intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tuyển chọn vi khuẩn malolactic và ứng dụng trong công nghệ sản xuất rượu vang

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:81

191
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Rượu vang là đồ uống có cồn được sản xuất từ quá trình lên men dịch quả nói chung mà phổ biến nhất là từ quả nho. Do nho là loại quả có thành phần hóa học thích hợp cho nấm men phát triển và có hương thơm đáp ứng được những yêu cầu cho sản xuất rượu vang chất lượng cao. Luận văn sau đây đi nghiên cứu tuyển chọn vi khuẩn malolactic và ứng dụng trong công nghệ sản xuất rượu vang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tuyển chọn vi khuẩn malolactic và ứng dụng trong công nghệ sản xuất rượu vang

  1.  ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Nguyễn Đình Dũng NGHIÊN CỨU TUYỂN CHỌN  VI KHUẨN MALOLACTIC VÀ ỨNG DỤNG  TRONG CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT RƯỢU VANG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
  2. Hà Nội –  2014
  3. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Nguyễn Đình Dũng NGHIÊN CỨU TUYỂN CHỌN  VI KHUẨN MALOLACTIC VÀ ỨNG DỤNG  TRONG CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT RƯỢU VANG Chuyên ngành: Vi sinh vật học Mã số: 60 42 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC                                                   NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA  HỌC:                                                        TS. Trương Hương Lan                                                             GS.TS. Phạm Văn Ty
  4. Hà Nội –  2014
  5. LỜI CẢM ƠN Trong quá trinh th ̀ ực tập tốt nghiệp và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận  được sự giúp đỡ về nhiều mặt của các cấp lãnh đạo, các tập thể và các cá nhân. Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trương Hương Lan   ­ Chủ nhiệm bộ môn thực phẩm và dinh dưỡng ­ Viện Công nghiệp thực phẩm,   người đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ  bảo cặn kẽ  cho tôi trong suốt quá trình   thực hiện và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ  sự  kính trọng và lòng biết  ơn sâu sắc tới GS.TS.  Phạm Văn Ty ­ Khoa Sinh học, trường Đại học Khoa học Tự  nhiên, thầy đã  hướng dẫn, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và  hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi xin gửi lời cảm  ơn chân thành đến toàn thể  cán bộ, nhân viên trong   Phòng Thực phẩm và dinh dưỡng ­ Viện Công nghiệp thực phẩm đã quan tâm,  giúp đỡ  và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình thực hiện  luận văn tốt nghiệp này. Tôi cũng xin cảm ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo, trong Khoa Sinh   học trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội đã chỉ  bảo,  tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận  văn. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám  ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và những  người thân đã  ở  bên tôi, tạo điều kiện cả  về  vật chất lẫn tinh thần trong suốt   quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2014 Học viên
  6.                                                                                               Nguy ễn Đình Dũng
  7. MỤC LỤC
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG 3.4.2 Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình lên men malolactic................................................57 DANH MỤC CÁC HÌNH 3.4.2 Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình lên men malolactic................................................57 3.4.2 Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình lên men malolactic................................................57
  9. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT AG Acid Grape ­ Nước nho axít CoA Coenzyme A CFU Colony forming unit ­ Đơn vị hình thành khuẩn lạc HDL High density lipoprotein ­ Lipoprotein có tỷ trọng cao LAB Lactic acid bacteria ­ Vi khuẩn lactic MRS De Man, Rogosa and Sharp ­ Môi trường MRS NAD+ Nicotinamit Adenin Dinucleotide NADH Nicotinamit Adenin Dinucleotide Hydrogen EO Chế phẩm Essential oenos  OD Optical density ­ Mật độ quang MLF Melolactic fermentaeion ­ Lên men malolactic
  10. MỞ ĐẦU Rượu vang là đồ  uống có cồn được sản xuất từ  quá trình lên men dịch   quả nói chung mà phổ biến nhất là từ quả nho. Do nho là loại quả có thành phần   hoá học thích hợp cho nấm men phát triển và có hương thơm đáp  ứng được   những yêu cầu cho sản xuất rượu vang chất lượng cao. Trải qua l ịch s ử  hình  thành và phát triển lâu đời, rượu vang nho với nồng độ  rượu vừa phải từ  10­ 14%v là đồ uống có lợi cho sức khỏe của con người với giá trị  dinh dưỡng cao,   hương vị thơm ngon rất được ưa chuộng ở khắp nơi trên thế giới. Từ nhiều năm  nay, rượu vang nho đã trở thành thức uống phổ biến ở nước ta. Thị trường rượu  vang trong nước rất phát triển, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cả  về  chất và lượng. Theo số  liệu của Tổng cục thống kê, kể  từ  năm 2010 đến nay,  rượu vang nhập khẩu đã tăng khoảng 25%/ năm. Trong đó, Ninh Thuận được  biết đến là vùng trồng nho chính có sản lượng lớn nhất cả nước, hiện trồng chủ  yếu là giống nho Red Cardinal thường dùng để ăn tươi hơn là để lên men rượu vì  cho màu sắc nhạt, không hấp dẫn. Do vậy, chất lượng rượu vang Việt Nam hiện   nay chưa thật cao khi so sánh với rượu vang nhập khẩu do hương và vị sản phẩm  chưa đạt tiêu chuẩn, màu sắc dễ  bị  nâu hoá, sản phẩm bị  lắng cặn…Với tiềm  năng về thị trường lớn như ở nước ta, việc cải tiến công nghệ để sản xuất rượu  vang nho là vấn đề đang rất được quan tâm. Nhiều nước trên thế  giới đã giải quyết được vấn đề  này bằng những   nghiên cứu hoàn thiện công nghệ  sản xuất rượu vang nho đi sâu làm rõ các cơ  chế như: sự chuyển hóa các thành phần trong nho thành các chất thơm trong rượu   vang, tác động của điều kiện môi trường đến sự sinh trưởng và phát triển của vi   khuẩn malolactic trong quá trình lên men malolactic[26, 27]…Quá trình lên men  rượu vang là quá trình lên men thực hiện chủ yếu nhờ nấm men và một phần bởi   vi khuẩn lactic có mặt trên quả  nho hoặc trên thiết bị  làm rượu. Nấm men sử  dụng hệ  enzym của mình để  chuyển hóa glucoza và một số  đường khác thành   rượu và các sản phẩm phụ khác (rượu bậc cao, este, các axít hữu cơ...), trong khi  1
  11. đó vi khuẩn lactic chuyển hóa axít malic thành axít lactic và CO 2 bằng quá trình  lên men malolactic. Lên men malolactic đóng vai trò quan trọng trong sản xuất   rượu vang đỏ và 1 số loại vang trắng, đây là một quá trình không thể thiếu trong  việc làm biến đổi các thành phần hóa học, mang lại cho rượu vang những hương   vị đặc trưng. Với điều kiện, công nghệ  sản xuất rượu vang của Việt Nam hiện   nay, việc phân lập và tuyển chọn một số chủng vi khuẩn lactic để tối ưu hóa quá   trình lên men malolactic là rất cần thiết. Điều này đã giúp các nhà sản xuất rượu  vang kiểm soát quá trình sản xuất rượu vang được tốt hơn, giảm rủi ro tạo ra các   sản phẩm hỏng hoặc có chất lượng không  ổn định, đồng thời làm đa dạng các   chủng loại rượu vang phục vụ cho nhu cầu người tiêu dùng. Từ đó mở ra hướng  nghiên cứu mới cho công nghệ sản xuất rượu vang nho chất lượng cao của Việt   Nam giải quyết những vấn  đề  thực tiễn của ngành  sản xuất rượu vang trong  nước.Vì   vậy,   chúng   tôi   tiến   hành   đề   tài:  “Nghiên   cứu   tuyển   chọn   vi   khuẩn   malolactic và ứng dụng trong công nghệ sản xuất rượu vang”. 2
  12. CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 Giới thiệu chung về rượu vang 1.1.1 Vài nét về rượu vang Rượu vang là thức uống có cồn được sản xuất bằng phương pháp lên  men không chưng cất từ dịch nho. Nhờ tác nhân lên men (lên men một giai đoạn)  hoặc nhờ  nấm men và vi khuẩn lactic (lên men hai gian đoạn) đã tạo cho rượu  vang có hương vị  đặc trưng, cũng như  giá trị  dinh dưỡng cao hơn hẳn các loại  rượu khác. Thuật ngữ “Rượu vang”­ tiếng la tinh là “vinum”, được bắt nguồn từ  chữ  “vinea”, có nghĩa là cây nho. Trước tiên việc sản xuất rượu vang được tiến   hành bằng cách ép lấy dịch quả nho, sau đó lên men hoàn toàn tự nhiên trong các   hang đá. Người La Mã có công truyền bá nghề  trồng nho làm rượu sang Pháp  Marseilles từ thế kỉ II, sau đó là vùng Champagne và Monselle Valley vào khoảng  thế  kỉ  IV. Pháp bắt đầu xuất khẩu rượu vang sang Anh và Đức vào thế  kỉ  XII.   Vào năm 1857, lần đầu tiên trong lịch sử, Louis Pasteur công bố  những nghiên  cứu về quá trình lên men, xác định rõ vai trò quan trọng của nấm men trong quá  trình lên men rượu và sự biến đổi hoá sinh trong quá trình lên men của nấm men   [8]. Đến nay đã có hàng trăm loại rượu vang khác nhau đáp ứng được nhu cầu đa  dạng của người tiêu dùng. Phân loại rượu vang được dựa trên màu sắc: vang màu  và vang trắng, trong các loại vang màu thì rượu vang đỏ có giá trị cao nhất. Ngày  nay nguyên liệu chế biến rượu vang được mở rộng ra các loại nguyên liệu quả khác   nhau, phong phú về màu sắc và chất lượng. Trải qua nhiều thế  kỷ, rượu vang đã khẳng định vai trò của nó với sức   khỏe con người. Louis Pasteur đã nhiều lần khẳng định: “Rượu vang là loại đồ  uống rất vệ  sinh và rất có lợi cho sức khoẻ”.  Khoa học hiện nay đã phát hiện   trong rượu vang đỏ có chứa chất trans­resveratrol là một chất chống oxi hóa, gặp  trong vỏ  của quả  nho đỏ  (vỏ  mỗi quả  chứa khoảng 2µg trans­resveratrol). Các  polyphenol trong Chất này có tác dụng trung hòa các tác nhân oxi hóa, chẳng hạn   các gốc tự  do được tạo thành trong quá trình trao đổi chất bình thường của tế  3
  13. bào. Các gốc tự do này sẽ gây hư hại mô nếu không nhanh chóng được loại bỏ.   Chính tác dụng nói trên của trans­resveratrol đã góp phần làm giảm nguy cơ  tử  vong do bệnh nhồi máu cơ tim ở người [30]. 1.1.2 Công nghệ sản xuất rượu vang [7, 8, 12] Lên men là một quá trình trao đổi chất dưới tác dụng của các enzyme  tương ứng. Tùy theo sản phẩm tích tụ sau quá trình lên men mà người ta chia các  kiểu lên men khác nhau. Có hai hình thức lên men chính là lên men yếm khí và lên   men hiếu khí.   Lên men rượu là quá trình lên men yếm khí với sự  có mặt của  nấm men, chúng sẽ  chuyển hóa đường thành ethanol và CO 2.  Thực chất đây là  quá trình oxi hoá ­ khử  có mặt các enzyme của nấm men. Năng lượng sinh ra   phục vụ cho hoạt động sống của nấm men hoặc bị tiêu hao dưới dạng nhiệt [7].  Sự  thay đổi nhiệt độ  trong quá trình lên men có thể  dẫn tới sốc nhiệt làm  ảnh  hưởng tới hoạt tính của nấm men. Do vậy giữ  nhiệt độ  ổn định trong quá trình  lên men là một yếu tố quan trọng giúp quá trình lên men được hoàn thành. Nấm   men nhạy cảm nhất với nhiệt độ trong giai đoạn đầu phát triển và nhân lên và nó   trở  nên chống chịu tốt hơn trong giai đoạn sau. Do vậy đối với lên men rượu   vang thì giai đoạn đầu của quá trình lên men nên duy trì  ở  nhiệt độ  18­22 oC và  sau đấy cho phép tăng dần lên [7, 12]. Nhiệt độ lên men ban đầu quá cao có thể là  nguyên nhân gây ra hiện tượng ì ở cuối quá trình lên men. Quá trình lên men rượu chia làm hai thời kỳ chính: ­ Thời kỳ  phát triển sinh khối: giai đoạn này với sự  có mặt của oxy, tế  bào   nấm men phát triển sinh khối. ­ Thời kỳ lên men chuyển đường thành rượu và CO2: giai đoạn này nấm men  hấp thụ các chất dinh dưỡng và sử dụng các enzyme sẵn có của mình thực hiện  xúc tác sinh học trong quá trình trao đổi chất để  duy trì sự  sống, tạo thành rượu   và CO2. 4
  14. Sản phẩm thu hồi của quá trình lên men rất phức tạp. Ngoài ethanol còn  nhiều chất khác như este, rượu bậc cao, các axit hữu cơ, glycerol, dầu fusel... Tỷ  lệ các sản phẩm phụ này phụ thuộc vào điều kiện của môi trường lên men. Trong quá trình này, nấm men chuyển hóa đường thành rượu và giải  phóng CO2 dưới tác dụng xúc tác của enzyme do nấm men tạo ra theo con đường   Enol­pyruvat [7]. Nho đỏ Nghiền/chà tách cuống Cuống SO2 Sulfite hóa Ngâm Tách dịch nho rỉ Tách cặn Cặn Nấm  Hiệu chỉnh thành phần  dich nho Hoạt hóa nấm men Lên men Vi khuẩn  Lên malolactic lactic Ủ rượu Ổn định rượu Làm trong Cặn Rót sản phẩm Rượu  Vang 5
  15. Hho Sơ đồ: 1.1 Quy trình công nghệ sản xuất rượu vang đỏ trên thế giới. Trong quả nho và nhiều loại quả khác, hầu như chỉ có đường khử glucoza,  fructoza. Vì vậy nếu sử dụng dịch lên men hoàn toàn từ  dịch ép quả thì quá trình  lên men rất thuận lợi. Sản phẩm thu hồi của quá trình lên men rất phức tạp.  Ngoài etanol, còn có nhiều các hợp chất khác như este, rượu bậc cao, các axít hữu  cơ, glyxerol... Este:  Các este được cho là có ý nghĩa lớn nhất đối với sự  hình thành  hương vị rượu vang [40]. Mùi quả đặc trưng của vang chủ yếu nhờ vào một hỗn  hợp của hexyl axetat, etyl caprilat. Este có mặt nhiều nhất trong rượu vang là etyl  axetat. Nó được hình thành trong quá trình lên men và trong quá trình lưu giữ   ở  thùng gỗ  sồi. Ngưỡng cảm nhận của etyl axetat là 160 mg/l [41]. Trên ngưỡng   này, nó ảnh hưởng xấu đến hương vị của rượu nhưng ở nồng độ thấp hơn thì nó   lại đóng góp tích cực vào giá trị cảm quan của vang. Rượu bậc cao:  Rượu bậc cao được hình thành trong quá trình lên men  rượu và đạt tới nồng độ  từ  150­550 mg/l [41]. Rượu bậc cao và các este của nó   đóng vai trò quan trọng đến việc tạo hương cho rượu. Các rượu bậc cao chủ yếu   là các isobutyl và các amyl alcohol. Ở nồng độ thấp hơn 300 mg/l, nó tạo hương  rất tốt cho rượu nhưng  ở  nồng độ  cao hơn, hương của nó không chấp nhận   được.  Các axít hữu cơ: Các axít hữu cơ có tác dụng làm bền và nâng cao giá trị  cảm quan của rượu, đặc biệt là rượu vang trắng [31]. Đặc tính bảo quản của nó   6
  16. cũng làm tăng độ  bền hóa lý và vi sinh vật của rượu vang. Các axít hữu cơ  chủ  yếu  được   hình  thành  trong  quá   trình  lên  men  là   axít  lactic,   axít   sucxinic,   axít  axetic, ngoài ra còn có một lượng nhỏ  axít butyric, axít formic và propionic,...   nhưng nhiều hơn cả là axít lactic và axít axetic. Các axít hữu cơ có tác dụng làm  giảm pH môi trường trong quá trình lên men. Chúng ít ảnh hưởng đến thành phần  hương của rượu trừ axít axetic tạo ra mùi dấm chua. Không thể sản xuất ra rượu  mà không có ít axít axetic nào. Hàm lượng trung bình của nó trong rượu vang bàn   là nhỏ  hơn 0,4g/l trong khi ngưỡng phát hiện của nó là 3g/l. Nhiệt độ  lên men  malolactic cao thúc đẩy sự tạo thành axít bay hơi nhiều hơn [27]. Ngoài ra, các thành phần như aldehyt, glyxerol được tạo ra bởi nấm men  trong quá trình lên men đều có tác dụng tạo nên hương thơm đặc trưng của rượu   vang. Quá trình lên men rượu đã giải phóng 40 kcal năng lượng tự  do trên một   phân tử đường. Quá trình lên men thường chứa khoảng 180g đường/lít, do đó sự  giải phóng nhiệt về lí thuyết sẽ làm cho nhiệt độ  lên men tăng từ  20oC lên 45oC  [32].  Như   vậy,   ban   đầu   là   quá   trình   lên   men   rượu   được   nấm   men  Saccharomyces cerevissiae  đảm nhận. Tiếp theo là hoạt động của các vi khuẩn  Leuconostoc oenos, Lactobacillus, Pediococcus chuyển hoá đường sót trong rượu  vang non và quan trọng hơn cả là quá trình lên men axít malic thành axít 1 actic và  axít xitric thành axít axetic, axetoin, diaxetyl, butađiol 2­3, góp phần đáng kể vào  sự hình thành hương vị đặc trưng của rượu vang, “Đây chính là quá trình lên men  Malolactic”. Trong công nghệ  sản xuất rượu vang, quá trình lên men malolactic   được tiến hành sau khi lên men chính, dịch lên men được gọi là “vang non” được   tiến hành lắng gặn cặn và được chuyển sang bồn hay nồi lên men tiếp theo [4]. 1.2 Vi khuẩn lactic Vi khuẩn lactic là một bộ phận của hệ vi sinh vật tự nhiên trên quả nho,   trong dịch đường và rượu vang. Vi khuẩn lactic là những tế bào Gram dương, dị  dưỡng hoá năng hữu cơ, hoạt tính catalaza âm tính và axít lactic được xem là sản  7
  17. phẩm cuối cùng của quá trình trao  đổi chất của chúng  [4].  Chính pH axít, hàm  lượng êtanol và các thành phần khác của rượu vang tạo ra áp lực chọn lọc đối  với các vi khuẩn lactic. Chỉ  có một số  loài rất nhỏ  có khả  năng tự  phát triển  trong  các loại dịch đường và rượu vang. Các loài thường gặp trong sản xuất   rượu vang chủ  yếu thuộc các giống sau:  Pediococcus, Leuconostoc, Oenococcus  và Lactobacillus. Sự  xuất hiện của các loại vi khuẩn lactic này trên bề  mặt quả  nho là rất nhỏ, khoảng 100 tế bào/g quả   [43]. Mật độ  quần thể  vi khuẩn lactic   phụ  thuộc rất nhiều vào điều kiện khí hậu trong những ngày cuối cùng của quá   trình chín, độ chín và trạng thái vệ sinh của quả nho. Các quần thể vi sinh vật có  mặt nhiều hơn trên vỏ  quả  nho chín hoặc có tình trạng vệ  sinh kém. Khi quá   trình chín của quả nho kết thúc bởi một giai đoạn nóng và ít mưa kéo dài, thì các   vi khuẩn lactic sẽ xuất hiện nhiều hơn trên bề mặt quả nho. Tuy nhiên, các loài  vi sinh vật ban đầu này xuất hiện rất ít trong rượu vang mà phần lớn là các loại   vi khuẩn nhiễm tạp từ các dụng cụ làm rượu trong các giai đoạn khác nhau diễn   ra trong quá trình bơm dịch nước nho vào thùng lên men. Mặc dù người ta có thể  bắt gặp trong các loại rượu vang một số  vi khuẩn tự  nhiên từ  quả  nho, nhưng  chủ yếu vẫn là các vi khuẩn có nguồn gốc từ các thiết bị trong hầm rượu. Tương   tự  như  vậy đối với trường hợp của nấm men. Nấm men tự  nhiên trên bề  mặt   quả tự phát triển sau các thao tác công nghệ khác nhau diễn ra tiếp sau quá trình   thu hái và quá trình chuyển bơm dịch nước nho vào thùng lên men, cho tới tận khi  dịch đường nước nho được cấy giống. Tuy nhiên, cũng có thể là có sự phát triển   của các loại nấm men có nguồn gốc từ các vật liệu tiếp xúc với dịch nước nho.   Do vậy, sau giai đoạn thu hoạch nho, các nấm men nhanh  chóng phát triển và  chiếm lĩnh hầm rượu. Trên thực tế, người ta vẫn chưa làm sáng tỏ  được là con  đường nào trong hai con đường gieo  giống tự  nhiên này là có vai trò quan trọng   hơn. Trong suốt quá trình sản xuất rượu vang, các vi khuẩn lactic phát triển,   không chỉ về số lượng mà còn có cả sự thay đổi của các loài. Vi khuẩn phân lập  8
  18. được trên vỏ quả nho trước khi thu hoạch thuộc chủ yếu là các loài  Lactobacillus  plantarum, L. hilgardii và L. Casei. Loài Oenococcus oeni  trước đây được gọi là  Leuconostoc oenos xuất hiện muộn hơn nhưng lại là quan trọng nhất, rất hiếm   khi chúng có mặt trên lá nho, quả  nho và ch ỉ có số  lượng rất ít. Trong thực tế,   loài này rất ít xuất hiện  ở  giai đoạn đầu của quá trình lên men. Các loại trực  khuẩn và cầu khuẩn xuất hiện trên quả  nho thường   xuyên hơn so với  O.oeni.  Trong số  tất cả  các loài này nói trên, loài cuối cùng  O.oeni  được  coi  là có khả  năng chống chịu cao nhất đối với các điều kiện môi trường bất lợi của rượu   vang như pH thấp, hàm lượng cồn và SO2 cao và do vậy chịu trách nhiệm chính  cho quá trình lên men malolactic trong đa s ố  các tr ườ ng h ợp [4]. Số  lượng tế  bào vi khuẩn lactic đạt 103 ­ 104 tế  bào/ml sau quá trình ép  nho [43]. Dịch nước nho ngay sau khi được đưa đến thùng lên men có chứa một   hệ vi sinh vật rất đa dạng, phần lớn bao gồm các loài Lactobacillus plantamm, L.  casei, L. hilgardii, L. brevis, Pediococcus dcimnosLis, p. pentosaceus, Leuconostoc   mensenteroides và Oenococcus oeni. Tuy nhiên, trong tình trạng vệ sinh kém hoặc  trong các điều kiện vận chuyển hoặc mức độ  sạch của các thiết bị  trons, hầm  rượu không cao, số lượng tế bào vi khuẩn lactic có thể lên tới 106 tế bào/ml. Bên  cạnh đó, trong giai đoạn đầu của quá trình lên men rượu, các tế  bào nấm men  cũng có số lượng tương tự. Điều này rất có thể  dẫn đến sự  nguy cơ cạnh tranh   pháp triển giữa vi khuẩn và nấm men. Hơn nữa pH của dịch nước nho chín kỹ  thường rất cao tạo điểu kiện thuận lợi cho các vi khuẩn. Đây là tác nhân quyết  định chính tới số lượng của quần thể các vi khuẩn và đối với sự  phát triển của   chúng trong giai đoạn đầu của quá trình lên men. Trong quá trình sản xuất rượu   vang, có lên men malolactic, quần thể  vi khuẩn tự  nhiên pháp triển trải qua rất  nhiều pha khác nhau. Trong những ngày đầu tiên của quá trình lên men rượu, các  loại vi khuẩn và nấm men tự phát triển. Nhưng các nấm men thích nghi với dịch   đường của nho nhiều hơn, tự  sinh sản rất nhanh đạt tới các quần thể  rất lớn.   Lafon­ Lafourcade, 1983 đã bắt gặp, sự  phát triển của các vi khuẩn lactic đồng  9
  19. thời với sự phát triển của các nấm men trong giai đoạn đầu của quá trình lên men  nhưng nó chỉ dừng lại  ở giới hạn từ 10 4 đến 105 tế bào vi khuẩn lactic/mL [43].  Sự phát triển này phụ thuộc vào các điều kiện hoá lý của môi trường và sự phát  triển này còn cao hơn khi pH cao và hàm lượng SO 2 thấp [29]. Sự phát triển của  các vi khuẩn laclic trong giai đoạn đầu của quá trình lên men nrợu mang tính   chuyển tiếp. Trong giai đoạn hoạt động mạnh nhất của quá trình lên men rượu  và tới tận khi hàm lượng đường đã bị  cạn kiệt, số  lượng các vi khuẩn giảm  xuống nhanh chóng, chỉ  còn 102 ­ 103 tế  bào/ml và thậm chí còn thấp hơn do sự  cạnh tranh với các loại nấm men và các điều kiện môi trường. Trong quá trình  lên men rượu, sự cạnh tranh của nhiều loài vi khuẩn khác nhau diễn ra liên tục và  tới cuối quá trình lên men rượu thì chỉ  có những loài chịu được với môi trường  êtanol tốt hơn tồn tại được, đặc biệt là các vi khuẩn O.oeni [35]. Cuối quá trình  lên men rượu, sẽ còn khoảng 102 ­ 103 tế bào/mL vi khuẩn O.oeni. Chính loài này  sẽ  tự  sinh sản ngay sau đó và tạo ra hệ  vi sinh vật chịu trách nhiệm lên men   malolactic. Cũng có thể  có các đại diện của các loài khác còn sống sót với số  lượng rất nhỏ sau quá trình lên men, chúng có thể  phát tri ển  nếu như rượu vang  không được bảo vệ  tốt và đây chính là nguyên nhân làm hỏng rượu vang.  Liên  quan tới quá trình chuyển hoá axít malic, loài O.oeμni này được khởi động ngay  sau khi số  lượng quán thể  đủ  lớn để  khởi động (thường là 106 tế  bào/mL). Sự  phát triển này có thể  kéo dài trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần tuỳ  theo các  trường hợp. Lên men malolactic có thể  hoàn thành ở  cuối pha tĩnh hoặc đầu pha  suy vong. Nhưng nếu có các điều kiện là thích hợp, lên men malolactic có thể kết  thúc  ở cuối pha phát triển. Cuối cùng, khi kết thúc lên men malolactic, cần phải   Sulfit hoá rượu vang để loại bỏ hoàn toàn các vi khuẩn còn sống [14]. 1.2.1 Phân loại và kiểu hình của các vi khuẩn lactic trong rượu vang Các vi khuẩn lactic thuộc nhóm các vi sinh vật   Gram  dương và do vậy  được nhuộm mầu bằng phép thử Gram có liên quan tới cấu tạo của thành tế bào.   Các vi khuẩn Leuconostoc và Oenococcus (hình 1­2) có dạng hình cầu. Đó là các  10
  20. tế  bào nhỏ  (kích thước từ  0,5  ­  1  μm)  tròn hoặc hơi dài tạo ra các cặp hoặc  chu ỗ i. Hình 1.1 Tế bào dạng chuỗi của chủng O.oeni. Tuỳ vào sự đa dạng của các sản phẩm trao đổi chất của các loại đường,   các vi khuẩn lactic được phân biệt thành 2 nhóm: ­ Nhóm sinh axít lactic (> 85%) từ glucoza được gọi là lên men đồng hình như  các loài thuộc giống Pediococcus và loài Lactobacillus mali. Các vi khuẩn này  phân   huỷ   glucoza   thành   pyruvat   theo   con   đường   đường   phân   truyền   thống.   Pyruvat tiếp theo bị khử thành axít D và/hoặc L ­ lactic phụ  thuộc vào từng loài   bởi các enzim lactate dehydrogenaza L và/hoặc D. Quá trình này cho phép ôxy hoá  khử các phân tử NADH2+ thu được từ quá trình đường phân thành NAD+. ­ Nhóm mà bên cạnh axít lactic, còn sản xuất axít axêtic, ethanol và CO 2, được  gọi là lên men dị hình. Người ta phân biệt: + Các loài dị  hình nghiêm ngặt như  các loài thuộc giống  Leuconostoc và một  vài   loài   thuộc   giống  Lactobacillus   (L.   brevis,   L.   hilgardii...).  Chúng   không   có  enzim aldolaza của hai con đường (đường và pentoza ­photphat) phân và do vậy  không  thể   lên  men  các   loại   đường   theo   con  đường   lên  men  dị   hình  của   các  pentoza­photphat. +  Các   loài   lên   men   dị   hình   tuỳ   tiện   như  O.oeni,  Lactobacillus  casei  và  11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2