có ý đánh giá cao năng lực của cậu nhân viên dựa trên

mối tương quan so sánh giữa sự đúng giờ trong hoàn thành công việc và mức độ phức tạp của công

việc được giao. Người thanh niên đã bác bỏ bằng cách bày tỏ sự khiêm tốn thông qua phép so sánh

thông thường: đưa khả năng của mình ra đặt ngang bằng với những nhân viên khác. Đây là cách

thức bác bỏ rất phổ biến và đặc trưng cho văn hóa phương Đông. Đó cũng là hình thức bác bỏ thể

hiện thái độ bác bỏ mềm dẻo và ít tính bác bỏ nhất.

Ngoài ra, hành động phủ nhận này còn là một cách thức khéo léo để hai bên đối thoại bảy tỏ

sự trân trọng về những giá trị của nhau. Nói cách khác, hành động tự phủ nhận khả năng của mình

chính là một cách thức để trân trọng, nâng cao giá trị, năng lực của người khác trong cuộc thoại.

Ví dụ 40

Hai bà mẹ nói chuyện với nhau:

- Chị giỏi quá, đi làm suốt ngày mà nhà cửa vẫn gọn gàng, sạch sẽ, cơm nước cho chồng con

vẫn tinh tươm.

- Em quá khen, chị thế mà giỏi gì so với em. Em còn con nhỏ, lại không có người phụ giúp mà

đến nhà sạch như lau, không có lấy một hạt bụi.

2.1.2.2. Thể hiện ở sự tôn trọng phương châm hội thoại

Nguyên lý hội thoại do H.P. Grice đề xướng trong những tập bài giảng “Logic và sự hội

thoại” bao gồm bốn phương châm như sau:

- Phương châm lượng

o Hãy làm cho phần đóng góp của mình có lượng tin đúng như nó được đòi hỏi cho

mục đích của cuộc thoại.

o Đừng đóng góp lượng tin của mình nhiều hơn điều mà nó được đòi hỏi.

- Phương châm chất

o Đừng nói điều mà mình tin là sai.

o Đừng nói điều mà mình không có bằng chứng chính xác.

- Phương châm quan hệ

o Hãy đóng góp những điều có liên quan.

- Phương châm cách thức: hãy nói cho rõ ràng, đặc biệt là

o Tránh tối nghĩa.

o Tránh mơ hồ.

o Ngắn gọn.

o Có mạch lạc.

Nguyên lý cộng tác có vai trò trung tâm trong lý thuyết hội thoại, và cũng đóng vai trò quan

trọng trong việc thực hiện hành động bác bỏ. Nguyên lý này biểu hiện cụ thể ở chỗ, sự vi phạm các

phương châm hội thoại, đặc biệt là các phương châm về lượng và chất, cũng có thể tạo ảnh hưởng

lên mức độ lịch sự trong hoạt động hội thoại nói chung và hành động bác bỏ nói riêng. Bản thân

hành động bác bỏ đã mang tính trái chiều, do đó, việc tôn trọng các phương châm có thể làm dịu bớt

tính trái chiều đó, và đưa cả hai đích ngôn trung dần về một hướng, ngược lại, sự vi phạm phương

châm dễ dàng tách đích ngôn trung ra làm hai, thậm chí là hai chiều đối nghịch nhau.

Trong phần trình bày nguyên tắc của Yule, có một ví dụ ông minh họa cho nguyên tắc cộng

tác, mà chúng tôi thấy có những hoạt động bác bỏ đặc trưng.

Ví dụ 41

Man: Does your dog bite?

Người đàn ông: Chó nhà bà có cắn không nhỉ?

Woman: No.

Người đàn bà: Không đâu.

(Người đàn ông với tay âu yếm con chó. Con chó ngoạm vào tay người đàn ông)

Man: Ouch! Hey! You said your dog doesn’t bite.

Người đàn ông: Uýi! Thế mà bà bảo chó nhà bà không cắn.

Woman: He doesn’t bite. But that is not my dog.

Người đàn bà: Nó không cắn đâu. Nhưng nó không phải chó nhà tôi.

Đặt đoạn đối thoại này trong một ngữ cảnh thông thường, tức giữa người đàn ông và người

đàn bà này có sự không thống nhất về vật sở chỉ, thì đây là một câu chuyện hài khá ngộ nghĩnh. Tuy

nhiên, nếu đặt trong ngữ cảnh đặc biệt (thường được sắp đặt trong các phim ảnh, sân khấu) là người

đàn bà này muốn “chơi khăm” người đàn ông, thì ta sẽ thấy ở đây có sự bác bỏ không có tính lịch

sự, tức tiềm ẩn nguy cơ làm tổn thương người khác (người đàn ông). Trong trường hợp này, hành

động bác bỏ đầu tiên của người đàn bà (No) được xem là bất bình thường vì đối tượng ở gần cuộc

đối thoại nhất là con chó không phải của bà ta (còn con chó của bà ta có lẽ đang ở nhà hay đi đâu xa

đó). Do đó, tuy câu trả lời đúng về lượng, chất nhưng lại vi phạm phương châm về quan hệ và cách

thức. Do đó, việc người đàn ông hiểu lầm và bị chó cắn là điều vô cùng dễ hiểu. Người đàn bà đã có

thể thể hiện tính lịch sự trong bác bỏ bằng cách đưa ra những thông tin bác bỏ khác rõ ràng hơn, kịp

thời hơn trước khi người đàn ông có hành động với tay âu yếm nó, chẳng hạn như “Chó nhà tôi

không cắn đâu, nhưng đấy không phải là con chó nhà tôi”. Tuy nhiên, bà đã để cho sự mập mờ phát

triển, và nhu cầu cần được có những thông tin chính xác, rõ ràng của người đàn ông đã không được

đáp ứng.

Các yếu tố trong phương châm hội thoại được tách bạch riêng rẽ để dễ hiểu cho người tham

gia nghiên cứu, còn trong quá trình thực hiện hành động bác bỏ, các phương châm này đòi hỏi phải

được tôn trọng một cách toàn diện, bất kỳ một sự bỏ qua nào của một trong số các phương châm,

đều ảnh hưởng đến mức độ đậm nhạt của thang độ lịch sự.

Ví dụ 42

Cô giáo: Các bạn có đồng ý với nhận định của cô không? Ai đồng ý giơ tay?

Học sinh…(giơ tay)

Cô giáo: Ai không đồng ý giơ tay.

Học sinh…(giơ tay)

Cô giáo: Các bạn còn lại thì sao?

Đối tượng học sinh còn lại, đã vi phạm phương châm về cách thức, tạo ra những ý kiến mơ

hồ, không rõ ràng, qua đó, đã thể hiện thái độ bất cộng tác với giáo viên trong giờ học. Sự bất cộng

tác này có thể mang chủ đích: biết mà không nói, cũng có thể là hành động không chủ đích: không

biết câu trả lời, đang băn khoăn về câu trả lời v.v…Dù ở hành động nào, cũng ảnh hưởng tiêu cực

với mức độ đậm nhạt khác nhau lên tính lịch sự trong bác bỏ.

Có thể sơ đồ hóa mối quan hệ giữa mức độ lịch sự và mức độ tôn trọng các phương châm

hội thoại như sau. Sơ đồ 2.1

Sự tôn trọng phương châm hội thoại cao Mức lịch sự cao

+ +

_ _

Sự tôn trọng phương châm hội thoại thấp Mức lịch sự thấp

Do đó, sự bác bỏ càng đích xác, càng bám sát và tôn trọng tối đa các phương châm hội

thoại, càng bảo toàn và gia tăng mức độ lịch sự. Ngược lại, mọi sự giao tiếp vô tình hoặc cố ý đi

ngược lại các phương châm, đều có thể gây những bất lợi không đáng có cho cả hai bên tham gia

hội thoại, và làm giảm mức độ lịch sự cần thiết trong giao tiếp.

2.1.2.3. Thể hiện đúng chuẩn mực của các vai giao tiếp

Chúng tôi coi đây là những yếu tố phụ trợ nhưng cần phải có nhằm thể hiện mức độ lịch sự

trong khi thực hiện hành động bác bỏ. Trong đó, người nói và người nghe phải tôn trọng những quy

tắc về tuyên xưng, gọi đáp đã được cộng đồng quy định, đồng thời phải lựa chọn những từ ngữ này

một cách phù hợp. Việc không sử dụng, hoặc sử dụng sai lệch với những quy tắc cộng đồng đều

được coi là mang những hàm ý có ảnh hưởng tiêu cực đến tính lịch sự trong đối thoại.

Trong một số trường hợp, chính những từ ngữ này chứ không phải bản thân hành động bác

bỏ, sẽ quyết định hành động bác bỏ ấy có mang tính lịch sự và “chấp nhận được” hay không.

Ví dụ 43

Bác Đán nằm trên chiếc giường con bên cạnh nghe tôi trằn trọc, gióng tiếng hỏi:

- Gì vậy con?

- Dạ, không có gì ạ.

- Muỗi cắn con hả?

- Dạ không ạ.

- Hay rệp đốt?

- Dạ không.

(11-tr.36)

Trước những ngờ vực của nhân vật bác Đán: nghĩ là đang có chuyện gì đó, hoặc muỗi cắn,

hoặc rệp đốt nhân vật “con” này, nhân vật “con” bác bỏ lại bằng cách sử dụng những từ tình thái đi

kèm theo từ chỉ sự bác bỏ như “dạ”, “ạ”. Bản thân những từ này, khi hiện diện trong câu nói, đã

thể hiện một thái độ rất tích cực về ngôi thứ và tình cảm tôn trọng, lễ phép của người tham gia đối

thoại. Trong trường hợp kết hợp với hành động bác bỏ, nó làm giảm đi tính gay gắt thường xảy ra,

làm dịu không khí bác bỏ và gia tăng mức độ lịch sự, thân mật trong không khí giao tiếp.

Không phải ngẫu nhiên mà trong tiếng Việt, vốn từ nhân xưng, hô, gọi rất phong phú và đa

dạng. Mỗi một từ lại có những ngữ cảnh xuất hiện và sắc thái biểu đạt khác nhau. Do đó, khả năng

ứng xử không chỉ là khả năng sử dụng các cách thể hiện ý nghĩa của lời mà còn là cách lựa chọn các

từ nhân xưng phù hợp với các vai giao tiếp vì đây là một trong những tác nhân quan trọng để đánh

giá lượt lời đó mang tính lịch sự hay không.

Việc lựa chọn vai giao tiếp trong hội thoại sẽ phụ thuộc vào những yếu tố sau đây.

(1) Vị thế xã hội. Vị thế xã hội chính là những giá trị liên quan đến vai trò nghề nghiệp, đặc

trưng giới tính, tuổi tác, cương vị, chức vụ trong xã hội của người đó. Vị thế xã hội là yếu tố

để vai giao tiếp ý thức được điều mình cần nói và cách thức biểu hiện ý nghĩa lời nói. Trong

giao tiếp thông thường, ngay cả khi đối thoại về một vấn đề không mang tính mâu thuẫn,

xung đột, thì việc sử dụng chệch chuẩn các vai giao tiếp cũng có thể bị coi như một hành

động phản đối.

Ví dụ 44

- Thưa ông, bà chủ không có nhà.

- Chị đang gọi con sư tử đầu xù của tôi đó hả?

Do đó, chúng tôi nhận thấy, trong hoạt động giao tiếp có chứa đựng hành động bác bỏ, việc

sử dụng đúng các từ ngữ biểu hiện vị thế xã hội càng đóng vai trò tích cực làm giảm thiểu các nguy

cơ xung đột.

Sự chênh lệch về vị thế xã hội cũng ảnh hưởng đến cách thức thể hiện sự bác bỏ, và do đó,

cũng hình thành những sắc thái riêng trong việc đánh giá mức độ lịch sự.

Ví dụ 45

Thủ trưởng: Anh sang ngay phòng tôi nói chuyện.

Nhân viên: Dạ thưa, tôi còn một vài việc cần làm gấp ạ.

Ví dụ 46

Nhân viên: Em muốn nói chuyện với thủ trưởng ạ.

Thủ trưởng: Tôi đang bận.

Cả hai cuộc đối thoại này đều được cho là bình thường, thể hiện đúng chuẩn mực của các

vai giao tiếp. Chúng tôi thử hoán đổi hai hành vi bác bỏ này cho nhau, và kết quả như sau.

Ví dụ 45’

Thủ trưởng: Anh sang ngay phòng tôi nói chuyện.

Nhân viên: Tôi đang bận.

Ví dụ 46’

Nhân viên: Em muốn nói chuyện với anh ạ.

Thủ trưởng: Dạ thưa tôi còn một vài việc cần làm gấp ạ.

Cả hai cuộc đối thoại trên đều mang tính “bất thường”.

Ở ví dụ a’, cách trả lời quá ngắn gọn, lối xưng hô tự xưng tôi thường gây cảm giác ngang

hàng, ngang vị thế giữa các bên tham gia đối thoại sẽ tạo cho người thủ trưởng cảm giác không

được tôn trọng. Việc thực hiện hành vi bác bỏ đối với thủ trưởng đã tiềm ẩn nguy cơ đe dọa cao, lại

thêm việc sử dụng cách thức giao tiếp ngang hàng sẽ làm bùng nổ nguy cơ ấy, và thông thường, hệ

quả tiếp theo là ông ta sẽ phản đối lại ngay hành động bác bỏ của anh nhân viên, và đưa người nhân

viên này vào tính huống bất lợi: bị mắng về cách ăn nói, bị gây khó dễ công việc, bị đuổi v.v..

Ở ví dụ b’, việc nhún nhường quá mức của người đóng vai trò là cấp trên sẽ đặt ra nhiều dấu

hỏi cho người nghe. Vì cách thức xưng hô và biểu hiện quan hệ này rất phi lý về mặt quan hệ xã

hội, chỉ có lý trong những trường hợp rất đặc biệt nào đó. Kiểu như vị thủ trưởng muốn bộc lộ thái

độ mỉa mai về một sự tình riêng tư nào đó trong quan hệ của hai người.

Nếu vị thế xã hội giữa đôi bên tham gia đối thoại có tính chất tương đương hoặc có sự

chênh lệch không đáng kể, cách thức biểu hiện lời nói cũng như xưng hô thường có xu hướng đơn

giản, ngắn gọn và ít mang tính nghiêm trang. Ngược lại, khi vị thế xã hội giữa đôi bên có xu hướng

chênh lệch nhau ở khoảng cách lớn, phong cách đối thoại thể hiện rất rõ sự chênh lệch này, và cách

thức bác bỏ của người ở vị thế thấp, do đó, cũng tránh đi vào sự gay gắt, dứt khoát và ngắn gọn. Họ

có xu hướng đưa sự lý giải, đưa nguyên do vào trong lời bác bỏ của mình.

Ví dụ 47

Thái hậu biết mưu mình không xong, nhưng vẫn không đổi ý, bèn vời Hiến Thành đến, bảo rằng:

- Ông đối với nước nhà, có thể gọi là trung đấy! Song, tuổi ông đã xế chiều mà thời ấu chúa

thì việc làm của ông ai người biết đến? Chi bằng, lập vua đã trưởng thành thì người đó sẽ

đem ơn đức mà ban cho. Ông giữ được phú quí lâu dài, há chẳng nên ư?

Hiến Thành nói:

- Bất nghĩ mà được phú và quý, đó không phải là điều người trung thần nghĩa sĩ vui làm.

Huống chi, lời di chúc của Tiên Vương còn ở bên tai. Đối với công luận sẽ như thế nào?

Thần không dám vâng lời.

(46-tr.54)

(2) Mức độ gắn bó. Trong những môi trường giao tiếp có tính chất nhỏ, hẹp và cá nhân, việc lựa

chọn cách thức giao tiếp lại phụ thuộc vào đặc trưng về quan hệ giữa hai bên tham gia giao

tiếp. Với những đối tượng đã quen biết nhau từ trước, ngôn ngữ thể hiện vai giao tiếp thường

rất ngắn gọn, súc tích và ít mang tính trang trọng, chuẩn mực.

Ví dụ 48

Cúc Hương nhấn bàn đạp cho xe vọt tới, bảo Xuyến:

- Mày nhìn vô lưng tao coi! Thấy gì không?

- Thấy! Lưng mày là lưng ong!

Cúc Hương gầm gừ:

- Tao không giỡn! Mày nhìn kĩ lại đi!

- Nhìn kĩ rồi!

- Thấy gì chưa?

- Thấy

- Thấy gì?

- Lang ben từ trên xuống dưới! – Xuyến cười khúc khích

Cúc Hương tỉnh bơ:

- Mày nhìn lộn rồi! Đó là lưng con Thục!

- Tao không thù oán gì với tụi mày à nghen! - Thục giãy nãy khiến chiếc xe chao qua chao lại.

(3-tr.58-59)

Ngược lại, nếu giữa đôi bên giao tiếp chưa từng có sự gặp gỡ, quen biết nhau trước đó, thì

ngược lại, ngôn ngữ của họ mang tính chuẩn mực, lịch sự, có phần khách sáo và thường phản ánh rõ

đặc trưng về vị thế. Thường trong quan hệ công cộng, công việc, cách thức biểu đạt vai giao tiếp

nếu không nghiêng về phản ánh chức vụ, địa vị, thì cũng nghiêng về các từ ngữ có tính trung hòa,

không biểu lộ các quan hệ, cảm xúc cá nhân.

2.1.2.4. Có sử dụng hay không sử dụng các hình thức tranh lời, cướp lời

Thông thường, các cuộc hội thoại phải tuân thủ theo những quy tắc về lượt lời. Một khi quy

tắc này bị vi phạm sẽ ảnh hưởng tới thể diện của những người tham gia đối thoại, đặc biệt là ảnh

hưởng tới nhu cầu, mong muốn được trình bày ý kiến của người đang đưa ra ý kiến, luận điểm.

Bản thân hành động tranh lời, cướp lời trong hành động ngôn từ nói chung, cũng ảnh hưởng

tới tính lịch sự của giao tiếp. Đối với hành động bác bỏ, ảnh hưởng của việc tranh lời, cướp lời sẽ

gây ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc hơn.

Ví dụ 49

Anh Mấu mừng rỡ, gãi tai nói:

- Dạ, bẩm sáu đồng ạ.

Yên lặng, quan lớn xòe ba tờ giấy vào mặt anh Mấu và nhíu đôi lông mi lại, nói:

- Chúng bay láo, chỉ quen buôn gian bán giảo. Con lợn của mày chỉ đáng ba đồng. Đây tao

cho mày đủ tiền vốn lại cho thêm cả một hào lãi nữa, thế là đúng rồi.

Nói đoạn, quan lớn gí tiền giấy vào tay anh Mấu, rồi cậy thêm một hào nữa, ở ngăn con, quẳng

xuống thềm nhẵn bóng, rồi cùng bà lớn quay trở vào.

Anh Mấu ngây người toan nói, nhưng cửa đã đóng ập lại.

Đồng thời cậu lệ xua đuổi:

- Thôi, đi về, đồ khỉ!

(21-tr.302)

Trong trường hợp này, vị quan lớn đã lợi dụng chức quyền và địa vị, đã tận dụng ưu thế của

mình để tranh lời, cướp lời của một anh nông dân thấp cổ bé họng, không để cho anh ta được giãi

bày những ý kiến bác bỏ của mình. Do đó, vị quan - người tham gia đối thoại, đã vi phạm những

phương châm hội thoại, hòng tạo tình cảnh lấn át, đe dọa nghiêm trọng quyền lợi và thể diện của

người nông dân.

Nhìn chung, đại đa số đối tượng sử dụng hình thức tranh lời cướp lời đều là người có vai trò

thống trị, lấn át so với đối tượng còn lại trong giao tiếp. Và họ thường có một “gót chân asin”, tức

một điểm yếu trong yêu cầu, nhận định của họ, do đó, họ lợi dụng sức mạnh lấn át hòng nhằm cho

người đối thoại không dám bác bỏ yêu cầu, nhận định của họ.

Những tham thoại sử dụng hình thức tranh lời, cướp lời để thực thi hành động bác bỏ nhằm

những mục đích như sau.

(1) Che giấu điểm yếu hoặc các thông tin nhạy cảm. Như ví dụ đã phân tích ở trên, một khi

tham thoại cảm thấy nhận định của đối tượng tiềm ẩn nguy cơ tấn công vào một điểm yếu

của mình, người ta sẽ tranh thủ vai trò của vị thế thống trị, vốn có nhiều lợi thế về việc phát

huy tính lịch sự hơn, để sử dụng tranh lời, cướp lời như một biện pháp bác bỏ tức thời.

Ví dụ 50

- Bố suốt ngày uống rượu, chơi tổ tôm và…

- Thôi đi, mày lo cơm nước chưa mà giờ này còn ở đó nhiều chuyện.

(2) Bổ sung thông tin làm yếu hiệu quả của nhận định. Trong một số trường hợp, thay vì trực

tiếp bác bỏ, người tham gia giao tiếp lại mượn hình thức của sự đồng tình, nhưng đưa thêm

vào những dẫn chứng nghịch chiều với nhận định của người nói, làm gián đoạn quá trình bày

tỏ nhận định của người nói và làm cho người nói mất khả năng đưa ra những thông tin tiếp

theo.

Ví dụ 51

- Tôi làm người đàn ông thực thụ trong gia đình rồi đó, phụ bố sửa chữa điện nước trong nhà,

phụ mẹ….

- Ờ! Ông phụ bố ông sửa tivi nên nhà ông mới có tậu ngay được cái tivi mới phải không?

(3) Thể hiện vị thế thống trị của người thực hiện hành động bác bỏ. Khi nhận định được đưa ra

là vấn đề mà người nghe không muốn tiếp nhận, hoặc tạo cảm giác không thể hiện sự tôn

trọng đúng mực với người nghe, họ có thể sử dụng hình thức ngắt lời, tranh lời như một cách

thức tái xác lập lại vị thế vốn có ban đầu của họ. Chẳng hạn, khi một nhân viên trình bày quá

dài dòng và lan tràn sang những vấn đề cá nhân không liên quan đến nội dung cuộc họp,

giám đốc có thể ngắt lời và hành vi bác bỏ hiệu lực lời nói này mang tính độc quyền của

người điều hành buộc tất cả mọi người đều phải có nghĩa vụ chấp nhận. Thông thường trong

trường hợp như thế này, người ta không để ý đến tính lịch sự của câu nói vì họ cho rằng đây

là câu trung hòa và bình thường về cách thức biểu đạt.

Nhìn chung, các mục đích tranh lời, ngắt lời thường không có sự tách bạch rõ ràng về các

tiêu chí hình thức cũng như nội dung mà có sự đan xen, kết hợp khá chặt chẽ. Người sử dụng hình

thức này thường thể hiện thái độ không tôn trọng như cầu bày tỏ và được lắng nghe bày tỏ của

người tiếp nhận hành động bác bỏ đồng thời tiềm ẩn nguy cơ đe dọa thể diện rất cao. Chính điều

này đã tham gia vào như một nhân tố quan trọng quyết định mức độ đậm nhạt của lịch sự.

2.1.2.5. Thể hiện sự im lặng

Người ta thường nói “Im lặng là đồng ý”, tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt, im

lặng là một sự phản đối ngầm nào đó. Một khi nhu cầu được lắng nghe người khác trình bày quan

điểm, ý kiến không được đáp ứng, tức là người nghe không tôn trọng nhu cầu được biết của người

phát ngôn, thì khi đó, sẽ ảnh hưởng tới nguyên tắc lịch sự.

Theo chúng tôi, hiện tượng “mập mờ”, một hiện tượng tưởng như bấp bênh, giao tranh giữa

hai thái cực đồng ý và bác bỏ, trong một số ngữ cảnh đặc biệt, cũng là một cách thức bác bỏ đầy

hiệu quả.

Ví dụ 52

Trong khi sốt, chàng thấy một người khôi ngô dõng dạc, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng, quần áo,

rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ, đến đòi làm trả lại tòa đền như cũ, và nói:

- Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần ra

sao, cớ gì lại dám lăng miệt, hủy tượng đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa

nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo phải làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả

tòa đền như cũ. Nếu không thì vô cớ hủy đền Lư sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ.

Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên.

(46-tr.55)

Sự im lặng này, về bản chất có thể lý giải: đó là thái độ bất cộng tác với người đang muốn

mình tham gia vào cuộc đối thoại. Hành động không thèm trả lời câu hỏi mà thể hiện ra bên ngoài

bằng sự im lặng chính là hành động thể hiện mức độ thấp của lịch sự. Chúng tôi xem đây là hành

động cố ý vì bản thân người nghe đã biết rõ nhu cầu cần tìm hiểu của người hỏi nhưng lại không

đưa ra thông tin đáp ứng cho nhu cầu đó. Có những sự im lặng có thể hiểu do không hiểu câu hội

thoại, do chưa đưa ra được quyết định cho một vấn đề, hay “im lặng là đồng ý” nhưng trong ngữ

cảnh này, cộng hưởng cùng thái độ “ngất ngưởng tự nhiên” của Tử Văn, có thể thấy sự im lặng này

chính là một hình thức bộc lộ thái độ bác bỏ một cách đầy cương quyết đối với quan điểm của người

vừa nói.

Câu hỏi trong ngữ cảnh này thường là dạng thức câu tiên đoán, tức người hỏi không nhằm

mục đích tìm kiếm thêm thông tin mới mình chưa biết, mà chủ yếu là muốn đi tìm cơ sở chắc chắn

những thông tin mà mình nghĩ là xác thực, là đúng đắn. Nói cách khác, đó là những câu hỏi đã chứa

sẵn những lý lẽ bác bỏ.

Đó là dạng câu thường gắn với cấu trúc “phải không” như các ví dụ sau.

Ví dụ 53

- Anh lại đi chơi phải không?

- Hôm nay lại bị điểm kém phải không?

- Hàng họ lại bán ế phải không?

- Em lại bị ốm phải không?

- Phải anh Phong đó không?

Hiện tượng bác bỏ bằng hình thức im lặng cũng có thể xảy ra trong trường hợp người ta có

sự nhầm lẫn về các đối tượng giao tiếp. Nghĩa là người thực hiện hành động bác bỏ bằng cách im

lặng tri nhận được rằng thông tin mình nghe được không phải là thông tin chủ đích dành cho mình,

mà là do người phát ngôn đã hướng tới nhầm đối tượng. Chẳng hạn ngữ cảnh người nói đi trên

đường, bắt gặp một dáng người trông rất quen, và tưởng lầm là bạn mình nên có thể hỏi “Phải anh

Phong đó không?”, người nghe có thể tri nhận được thông báo về mặt nội dung, nhưng không cảm

thấy sự liên hệ về đích của nội dung giao tiếp, nói cách khác, không cảm thấy câu hỏi đó là dành

cho mình, do đó, sẽ có hành động im lặng.

Ở đây lại nảy sinh vấn đề của việc im lặng có chủ đích và im lặng không có chủ đích. Im

lặng có chủ đích là hành động mà người bác bỏ ý thức được mục đích, lý do, hiệu quả mà hành

động bác bỏ bằng im lặng của mình mang lại. Họ ý thức rõ nội dung của nhận định và biết rõ nhận

định đó đang hướng tới bản thân mình. Im lặng không có chủ đích là hành động bác bỏ mà người

thực hiện hành động vô tình gây ra, tức họ không ý thức được họ đang thực hiện hành động bác bỏ,

do đó, sẽ không để tâm đến các hiệu quả liên nhân xung quanh hành động. Đây là hành động có tính

“tai nạn nghề nghiệp” trong giao tiếp mà người tiếp nhận hành động bác bỏ vô tình gây ra, chứ

không phải là hành động được sắp xếp, tính toán từ trước.

2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lịch sự trong hành động bác bỏ tiếng Việt

Một số nhân tố chi phối hành động bác bỏ cũng đồng thời là những nhân tố chi phối vấn đề

lịch sự, do đó chúng tôi sẽ chỉ lướt qua mà không bàn kỹ ở đây để tránh đi vào hiện tượng trùng lắp.

2.1.3.1. Không gian

Có thể cùng một bản chất, một nội dung hội thoại, cùng những vai đối thoại đó, tuy nhiên,

trong những hoàn cảnh khác nhau về không gian, thời gian, tính lịch sự sẽ thể hiện những đặc trưng

khác nhau.

Ví dụ 54

Hai vợ chồng đang nói chuyện với nhau tại một cuộc họp:

Vợ (thư ký): Thưa giám đốc, nghe nói chúng ta phải cắt giảm

Chồng (giám đốc): Không được. Đó là khoản chi cần thiết của công ty.

Ví dụ 55

Tại nhà riêng chỉ có hai vợ chồng:

Vợ: Theo tôi phải cắt giảm ngân sách.

Chồng: Cô rõ vớ vẩn, không tiếp khách thì sao có cơ hội kiếm tiền.

Ở công ty, do bị quy định bởi những phép tắc giao tiếp nơi không gian công cộng, có đông

người lạ, cách xưng hô và thể hiện sự bác bỏ cũng phải được lựa chọn sao cho đúng các mối quan

hệ và không khí xung quanh. Ở ví dụ 55, không gian ở nhà không bị tác động bởi hoàn cảnh khách

quan xung quanh, cách thể hiện sự bác bỏ cũng có phần suồng sã, và mang tính tự nhiên hơn rất

nhiều.

Ở một số nơi, quy định về đặc trưng không gian cũng ảnh hưởng đến quy tắc lịch sự.

Ví dụ 56

Để tỏ thái độ không cho phép hành động hút thuốc của khách, có hai cách nói như sau.

Xin lỗi quý khách, nhưng ở đây có quy định không được hút thuốc. Mong quý khách thông cảm. ->

Bối cảnh: tại nhà hàng, lời anh phục vụ.

Nhà tao có em bé, đi chỗ khác hút mày. -> Bối cảnh: ở nhà, mối quan hệ bè bạn.

Qua các ngữ cảnh khác nhau, chúng tôi nhận thấy sắc thái và nội dung đối thoại nói chung,

hành động bác bỏ nói riêng cũng khác nhau. Sự biến đổi này được thể hiện theo một quy luật khá

thống nhất.

Ở đâu có tính công cộng càng cao, thì tính lịch sự trong bác bỏ càng cao. Ngược lại, ở đâu

tính công cộng càng giảm, tính lịch sự trong bác bỏ cũng giảm theo. Có thể lý giải điều này như sau:

trong các cuộc đối thoại ở nơi công cộng, cả hai bên tham gia đều luôn có ý thức giữ thể diện của

mình và của người, tránh sự xung đột hoặc làm ảnh hưởng tới thể diện của những người có liên

quan, do đó mà tính lịch sự luôn được thể hiện. Sơ đồ 2.2.

Tính công cộng cao Mức lịch sự nhiều

+ +

_ _

Tính công cộng thấp Mức lịch sự ít

Chúng tôi phân tích quy luật này dưới góc độ mối liên quan tiềm tàng giữa không gian và

tính lịch sự, không tính đến những nhân tố căn bản như tính lịch sự trong mỗi cá nhân. Vì tự bản

thân mỗi cá nhân, khi tham gia giao tiếp, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng phải luôn hướng tới

tôn trọng các phương châm giao tiếp. Tùy vào từng ngôn cảnh, mà họ sẽ thể hiện sự tôn trọng đó

theo những sắc thái sao cho phù hợp, hài hòa.

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có hai loại không gian hội thoại: không

gian vật chất và không gian tâm lý. Nếu như không gian vật chất đóng vai trò như kim chỉ nam tác

động đến phong cách giao tiếp của những người tham gia hội thoại, để họ phải lựa chọn những cách

thức làm sao đó cho phù hợp với không gian xung quanh, thì ngược lại, không gian tâm lý do những

người tham gia đối thoại quy định, và nó sẽ tạo ảnh hưởng lên cách thức sử xự và nói năng của

những người ở trong môi trường đó. Trong một số trường hợp, không gian tâm lý còn có tác dụng

đảo ngược đặc trưng của không gian vật chất, khiến người ta có thể cư xử không theo những cách

thức đã được mặc định trước đó. Chẳng hạn, trong không gian của một nhà hàng sang trọng, khi

mọi người đang ăn uống, nói chuyện rất nhỏ nhẹ và khách sáo. Một nhân vật đứng lên và đề nghị.

“Đừng khách sáo với nhau thế, hãy thoải mái như thời đi học nào!”. Lúc đó, tất cả mọi người sẽ

cảm thấy có một không khí khác, thân mật và thoải mái hơn. Khi đó, không gian tâm lý đã lấn át

không gian vật chất, và người ta cảm thấy sự hiện diện của không gian này nhiều hơn cả không gian

vật chất.

Chính vì lợi thế của không gian tâm lý, nên trong các chiến thuật giao tiếp, người giao tiếp

khéo léo sẽ biết vận dụng câu chuyện để tạo ra không gian tâm lý như mong muốn, hòng tạo tâm thế

thoải mái và giảm thiểu rủi ro về bất đồng nếu có giữa đôi bên.

Sự chuyển đổi không gian tâm lý đi theo hai hướng. Nếu từ không gian vật chất trang trọng,

khách khí mà kéo về không gian tâm lý thân mật, gần gũi, đó là dấu hiệu chỉ ra thái độ hợp tác trong

hội thoại, sẽ trợ giúp rất nhiều để giảm thiểu sự xuất hiện cũng như mức độ của hành động bác bỏ.

Nếu chiều hướng đi từ không gian vật chất mang tính đời thường, cá nhân mà kéo về không gian

tâm lý trang trọng, xa cách, đó là dấu hiệu của sự bất cộng tác trong giao tiếp và sự xuất hiện của

hành động bác bỏ.

Ví dụ 57

- Cháu muốn gặp em Linh ạ.

- Thành thật xin lỗi cậu. Em nó đang học bài không tiện ra tiếp cậu được.

Ở ví dụ này, bà mẹ biểu lộ một thái độ hết sức lịch sự và trang trọng từ cách lựa chọn từ

xưng hô đến cách thức bày tỏ lý do. Tuy nhiên, trong ngữ cảnh nhà riêng đòi hỏi tính thân mật, đơn

giản, cách biểu hiện trên vô hình tạo ra một không gian tâm lý rất nặng nề cho người tiếp nhận.

Chính điều này sẽ ngăn cách làm cho người tiếp nhận tạm dừng lượt lời của mình, do đó, hành động

bác bỏ của bà mẹ đã phát huy tác dụng.

Có thể thấy, trong hầu hết các ngữ cảnh hội thoại, việc đưa ra những cách thức biểu hiện lời

nói phù hợp với không gian xung quanh, và thống nhất giữa không gian vật chất và không gian tinh

thần, đều sẽ gia tăng các cơ hội đi tới sự thống nhất và giảm thiểu các nguy cơ bất đồng khi thực

hiện hành động bác bỏ.

2.1.3.2. Thời gian

Tính lịch sự thể hiện nhiều hơn trong thời gian thư thái, và càng ít đi trong thời gian gấp

gáp, có tính áp lực. Thời gian giao tiếp phải có sự thống nhất giữa đôi bên tham gia đối thoại. Chẳng

hạn bạn bè gặp nhau hàn huyên vào ngày nghỉ thì thời gian có thể dư dả, không bị đóng khung kể từ

lúc mở thoại cho tới lúc kết thúc cuộc thoại. Trong các cuộc gặp gỡ công việc như soạn thảo hợp

đồng, tiếp dân, trò chơi truyền hình…, thời gian thường cố định trong những khung thời lượng nhất

định. Khi đó, cả đôi bên tham gia hội thoại phải cân nhắc tới đặc trưng thời gian này. Nếu không,

cuộc trò chuyện sẽ trở nên dang dở, thất bại và được coi là bất lịch sự (người nói có thể thấy mất thể

diện khi đang nói mà bị thúc giục kết thúc lời, người nghe cảm thấy chưa thỏa mãn với thông tin

được nghe v.v…). Sự tôn trọng yếu tố thời gian sẽ làm cho đôi bên giao tiếp ý thức được những

hành động thúc giục lời nói, đẩy nhanh tiến độ nói, ngắt lời, tranh lời v.v…hành động nào là bất lịch

sự, hành động nào là bình thường.

Chẳng hạn trong chương trình Ai là triệu phú trên VTV3, khi MC Lại Văn Sâm đang hỏi

một câu hỏi và người chơi đang trả lời. Tại giữa lượt lời của người chơi có tiếng chuông báo hết giờ

vang lên, hiệu lực của việc hỏi và trả lời sẽ kết thúc, MC sẽ phải làm công việc ngắt lời người chơi

đang nói và tuyên bố dừng cuộc chơi tại đây. Về nguyên tắc, người chơi đang đưa ra câu trả lời, và

chắc chắn là mong muốn MC tiếp nhận câu trả lời. Việc MC ngắt lời, về hình thức thể hiện sự

không tôn trọng lượt lời của người chơi. Nhưng kết nối với ngôn cảnh, với tiếng chuông theo quy

định, thì tính lịch sự ở đây chỉ bị vi phạm về hình thức chứ không vi phạm về bản chất.

Đặc biệt, trong khi thực thi hành động bác bỏ, việc trình bày lại cần phải khớp về khung

thời gian hơn bao giờ hết để tránh những khó chịu về thời gian có thể xảy ra, và những ngắt quãng

đáng tiếc làm ảnh hưởng đến hành động bác bỏ và hiệu quả bác bỏ.

Đôi khi người ta còn mượn yếu tố thời gian để tạo thành một cái cớ vin vào cho hành động

bác bỏ, để tránh phải đối mặt với những nội dung giao tiếp mà họ không mong muốn. Đây cũng là

một cách thức làm giảm thiểu sự đe dọa về thể diện cho người tiếp nhận hành động bác bỏ, đồng

thời cũng giúp ngược thực hiện hành động bác bỏ thoát ra khỏi thế bí mà họ không mong muốn.

Ví dụ 58

- Sao anh lại cư xử thế với em?

- Thôi chết, có cuộc họp chiều nay, có gì gặp em nói sau nhé.

2.1.3.3. Vai giao tiếp

Rõ ràng vai giao tiếp không chỉ ảnh hưởng tới hành động bác bỏ nói chung mà còn ảnh

hưởng trực quan đến tính lịch sự trong bác bỏ nói riêng. Thông thường, quan hệ liên nhân càng bình

đẳng, thân mật, mức độ lịch sự càng hướng dần về sự suồng sã, chân thực với việc giản lược tối đa

các ngữ khí từ chỉ sự tôn kính. Đôi khi những yếu tố được cho là dư thừa trong việc truyền đạt cũng

có thể bị lược bỏ mà không làm ảnh hưởng tới chất lượng của cuộc hội thoại.

Ví dụ 59

- Thế nào, không hợp khẩu vị ư?

Tôi hỏi.

- À, không, từ nhỏ tôi không ăn xào chay.

Nàng nhìn tôi, vẻ bất lực, khiến tôi vô cùng bối rối.

(19-tr.23)

Ở ví dụ này, nhân vật nam đã đưa ra câu hỏi không có chủ ngữ thể hiện (tuy nhiên trong

ngữ cảnh, tự nó đã xác định rõ đối tượng sở chỉ của câu) và hầu như tất cả mọi người đều chấp nhận

coi câu đó là bình thường, đầy đủ thông tin. Ngược lại, nếu đó là một câu hỏi dành cho người lớn

tuổi hoặc có địa vị lớn hơn, thì nó lại mang một nội dung sắc thái tiêu cực.

Thông thường vai giao tiếp càng lạ lẫm với nhau, kinh nghiệm giao tiếp với nhau chưa

nhiều, người ta càng có xu hướng giữ kẽ trong giao tiếp, đồng thời cũng giữ kẽ trong cách bác bỏ.

Ví dụ 60

Cùng một nội dung giao tiếp

Giữa hai người bạn.

X: Ăn cơm với tao đi.

Y: Nhìn thịt cá nữa thấy ớn quá, không ăn đâu.

Giữa chủ và khách đến nhà.

X: Mời anh ăn cơm cùng nhà chúng tôi.

Y: Cảm ơn anh, tôi ăn ở nhà rồi.

Có thể cả hai đối tượng Y như trên cùng một suy nghĩ từ chối trong đầu, nhưng do tính chất

mối quan hệ, mà họ có những cách thể hiện khác nhau. Cuộc nói chuyện suồng sã giữa hai người

bạn không làm vi phạm phương châm lịch sự vì họ đã ngầm hiểu và quen với cách nói chuyện này,

do đó không bị chi phối bởi những biểu hiện về mặt câu, từ. Ngược lại, giữa hai người chưa quen

biết nhiều, họ buộc phải dò đoán ý nhau về mặt ngôn từ và cẩn trọng trong việc thể hiện lời nói. Hai

ví dụ này cũng chỉ ra mối quan hệ có tính hệ thống giữa hành động bác bỏ và hành động từ chối.

Nếu nhận định được đưa ra dưới dạng một đề nghị, thì hành động từ chối chính là hành động bác bỏ

nhận định đó.

Đối với những đối tượng lớn tuổi, có vị thế cao trong xã hội, họ thường khai thác hành động

bác bỏ như một cách thức để thể hiện quyền uy của mình. Do đó, họ có thể thực hiện những hành

động bác bỏ gay gắt, lối xưng hô ngắn gọn và có phần không coi trong đối tượng tiếp nhận phát

ngôn, nhưng vẫn có thể được xã hội cho rằng đó là cách ứng xử bình thường. Ngược lại, những đối

tượng có phần lép vế hơn, lại phải bỏ công sức đầu tư, để lời nói của mình phải phản ánh được sự

kính trọng, nhún mình, nếu không, sẽ bị cho là hỗn xược, vô lễ, không biết phép tắc.

Vai giao tiếp không chỉ là sự quy định mặc nhiên được công nhận từ bên ngoài, mà có khi

còn được quyết định bởi chính cách nghĩ, quan niệm về vị trí của chính bản thân người tham gia

cuộc đối thoại.

2.2. HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ VẤN ĐỀ LẬP LUẬN

Lập luận, suy cho cùng, cũng hướng tới đích nhằm bảo vệ một chân lý, một sự thực nào đó,

hoặc để bài bác một nhận định sai lầm. Chính vì thế mà lập luận có một mối liên hệ rất chặt chẽ với

hành động bác bỏ.

2.2.1. Mối quan hệ giữa hành động bác bỏ và lập luận

Lập luận là một thao tác rất phổ biến và cần thiết phải tồn tại trong cuộc sống của con

người. Hành động lập luận có thể xảy ra ở đâu, ở bất cứ nơi nào và trên mọi vấn đề của cuộc sống.

Ở đâu có sự giao tiếp, có hội thoại, có sự bất đồng về mặt quan điểm, thì tất yếu có khả năng nảy

sinh hành động lập luận. Người ta sử dụng lập luận vào nhiều mục đích khác nhau: dùng để chứng

minh một chân lý, dùng để bác bỏ ý kiến đề ra trước đó, dùng để giải thích một vấn đề, hay để

thuyết phục người khác đi theo quan điểm của mình v.v… Tuy nhiên, tất cả những nhu cầu này đều

xuất phát từ một nguyên do: đối tượng lập luận đã tiếp nhận những thông tin, nhận định không như

mong đợi và thực hiện hành động lập luận để đưa nội dung câu chuyện trở về với chính kiến của

mình. Do đó, xét trong mối tương quan, bác bỏ một vấn đề nào đó chính là cái đích mà lập luận

mong muốn đạt đến.

Lập luận không chỉ là dùng tính đúng đắn của những giá trị logic, khoa học, xác thực mà

còn cả những lý lẽ chung, lý lẽ tình thái, tâm lý được đưa ra. Lập luận có thể rất minh bạch, khách

quan, cũng có thể là những mưu mẹo hoặc những cách thức “gây khó dễ người ta” bằng những bẫy

ngôn ngữ mà chúng ta thường thấy xảy ra tại các phiên tòa, với những vấn đề phức tạp, lắt léo,

nhiều sự tình đan xen.

Ví dụ 61

Trong bối cảnh tại phiên tòa, hai người mẹ cùng giành nhau một đứa bé, ai cũng khăng

khăng là con mình, viên quan đã dựa vào phản ứng của hai người về đề nghị chia đứa con ra làm đôi

để phán xét.

- Ngươi không có lòng yêu thương đứa bé này thật sự bằng tình mẹ thiêng liêng. Là người

mẹ thật sự với tình thương bao la đối với con nghĩa là dám chết để cho con sống, dám hy sinh tất cả

những gì mình có để cho con sống, không thể nhẫn tâm làm cho con mình đau đớn, khổ sở, bị phanh

thây xẻ thịt! Ngươi không làm được điều đó. Ngươi chỉ nghĩ cho bản thân ngươi. Ngươi chỉ muốn

giành cho được đứa bé này về ngươi, bất chấp mọi thủ đoạn, mọi điều gian ác, dù đó là việc xé xác

nó ra. Ngươi không xứng làm mẹ của bất cứ đứa bé nào, chứ đừng nói là đứa bé này.

Trong ví dụ này, quan huyện đã “nói một đằng, làm một nẻo” để bẫy hai đương sự trở về

với bản chất con người thực của mình. Để đi đến một kết thúc có tình có lý của một vụ án, ông đã

lập luận trên cơ sở mưu mẹo chứ không phải là logic hình thức thông thường. Việc lập luận để bác

bỏ mong muốn giành con của một trong hai người đàn bà được thực hiện thông qua những lý lẽ đã

được chiêm nghiệm trong đời sống hằng ngày về tình mẹ con được tất cả mọi người trong phiên tòa

gật đầu chấp thuận. Nếu không có những cơ sở đưa đến nội dung lập luận này, và không có thao tác

lập luận này, ông không thể xét xử vụ án một cách công bằng, chân thực và đúng người đúng tội

được. Đây không phải là những lý lẽ pháp lý, mà nó liên quan tới văn hóa truyền thống, phong tục,

nền tảng đạo lý cộng đồng đã được xã hội mặc nhiên chấp nhận, được coi như một thứ văn bản bất

thành văn.

Do đó, chúng tôi nhận thấy tùy vào từng nội dung bác bỏ mà có thể dùng những loại lý lẽ

khác nhau để lập luận. Có những lập luận đóng vai trò như những giá trị của sự bác bỏ, mà thiếu nó,

sự bác bỏ trở nên vô nghĩa. Hiện tượng này thường xảy ra trong các hoạt động xét xử dân sự, hình

sự. Một người bị kết án có thể trở thành vô tội hay có tội không thể dựa vào lời nói của anh ta hoặc

những người xung quanh mà là hàng loạt những chứng cớ, lý lẽ để lập luận cho sự vô tội của anh ta,

mà nếu thiếu nó, hành động bác bỏ lời tuyên án của luật sư không có giá trị.

Xét trong phạm vi hẹp của vấn đề chúng tôi đang nghiên cứu, mục đích của lập luận là để

bác bỏ một quan điểm hoặc một vấn đề nào đó. Lập luận muốn được hiện thực hóa thì phải thông

qua con đường của lý lẽ. Các lý lẽ có thể mang tính khách quan, cũng có thể theo cảm tính và mang

tính chất lệ làng tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể. Ngay cả trong tranh cãi pháp lý, bên cạnh sự chiếm

ưu thế của lý lẽ khách quan, thì những lý lẽ đánh vào tình cảm, cảm xúc kêu gọi sự đồng tình hay

phản đối của mọi người cũng là một vũ khí được các luật sư bào chữa sử dụng tối đa. Ngoài ra,

người bác bỏ cũng sẵn sàng dùng cả uy lực cá nhân để tạo lập luận với lý lẽ sai, nhưng áp đảo và

bác bỏ nhận định đúng. Mức độ sử dụng nhiều lập luận cùng tần số bác bỏ gia tăng.

Ví dụ 62

- Mẹ ơi, không phải vội đâu ạ, 8 giờ mới làm mà, con muốn ngủ thêm lúc nữa.

- Thế thì cũng phải dậy để ăn sáng chứ!

- Mẹ ơi, trên đường đi làm, con mua bánh bao ăn là được rồi ạ.

- Bánh bao đắt lắm, mấy tệ một cái, một cái được có tí xíu, ăn bao nhiêu cho no được! Hơn

nữa, Đại Lâm không bao giờ ăn sáng ở ngoài, một là lãng phí, hai là không sạch sẽ!

Thúy Thúy bị giọng nói của bà làm cho hoảng hồn, lập tức tỉnh giấc, nhất thời không hiểu được

mình đã nói sai điều gì mà khiến cho mẹ chồng mới sáng sớm đã giáo huấn cô. Cô lay gọi Đại Lâm

đang say giấc bên cạnh:

- Anh mau dậy đi, mẹ bực mình rồi!

- Con gọi nó dậy làm gì? Nó không được ngủ đủ giấc, sao có thể đi làm được?

- Con cũng chưa ngủ đủ mà, con buồn ngủ lắm mẹ ạ…

www.evan.vnexpress.net

Ở đoạn hội thoại này, vì bà mẹ chồng không có cảm tình với con dâu, nên bất cứ thông tin

nào bà nhận được, bà không quan tâm đến tính đúng sai, mà chỉ tìm những nguyên cớ để bác bỏ lại

mọi nhận định có xuất phát điểm từ con dâu. Như vậy, yếu tố cảm xúc đã chi phối hành động bác bỏ

của bà, khiến cho các lập luận tuy phi lý về thực tế nhưng rất có lý với bà, và cô con dâu, do địa vị

quan hệ của mình, không dám sử dụng nhiều lý lẽ chống đối lại.

Việc lập luận trong khi thực hiện hành động bác bỏ cũng đòi hỏi người ta phải sử dụng các

yếu tố ngôn từ đặc trưng trong lập luận để liên kết chặt chẽ các ý với nhau theo một trật tự logic phù

hợp. Đó là hệ thống các liên từ nối ý, nối câu và nối các nhận định, quan điểm lại với nhau. Mục

đích cuối cùng làm làm cho các yếu tố lập luận gắn kết với nhau thành một tổng thể chặt chẽ, và

cùng có đích hướng tới thực hiện sự bác bỏ.

Ví dụ 63

Gửi bé Phong Khê,

Chị ngạc nhiên vô cùng khi nhận được thư bé. Có lẽ bé quáng gà hay sao, chứ lớp chị đâu

có tổ chức “Câu lạc bộ làm quen” hay “Tìm bạn bốn phương” mà bé biên thư đòi “Kết bạn tâm

tình”! Hơn nữa, bé trẻ người non dạ, tuổi còn nhỏ nên chú tâm học hành, chớ đua đòi vớ vẩn, kẻo

trèo cao té nặng. Nghĩ tình chị em, chị tặng bé một cây kẹo ăn cho mau lớn và nhớ đừng có dại dột

trêu vào chị nữa! Good-bye bé! ”

(8-tr.16)

2.2.2. Những yếu tố chi phối lập luận trong hành động bác bỏ tiếng Việt

Thực tế cho thấy, vai trò của lập luận trong hành động bác bỏ rất phong phú, đa dạng phụ

thuộc vào rất nhiều yếu tố trực tiếp và gián tiếp của cuộc hội thoại. Chúng tôi đã nghiên cứu và tìm

ra những yếu tố sau đây.

(1) Tùy vào từng đối tượng cụ thể, mà lập luận cũng có vai trò khác nhau. Có những người, do đặc

trưng công việc hằng ngày, buộc phải sử dụng và đối mặt với hành động lập luận một cách

thường xuyên. Hành động lập luận đóng vai trò sống còn trong việc duy trì và phát triển nghề

nghiệp của họ. Chẳng hạn những người làm trong các ngành tòa án, công an, các nhà tâm lý,

các nhà ngoại giao hoặc các nhà diễn thuyết v.v… Một số người khác, do tính chất công việc

không cần nhiều tới sự lập luận trong giao tiếp mà chủ yếu tập trung vào các kỹ năng chuyên

môn, chẳng hạn như bác sỹ đang thăm khám cho bệnh nhân, những người bán hàng, nhân viên

giao dịch tại ngân hàng… Năng lực cá nhân cũng là một yếu tố quan trọng để làm gia tăng hoặc

giảm sút hiệu quả của lập luận bác bỏ. Có những người dường như “sinh ra để hùng biện”,

nhưng cũng có người “ngậm hột thị trong miệng”. Tuy nhiên, đã là con người với khả năng tư

duy bình thường, ai cũng có thể sử dụng lập luận bác bỏ ở mức độ thấp cao khác nhau.

(2) Tùy vào từng vấn đề đòi hỏi cần có sự lập luận hay không. Tuy nhiên vấn đề lập luận trong bác

bỏ nổi cộm rõ nét nhất trong các nội dung liên quan tới quyền lợi của một nước, một dân tộc

thông qua các con đường văn bản ngoại giao như công hàm, tuyên bố chung… Các lập luận

thường có độ dài về nội dung, sự sắc sảo của các lý lẽ, và sự tinh vi, phức tạp của việc tổ chức

các luận cứ. Còn những lập luận khác ở mức độ nhỏ hơn, việc sắp xếp thường do chủ ý của

người thực hiện lập luận. Đối với những vấn đề đơn giản trong cuộc sống hằng ngày, người ta

có thể sử dụng hành động bác bỏ không đi kèm với lập luận nhưng người bác bỏ và người bị

bác bỏ đều thỏa mãn với thông tin nhận được hoặc lập luận nếu xuất hiện, chỉ mang tính chất

rất ngắn gọn và đơn giản.

Ví dụ 64

- Thằng Huy nó đang thôi miên các câu hỏi!

- Không phải, nó đang ngắm cây cảnh!

- Tụi mày không biết gì hết, nó đang làm thơ tả cây đó!

(7-tr.199)

(3) Tùy thuộc vào mục đích giao tiếp. Thông thường, nếu người thực hiện hành động bác bỏ có

mong muốn mãnh liệt để bác bỏ nhận định của đối phương càng ở mức độ cao, thì những

phương thức và cách thức lập luận đưa ra càng nhiều. Mục đích cuối cùng là củng cố sự vững

chắc và gia tăng tính thuyết phục trong lời nói của họ.

Ví dụ 65

Một đôi trai gái yêu nhau

Cô gái hỏi: Anh hết yêu em rồi phải không?

Chàng trai 1: Vớ vẩn. Anh vẫn yêu em mà.

Chàng trai 2: Anh vẫn yêu em mà. Nếu không yêu thì anh đâu có lặn lội từ xa xôi đến thăm

em. Anh đâu có bỏ cả đám cưới thằng bạn mà đến đây. Em đâu có mua chiếc nhẫn cầu hôn.

Anh cũng đâu đưa em đi giới thiệu với bố mẹ như thế.

Ngoại trừ những yếu tố khách quan, tính kiệm lời, không muốn thể hiện tình cảm nhiều… thì

chàng trai 1 chỉ có mục đích bác bỏ một cách yếu ớt câu hỏi của cô gái, còn chàng trai thứ 2,

muốn khẳng định, muốn cô gái tin tưởng tuyệt đối. Do đó, anh ta dùng phương thức lập luận

bằng cách đưa ra hàng loạt những chứng cứ xác thực để chứng mình cho lý lẽ bác bỏ của mình

là đúng. Trong trường hợp này, chính sự lập luận chặt chẽ, xác đáng sẽ mang lại hiệu quả bác

bỏ cao hơn.

(4) Các yếu tố ngữ cảnh bên ngoài như không gian, thời gian… Chúng tôi không đề cập quá chi

tiết vì vai trò của không gian, thời gian đến lập luận vì sự ảnh hưởng này phần nào thống nhất

với ảnh hưởng của không gian thời gian lên hành động bác bỏ nói chung mà chúng tôi đã có dịp

đề cập trong phần 2.1.3.1 và 2.1.3.2. Nhìn chung, một lập luận bác bỏ hoàn chỉnh và kín kẽ chỉ

đạt được nếu không bị sức ép về mặt thời gian, không gian cũng như người tham gia đối thoại.

2.2.3. Các hình thức của lập luận bác bỏ trong tiếng Việt

Do còn chịu sự chi phối của hành động bác bỏ nên những hình thức của lập luận trong lập

luận bác bỏ có những đặc trưng riêng, không hoàn toàn thống nhất với các hình thức của lập luận

nói chung. Bên ngoài những yếu tố hình thức như sử dụng các kết tử đặc trưng trong lập luận, hành

động động bác bỏ còn chi phối tạo nên đặc trưng riêng của dạng lập luận này.

2.2.3.1. Đưa ra những dẫn chứng

Đây là cách thức bác bỏ phổ biến nhất. Bằng cách đưa ra những chứng cứ phủ định xác

đáng, thực tế, người nói đã gián tiếp bác bỏ một cách thuyết phục ý kiến của người đối thoại. Người

sử dụng ngôn ngữ phải sử dụng và lựa chọn nội dung ngôn ngữ một cách “khéo léo”, “có kế hoạch”

nhằm tạo nên được những dẫn chứng trọn vẹn, kín kẽ nhằm có thể bác bỏ hoàn toàn ý kiến của

người đối thoại. Tùy theo mức độ muốn bác bỏ mà số lượng dẫn chứng sẽ nhiều hay ít. Với những

vấn đề có quy mô chính trị, xã hội, hoặc những vấn đề khoa học phức tạp, số lượng dẫn chứng bác

bỏ có thể lên tới hàng trăm hàng ngàn. Với những đoạn hội thoại đơn giản, thông thường, thì dẫn

chứng bác bỏ đôi khi rất đơn giản và chiếm số lượng khiêm tốn.

Mật độ dẫn chứng đưa ra còn tùy thuộc vào tâm lý, tình cảm của người thực hiện hành động

bác bỏ. Nếu người bác bỏ có thành kiến, hoặc muốn đẩy hành động bác bỏ đi tới cực cấp, họ sẽ sử

dụng nhiều nhất có thể những dẫn chứng để phản bác lại, trong đó có thể có cả những dẫn chứng

thừa nhưng có tác dụng củng cố cho nhận định bác bỏ của họ.

Hướng lập luận, cụ thể là hướng bác bỏ, sẽ chịu sự chi phối của các tác tử và kết tử lập luận.

Tác tử (operateurs) lập luận là yếu tố khi đưa vào nội dung nào đó sẽ làm thay đổi tiềm năng lập

luận của nó, độc lập với thông tin miêu tả vốn có của nó. Do đó, những dẫn chứng được đưa ra, chỉ

có giá trị tham gia tạo thành hành động bác bỏ khi nó cùng chung một hướng với đích bác bỏ.

Những dẫn chứng có hiệu quả thuyết phục nhất là những dẫn chứng được lấy từ cuộc sống

hiện thực, với những thông tin xác thực mà người nói và người nghe đều chấp nhận sự tồn tại của

nó. Kế đến là những dẫn chứng có nguồn gốc văn bản, tức được ghi chép, được kể lại. Ngoài ra còn

có những dẫn chứng được cho là phi thực tế, nhưng đã ăn sâu vào trong đời sống cộng đồng và

được cộng đồng gắn cho những đặc trưng như Cô Tấm trong Tấm Cám, Thánh Gióng, Thạch Sanh,

v.v… Khi thực thi thao tác lập luận bác bỏ thông qua dẫn chứng, người thực hiện được mặc nhiên

cho là tin tưởng vào dẫn chứng mình được nêu ra có những đặc tính như thế.

Ví dụ 66

Tôi hỏi lại giọng hoang mang:

- Tết này Út Thêm lấy chồng thật hả?

- Thật mà

Tôi lắc đầu:

- Tôi không tin! Út Thêm mới mười sáu tuổi kia mà!

- Nhưng tết này, Út mười bảy tuổi.

Tôi khịt mũi:

- Mười bảy tuổi cũng vậy thôi! Chẳng ai đi lấy chồng khi mới 17 tuổi.

Mắt Út Thêm long lanh:

- Chị Hai của Út đó! Chị Hai lấy anh Hai lúc 17 tuổi. Còn chị Tư thì lấy chồng hồi 18 tuổi.

(2-tr.188)

2.2.3.2. Đưa ra những câu hỏi

Những câu hỏi có thể là câu hỏi ẩn dụ hàm ý về một thực tế được dùng để bác bỏ. Đó cũng

có thể là câu hỏi mà người tham gia đối thoại không thể trả lời được, do đó ý kiến họ đưa ra mặc

nhiên bị bác bỏ. Nếu kế sau lượt lời của câu hỏi, câu trả lời không được đưa ra và xác thực, nhận

định của đối tượng sẽ bị bác bỏ hoàn toàn. Nếu kế sau lượt lời của câu hỏi, câu trả lời được đưa ra

ngay sau đó và có sự xác thực, hiệu lực bác bỏ đã bị phá hủy.

Ví dụ 67

- Không! Tui học lớp bốn thiệt mà!

- Xạo! Năm ngoái bạn đá cho lớp Bốn Một, sao năm nay bạn cũng lại đá cho lớp Bốn Một, ăn

gian chứ gì nữa?

Tân đáp mà mặt đỏ rần tới mang tai:

- Tại tui ở lại lớp.

Cả ban tổ chức lẫn tụi bạn đều xác nhận lời nói của Tân là sự thực…

(14-tr.30-31)

Lời bác bỏ thực tế “Tui học lớp bốn” của Tân đã bị bác bỏ ngược trở lại ngay sau khi Tân

trình bày lý do tại sao lại học hai năm lớp bốn và được đông đảo mọi người xác nhận. Do đó, câu

hỏi vừa là một cách thức lập luận tạo lý lẽ bác bỏ, vừa là một hướng mở cho người tiếp nhận bác bỏ.

Khi người thực hiện hành động bác bỏ muốn gia tăng mức độ bác bỏ, họ sử dụng càng

nhiều những câu có hình thức hỏi.

Ví dụ 68

Thúy Thúy không thể chịu đựng nổi sự lăng mạ, bèn nói lại:

- Chính mẹ bảo con mua mà! Mua về rồi cái này không ưng, cái kia không phải, rốt cuộc là

phải làm gì đây?

- Tôi bảo cô mua, chứ không phải Đại Lâm mua!

- Lẽ nào chẳng phải giống nhau sao ạ?

- Giống cái con khỉ! Tiền của Đại Lâm là đưa cả cho tôi, cô đưa cho tôi đồng nào không? Con

nhà giáo dục kiểu gì vậy? Làm sai, mẹ chồng nói vài câu còn cãi lại! Bố mẹ cô không học

được mấy chữ, đầu không có não, không có giáo dục, nuôi dạy ra đứa con gái càng không có

giáo dục! Nhà chúng tôi thật xui xẻo, vớ phải nhà thông gia chẳng ra gì…

www.evan.vnexpress.net

Về độ dài ngôn từ, nhận định của nhân vật Thúy Thúy đưa ra ngắn gọn bao nhiêu thì lời

phản bác của bà mẹ chồng càng dài bấy nhiêu. Về thái độ, Thúy Thúy càng nhẹ nhàng bao nhiêu thì

bà mẹ chồng càng gay gắt, khó chịu bấy nhiêu. Về nội dung bác bỏ, bà mẹ chồng đưa vào rất nhiều

thông tin chứng minh, câu hỏi tu từ và mật độ dày dặc các từ phủ định như “không”, “chẳng” v.v…

Những lập luận kiểu này được xem là những lập luận “lấy thịt đè người” vì người nói nói ra

mà không để ý đến tính vô lý, người nghe không có khoảng dừng cần thiết để mở lời. Lập luận tốt

phải vừa có tình, vừa có lý, phải thuyết phục về mặt tình cảm và lý lẽ mới có thể bác bỏ hoàn toàn.

Câu hỏi trong lập luận có những đặc trưng riêng về nội dung và mục đích, thường rơi vào

các kiểu câu hỏi tu từ, không cần sự trả lời, không thể trả lời hay mở ra hướng trả lời hạn chế. Nói

cách khác, đó là cái bẫy ngôn ngữ mà người thực hiện hành động bác bỏ đưa ra nhằm đẩy người tiếp

nhận thông tin vào tình thế khó khăn, không có nhiều khả năng thanh minh, lý giải cho nhận định

của mình.

Trong lập luận bác bỏ, câu hỏi thường được sử dụng với những mục đích cụ thể như sau.

(1) Vạch ra sự bất thường của hành động. Câu hỏi được xây dựng trên cơ sở nội dung sự không

đồng nhất giữa nhận định được nêu và những đặc điểm mâu thuẫn với nhận định ấy. Do đó,

câu hỏi thường làm cho đối tượng được hỏi lâm vào thế không thể trả lời câu hỏi hoặc câu

trả lời xác thực sẽ đe dọa thể diện của người được hỏi. Qua đó, hiệu quả bác bỏ được bộc lộ

rõ nét.

Ví dụ 69

- Ừ, tao đang ôn lại bài hóa.

Đột nhiên Cúc Hương đổi giọng. Đang tươi cười, nó bỗng nghiêm mặt:

- Thôi đi, đừng có dóc! Mày không qua mặt nổi tao đâu! Hãy khai thật đi!

Thái độ của Cúc Hương khiến Thục đâm ra chột dạ. Nó ấp úng:

- Tao đang ôn lại bài hóa thật mà!

- Hừ, hóa! Hóa phép thì có! Cúc Hương hất mái tóc – Mày ôn bài sao tao không thấy mày giở

tập?

(8-tr.7)

Ở ví dụ trên đây, nhân vật Hương dựa trên những quan hệ về tính tất yếu của đặc trưng ôn

tập bài (phải giở sách vở ra) cùng với tính bất thường trong hành động học tập của Thục (không

thấy giở sách vở) để đặt ra câu hỏi khó “Mày ôn bài sao tao không thấy mày giở tập?” mà thực chất

là một hành động bác bỏ lại nhận định của Thục.

(2) Biểu lộ những sắc thái tình cảm tiêu cực, qua đó gián tiếp thực hiện hành động bác bỏ. Đặc

điểm để phân biệt hành động bác bỏ có tính lập luận và không lập luận trong câu hỏi không

liên quan đến độ dài, ngắn của câu lập luận, mà liên quan đến tính liên kết giữa các sự tình

trong câu. Theo ví dụ 68, khi mẹ Đại Lâm hỏi “Con nhà giáo dục kiểu gì vậy?”, người đọc

có thể dễ dàng nhận thấy thái độ hết sức bực bội và căm tức cùng cách thức bà ta mượn câu

hỏi để lập luận cho nhận định của mình. Với những câu hỏi dạng này, đôi khi người thực

hiện hành động bác bỏ cũng có nhu cầu cần biết câu trả lời, và người tiếp nhận có thể đưa ra

câu trả lời, tuy nhiên, đích ngôn trung bao trùm lên toàn bộ câu nói lại không phải là việc đi

tìm một câu trả lời, mà chỉ là cách thức để người hỏi bộc lộ những sắc thái cảm xúc.

Ví dụ 70

Tôi sung sướng nhận ra đôi mắt Dịu cháy sáng giữa sân ga nhốn nháo. Tôi muốn nhào đến ôm lấy

em. Nhưng câu hỏi của em đã bắt tôi khựng lại:

- Anh vào đây làm gì?

www.evan.vnexpress.net

(3) Biểu lộ thái độ ngỡ ngàng trước nhận định vừa tiếp nhận.

Ví dụ 71

- Chị chuẩn bị về được rồi! - Bà chủ lạnh lùng khi đưa tháng lương thứ hai mươi tư.- Hợp

đồng đã hết!

- Ơ! - Nền ngớ người trước lời tuyên bố - Tôi còn một năm nữa mà?

www.evan.vnexpress.net

(4) Bổ sung, lý giải những thông tin củng cố cho nhận định bác bỏ. Trong một số trường hợp,

người thực hiện hành động bác bỏ chỉ vay mượn hình thức đặc trưng của câu hỏi, nhưng nội

dung đơn thuần là một nhận định, lý giải cho việc bác bỏ của mình. Đó cũng là một cách

thức lập luận đơn giản, nhằm củng cố thêm ý kiến của mình.

Ví dụ 72

Chương Chảo không đỏ mặt, lão nhấc lồng dứ về phía Súc Hỷ:

- Thử cân xem, không đủ ba ki lù3, cho mày ngay.

- Việc gì phải cân, cáy tắc cho con trẻ nuôi chơi chứ ai ăn?

www.evan.vnexpress.net

2.2.3.3. Sắp xếp tổ chức ý lập luận

Đây là dạng thức kết hợp của các dạng thức trên. Người thực hiện bác bỏ, bằng cách sử

dụng các ý kiến lập luận, các lý lẽ theo một trật tự nhất định nhằm tạo sức nặng cho việc bác bỏ.

Có hai hướng lập luận chính được sử dụng khi thực hiện hành động bác bỏ: diễn dịch và

quy nạp. Với hướng diễn dịch, người nói sử dụng câu thể hiện ý bác bỏ trước, rồi đưa các dẫn chứng

chứng minh sau, ngược lại, với hướng quy nạp, người nói đưa lý lẽ, dẫn chứng theo hướng bác bỏ

trước, rồi sau đó mới đưa ra câu bác bỏ.

Ví dụ 73

- Tôi biết sửa xe, xây nhà, sửa máy tính, tôi còn có thể sơ cấp cứu rất giỏi. Tôi có ích cho

người dân ở đây, tại sao tôi lại phải về?

Trong ví dụ này, người viết đưa ra hàng loạt các lý lẽ chứng minh cho sự có ích và hữu

dụng của mình như “Tôi biết sửa xe, xây nhà, sửa máy tính”, “còn có thể sơ cấp cứu rất giỏi”, sau

đó mới đi tới kết luận bác bỏ việc người ta yêu cầu anh đi về. Đây chính là một cách thức lập luận

theo hướng quy nạp.

Trường hợp sau đây là cách tổ chức ý lập luận theo hướng diễn dịch.

Ví dụ 74

Nhiệm phẩy tay:

- Vậy thì chưa thể gọi là xáp lá cà được! Mày còn đang trong thời kì “đánh du kích”. Hôn em

theo kiểu của mày người ta gọi là “hôn lẻ tẻ”, nghĩa là thỉnh thỏang thừa cơ em không đề

phòng, mày chồm tới hôn đại một phát rồi rút liền.

Mẫn đỏ mặt:

- Tao không có hôn lén, mày! Tao hôn ít nhưng mà hôn đàng hoàng.

3 Cách gọi ký lô của người dân tộc miền núi.

(4-tr.48-49)

Nhân vật Nhiệm, để củng cố cho hành động bác bỏ, đã sử dụng những lý lẽ để minh hoạ cho

nhận định bác bỏ “chưa thể gọi là xáp lá cà được” bằng cách đưa ra những chi tiết chứng minh cho

tính chất “chưa thể” như sau: Mày còn đang trong thời kì “đánh du kích”. Hôn em theo kiểu của

mày người ta gọi là “hôn lẻ tẻ”, nghĩa là thỉnh thỏang thừa cơ em không đề phòng, mày chồm tới

hôn đại một phát rồi rút liền”.

Thông thường trong các văn bản hành chính, ở phạm vi quốc gia, quốc tế, trên các lĩnh vực

chính trị, ngoại giao…các ý lập luận trong bác bỏ được tính toán trước và sắp xếp một cách có chủ

đích để có thể đem lại hiệu quả bác bỏ cao nhất, lý lẽ lập luận kín kẻ và sắc bén nhất. Còn trong

giao tiếp hằng ngày, việc lựa chọn cách thức tổ chức ý thường mang tính vô thức, tức phụ thuộc vào

kỹ năng, đặc trưng tư duy, đặc trưng giao tiếp của từng cá nhân. Với những lượt lời liên tiếp nhau,

hầu như trước khi nói, người ta không thể suy nghĩ và xem xét việc mình sẽ lựa chọn cách thức tổ

chức ý nào. Do đó, nó đòi hỏi người giao tiếp, muốn thực hiện thành công lượt lời bác bỏ, cần có sự

rèn luyện lâu dài để đạt được những kỹ năng như mong muốn.

2.2.3.4. Đưa ra những đối chiếu

Đối chiếu chính là một trong những cách thức phát triển lý lẽ lập luận và tìm chứng cứ bác

bỏ. Trước khi thực hành thao tác này, người bác bỏ đã chọn lọc những thông tin so sánh có điểm

tương đồng về đặc tính, hoạt động, chu cảnh với nhận định chuẩn bị bác bỏ, nhưng có đặc tính, kết

quả, nguyên nhân, hoặc chiều phát triển, vận động khác với nhận định đó.

Ví dụ 75

- Những người tên Dịu thường hiền lành lắm con ạ.

- Ở lớp con có bạn tên Dịu mà hiền như…chằn tinh.

Ở ví dụ này, khi người mẹ đưa ra một nhận định, đứa con liên tưởng tới một đối tượng

tương đồng về tên, và từ điểm tương đồng này, cùng với hai tính cách khác nhau trong thực tế,

người con đã bác bỏ nhận định được cho là không chính xác của mẹ.

Những đối chiếu trong lập luận bác bỏ thường là những đối chiếu có tính chất liên tưởng, có

sự tương quan về hoàn cảnh nhiều hơn là sự tương đồng về những chi tiết đơn lẻ. Sự đối chiếu

không cần thông qua những từ ngữ chỉ dấu hiệu như như, cũng như, so với…mà thể hiện ngay trong

hình ảnh đối chiếu để làm nổi bật sự mâu thuẫn nội tại của hai đối tượng. Tuy nhiên, để sức mạnh

bác bỏ đạt hiệu quả cao nhất, người tham gia đối thoại thường sử dụng các từ ngữ lập luận có nội

dung liên kết các đối chiếu lại với nhau như cũng, lại, hơn v.v…

Ví dụ 76

Không dằn lòng được nữa, tôi chạy đi tìm nhỏ Kim Liên, cự nự:

- Bạn bỏ bài thơ của tôi đâu rồi? Sao chưa chịu đăng lên?

Nó đáp tỉnh khô:

- Bài đó không đăng được!

Tôi giận tái cả mặt:

- Sao không đang được? Bạn đừng ỷ mình phụ trách bản tin rồi muốn làm gì thì làm! Thơ của

Kim Hà dở ẹc bạn cũng dán lên, còn thơ của tôi đúng vần đúng luật thì lại không đăng! Rõ

ràng là bạn thiên vị!

Kim Liên phớt lờ sự kết tội của tôi, nó nói:

- Thơ của bạn đúng là hay hơn thơ của Kim Hà. Nhưng thơ của bạn đả kích cá nhân chứ

không phê bình tiến bộ, tôi nhất quyết không đăng!

(7-tr.124)

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có những cơ sở đối chiếu như sau:

(1) Đối chiếu sự tương đồng về ngữ cảnh. Cách đối chiếu này đặt người bị bác bỏ vào trong một

ngữ cảnh tương tự với ngữ cảnh của nhận định, nhưng lại nảy sinh ra hai hiện tượng khác

nhau, qua đó trực tiếp phản ánh sự bác bỏ.

Ví dụ 77

Quan tòa lập luận phản ánh lời biện hộ của bị cáo như sau:

- Bị cáo nói nhà nghèo không có tiền đi sinh nhật bạn nên đi cướp. Vậy tại sao có những bạn

đồng trang lứa, nhà cũng nghèo nhưng họ vẫn cố gắng vượt khó vươn lên, làm những công

việc chân chính để kiếm những đồng tiền chân chính, bị cáo lại vai dài sức rộng mà lại kiếm

tiền bằng con đường phi pháp.

(2) Đối chiếu sự tương đồng về hình thức. Để bác bỏ lại những nhận định mà nội dung thường là

người nói sử dụng những đặc trưng về hình thức để suy diễn ra kết quả nội dung, người thực

hiện hành động bác bỏ đã bác bỏ bằng cách đưa ra một đối tượng có hình thức tương tự

nhưng nội dung bên trong hoàn toàn khác nhau (Ví dụ 75). Qua đó, nhận định được nghe trở

nên vô giá trị về mặt hiện thực.

(3) Đối chiếu sự tương đồng về tính chất, hành động. Thao tác đối chiếu thường diễn ra giữa hai

sự vật, hiện tượng có chung một đặc tính, hoạt động nào đó tương đồng nhau. Đối tượng đối

chiếu là những đặc tính nằm trong nhận định của người tiếp nhận, còn đối tượng được đối

chiếu là nhận định mà người thực hiện hành động bác bỏ liên tưởng tới.

Ví dụ 78

- Lại hú?

- Ừ, muốn hát hay thì phải hú hay. Không hú được ngoài biển thì phải hú được trong lu.

Bá lừ mắt nhìn tôi:

- Nhưng mày không luyện giọng kiểu đó được.

Tôi ngạc nhiên:

- Sao vậy?

- Lu sẽ bể.

Tôi cười:

- Tao có trèo hẳn vô lu đâu mà lu bể. Tao đứng bên ngoài, chỉ có cái đầu là thò vô.

- Thì vậy! Tao có nói là mày trèo hẳn vô lu đâu. Chỉ cần mày thò đầu vô hú cái lu bể tan liền.

- Sao bể được?

- Sao không được! Giọng mày “êm” như lựu đạn nổ, lu nào chịu nổi.

(8-tr.166-167)

Trong đoạn hội thoại này, nhân vật tôi đã thực hiện nhiều sự liên tưởng đồng thời, từ việc

liên tưởng hoạt động hát của con người với hú của động vật, từ tính chất rất dở, chói tai của giọng

hát tới tiếng ồn ào của lựu đạn nổ…Chính việc đối chiếu đến những đối tượng có những phẩm chất

trái chiều với mong đợi của người tiếp nhận đã tạo nên hiệu quả bác bỏ của hành động.

Tiểu kết

Vấn đề lập luận và vấn đề lịch sự là hai vấn đề có liên quan mật thiết và hữu cơ tới các hành

động ngôn từ nói chung và đặc biệt với hành động bác bỏ. Người ta có thể sử dụng các yếu tố của

lập luận và từ ngữ thể hiện tính lịch sự để tác động làm thay đổi hình thức hoặc sắc thái của hành

động bác bỏ. Ngược lại, người ta cũng có thể thông qua hành động bác bỏ để thể hiện những lý lẽ

lập luận hay sắc thái lịch sự mà mình mong muốn truyền đạt.

Với một hành động mang tính nhạy cảm cao về thể diện như bác bỏ, việc đảm bảo và duy

trì mức độ lịch sự là yếu tố cần thiết để luôn giữ cuộc đối thoại tiến hành trong suôn sẻ, qua đó, giúp

người đối thoại tránh được những hệ quả tiêu cực có khả năng xảy ra trong quá trình phát sinh bất

đồng và giải quyết bất đồng. Một khi thể diện được giữ, người ta có xu hướng tham gia hội thoại với

thái độ nhã nhặn và tôn trọng đối phương nhiều hơn. Do đó, có thể có những bước lùi cần thiết để

giữ cho quá trình hội thoại phát triển theo chiều hướng có lợi cho cả hai. Lịch sự không đóng vai trò

trọng tâm quyết định hiệu lực của bác bỏ, nhưng nó là điều kiện đủ để hành động bác bỏ phát huy

được hiệu lực tối đa của mình. Lịch sự, nếu được tôn trọng, có thể thay thế một phần cho vai trò của

tư duy, lý lẽ trong bác bỏ, mặt khác, nếu không được tôn trọng, nó có thể làm vô hiệu hóa những

yếu tố tham gia vào hành động bác bỏ.

Lập luận không chỉ là cách thức bác bỏ thuyết phục người ta trực diện, mà còn có khả năng

thuyết phục sâu sắc từ trong tư tưởng, tâm tư. Một lập luận tốt sẽ làm cho hiệu lực bác bỏ trở nên

vĩnh viễn, ngược lại, một lập luận tồi hoặc không có lập luận có thể làm cho hiệu lực bác bỏ chỉ có

tính tạm thời trong thời gian đối thoại hoặc thời gian ngắn sau khoảng đối thoại đó mà thôi. Do lập

luận cũng là một thao tác suy ý, nên ở bất kỳ đâu có suy ý đều có sự xuất hiện của lập luận, dù đó là

một đoạn hội thoại phong phú về câu từ, hay có khi chỉ là một lời thoại rất ngắn ngủi.

Nhìn chung, vấn đề lịch sự và vấn đề lập luận cần phải được coi trọng và tính đến trong toàn

bộ quá trình diễn ngôn nói chung. Đặc biệt với những đặc trưng về giao tiếp của hành động bác bỏ

(mang tính đe dọa thể diện cao) người tham gia giao tiếp càng phải cẩn trọng và lựa chọn những

chiến thuật sử dụng lập luận và thể hiện tính lịch sự một cách khéo léo nhằm giúp cho giao tiếp đạt

được hiệu quả cao nhất.

Chương 3:

PHƯƠNG THỨC, PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN CỦA HÀNH

ĐỘNG BÁC BỎ TRONG TIẾNG VIỆT

3.1. PHƯƠNG THỨC BÁC BỎ TRONG TIẾNG VIỆT

Có người dựa hẳn vào vai trò của từng đối tượng trong mối quan hệ liên nhân để phân loại

bác bỏ, có người lại dựa vào hoàn cảnh giao tiếp. Trên cơ sở tham khảo các cách phân loại khác

nhau, đặc biệt là cách phân loại theo tiêu chí nội dung hội thoại của Nguyễn Đức Dân, chúng tôi bổ

sung thêm tiêu chí vai trò của hành động bác bỏ, và đưa ra kết quả phân loại.

3.1.1. Bác bỏ trực tiếp (bác bỏ thẳng thừng)

Đây là kiểu bác bỏ phổ biến nhất, rất hay gặp trong cuộc sống giao tiếp thường ngày, hay

xảy ra đối với những vấn đề có tính đơn giản, trực diện và ít động chạm đến thể diện hoặc không có

khả năng tạo ra những tình huống khó xử cho cả đôi bên tham gia cuộc thoại.

Ví dụ 79

- Thưa, hay con nghỉ buổi chợ để đi thay nhà con có được không ạ?

- Không! Phải là đàn ông kia. Chứ nữ nhân ngoại tộc, ai kể.

(20-tr.221)

Ví dụ 80

- Làng chúng cháu ở đằng kia, các thầy cho chúng cháu về, chứ còn lộn lại thì đi lối nào?

- Mặc kệ, lối này quan cấm.

(20-tr.221)

Khi thực hiện thao tác bác bỏ này, cả người nói lẫn người nghe không phải suy nghĩ nhiều

đến những yếu tố khác xung quanh câu nói, hành động bác bỏ thực tế là hành động khẳng định một

sự thực hiển nhiên mà đôi bên dễ dàng tự cảm thấy phải chấp nhận. Nội dung nhận định và nội dung

bác bỏ hầu như đều xuất phát từ yếu tố khách quan, từ quy ước sẵn có của cộng đồng, mặc nhiên

được cho là hợp lý và ít chịu sự tác động, thay đổi hoặc bị gây ra bởi cá nhân chủ thể tham gia đối

thoại. Do đó, bác bỏ là để tri nhận một thực tế mới, chứ không phải là việc phủ định, bài bác mang

tính cá nhân hay cái tôi.

Trong quá trình khảo sát dữ liệu, chúng tôi nhận thấy phương thức bác bỏ này thường rơi

vào những cặp nội dung tiêu biểu như yêu cầu sự cho phép - không được phép, đề xuất một lựa

chọn – không chấp nhận lựa chọn, đưa ra một thông tin khách quan về hiện thực – không chấp nhận

tính xác thực của thông tin… Đó là con đường của cặp giá trị biết và chưa biết, ở đó, người bác bỏ

và người tiếp nhận ít phải suy nghĩ đến những yếu tố gián tiếp như tâm trạng, thể diện hoặc phải đối

phó với những nhận định có tính chất phức tạp, đòi hỏi sự tập trung suy nghĩ hoặc phải yêu cầu lý

giải.

Có thể mô hình hóa một cách ngắn gọn dạng thức bác bỏ này theo một trình tự: người phát

ngôn đầu tiên đưa ra nhận định A, người nghe sử dụng những yếu tố ngôn ngữ hình thức để bác bỏ

A (~A). Hình thức ngôn từ của dạng thức này có thể là những từ phủ định như không, chẳng,

chưa… đi kèm với những từ biểu lộ tình thái khác hoặc những từ phủ định bác bỏ như đâu, nào và

các kết hợp như không phải…mà là...

3.1.2. Bác bỏ gián tiếp

Đây là trọng tâm chúng tôi muốn đề cập trong công trình nghiên cứu của mình. Chính sự

phong phú trong nội dung câu nói, sự đa dạng của những hành động tại lời và mượn lời mà bác bỏ

cũng bộc lộ nhiều phương thức đa dạng khác nhau.

3.1.2.1. Bác bỏ tiền giả định của câu

Mỗi một câu được nói ra để thông báo ít nhất một sự tình, cũng đều ẩn chứa ít nhất một tiền

giả định. Tiền giả định này tuy không phải khi nào cũng được chú ý, cũng là đích ngôn trung cần

hướng tới, nhưng luôn tồn tại như một sự ngầm hiểu cho cả đôi bên đối thoại. Do đó, hành động bác

bỏ trong giao tiếp, không thể tránh khỏi trường hợp bác bỏ tiền giả định của câu.

Ví dụ 81

Tôi hỏi:

- Thằng Hương đối với Huệ ra làm sao?

- Nó bé, đã biết quái gì.

(20-tr.394)

Thoạt nhìn qua, câu đối thoại đầu tiên có vẻ như một câu hỏi đơn thuần, một lời đề nghị

được biết thông tin mà không mang thông tin nhận định. Tuy nhiên, nhìn sâu dưới góc độ hàm ý,

chúng tôi phát hiện ra một nhận định. Nhân vật “tôi”, thông qua câu hỏi của mình, mặc nhiên coi

nhân vật “Hương” là một người đã biết suy nghĩ và cư xử. Người nói chuyện với nhân vật “tôi”,

thay vì đi thẳng vào câu trả lời, mà đã dùng ý phản bác lại: nó còn bé, mà con nít thường bị cho là

chưa biết gì nên mọi hành động luôn được bỏ qua, không bị để ý, chấp nhất, nên không thể tính đến

việc nó cư xử như thế nào với “Huệ”.

Ví dụ 82

- Nhà bà ở đâu?

- Tôi không có nhà, chỉ có chiếc thuyền ấy.

Khi người hỏi đưa ra câu hỏi, nghĩa là trong tâm trí họ mặc nhiên thừa nhận là bà này có

một nơi ở cố định ở đâu đó trên bờ, mặc dù người ta không biết nơi chốn ấy ở đâu. Câu đáp lại đã

trả lời câu hỏi bằng cách phủ nhận tiền giả định ấy của câu.

Bác bỏ tiền giả định thường mang lại cho người tiếp nhận hành động bác bỏ những yếu tố

bất ngờ, mới mẻ mà người ta chưa tiên đoán hoặc không nghĩ sẽ được nghe. Chúng tôi lý giải đặc

trưng này như sau. Phương thức bác bỏ tiền giả định có một đặc trưng là người nêu thường không

đưa ra bất kỳ một nhận định nào (chúng tôi không xem tiền giả định như là một kiểu nhận định).

Xem xét hai ví dụ trên đây, hai câu có hình thức hỏi đồng thời cũng mang nội dung hỏi. Do không

đưa ra nhận định, nên họ sẽ không tính đến chuyện mình sẽ bị bác bỏ, mà chỉ mong một câu trả lời

thống nhất với đích ngôn trung họ trình bày. Do đó, hành động bác bỏ nảy sinh, dù đúng hay sai

cũng sẽ là một hành động mà họ tiếp nhận trong tâm thế bất ngờ, không mong đợi.

3.1.2.2. Bác bỏ hàm ý

Cần phân biệt dạng nội dung bác bỏ này với bác bỏ tiền giả định. Cả hai nội dung bác bỏ

đều có tính chất ngầm, không được bộc lộ trực tiếp trên bề mặt câu, chữ. Tuy nhiên, chúng có sự

khác nhau về vai trò của tiền giả định trong hội thoại. Trong bác bỏ tiền giả định, nhận định của

người nói chính là tiền giả định. Còn trong bác bỏ hàm ý, nhận định của người nói chính là đích

ngôn trung mà người ta nhắm đến, tiền giả định không có liên quan gì đến việc bác bỏ ở đây.

Ví dụ 83

Bỗng Vũ vê hai ngón tay, hỏi:

- Mày còn thuốc lá không?

Lê mỉm mép:

- Tao cũng sắp hỏi mày câu ấy.

(20-tr.403)

Ở ví dụ này, nhân vật Vũ hỏi nhân vật Lê “Mày còn thuốc lá không?”. Tuy nhiên, thông

qua vốn tri nhận, cả hai người trong cuộc đối thoại và hầu hết mọi người đều nhận định được câu

hỏi dạng “Có/Không” này được xây dựng không phải để mong nhận được câu trả lời về mặt hiển

ngôn. Sự bất thường này xuất phát từ chính mục đích của câu hỏi. Người hỏi thông qua hình thức

hỏi, bộc lộ một hành động cầu khiến kiểu như anh còn thuốc thì cho tôi xin một điếu. Người được

hỏi, vì đã nhận thức rõ hàm ý của câu hỏi, nên đã thực hiện một hành động bác bỏ rất trực tiếp “Tao

cũng sắp hỏi mày câu ấy”. Thực ra, trong câu bác bỏ này cũng chứa đựng một hàm ý khác, không

phải để thông báo là nhân vật Lê sắp hỏi nhân vật Vũ, mà là Lê cũng sắp sửa xin Vũ điếu thuốc.

Không chỉ trong những trường hợp nhạy cảm, tế nhị người ta cần sử dụng hàm ý, mà có

những trường hợp ngược lại, người ta dùng hàm ý để làm nổi bật hơn nhận định, hay thái độ của

mình.

Ví dụ 84

Thấy Cóc cứ chõ vào nhà mình mà la. Trê đực quát hỏi:

- Này cái anh nhà kia, ở đâu đến mà to mồm thế?

- Tôi mất con thì tôi phải rao chứ!

(27-tr.10-11)

Mục đích của Trê không phải để hỏi lý do tại sao Cóc lại to mồm, mà chủ yếu để bày tỏ

hàm ý không đồng tình, phàn nàn, bực bội về thái độ của Cóc. Cóc đã bác bỏ hàm ý trong câu hỏi

đó bằng cách đưa ra một điều kiện tất yếu đã tạo thành một hành động tất yếu: “mất con” nên “phải

rao”.

Cách thức bác bỏ hàm ý và thông qua hàm ý là một thủ pháp tạo cho cuộc đối thoại nhiều

yếu tố bất ngờ và thú vị. Để tăng hiệu quả giao tiếp, thông thường hành động bác bỏ cũng được thể

hiện bằng hàm ý. Do đó, bác bỏ hàm ý bằng một hàm ý tạo cho cuộc hội thoại nhiều tính kịch và thú

vị. Thủ pháp này cũng hay được sử dụng trong các lời thoại, phim hoặc trong cuộc sống hằng ngày

kiểu như:

- Mày có tiền không cho tao vay?

- Tao cũng định hỏi mày câu đấy.

Những câu hỏi ở phần nêu của phương thức bác bỏ này khá giống với câu hỏi của phần nêu

đã được phân tích ở mục 3.1.2.1. Điểm khác nhau nằm ở chỗ, đây không phải là những dạng câu hỏi

đơn thuần mà là dạng câu hỏi hàm ý, nghĩa là hỏi không chỉ để hỏi. Do đó, tiêu điểm chú ý và tiêu

điểm gây bác bỏ sẽ không tập trung vào những từ để hỏi kiểu như “có…không?” hay “Ở đâu” như

ví dụ trên..

3.1.2.3. Bác bỏ không tuân theo luật suy diễn logic

Xem xét đoạn đối thoại sau.

Ví dụ 85

- Mẹ là mẹ của con mà.

- Tôi đúng là con của bà nhưng bà không phải là mẹ tôi.

Xét về nội dung của câu bác bỏ, có sự vi phạm nghiêm trọng về phương châm quan hệ. Mẹ

và con là cặp từ nằm trong mối quan hệ tương liên chặt chẽ, có tính nghịch đảo tuyệt đối. A là con B

thì B nhất định phải là bố hoặc mẹ của B. Tuy nhiên, ở đây, tự bản thân người dùng hành động bác

bỏ, đã gây sự mâu thuẫn về mặt ý hiển ngôn trong cùng một câu, mà thực chất, lại hợp lý khi hiểu

theo nghĩa hàm ý. Có thể phân tách câu bác bỏ như sau:

Tôi đúng là con của bà | nhưng bà không phải là mẹ tôi.

Hiển ngôn | Hàm ý

Quan hệ ruột thịt về mặt huyết thống | Quan hệ đạo đức về mặt hành động

Chúng tôi xếp những câu dạng này tách riêng ra khỏi dạng bác bỏ hàm ý, bởi lẽ câu nói của

người mẹ chưa có một cơ sở nào chắc chắn để nói rằng trong đó chứa hàm ý. Bởi vì khi thông báo

“Mẹ là mẹ của con” chúng ta chỉ thấy được mối quan hệ ruột thịt, còn bản chất cung cách cư xử,

tình cảm không được biểu hiện rõ ràng. Do đó, sự bác bỏ phản logic thông thường ở đây có một sắc

thái biểu cảm và mức độ bác bỏ rất cao.

Ví dụ 86

Nó lại vẽ hai tam giác khác:

- Bây giờ hai tam giác này bằng nhau không?

Lần này tôi thấy có thêm một góc bằng nhau, liền hí hửng:

- Bằng chớ.

- Bằng là mày bằng đó! Ngồi không chịu nghe gì hết!

(6-tr.156)

Ở ví dụ này, tuy người thực hiện hành động bác bỏ nói ra một câu phi nghĩa “Bằng là mày

bằng đó” nhưng không có ai trong cuộc đối thoại vặn hỏi về tính chất phi nghĩa này, bởi vì đích

ngôn trung duy nhất được nhắm tới và được tất cả mọi người tập trung, tri nhận, đó là thông qua câu

phi nghĩa này để bác bỏ một nhận định vô lý. Thông thường, sự tham gia của yếu tố phi logic trong

bác bỏ có xu hướng tỷ lệ thuận với sắc thái cảm xúc của người thực hiện bác bỏ: khi cảm xúc ở mức

cực cấp, sự tham gia của các yếu tố phi logic càng phổ biến và ngược lại.

3.1.2.4. Bác bỏ bổ sung thông tin

Thông qua các thông tin thêm vào, nêu lý do bất khả kháng, hoặc mong sự thông cảm, đồng

tình. Những thông tin thêm là những thông tin mà người nghe trước đó không mong đợi hay có nhu

cầu được nghe, người nói cũng nói không nhắm vào đích yêu cầu của người đưa ra nhận định.

Ví dụ 87

- Ba cho con tiền đi chơi với bạn.

- Mẹ mày lại bệnh rồi, không biết lo tiền thuốc thang sao đây.

Ở ví dụ này, người cha thay vì trả lời câu hỏi của con, đã đưa ra một thông tin có tính chất

không liên quan, nảy sinh trong ý nghĩ nhưng lại bổ sung rất chặt chẽ cho hành động bác bỏ không

cho tiền đi chơi của ông.

Tuy nhiên, có một số trường hợp, thông tin thêm vào chưa chắc đã gián tiếp bác bỏ nhận

định, mà chỉ thông báo được tính chất nước đôi của người đưa thông tin.

Ví dụ 88

MR: Mai bà lại nhà tui học nhóm lúc 8 giờ sáng nha.

AD: Chết cha, trùng lịch.

MR: Lịch gì?

AD: Lịch…ngủ của tui.”

(Hoa học trò kỳ 834)

Ở ví dụ này, khi AD kêu “Chết cha, trùng lịch” thì điều đó chưa chắc giúp xác định đó là

một sự bác bỏ lời đề nghị họp nhóm hay không. Vì đó có thể là một cái cớ thoái thác của AD,

nhưng cũng có thể là một hoàn cảnh thực tế AD đang mắc phải và chưa biết xử lý ra sao.

3.1.2.5. Bác bỏ tiên đoán sự tình

Chiến lược này thường là thông báo trước cho người nghe những hậu quả không tốt có thể

xảy ra. Do đó, theo tâm lý thông thường, trước một sự tình có tính đe dọa nghiêm trọng đến thể

diện, thân thể hay một khía cạnh nào đó liên quan đến bản thân, thì điều đó ngầm sẽ giúp chúng ta

mặc nhiên hiểu nội dung thông báo kia chính là một cách thức bác bỏ. Người thực hiện hành động

bác bỏ tuy không trực tiếp nói ra sự bác bỏ, mà đặt người tiếp nhận vào tình huống bị thuyết phục

phải đồng tình theo sự bác bỏ đó.

Ví dụ 89

- Anh mở cửa cho anh ấy đi.

- Mở mà đi tù cả lũ à?

Người trả lời đã không thể hiện trực tiếp sự đáp ứng hay không đáp ứng mong muốn của

người đưa ra đề nghị, tuy nhiên, tạo ra một ngữ cảnh tồi tệ, một giả định rất xấu có thể là hệ quả nếu

đáp ứng yêu cầu, người trả lời đã mặc nhiên bác bỏ lời đề nghị.

3.1.2.6. Bác bỏ bằng các giả định

Cách bác bỏ này thường là hình thức bác bỏ tạm thời, hoặc điều đình, thể hiện sự day dứt,

miễn cưỡng khi thực hiện hành động phát ngôn. Lời bác bỏ này thường có hàm ý sẽ không lặp lại

trong tương lai nữa, hoặc nếu có, thì sẽ kèm theo một hành động đền bù tương xứng. Mặc dù “lời

hứa” có thể thật hay không thật trong tương lai thì đây cũng là cách bác bỏ thể hiện rõ nhất thiện chí

của người bác bỏ, làm mềm đi yếu tố bác bỏ và ít gây khó chịu cho người nghe nhất.

Giả định càng tách rời thực tế bao nhiêu, thì mức độ bác bỏ càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Cấu

trúc hay được sử dụng là “Nếu + một hành động xấu xa -> Thì + tự ví mình với hình ảnh xấu xa.

Do hệ quả (Thì…) là một điều gần như không thể xảy ra, phi thực tế, nên người nói gián tiếp phủ

nhận bác bỏ tính hiện thực của mệnh đề được nêu trong “Nếu…”.

Ví dụ 90

Giám đốc nói với nhân viên:

- Người ta nói anh đang lén lút tham ô tài sản công ty phải không?

- Nếu em mà làm cái việc xấu xa đó thì em là con chó.

Nhân viên đã bác bỏ lời của giám đốc bằng một giả định rất phi thực tế (em là con chó).

Người là người, không thể nào biến thành chó được, do đó, thái độ bác bỏ ở đây rất quyết liệt, gần

như lên đến tuyệt đối với mức độ tỷ lệ thuận với tính “phi thực tế” trong giả định của anh nhân viên.

3.1.2.7. Bác bỏ hành động

Đây là hiện tượng đặc biệt nhất của hình thức bác bỏ, nhưng không phải là hiện tượng hiếm

gặp. Người ta sử dụng những hình thức ngôn ngữ để bác bỏ những hành động phi ngôn ngữ nhưng

tham gia trực tiếp vào trong hội thoại. Những hành động này tuy không được nói thông qua lớp vỏ

vật chất là âm thanh, nhưng dễ dàng được đọc hiểu bằng điệu bộ, cử chỉ, nét mặt.

Ví dụ 91

Sự vui vẻ rộn lên; Draco Malfoy hoảng sợ nhìn sang cha nó, còn ông ta đang dán mắt xuống tà áo

chùng của mình, rồi quay sang bắt gặp ánh mắt của mẹ nó. Bà ta khẽ lắc đầu, rồi gương mặt bà lại

vô hồn nhìn chằm chặp lên bức tường đối diện.

- Đủ rồi. Voldemort nói, vuốt ve con rắn đang giận dữ. Đủ rồi!

Tiếng cười nhạo im bặt ngay lập tức.

(19-tr.18)

Ở ví dụ này, một thực tế diễn ra là mọi người đang rất vui vẻ nói cười, nhộn nhạo. Điều này

làm cho Voldemort cảm thấy bất bình, giận giữ, do đó ông đã có cách phản ứng lại rất nặng nề và

dứt khoát “Đủ rồi!”. Để bác bỏ một hành động, người ta có thể dùng từ ngữ biểu thị như trên, cũng

có thể dùng chính hành động để bác bỏ hành động. Chẳng hạn, một học sinh cứ quay lên quay

xuống và cười mỉm một cách thích thú và không tập trung vào bài học, cô giáo có thể bác bỏ hành

động này của em bằng cách nói “Tập trung vào bài học cho cô” chẳng hạn. Khi đó, em học sinh sẽ

hiểu thông điệp cô muốn hướng đến bác bỏ chính là thái độ không tập trung trong học tập của mình.

Chúng tôi nhận thấy trong hành động bác bỏ, vai thực hiện bác bỏ và vai bị bác bỏ có sự

luân phiên thực hiện hành động phi ngôn ngữ tùy theo từng ngữ cảnh cụ thể. Vấn đề bác bỏ bằng

hình thức phi ngôn ngữ, tức cử chỉ và điệu bộ sẽ được chúng tôi phân tích ở phần 3.2.7 bên dưới. Ở

đây, chúng tôi chỉ đề cập đến nội dung bác bỏ, đó là kiểu nội dung phi ngôn ngữ, nội dung thực hiện

qua hành động cử chỉ. Thường những nội dung này không mang tính thông điệp mà là những hành

động đơn giản, những tín hiệu, dấu hiệu để dự báo về một thực tế nào đó. Thông qua thực tế đó,

người tiếp nhận sẽ dùng ngôn ngữ để bác bỏ.

Do tính chất của nhận định, những cuộc đối thoại có chứa hành động bác bỏ kiểu này

thường diễn ra ngắn gọn, với lượt lời đơn của mỗi bên. Vì vấn đề cần bác bỏ có tính phi ngôn ngữ,

đơn giản, nên những yếu tố như lý lẽ, dẫn chứng hầu như không xuất hiện trong nội dung bác bỏ

này.

3.1.2.8. Bác bỏ nửa vời

Chúng tôi gọi là nửa vời vì tự bản thân hành động bác bỏ đã tồn tại hai thái cực nghịch

chiều lẫn nhau: khẳng định và phủ định. Mức độ bác bỏ cũng làm cho người ta băn khoăn, và hoài

nghi về cái gọi là thái độ bác bỏ của người nói.

Ví dụ 92

Viên y tá hỏi:

- Cha em là ai?

Cậu nói tên cha.

Viên y tá không nhớ tên ấy và hỏi:

- Có phải ông thợ già ở ngoại quốc mới về không?

Cậu đáp:

- “Thợ” thì phải, nhưng không “già”. Cha tôi mới ở Pháp về.

(46-tr.120)

Câu đáp lại của chàng trai có thể chia ra làm hai phần, một mặt anh ta đồng ý với một phần

của nhận định, mặt kia lại phủ nhận phần khác của nhận định ấy. Do đó, trong toàn bộ câu, rất khó

để xác định nó nghiêng về phía bên nào. Tư thế lưỡng phân của nó đã khiến chúng tôi sắp xếp nó

vào thành một loại riêng biệt.

Xét về đích ngôn trung, những câu bác bỏ nửa vời này có xu hướng của một câu hồi đáp

đính chính thông tin nhiều hơn là câu bác bỏ. Nói cách khác, nội dung bác bỏ có tính nửa vời, và

không quá quan trọng so với toàn bộ nội dung thông tin của đoạn đối thoại.

Người ta hay gọi những hành động bác bỏ này là hành động bắt bẻ. Dạng hành động này

cũng nằm trong nhóm có nguy cơ gây tổn hại thể diện cho người tiếp nhận.

3.1.2.9. Bác bỏ bằng cách tạo ra lựa chọn

Trong trường hợp này, người tham gia bác bỏ, thay vì đơn thuần phản đối yêu cầu hay đề

nghị được nghe, họ sẽ đưa ra thêm một lựa chọn khác mà việc mong muốn thực hiện lựa chọn này

chính là một cách thức thực hiện hành động bác bỏ.

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy người thực hiện hành động bác bỏ thường

tạo ra sự lựa chọn với hai mục đích khác nhau, có phần đối lập nhau như sau:

(1) Tạo lựa chọn tích cực

Hướng bác bỏ mang tính xây dựng, bác bỏ ý kiến trước đó bằng cách đưa ra ý kiến thay thế

tốt hơn cho người nêu trên cơ sở quan tâm đến thể diện, lợi ích của người nêu. Chúng tôi cũng gọi

đây là hành động bác bỏ tích cực. Có lẽ đây là dạng thức bác bỏ độc đáo và hiếm hoi làm cho người

bị bác bỏ không cảm thấy mình bị đe dọa về thể diện và lòng tự trọng. Xuất phát điểm của dạng

thức này là người thực hiện hành động bác bỏ biết quan tâm, lắng nghe và thấu hiểu quyền lợi cũng

như mong muốn của người bị bác bỏ.

Ví dụ 93

- Tại sao bà không cho tôi uống đường!- Ông hỏi bà, giọng vòi vĩnh như đứa trẻ được nuông

chiều. Bà tôi trả lời dịu dàng, nhưng quả quyết:

- Ông uống với mật ong tốt hơn!

(32-tr.87)

Ở đoạn hội thoại này, thông qua hình thức câu hỏi, nhân vật người ông yêu cầu được uống

đường. Người vợ đã bác bỏ yêu cầu đó của ông ta bằng một lựa chọn khác, vừa đảm bảo được mong

muốn về sở thích, vừa đảm bảo được yêu cầu về sức khoẻ, đó là “uống với mật ong tốt hơn”.

(2) Tạo lựa chọn tiêu cực

Chúng tôi coi đây là những bác bỏ đe dọa, vì ngược với dạng thức trên đây, sự lựa chọn

được đặt ra với những yêu cầu khắt khe và đe dọa nghiêm trọng tới thể diện, quyền lợi cũng như

mong muốn của người nêu.

Ví dụ 94

Con tin: Thả tôi ra đi.

Kẻ bắt cóc: Cô có im miệng ngay không hay là muốn chết?

Ở dạng thức bác bỏ này, hình thức hội thoại luôn luôn mâu thuẫn với mục đích hội thoại. Cụ

thể trong ví dụ trên đây, hình thức là một câu thoại có lựa chọn (A hay B), nhưng đích ngôn trung

luôn duy nhất là A. Cơ hội thứ hai, chỉ là một cơ hội đặt ra cho có, và có tác dụng làm tăng sức ép

để lựa chọn A, vì chọn B là một kết thúc thiệt hại nhất cho người bị bác bỏ.

3.2. CÁC PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ TIẾNG VIỆT

Do tính chất của bác bỏ là phản bác lại một khía cạnh nào đó trong ý kiến của người khác,

do đó có khả năng dễ làm tổn thương tới quyền lợi hoặc thể diện, hoặc biểu hiện sự đe dọa tới người

khác. Chính vì thế, hành động bác bỏ không chỉ đòi hỏi sự tính toán khôn ngoan trong toàn bộ quá

trình giao tiếp mà còn đòi hỏi sự tinh tế, nhã nhặn trong cách xử lý lớp vỏ vật chất ngôn ngữ.

3.2.1. Dùng phụ từ hoặc những kết hợp phụ từ, quan hệ từ có thể tạo nghĩa bác bỏ

Các phụ từ như đâu, nào, chả hoặc các kết hợp như không phải là, không phải…mà là.., chả

phải, chả dại... là những hình thức tạo bác bỏ phổ biến nhất trong hội thoại. Trong hội thoại, các từ,

ngữ này thường có cùng ý nghĩa phủ định như không, chẳng…trong câu phủ định miêu tả, nhưng

khi được sử dụng trong hội thoại, chúng là những dấu hiệu để nhận biết câu bác bỏ. Nguyên do xuất

phát từ ý nghĩa tình thái và môi trường xuất hiện của các từ này: chỉ có mặt trong các hội thoại.

Ví dụ 95

Tiểu Long chỉ sực tỉnh khi Quý ròm huých khuỷu tay vào hông nó, tặc lưỡi hỏi:

- Bộ khùng hả mày?

- Tao có làm gì đâu! – Tiểu Long ấp úng.

(9-tr.6-7)

Trong môi trường hội thoại này, các từ, ngữ không chỉ đơn thuần mang nghĩa phủ định mà

trong một số trường hợp, còn góp phần tạo nên sắc thái ý nghĩa cho câu đối thoại. Có những từ ngữ

chỉ dùng được trong ngôn cảnh hội thoại đời thường, giữa những cá nhân có mối quan hệ thân mật,

suồng sã mà không thể dùng trong các ngôn cảnh mang tính trang trọng, hành chính.

Ví dụ 96

- Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa

nó!

Tôi an ủi lão:

- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu đâu!

(17-tr.95)

3.2.2. Dùng các thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ, châm ngôn

Đây là cách bác bỏ mà chúng tôi cho rằng mang đậm đặc trưng tri nhận và đặc trưng ngôn

ngữ dân tộc nhất. Bởi những cụm từ cố định như thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ, châm ngôn là vốn

liếng ngôn ngữ được tích lũy và truyền từ đời này sang đời khác, nó có sự khởi nguồn và thắm

đượm cách cảm, cách nghĩ, cách thể hiện của dân tộc đó. Bản thân các cụm từ này cũng phần nào

chứa đựng cả những ý nghĩa biểu thị về mối quan hệ, về phong cách nói năng của các cộng đồng sử

dụng ngôn ngữ.

Ví dụ 97

- Tao cho mày cái sào đã dính nhựa mít rồi.

Thằng Mến lại lắc đầu:

- Chả dại.

(20-tr.430)

Câu bác bỏ của Mến làm cho ta liên tưởng ngay đến mối quan hệ tương liên giữa hai đối

tượng này: thân mật, suồng sã và không có yếu tố trang trọng, nghi thức chi phối.

Chúng tôi nhận thấy, đa phần các hành động bác bỏ thông qua hình thức này đều nằm trong

những cuộc đối thoại mang tính phổ thông, dân dã. Điều này cũng dễ dàng lý giải. Thứ nhất, ngôn

ngữ đối thoại là thứ ngôn ngữ phong phú, uyển chuyển và thể hiện tính nhân dân nhất. Nó không

chịu bó buộc, khuôn mẫu bởi bất cứ phong cách nói năng nào. Do đó, nó dễ dàng sử dụng nhiều vốn

từ đa dạng mà nó thu nhận được. Thứ hai, bản thân môi trường sử dụng ngôn ngữ quy định cách

thức lựa chọn chất lượng ngôn ngữ. Đó là lý do vì sao trong những ngữ cảnh càng hành chính,

nghiêm túc, trịnh trọng càng đòi hỏi sự rõ ràng, khúc chiết, đơn nghĩa và hầu như ít sử dụng thành

ngữ, tục ngữ. Lý do thứ ba xuất phát từ đặc trưng của các cụm từ này. Đó là những cụm cố định có

chứa nhiều yếu tố tỉnh lược, dễ dàng tri nhận với những đối tượng trong cùng cộng đồng nhưng lại

không dễ tri nhận với người ở ngoài cộng đồng đó, do đó, nó làm hạn chế khả năng phổ biến ra

những ngữ cảnh lớn khác.

Ví dụ 98

Bố: Thằng Linh xin được việc làm ở Sở rồi đấy.

Con: Con ông cháu cha mà bố.

Nếu một người nước ngoài chưa được học tiếng Việt, chưa được lý giải về cụm từ cố định

“con ông cháu cha”, người ta sẽ không hiểu tại sao đứa con lại nói vậy với bố mình. Dù có hiểu ở

bề mặt ngôn ngữ, người ta cũng sẽ thắc mắc tại sao con lại là con ông, cháu là là cháu cha trong khi

quan hệ tương hỗ phổ biến là con-cha, cháu-ông.

Trong kho tàng ngôn ngữ Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có không ít đoạn hội thoại mượn

hình thức tục ngữ, thành ngữ, châm ngôn… để tạo lập hành động bác bỏ.

Ví dụ 99

- Ông chủ nhà mày có vẻ tốt nhỉ.

- Ôi dào, lão ấy là người vắt cổ chày ra nước đấy.

Phương thức này góp phần làm phong phú hoạt động giao tiếp, diễn tả tinh tế hơn sắc thái

hiện thực và thể hiện rõ nét hơn tâm tư, tình cảm của người thực hiện hành động bác bỏ. Do trạng

thái tình cảm tiêu cực hay tích cực đã được phản ánh khá rõ nét trong bản thân các cụm từ cố định

này, nên trong một số trường hợp, chỉ bản thân thông báo được tạo nên từ yếu tố vật chất này cũng

đã mang ý nghĩa bác bỏ, mà không cần thêm một yếu tố ngôn ngữ nào khác.

3.2.3. Dùng các liên từ, từ ngữ tình thái, cảm thán

Trong hệ thống từ vựng, các liên từ là lớp từ chiếm số lượng rất khiêm tốn, chúng đóng vai

trò như một thứ “nhựa” gắn kết các yếu tố của phát ngôn lại với nhau, nhằm biểu đạt một sắc thái ý

nghĩa nào đó. Ngoài ra còn có những trợ từ, thán từ mang ý nghĩa tình thái có khả năng tạo các sắc

thái nghĩa tình thái cho câu.

Hệ thống các loại từ này thường hay được sử dụng trong hội thoại đời thường, không được

phổ biến trong môi trường giao tiếp hành chính, công vụ. Khi được sử dụng như một yếu tố cấu

thành nên hành động bác bỏ, nó có tác dụng gia tăng hiệu quả cho hành động bác bỏ đó.

Ví dụ 100

Hoàng Việt: - Sau một năm tìm hiểu và củng cố lại xí nghiệp, hôm nay mùng 1 tháng 2 năm 1980,

chúng tôi sẽ trình bày với các đồng chí kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới của xí

nghiệp. Người trực tiếp soạn thảo phương án là kĩ sư Lê Sơn. Đồng chí Sơn trình bày đi!

Lê Sơn (ngần ngại): Tôi ư?... Nhưng tôi tưởng…đây chỉ là đề án tôi trình bày riêng với anh, bởi

trên thực tế…không thực hiện được…

(42-tr.56)

Ví dụ 101

Thủy Tiên vẫn hồn nhiên:

- Kẹo sinh nhật của em đó! Em nhờ Thường…mua giùm!

Đến đây, Đạt như không nén nối. Anh kêu lên:

- Trời ơi, ai lại đãi sinh nhật bằng thứ kẹo xoàng xĩnh này! Em có điên không?

(11-tr.156-157)

Những ví dụ trên đây có sự tham gia của những liên từ như nhưng; từ, ngữ chỉ tình thái,

cảm thán như “Trời ơi, những, cả, còn gì, ư” làm gia tăng mức độ sửng sốt và bất ngờ của các nhân

vật phát ngôn, qua đó kéo theo sự gia tăng mức độ phản đối những thông tin vừa được tiếp nhận.

Không phải tất cả các liên từ đều có thể tham gia vào hành động bác bỏ. Chỉ những liên từ

phản ánh các quan hệ đối lập nhau mới được lựa chọn. Ở đó, liên từ sẽ đảm nhận vai trò chuyển tải

quan hệ đối lập giữa nhận định được nêu và một nhận định khác trái chiều và gián tiếp thực thi hành

động bác bỏ.

Ví dụ 102

Laica hất đầu:

- Canh đúng lúc ông bà chủ ngồi vào bàn ăn, mày chồm lên chân họ. Thế nào mày cũng được

một món gì đó.

Nói xong, Laica chồm hai chân lên chiếc ghế trống và ngoái đầu nhìn tôi:

- Như thế này này.

Tôi ngờ vực:

- Nhưng tao đã thấy mày làm thế bao giờ đâu. Thậm chí đến nhà tao, mày không hề nhúng

mõm vào một món nào.

(12-tr.63)

Đây là cuộc đối thoại đã được nhân hóa của hai chú chó. Từ “nhưng” đã kết nối hai lượt lời

kế nhau lại với nhau, thành một thông báo có quan hệ mâu thuẫn, nghịch chiều. Chính sự mâu thuẫn

này đã biến đổi vế sau của thông báo (tức lời nhân vật tôi) thành một câu bác bỏ

3.2.4. Dùng hình thức câu nghi vấn

Hiện tượng hỏi lại thường xuất phát từ nhiều nguyên nhân: người ta không nghe rõ câu hỏi;

không hiểu câu hỏi; hỏi để trì hoãn thời gian tìm câu trả lời… Vấn đề đặt ra với chúng tôi là làm thế

nào phân định dạng hỏi lại nào là dùng để bác bỏ, dạng hỏi lại nào dùng đơn thuần để tìm kiếm

thông tin.

So sánh hai ví dụ sau đây.

Ví dụ 103

Nguyễn lay Lê:

- Dậy, mồng một Tết rồi! Mười giờ rồi! Dậy mà ăn cái Tết tinh thần với đời!

Bị động mạnh, Lê cựa. Anh nhăn nhó cái mặt ngái ngủ, ngóc cổ lên, nhìn nhà cửa, nhìn bạn bè,

nhìn xung quanh. Rồi không biết nghĩ thế nào, anh lại nằm xuống, kéo chăn kín gáy, đáp:

- Ăn Tết tinh thần là cái cóc khô gì, chúng mày?

(20-tr.414)

Ví dụ 104

Mẹ: Sáng nay con đã xay gạo rồi phải không?

Con: Mẹ nói xay gạo khi nào hả mẹ?

Câu hỏi vặn này đã làm một hành động bác bỏ song song vào 2 sự vật, hành động dựa theo

nghĩa biểu đạt của câu đề nghị. Câu của Nguyễn có những nội dung như sau:

(1) Nguyễn cho rằng có tồn tại một cái Tết tinh thần (cái Tết không cần đến những hình

thức đặc trưng về vật chất như gạo nếp, bánh chưng, pháo nổ v.v…)

(2) Nguyễn muốn Lê dậy để đón “Tết tinh thần” cùng Nguyễn.

Hành động bác bỏ song song tương ứng thông qua một câu hỏi của Lê:

Bác bỏ 1: Hỏi vặn Tết tinh thần là gì -> gián tiếp phủ nhận không có cái tết nào là Tết tinh thần cả,

họ đang sống mà không có Tết (thể hiện cực cấp qua cụm từ “là cái cóc khô gì”)

Bác bỏ 2: Là hệ quả của bác bỏ thứ nhất, vì Lê bác bỏ “Tết tinh thần”, nên bác bỏ luôn hành động

đón Tết.

Trong khi đó, câu hỏi vặn ở ví dụ hai không phải là một câu bác bỏ, mà chỉ là một yêu cầu

thông tin đơn thuần. Mặc dù thực tế khi hỏi câu hỏi, người con chưa xay gạo, nhưng mục đích chính

không phải là anh ta phủ nhận điều đó, mà đưa ra một dấu hiệu nghi vấn là anh ta chưa nghe mẹ dặn

như vậy.

Trần Trọng Kim trong tài liệu “Việt Nam văn phạm” (bản in lần thứ 8, mục 5) cũng nói rõ

“những câu theo hình thức nghi vấn chính là những câu phủ định rất mạnh”. Trương Văn Chình,

Nguyễn Hiến Lê cũng đồng tình và cho các từ như sao, nào, đâu là “những phó từ ý kiến, vừa diễn

tả ý kiến, vừa diễn tả ý phủ định”. Ý kiến của các tác giả khác cũng có nhiều điểm tương đồng như

vậy.

3.2.5. Dùng các cặp từ trái nghĩa

Đây là hình thức bác bỏ khá đơn giản, và thường bắt gặp trong tình huống có nội dung đơn

giản, không cần nhiều sự lý giải. Ở hình thức này, người thực hiện hành động bác bỏ sẽ sử dụng các

từ ngữ có ý nghĩa trái chiều với đặc tính, nhận định được nêu để tạo thành câu bác bỏ. Đặc biệt

trong các cuộc đối thoại của trẻ con, chúng ta thấy hay xuất hiện phương thức bác bỏ này.

Ví dụ 105

Hai đứa bé nói chuyện với nhau

Con búp bê của tớ đẹp. X:

Y: Xấu

Đẹp X:

Xấu Y:

Những câu chuyện theo kiểu này có thể tiếp diễn đến vô chừng, và có khi cả buổi, và chỉ bị

ngắt quãng do yêu tố ngoại cảnh tác động. Ví dụ, bố mẹ gọi về nhà, ví như em bé kia chịu thua vì

em này nói to quá, nhanh quá… Hạn chế của hình thức này là hiệu quả bác bỏ không cao, người

tham gia mất nhiều thời gian, công sức nhưng lại khó bảo vệ được chính kiến của mình. Do đó, trẻ

con hay sử dụng nó vì tính đơn giản, dễ dàng mà không cần quan tâm đến mặt hạn chế của nó, đồng

thời mặt hạn chế này cũng không ảnh hưởng gì đến toàn bộ quá trình diễn ngôn của chúng.

Yếu tố trái nghĩa được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả trái nghĩa thang độ, trái nghĩa

lưỡng phân, trái nghĩa nghịch đảo…

Ví dụ 106

Hai đứa trẻ giành nhau đồ chơi

X: Của anh chứ.

Y: Của em chứ.

Đặc trưng của dạng bác bỏ này là sự phong phú của số lần bác bỏ, và sự giản tiện của những

chứng cứ xác thực. Đích ngôn trung được hướng đến ở đây cũng không nhằm bác bỏ ý kiến của

người mà chủ yếu là bảo vệ ý kiến của mình.

3.2.6. Dùng từ ngữ so sánh

Trong hành động bác bỏ, đôi khi người ta không cần sử dụng các từ trực tiếp bác bỏ, biểu lộ

thái độ bác bỏ mà có thể sử dụng hàm ý bác bỏ. Trong một số trường hợp, sức mạnh bác bỏ của

hàm ý còn lớn hơn nhiều so với các hình thức bác bỏ khác, làm sáng rõ hơn nguyên do của việc bác

bỏ. Sử dụng phương thức so sánh cũng là một hình thức bác bỏ bằng con đường của hàm ý.

So sánh thể hiện ở hai bình diện. Đó có thể là thao tác so sánh hiển ngôn, trong đó nổi rõ lên

cả đối tượng so sánh và đối tượng được so sánh.

Ví dụ 107

A: Ông còn khỏe mà.

B: Tôi như ngọn đèn lay lắt trước gió rồi.

Trong đoạn đối thoại này, cả hình ảnh so sánh và hình ảnh được so sánh đều được biểu hiện

rõ và liên kết với nhau thông qua từ chỉ so sánh “như”. Việc đưa một hình ảnh so sánh có những đặc

tính trái ngược với đặc tính được mong đợi (hoặc vốn có) của hình ảnh được so sánh sẽ tạo cơ sở

biểu hiện cho hành động bác bỏ. Đích ngôn trung của nhân vật B là muốn khẳng định sức khỏe đã

kém rồi, do đó, gián tiếp bác bỏ nhận định của A khi A cho rằng B vẫn còn khỏe lắm.

Đó cũng có thể là so sánh ngầm, tức sự tương ứng được thiết lập ngầm giữa hai đối tượng

và được hai bên tham gia đối thoại tri nhận mà không có sự tham gia của các từ trực tiếp chỉ sự so

sánh.

Ví dụ 108

A: Nó thật quá đáng, tôi sẽ cho nó một trận.

B: Châu chấu mà đòi đá voi.

Ở ví dụ này, dường như câu trả lời của B có vẻ không liên quan gì tới nhận định mà A đưa

ra. Chiếu trên góc nhìn từ ngữ, câu hỏi và câu đáp không có sự tương ứng đồng thanh. Sự thống

nhất chỉ xảy ra khi đích ngôn trung của câu đáp được nhìn dưới góc độ hàm ý. Với vốn tri nhận

ngôn ngữ tiếng Việt cùng với trạng thái song song của hai sự tình được nêu trong cặp đối thoại,

người nghe sẽ buộc phải tạo nên một cặp liên tưởng song song: Nó-voi và Tôi-châu chấu. Sự liên

tưởng song hành, cùng với những từ ngữ phủ định phụ trợ như từ “mà” sẽ làm rõ nghĩa hàm ý và

hiện thực hóa dạng thức bác bỏ trong đối thoại.

3.2.7. Dùng ngữ điệu

Chúng tôi quyết định xem đây là một hình thức phản ánh bác bỏ riêng biệt, vì nó mang

những đặc trưng riêng không giống với những hình thức bác bỏ khác. Thứ nhất, nó mang hình thức

của một câu “phi bác bỏ”, tức một câu đồng tình. Thứ hai, nó không dùng các từ trực tiếp, gián tiếp,

liên tưởng tương ứng, nghịch chiều… để thể hiện sự bác bỏ. Thứ ba: nó mượn những yếu tố vật chất

của ngôn ngữ để bộc lộ ý đồ của mình và không cần phải có thêm sự tham gia của các yếu tố cử chỉ,

nét mặt, do đó, không thể xếp nó vào cùng dạng với phương thức cử chỉ.

Bản thân ngữ điệu trong tiếng Việt cũng có ý nghĩa riêng. Khi kéo dài bộ phận cuối của một

từ mang tính chất tích cực (có lợi, làm cho người nghe sung sướng, thích được nghe, thích đặc tính

đó được gán cho bản thân như xinh, dễ thương, hiền, đẹp, vui v.v…) thì sẽ tạo nên một ý nghĩa tiêu

cực, bác bỏ chính tính tích cực ấy. Nói cách khác là biến đổi nghĩa từ thành tiêu cực. Trong một số

trường hợp đặc biệt, ngữ điệu kéo dài có thể mang ý nghĩa đồng ý, chỉ sự vui mừng, ngạc nhiên tột

độ, tuy nhiên, trường hợp này ít phổ biến hơn nhiều. Người ta có xu hướng sử dụng các từ cảm thán

đi kèm để diễn tả hơn. Khi kéo dài một từ mang tính chất tiêu cực (có hại, người nghe không thích

tiếp nhận, không muốn bị gán vào người như xấu, keo, bẩn…) thì nó đẩy yếu tố tiêu cực đó lên cực

cấp. Nói cách khác, sự kéo dài giọng chủ yếu mang ý nghĩa làm xấu hóa ý nghĩa từ.

Ví dụ 109

Vợ hỏi chồng: Anh ơi, em mặc cái đầm này có đẹp không?

Chồng liếc nhìn và đáp: Đẹp p p p p p.

Hiển nhiên người vợ phải hiểu là câu hỏi nhằm lôi kéo sự ủng hộ của chồng đã không thành

công, người chồng không cho chiếc đầm này là đẹp, cụ thể hơn, còn có ý chê chiếc đầm. Chỉ có một

người vợ ngốc nghếch mới không nhận ra sự bác bỏ sâu xa của chồng thông qua việc ngân dài từ

“đẹp”.

Hành động ngân dài giọng ở phía cuối từ là một hành động bác bỏ khá đặc biệt của tiếng

Việt. Điều này có thể xuất phát một phần từ chính đặc trưng ngôn ngữ của tiếng Việt: ngôn ngữ đơn

lập. Trong khi ở các ngôn ngữ biến hình, có trọng âm từ như tiếng Anh, việc kéo dài giọng, nếu có

xảy ra thì luôn rơi vào từ mang trọng âm. Do đó, sẽ không tự nhiên khi người Anh nói Beautiful ul

ul ul, cũng như người Việt nói Xinhhhhhhhhhh đẹp trong khi cách kéo dài giọng ngược lại lại được

chấp nhận (beau eau eautiful).

3.2.8. Dùng cử chỉ

Chúng tôi xem đây như là một hình thức bác bỏ trong hội thoại vì tuy hành động bác bỏ sử

dụng các yếu tố phi ngôn ngữ, nhưng vẫn đảm bảo những đặc trưng cơ bản cấu thành nên hội thoại:

các vai giao tiếp, có ngôn ngữ, có các lượt lời (trong đó có một lượt lời im lặng). Bác bỏ bằng cử chỉ

thực hiện bằng hai hình thức sau.

3.2.8.1. Bằng ngôn ngữ hình thể

Tuy là một hành động giao tiếp phi ngôn ngữ, nhưng hành động cử chỉ cũng có những mã

riêng cho từng cộng đồng người, buộc các cộng đồng khác muốn sử dụng hoặc hiểu được cử chỉ ấy

cũng phải thông qua giai đọan học hỏi để tránh sự nhầm lẫn. Những hành động bác bỏ bằng cử chỉ

thông thường là lắc đầu, khua tay, mắt lim dim…Tuy nhiên, xu hướng này có thể trái ngược tại một

số quốc gia. Cụ thể, lắc đầu là cách thể hiện sự đồng ý của người Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, khua tay là

cách tranh thủ sự đồng tình của người Ý…

Ví dụ 110

Nhân viên: Thưa giám đốc, có cô A kiếm giám đốc.

Giám đốc: (khoát tay, lắc đầu)

Trong tình huống trên, cô nhân viên tự hiểu rằng thông báo của mình đã được xử lý bằng

cách bác bỏ. Do đó, cô không cần phải hỏi thêm bất cứ điều gì về mệnh lệnh vừa rồi nữa.

Ngôn ngữ hình thể không chỉ đơn thuần là các động tác riêng lẻ kết hợp với nhau. Trong

một số trường hợp, đó là những tín hiệu chuyên chở nghĩa mang tính hệ thống và liên kết chặt chẽ

với nhau, có khả năng biểu thị những nội dung phức tạp. Chẳng hạn trường hợp những người câm

giao tiếp với người bình thường, do không phát ra tín hiệu âm thanh được, nên họ buộc phải sử

dụng những tín hiệu giao tiếp nhờ vào chuyển động của cơ thể như giao tiếp bằng các ngón tay.

Thông qua một mã chung mà hai bên đối thoại có thể hiểu được thông điệp của nhau và có khả năng

thực hiện và tiếp nhận các hành động bác bỏ.

3.2.8.2. Bằng biểu cảm của khuôn mặt

Đây là một cử chỉ bác bỏ khá thường gặp trong cuộc sống, cũng là một cách thức thăm dò ý

kiến của những người tham gia đối thoại. Trong tranh luận, hùng biện, người ta hay đề cập tới chiến

thuật đọc suy nghĩ của người tham gia, có những dấu hiệu chỉ ra sự quan tâm, hưởng ứng. Ngược

lại, có những dấu hiệu thể hiện sự bác bỏ, không đồng tình như bĩu môi, nhíu mày, nhăn trán, đổi

hướng nhìn v.v…

Vấn đề đặt ra ở đây là khi nào người ta lại sử dụng những hình thức phi ngôn ngữ này.

Chúng tôi nhận thấy, họ sử dụng nó khi họ không muốn nói hoặc không nên nói.

(1) Không muốn nói - Thế chủ động của người thực hiện hành động bác bỏ.

Ví dụ 111

Mãi một lúc lâu, Thủy Tiên mới lên tiếng phá tan sự im lặng. Cô hỏi bằng giọng buồn rầu:

- Bộ Thường giận Thủy Tiên lắm hả?

- Không, không! Tôi có giận gì Thủy Tiên đâu! – Thường lật đật phủ nhận.

- Nếu không tại sao Thường nói vậy?

Nghe Thủy Tiên hỏi tới, Thường lại càng lúng túng. Anh im lặng lắc đầu một cách máy móc.

(11-tr.177-178)

Ở ví dụ này, nhân vật Thường đang rơi vào một trạng thái tâm lý không bình thường, đang

sống giữa những giằng xé, mâu thuẫn, băn khoăn nội tâm. Do đó, anh ta không muốn biểu lộ bất cứ

một nhận định nào của mình rõ ràng bằng lời mà chỉ bằng nội tâm bên trong. Đó là một phản ứng

tâm lý hết sức bình thường của con người khi ở trong một tâm trạng như vậy.

(2) Không nên nói - Thế bị động của người thực hiện hành động bác bỏ.

Có những tình huống trong đó người thực hiện bác bỏ cảm thấy chiến thuật bác bỏ tốt nhất

là bác bỏ bằng sự im lặng, vì mọi điều được nói ra, đều có thể dẫn tới những kết quả không hay.

Ví dụ 112

Cô giáo: Lớp ta học thuộc bài hết rồi phải không?

Học sinh: Im lặng (cúi đầu).

Trong trường hợp cậu học sinh chưa học thuộc bài lắm, cậu sẽ buộc phải thể hiện thái độ

trung hòa và cúi đầu để tránh đối thoại với cô giáo, cũng là cách thức ngầm thể hiện nhận định của

cô giáo chưa hoàn toàn chính xác. Vì nếu cậu thừa nhận rằng có, có thể cô giáo sẽ bắt cậu trả bài.

Ngược lại, nếu cậu trả lời không, thì chính cậu đã chủ động tự đưa mình vào thế bí, bị cô giáo phê

bình.

3.2.9. Dùng sự im lặng

Người ta nói im lặng là vàng, còn trong hành động ngôn ngữ, im lặng đôi khi có những giá

trị riêng mà không một từ ngữ nào có thể lập tức thay thế ngay được. Có một hiện tượng có vẻ mâu

thuẫn nhưng lại hay xảy ra trong hành động ngôn ngữ. Đó là ý nghĩa của sự im lặng. Tùy vào từng

ngữ cảnh, mà người ta có thể hiểu im lặng là sự bác bỏ hay là sự đồng ý. Và kỳ lạ hơn, là thường

trong từng hoàn cảnh cụ thể, mọi người trong phạm vi đối thoại đều ngầm hiểu được hành động im

lặng ấy sẽ biểu thị cho hành động đồng tình hay bác bỏ.

Có một quy luật tuy không tuyệt đối, nhưng cũng mang tính tương đối về mối quan hệ giữa

hành động im lặng trong bác bỏ với tâm thế người bác bỏ. Thông thường, với những hành động có

tính đe dọa cao về thể diện, người ta thường im lặng theo tuyến chủ động. Nghĩa là tự bản thân cảm

thấy tốt hơn hết là không nên phản đối bằng lời. Mặt khác, trong một số trường hợp, khi bị thúc ép

và bị ảnh hưởng sâu sắc đến tính mạng, quyền lợi, cần phải giữ một bí mật nào đó, và người ta buộc

phải giữ ý kiến phản bác bằng cách im lặng.

Ví dụ 113

- Đây là đứa làm việc cùng mày phải không?

- (im lặng)

Dù muốn thì người bị hỏi cũng không dám đưa ra một câu trả lời bằng đối thoại. Lý do bắt

nguồn từ sự suy ý tâm lý của bên hỏi. Nếu bên bác bỏ vội vã trả lời, bên nêu có thể nghi ngờ sự xác

thực, bởi hành động rất nhanh nhảu và kiên quyết của anh ta.

Bác bỏ bằng hình thức im lặng thường xảy ra khi người thực hiện hành động bác bỏ đang bị

một áp lực tâm lý nào đó khiến họ có khả năng nhưng không thể sử dụng những yếu tố ngôn ngữ

như bình thường. Đó có thể là áp lực tự than, cũng có thể do ngoại cảnh tác động.

3.2.10. Dùng hình thức ngắt lời

Hành động ngắt lời là một hành động thể hiện tính đe dọa thể diện rất cao so với các hành

động khác. Ngắt lời để bác bỏ còn tạo mức độ đe dọa cao hơn. Do đó, ngữ cảnh nơi hành động này

phát sinh cũng có những điểm đặc trưng riêng. Cách ngắt lời thường đi theo hai xu hướng.

3.2.10.1. Ngắt lời tích cực

Sự ngắt lời- biểu hiện của hành động bác bỏ không làm tổn hại, trái lại, còn gây ích lợi cho

người bị bác bỏ. Hay nói cách khác, đích lợi ích trong hành động này hướng về phía người tiếp nhận

lời bác bỏ khi thông báo về những sự tình đặc biệt, là điều mà cả đôi bên đối thoại không mong

muốn, bất đắc dĩ phải đề cập tới.

Ví dụ 114

Trũi ngập ngừng:

- Nghĩa là…Nghĩa là.. ta tìm thứ gì tạm ăn cho sống được. Em có đôi càng…anh…

Tôi ngắt lời:

- Thôi anh hiểu bụng chú rồi. Chú nghĩ rằng không nhẽ anh em ta lại chịu chết lênh đênh cả như

thế này, mà phải cứu sống lấy một. Chú định để anh ăn thịt chú, chú chịu hy sinh cho anh sống.

(26-tr.61)

Ở hình thức này, cả hai bên đối thoại đều lưu ý đến thể diện của đối phương và giảm thiểu

quyền lợi cái tôi của mình. Do đó tính chất bác bỏ ở đây cũng mang ý nghĩa khác, đó là bác bỏ điều

hại cho người và khẳng định điều thiệt về mình.

3.2.10.2. Ngắt lời tiêu cực

Ngược với cách ngắt lời tích cực, hành động ngắt lời được cho là tiêu cực vì không hướng

tới người tiếp nhận, mà hướng về phía người thực hiện hành động bác bỏ nhằm bảo vệ điều “lợi”

của họ.

Ví dụ 115

- Thưa sếp, tôi làm việc rất tốt, tháng này tôi muốn đề nghị sếp…(tăng lương).

- Việc gì thì để sau đi, tôi đang bận lắm, công ty còn khó khăn, còn nhiều việc phải làm.

Đối ngược với tình huống trên, ở tình huống này, khi người thực hiện hành động bác bỏ

“nhận biết”, “tiên đoán” trước được việc người nói sẽ nói ra điều bất lợi cho mình, họ sẽ tìm cách

ngắt lời hoặc tạo ra những tình huống trong đó người nói sẽ không thể nói trọn vẹn được yêu cầu, đề

nghị của mình nữa. Trường hợp ví dụ trên đây, tại giai đoạn giữa của quá trình diễn ngôn, vì đoán

trước được là người nhân viên sẽ đề nghị tăng lương, lúc đó ông sẽ khó đưa ra lời từ chối. Vì vậy,

ông đã ngắt ngang lời người nhân viên trước khi cậu ta kịp đề cập vào nội dung chính, và bác bỏ

một cách hiệu quả: vừa cứu mình khỏi thế bí, khỏi phải giải thích lý do cho quyết định của mình,

vừa làm người nhân viên e ngại không dám đưa ra đề nghị một lần nữa.

Chúng tôi dựa trên cơ sở của tính lịch sự trong giao tiếp (tức mức độ lịch sự càng cao khi

người ta tính toán mối thiệt hại cho người tiếp nhận càng thấp) chứ không phải nội dung giao tiếp để

phân chia hai thái cực tích cực và tiêu cực ở các cách thức thực hiện bác bỏ. Do đó, kể cả những

trường hợp hành động ngắt lời của người thực hiện bác bỏ được phần đông người nghe ủng hộ,

chẳng hạn, luật sư ngắt lời khai vô lý của bị cáo, thì chúng tôi cũng cho hành động này nằm trong

bình diện tiêu cực theo tiêu chí trên.

3.3. BIỂU THỨC BÁC BỎ TIẾNG VIỆT

So với các hành động ngôn từ như nghi vấn, cầu khiến, cảm thán…, hành động bác bỏ có

những đặc trưng riêng, có sự phong phú về nội dung, hình thức và có sự giao thoa với các hành

động kể trên, ngoài ra, trong câu bác bỏ, các hình thức được sử dụng linh hoạt, không gò bó, cố

định. Do đó, chúng tôi gặp không ít khó khăn trong quá trình xử lý ngữ liệu và tìm ra những dạng

thức tiêu biểu của bác bỏ.

Biểu thức 1

X: (khẳng định A)

Y: chẳng/đâu/nào có/mà lại/chả dại mà/không A

Biểu thức này dùng từ ngữ bác bỏ trực tiếp. Hình thức bác bỏ này rất dễ nhận dạng, và cũng

có cấu trúc khá đơn giản. Người ta thường sử dụng các từ ngữ chỉ ý bác bỏ đi kèm theo một ý kiến,

nhận định cần bác bỏ. Vị trí của các từ biểu thị ý bác bỏ rất linh hoạt phụ thuộc vào đặc trưng ý

nghĩa và hình thức được quy định của từng đơn vị từ. Do đó, nó có thể đứng đầu, giữa hoặc cuối

nhận định để trực tiếp bác bỏ nhận định ấy. Cũng có khi nhận định không được nhắc lại trong hành

động bác bỏ mà chỉ thể hiện thông qua các từ biểu thị ý bác bỏ. Kết hợp cùng cấu trúc lượt lời tuần

tự với sự tiếp nối ý trong suốt quá trình diễn ngôn tạo thành hành động bác bỏ.

Ví dụ 116

Mẹ: Con đi chơi cả chiều nay phải không?

Con: Đâu có ạ.

Biểu thức 2

X: (khẳng định) A

Y: (khẳng định) B

Chuyển đề tài: còn gọi là lối nói vòng vo. Chuyển đề tài bao gồm cùng một bản chất đề tài,

nhưng thể hiện dưới một hình thức hoàn toàn khác hoặc một góc nhìn khác hẳn so với quan điểm

của người đưa ra đề nghị.

Có hai cách chuyển đề tài.

Chuyển đề tài trong nội bộ thông tin đề nghị.

Biểu thức 2.1

X: (khẳng định) A

Y: Không phải A

Ví dụ 117

- Thưa chú, khi nào làm việc, chú cứ bảo cháu.

- Cháu uống nước đi. Chú nói ngay để cháu yên tâm. Cháu sẽ không phải làm cái việc ngồi

mẫu cho chú vẽ đâu.

Quan điểm của người cháu: công việc là công việc. Đích ngôn trung nhắm tới là khi nào sẽ

làm việc. Câu trả lời của người chú đi chệch đích ngôn trung đấy, nói về việc phải làm hay không

làm. Hàm ý của người chú, đấy là công việc vất vả, và việc từ chối cháu làm việc không phải là điều

gì không may, mà là một điều rất may mắn cho người cháu (thể hiện qua cụm từ không phải). Đây

là cách bác bỏ giúp giải tỏa tâm lý cho người tiếp nhận hành động bác bỏ.

Biểu thức 2.2

X: (khẳng định) A

Y: B

Chuyển đề tài bên ngoài nội dung thông tin. B ở đây có thể là một câu chuyện có liên quan

ít nhiều đến A, cũng có thể là một nội dung chêm, xen vu vơ bên ngoài, không liên quan gì tới A mà

chỉ là một câu nói lảng tránh trọng tâm, để biểu thị ý không muốn tiếp nhận đề nghị. Đặc trưng hình

thức của dạng biểu thức này là không dùng các từ ngữ là dấu hiệu chỉ sự bác bỏ, câu bác bỏ có tính

chất của một câu thông báo sự tình.

Ví dụ 118

- Mày cho tao mượn ít tiền.

- Thôi chết, tháng này công ty chưa trả lương làm sao mà sống đây.

Việc đưa ra một sự tình không liên quan, hoặc theo hướng lảng tránh đích nhận định vừa

tiếp nhận, chính là một cách thức nhằm ngầm thông báo cho đối tượng về hành động bác bỏ của

mình.

Biểu thức 3

X: (khẳng định) A

Y: Thôi, B cũng được

Những hành động bác bỏ đi theo khung này thường có tính chất tạm thời, khuyên nhủ, nhẹ

nhàng với những nội dung bác bỏ đơn giản, ít thao tác lập luận, suy lý.

Ví dụ 119

Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:

- Mẹ đưa bút thước cho con cầm.

Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:

- Thôi để mẹ cầm cũng được.

(48-tr.6)

Biểu thức 4

Biểu thức này sử dụng hình thức hỏi để tạo hành động bác bỏ.

Biểu thức4.1

X: (khẳng định) A

Y: Tôi (anh ta, nó…) mà A à?/ sao?/ư?/ A hồi nào?

Người ta sử dụng các trợ từ, tiểu từ, đại từ nghi vấn thêm vào A nguyên bản tạo thành câu

bác bỏ mang hình thức hỏi. Thực chất những câu hỏi này có khi đơn thuần là câu hỏi tu từ, cũng có

khi là dạng câu hỏi hỏi nhằm mục đích làm cho người bị hỏi suy nghĩ về câu trả lời và vấn đề bất

khả thi của việc trả lời.

Ví dụ 120

Nhỏ Kim Hà, lớp phó trật tự, đứng trong hang, liếc tôi:

- Bạn Huy đánh lộn trong sân trường nghen! Tôi trừ điểm thi đua à!

Tôi cãi.

- Tôi rượt chơi chớ tôi đánh lộn hồi nào?

(6-tr.18)

Dưới góc độ tu từ học, câu hỏi biểu thị tâm lý ngạc nhiên, sửng sốt của người thực hiện

hành động bác bỏ.

Ví dụ 121

Tôi vặn lại:

- Vậy sao hôm trước tao…liếc sơ bài của thằng Bảy một chút mày lại làm khó làm dễ? Tại mày

mà tổ mình mới tụt hạng đó, mày biết không?

- Sao lại là tao? Đó là tại mày không chịu học hành đàng hoàng. Muốn cho tổ tiến bộ thì mỗi

người phải cố học chứ đâu phải bày trò gian lận. Giúp đỡ nhau học tập không có nghĩa là cho

bạn mình cóp-pi!

(6-tr.64-65)

Biểu thức 4.2

X: (khẳng định) A

Y: A’? A’’? A’’’? (A’ + A’’ +A’’’…= A)

Người nêu bác bỏ sử dụng hình thức hỏi theo chuỗi bằng cách ngắt nhỏ những yếu tố hạt

nhân của nhận định cần bác bỏ. Nó thường bộc lộ thái độ bất ngờ, ngạc nhiên cực độ của người bác

bỏ với vấn đề vừa tiếp nhận.

Ví dụ 122

- Tại tôi không muốn để ông đi, mà ông cũng không đi được, vì tôi biết ông rồi. Không ai tin

ông nữa đâu. Bởi vì ông là người thụt két, ông có biết không?

- Tôi? Thụt két? Thưa cụ?

(20-tr.382)

Biểu thức 4.3

X: (khẳng định) A

Y: A làm gì/để làm gì? A để B à?

Người bác bỏ đặt nhận định vào trong những cảnh huống nghi vấn không thể thực hiện

được, hoặc những vấn đề khó khăn mà câu trả lời hầu như không thể tìm ra.

Ví dụ 123

- Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.

- Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương tao? Hôm ấy mày mà không đi,

tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu.

(51-tr.172)

Những dạng hình thức này rất thích hợp dùng để biểu thị tính vô lý của nhận định hay thái

độ mỉa mai của người bác lời.

Ví dụ 124

- Nhưng mà lỡ nó chơi bời phá của thì em tính núi cũng phải hết.

- Ồ! Nhiều ông quan giàu lắm, chú không rõ à? Các ông ấy có hàng dãy nhà ở Hà Nội, không

kể tiền gửi nhà băng, đồn điền, và ruộng nương ở nhà quê nữa. Con cháu phá mấy đời cho

hết. Vả lại mình gả làm gì cho mấy đứa phá gia?

(21-tr.617-618)

Biểu thức 4.4

X: (khẳng định) A

Y: Sao?/Sao cơ?/Gì cơ?

Người đáp thực hiện hành động bác bỏ bằng những thông điệp ngắn, chủ yếu bao gồm các

từ, ngữ chỉ ý nghi vấn. Do tính chất liên tiếp của lượt lời, nên nội dung bác bỏ không cần phải lặp

lại mà sẽ được đôi bên ngầm hiểu thông qua lượt lời trước đó.

Những hành động bác bỏ nằm trong khuôn khổ biểu thức này, thường đi kèm với sắc thái

sửng sốt, ngạc nhiên của người thực hiện hành động bác bỏ.

Ví dụ 125

Một bữa xe dừng ở ngã tư chợ, em rời khỏi cabin lau kính xe trong lúc anh Tìm Nội và ông Buồn

bốc dỡ những thùng hàng. Chợ trưa đông ruồi, ít người. Thưa thớt vài người đàn ông để trần đánh

bài, gần đó có mấy chị bỏ sạp tụm lại tỉa chân mày, nhổ tóc. Một người thanh niên dáng vẻ u ám,

gầy nhom ghé lại, thì thầm:

- Em tưởng bỏ tôi dễ dàng như bỏ một con chó sao?

Và một chị gục xuống, trong âm thanh róng riết kinh hoàng. Máu chị phun ra thành vòi từ mũi dao

xuyên qua ngực.

(www.evan.vnexpress.net)

Biểu thức 5

X: (khẳng định) A

Y: A hoặc B

Chúng tôi gọi đây là những biểu thức lựa chọn. Hình thức là lựa chọn nhưng nội dung

không phải đưa ra sự lựa chọn vì hướng lựa chọn đã được sắp đặt sẵn theo ý đồ của người thực hiện

hành động bác bỏ.

Có ba biểu thức nhỏ chỉ ý bác bỏ bằng lựa chọn như sau

Biểu thức 5.1

X: (khẳng định) A

Y: Hoặc A, hoặc B

Ví dụ 126

Anh công an nói với tội phạm:

- Hoặc anh khai ra để được giảm nhẹ tội, hoặc chúng tôi sẽ tăng án phạt vì tội cố ý che giấu.

Đây là dạng khung lựa chọn ít bộc lộ tính đe dọa hay điều kiện nhất vì nó không thể hiện ý

ràng buộc như dạng thức “Nếu…thì”, “Muốn…thì phải…”. Tuy nhiên, để xác định chính xác mức

độ căng thẳng của các lựa chọn phải dựa vào nội dung, nội hàm bên trong của các lựa chọn ấy.

Biểu thức 5.2

X: (khẳng định) A

Y: Muốn A (thì) phải B

Nội dung B mang tính chất là một điều kiện cần bắt nuộc phải có để thực hiện A. Điều kiện

này trái với mong muốn của X, hoặc bất khả thi với X, do đó gián tiếp bác bỏ luôn yêu cầu A của X.

Ví dụ 127

Quan Công hỏi:

- Ngươi không cho ta qua cửa quan phải không?

Khổng Tử nói sẵng:

- Muốn đi phải để cả già trẻ lại đây làm con tin.

(40-tr.443-444)

Biểu thức 5.3

X: (khẳng định) A

Y: (Nếu) A thì B

Nội dung B không phải là một điều kiện cần, trái lại, là một hệ quả nặng nề hơn, có mức độ

thiệt hại gấp nhiều lần hơn, nếu thực hiện A. Do đó, không chấp nhận hệ quả B nghĩa là không chấp

nhận nhận định A.

Ví dụ 128

Tôi bật cười bảo lão:

- Sao cụ lo xa thế? Cụ còn khỏe lắm, chưa chết đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn, lúc

chết hãy hay! Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại?

- Không, ông giáo ạ! Ăn mãi hết đi thì lúc chết lấy gì mà lo liệu?

(48-tr.43)

Biểu thức 6

X: (khẳng định) A

Y: còn B, hãy C

Chúng tôi không xếp biểu thức này vào như một dạng của biểu thức lựa chọn- bác bỏ vì B,

C không phải là hệ quả, không phải là điều kiện, không đưa ra lựa chọn mà chỉ là gạt bỏ thẳng

thừng tính vô lý, có hại của A và thay thế luôn bằng B. Hay nói cách khác, người thực hiện hành

động bác bỏ đã định sẵn hướng bác bỏ cho người tiếp nhận theo một đích ngôn trung khác trước.

Ví dụ 129

Hoàn thuộc loại người rất dễ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp bên ngoài. Tiếng Anh gọi đó là “face – eater”.

Năm nó 15 tuổi, nó từng thẳng thắn đứng trước anh hàng xóm rất đẹp trai mà rằng: “Em rất thích

gương mặt của anh!”. May phước cho nó (hay là cho anh ta), anh hàng xóm cũng là người chững

chạc đàng hoàng. Anh ta xoa đầu nó mà rằng: “Em còn bé, hãy lo học trước đã!”.

(38-tr.128)

Biểu thức 7

Chúng tôi gọi đây là dạng bác bỏ nhiều lần nhằm bày tỏ ý cương quyết vì cả hai bên tham

gia đối thoại đều lần lượt thực thi hành động bác bỏ.

X: (khẳng định) A

Y: (phủ định) A

Y: phủ định [ (phủ định) A]

X: phủ định { phủ định [ (phủ định) A] }

. . .

Ví dụ 130

Hắn cười ầm ĩ:

- Đốc tờ, đốc tờ. Thôi đi, tôi lại các ông đốc tờ cả nón…Tôi bất cần đến các ông đốc tờ, tôi chỉ

cần tiền thôi. Tôi cứ đi dạy học.

- Thế mà cũng nói…

- Chứ không à? Chỉ ba hôm nữa là tôi đi.

- Không đi nữa!

- Cứ đi.

- Cứ đi là cứ thế nào. Tôi có để cho mình đi, tôi chết.

(20-tr.124-125)

Diễn giải ví dụ theo biểu thức trên đây như sau:

- X: khẳng định chuyện sẽ đi dạy học.

- Y: bác bỏ hiệu lực câu nói.

- X: khẳng định lại, thêm thông tin “Chỉ ba hôm nữa là tôi đi”.

- Y: bác bỏ lại dự định trên.

- X: khẳng định lại là vẫn sẽ đi.

- Y: bác bỏ mạnh mẽ bằng điều kiện “Tôi có để cho mình đi, tôi chết”.

Số lần bác bỏ lặp lại dường như không hạn chế trong hội thoại nhưng do bị quy định bởi

khả năng ghi nhớ, tri nhận và đặc trưng của hoạt động giao tiếp mà bác bỏ hai lần phổ biến nhất,

càng nhiều lần trở lên càng hiếm gặp hơn, và càng có nguy cơ tạo thành những tranh cãi dai dẳng

không đáng có.

Biểu thức 8

X: (khẳng định) Đối tượng A thì A

Y: Khẳng định B thì B

Những cặp hội thoại đi theo cấu trúc này có một điểm chung là mượn các từ tạo nghĩa

khẳng định của câu khẳng định như vâng, đúng, phải, ừ…đặt trước hành động bác bỏ.

Tiến trình bác bỏ sẽ được người nói và người nghe tri nhận như sau:

- Giai đoạn 1: X đưa ra nhận định sai A (nhưng chưa tri nhận được nó sai).

- Giai đoạn 2: Y đồng ý nhận định sai này, bằng một sự so sánh với nhận định sai B (Y

phải đảm bảo rằng A phải tri nhận được nhận định sai này).

- Giai đọan 3: X nhận ra thái độ bác bỏ A của Y thông qua việc tri nhận sự vô lý của B.

Các câu bác bỏ thể hiện theo khung biểu thức này có nhận định nêu mang đặc trưng chung

là tính vô lý được người bác bỏ tri nhận. Biểu thức chung này được phân tách làm hai biểu thức nhỏ

phân chia theo tính sai của hàm ý hay của nghĩa biểu hiện như sau:

Biểu thức 8.1

X: (khẳng định) Đối tượng A thì A (Điều kiện: A phải vô lý)

Y: Vâng/đúng/phải, B thì B

Ví dụ 131

Có hai bà đang nói về các bà Liên Xô.

(1)A: Cái bà Liên Xô béo, xấu ơi là xấu.

B: Vâng, các bà thì đẹp.

Cách thể hiện bác bỏ này cố ý đánh vào tính “chột dạ” của người nêu nhận định. Những từ

chỉ ý khẳng định được mượn vào nhằm mục đích diễn tả sự mỉa mai, nhắc khéo ý nhị. Câu bác bỏ

tuy ngắn gọn, ít thông tin, nhưng lại có sức nặng bác bỏ rất lớn.

Biểu thức 8.2

X: (khẳng định) A (Điều kiện: A phải vô lý)

Y: Vâng/đúng/phải/ừ như B (Điều kiện: B cũng phải vô lý).

Ví dụ 132

Vợ: Chồng chị Sen giỏi giang quá.

Chồng: Vâng, chị Sen cũng tháo vát chả kém.

Cô vợ có ý khen chồng hàng xóm, đồng thời trong mắt người chồng, cô ấy có thể có hàm ý

so sánh ngầm hai đối tượng (chồng mình và chồng người), do đó người chồng thể hiện sự đồng tình

bằng cách thêm thông tin để tạo thành cặp song trùng vô lý. Sự vô lý chúng tôi nói tới ở đây là sự

vô lý về mặt hàm ý, chứ không phải là sự vô lý về nội dung biểu thị. Mối quan hệ giữa hai tầng

nghĩa và sự bác bỏ như sau:

Vợ: Chồng chị Sen giỏi -> Hàm ý: Chồng mình không giỏi bằng.

Chồng: Chị Sen giỏi -> Vợ mình không giỏi bằng.

Hành động bác bỏ: Bác bỏ sự so sánh vô lý của vợ.

Biểu thức 9

X: (khẳng định) A

Y: Aaaaaaaaaaaaaa (ngân dài A)

Kéo dài ngữ điệu tạo nên nhiều mục đích thể hiện khác nhau từ ngạc nhiên, thích thú tới

giễu cợt, mỉa mai, bác bỏ. Công thức chung của khung bác bỏ là người thực hiện bác bỏ không sử

dụng các yếu tố trực tiếp bác bỏ, không thể hiện sự bác bỏ bằng đơn vị câu hoàn chỉnh mà dùng

phương thức vật chất, cách thức tạo lời đặc trưng để tập trung vào một hoặc vài từ hạt nhân cần bác

bỏ.

Ví dụ 133

X: Đây là nhà tôi.

Y: Nhà a a a a a!

Ở ví dụ này, sự ngân dài giọng của Y bộc lộ thái độ ngạc nhiên cùng với hành động bác bỏ

các thuộc tính đặc trưng về ý niệm nhà trong sự so sánh đối chiếu với sự vật được gọi là nhà trước

mặt.

Tiểu kết

Có thể nói, hành động bác bỏ trong tiếng Việt vừa phong phú về nội dung, đa dạng về hình

thức, gắn kết chặt chẽ với các dạng thức ngôn từ khác. Phong phú về nội dung vì hành động bác bỏ

không chỉ nhắm đến đích nghĩa biểu hiện của câu, mà cả hàm ý, tiền giả định, thái độ phát ngôn,

thậm chỉ cả hành động cụ thể trong giao tiếp. Có thể nói nó có khả năng bác bỏ mọi yếu tố tham gia

vào hội thoại. Sự đa dạng về hình thức thể hiện ở chỗ hành động bác bỏ không có một hình thức nào

nhất định, nó có thể dễ dàng mượn hình thức của các dạng câu từ nghi vấn, cảm than, cầu khiến,

trần thuật…để làm lớp vỏ cho đích ngôn trung của mình. Cũng chính từ mối quan hệ qua lại này,

mà người ta thấy hành động bác bỏ có khả năng gắn kết với các hoạt động ngôn từ khác như cầu

khiến, tuyên bố, van xin, ngờ vực v.v…

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng nhận thấy bác bỏ không mang tính lưỡng phân

chặt chẽ, tức hoặc đúng hoặc sai mà nó còn có ranh giới trung gian đôi khi rất khó phân định. Đó là

dạng bác bỏ nửa vời, mà chúng ta hay quen gọi dưới cái tên hành động bắt bẻ.

KẾT LUẬN

Nói khái quát, hễ ở đâu có bất đồng, tranh cãi thì ở đó có bác bỏ, và sự bác bỏ xuất hiện

trong mọi vấn đề của cuộc sống, từ những vấn đề thường nhật, đơn giản tới những vấn đề phức tạp,

hệ thống. Có thể nói, không có một lĩnh vực nào của giao tiếp mà không có sự tồn tại của hành động

bác bỏ ngoại trừ những vấn đề có tính chất cấm kỵ, thiêng liêng thuộc về đức tin như tôn giáo, tín

ngưỡng… Vì nó liên quan tới yếu tố đức tin cùng sự nhạy cảm tâm linh nên hầu như chỉ tồn tại vấn

đề của việc chấp nhận hay không chấp nhận về mặt nhận thức chứ không được thể hiện ra thành lời

nói trong giao tiếp thông thường. Nguyên nhân sâu xa ở chỗ những thể hiện thành lời trong địa hạt

này thường rất nguy hiểm, mang tính nhạy cảm cao và dễ dẫn đến các cuộc xung đột lớn.

Bác bỏ là một hành động có tính phổ quát tồn tại trong giao tiếp ngôn ngữ. Bên cạnh tính

phổ quát về phương châm, mục đích giao tiếp, nó còn có những đặc trưng văn hóa, cộng đồng, đa

dạng về hình thức, phương thức biểu hiện. Do đó, hiểu ngôn ngữ trên bình diện ngữ nghĩa từ, câu,

chưa chắc sẽ hiểu được nội dung xác thực của hành động và đích ngôn trung mà người nói nhắm

tới. Nói cách khác, từ, ngữ chỉ là điều kiện cần thiết chứ không phải là điều kiện đủ để có thể tri

nhận được đầy đủ nội dung hành động. Do đó, nếu không tính đến các yếu tố khác liên quan, hiệu

quả giao tiếp có thể sụt giảm hoặc thất bại.

Mức độ bác bỏ không chỉ phụ thuộc vào từng yếu tố tạo nên hành động, mà còn phụ thuộc

vào mức độ liên kết và sử dụng các yếu tố. Do đó, khi một hành động bác bỏ có càng nhiều phương

thức và hình thức khác nhau cùng tồn tại, cấp độ bác bỏ sẽ càng cao và ngược lại.

Ví dụ 134

Điểm thêm một “giây” nức nở, chị Dậu ngó con bằng cách xót xa:

- Con sẽ ăn ở nhà cụ Nghị thôn Đoài.

Cái Tí nghe nói giãy nảy, giống như sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai vào rổ và òa lên khóc:

- U bán con thật đấy ư? Con van u, con lạy u, con còn bé bỏng, u đừng bán con đi, tội nghiệp. U

để cho con ở nhà chơi với em con.

(48-tr.28)

Ở trích đọan này, lời “Tý” là một hành động bác bỏ rất thiết tha và quyết liệt. Nhân vật “Tý”

đã dùng cả hình thức câu hỏi “U bán con thật đấy ư?”, hình thức van xin “Con van u, con lạy u”, cả

ngôn ngữ cử chỉ “giãy nảy, giống như sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai vào rổ và òa lên khóc”…,

tất cả kết hợp với nhau thành một hành động phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt và làm đau lòng người

mẹ trẻ.

Tuy không có các tiêu chí rõ ràng để phân cấp về mức độ nhưng nhìn chung, hành động bác

bỏ không phải luôn luôn đồng nhất mà có xu hướng nằm trong khoảng giữa của hành động bác bỏ

tuyệt đối (biểu hiện cụ thể là bác bỏ hoàn toàn nhận định) và bác bỏ tương đối (biểu hiện cụ thể là

lối bác bỏ nửa vời đã được phân tích ở phần 3.1.2.8).

Người Việt có thể sử dụng các hình thức và phương thức bác bỏ phù hợp để đạt đến hiệu

quả giao tiếp cao nhất. Tuy nhiên, hành động này có thuyết phục được đối tượng tiếp nhận hay

không lại không hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân hành động. Có những yếu tố bên ngoài cần phải

tính đến như quan hệ giao tiếp, nội dung sự tình… Do đó, có thể nói phương thức và hình thức phù

hợp chỉ có hiệu quả khi đôi bên đối thoại có xu hướng tích cực tham gia giao tiếp, và cùng hướng

tới giao tiếp trong sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhau. Còn những giao tiếp không có tính cân

bằng giữa một bên thống trị và bên bị trị, hiệu quả bác bỏ sẽ thuộc về bên mạnh hơn, những yếu tố

phương thức và hình thức, nếu đi ngược với mong muốn của bên thống trị, cũng sẽ vô tác dụng và

bị lờ đi.

Hội thoại chỉ là môi trường phổ biến nhất của bác bỏ, nhưng không phải là môi trường duy

nhất mà bác bỏ được hiện thực hóa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy bác bỏ còn

được thể hiện dưới những dạng thức đặc biệt, có thể coi như những môi trường biến thể như hành

động tự nói trong nội tâm và bác bỏ trong nội tâm, hành động bác bỏ cử chỉ hoặc bác bỏ lời nói

bằng cử chỉ. Do đó, khi nghiên cứu và xác định hành động bác bỏ, cần xem xét quá trình diễn ngôn

theo một hướng mở và linh hoạt, nhằm tránh bỏ sót những hành động bác bỏ không đi theo quy luật

bác bỏ thông thường của cấu trúc lượt lời.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Austin J.L (1962), How to do things with words, Cambridge University press, UK.

2. Nguyễn Phương Chi (2001) Một số ghi nhận về hành vi từ chối, Ngữ học trẻ, Hội ngôn ngữ

học Việt Nam, Hà Nội.

3. Nguyễn Phương Chi (2003), Một số cơ sở của các chiến lược từ chối, Ngôn ngữ số 8.

4. Nguyễn Phương Chi (2004), Một số chiến lược từ chối thường dùng trong tiếng Việt, Ngôn

ngữ số 3

5. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

6. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, Tập 2, Ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm

Hà Nội.

7. Đỗ Hữu Châu (2001), Cơ sở Ngữ dụng học, Tập 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

8. Nguyễn Đức Dân (1987), Logic ngữ nghĩa cú pháp, Nxb Đại học và Trung học chuyên

nghiệp, Hà Nội.

9. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Nguyễn Đức Dân (1999), Lôgích và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

11. Nguyễn Đức Dân (2002), Nỗi oan thì, là, mà, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

12. Nguyễn Đức Dân (1977), Biểu thức và ngữ vi, Ngôn ngữ số 2.

13. Nguyễn Đức Dân (1977), Lôgích và sự phủ định trong tiếng Việt, Ngôn ngữ số 3.

14. Nguyễn Đức Dân (1983), Phủ định và bác bỏ, Ngôn ngữ số 1.

15. Nguyễn Đức Dân, Lê Tô Thúy Quỳnh (2002), Phương pháp lập luận trong tranh cãi pháp lý,

Ngôn ngữ số 5.

16. Đào Mục Đích (1999), Ngôn ngữ và phương pháp lập luận (trên cứ liệu phê bình văn học

bằng tiếng Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn

Thạc sỹ Ngữ Văn.

17. Lê Thị Kim Đính, (2006) Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ

Ngữ Văn.

18. Triệu Truyền Đống (1999) - biên sọan: Nguyễn Quốc Siêu, Phương pháp biện luận, thuật

hùng biện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. Grice H. Paul (1975), Logic and conservation, Nxb Cole and Morgan, New York, USA.

20. Nguyễn Thị Hai (2001), Hành động từ chối trong tiếng Việt hiện đại, Ngôn ngữ số 1.

21. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt – Văn Việt - Người Việt, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

22. Phan Văn Hòa (1989), Phương tiện liên kết phát ngôn đối chiếu ngữ liệu Anh-Việt, Luận án

Phó tiến sỹ.

23. Nguyễn Văn Hương (1997), Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn ngữ

Nguyễn Công Hoan, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Ngữ

Văn.

24. Lương Đình Khánh (2005), Quan hệ nghĩa giữa các phát ngôn, giá trị của từ và trong liên kết

văn bản tiếng Việt, Ngôn ngữ số 4.

25. Lado. R. (2002), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa (Hoàng Văn Vân dịch), Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

26. Đinh Trọng Lạc (2001), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

27. Đinh Trọng Lạc (2003), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Thanh

Hóa.

28. Hồ Lê (1996), Quy luật ngôn ngữ, tính quy luật của cơ chế ngôn giao, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

29. Phạm Thị Ly (2002), Tiểu từ tình thái cuối câu - một trong những phương tiện chủ yếu diễn

đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt (đối chiếu với những phương tiện diễn đạt nghĩa tương

ứng trong tiếng Anh), Ngôn ngữ số 2.

30. Trần Chi Mai (2005), Cách biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến bằng các phát ngôn lảng

tránh (Trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt), Ngôn ngữ số 1.

31. Nguyễn Quang Ngoạn (2007), Một số chiến lược phản bác thường dùng trong tiếng Việt,

Ngôn ngữ số 8.

32. Huỳnh Thị Ái Nguyên (2001), Hành vi phủ định trong tiếng Anh và tiếng Việt - những trở

ngại của người học ngoại ngữ, Ngữ học trẻ, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.

33. Dương Bạch Nhật (2008), Chiến lược lịch sự trung tính trong mời và từ chối lời mời trong

tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt, Ngôn ngữ số 8.

34. Hoàng Phê (2003), Logic – Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.

35. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

36. Hoàng Phê, Hoàng Văn Hành, Đào Thản (2002), Sổ tay dùng từ tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

37. Hoàng Trọng Phiến (2003), Cách dùng hư từ tiếng Việt, Nxb Nghệ An.

38. Nguyễn Phú Phong (1994), Vô định, nghi vấn và phủ định, Ngôn ngữ số 2.

39. Lê Tô Thúy Quỳnh (2000), Ngôn ngữ và phương pháp lập luận trong tranh cãi pháp lý,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Ngữ

Văn.

40. Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Thử tìm hiểu hiệu lực bác bỏ trong mối quan hệ với hành vi hỏi,

Ngôn ngữ và & Đời sống số 4.

41. Tạ Thị Thanh Tâm (2005), Vai giao tiếp và phép lịch sự trong tiếng Việt, Ngôn ngữ số 1.

42. Nguyễn Thị Việt Thanh (2001), Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ

Chí Minh.

43. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận, từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng

Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

44. Nguyễn Ngọc Tiến (1996), Cách thức biểu đạt nghĩa phủ định trong tiếng Việt, Trường Đại

học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn đại học.

45. Phạm Anh Toàn (2007), Từ câu nói Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau đến tính phù hợp

trong giao tiếp, Ngôn ngữ và & Đời sống số 6.

46. Matsumoto Y (1989), Poliness and conversational universals – observation from Japanese,

University of London, UK.

47. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa, dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở

người Việt (trong sự so sánh với các dân tộc khác), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

48. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí

Minh.

49. Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội-văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

50. Phạm Hùng Việt (2003), Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

51. Lê Anh Xuân (2006), Một cách trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh- trả lời bằng sự im

lặng, Ngôn ngữ số 5.

52. Nguyễn Như Ý (1990), Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp, Ngôn ngữ số 2.

53. Nguyễn Thị Hải Yến (2005), Hành vi từ chối lời mời của người Việt và người Nhật, Khoa

học ngoại ngữ số 4, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.

54. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2001), Thành phần mở rộng và các yếu tố lịch sự trong phát ngôn

chê, Ngôn ngữ số 4.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

1. Nguyễn Nhật Ánh (1991), Hạ đỏ, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Nguyễn Nhật Ánh (1996), Buổi chiều windows, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

3. Nguyễn Nhật Ánh (1996), Phòng trọ ba người, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

4. Nguyễn Nhật Ánh (1996), Chuyện cổ tích dành cho người lớn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

5. Nguyễn Nhật Ánh (1997), Nữ sinh, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

6. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Bàn có năm chỗ ngồi, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

7. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Bồ câu không đưa thư, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

8. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Út Quyên và tôi, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

9. Nguyễn Nhật Ánh (2006), Ông thầy nóng tính, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

10. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Những cô em gái, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

11. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Bong bóng lên trời, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

12. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Tôi là Bêtô, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

13. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Trước vòng chung kết, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

14. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Cô gái đến từ hôm qua, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

15. Nguyễn Nhật Ánh, Kính vạn hoa 17, Nxb Kim Đồng, Tp. Hồ Chí Minh.

16. Nam Cao (2006), Nam Cao tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.

17. Nam Cao (2007), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh.

18. Tào Đình (2006), Anh trai và em gái), Nxb Hội nhà văn.

19. J.K. Rowling (2009), Harry Potter và bảo bối tử thần, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

20. Nguyễn Công Hoan, Truyện ngắn chọn lọc - tập 2, Nxb Hội nhà văn, Tp. Hồ Chí Minh.

21. Nguyễn Công Hoan (2006), Lá ngọc cành vàng, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.

22. Nguyễn Công Hoan (2006), Bước đường cùng, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.

23. Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu, Nxb Văn hóa Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh.

24. Nguyễn Hiện (2008), Làng người xanh, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.

25. Nhiều tác giả, 1001 đêm, Nxb Văn hóa Sài Gòn, trang 12.

26. Tô Hoài (1996), Dế mèn phiêu lưu kí, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

27. Tô Hoài (2000), Võ sĩ bọ ngựa, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

28. Khái Hưng (2006), Nửa chừng xuân, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

29. Nguyên Hương (2009), Hoa rù rì, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

30. Lê Xuân Khoa, Đá Đỏ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội..

31. Phạm Công Luận (1998), Chú bé Thất Sơn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

32. Macxim Gorki (2007), Thời thơ ấu, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.

33. Stephen Meyer (2009), Esclipe (Nhật thực), Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

34. Vũ Trọng Phụng (2004), Số đỏ, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

35. Ngô Tất Tố (2006), Tắt đèn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

36. Nguyễn Quang Thiều (1998), Bí mật hồ cá thần, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

37. Dương Thụy (2009), Hè của cô bé mất gốc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

38. Dương Thụy (2009), Mọi cô gái đều thích hoa hồng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

39. Dương Thụy (2009), Oxford thương yêu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

40. La Quán Trung (2006), Tam Quốc Chí, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

41. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

42. Lưu Quang Vũ (1994), Tuyển tập kịch, Nxb Sân khấu, Hà Nội.

43. Nhiều tác giả (2009), Trà sữa cho tâm hồn, Hà Nội.

44. Nhiều tác giả (2008), Kẻ rao bán mùa thu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

46. Edmond De Amicis (2003), Tâm Hồn Cao Thượng, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.

45. Nhiều tác giả (1999), Tổng tập văn học Việt Nam-tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

47. Ngữ văn lớp 5, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

48. Ngữ văn lớp 8, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

49. Ngữ văn lớp 9, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

50. Ngữ văn lớp 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Ngữ văn lớp 11, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. Hoa học trò số 834, 793.

53. VTM, số 268.

54. Website: www.evan.vnexpress.net.