intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Đa dạng sinh học cá và mối quan hệ của chúng với chất lượng môi trường nước sông Cầu thuộc địa phận huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:89

75
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nhằm đánh giá đúng hiện trạng thành phần loài cá và xem xét mối quan hệ của chúng với chất lượng môi trường nước. Từ đó nhằm giúp chính quyền địa phương có những giải pháp hữu hiệu để bảo tồn ĐDSH và phần nào cải thiện được môi trường nước tại lưu vực sông Cầu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Đa dạng sinh học cá và mối quan hệ của chúng với chất lượng môi trường nước sông Cầu thuộc địa phận huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

  1. MỞ ĐẦU Sông Cầu hay còn gọi là sông Như Nguyệt hay sông Thị  Cầu, là con  sông chảy qua 6 tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc   Ninh và Hải Dương. Nó là con sông quan trọng nhất trong hệ  thống sông  Thái Bình. Lưu vực sông Cầu là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt  Nam, có vị trí địa lý đặc biệt, đa dạng và phong phú về tài nguyên cũng như  về  lịch sử  phát triển kinh tế  ­ xã hội của các tỉnh nằm trong lưu vực của   Nó. Sông Cầu có nhiều vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, giao  thông vận tải, thủy  điện, thủy lợi.v.v…Ngoài ra, nó  còn cung cấp một  lượng thực phẩm khá phong phú, đặc biệt là nguồn lợi cá.  Những năm trước, lưu vực sông Cầu có sản lượng khai thác cá khá  cao, với thành phần loài đa dạng, phong phú, có nhiều loài cá mang lại giá  trị kinh tế cao. Tuy nhiên trong những năm gần đây, môi trường nước ở lưu   vực sông Cầu bị  ô nhiễm đã làm suy giảm đến nguồn tài nguyên thiên  nhiên, phá hủy môi trường sống của nhiều loài thủy sinh, đặc biệt là các   loài cá. Nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là do có rất nhiều lượng   chất thải đổ  vào sông Cầu như: chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp, chất  thải sinh hoạt, chất thải từ các bệnh viện, chất thải rắn và các loại thuốc  bảo vệ thực vật.v.v…Đặc biệt là hiện tượng khai thác cát, sỏi diễn ra hàng  ngày trên sông Cầu, mạnh mẽ  nhất là khu vực các làng Đông Tiến, Nam  Ngạn gần cầu Bắc Ninh cũ thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.  Chính vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề  tài “Đa  dạng sinh học cá và mối quan hệ  của chúng với chất lượng môi trường  nước sông Cầu thuộc địa phận huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang”, với mong  muốn đánh giá đúng hiện trạng thành phần loài cá và xem xét mối quan hệ  1
  2. của chúng với chất lượng môi trường nước. Từ đó nhằm giúp chính quyền   địa phương có những giải pháp hữu hiệu để  bảo tồn ĐDSH và phần nào  cải thiện được môi trường nước tại lưu vực sông Cầu. Nội dung của đề tài  bao gồm: 1. Xác định thành phần loài cá của lưu vực sông Cầu thuộc địa phận   huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. 2. Nghiên cứu biến động về  thành phần loài cá của lưu vực sông  Cầu theo không gian. 3. Nghiên cứu mối quan hệ giữa thành phần loài cá và độ phong phú  của chúng với một số yếu tố sinh thái thủy, lý hóa. 4. Sử  dụng chỉ  số  tổ  hợp sinh học (index of biotic integrity­IBI) cá   để   đánh  giá  chất  lượng  môi  trường  nước   sông  Cầu   thuộc   địa  phận huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.   2
  3. Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Khái quát về HST sông 1.1.1. Các hệ thống sông lớn ở Việt Nam Sông ngòi Việt Nam tạo thành mạng lưới dày đặc, chứa lượng nước  lớn, nhất là vào mùa lũ, tạo thuận lợi cho phát triển giao thông, thủy lợi,   năng lượng và là cơ sở quan trọng cho sự phát triển nghề cá. Hai hệ thống  sông lớn nhất ở nước ta là hệ thống sông Hồng – Thái Bình và Cửu Long –   Đồng Nai. ­ Hệ thống sông Hồng – Thái Bình: Hệ  thống sông Hồng bắt nguồn từ dãy Ngụy Sơn, Vân Nam (Trung  Quốc), chảy vào lãnh thổ Việt Nam ở Hà Khẩu với chiều dài dòng chính là   1.126km (đoạn  ở  Việt Nam dài 510km). Diện tích lưu vực là 145.965km2,  riêng  ở  Việt Nam là 70.722km2  (chiếm 42,6% diện tích toàn miền Bắc)  [30]. Các phân lưu chính của sông Hồng là sông Đáy, sông Đuống, sông  Luộc, Trà Lí, sông Đào – Nam Định và sông Ninh Cơ. Hệ thống sông Thái Bình là tên gọi của một hệ thống sông gồm sông  Thái Bình cùng các phụ lưu và chi lưu của nó. Các phụ lưu gồm sông Cầu,  sông Thương và sông Lục Nam ở thượng nguồn với tổng chiều dài khoảng   1.650km và diện tích lưu vực khoảng 10.000km2. Ngoài ra, hệ thống sông này  còn  nhận  một phần dòng chảy của sông Hồng trước khi đổ  ra biển Đông  [30]. 3
  4. ­ Hệ thống sông Cửu Long – Đồng Nai: Sông Mekông là con sông lớn nhất ở Đông Dương, bắt nguồn từ dãy  Tuyết Sơn, Tây Tạng, tại độ  cao trên 5.000m, với chiều dài dòng chính là   4.350km (ở Trung Quốc 2.000km, Lào 1.500km), chảy qua lãnh thổ nước ta  trên một đoạn dài 220km. Diện tích lưu vực sông là 810.000km2, phần  ở  nước ta 64.300km2. Sông rất nhiều thác ghềnh, nhưng từ Kratie trở xuống,  sông chảy vào vùng đồng bằng thấp một cách êm đềm [30]. Phụ   lưu   chính   của   sông   Mêkông   là   Nậm   Hu,   Nậm   Ngạn,   Nậm  Nhiếp, Nậm Kha Đinh, Xê Băngphai, Xê Băng Hiên, Xê San (tả  ngạn),  Nậm Kok, Xế  Mun, Xêreepoc (hữu ngạn). Từ  Phom Penh, sông có 3 chi  lưu: sông Tonglesap đưa nước vào biển Hồ, sông Tiền và sông Hậu đưa  nước ra biển qua chín cửa mà ta quen gọi là sông Cửu Long [30]. 1.1.2. Đặc điểm đăc trưng của hệ sinh thái sông 1.1.2.1. Điều kiện sống trong sông Sông là thủy vực nước chảy tiêu biểu với đặc điểm là khối nước  luôn chảy theo một chiều nhất định, từ thượng lưu tới hạ lưu, do sự chênh  lệch về  độ  cao so với mặt nước biển của dòng sông. Dòng chảy của một  con sông khi nước đầy giữa hai bờ  sông gọi là dòng chảy nền. Khi nước   cạn, dòng chảy của một con sông thu vào dòng chảy gốc, cách xa hai bờ  sông. Bãi đất cạn hở  ra trong mùa nước cạn nằm giữa bờ  sông và dòng  chảy gốc gọi là bãi sông, có thể phân thành nhiều tầng. Theo dòng chảy, từ  đầu nguồn tới cửa sông, dòng sông có thể  chia   thành 3 phần: đầu nguồn (thượng lưu), giữa nguồn (trung lưu), cuối nguồn   (hạ  lưu) với sự  khác nhau về  hình thái, tốc độ  nước chảy, nền đáy và   4
  5. nhiều đặc điểm khác. Sông  ở  thượng lưu thường hẹp, nông, tốc độ  nước  chảy mạnh, nền đáy là nền đáy gốc bao phủ  bởi các phần tử  vật chất cỡ  lớn. Sông ở trung lưu có lòng sông rộng dần ra, có thêm nhiều phụ lưu, tốc   độ nước giảm đi. Nền đáy sông ở phần này có tính chất hỗn hợp: nền đáy  gốc chỉ có ở một số nơi, còn chủ yếu là nền đáy bồi đắp, cấu tạo bởi các  phần tử  vật chất cỡ  nhỏ  (đá nhỏ, cát, bùn) do nước sông tải đến, lắng  đọng xuống. Vùng hạ  lưu có lòng sông mở  rộng cho tới cửa sông, tốc độ  nước chảy giảm nhẹ. Nền đáy ở phần này hoàn toàn là nền đáy bồi đắp và   chỉ gồm các phần tử vật chất cỡ nhỏ (cát, bùn). Vùng cửa sông là vùng tiếp   xúc với biển, chịu ảnh hưởng rõ rệt của thủy triều, nước sông pha lẫn với   nước biển tạo thành một vùng có đặc tính thủy lý hóa học và thủy sinh học  rất phức tạp và đặc sắc. Tốc độ nước chảy của sông cũng thay đổi theo chiều ngang: mạnh ở  giữa dòng, giảm nhẹ đi ở hai bên bờ. Do vận động của nước sông, bờ sông   và nền đáy sông không ngừng bị  hao mòn. Các vật chất bị  bào mòn  ở  nơi  này sẽ được tải đến bồi đắp ở nơi khác, do đó làm dòng sông luôn biến đổi   theo chiều ngang cũng như  theo chiều đứng, có khi làm dòng chảy đổi  hướng tạo thành hình thái khúc khuỷu của dòng sông ở trung lưu [31]. Cùng  một khối nước, tốc độ  dòng chảy tỷ  lệ  nghịch với thiết diện ngang của   lòng sông.  Ở  những nơi có các hố  sâu hoặc khuỷu, nước chảy hình thành  các xoáy, nước luôn bị xáo trộn mạnh. Nhìn chung, ở  các sông đồng bằng,  tốc độ  vào mùa kiệt nước thường không vượt quá 1m/s, vào mùa lũ 1,5 –   2,0m/s, ở vùng núi  5 – 6m/s. 5
  6. Mực nước của sông phụ thuộc vào điều kiện khí hậu của từng vùng,  trước hết là sự  thay đổi nguồn nước theo mùa, chế  độ  nước ngầm. Mực  nước trên sông chênh lệch nhau khá lớn giữa mùa lũ và mùa kiệt, có nơi đạt  đến  5 – 15m. Nhiệt độ nước trong sông phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ của nước   cấp cho sông, vào khí hậu vùng mà dòng nước chảy qua và những đặc tính  thủy động học khác nhau của dòng chảy. Sự dao động nhiệt theo mùa trong  sông nằm trong giới hạn 0 – 30 0C, dao động ngày đêm 8 ­ 100C (vùng đồng  bằng). Độ  trong của nước sông phụ  thuộc chính vào hàm lượng các chất  chứa trong nước. Trong nước sông muối cacbonat có ý nghĩa quan trọng  hơn là các ion khác như sulphat, nitrat, muối photpho, canxi, sắt, mangan… Lượng các chất hữu cơ  phụ  thuộc vào đặc tính của dòng chảy qua  các vùng khác nhau và tiếp nhận sự rửa trôi của các lưu vực lân cận. Chế   độ  khí của sông nói chung thuận lợi cho  đời sống sinh vật.  Lượng oxy giảm từ thượng lưu tới hạ lưu [30]. 1.1.2.2. Sự phân bố của các quần xã sinh vật ở sông  Những quần xã sinh vật sống trong dòng chảy, nơi nước luôn vận   động có nhiều nét đặc trưng: ­ Thành phần loài rất đa dạng do đa dạng về sinh cảnh (dạng hình, vị  trí địa lí của sông, tốc độ và mực nước, đặc tính của nền đáy,…). Hơn nữa,  sinh vật trong hệ  thống sông bao gồm nhiều nhóm loài bản địa và những  loài di nhập từ nơi khác đến (từ các thủy vực nước đứng của nội địa và từ  6
  7. biển). Khi những loài từ  nơi khác rơi vào sông, nhiều loài trong chúng bị  chết, một số khác còn lại thích nghi với đời sống dòng chảy đã tồn tại và  phát triển, đôi khi khá hưng thịnh [30]. Từ  thượng nguồn tới cửa sông, tính đa dạng về  thành phần loài, sự  phát triển về số lượng, sinh vật lượng của quần xã sinh vật tăng dần, đồng   thời có sự  thay thế  những nhóm  ưa oxi bằng các nhóm kém  ưa oxi hơn,  những nhóm có khả  năng chống chịu tốc độ  dòng chảy lớn (thân trơn, dài,  có giác bám,…) bằng những loài kém thích nghi hơn (cá thân cao), những  loài ăn thịt (ấu trùng và côn trùng dưới nước) bằng những loài ăn thực vật,  mùn bã và sinh vật nổi, những loài đẻ  trứng vùi bằng những loài đẻ  trứng  bám và trứng nổi. Những thay thế đó liên quan chặt chẽ đến sự thay đổi của   tốc độc dòng chảy [30]. Theo chiều ngang sông, thành phần loài và sự  phát triển về  số lượng,  sinh vật lượng giảm từ bờ ra giữa dòng. Nơi giàu có nhất là nơi nước chảy   yếu xuất hiện trên các triền sông. Quy luật này không rõ  ở  các đoạn sông  miền núi do sự phân bố đồng đều của động vật đáy trên nền đáy khá đồng  nhất [30]. Từ các nhóm sinh thái khác nhau, những nhóm phát triển phong phú là  plankton, benthos, nekton, periphyton, còn neuson và pleuston hầu như vắng  mặt [30]. ­ Plankton: Bao gồm các thủy sinh vật sống trôi nổi một cách thụ  động hoặc vận động yếu trong các lớp nước tầng mặt, chủ  yếu nhờ  vào   chuyển   động   của   khối   nước   mà   di   chuyển.   Plankton   bao   gồm:   bacterioplankton, phytoplankton, zooplankton. Về mặt chuyển hóa vật chất,  plankton bao gồm các sinh vật sản xuất sơ  cấp (phytoplankton), các sinh  7
  8. vật   tiêu   thụ   bậc   thấp   (zooplankton),   các   sinh   vật   phân   hủy  (bacterioplankton).   Trong   thành   phần   sinh   vật   nổi   của   sông,   phát   triển   mạnh là vi khuẩn, tảo khuê, luân trùng, tảo lam, tảo lục, còn giáp xác nhỏ  kém phát triển. Thành phần loài và số  lượng nghèo  ở  thượng lưu và giàu   dần lên  ở  hạ  lưu. Do chế  độ  nước chảy mạnh, nên sinh vật nổi phân bố  tương đối đồng đều theo chiều ngang cũng như thẳng đứng. Số lượng sinh  vật nổi nhiều nhất vào kỳ  nước thấp và nghèo đi vào kỳ  nước cao. Trong  thành phần sinh vật nổi các sông của miền Bắc Việt Nam,  ở  vùng đồng  bằng thường có các loài giáp xác nguồn gốc biển hoặc nước lợ di nhập vào  như các loài thuộc các giống Sinocalanus, Schmackeria, Cyathura.v.v.. [31]. ­ Nekton:  Sinh vật tự  bơi là thành phần quan trọng trong các quần  loại sinh vật  ở  trong tầng nước, bao gồm các động vật có kích thước lớn   và phần lớn là các đối tượng khai thác. Sinh vật tự bơi đều là các sinh vật   tiêu thụ ở các bậc dinh dưỡng khác nhau, có cấu tạo cơ thể phức tạp, có cơ  quan vận động chủ  động, tích cực. Sinh vật tự  bơi  ở  sông gồm có cá, bò  sát, ở nước và động vật có vú ở nước. Các loài cá sông có thể là cá thường   trú, có thể là cá từ biển di nhập vào từng thời gian để sinh sản. Thành phần  khu hệ  cá sông thường không đồng nhất từ  thượng lưu về  hạ  lưu,  ở mỗi   quãng sông có một khu hệ  cá đặc trưng. Vùng thượng lưu sông Hồng có  nhiều loài cá đặc trưng cho vùng núi như: cá Bỗng, cá Sỉnh, cá Hỏa, cá  Chát, cá Lòa.v.v., trong khi đó  ở  vùng hạ  lưu, khu hệ  cá gồm các loài phổ  biến ở vùng đồng bằng (cá Chép, cá Diếc, cá Mè, cá Chày.v.v.) và các loài   cá từ  biển di cư  vào như  (cá Mòi, cá Cháy.v.v.). Một số  loài cá khác phân   bố rộng từ thượng lưu tới hạ lưu sông như cá Mương, cá Chạch, cá Măng,   cá Nheo.v.v.[31]. 8
  9. ­ Benthos: Thành phần sinh vật sống ở nền đáy bao gồm cả sinh vật  sản xuất, tiêu thụ, và phân hủy. Sinh vật tiêu thụ ở đây được đặc trưng bởi  những nhóm động vật ăn mùn bã sinh vật hoặc bùn đáy.  Ở  những vùng  nước sâu không còn ánh sáng thì thực vật không còn nữa và sinh vật đáy chỉ  còn là những sinh vật tiêu thụ (động vật) ở các bậc dinh dưỡng khác nhau   và sinh vật phân hủy (vi khuẩn). + Theo vị  trí nơi  ở  thì benthos được chia thành: sinh vật sống trên   mặt nên đáy (epifauna) và nhóm sống chui xuống nền đáy (infauna). + Theo tính  ưa nền đáy thì benthos được chia thành: sinh vật  ưa đáy   bùn   (pelophile),   sinh   vật   ưa   đáy   cát   (psammophile),   sinh   vật   ưa   đáy   đá  (lithophile), sinh vật ưa đáy sét (argilophile),… + Theo kích thước, sinh vật đáy có thể được chia thành nhiều kích cỡ  khác nhau; sinh vật đáy lớn (marcobenthos) có kích thước lớn hơn 2mm,   sinh   vật   đáy   vừa   (mesobenthos)   từ   0,1   –   2mm   và   sinh   vật   đáy   nhỏ  (microbenthos) dưới 0,1mm. Một cách tổng quát, có thể  chia sinh vật đáy  thành   hai   nhóm   lớn:   động   vật   đáy   (zoobenthos)   và   thực   vật   đáy  (phytobenthos). 1.1.2.3. Một số  đặc điểm thích nghi quan trọng của quần xã sinh vật  ở  sông  Ở  các đại diện thuộc quần xã nơi nước chảy, sinh vật có những  thích nghi chuyên hóa cho phép chúng bám trụ  được trong các thủy vực  nước chảy nhanh. Có thể  liệt kê một số  đặc điểm thích nghi quan trọng   nhất: 9
  10. ­ Bám thường xuyên vào giá thể cứng như đá, phiến gỗ, khối lá. Các   thực vật sản xuất quan trọng nhất cũng được liệt vào loại này. Đó là tảo   lục sống bám như  Clado phora với những mấu phụ dài…Một số loài động  vật cũng sống bám vào giá thể, đó là thủy tức nước ngọt và  ấu trùng bọ  suối mà bằng dịch của tuyến tiết chuyên hóa đã gắn tổ  kén của chúng vào   đá. ­ Móc và giác bám: Phần lớn các loài động vật sống ở nơi nước chảy   nhanh thường có móc bám hoặc giác bám cho phép chúng bám chắc vào bề  mặt giá thể  hầu như  rất trơn. Ví dụ  như: hai loài  ấu trùng thuộc bộ  Hai  cánh trong giống  Simulium  và giống  Plepharocera.  Simulium  không những  sử  dụng giác bám  ở  sau cơ  thể  mà còn tiết các sợi tơ  buộc mình vào giá   thể. ­ Bề  mặt phía dưới có chất dính: Nhiều động vật bám vào giá thể  bằng chất dính  ở  bề  mặt phía dưới cơ  thể, như  một số  nhuyễn thể  chân  bụng và giun dẹp. ­ Cơ  thể  hình thoi: Hầu hết các động vật sống trong sông, từ   ấu  trùng côn trùng đến cá đều có cơ  thể  hình thoi nhọn, nghĩa là cơ  thể  của   chúng có dạng gần giống như hình trứng: phía trước lượn tròn và phía sau   vuốt nhọn. Điều đó cho phép giảm sức cản của nước đến mức tối thiểu. ­ Cơ  thể  dẹp: Nhiều loài động vật sống  ở  nơi nước chảy nhanh   không chỉ có cơ thể dạng hình thoi nhọn mà còn dẹp nữa. Điều đó cho phép   chúng dễ dàng ẩn náu vào trong khe, kẽ và vào phía dưới các tảng đá. Ví dụ  như thiếu trùng phù du và thiêu thân. ­ Tính hướng dương theo dòng chảy: Động vật sống ở sông luôn luôn  định hướng ngược với dòng chảy. Đó là loại hình tập tính bẩm sinh. 10
  11. ­ Tính hướng tiếp xúc dương: Nhiều động vật  ở  sông có tập tính   bẩm sinh đặc trưng là bám chặt vào bề mặt hoặc duy trì tiếp xúc chặt chẽ  với bề  mặt. Nếu như  thả  một nhóm thiếu trùng thiêu thân vào lọ  trơn thì  chúng tìm bám ngay vào các que hoặc mảnh vụn thực vật nằm  ở đáy. Nếu  như không có bề mặt tiếp xúc thích hợp thì chúng bám vào nhau [3]. 1.2. Đa dạng sinh học cá và ý nghĩa của nó trong các hệ sinh thái nước 1.2.1. Đa dạng sinh học cá ­ Khái niệm về Đa dạng sinh học: Thuật ngữ  đa dạng sinh học (biodiversity) ra đời từ  những năm 80  của thế kỷ trước và được hiểu là “sự phồn vinh của sự sống trên Trái Đất,   là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa trong   các loài, là những hệ  sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi  trường “ (WWF, 1989). McNeely et al. (1991) cho rằng, “Đa dạng sinh học là một khái niệm  chỉ  tất cả  động vật, thực vật và vi sinh vật, những đơn vị  phân loại dưới   chúng và các hệ sinh thái mà sinh vật là những đơn vị cấu thành”. Đó là một  thuật ngữ bao trùm đối với mọi mức độ  biến đổi của thiên nhiên, gồm cả  số lượng và tần suất xuất hiện của các hệ sinh thái, của loài hay gen trong   một tập hợp đã biết”. Như vậy đa dạng sinh học được xét trong 3 cấp: đa dạng về loài sinh  vật, đa dạng về gen chứa trong các loài hay đa dạng về di truyền, đa dạng   về hệ sinh thái [29]. ­ Đa dạng sinh học cá: Cá gồm 4 lớp trong tổng số 8 lớp thuộc phân ngành  động   vật   có   xương   sống   hiện   sống.   Chúng   rất   đa   dạng,   gồm   khoảng  11
  12. 21.000 loài sống trong môi trường nước, từ các vực nước trong lục địa cũng  như   ở  đại dương kể  cả  những vùng sâu thẳm. Chúng đông hơn động vật  có xương sống  ở  cạn. Mặc dù cá là động vật có xương sống cổ  nhất,  chúng đã có một thời hưng thịnh, sau đó được thay thế bởi các nhóm động  vật có xương sống tiến hóa hơn. Nhưng không có bất cứ  động vật nào  ở  biển đe dọa được sự tồn tại của chúng [5]. 1.2.2. Ý nghĩa đa dạng sinh học cá trong các hệ sinh thái nước Đa dạng sinh học đóng vai trò rất quan trọng đối với sinh giới và con  người. Việt Nam được coi là “điểm nóng” về  đa dạng sinh học trên thế  giới với 3 lý do:  ­ Thành phần các giống loài động vật, thực vật khá phong phú. Riêng ở  dưới nước đã xác định được trên 2740 loài và dưới loài thủy sinh vật nước   ngọt và trên 11000 loài thủy sinh vật nước mặn.    ­   Có   mức   độ   đặc   hữu   cao   so   với   các   nước   trong   phân   vùng   Đông  Dương (MacKinnon,1986). ­ Đa dạng sinh học bị thất thoát nghiêm trọng vào bậc nhất [29]. Đối với các hệ sinh thái nước, cá có vai trò và ý nghĩa to lớn: ­ Đảm bảo cân bằng sinh thái ở các thủy vực, góp phần đảm bảo không  một loài nào đó phát triển hoặc là suy giảm số  lượng một cách quá mức.   Thành phần mỗi loài cá là một mắt xích trong chuỗi và lưới thức ăn của  quần xã dưới nước, nó đảm bảo sự  tuần hoàn vật chất và sự  chuyển hóa   năng lượng  ở  các HST nước. Làm cho không một loài nào đó phát triển   hoặc là suy giảm số lượng một cách quá mức. ­ Là nguồn gen dự trữ. 12
  13. ­ Cung cấp nguồn thực phẩm phong phú cho con người. Trong đó phải  kể  đến HST sông cung cấp thường xuyên rất nhiều loại cá nước ngọt có  chất   lượng   cao   về   thịt   như   (cá   Anh   Vũ,   cá   Chép,   cá   trôi,   cá   chuối,   cá   Trắm…). ­ Cung cấp nguồn dược liệu. Ở HST sông có một số loài cá có thể dùng  làm thuốc. Ví dụ: mật cá Trắm đen có thể làm thuốc sát trùng [36]. ­ Thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người do một số loài được nuôi   cảnh. ­ Phục vụ  cho công tác nghiên cứu khoa học để  phát triển nghề  cá và  bảo tồn ĐDSH; đồng thời có thể sử dụng chỉ số đa dạng sinh học cá (index   of biotic intergrity ­ IBI) để việc đánh giá chất lượng môi trường nước. ­ HST nước có ĐDSH cá có thể phát triển làm nơi du lịch. Ví dụ: ao cá  Bác Hồ, ở Thanh Hóa có suối cá thần Cẩm Lương – Cẩm Thủy thu hút rất  nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến thăm, quan [10,24]. 1.3. Quan hệ  của Đa dạng sinh học cá với một số  yếu tố  sinh thái   chính ở HST sông Các nhân tố vô sinh của môi trường sống bao gồm các yếu tố lý, hóa,  cơ  học của môi trường nước và nền đáy cùng với quá trình biến đổi của  chúng trong đời sống thủy vực.  Ở  hệ  sinh thái sông có rất nhiều yếu tố  ảnh hưởng đến ĐDSH cá như: đặc tính cơ  lý học (áp lực nước, độ  nhớt,  ánh sáng, nhiệt độ,…), đặc tính thủy học (chuyển động của khối nước   trong thủy vực), đặc tính thủy hóa học (chất hòa tan, chất vẩn, pH) của  khối nước, đặc tính nền đáy, các yếu tố hữu sinh. Trong phạm vi luận văn  13
  14. này chúng tôi chỉ đề cập đến các yếu tố chính ảnh hưởng mẽ tới ĐDSH cá:  độ trong, nhiệt độ, pH, chất hòa tan [31]. 1.3.1. Quan hệ với các yếu tố thủy lý ­ Độ trong:  Độ  trong chịu  ảnh hưởng bởi các phần lơ  lửng khác nhau và có vai  trò rất quan đối với sinh vật ở nước. Trước hết độ trong thấp sẽ làm giảm  khả năng xuyên sâu của ánh sáng bề mặt, qua đó giới hạn quang hợp cũng   như tầm nhìn của các động vật sống ở nước [30]. Hệ số hấp thụ ánh sáng  của nước tỷ  lệ  nghịch với độ  trong của nước [31]. Khi quang hợp bị giới   hạn thì sự sống của sinh vật sản xuất, đặc biệt là thực vật nổi cũng bị giới   hạn từ đó làm giảm các sinh vật tiêu thụ   ở  các bậc khác nhau trong đó có   cá. Độ  trong của nước  ở  sông thường rất thấp.  Ở  các con sông lớn, độ  trong chỉ trong khoảng 1­2 m còn ở các sông nhỏ có khi chỉ vài cm [30,31]. ­ Nhiệt độ:  Nguồn nhiệt chủ yếu của nước trong các thủy vực là từ bức xạ mặt   trời và chủ  yếu do các tia có sóng dài gồm hồng ngoại, đỏ  da cam. Lớp  nước trên mặt hấp thụ  nhiều nhiệt hơn  ở  lớp nước dưới sâu nên các tia   sáng này chủ  yếu chỉ  tập trung  ở các lớp nước tầng trên. Chế  độ  nhiệt  ở  nước tương đối  ổn định hơn trong không khí, do có độ  tỏa nhiệt và thu  nhiệt lớn đồng thời các lớp nước  ở  trên bề  mặt và ở  dưới sâu có sự  điều  hòa nhiệt độ lẫn nhau trong quá trình lạnh đi hay bốc hơi, làm cho nhiệt độ  của cả khối nước tương đối ít biến đổi [31].   Nhiệt độ nước trong thủy vực có ảnh hưởng lớn đến thủy sinh vật   và có tính chất quyết định đối với đời sống thủy sinh vật. Trong đời sống   14
  15. cá thể, nhiệt độ  có  ảnh hưởng tới tốc độ  trao đổi chất, thông qua  ảnh  hưởng đối với hoạt động của các enzyme theo định luật Vanhoff, do đó chế  độ  nhiệt trong các thủy vực  ảnh hưởng tới nhịp độ  sinh sản và phát triển   của thủy sinh vật. Cùng với nồng độ  muối, chế  độ  nhiệt trong thủy vực  quyết định sự  phân bố  theo vĩ độ, theo thủy vực của thủy sinh vật nói  chung và cá nói riêng [3,31]. ­ Độ muối: Độ  mặn  hay  độ  muối  được ký hiệu S‰ (S ­   salinity  ­ độ  mặn) là  tổng lượng (tính theo gram) các chất hòa tan chứa trong 1 kg nước. Đối với  các loài thủy sinh vật, độ  muối là một nhân tố  sinh thái quan trọng vì nó  ảnh hưởng lớn tới các yếu tố  khác như: pH, nhiệt độ, hàm lượng oxy hòa  tan, các nguồn thức ăn .v.v…[49], đồng thời có vai trò xác định giới hạn  phân bố của các loài. ­ Độ dẫn:  Độ  dẫn điện của nước liên quan đến sự  có mặt của các ion trong  nước. Các ion này thường là muối của kim loại như muối NaCl, KCl và các   iôn SO42­, NO3­ , PO43­ v.v... Tác động ô nhiễm của nước có độ dẫn điện cao  thường liên quan đến tính độc hại của các ion hòa tan trong nước. Để  xác  định độ  dẫn điện, người ta thường dùng các máy đo điện trở  hoặc cường  độ dòng điện [49]. 1.3.2. Quan hệ với các yếu tố thủy hóa  ­ Độ pH:  Trong thành phần nước thiên nhiên, ion H+  có hàm lượng rất nhỏ,  nhưng có một vai trò rất quan trọng. Độ  pH trong nước phụ  thuộc vào   15
  16. nhiều yếu tố và ảnh hưởng đến hàm lượng của nhiều thành phần khác. Độ  pH phụ thuộc vào hàm lượng muối hữu cơ  đáy hồ  và khả  năng thủy phân  của các muối kim loại nặng.  Ở các thủy vực nội địa nước thay đổi từ  axit   (pH từ 3,4 – 6,95), trung tính (pH từ 6,95 – 7,3), kiềm (pH từ 7,3 – 10) [31]. Độ  pH trong thủy vực có thể  biến đổi theo ngày đêm, do biến đổi  của hàm lượng CO2 trong nước trong quá trình quang hợp. Độ pH cũng thay  đổi theo độ  sâu, càng xuống sâu càng giảm đi do sự  thay đổi hảm lượng  CO2 theo độ  sâu. Ngoài ra, độ  pH còn biến đổi theo mùa do biến đổi của  các quá trình phân hủy chất hữu cơ, liên quan tới hàm lượng CO2  trong  nước [31]. Giữa độ  pH của  nước trong thủy vực và thủy sinh vật có quan hệ  qua lại rất mật thiết. Hoạt động sống của thủy sinh vật như quang hợp, hô  hấp làm thay đổi độ pH của nước trong thủy vực. Ngược lại pH của nước   ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự phân bố  và hoạt động sống của  thủy sinh vật. Độ pH thay đổi còn làm thay đổi cân bằng các hệ thống hóa  học trong nước, qua đó gián tiếp ảnh hưởng đời sống thủy sinh vật, Ví dụ  pH axit làm muối của Fe hòa tan nhiều trong nước gây độc cho thủy sinh  vật [31]. Điểm gây chết của axit và kiềm lần lượt xấp xỉ  thấp hơn 4 và cao   hơn 11. Với mức pH từ  4 – 6,5 cá phát triển chậm. Vào buổi sáng, giá trị  pH trong môi trường thay đổi trong khoảng 6,5 – 9,0, được coi là phù hợp   nhất cho cá sinh trưởng và phát triển [40]. Nếu cá bị  chuyển nhanh chóng  từ môi trường nước này sang môi trường nước khác có sự khác nhau nhiều  về pH thì cá bị sốc hoặc chết ngay cả khi pH của môi trường mới chuyển   sang trong khoảng chịu đựng thông thường của loài cá đó [40]. 16
  17. ­ Hàm lượng oxy hóa học (COD):  Trong hóa học môi trường, chỉ  tiêu và thử  nghiệm nhu cầu ôxy hóa  học  (COD ­  chemical oxygen demand) được sử  dụng rộng rãi để  đo gián  tiếp khối lượng các  hợp chất hữu cơ  có trong  nước. Phần lớn các  ứng  dụng trong sử  dụng chỉ  số  là nhằm xác định khối lượng của các   chất ô  nhiễm hữu cơ tìm thấy trong nước bề  mặt (ví dụ  trong các con sông hay  hồ), làm cho COD là một phép đo hữu ích về  chất lượng nước. Nó được  biểu diễn theo đơn vị  đo là miligam trên lít (mg/l), chỉ  ra khối lượng   ôxy  cần tiêu hao trên một lít dung dịch. Các nguồn tài liệu cũ còn biểu diễn nó   dưới dạng các đơn vị đo khác như phần triệu (ppm) [49]. ­ Hàm lượng oxy sinh hóa (BOD): Nhu cầu  ôxy hóa sinh học  hay  nhu cầu  ôxy sinh học  (ký hiệu:  BOD  ­  Biochemical (hay Biological) Oxygen Demand), là một chỉ số được sử dụng  để xác định xem các sinh vật sử dụng hết  ôxy trong nước nhanh hay chậm  như thế nào. Nó được sử dụng trong quản lý và khảo sát chất lượng nước   cũng như trong sinh thái học hay khoa học môi trường. BOD không là một  thử nghiệm chính xác về mặt định lượng, mặc dù nó có thể coi như là một   chỉ thị về chất lượng của nguồn nước [49]. ­ Các chất hòa tan trong nước:  Chất hòa tan trong nước thiên nhiên bao gồm nhiều thành phần khác  nhau. Có thể chia làm ba nhóm lớn là: chất vô cơ hòa tan, chất hữu cơ hòa   tan và chất khí hòa tan [31].  Chất vô cơ  hòa tan: Chất vô cơ  hòa tan trong tự  nhiên gồm 3 thành  phần: 17
  18. + Thành phần muối cơ bản là thành phần chủ yếu của muối vô cơ  hòa   tan trong nước thiên nhiên. Trong nước ngọt thành phần này chiếm tới 90 –  95%, trong nước có nồng độ  muối cao, tới 99%. Thành phần muối cơ bản  này gồm các muối clorit, sunfat cacbonat, hidrocacbonat của Na, Mg, Ca và  K. Thành phần này tồn tại trong nước thiên nhiên dưới dạng các ion chủ  yếu: Cl, SO4, HCO3, CO3, Na, K, Mg, và Ca.  + Các nguyên tố  tạo sinh (biogen) gồm các hợp chất vô cơ  và hữu cơ  hòa tan của N, P và Si, là các chất cần thiết cho sự tạo thành cơ thể  sống.  Thuộc vào nhóm này còn có thể  kể  cả  một số  muối khác như  Na, Ca, K,  Mg…và được gọi chung là các muối dinh dưỡng. N  ở trong nước  ở dạng   các ion NH4+, NO2­, NO3­,  và các chất hữu cơ hòa tan và không hòa tan trong   nước. P cũng  ở  dạng vô cơ  và hữu cơ  hòa tan hoặc không hòa tan trong   nước. Dạng vô cơ  trong nước tự  nhiên là H3PO4 và các dẫn xuất. Si trong  nước tự nhiên ở dạng hòa tan có thể là H4SiO4 và các dẫn xuất. + Các nguyên tố vi lượng bao gồm các nguyên tố có hảm lượng rất nhỏ,   nhưng rất quan trọng đối với đời sống thủy sinh vật. Các nguyên tố này rất  nhiều và càng ngày càng được phát hiện nhiều thêm bằng các phương pháp  phân tích hiện đại. Các nguyên tố phổ biến là: Fe, Ni, Pb, Cu, Mn, Co, …  Chất hữu cơ hòa tan:  Trong thành phần nước tự  nhiên, ngoài lượng chất hữu cơ  chứa trong  sinh vật, còn có thành phần chất hữu cơ   ở  các dạng khác ngoài sinh vật   như chất hữu cơ hòa tan, chất vẩn và chất keo [31].  Chất khí hòa tan:  18
  19. Trong nước thiên nhiên có các chất khí hòa tan, trong đó các chất khí  thường gặp và có hàm lượng cao như: O2, CO2, N2, CH4, H2S, NH3. Nguồn gốc của các chất khí này là: từ  không khí đi vào nước (O2, CO2,  N2) hoặc do các quá trình sống của thủy sinh vật và các quá trình chuyển  hóa vật chất xảy ra trong thủy vực (CO 2, CH4, H2S, NH3, H2) hay do quá  trình phân giải khí và chuyển hóa ở các lớp đất sâu dưới tác dụng của nhiệt  độ  cao và áp lực cao (CO2, CO, H2S, NH3, HCl…). Đối với nước trên mặt  đất, hai nguồn gốc trên là chủ yếu, còn đối với nước ngầm, nguồn gốc thứ  ba là chủ yếu. Để đánh giá chất lượng nước, thường dùng chỉ tiêu hàm lượng oxy hòa  tan trong nước (DO). Nồng độ  oxy hòa tan là chỉ  thị  quan trọng thể  hiện   chất lượng nước trong thủy vực [6]. Oxy hòa tan có trong thủy vực là từ  không khí và từ  hoạt động quang hợp của thực vật trong tầng quang hợp.   Lượng oxy này sẽ được tiêu thụ trong quá trình hô hấp, trong các quá trình  ôxy hóa các chất trong thủy vực, nếu ở hàm lượng cao có thể thoát ra ngoài   không khí.  Ở  nền đáy, oxy còn được chuyển từ  oxit mangan khó hòa tan   trong nước lắng xuống đáy. Khi mất oxy, chất này lại trở  thành hợp chất  Mn hòa tan, lấy lại oxy trong nước rồi lại lắng xuống đáy. + Khí Cacbonic: Cũng từ không khí, từ hoạt động hô hấp của thủy sinh   vật và từ các quá trình phân hủy chất hữu cơ mà tạo ra trong nước. CO 2 hòa  tan trong nước được tiêu thụ  trong quá trình quang hợp, trong quá trình   chuyển hóa thành HCO3 và CO32­ và có thể thoát ra ngoài nước. Hàm lượng oxy và CO2 trong nước của các thủy vực phụ thuộc vào rất  nhiều yếu tố  như  nhiệt độ  nước và nồng độ  muối,… Hàm lượng oxy và  CO2 trong thủy vực còn biến đổi theo mùa, theo ngày đêm, theo độ sâu, theo   19
  20. hoạt động sống của thủy sinh vật, các quá trình chuyển hóa vật chất hữu  cơ  trong thủy vực và theo sự  thay đổi đặc tính vận động của khối nước.   Phân bố  của oxy và CO2 trong các thủy vực cũng theo quy luật nhất định.  Các tầng nước trên thường giàu oxy, có khi tới bão hòa, rồi giảm dần theo   độ sâu. Các tầng nước sâu thường giàu CO2 và nghèo oxy, có khi còn có các  khí độc (CH4, H2S). + H2S: Trong thủy vực, H2S được hình thành do hoạt động của vi khuẩn  thối rữa phân hủy chất hữu cơ  và vi khuẩn lưu huỳnh khử  sunfat trong   nước. Loại thứ nhất hay gặp  ở nước ngọt, loại thứ hai hay gặp  ở biển và  đại dương, nơi có nhiều sunfat. Khối lượng H 2S sinh ra trong thủy vực  nhiều khi rất lớn, làm nhiễm độc một diện tích rất rộng trong thủy vực.   H2S là khí rất độc, trực tiếp hay gián tiếp gây tác hại cho thủy sinh vật. Có  những thủy sinh vật chết ở nổng độ H2S rất nhỏ. H2S còn làm giảm lượng  oxy hòa tan trong nước, thu hẹp diện tích hoạt động bắt mồi của thủy sinh   vật trong các thủy vực [31]. 1.4. Khái quát về chỉ số tổ hợp sinh học (Index of Biotic Integrity ­ IBI) 1..4.1. Lịch sử của chỉ số tổ hợp sinh học – IBI Chỉ  số  tổ  hợp sinh học được phát triển bởi James R. Karr từ  năm  1981 và đầu những năm 80. Ban đầu Ông đã sử  dụng quần xã cá trong các   dòng suối vùng phía tây ở miền Trung nước Mỹ để tính điểm IBI. IBI được  phát triển bởi  vì có nhiều  ưu điểm như  có tính hiệu quả, dễ  sử  dụng,  không tốn kém và khá chính xác [38,42]. IBI là cách tiếp cận sử dụng phương pháp so sánh để đo tổ hợp sinh  học (Moyle và Randall, 1998). Tổ hợp sinh học được kiểm tra bởi so sánh  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0