intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu xác định dạng Cu, Pb, Zn và Cd trong một số cột trầm tích thuộc lưu vực sông Cầu

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:75

75
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nhằm xác định hàm lượng tổng và hàm lượng các dạng liên kết của các kim loại Cu, Pb, Zn và Cd trong một số cột trầm tích thuộc lưu vực sông Cầu khu vực đi qua thành phố Thái Nguyên; đánh giá sự thay đổi hàm lượng tổng và các dạng của các kim loại Cu, Pb ,Zn và Cd theo chiều sâu của cột trầm tích và giữa các cột trầm tích.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu xác định dạng Cu, Pb, Zn và Cd trong một số cột trầm tích thuộc lưu vực sông Cầu

  1. MỞ ĐẦU Hiện nay, vấn đề  ô nhiễm môi trường do các hoạt động sinh hoạt và sản xuất  của con người đã và đang là vấn đề  nhức nhối của toàn xã hội. Một trong các chương  trình đang được nhà nước quan tâm là nghiên cứu và đánh giá mức độ ô nhiễm thuộc lưu   vực một số hệ thống sông chính như: sông Đáy, sông Nhuệ, sông Cầu... để từ đó có các   biện pháp quản lí thích hợp. Trong số  các chỉ  số  ô nhiễm, ô nhiễm kim loại nặng là một trong những chỉ  số  được quan tâm nhiều bởi độc tính và khả  năng tích lũy sinh học của chúng. Để  có thể  đánh giá một cách đầy đủ  về mức độ ô nhiễm của các kim loại  nặng ta không thể chỉ  dựa vào việc xác định hàm lượng của các kim loại hòa tan trong nước mà cần xác định  cả hàm lượng các kim loại trong trầm tích. Rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về  trầm tích sông, hồ  đều cho thấy hàm lượng của các kim loại trong trầm tích lớn hơn  nhiều so với trong nước.  Dưới một số điều kiện lí hóa nhất định các kim loại nặng từ  trong nước có thể  tích lũy vào trầm tích đồng thời cũng có thể  hòa tan ngược trở  lại nước [65, 68]. Khả  năng hòa tan của kim loại trong mẫu trầm tích vào nước cũng như khả năng tích lũy sinh   học của nó phụ  thuộc vào dạng tồn tại của kim loại trong trầm tích [69]. Vì vậy cần   thiết phải xác định cụ thể dạng tồn tại của các kim loại  trong trầm tích mới có thể đưa  ra những đánh giá cụ  thể và chính xác hơn về  mức độ  ô nhiễm và ảnh hưởng đến hệ  sinh thái của các kim loại  nặng [48]. Một vấn đề  đáng lưu ý nữa là hàm lượng của các kim loại trong mẫu trầm tích   phụ  thuộc vào hàm lượng của các kim loại trong nước tại mỗi thời điểm. Do đó dựa   vào việc xác định hàm lượng của các kim loại tại các điểm khác nhau trên cùng một cột   trầm tích có thể  giúp ta thấy được sự  thay đổi về  mức độ  ô nhiễm kim loại  nặng tại   khu vực nghiên cứu theo thời gian. Để  xác định dạng kim loại  trong trầm tích, công đoạn quan trọng nhất là chiết   tách riêng từng dạng kim loại ra khỏi trầm tích. Đã có rất nhiều quy trình chiết được  1
  2. đưa ra nhưng quy trình chiết liên tục của Tessier (Tessier et.al, 1979 [34]) được nhiều  tác giả  lựa chọn sử dụng và cải tiến thêm phương pháp này. Theo quy trình chiết liên  tục của Tessier, kim loại trong trầm tích được chia làm 5 dạng là: dạng trao đổi, dạng   liên kết với cacbonat, dạng liên kết với sắt và mangan oxit, dạng liên kết với chất hữu  cơ và dạng cặn dư.  Lưu vực sông Cầu là một trong những lưu vực sông lớn và tập trung đông dân cư  sinh sống  ở  khu vực phía Bắc. Sông Cầu dài 288,5 km bắt nguồn từ  núi Vạn On  ở  độ  cao  1175m   thuộc   huyện  Chợ   Đồn   tỉnh   Bắc   Cạn   chạy   qua   các   tỉnh  Bắc   Cạn,   Thái  Nguyên, Bắc Giang, Hà Nội, Bắc Ninh và đổ  vào sông Thái Bình  ở thị  xã Phả  Lại tỉnh  Hải Dương. Các khu vực sông Cầu chạy qua là những khu vực tập trung rất nhiều các  hoạt động sản xuất công nghiệp như: khai khoáng, luyện kim, mạ  điện... Vì vậy tình   hình ô nhiễm nói chung và ô nhiễm kim loại   nặng nói riêng đang  ở  mức báo động.   Trước tình hình đó chính phủ đã cho thành lập Ủy ban Bảo vệ môi trường lưu vực sông   Cầu vào tháng 1 năm 2008 để  có những giải pháp đồng bộ  quản lí và giảm thiểu ô  nhiễm trên hệ thống lưu vực sông Cầu. Mặt khác, trên hệ thống lưu vực sông Cầu, Thái   Nguyên là tỉnh mà ngành công nghiệp khai khoáng và luyện kim rất phát triển nên nguy  cơ ô nhiễm kim loại  nặng là rất lớn.  Từ những vấn đề trình bày ở trên, chúng tôi đã chọn đề tài “ nghiên cứu xác định   dạng Cu, Pb, Zn và Cd trong một số cột trầm tích thuộc lưu vực sông Cầu  ” với địa  bàn nghiên cứu chính là tỉnh Thái Nguyên theo các nhiệm vụ cụ thể là: + Xác định hàm lượng tổng và hàm lượng các dạng liên kết của các kim loại  Cu,   Pb, Zn và Cd trong một số cột trầm tích thuộc lưu vực sông Cầu khu vực đi qua thành  phố Thái Nguyên. + Đánh giá sự thay đổi hàm lượng tổng và các dạng của các kim loại  Cu, Pb ,Zn  và Cd theo chiều sâu của cột trầm tích và giữa các cột trầm tích. + Đánh giá mối tương quan về hàm lượng tổng và các dạng của các kim loại Cu,  Pb, Zn và Cd trong cùng 1 cột trầm tích và giữa các cột trầm tích với nhau. + Đánh giá mức độ  ô nhiễm các kim loại   Cu, Pb, Zn và Cd theo một số  tiêu  chuẩn đánh giá ô nhiễm trầm tích. Việc lấy mẫu trầm tích được chúng tôi trực tiếp tiến hành tại sông Cầu đoạn đi  qua thành phố  Thái Nguyên vào tháng 7 năm 2012. Các công việc bảo quản mẫu trầm   tích, xử  lí mẫu và phân tích hàm lượng tổng cũng như  các dạng của các kim loại  Cu,   2
  3. Pb, Zn và Cd được thực hiện tại phòng Hóa Phân Tích – Viện Hóa Học – Viện Hàn Lâm  Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam. Chương 1: TỔNG QUAN 1.1 Trầm tích và sự tích lũy kim loại  trong trầm tích 1.1.1 Trầm tích và sự hình thành trầm tích Trầm tích là các vật chất tự  nhiên bị  phá vỡ  bởi các quá trình xói mòn hoặc do   thời tiết, sau đó được các dòng chảy vận chuyển đi và cuối cùng được tích tụ thành các  lớp trên bề mặt hoặc đáy của một khu vực chứa nước như ao, hồ, sông, suối, biển. Quá  trình hình thành trầm tích là một quá trình tích tụ và lắng đọng các chất cặn lơ lửng (bao  gồm cả các vật chất vô cơ và hữu cơ) để  tạo nên các lớp trầm tích. Ao, hồ, sông, biển  tích lũy trầm tích thành các lớp theo thời gian. Vì vậy trầm tích là một hỗn hợp phức tạp   của các pha rắn bao gồm sét, silic oxit,  chất hữu cơ, cacbonat và một quần thể các vi   khuẩn  (Trần Nghi, 2003 [14]; [71] ). Trầm tích là một trong những đối tượng  thường được nghiên cứu để đánh giá và  xác định mức độ cũng như nguồn gây ô nhiễm kim loại  nặng đối với môi trường nước  bởi hàm lượng kim loại trong trầm tích thường lớn hơn nhiều so với lớp nước phía trên   và có mối quan hệ chặt chẽ với hàm lượng của các ion kim loại tan trong nước. Các kim  loại  trong nước có thể tích lũy đi vào trầm tích và ngược lại kim loại trong trầm tích ở  dạng di động có khả  năng hòa tan ngược lại vào nước. Chính vì lí do đó nên trầm tích  được xem là một chỉ  thị  quan trọng dùng để  nghiên cứu và đánh giá sự  ô nhiễm môi   trường.  1.1.2 Các nguồn tích lũy kim loại  vào trầm tích Sự tích lũy kim loại vào trầm tích đến từ hai nguồn là nguồn nhân tạo và nguồn   tự nhiên.  3
  4. Nguồn tự  nhiên gồm các kim loại nằm trong thành phần của đất đá xâm nhập  vào môi trường nước và trầm tích thông qua các quá trình tự  nhiên như: phong hóa, xói  mòn, rửa trôi (Ip Crman 2007 [46]).  Nguồn nhân tạo là các nguồn ô nhiễm từ  các hoạt động sinh hoạt và sản xuất   của con người như: nước thải sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp, y tế. Các kim loại  này sau khi đi vào nước sẽ tích lũy vào trầm tích cũng như các sinh vật thủy sinh. 1.1.3 Cơ chế và các yếu tố ảnh hưởng đến sự tích lũy kim loại  vào trầm tích Các kim loại  tích lũy vào trầm tích có thể xuất phát từ nguồn tự nhiên hoặc nhân   tạo. Sự tích lũy của các kim loại  vào trầm tích có thể xảy ra theo 3 cơ chế sau: 1. Sự hấp phụ hóa lý từ nước. 2. Sự hấp thu sinh học bởi các sinh vật hoặc các chất hữu cơ. 3. Sự tích lũy vật lí của các hạt vật chất bởi quá trình lắng đọng trầm tích. Sự tích lũy kim loại vào trầm tích phụ thuộc vào  rất nhiều yếu tố như: các điều  kiện thủy văn, môi trường, pH, thành phần vi sinh vật, kết cấu của trầm tích, khả năng   trao đổi ion… nhất là sự hấp phụ hóa lý và hấp thu sinh học. Sự  hấp phụ  hóa lý các kim loại trực tiếp từ  nước được thực hiện nhờ  các quá   trình hấp phụ  các kim loại lên trên bề  mặt của các hạt keo, các quá trình trao đổi ion,   các phản  ứng tạo phức của các kim loại nặng với các hợp chất hữu cơ  hoặc do các  phản  ứng hóa học xảy ra làm thay đổi trạng thái oxi hóa của các nguyên tố  hay tạo  thành  các hợp chất ít tan như muối sunfua. Quá trình hấp phụ hóa lí phụ thuộc rất nhiều  vào các điều kiện như: pH của nước, kích thước của các hạt keo, hàm lượng các chất  hữu cơ và quần thể vi sinh vật [65]. Sự hấp thu sinh học chủ yếu do quá trình hấp thu kim loại của các sinh vật trong  nước, phản ứng tạo phức của các kim loại với các hợp chất hữu cơ, các hoạt động sinh  hóa của hệ vi sinh vật trong trầm tích [42, 68]. 1.1.4 Các dạng tồn tại của kim loại  trong trầm tích. Theo Tessier [33], kim loại  trong mẫu trầm tích và mẫu đất tồn tại ở 5 dạng chủ  yếu sau: 4
  5. + Dạng trao đổi: Kim loại trong dạng này liên kết với các hạt keo trong trầm  tích (sét, hydrat của oxit săt, oxit mangan, axit humic) bằng lực hấp phụ yếu. Sự thay đổi  lực ion của nước sẽ ảnh hưởng đến khả năng hấp phụ hoặc giải hấp các kim loại  này   dẫn đến sự  giải phóng hoặc tích lũy kim loại  tại bề  mặt tiếp xúc của nước và trầm  tích. Chính vì vậy kim loại  trong trầm tích ở dạng này rất linh động có thể dễ dàng giải  phóng ngược trở lại môi trường nước.  + Dạng liên kết với cácbonat:  Các kim loại   tồn tại  ở  dạng kết tủa  muối   cacbonat. Các kim loại  tồn tại ở dạng này rất nhạy cảm với sự thay đổi của pH, khi pH   giảm các kim loại  ở dạng này sẽ được giải phóng. + Dạng liên kết với Fe­Mn oxit:  Ở dạng liên kết này kim loại  được hấp phụ  trên bề mặt của Fe­Mn oxi hydroxit và không bền trong điều kiện khử, bởi vì trong điều  kiện khử  trạng thái oxi hóa của sắt và mangan sẽ  bị  thay đổi, dẫn đến các kim loại   trong trầm tích sẽ được giải phóng vào pha nước. + Dạng liên kết với hữu cơ: Các kim loại  ở dạng liên kết với hữu cơ sẽ không  bền trong điều kiện oxi hóa, Khi bị oxi hóa các chất cơ sẽ phân hủy và các kim loại  sẽ  được giải phóng vào pha nước. + Dạng cặn dư: Phần này chứa các khoáng chất bền vững tồn tại trong tự nhiên   có thể giữ các vết kim loại  trong nền cấu trúc của chúng, hoặc một số kết tủa bền khó  tan của các kim loại  như PbS, HgS... Do vậy khi kim loại  tồn tại trong phân đoạn này   sẽ không thể hòa tan vào nước trong các điều kiện như trên. 1.1.5  Kim loại  nặng và nguồn tích lũy một số kim loại  nặng trong trầm tích Kim loại  nặng là các kim loại  có khối lượng riêng lớn hơn 5 g/cm 3, nhưng thông  thường ta dùng để chỉ những kim loại độc hại và gây ô nhiễm môi trường. Trong trầm   tích, kim loại  nặng có thể tồn tại ở các dạng khác nhau, có khả năng tích lũy trong trầm   tích, khả  năng tích lũy sinh học và độc tính khác nhau [30]. Trong giới hạn của đề  tài,   chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu bốn kim loại  nặng là: đồng, chì, kẽm và cadimi. 1.1.5.1 Kim loại  đồng  5
  6. Đồng là một nguyên tố thiết yếu đối với cơ thể động thực vật và con người. Đối  với cơ thể con người, đồng cần thiết cho các quá trình chuyến hóa sắt, lipit và rất cần  thiết cho hoạt động của hệ  thần kinh, hệ  miễn dịch... Tuy nhiên, khi cơ  thể  chúng ta  tích tụ  đồng với một lượng lớn sẽ  gây nguy hiểm. Khi hàm lượng đồng trong cơ  thể  người từ 60 – 100 mg/kg thể trọng  có thể gây ra tình trạng nôn mửa. Khi hàm lượng là  10g/kg thể trọng có thể  gây tử vong. Nồng độ  đồng giới hạn trong nước uống đối với   con người là 2 mg/lit.    Đồng cũng là một trong số  kim loại có rất nhiều  ứng dụng trong các lĩnh vực  công nghiệp khác nhau như: chế tạo dây dẫn điện, các hợp kim có độ  chống mài mòn   cao, chế tạo sơn, thuốc trừ sâu… Ở   pH   lớn   hơn   6   ion   Cu2+  có   thể   kết   tủa   dưới   dạng   hidroxit,   oxit,   hidroxi­ cacbonat. Đồng cũng tạo được phức rất bền với chất mùn. Đặc biệt trong môi trường  khử  Cu2+ rất dễ kết hợp với ion S 2­ để  tạo kết tủa CuS rất bền. Chính vì vậy mà khả  năng tích lũy sinh học của kim loại đồng trong trầm tích nhỏ  và dạng tồn tại chủ  yếu  của đồng trong trầm tích là ở dạng cặn dư [15, 18, 23]. Nguồn tích lũy của kim loại   đồng trong tự  nhiên đến từ  2 nguồn là nguồn tự  nhiên và nguồn nhân tạo. Trong tự  nhiên, hàm lượng trung bình của đồng trong vỏ  trái   đất vào khoảng 50 ppm và chủ yếu tồn tại dưới dạng một số khoáng chất như:   azurit  (2CuCO3Cu(OH)2);  malachit  (CuCO3Cu(OH)2);   các  sulfua  như:  chalcopyrit  (CuFeS2),  bornit (Cu5FeS4), covellit (CuS), chalcocit (Cu2S) và các ôxít như cuprit (Cu2O)... Trong đó  nhiều nhất là các quặng sunfua tương đối bền. Vì vậy khả  năng rửa trôi của của kim   loại  đồng là tương đối nhỏ [23]. Nguồn tích lũy nhân tạo đồng vào trầm tích xuất phát chủ  yếu từ các hoạt động   sản xuất đặc biệt là từ  các ngành công nghiệp luyện kim và mạ  điện. Theo một số  nghiên cứu, hàm lượng kim loại đồng trong nước thải của các nhà máy mạ điện có thể  lên đến 200 ppm. 1.1.5.2 Kim loại  chì   Chì là một nguyên tố  có độc tính cao đối với con người và động vật. Khi xâm   nhập vào cơ thể  kim loại  chì kết hợp với một số enzim làm rối loạn hoạt động của cơ  6
  7. thể. Khi nồng độ chì trong máu lớn hơn 50 μg/dl sẽ gây ra ra nguy cơ mắc chứng thiếu  máu, thiếu sắc tố da, hồng cầu kém bền vững. Khi nồng độ  chì trong máu lớn hơn 80   μg/dl sẽ gây ra các bệnh về thần kinh với các biểu hiện như mất điều hòa, giảm ý thức,  vận động khó khăn, hôn mê và co giật [19, 20].  Ở pH cao kim loại  chì trở nên ít tan do dễ tạo phức với các hợp chất hữu cơ, kết   tủa dưới dạng oxit, hidroxit và liên kết với oxit và silica của đất sét vì vậy ở pH cao kim   loại  chì có khả năng tích lũy sinh học thấp. Nhưng ở pH thấp hơn thì khả năng tích lũy  sinh học của chì tăng dần. Trong tự nhiên hàm lượng Pb trong vỏ trái đất khoảng 17 ppm. Chì thường được  tìm thấy  ở dạng quặng cùng với kẽm, bạc, và (phổ  biến nhất) đồng, và được thu hồi  cùng với các kim loại  này. Trong tự nhiên, khoáng chì chủ yếu là galena (PbS) ngoài ra  còn có một số  dạng khoáng chứa chì khác như  cerussite  (PbCO3) và  anglesite  (PbSO4)  [15, 18, 22]. Trong công nghiệp, kim loại   chì được sử  dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau   như: công nghiệp chế  tạo  ắc quy, sơn, nhựa, luyện kim. Vì vậy nguồn phát thải chì  nhân tạo chủ yếu từ các hoạt động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp như:  công nghiệp luyện kim, ắc quy, sơn, nhựa và các làng nghề tái chế chì, tái chế nhựa... 1.1.5.3 Kim loại  kẽm Kẽm là một nguyên tố  vi lượng rất cần thiết đối với con người và động thực  vật. Kẽm hiện diện trong hầu hết các bộ phận cơ thể con người. Kẽm cần thiết cho thị  lực, giúp cơ thể chống lại bệnh tật, chống nhiễm trùng và cần thiết cho các hoạt động  sinh dục và sinh sản... Tuy nhiên khi hàm lượng kẽm trong cơ thể lớn quá có thể tạo ra   các tác dụng ngược lại gây ra các bệnh như ngộ độc thần kinh, và hệ miễn nhiễm [20,   21]. Trong công nghiệp, kim loại  kẽm có rất nhiều ứng dụng đặc biệt trong lĩnh vực  luyện kim, công nghiệp mạ và sản xuất pin điện... Trong môi trường nước ở  pH thấp Zn có độ  linh động vừa phải do chủ  yếu tồn   tại ở pha liên kết yếu với sét và mùn. Ở pH lớn hơn độ linh động của kẽm giảm đi do  tồn tại ở các pha liên kết với oxit, aluminosilicat và mùn. Ngoài ra trong môi trường khử,   7
  8. sự linh động của kim loại  kẽm cũng bị  giảm đi do tạo thành muối ZnS ít tan [ 15, 18,   24, 29]. Trong vỏ  trái đất hàm lượng kim loại  kẽm vào khoảng 75  ppm. Sphalerit (ZnS)  là loại quặng kẽm quan trọng nhất. Nguồn tích lũy kẽm trong trầm tích ngoài nguồn tự  nhiên còn phải kể đến một nguồn rất quan trọng là các nước thải từ các nhà máy luyện   kim và mạ điện và khai khoáng [25]. 1.1.5.4 Kim loại  Cadimi Cadimi cũng là một kim loại  có nhiều ứng dụng trong công nghiệp. Một số ứng   dụng chính của cadimi là chế  tạo hợp kim có nhiệt độ  nóng chảy thấp, sử  dụng trong   mạ điện, chế tạo vật liệu bán dẫn, chất tạo màu... Tuy nhiên cadimi lại là kim loại  rất  độc hại đối với cơ thể người ngay cả ở nồng độ rất thấp bởi vì cadimi có khả năng tích   lũy sinh học rất cao. Khi xâm nhập vào cơ thể  nó can thiệp vào các quá trình sinh học,  các enzim liên quan đến kẽm, magie và canxi, gây tổn thương đến gan, thận, gây nên  bệnh loãng xương và bệnh ung thư [20]. Trong tự nhiên, hàm lượng cadimi trung bình khoảng  0,1 ppm. Quặng cadimi rất   hiếm và chủ yếu tồn tại ở dạng CdS có lẫn trong quặng một số kim loại  như  Zn, Cu,   Pb [25].  Trong trầm tích sông ngòi, hàm lượng cadimi có thể cao hơn nhiều lên đến 9 ppm  [6]. Nguồn phát thải ô nhiễm Cd đối với trầm tích sông ngòi chủ yếu là nguồn nhân tạo,   xuất phát từ nước thải từ các ngành công nghiệp dựa trên một số ứng dụng của Cd như:  lớp mạ bảo vệ thép, chất ổn định trong PVC, chất tạo màu trong plastic và thủy tinh, và  trong hợp phần của nhiều hợp kim.  1.2 Phân tích dạng kim loại  trong trầm tích 1.2.1 Khái niệm về phân tích dạng  Thuật ngữ “dạng”, theo Fillip M. tack và Marc G. Verloo [40], là sự nhận dạng và   định lượng các dạng, các hình thức hay các pha khác nhau mà trong đó kim loại tồn tại Trong thực tế, độ linh động và hoạt tính sinh học cũng như khả năng tích lũy sinh  học của kim loại  phụ  thuộc vào dạng tồn tại bao gồm dạng hóa học ( trạng thái oxi   hóa, điện tích, trạng thái hóa trị và liên kết) và dạng vật lí (trạng thái vật lí, kích thước  8
  9. hạt... ). Chẳng hạn crôm ở dạng Cr(III) không độc nhưng ở dạng Cr(VI) rất độc. Trong   các dạng của asen thì As(III) có độc tính cao gấp khoảng 50 lần As(V), asen ở dạng hợp   chất vô cơ  độc hơn  ở  dạng hợp chất hữu cơ. Trong trầm tích, các kim loại  tồn tại  ở  dạng linh động dễ  dàng có thể  giải phóng vào nước dẫn đến nguy cơ  gia tăng sự  hấp   thụ  các kim loại  này vào cơ  thể  con người thông qua chuỗi thức ăn. Trong khi đó các  kim loại  tồn tại ở dạng cặn dư rất khó hòa tan vào nước nên rất ít ảnh hưởng đến sức  khỏe con người [31, 40]. Vì vậy cần thiết phải xác định cụ thể hàm lượng của các kim   loại  ở từng dạng tồn tại cụ thể của nó.  Theo tác giả Tessier, kim loại  trong mẫu trầm tích và mẫu đất tồn tại ở 5 dạng   chủ yếu là: dạng trao đổi, dạng liên kết với cácbonat, dạng liên kết với Fe­Mn oxit,  dạng liên kết với hữu cơ, dạng cặn dư. Vấn đề đặt ra ở đây là phải tìm ra các dung  môi và các điều kiện thích hợp để  có thể  chiết riêng từng dạng kim loại. Có nhiều  phương pháp khác nhau đã được đưa ra để  chiết riêng từng dạng kim loại  như: chiết   một giai đoạn, chiết liên tục, sử dụng nhựa trao đổi ion... Trong đó, phương pháp chiết  liên tục được áp dụng phổ biến nhất do những ưu điểm của nó. 1.2.2 Các quy trình chiết liên tục Có rất nhiều quy trình chiết liên tục được các tác giả  khác nhau đưa ra để  phân   tích dạng kim loại  trong trầm tích. Dưới đây là một số quy trình tiêu biểu. * Quy trình chiết liên tục của Tessier:  Đây là quy trình được nhiều tác giả  khác nhau sử  dụng để  xác định hàm lượng   kim loại   trong đất và trầm tích. Các điều kiện cụ  thể  của quy trình chiết liên tục   Tessier được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1.1 Quy trình chiết liên tục của Tessier (1979)[33] Dạng kim loại  Điều kiện chiết (1 gam mẫu) Trao đổi (F1) + 8 ml MgCl2 1M (pH = 7), khuấy liên tục trong 1 giờ + hoặc 8 ml NaOAc 1M (pH = 8,2), khuấy liên tục trong 1 giờ Liên kết với  8 ml NaOAc 1M (pH = 5 với HOAc), khuấy liên tục trong 5 giờ  9
  10. cacbonat (F2) ở nhiệt độ phòng Liên kết với Fe­ + 20 ml Na2S2O3 0,3M + Natri­citrat 0,175M + axit citric 0,025M Mn oxit (F3) + hoặc 20 ml NH2OH.HCl 0,04M trong CH3COOH 25%, 96 30C, thuy thoảng khuấy trong 6 giờ Liên kết với  (1) 3ml HNO3 0,02M + 5ml H2O2 30% (pH = 2 với HNO3), 85 hữu cơ (F4) 20C, khuấy 2 giờ (2) thêm 3 ml H2O2 30% (pH = 2 với HNO 3) 85 20C, khuấy 3  giờ (3) sau khi làm nguội thêm 5 ml NH4OAc 3,2 M trong HNO3  20% và pha loãng thành 20 ml, khuấy liên tục trong 30 phút Cặn dư (F5) (1) HClO4 (2 ml) + HF (10 ml) đun đến gần cạn (2) HClO4 (1 ml) + HF (10 ml) đun đến gần cạn (3) HClO4 (1 ml) (4) hòa tan bằng HCl 12N sau đó định mức thành 25 ml * Quy trình chiết liên tục của  Ủy ban tham chiếu cộng đồng (Community  Bureau of Reference procedure, BCR): Quy trình này gần tương tự  như  quy trình của Tessier nhưng dạng trao đổi và  dạng cacbonat được gộp chung lại thành một dạng Bảng 1.2 Quy trình chiết liên tục của BCR (1993) [32] Dạng kim loại  Điều kiện chiết (1 gam mẫu) Trao đổi và liên kết  40 ml  HOAc 0,11M, 22±50C, khuấy liên tục 16 giờ với cacbonat Liên   kết   với   Fe­Mn  40   ml   NH2OH.HCl   0,1M   (pH   =   2   với   HNO 3),   22±50C,  oxit khuấy liên tục 16 giờ Liên kết với hữu cơ (1) 10 ml H2O2 8,8M (pH = 2­3), t0  phòng, khuấy liên tục  trong 1 giờ (2) 10 ml H2O2 (pH = 2­3),850C, đun 1 giờ  đến thể  tích 3  ml 10
  11. (3) 10 ml H2O2 (pH = 2­3),850C, đun 1 giờ  đến thể  tích 1  ml (4) 50 ml NH4OAc 1M (pH = 2 với HNO3) 22±50C, khuấy  liên tục 16 giờ Cặn dư HF + HNO3 + HClO4 * Quy trình chiết ngắn của Maiz:  Tác giả Maiz đã đưa ra quy trình chiết ngắn chỉ có 3 dạng và nhận thấy rằng kết   quả của nó tương quan tốt với quy trình chiết của Tessier Bảng 1.3 Quy trình chiết ngắn của Maiz (2000) [45] Dạng kim loại  Điều kiện chiết (3 gam mẫu) Trao đổi (hay di động) 10 ml CaCl2  0,01M, t0  phòng, thỉnh toảng khuấy  trong 2 giờ Có tiềm năng di động 2ml hh: DTPA(1)  0,005M + CaCl2  0,01M + TEA(2)  0,1M (pH = 7,3), t0 phòng, 4 giờ Cặn dư Cường thủy + HF (1): DTPA: pentetic axit hay dietylen triamin pentaaxetic axit (2): TEA: trietanolamin * Quy  trình chiết của Hiệp hội Địa chất Canada (GCS): Quy trình chiết liên tục của GCS phân chia dạng kim loại  liên kết với Fe­Mn oxit  thành 2 dạng là dạng liên kết với Fe oxihydroxit vô định hình và dạng kim loại   nằm  trong cấu trúc tinh thể của oxit. Do đó số dạng kim loại  tăng từ  5 lên 6. Quy trình này   được Benitez và Dubois đưa ra trên cơ sở cải tiến quy trình của Tessier nhờ vậy mà thời   gian chiết được giảm đi đáng kể. Bảng 1.4 Quy trình chiết liên tục của Hiệp hội Địa chất Canada (GCS) (1999) [51] Dạng kim loại  Điều kiện chiết (0,5 gam mẫu) Dạng di  Trao đổi (F1) (1) 30 ml NaNO3 0,1M; 250C; 1,5 giờ động (2) 30 ml NaNO3 0,1M; 250C; 1,5 giờ Liên kết với  (1) 30 ml NaOAc 1M (pH = 5 với HOAc); 25 0C;  11
  12. cacbonat (F2) 1,5 giờ (2) 30 ml NaOAc 1M (pH = 5 với HOAc); 25 0C;  1,5 giờ Liên   kết   với   hữu  (1) 30 ml Na4P2O7; 250C; 1,5 giờ cơ (F3) (2) 30 ml Na4P2O7; 250C; 1,5 giờ Liên kết với  (1) 30 ml NH2OH.HCl 0,25M trong HCl 0,05M;  oxihydroxit vô định  600C; 1,5 giờ Dạng có  hình (F4) (2) 30 ml NH2OH.HCl 0,25M trong HCl 0,05M;  tiềm  600C; 1,5 giờ năng di  Nằm   trong   cấu  (1)   30   ml   NH2OH.HCl   1M   trong   HOAc   25%;  động trúc   tinh   thể   oxit  900C; 1,5 giờ (F5) (2)   30   ml   NH2OH.HCl   1M   trong   HOAc   25%;  900C; 1,5 giờ Cặn dư (F6) HF:HNO3:HCl Nói chung hầu hết các quy trình chiết liên tục đều dựa trên quy trình chiết của   Tessier nhưng có những cải tiến để  phù hợp với các đối tượng phân tích khác nhau để  làm tăng độ  chính xác của kết quả  phân tích và giảm thời gian chiết. Các cải tiến này   đều chủ yếu tập trung vào việc thay đổi loại, thể tích dung môi chiết và thời gian chiết.   Rất  nhiều   tác   giả   như   G.Glosinska   [42],   J.Zerbe   [49],   P.O.Oviasogie   [61],   Md.Abull   Kashem [53], Vũ Đức Lợi [6,7]... đã thay thế MgCl 2 1M trong bước chiết dạng trao đổi  (F1) bằng NH4OAc hoặc NaOAc (pH=5) bằng NH4OAc (pH = 5). Mục đích của việc   thay thế  này sẽ  làm giảm tính mặn (nồng độ  các ion kim loại ) trong dung dịch chiết  nhờ đó sẽ làm tăng độ chính xác trong kết quả phân tích hàm lượng kim loại trong dịch   chiết bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS). Trong giai đoạn chiết dạng liên  kết với cacbonat ( F2), các tác giả trên đã tăng lượng thuốc thử từ 2 ml lên 20 ml để làm  giảm sự thay đổi pH của dung dịch trong quá trình chiết. 12
  13. Bảng 1.5 Quy trình chiết liên tục của J.Zerbe (1999) [49] Dạng kim loại Điều kiện chiết (1 gam mẫu) Trao đổi (F1) 10 ml CH3COONH4  (pH=7), t0  phòng, khuấy liên tục  trong 1 giờ Liên   kết   với   cacbonat  20 ml CH3COONH4  1M (pH = 5 với HOAc), khuấy   (F2) liên tục trong 5 giờ, t0 phòng Liên kết với Fe­Mn oxit  20   ml   NH2OH.HCl   0,04M   trong   HOAc   25%,   950C,  (F3) khuấy 6 giờ Liên   kết   với   hữu   cơ  (1) 5 ml   HNO3  0,02M + 5 ml H2O2  30% (pH= 2 với  (F4) HNO3), 850C, khuấy 2 giờ (2) thêm 3 ml H2O2  30% (pH = 2 với HNO3), 850C,  khuấy 3 giờ (3) làm nguội,  thêm 10 ml CH3COONH4  3,2M trong  HNO3 20% khuấy 30 phút, t0 phòng Bảng 1.6 quy trình chiết liên tục cải tiến Tessier ( Vũ Đức Lợi, 2010) [6] Dạng kim loại  Điều kiện chiết (1 gam mẫu) Trao đổi (F1) 10 ml CH3COONH4 1M (pH=7), t0 phòng, lắc liên tục  trong 1 giờ Liên   kết   với   cacbonat  20 ml CH3COONH4  1M (pH = 5 với HOAc), lắc liên  (F2) tục trong 5 giờ, to phòng Liên kết với Fe­Mn oxit  20 ml NH2OH.HCl 0,04M trong HOAc 25%, lắc liên  (F3) tục 5 giờ, toC phòng  Liên   kết   với   hữu   cơ  10 ml CH3COONH4  3,2M trong HNO3  20 %,  lắc  30  (F4) phút, toC phòng Cặn dư (F5) Nước cường thủy 13
  14. 1.3 Một số chỉ số và tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trầm tích Hiện nay, nước ta vẫn chưa có tiêu chuẩn đánh giá về chất lượng trầm tích.  Chính vì vậy, trong luận văn chúng tôi đã sử dụng một số chỉ số và tiêu chuẩn đánh giá  chất lượng trầm tích của nước ngoài. Để đánh giá chất lượng trầm tích, nhiều tác giả  đã đưa ra các tiêu chí và tiêu chuẩn khác nhau, nhưng chủ yếu đều tập trung đánh giá  chất lượng trầm tích dựa vào hàm lượng tổng của các kim loại  nặng và thành phần  phần trăm dạng linh động (F1, F2). Dưới đây, chúng tôi giới thiệu một số chỉ số và tiêu  chuẩn đánh giá trầm tích hay dùng. 1.3.1 Chỉ số tích lũy địa chất (Geoaccumulation Index : Igeo) Igeo là chỉ số dùng để đánh giá sự ô nhiễm bằng cách so sánh hàm lượng tổng kim  loại  có trong mẫu với giá trị  nền của kim loại  đó (Juan Liu, 2010 [48]). Chỉ  số  này   được đưa ra bởi Muller P.J và Suess E [55] và có công thức tính như sau:  C I geo log n 1,5 B Trong đó:  Cn:  hàm lượng kim loại  trong mẫu     Bn: giá trị nền của kim loại  trong vỏ Trái đất (Hamilton, 2000 [44]) 1,5: hệ số được đưa ra để giảm thiểu tác động của những thay đổi có  thể xảy ra đối với giá trị nền do những biến đổi về thạch học trong trầm tích. Hàm lượng nền của các kim loại Cu, Pb, Zn và Cd được thể  hiện trong bảng  sau. Bảng 1.7 Giá trị hàm lượng các kim loại  trong vỏ Trái đất (Hamilton, 2000 [44]) Kim loại  Cu Pb Zn Cd Hàm lượng (mg/kg) 55 15 70 0,1 Mức độ ô nhiễm trầm tích dựa theo chỉ số Igeo được phân loại như sau: Bảng 1.8 Phân loại mức độ ô nhiễm dựa vào Igeo (Muller P.J và Suess E, 1979 [55]) 14
  15. Phân loại Giá trị Igeo Mức độ ô nhiễm 0 Igeo ≤ 0 Không 1 0 ≤ Igeo ≤ 1 Không  trung bình 2 1 ≤ Igeo ≤ 2 Trung bình 3 2 ≤ Igeo ≤ 3 Trung bình  nặng 4 3 ≤ Igeo ≤ 4 Nặng 5 4 ≤ Igeo ≤ 5 Nặng  rất nghiêm trọng 6 5 ≤ Igeo Rất nghiêm trọng Hàm lượng nền chỉ là giá trị hàm lượng trung bình bình của các kim  loại trong vỏ  trái đất. Thực tế, ở các địa điểm khác nhau hàm lượng kim loại trong đất, đá có thể rất  khác nhau. Vì vậy, việc đánh giá ô nhiễm trầm tích theo chỉ số này chỉ nên xem là một  chỉ số tham khảo thêm. 1.3.2 Chỉ số đánh giá mức độ rủi ro RAC (Risk Assessment Code) Chỉ số đánh giá rủi ro RAC (Risk Assessment Code) là thông số để đánh giá khả  năng kim loại trong trầm tích giải phóng vào nước, đi vào chuỗi thức ăn và dẫn đến   nguy cơ tích lũy các kim loại nặng trong cơ thể con người (Rath et.al, 2009 [64]). Trong   trầm tích, ở dạng trao đổi (F1) và dạng cacbonat (F2) kim loại  liên kết tương đối yếu   với trầm tích do đó dễ giải phóng vào nước và đi vào chuỗi thức ăn. Vì vậy chỉ số RAC   được tính theo tổng phần trăm của dạng trao đổi và cacbonat.  Tiêu chuẩn đánh giá mức độ ô nhiễm dựa vào chỉ số RAC được trình bày trong   bảng sau: Bảng 1.9 Tiêu chuẩn đánh giá mức độ rủi ro theo chỉ số RAC  STT Mức độ rủi ro RAC (%)                         (dạng  F1+ F2) 1 Không
  16. 5 Rất cao lớn hơn 50 RAC là chỉ số đánh giá chất lượng trầm tích rất quan trọng, thể hiện rõ khả năng  gây ảnh hưởng thực tế đến sức khỏe con người của các kim loại nặng trong trầm tích. Trong các tiêu chuẩn đánh giá trầm tích trên, mỗi tiêu chuẩn thể hiện một khía   cạnh đánh giá ô nhiễm trầm tích. Vì vậy, để  có thể  đánh giá một cách toàn diện về  chất lượng trầm tích, chúng ta nên kết hợp cả 2 cách đánh giá trầm tích theo hàm lượng   tổng và theo thành phần phần trăm các dạng của kim loại trong trầm tích. 1.3.3 Tiêu chuẩn đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại trong trầm tích theo hàm lượng   tổng kim loại  của Mỹ và Canada Trong luận văn, chúng tôi sử dụng 2 tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm kim loại nặng  trong trầm tích theo hàm lượng tổng là tiêu chuẩn của Canada (2002) và tiêu chuẩn của   Mỹ U.S EPA (1997).  Bảng 1.10  Tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm kim loại  nặng trong trầm tích theo hàm lượng   tổng (mg/kg) của Canada (2002) [35]  Mức độ ô nhiễm Cu Pb Zn Cd Yếu 18,7 32 124 0,676 Trung bình 28,1 48 186 1,014 Mạnh 37,4 64 248 1,352 Rất mạnh 56,1 96 372 2,028 Mức gây ảnh hưởng 108 112 271 4.21 Bảng 1.11 Tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm kim loại  nặng trong trầm tích theo hàm lượng   tổng (mg/kg) của Mỹ (US EPA (1997) [68]) Mức độ ô nhiễm Cu Pb Zn Cd Không ô nhiễm 
  17. 1.4 Một số phương pháp hiện đại phân tích lượng vết kim loại . Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, ngày nay có rất nhiều phương   pháp công cụ khác nhau để phân tích lượng vết kim loại  như: phương pháp quang phổ  phân tử UV­VIS, phương pháp quang phổ nguyên tử (hấp thụ, phát xạ và huỳnh quang),   phổ  khối lượng (MS), phương pháp điện hóa… Tuy nhiên với những đặc tính  ưu việt   về  độ  nhạy, độ  chọn lọc, độ  chính xác, giới hạn phát hiện và sự  đơn giản trong vận   hành, phương pháp phổ  hấp thụ  nguyên tử  (AAS) là phương pháp được áp dụng rộng   rãi để phân tích kim loại  trong nhiều đối tượng phân tích khác nhau. Chính vì vậy, trong   đề  tài chúng tôi đã áp dụng phương pháp phổ  hấp thụ  nguyên tử  (AAS) để  phân tích   hàm lượng của các kim loại  Zn, Cu, Pb, Cd trong một số cột trầm tích sông Cầu trên địa   bàn tỉnh Thái Nguyên. 1.4.1 Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) [4, 13] 1.4.1.1 Nguyên tắc Các nguyên tử ở trạng thái khí ở mức năng lượng cơ bản E0 có thể hấp thụ một  số  bước sóng nhất định và đặc trưng cho nguyên tố  hóa học để  nhảy lên mức năng   lượng cao hơn. Khi chiếu qua đám hơi nguyên tử  kim loại một chùm sáng đơn sắc có  bước sóng thích hợp một phần chùm sáng sẽ bị hấp thụ. Dựa vào độ  hấp thụ  ta có thể  xác định được hàm lượng của kim loại cần xác định trong đám hơi đó.  Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử có độ chọn lọc rất cao và có giới hạn phát  hiện có thể  tới cỡ  µg/kg vì vậy nó được xem là một phương pháp tiêu chuẩn để  xác   định hàm lượng các ion kim loại.  Thực hiện phép đo AAS để  xác định các một nguyên tố  thường thực hiện theo   các bước sau: 1. Chuyển mẫu phân tích thành dạng dung dịch đồng thể. 2. Hóa hơi dung dịch phân tích. 3. Nguyên tử  hóa chất phân tích. Có 4 kỹ  thuật nguyên tử  hóa trong AAS đó  là: kỹ thuật ngọn lửa (F­AAS); kỹ thuật không ngọn lửa (GF­AAS); kỹ thuật   Hydrua hóa; kỹ thuật nguyên tử hóa mẫu rắn và bột.   4. Chiếu chùm sáng có bước sóng đặc trưng qua đám hơi nguyên tử.  17
  18. 5. Thu phổ, phân giải và chọn một bước sóng xác định để đo và đo Aλ. 6. Ghi lại kết quả đo Aλ.  Cường độ của vạch phổ hấp thụ phụ thuộc vào nồng độ của nguyên tố  đó trong  dung dịch phân tích. Trong một khoảng giới hạn nồng độ nhất định (vùng tuyến tính) thì  cường độ vạch phổ phụ thuộc tuyến tính bậc nhất vào nồng độ. Vì vậy dựa vào cường  độ  vạch phổ  ta có thể  xác định được nồng độ  của các kim loại trong dung dịch phân   tích. 1.4.1.2 Trang thiết bị của máy đo AAS Hệ thống máy AAS gồm các bộ phận chủ yếu sau: 1. Nguồn cung cấp chùm tia sáng đơn sắc của nguyên tố  cần phân tích, có thể  là một   trong số  các nguồn sau: đèn Catốt rỗng (Hollow Cathod Lamp : HCL), đèn phóng điện  không điện cực (Electrodeless Disharge Lamp: EDL), nguồn đèn phổ liên tục biến điệu   (lượng tử hoá).   2. Hệ thống trang bị để hoá hơi và nguyên tử hoá mẫu, có thể là:  + Theo kỹ thuật Ngọn lửa (phép đo F­AAS).  + Theo kỹ thuật Không ngọn lửa (Phép đo GF­AAS). + Theo kỹ thuật hóa hơi lạnh (CV­AAS).  3. Máy quang phổ (thu phổ, phân giải, ghi và chọn vạch phổ λ để đo độ hấp thụ Aλ).  4. Bộ phận ghi nhận tín hiệu đo, xử lý và chỉ thị kết quả.  Hiện nay các hệ AAS trang bị hoàn chỉnh còn có thêm một số bộ phận: 5. Hệ thống tự động bơm mẫu (AutoSampler). 6. Hệ thống hoá hơi lạnh (Kỹ thuật Hydrua hoá). 7. Trang bị nguyên tử hoá mẫu rắn và mẫu bột.   18
  19. Hình 1.1 Sơ đồ cấu tạo hệ thống máy AAS 1.4.1.3 Các kỹ thuật nguyên tử hóa 1.4.1.3.1 Kỹ thuật ngọn lửa (F­AAS)    Nguyên tắc: dùng năng lượng nhiệt của ngọn lửa đèn khí để hóa hơi và nguyên   tử  hóa mẫu phân tích tạo thành các nguyên tử  tự  do. Vì thế  mọi quá trình xảy ra trong   khi nguyên tử hóa phụ thuộc vào tính chất và đặc điểm của ngọn lửa trong đó nhiệt độ  ngọn lửa là yếu tố quyết định. Đèn khí được đốt bởi một hỗn hợp gồm 1 chất oxi hóa và một khí nhiên liệu.Ví  dụ như: hh không khí + axetilen (toC có thể đến 2500oC); N2O + axetilen (toC có thể đến  2950oC), không khí + propan (toC có thể đến 2200oC). 1.4.1.3.1 Kỹ thuật không ngọn lửa (GF­AAS) Nguyên tắc: Dùng  năng  lượng nhiệt của dòng điện có cường độ  cao (300­500   A)  để  đốt nóng tức khắc cuvet Graphite chứa mẫu phân tích, thực hiện nguyên tử  hoá  (NTH) mẫu phân tích trong cuvet (hay trong  thuyền Ta đặt trong cuvét graphit để  loại   trừ sự hình thành hợp chất cacbua kim loại  của chất phân tích). Kỹ thuật GF­AAS do  tạo được ngọn lửa có nhiệt độ  cao và ổn định vì vậy nó có độ  nhạy rất cao gấp hàng   trăm đến hàng ngàn lần phương pháp ngọn lửa ( giới hạn phát hiện cỡ ppb). 1.4.2 Phương pháp phổ phát xạ nguyên tử (AES) [13] 19
  20. Cơ sở lí thuyết của phương pháp này dựa trên hiện tượng các nguyên tử  ở trạng   thái khí khi bị kích thích nó thấp thụ năng lượng chuyển lên mức năng lượng cao Em sau  đó nó phát ra các tia phát xạ  có bước sóng xác định đặc trưng cho nguyên tử  của mỗi  nguyên tố để trở về trạng thái năng lượng cơ bản E0.   Các bước thực hiện khi phân tích một nguyên tố theo phương pháp AES: 1. Hóa hơi mẫu phân tích. 2. Nguyên tử hóa chất phân tích. 3. Kích thích nguyên tử  bằng năng lượng thích hợp để  chuyển lên mức năng  lượng cao. Các nguyên tử kích thích sẽ phát ra các tia phát xạ. 4. Thu toàn bộ phổ và phân giải thành từng tia. 5. Ghi lại phổ phát xạ. 6. Đánh giá định tính và định lượng ion kim loại.  Phổ AES là phổ vạch và có nhiều vạch hơn so nên độ nhạy kém hơn so với phổ  AAS. Những vạch phổ đặc trưng của AES trùng với AAS. 1.4.3 Phương pháp phổ huỳnh quang nguyên tử [8, 13] Cơ sở của phương pháp phổ huỳnh quang nguyên tử dựa trên hiện tượng một số  nguyên tử khi bị kích thích bởi các bức xạ nó hấp thu năng lượng chuyển lên mức năng   lượng cao sau đó ngay lập tức nó bị  suy biến và trở  về  mức năng lượng cơ  bản đồng   thời phát ra các bức xạ huỳnh quang đặc trưng cho từng nguyên tố. Phổ  huỳnh quang nguyên tử cũng là phổ vạch tương tự như phổ phát xạ nguyên   tử nhưng có số vạch ít hơn vì vậy nó có tính chất chọn lọc hơn phổ phát xạ nguyên tử. 1.4.4 Các phương pháp điện hóa [4] 1.4.4.1 Phương pháp cực phổ Cơ  sở  của phương pháp cực phổ  dựa trên việc biểu diễn sự  phụ  thuộc của   cường độ dòng điện vào thế điện cực của điện cực khi làm việc gọi là đường dòng thế  hay đường cong Vol­Ampe. Dựa vào đường những đặc trưng của đường cong Vol­ Ampe có thể xác định định tính (dựa vào thế bán sóng) và định lượng (dựa vào chiều cao   sóng). Các phương pháp cực phổ cổ điển có độ nhạy thấp 10­4 đến 10­5 và độ chọn lọc  cũng không cao do đường cong cực phổ của các chất điện hoạt trồng lên nhau làm cho  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2