intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng tại bốn huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

14
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài thực hiện nhằm góp phần bổ sung những hiểu biết mới về cấu trúc rừng trên địa bàn tỉnh và đưa ra những giải pháp kỹ thuật lâm sinh tác động nhằm thúc đẩy phát triển rừng, nâng độ che phủ, góp phần thúc đẩy đa dạng hệ sinh thái rừng tại bốn huyện vùng cao phía Bắc của tỉnh, một địa danh đã được UNESCO công nhận Công viên địa chất của toàn cầu. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng tại bốn huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------------------------------- Tô Đức Hiện NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC RỪNG TẠI BỐN HUYỆN VÙNG CAO PHÍA BẮC TỈNH HÀ GIANG Chuyên ngành: lâm học Mã số : 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. Nguyễn Trọng Bình Hà Nội, 2010
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng là tài nguyên có khả năng tái tạo quý giá, rừng không những là cơ sở của sự phát triển kinh tế mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng. Song nó là một hệ sinh thái phức tạp bao gồm nhiều thành phần với các quy luật sắp xếp khác nhau trong không gian và thời gian. Rừng tự nhiên ở nước ta hiện nay hầu hết đều là rừng thứ sinh ở những mức độ thoái hoá khác nhau. Nguyên nhân chủ yếu là do con người khai thác lạm dụng, đốt nương làm rẫy. Độ che phủ đã giảm từ 43% năm 1943 xuống 28,4% năm 1990, làm tăng các ảnh hưởng bất lợi của môi trường sống đối với con người như bão, lũ, hạn hán, ô nhiễm không khí. Theo công bố của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tính đến năm 2009 diện tích rừng nước ta khoảng 13,2 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên là 10,3 triệu ha và rừng trồng là 2,7 triệu ha với độ che phủ chung của cả nước là 39,1% đất tự nhiên. Bốn huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang gồm các huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Những năm qua, do việc khai thác và sử dụng quá mức, công tác quản lý bảo vệ rừng kém hiệu quả dẫn đến diện tích có rừng bị giảm sút nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Theo số liệu thống kê năm 2008 [12], diện tích đất có rừng khoảng 77.302 ha, chiếm 55 %, song chủ yếu là rừng thứ sinh với chất lượng thấp. Những tác động của con người đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tồn tại và phát triển của rừng, làm xáo trộn các quy luật cấu trúc và tái sinh tự nhiên của rừng. Sự mất rừng đã kéo theo sự suy thoái về các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, đặc biệt là nguồn tài nguyên nước. Do đặc điểm địa chất Karst khả năng giữ nước kém, kèm theo hệ thống rừng bị suy giảm dẫn đến nơi đây thường xuyên thiếu trầm trọng nước sinh hoạt, sản xuất... làm ảnh hưởng lớn tới cuộc sống và phát triển kinh tế của các cộng đồng dân cư. Trong những năm qua nhà nước đã có những chính sách khuyến khích phát triển rừng như: giao khoán bảo vệ, hỗ trợ khoanh nuôi, bảo vệ, trồng rừng... Song do bốn huyện vùng cao phía Bắc ngoài một phần diện tích thuộc huyện Yên Minh, Quản Bạ, còn lại đa phần là rừng tự nhiên phát triển trên núi đá hoặc núi đất có tỷ lệ đá lẫn cao... làm cho khả năng phục hồi rừng chậm... mặt khác do thiếu những
  3. 2 nghiên cứu cơ bản cấu trúc rừng, nên đa phần đều không dám tác động vào rừng bằng bất kỳ biện pháp kỹ thuật nào hoặc nếu có thì hiệu quả của các biện pháp tác động không cao; các giải pháp chính mới chỉ dừng lại ở việc khoanh nuôi phục hồi tự nhiên, hiệu quả thấp, chưa có biện pháp kỹ thuật tác động tổng hợp nào mang tính khoa học và tính thực tiễn. Thực tiễn đã chứng minh rằng các giải pháp quản lý, phát triển rừng chỉ có thể giải quyết thoả đáng một khi có sự hiểu biết đầy đủ về bản chất quy luật sống của hệ sinh thái rừng. Do đó nghiên cứu cấu trúc rừng được xem là cơ sở quan trọng nhất, giúp các nhà lâm nghiệp có thể chủ động trong việc xác lập các kế hoạch và biện pháp kỹ thuật tác động chính xác vào rừng, góp phần quản lý và kinh doanh rừng bền vững. Từ vấn đề nêu trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: "Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng tại 4 huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang”. Đề tài thực hiện nhằm góp phần bổ sung những hiểu biết mới về cấu trúc rừng trên địa bàn tỉnh và đưa ra những giải pháp kỹ thuật lâm sinh tác động nhằm thúc đẩy phát triển rừng, nâng độ che phủ, góp phần thúc đẩy đa dạng hệ sinh thái rừng tại bốn huyện vùng cao phía Bắc của tỉnh, một địa danh đã được UNESCO công nhận Công viên địa chất của toàn cầu.
  4. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Hệ sinh thái rừng tự nhiên là đối tượng rất đa dạng, phong phú và phức tạp cả về cấu trúc và đặc điểm tái sinh. Chính vì vậy việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh của rừng tự nhiên gặp không ít khó khăn, đặc biệt là việc phân loại đối tượng để phục vụ cho công tác kinh doanh. Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên quần thể thực vật rừng theo không gian và thời gian. Cấu trúc rừng bao gồm các nội dung cả về sinh thái lẫn hình thái quần thể thực vật. Nghiên cứu cấu trúc rừng là vấn đề cần thiết phục vụ cho việc đề xuất các giải pháp lâm sinh, lập kế hoạch kinh doanh rừng lâu dài. Đặc điểm cấu trúc và tái sinh rừng tự nhiên đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước tiến hành nghiên cứu và đã xây dựng được nhiều cơ sở khoa học và lí luận phục vụ cho công tác kinh doanh rừng. Có thể điểm qua một số nghiên cứu liên quan đến nội dung Luận văn như sau: 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Cấu trúc rừng 1.1.1.1. Cơ sở sinh thái cấu trúc rừng Rừng tự nhiên là một hệ sinh thái cực kỳ phức tạp, bao gồm nhiều thành phần sinh vật với các quy luật sắp xếp khác nhau theo không gian và thời gian. Cấu trúc rừng là một nhân tố sinh thái và là kết quả của quá trình chọn lọc, đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật, giữa thực vật với hoàn cảnh sống xảy ra ngoài tự nhiên. Các yếu tố của cấu trúc rừng bao gồm: mật độ, tầng phiến, tầng thứ, mạng hình phân bố, cấu trúc tuổi…. Nghiên cứu cấu trúc rừng để biết được những mối quan hệ sinh thái bên trong của quần xã, từ đó có cơ sở để đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động phù hợp. Điển hình trong nghiên cứu phải nói đến Baur G.N. (1976)[1] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái học nói chung và cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng, trong đó đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. Theo tác giả, các phương thức xử lý đều nhằm vào hai mục tiêu cụ thể: "Mục tiêu thứ nhất là nhằm cải thiện rừng nguyên
  5. 4 sinh vốn thường hỗn loài và không đồng tuổi bằng cách đào thải những cây quá thành thục và vô dụng để tạo không gian thích hợp cho các cây còn lại sinh trưởng. Mục tiêu thứ hai là tạo lập tái sinh bằng cách xúc tiến tái sinh, thực hiện tái sinh nhân tạo hoặc giải phóng lớp cây tái sinh sẵn có đang ở trạng thái ngủ để thay thế cho những cây đã lấy ra khỏi rừng trong khai thác hoặc trong chăm sóc nuôi dưỡng rừng sau đó". Chính nhờ quan điểm như vậy, tác giả đã đưa ra những tổng kết hết sức phong phú về các nguyên lý tác động xử lý lâm sinh. Catinot (1965)[5] nghiên cứu cấu trúc hình thái rừng thông qua việc biểu diễn các phẫu đồ rừng. Thông qua việc biểu diễn các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc sinh thái nhờ việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng phiến...tác giả cho rằng muốn ổn định hệ sinh thái rừng nhất thiết phải nắm vững quy luật vận động, biết cách điều tiết mối quan hệ trong sự phức tạp. Odum E.P (1971)[56] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ sở thuật ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm hệ sinh thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan điểm sinh thái học. Những kết quả của các tác giả đã làm sáng tỏ các khái niện về hệ sinh thái rừng và đây là những cơ sở nghiên cứu các nhân tố cấu trúc đứng trên quan điểm sinh thái học. Nó chính là nền tảng vững chắc cho các công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng hay ứng dụng đề xuất những biện pháp lâm sinh phù hợp. 1.1.1.2. Về cấu trúc tổ thành Sự phong phú của hệ thực vật rừng mưa nhiệt đới được nhiều nhà khoa học ghi nhận và nghiên cứu khá đầy đủ chi tiết. Nổi bật lên là một số tác giả như: Theo Schimper (1935) ở rừng Bắc Mỹ, trên diện tích 0,5 ha có đến 25-30 loài cây gỗ lớn; Brown (1941) cũng cho biết ở rừng mưa châu Âu hoặc Bắc Mỹ trong trường hợp cực đoan, rừng có thể bao gồm 20- 25 loài cây gỗ. Theo Richards P.W (1952)[31] trong rừng mưa nhiệt đới, trên mỗi hecta không mấy khi có ít hơn 40 loài cây gỗ, mà có trường hợp còn đến trên 100 loài. Nhiều loài cây gỗ lớn sinh trưởng hỗn hợp với nhau theo tỉ lệ khá bằng nhau, nhưng cũng có khi chỉ có một hoặc hai loài chiếm ưu thế.
  6. 5 Baur G.N (1976)[1] khi nghiên cứu rừng mưa ở khu vực gần Belem trên sông Amazôn, trên ô tiêu chuẩn diện tích khoảng hai hecta đã thống kê được 36 họ thực vật và trên ô tiêu chuẩn diện tích hơn bốn hecta ở phía bắc New South Wales cũng đã ghi nhận được sự hiện diện của 31 họ chưa kể cây leo, cây thân cỏ và thực vật phụ sinh. Trong rừng ẩm nhiệt đới châu Phi, theo Catinot. R (1974)[5] có đến vài trăm loài thực vật; còn trong tổ thành thực vật rừng ẩm nhiệt đới ở Đông Nam á thường có một nhóm loài ưu thế - nhóm họ dầu, chiếm đến 50 % quần thụ. Mức độ phong phú của thành phần thực vật trong rừng thứ sinh ở Nepal cũng đã được Kanel K.R. và Shrestha K (2001)[54] điểm qua, có đến trên 6.500 loài cây có hoa và 4.064 loài cây không hoa, trong đó có trên 1.500 loài nấm và hơn 350 loài địa y. Rõ ràng các công trình nghiên cứu của các tác giả đã cho thấy mức độ phong phú về tổ thành nhóm loài cây trong hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới. Những kết quả này đã góp phần rất lớn vào việc đề xuất những tác động hay những biện pháp kỹ thuật lâm sinh vào đối tượng rất phức tạp này. 1.1.1.3. Về cấu trúc tầng thứ Một số tác giả như Chevalier (1917), Mildbraed (1922) đã ngụ ý rằng mọi phương pháp dựa vào chiều cao của cây để phân cây cối thành tầng đều có tính chất tùy tiện và các "tầng" đó không có một thực tế khách quan. Richards P.W (1952)[31] đi sâu nghiên cứu cấu trúc rừng mưa nhiệt đới về mặt hình thái, ông cho rằng: một đặc điểm nổi bật của rừng mưa nhiệt đới là tuyệt đại bộ phận thực vật đều thuộc thân gỗ. Rừng mưa thường có nhiều tầng (thường có ba tầng, ngoại trừ tầng cây bụi và tầng cây thân cỏ). Trong rừng mưa nhiệt đới ngoài cây gỗ lớn, cây bụi và các loài thân cỏ còn có nhiều loài cây leo đủ hình dáng và kích thước, cùng nhiều thực vật phụ sinh trên thân hoặc cành cây "Rừng mưa thực sự là một quần lạc hoàn chỉnh và cầu kỳ nhất về mặt cấu tạo và cũng phong phú nhất về mặt loài cây". Bên cạnh đó, Catinot.R (1965)[5] cũng cho rằng rừng ẩm nhiệt đới có sự
  7. 6 phân hoá mạnh, những tầng trong quần thụ rõ nét, cụ thể là có một tầng vượt tán với những cây có chiều cao trên 40 m và những tầng bên dưới. Ngoài ra tác giả đã biểu diễn cấu trúc hình thái rừng bằng phẫu diện đồ ngang và đứng. Chính do tính chất phức tạp của sự phân tầng của rừng mưa nhiệt đới nên nhiều tác giả có ý kiến không thống nhất nhau trong cách phân chia tầng thứ. Mặc dù sự phân tầng và phương pháp thể hiện tầng tán trong rừng mưa nhiệt đới có các ý kiến trái ngược, nhưng các nghiên cứu vẫn tập chung lại ở quan điểm có sự phân tầng rõ rệt trong rừng mưa nhiệt đới được nhiều nhà khoa học xác nhận. 1.1.1.4. Về cấu trúc mật độ Theo Richards P.W (1952)[31], trong rừng mưa nhiệt đới ở Nam Mỹ và châu Phi, mật độ lâm phần (cây có đường kính ngang ngực từ 10 cm trở lên) biến động từ 390 - 1.710 c/ha, trong đó mật độ của những cây có đường kính từ 41cm trở lên khoảng 39 - 60 c/ha. Baur G.N (1962)[1] cũng cho biết: trong rừng mưa nguyên sinh ở Mã Lai trên diện tích một hecta có khoảng 550 cây có đường kính từ 10 cm trở lên, trong đó những cây có đường kính trên 48 cm từ 42 - 65 c/ha. Về mật độ tối ưu lâm phần, H. Thomasius (1972) đã xây dựng lý thuyết khoảng sống và hằng số không gian sinh trưởng liên quan tới chiều cao, mật độ và tuổi. Kairukstis (1980) xác định mật độ tối ưu lâm phần theo diện tích tán lá và mức độ che phủ. Nhưng các phương pháp này chỉ thích hợp cho nghiên cứu rừng thuần loài đều tuổi. Đối với rừng hỗn loài khác tuổi, việc xác định tuổi lâm phần rất khó khăn, cho nên khó áp dụng đối với rừng nhiệt đới hỗn loài khác tuổi. 1.1.1.5. Về nghiên cứu định lượng Trong các thập kỷ gần đây, xu hướng nghiên cứu cấu trúc rừng trên thế giới chuyển dần từ nghiên cứu định tính sang nghiên cứu định lượng, các mô hình toán học ngày càng được nhiều tác giả sử dụng để mô phỏng cấu trúc và mối quan hệ giữa các đại lượng cấu trúc rừng tự nhiên. a. Quy luật phân bố số cây theo đường kính. Quy luật phân bố số cây theo đường kính được quan tâm nhiều hơn cả. Các tác giả đã dùng phương pháp giải tích để tìm các phương trình toán học mô phỏng
  8. 7 phân bố này. Nghiên cứu định lượng các mối quan hệ, cấu trúc rừng nhiệt đới phải nói đến Rollet (1979)[57] là tác giả có nhiều công trình đi sâu vào lĩnh vực này. Ông đã mô phỏng quy luật phân bố số cây theo đường kính thân cây ở vị trí 1.3 m, dưới dạng phân bố xác suất. Việc mô phỏng phân bố số cây theo đường kính là quy luật kết cấu cơ bản của lâm phần được nhiều tác giả quan tâm, kiểu phân bố này thường được biểu diễn dưới dạng toán học với nhiều dạng hàm số khác nhau. Balley (1973)[52] sử dụng hàm Weibull, nhiều tác giả khác dùng hàm Hyperbol, Meyer, Poisson, ... Pierlot (1966) nhận thấy rằng, việc nắn đường thực nghiệm bằng phương trình mũ sẽ mất đi những sai số ở những cỡ kính nhỏ và đề xuất nên dùng hàm Hyperbol để nắn đường thực nghiệm là tốt hơn cả. J.L.F Batista và H.T.Z Docouto (1992)[53] khi nghiên cứu cấu trúc ở 19 ô tiêu chuẩn với 60 loài của rừng nhiệt đới ở Maranhoo – Brazil đã dùng hàm Weibull để nắn phân bố số cây theo đường kính và nhận xét là, hàm Weibull mô phỏng rất tốt phân bố này. b. Quy luật phân bố số cây theo chiều cao Phần lớn các tác giả khi nghiên cứu cấu trúc lâm phần theo chiều thẳng đứng đã dựa vào phân bố số cây theo chiều cao. Phương pháp kinh điển nghiên cứu cấu trúc đứng rừng tự nhiên là vẽ các phẫu diện đồ đứng với các kích thước khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu. Các phẫu đồ đã mang lại hình ảnh khái quát về cấu trúc tầng tán, phân bố số cây theo chiều thẳng đứng, từ đó rút ra các nhận xét và đề xuất ứng dụng thực tế. Phương pháp này được nhiều nhà nghiên cứu rừng nhiệt đới áp dụng, điển hình là các công trình của tác giả Richards.P.W (1952)[31] . Việc mô phỏng phân bố N/H bằng hàm toán học cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu, song việc sử dụng hàm nào tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của từng tác giả và đối tượng cụ thể. Nhìn chung các nghiên cứu về cấu trúc theo hướng định lượng trên cơ sở thống kê sinh học vẫn tập trung vào giải quyết phân bố số cây theo đường kính và
  9. 8 chiều cao. Các hàm toán học được sử dụng để mô phỏng rất đa dạng và phong phú, nhưng khi kiểm tra bằng tiêu chuẩn phù hợp của thống kê toán học thường chỉ đạt ở mức trung bình. Xu hướng nghiên cứu các quy luật phân bố của nhân tố điều tra, chủ yếu tập trung vào tìm các hàm toán học thích hợp để mô phỏng các quy luật phân bố của các nhân tố điều tra. c. Quy luật tương quan giữa đường kình ngang ngực và chiều cao vút ngọn Giữa chiều cao vút ngọn và đường kính ngang ngực của các cây trong lâm phần luôn tồn tại mối quan hệ chặt và tuân theo quy luật: khi tuổi tăng thì đường kính và chiều cao tăng theo và giữa chúng tồn tại mối quan hệ theo dạng đường cong. Cùng với tuổi tăng lên thì đường cong có xu hướng dịch chuyển lên trên Tiurin D.V (dẫn theo Đào Công Khanh, 1996)[20]. Ngoài ra thì độ dốc của đường cong chiều cao giảm theo tuổi (Prodan, 1965). Một số tác giả đã sử dụng các hàm toán học khác nhau để biểu thị mối quan hệ này. Có thể điểm qua một vài công trình nghiên cứu điển hình sau: Tovstolesse, DI (1930) đã lấy cấp đất làm cơ sở để nghiên cứu quan hệ Hvn/D1.3. Mỗi cấp đất tác giả lập một đường cong chiều cao bình quân ứng với mỗi cỡ đường kính để có dãy tương quan cho loài và cấp chiều cao. Sau đó dùng phương pháp biểu đồ để nắn dãy tương quan theo dạng đường thẳng của Gehrhardt và Kopetxki (dẫn theo Phạm Ngọc Giao, 1994)[15]. Các tác giả Naslund, M (1929); Assmanm, E (1936); Hohenadl, W (1936); Prodan, M (1944); Meyer, H.A (1952)[55] đã đề nghị các dạng phương trình: h  a  b1.d  b2 .d 2 (1.1) d2 h  1,3  (1.2) a  b.d 2 h  a  b. log d (1.3) h  k .d b (1.4) Petterson, H (1955) đề xuất sử dụng phương trình: 1 b a (1.5) 3 h  1,3 d
  10. 9 Curtis, R.O (1967) đã mô phỏng quan hệ giữa chiều cao với đường kính và tuổi theo dạng phương trình: 1 1 1 Log h  d  b1.  b2 .  b3 . (1.6) d A d. A 1.1.2. Tái sinh rừng tự nhiên Vai trò của tái sinh rừng hết sức quan trọng, nó quyết định sự tồn tại của thảm thực vật, tái sinh rừng là tiền đề cho quá trình diễn thế rừng, đảm bảo cho rừng luôn trong trạng thái vận động. Do vậy có thể nói những nghiên cứu về tái sinh đã góp phần làm sáng tỏ các quy luật tồn tại và phát triển của rừng cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Về phương pháp điều tra tái sinh, đa số tác giả sử dụng mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927), diện tích ô đo đếm thường từ 1- 4 m2; nhưng phổ biến nhất là phương pháp bố trí ô đo đếm theo hệ thống trong các diện tích nghiên cứu từ 0,25 - 1,0 ha. Davis và Richards (1933-1934), trong khi nghiên cứu rừng mưa ở khu vực sông Moraballi, Guana, đã thống kê số cây thứ tự từ thấp đến cao, đầu tiên là số mầm non dưới 2 m, kế đến là số cây non có đường kính dưới 10 cm và chiều cao trên 4,6 m, sau đó mới đến số cây gỗ có đường kính trên 10 cm, với cỡ đường kính bốn tấc Anh (10 cm); cây tái sinh đã được thống kê từ dưới hai mét cho đến chiều cao 4,6 m với đường kính dưới 10 cm. Van Steniss (1956)[58] đã nêu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng nhiệt đới là kiểu tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và kiểu tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng. Tái sinh phân tán liên tục, rừng mưa nhiệt đới có tổ thành loài cây phức tạp, khác tuổi nên thời kỳ tái sinh của quần thể diễn ra quanh năm. Đặc điểm tái sinh này có nguồn gốc sâu sa bắt nguồn từ bản chất của rừng mưa nhiệt đới và cũng là tiền đề tạo ra một thế hệ rừng mới hỗn loài, khác tuổi. Một đặc điểm tái sinh khác phổ biến ở rừng mưa nhiệt đới, thích hợp với loài cây ưa sáng là tái sinh vệt. Ánh sáng là nhân tố sinh thái ảnh hưởng mạnh đến sinh trưởng của cây tái
  11. 10 sinh, là quan điểm được nhiều nhà khoa học thống nhất. Blanford (1929) nhận thấy các loài cây ưu thế của rừng thường xanh tại Mã Lai tái sinh tốt nhất ở nơi có lỗ trống với bề ngang không rộng quá 6 m; ở nơi có lỗ trống lớn hơn, không thấy có cây tái sinh tại phần chính giữa. Kramer (1933) qua các quan sát trong rừng mưa miền cao ở núi Gedeh tại Java, cũng thấy rằng trong những khoảng trống diện tích không quá 1.000 m2, cây tái sinh sẵn có của loài ưu thế ở rừng nguyên sinh vẫn sống sót và sinh trưởng tốt. Nhưng nếu khoảng trống rộng đến 2.000- 3.000 m2, thì sự tái sinh thiên nhiên sẽ bị các loài cây của rừng thứ sinh mọc rất mạnh, đào thải hoàn toàn (Richards P.W(1952)[29]). Trong rừng mưa nhiệt đới, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng chủ yếu đến sự phát triển của cây con, còn đối với sự nẩy mầm và phát triển của mầm non thì ảnh hưởng này thường không rõ (Richards P.W(1952), Baur G.N (1962)[1,2]. Những kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng trên thế giới đã cung cấp các thông tin về phương pháp nghiên cứu, quy luật tái sinh tự nhiên ở một số vùng. Mặc dù vậy, thảm thực vật rừng nhiệt đới rất đa dạng và phức tạp, đời sống của nó gắn liền với điều kiện tự nhiên ở từng vùng địa lý. Vì thế cần tiếp tục nghiên cứu quy luật tái sinh tự nhiên của hệ sinh thái rừng ở các vùng địa lý khác nhau làm cơ sở cho việc phân tích và đề xuất các luận điểm khoa học một cách chính xác. Tóm lại, trên thế giới, các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều công trình nghiên cứu công phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh rừng. Những kết quả nghiên cứu đã làm sáng tỏ việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh rừng thường xanh nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng. Tuy nhiên, khi ứng dụng vào thực tiễn Việt Nam lại cần phải có một sự điều chỉnh phù hợp bởi vì nhiều nguyên do khác nhau. Thứ nhất đó là những nghiên cứu này được thực hiện tại những khu vực có điều kiện lập địa hoàn toàn khác so với điều kiện ở Việt Nam. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về cấu trúc và tái sinh tự nhiên ở mức độ trạng thái rừng còn thiếu. Cho nên việc vận dụng các kết quả này để đề xuất các biện pháp lâm sinh vào điều
  12. 11 kiện thực tế của rừng tự nhiên nước ta là vấn đề cần cân nhắc và nghiên cứu sâu thêm. Đây cũng chính là cơ sở để lựa chọn nghiên cứu cấu trúc rừng trong Luận văn này. 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Cấu trúc rừng 1.2.1.1. Cấu trúc tổ thành Nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên ở Việt Nam trên quan điểm hệ sinh thái, Thái Văn Trừng (1970, 1978)[42, 43] đã dựa trên số lượng và sinh khối nhóm loài ưu thế trong rừng nhiệt đới ẩm Việt Nam để phân định các ưu hợp và phức hợp. Nhóm loài ưu thế trong các ưu hợp đề nghị không quá 10 loài, tỉ lệ cá thể của mỗi loài ưu thế chiếm khoảng 5% và tổng số cá thể của 10 loài ưu thế đó phải chiếm 40- 50 % tổng số cá thể cây của các tầng lập quần trong quần thể trên đơn vị diện tích điều tra. Trường hợp độ ưu thế các loài cây không rõ ràng gọi là các phức hợp. Trong rừng tự nhiên hỗn loài ở Việt Nam, hiếm khi chỉ có một loài ưu thế duy nhất tạo thành các quần hợp như vùng ôn đới. Nguyễn Văn Trương (1983)[40], cho rằng trong rừng tự nhiên hỗn loài, chỉ tính loài cây gỗ từ trạng thái sào trở lên cũng có đến ba bốn chục loài trên một ha, nhưng trong đó loài cây gỗ lớn có thể vươn đến chiều cao 30m chỉ từ 10-20%. Để đánh giá tổ thành rừng, nhiều tác giả đã sử dụng công thức tổ thành trên tỷ lệ phần mười theo số cây, thiết diện ngang hoặc chỉ số IV%, trong đó phương pháp tính tỷ lệ tổ thành (IV%) theo phương pháp của Daniel Marmillod thường được các nhà khoa học vận dụng trong những công trình nghiên cứu cấu trúc rừng: [19], [28], [29], [36]. Nghiên cứu sự kết nhóm giữa các loài trong rừng thường xanh ở Đồng Nai, Nguyễn Văn Thêm (2004)[36] đã sử dụng bảng chéo 2x2, kiểm định tính độc lập giữa các loài cây dùng tiêu chuẩn 2; nếu hai loài có quan hệ với nhau sẽ tính cường độ liên hệ theo thống kê Lambda, Phi và Cramer’s.V và khi có mặt nhiều loài cây trên ô, mối liên hệ giữa hai loài được xác định bằng hệ số kết nhóm riêng phần. 1.2.1.2. Cấu trúc tầng thứ
  13. 12 Khác với một số tác giả nước ngoài về quan điểm tầng thứ trong rừng nhiệt đới, ở Việt Nam hầu như các nhà khoa học đều thống nhất là có sự phân tầng trong rừng tự nhiên. Thái Văn Trừng (1978)[43] đã phân rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở Việt Nam thành năm tầng: tầng vượt tán A 1, tầng ưu thế sinh thái A2, tầng dưới tán A3, tầng cây bụi thấp B và tầng cỏ quyết C. Trần Ngũ Phương (1970,2000)[27, 28] cho rằng số tầng nhiều nhất trong đai rừng nhiệt đới mưa mùa ở Việt Nam là năm, kể cả tầng cây bụi và thảm tươi; nhưng không tán thành việc phân tầng theo các cấp chiều cao. Thực tế nếu phân tầng mà không chỉ rõ giới hạn cấp chiều cao, thì việc phân tầng ấy chỉ đơn thuần mang tính chất định tính. Nguyễn Văn Trương (1973,1983)[39,40] khi nghiên cứu cấu trúc đứng của rừng tự nhiên ở các vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Giang, Bắc Kạn và Tuyên Quang, đã chia chiều cao rừng từ đỉnh cây cao nhất đến cây thấp nhất thành một số cấp chiều cao theo công thức Hoppman và gộp thành năm cấp chiều cao. Theo Đào Công Khanh (1996)[20] trong rừng mưa nhiệt đới, sự ứ đọng tầng tán hình thành tầng tích tụ ở một vài cấp chiều cao là tồn tại rõ rệt; Qua đây cho thấy quan điểm phân chia mặt cắt đứng của rừng thành các cấp chiều cao để có cơ sở định lượng cấu trúc, được nhiều nhà khoa học tán thành và áp dụng; nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về cự li cấp. 1.2.1.3. Về cấu trúc mật độ Nhằm mục đích xác định mật độ tối ưu cho lâm phần, Nguyễn Ngọc Lung (1987)[24] trong khi nghiên cứu trên đối tượng rừng thông ba lá Tây Nguyên, đã sử dụng ba phương trình kinh nghiệm biểu thị nhu cầu không gian dinh dưỡng, trong đó dạng phương trình GT = a +p.A ( GT là diện tích hình chiếu thẳng đứng tán lá, A là tuổi của lâm phần, a và p là các tham số) được chọn làm cơ sở để xây dựng mô hình mật độ hợp lí. Phương pháp này chỉ phù hợp cho đối tượng rừng thuần loài, khó áp dụng cho rừng hỗn loài khác tuổi. Trần Văn Con (1991)[8] đề nghị ứng dụng mô phỏng toán trong nghiên cứu
  14. 13 động thái rừng tự nhiên dựa trên tương quan giữa tổng số cây và tiết diện ngang của lâm phần rừng khộp, tính toán các tham số phù hợp cho mỗi dạng cấu trúc để xác định mật độ tối ưu của lâm phần; qua đó cũng cho biết rằng rừng khộp Tây Nguyên rất thưa, độ đầy chỉ đạt từ 0,4- 0,7. Về nghiên cứu hình thái phân bố cây rừng trên mặt đất, Nguyễn Hải Tuất (1990) bằng phương pháp kiểm tra mức độ sai khác giữa số trung bình khoảng cách từ một cây được chọn ngẫu nhiên đến cây gần nhất với trị số bình quân lí thuyết, kết hợp với sử dụng tiêu chuẩn U của phân bố chuẩn tiêu chuẩn đánh giá khi dung lượng mẫu đủ lớn, xác định hình thái phân bố cây rừng trên mặt đất cho các trạng thái rừng từ IIA đến IV. Vận dụng phương pháp trên Lê Sáu (1996)[32] áp dụng khi nghiên cứu phân bố cây ở các lâm phần rừng tự nhiên Kon Hà Nừng. Trần Cẩm Tú (1999)[45] triển khai trên đối tượng rừng tự nhiên ở Hương Sơn- Hà Tĩnh. Từ cự ly bình quân cây rừng tính toán theo phương pháp trên, kết hợp với việc xác định mô hình cấu trúc N/D định hướng, tính toán được mô hình cự ly bình quân tối ưu giữa các cây rừng theo cỡ kính phục vụ cho công tác bài cây khai thác, tỉa thưa nuôi dưỡng rừng, Bảo Huy (1993)[19]. 1.2.1.4. Về cấu trúc tuổi Một trong những nội dung cần đề cập khi nghiên cứu cấu trúc rừng đó là cấu trúc tuổi. Nhưng khác với rừng trồng, có thể xác định tuổi thông qua hồ sơ trồng rừng, còn đối với rừng tự nhiên nhiệt đới thì vấn đề này hết sức khó khăn và hầu như chưa có phương pháp nào để xác định chính xác. Vì thế, hiện nay các nghiên cứu về cấu trúc tuổi rừng tự nhiên ở Việt Nam vẫn còn hạn chế. Theo Phùng Ngọc Lan (1986)[22], nghiên cứu cấu trúc tuổi của rừng mưa nhiệt đới là vấn đề cực kì khó khăn vì hiện nay chưa đủ cơ sở tin cậy để căn cứ vào vòng năm xác định tuổi của các cây rừng nhiệt đới. 1.2.1.5. Nghiên cứu định lượng mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc a. Phân bố số cây theo đường kính và chiều cao Khi lập biểu thể tích cây đứng rừng tự nhiên miền bắc Việt Nam, Đồng Sĩ
  15. 14 Hiền (1974)[16] có kết luận phân bố N/D là phân bố giảm và tác giả đã dùng hàm Meyer và họ đường cong Pearson để mô tả phân bố này. Nguyễn Văn Trương (1983)[40] đã thử nghiệm dùng các hàm mũ, logarit, phân bố Poisson và phân bố Pearson để biểu thị cấu trúc số cây theo cấp kính của rừng tự nhiên hỗn loại, trong đó riêng phân bố Pearson không mang lại kết quả mong muốn. Trần Văn Con (1991)[8] dùng phân bố Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính cho rừng khộp ở Tây Nguyên; đề tài sử dụng để tham khảo phương pháp nghiên cứu. Nguyễn Ngọc Lung (1991)[25] qua nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên ở Hương Sơn, Kon Hà Nừng và một số địa phương khác, thấy rằng về đại thể phân bố N/D là phân bố giảm kiểu Meyer, ở rừng nguyên sinh thường xuất hiện một đỉnh nhỏ ngay sau cỡ đường kính nhỏ nhất và có thể một đỉnh quá thành thục ở cỡ đường kính lớn. Bảo Huy (1993)[19] từ kết quả thử nghiệm mô phỏng phân bố thực nghiệm N/D cho rừng ưu thế bằng lăng ở Đắc Lắc theo các dạng phân bố: Poisson, khoảng cách, hình học, Weibull và Meyer, kết luận phân bố khoảng cách và trường hợp riêng là phân bố hình học khái quát khá tốt cho phân bố thực nghiệm N/D của tổng thể. Trong khi đó, Lê Sáu (1996)[32], Trần Xuân Thiệp (1995)[37], khẳng định phân bố Weibull thích hợp nhất để mô tả phân bố N/D cho tất cả các trạng thái rừng tự nhiên, cho dù phân bố thực nghiệm có dạng giảm liên tục hay một đỉnh. Bên cạnh các nghiên cứu về phân bố N/D, thì phân bố N/H cũng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Bảo Huy (1993)[19], Lê Sáu (1996)[32], qua nghiên cứu phân bố N/H để tìm tầng tích tụ tán cây trong các kiểu rừng thường xanh và rừng hỗn loài bằng lăng chiếm ưu thế ở Kon Hà Nừng và Đắc Lắc, đều đi đến kết luận là phân bố N/H có dạng một đỉnh với nhiều đỉnh phụ hình răng cưa và hàm Weibull thích hợp nhất để mô tả phân bố này. Trong khi nhiều tác giả có xu hướng sử dụng hàm Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính và chiều cao rừng tự nhiên hỗn loại, Đào Công Khanh (1996)[20] đã dùng hàm sinh trưởng Schumacher để mô phỏng phân bố thực nghiệm N/D và
  16. 15 N/H (thông qua tần số luỹ tích) cho rừng hỗn loại ở Hương Sơn - Hà Tĩnh, cho biết kết quả khả quan hơn so với phân bố Weibull. Trong những năm gần đây bên cạnh các nghiên cứu cấu trúc với quy mô lâm phần, một hướng khác đang hình thành là nghiên cứu đi vào chi tiết hơn đến cấu trúc nhóm loài và loài. Theo Vũ Đình Phương và Đào Công Khanh (2001), trong rừng hỗn loài, từng loài cây tuy mọc phân tán nhưng vẫn có những quy luật về cấu trúc và tương quan riêng của chúng, đa số loài cây (55- 60%) có cấu trúc đường kính và chiều cao giống với cấu trúc tương ứng của lâm phần. Tóm lại, để nghiên cứu phân bố N/D và N/H trong các kiểu rừng thường xanh hỗn loài ở Việt Nam, nhiều tác giả thường sử dụng hàm Weibull, Meyer và phân bố khoảng cách, riêng phân bố Poisson ít được sử dụng hơn. Nhưng để có kết luận phù hợp cho đối tượng nghiên cứu, thống nhất với ý kiến của Nguyễn Văn Trương (1983)[40]: “Rừng tự nhiên hỗn loại ở tất cả các nước đều có những sắc thái giống nhau, điều đó không loại trừ sự khác biệt do tổ thành loài cây và điều kiện ngoại cảnh gây nên; và như vậy thì rõ ràng không thể nào không phải sử dụng nhiều dạng hàm số khác nhau để biểu thị cấu trúc của rừng”. b. Tương quan giữa các nhân tố điều tra: Trong quá trình nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên, mối quan hệ giữa các nhân tố điều tra được xác lập bằng các phương trình toán học ngày càng được chú trọng. Đồng Sĩ Hiền (1974)[16] đề nghị sử dụng phương trình logarit hai chiều hoặc hàm mũ để biểu thị tương quan H/D cho rừng tự nhiên Việt Nam. Giữa chiều cao với đường kính những cây trong lâm phần tồn tại mối liên hệ chặt chẽ. Mối liên hệ này không chỉ giới hạn trong một lâm phần mà tồn tại trong tập hợp nhiều lâm phần và khi nghiên cứu nó không cần xét đến tác động của hoàn cảnh (cấp đất) và tuổi. Thực tiễn điều tra rừng cho thấy, có thể dựa vào quan hệ HD xác định chiều cao tương ứng cho từng cỡ kính, mà không cần thiết đo cao toàn bộ. Tuy nhiên, về phương trình toán học cụ thể biểu thị quan hệ này lại phong phú và đa dạng. Đồng Sỹ Hiền (1974)[16] đã sử dụng phương trình Logarit hai chiều hoặc hàm mũ để mô tả quan hệ HD đồng thời cho thấy khả năng sử dụng một phương trình chung cho
  17. 16 cả nhóm loài cây có tương quan HD thuần nhất với nhau. Vũ Đình Phương (1975) cho rằng, có thể lập biểu cấp chiều cao lâm phần Bồ đề tự nhiên từ phương trình Parabol bậc 2 mà không cần phân biệt cấp đất và tuổi. Vũ Tiến Hinh (1988)[17] và một số tác giả khác như Phạm Ngọc Giao (1995) dùng phương trình Logarit một chiều xác lập quan hệ HD cho các lâm phần Thông đuôi ngựa. Bảo Huy (1993)[19], khi nghiên cứu tương quan HD của một số loài cây ưu thế: Bằng lăng, Cẩm xe, Kháo và Chiêu Liêu ở rừng rụng lá và nửa rụng lá khu vực Tây Nguyên, đã thử nghiệm bốn phương trình: h  a  b.d1,3 (1.7) h  a  b.logd1,3 (1.8) Logh  a  b.logd1,3 (1.9) Logh  a  b.d1,3 (1.10) Kết quả đã chọn được dạng phương trình thích hợp nhất là phương trình (1.9). Như vậy, trong thời gian qua, việc nghiên cứu cấu trúc rừng ở nước ta đã có những bước phát triển nhanh chóng và có nhiều đóng góp nhằm nâng cao hiểu biết về rừng, nâng cao hiệu quả trong nghiên cứu cũng như sản xuất kinh doanh rừng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về cấu trúc rừng gần đây thường thiên về việc mô hình hoá các quy luật kết cấu lâm phần và việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động vào rừng thường thiếu yếu tố sinh thái nên chưa thực sự đáp ứng mục tiêu kinh doanh rừng ổn định lâu dài. Bởi lẽ, bản chất của các biện pháp kỹ thuật lâm sinh là giải quyết những mâu thuẫn sinh thái phát sinh trong quá trình sống giữa các cây rừng và giữa chúng với môi trường. Muốn đề xuất được các biện pháp kỹ thuật lâm sinh chính xác, đòi hỏi phải nghiên cứu cấu trúc rừng một cách đầy đủ và phải đứng trên quan điểm tổng hợp về sinh thái học, lâm học và sản lượng. 1.2.2. Tái sinh rừng tự nhiên Bên cạnh các nghiên cứu về cấu trúc, TSTN rừng tự nhiên Việt Nam cũng đã được nhiều tác giả quan tâm.
  18. 17 Thái Văn Trừng (1978)[43] đã nêu hai cách TSTN của các xã hợp thực vật rừng nhiệt đới nguyên sinh hay thứ sinh là tái sinh liên tục dưới tán kín rậm của những loài chịu bóng và tái sinh theo vệt để hàn gắn các lỗ trống đầu tiên với các loài cây tiên phong. Qua đó tác giả cũng khẳng định ánh sáng là nhân tố sinh thái đã khống chế và điều khiển quá trình TSTN. Về ảnh hưởng của nhân tố ánh sáng đến quá trình tái sinh, theo Nguyễn Hồng Quân (1984) do những cây có đường kính 12- 30 cm với chiều cao khoảng 11- 20 m, tạo nên tầng tán chính của rừng, tầng này không bị tác động qua khai thác, gây nên sự ứ đọng tán, không cho ánh sáng lọt xuống gây ảnh hưởng đến tái sinh của loài cây ưa sáng. Nguyễn Văn Trương (1986)[41] cho rằng cây tái sinh là cây mọc tự nhiên có kích thước tiếp cận với chuỗi thống kê hiện hành. Nếu chuỗi thống kê bắt đầu từ 10 cm trở lên, thì số cây TSTN đạt kích thước 5 cm đường kính mới gọi là cây tái sinh. Quan điểm này hoàn toàn mang tính toán học. Nhất trí với quan điểm của Thái Văn Trừng (1999)[44]: "trong động thái của một hệ sinh thái, cần nghiên cứu quá trình TSTN, từ lúc ra hoa, kết quả đến nẩy mầm hạt giống và sự phát triển từ giai đoạn cây mạ đến các giai đoạn cây non, cây nhỡ, cây trưởng thành…". Do vậy nếu chỉ tập trung thống kê cây tái sinh từ cỡ đường kính 5cm trở lên, không quan tâm đến lớp cây nhỏ hơn sẽ không đánh giá được chính xác đặc điểm của quá trình TSTN. Gần đây phương pháp định lượng cũng đã được nhiều tác giả áp dụng trong khi nghiên cứu TSTN. Nguyễn Văn Thêm (1992)[35] dùng phân bố Thomas và Neyman để mô phỏng phân bố số cây tái sinh theo diện tích trong nghiên cứu tái sinh dầu song nàng ở rừng kín ẩm thường xanh và nửa rụng lá tại Đồng Nai. Đinh Quang Diệp (1993) sử dụng phân bố khoảng cách và hình học để mô phỏng phân bố N/H của cây tái sinh rừng khộp Đắc Lắc. Ngô Kim Khôi (1999) dùng tiêu chuẩn U của Clark và Evans để nghiên cứu hình thái phân bố cây tái sinh trên bề mặt đất rừng; chọn hàm Meyer để mô hình hoá quy luật cấu trúc tần số phân bố số cây, số loài tái sinh theo cấp H cho rừng vùng đệm khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Mát- Nghệ An,...
  19. 18 Thực tế cho thấy, với điều kiện nước ta hiện nay, nhiều khu vực vẫn phải trông cậy vào tái sinh tự nhiên còn tái sinh nhân tạo mới chỉ được triển khai trên quy mô hạn chế. Vì vậy, những nghiên cứu đầy đủ về tái sinh tự nhiên cho từng đối tượng rừng cụ thể là hết sức cần thiết nếu muốn đề xuất biện pháp kỹ thuật chính xác. Trong nghiên cứu cấu trúc rừng, hầu hết các tác giả đi sâu vào việc tìm ra hàm toán học thích hợp, mô phỏng tốt các quy luật phân bố thực nghiệm và các quy luật tương quan. Trong các quy luật phân bố thực nghiệm thì quy luật phân bố số cây theo đường kính và quy luật phân bố số cây theo chiều cao là hai quy luật được quan tâm đặc biệt, vì thông qua hai quy luật này, có thể biết được những quy luật cấu trúc cơ bản của lâm phần về kết cấu mật độ và tầng thứ, để qua đó có những giải pháp tác động thích hợp vào rừng, nhằm điều chỉnh cấu trúc rừng, dẫn dắt rừng đến cấu trúc có thể đáp ứng được các mục tiêu mong muốn.
  20. 19 Chương 2 MỤC TIÊU, GIỚI HẠN, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Mục tiêu nghiên cứu - Về lý luận: Góp phần bổ sung cơ sở khoa học về đặc điểm cấu trúc rừng bốn huyện vùng cao phía bắc tỉnh Hà Giang. - Về thực tiễn: + Bước đầu tìm hiểu và xác định một số đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên và rừng trồng cho một số trạng thái rừng trên địa bàn bốn huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang + Đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh và mô hình phát triển rừng cụ thể tại khu vực nghiên cứu. 2.2. Giới hạn nghiên cứu 2.2.1. Giới hạn về phạm vi, đối tượng nghiên cứu Đề tài giới hạn trong phạm vi nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng thuộc đối tượng: - Rừng tự nhiên: + Rừng núi đất lẫn đá, trạng thái IIA, IIB, IIIA2; + Rừng trên núi đá vôi trạng thái IIA; - Rừng trồng (rừng hồn giao: Vối thuốc - Sa mộc - Thông và rừng thuần loài: Sa mộc, Thông mã vĩ, Mỡ) 2.2.2. Địa điểm nghiên cứu Tại bốn huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang gồm các huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. 2.3. Nội dung nghiên cứu Căn cứ vào mục tiêu, giới hạn phạm vi nghiên cứu, nội dung nghiên cứu được xác định như sau: 2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên - Phân loại trạng thái rừng tại khu vực nghiên cứu, - Tổ thành loài tầng cây cao cho các trạng thái, - Quy luật phân bố số cây theo đường kính (N/D1.3),
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2