intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

24
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đi sâu vào tìm hiểu chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến, qua đó góp phần phác họa rõ thêm chân dung một tác giả văn học; luận văn góp phần nâng cao chất lượng trong việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập thơ văn Nguyễn Khuyến trong nhà trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HOÀNG THỊ HẰNG CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN – NĂM 2013
  2. ĐẠI HỌC ĐẠI HỌC THÁI THÁI NGUYÊN NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỌC SƯ SƯ PHẠM PHẠM HOÀNG HOÀNG THỊ THỊ HẰNG HẰNG CHỦ CHỦ ĐỀ ĐỀ ĐỜI ĐỜI TƯ TƯ TRONG TRONG THƠ THƠ NGUYỄN NGUYỄN KHUYẾN KHUYẾN Chuyên Chuyên ngành: ngành: Văn Văn học học Việt Việt Nam Nam Mã Mã số: số: 60220121 60220121 LUẬN LUẬN VĂN VĂN THẠC THẠC SĨ SĨ KHOA KHOA HỌC HỌC NGỮ NGỮ VĂN VĂN Người Người hướng hướng dẫn dẫn khoa khoa học: học: TS. TS. Dương Dương Thu Thu Hằng Hằng THÁI THÁI NGUYÊN NGUYÊN –– NĂM NĂM 2013 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. LỜI CAM ĐOAN Đề tài luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS Dương Thu Hằng. Tôi cam đoan rằng: - Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi - Kết quả này không trùng với bất cứ tác giả nào đã được công bố Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm. Tác giả luận văn Hoàng Thị Hằng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 1 3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 4 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu............................................................................ 4 5. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................... 5 7. Kết cấu luận văn .................................................................................................. 5 8. Đóng góp của luận văn ........................................................................................ 6 NỘI DUNG ............................................................................................................ 7 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.......................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm chủ đề đời tư.................................................................................... 7 1.1.1. Phân biệt chủ đề và đề tài............................................................................... 7 1.1.2. Phân biệt con người cá nhân và chủ đề đời tư ................................................ 8 1.1.3. Khái niệm chủ đề đời tư................................................................................. 9 1.2. Chủ đề đời tư trong văn học trung đại ..............................................................12 1.2.1. Khái quát chung............................................................................................12 1.2.2. Chủ đề đời tư trong sáng tác của một số tác giả trước Nguyễn Khuyến .........13 1.3. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến.......................24 1.3.1 Con người và cuộc đời...................................................................................24 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác ........................................................................................27 1.3.3. Mảng thơ viết về chủ đề đời tư trong trước tác của Nguyễn Khuyến .............28 Chương 2. CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ QUA BỨC CHÂN DUNG TỰ HỌA...................30 2.1. Về hình thức ....................................................................................................30 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. 2.2. Tâm hồn tính cách ...........................................................................................32 2.2.1. Con người hiếu học.......................................................................................33 2.2.2. Con người chua chát, sâu cay và cũng rất hài hước dân dã............................34 2.2.3. Con người luôn dằn vặt day dứt khôn nguôi..................................................41 Chương 3. CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ QUA CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN.............56 3.1. Mối quan hệ vợ chồng .....................................................................................56 3.2. Mối quan hệ cha con........................................................................................67 3.3. Quan hệ thầy trò ..............................................................................................78 3.4. Quan hệ bạn bè ................................................................................................82 3.5. Quan hệ làng xóm............................................................................................86 KẾT LUẬN ...........................................................................................................90 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................91 PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của lịch sử văn học dân tộc nói chung và văn học trung đại nói riêng. Thơ văn Nguyễn Khuyến là điểm sáng của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX - những năm đầu thế kỷ XX. Thơ ông đề cập tới nhiều mảng chủ đề, trong đó “chủ đề đời tư” chiếm một số lượng khá lớn. Những dòng thơ ấy ông viết cho riêng mình, viết về đời sống cá nhân và những mối quan hệ tình cảm riêng tư. Chủ đề đời tư không phải là chủ đề lớn và xuất hiện phổ biến trong văn học Việt Nam thời trung đại. Thời trung đại là thời kỳ mang đậm dấu ấn của tam giáo. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng tam giáo, về cơ bản con người trong văn học trung đại Việt Nam thường hướng về những chức năng, phận sự, sự hành đạo mà ít chú ý đến vấn đề đời tư của con người suốt một thời gian dài. Khoảng năm thế kỉ đầu vấn đề đời tư gần như không được nhắc đến. Sự in đậm dấu ấn cá nhân cùng với sự thể hiện sâu sắc đời sống riêng tư của mình, Nguyễn Khuyến đã tạo ra một bước phát triển mới cho văn học Việt Nam trung đại trong việc thể hiện con người. Đó là quá trình đi từ cái “chung” đến cái “riêng”, từ “vô ngã ” đến “hữu ngã ” và chính cái “riêng” cái “hữu ngã” này, trong chừng mực nhất định làm cho văn học có sự thay đổi về chất. Nguyễn Khuyến là một tác giả được giảng dạy trong nhà trường các cấp. Vì vậy, thực hiện đề tài “Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến ” sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học về tác giả Nguyễn Khuyến nói riêng, văn học trung đại Việt Nam nói chung. Xuất phát từ ba lí do trên chúng tôi lựa chọn đề tài : “Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến” với hy vọng sẽ góp thêm một góc nhìn mới về tác giả quen thuộc này. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Khuyến là một thi tài, là một trong những cây đại thụ của văn học dân tộc. Bóng mát của cây đại thụ ấy đã rợp xuống thời gian suốt mấy trăm năm. Gốc rễ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. 2 của nó đã ăn sâu vào lòng đất Việt, góp phần tạo nên tâm hồn Việt. Vì thế từ lâu, Nguyễn Khuyến và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến đã trở thành mảnh đất trù phú nuôi trồng biết bao cây bút nghiên cứu, phê bình văn học. Thơ văn Nguyễn Khuyến được công bố muộn, đăng tải lần đầu tiên trên Nam phong tạp chí (1917). Nhưng phải đợi đến gần hai mươi năm sau thì công tác văn học sử trên đường hình thành mới tìm đến Nguyễn Khuyến. Việc sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu thơ văn chữ Hán của Nguyễn Khuyến được chính thức bắt đầu từ năm 1957, nhưng phải đến năm 1971, khi cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến được công bố, công việc này mới đạt được những thành tựu đáng kể. Kể từ đây, việc nhìn nhận “Nguyễn Khuyến – một nhà thơ yêu nước ” bắt đầu được đề cập đến. Cũng trong khoảng thời gian này, bộ Hợp tuyển thơ văn yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX ra mắt và Nguyễn Khuyến cũng có một “chỗ ngồi” không đến nỗi quá khiêm tốn trong bộ sách trên. Từ đó đến nay đã có nhiều công trình lớn nhỏ nghiên cứu về thơ Nguyễn Khuyến: Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm [30]; Nguyễn Khuyến thơ, lời bình và giai thoại [31]; Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình [39]; Nguyễn Khuyến tác phẩm [10]... Có thể nói, Nguyễn Khuyến là nhà thơ để lại dấu ấn đậm nét trong văn học với rất nhiều tác phẩm được lưu truyền hậu thế. Vì vậy, thơ văn ông đã được rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, đề tài “chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến” thì vẫn chưa thấy có công trình nào được công bố. Nó chỉ được đề cập đến ở một số bài viết, cụ thể như sau: Trong bài “Sự đa dạng và thống nhất trên quá trình chuyển động của một phong cách và dấu hiệu chuyển mình của tư duy thơ dân tộc”, Nguyễn Huệ Chi viết: Nguyễn Khuyến đã tự trào mình khá chua cay, đã vạch đúng chân tướng con người bế tắc, thoái chí của mình: “Cờ đang dở cuộc không còn nước; Bạc chửa thâu canh đã chạy làng”, (Tự trào) [30, tr. 62]. Bài viết mới chỉ ra một khía cạnh tự trào trong tính bi kịch con người Nguyễn Khuyến, tuy nhiên tác giả lại chỉ nêu vấn đề chứ cũng chưa đi sâu vào từng bài cụ thể để tìm hiểu và nghiên cứu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. 3 Trong bài “Nhân vật trữ tình trong thơ trữ Hán”, Trần Thị Băng Thanh có viết: “Hình ảnh một ông già xuề xòa giữa cộng đồng dân dã ở đây đã lùi lại phía sau, nhường chỗ cho một hình ảnh khác: một trí thức ý thức rõ rệt về bản lĩnh và nhân cách, về trách nhiệm kẻ sĩ trước những xáo động dữ dội của thời cuộc. Đây chính là một dạng nhân vật đặc sắc và không kém quan trọng trong thơ Nguyễn Khuyến, có quan hệ mật thiết với con người tác giả, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với tác giả... Vẻ đẹp hướng nội làm cho nhân vật ấy sống động lên, như là một người anh em sinh đôi với Nguyễn Khuyến; và cũng chính con người nghệ thuật này đã thống nhất anh đồ nho, ông quan Tam Nguyên và ông già Yên Đổ ẩn cư trong Nguyễn Khuyến lại làm một” [30, tr. 240]. Ở bài viết này, Trần Thị Băng Thanh cũng nhắc đến hình ảnh con người Nguyễn Khuyến, tuy nhiên tác giả lại chỉ nêu vấn đề chứ cũng chưa đi sâu khảo sát tác phẩm cụ thể. Trong bài “Tâm trạng Nguyễn Khuyến qua thơ tự trào” Vũ Thanh có nêu: “Ở cả hai mảng chân dung, cũng chỉ là một Nguyễn Khuyến. Nhưng nếu ở chân dung tự trào bằng chữ Hán tâm hồn tác giả cao quý quá, sâu xa quá thì ở chân dung tự trào bằng chữ Nôm tác giả như cố tình bôi xấu đi, đánh lạc hướng đi, che dấu đi “một tấm lòng son vẫn có thừa”... Hai bức chân dung tự họa ấy vừa là sự bổ sung mật thiết vừa đối lập nhau một cách gay gắt” [30, tr. 275]. Nhà nghiên cứu Vũ Thanh đã đề cập đến chân dung tự trào. Tuy nhiên, tác giả chỉ tìm hiểu về tâm hồn cao quý chứ chưa đi sâu tập trung phân tích làm rõ hình ảnh chân dung, con người Nguyễn Khuyến. Trong cuốn Thơ Nôm Đường luật, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn đã đề cập đến vai trò, ý nghĩa của chủ đề đời tư trong tiến trình phát triển của thể loại: “ Cùng với việc phản ánh xã hội, đất nước, con người, ở giai đoạn cuối của Đường luật Nôm đã xuất hiện khuynh hướng đi vào đời tư. Đây là một biểu hiện mới trong chức năng thể loại, mặc dù nó chưa thực sự đậm nét. Những bước đi đầu tiên này chắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. 4 hẳn có một ý nghĩa nào đó đối với sự phát triển và mở rộng chủ đề đời tư trong thơ ca Việt Nam giai đoạn sau ”[40, tr. 6]. Rõ ràng, chủ đề đời tư trong văn học trung đại là vấn đề đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý ở nhiều mức độ, khía cạnh khác nhau. Tuy vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào coi chủ đề đời tư là đối tượng chính để nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện. Đây là một việc làm có ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn và góp phần nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Vì vậy, chúng tôi tiếp thu những ý kiến, những gợi dẫn quý báu của các nhà nghiên cứu đi trước để thực hiện đề tài “Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến ”. 3. Mục đích nghiên cứu - Đề tài đi sâu vào tìm hiểu chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến, qua đó góp phần phác họa rõ thêm chân dung một tác giả văn học. - Luận văn góp phần nâng cao chất lượng trong việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập thơ văn Nguyễn Khuyến trong nhà trường. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là những bài thơ mang chủ đề đời tư trong cuốn “Nguyễn Khuyến tác phẩm” của tác giả Nguyễn Văn Huyền Sưu tầm – Biên dịch – Giới thiệu, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1984. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài gồm những bình diện sau : 4.2.1. Các sáng tác của Nguyễn Khuyến, đặc biệt là những bài thơ về chủ đề đời tư. 4.2.2. Các tư liệu, công trình nghiên cứu, bài báo có liên quan. Ngoài ra, trong chừng mực có thể luận văn còn so sánh chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến với các tác giả thơ trung đại: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. 5 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Làm rõ một số khái niệm có liên quan đến đề tài 5.2.Khảo sát và hệ thống hóa các tác phẩm mang chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến 5.3. Phân tích và đánh giá về tác dụng, ý nghĩa của các phương diện thể hiện chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến. Qua đó, khẳng định vai trò vị trí của chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến đối với tiến trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam trong việc thể hiện con người nói chung, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến nói riêng. 6. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp này giúp chúng tôi phân loại và lựa chọn chính xác đối tượng nghiên cứu. Trong quá trình triển khai và giải quyết vấn đề, phương pháp này có tác dụng chỉ ra và cụ thể hóa các khía cạnh của vấn đề - Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp này phục vụ đắc lực cho quá trình tìm hiểu, khám phá và đánh giá ý nghĩa của vấn đề được nghiên cứu. Đây là phương pháp không thể thiếu để có thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Phương pháp so sánh (lịch đại, đồng đại) để tạo ra tương quan so sánh nhằm chỉ ra sự tiếp nối cũng như những sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp liên ngành, vận dụng hiệu quả các môn khoa học liên ngành (lịch sử học, văn hóa học, toán học, xác suất thống kê…) nhằm giúp cho vấn đề được nhìn nhận bao quát hơn và chính xác hơn. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ lục, Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài Chương 2: Chủ đề đời tư qua bức chân dung tự họa. Chương 3: Chủ đề đời tư qua các mối quan hệ cá nhân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 6 8. Đóng góp của luận văn Là công trình đầu tiên khảo sát, thống kê những bài thơ về chủ đề đời tư mà Nguyễn Khuyến thể hiện trong sáng tác của mình. Từ đó, phân tích, lập luận chỉ ra nội dung tư tưởng mới mẻ và phong phú của mảng thơ này đối với sự nghiệp văn học của Nguyễn Khuyến. Thông qua đó, giá trị thơ văn và tài năng của Nguyễn Khuyến được khẳng định sâu sắc hơn. Luận văn là một trong những nguồn tư liệu hữu ích phục vụ việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu về Nguyễn Khuyến. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. 7 NỘI DUNG Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Khái niệm chủ đề đời tư 1.1.1. Phân biệt chủ đề và đề tài Đề tài là “khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong tác phẩm văn học ” [7, tr. 110]. Có thể hiểu đề tài là yếu tố cơ bản của tác phẩm văn học dùng để chỉ phạm vi đời sống hoặc tâm trạng được phản ánh trong công trình nghệ thuật của nhà văn. Chủ đề là “vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra và qua nội dung cụ thể của tác phẩm văn học ” [7, tr. 61]. Đề tài là một khái niệm về loại của hiện tượng đời sống được miêu tả. Có bao nhiêu hiện tượng đời sống có bấy nhiêu đề tài. Khi nói đến đề tài tác phẩm, ta không phải chỉ nói tới một đề tài, mà thực chất là một hệ thống đề tài liên quan nhau, bổ sung cho nhau tạo thành đề tài của tác phẩm. Tương tự như vậy, về bản chất, chủ đề văn học không bao giờ là vấn đề đơn nhất. Nếu trong thực tại, bản chất con người đã là một tổng hòa các mối quan hệ xã hội, thì điều đó có nghĩa là bất cứ một vấn đề nào của con người cũng liên quan đến hàng loạt vấn đề phức tạp khác của quan hệ xã hội. Vì thế, trong một tác phẩm cũng có chủ đề chính và chủ đề phụ. Như vậy, thực chất khái niệm đề tài, chủ đề mang tính hệ thống. Đề tài và chủ đề có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối quan hệ đặc biệt quan trọng với nội dung tác phẩm. Đề tài và chủ đề là những khái niệm chủ yếu thể hiện phương diện khách quan của nội dung tác phẩm văn học. Nếu khái niệm đề tài giúp ta xác định “Tác phẩm viết cái gì ?”, thì khái niệm chủ đề lại giải đáp câu hỏi “Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì? ”. Chủ đề bao giờ cũng được hình thành và được thể hiện trên cơ sở đề tài. Đề tài và chủ đề là hai khái niệm khác biệt nhau nhưng trong một số trường hợp đề tài và chủ đề hòa quyện với nhau không tách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. 8 được như một số tác phẩm ngụ ngôn, truyện đồng thoại, một số thơ trữ tình... Người tiếp nhận có thể đi thẳng từ đề tài bên ngoài vào chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Như vậy đề tài và chủ đề là một con đường quan trọng giúp người đọc có thể đi vào và tiếp nhận nội dung tác phẩm. Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài và chủ đề trong tác phẩm văn học, các nhà văn luôn quan tâm đến vấn đề này trong quá trình sáng tác. Mặc dù là những phương diện khách quan của nội dung tác phẩm nhưng đề tài và chủ đề đều có tính chất chủ quan. Không chỉ gắn với hiện thực khách quan, đề tài và chủ đề còn do lập trường tư tưởng và vốn sống của nhà văn quy định. Các nhà văn chân chính luôn có ý thức trong việc làm mới đề tài, chủ đề trong sáng tác của mình. Nguyễn Khuyến với chủ đề đời tư trong thơ chính là một trường hợp như vậy. 1.1.2. Phân biệt con người cá nhân và chủ đề đời tư Văn học là một hoạt động sáng tạo, sự sáng tạo mang tính cá nhân trực tiếp và độc đáo. Vì thế, sáng tác văn học bộc lộ mạnh mẽ và phong phú vai trò của nhân tố chủ quan (dấu ấn của chủ thể sáng tạo). Ở thời nào cũng vậy, sức sáng tạo của dân tộc kết tinh ở những cây bút lớn đều có những cách khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của riêng mình... Điều đó cũng có nghĩa là: ở mức độ đậm nhạt khác nhau, tác phẩm văn học viết bao giờ cũng ít nhiều in dấu ấn cá nhân. Dấu ấn cá nhân này không thể có ở dòng văn học dân gian do sáng tác được tiến hành tập thể và lưu truyền bằng miệng, là kết quả nhận thức - thẩm mĩ của một tập thể trong cộng đồng. Dấu ấn cá nhân là cơ sở để nhận diện con người cá nhân trong văn học. Dấu ấn cá nhân là biểu hiện của chủ thể con người riêng biệt. Khi nào con người riêng biệt ấy có ý thức tự khẳng định sự tồn tại, khẳng định giá trị riêng của mình gắn với ý nghĩa nhân sinh quan của con người thì xuất hiện con người cá nhân. Như vậy con người cá nhân trong sáng tác văn chương là quá trình tự ý thức về mình của con người, là cái “tôi” tác giả thể hiện trong tác phẩm - sự diễn tả giãi bày thế giới tư tưởng, tình cảm, ước mơ khát vọng... thầm kín của nhà văn, sự khẳng định vai trò bản ngã của nhà văn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 9 Văn học viết Việt Nam thời kì trung đại với tư cách là những sản phẩm sáng tạo tinh thần của những chủ thể - cá thể, đã xuất hiện con người cá nhân. Trong lời kết cuốn “Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam”, Trần Đình Sử khẳng định: “Con người cá nhân trong văn học trung đại có một quá trình tự ý thức chậm chạp, lâu dài nhưng mạnh mẽ. Tuy qua từng thời kì lịch sử có chịu ảnh hưởng của các ý thức hệ thống trị đương thời nhưng không bao giờ đóng khung trong ý thức hệ đó mà phản ánh quá trình vận động, giải phóng cá tính của con người trong thực tế đời sống” [26, tr. 194]. Đặc biệt “Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII... con người cá nhân khẳng định mình bằng cách gắn mình với đạo, với tự nhiên, với nghĩa vụ trong sự nghiệp chung của cộng đồng, yếu tố quyền lợi cá nhân chưa được chú ý...” [26, tr. 194]. Như vậy có con người cá nhân chưa hẳn đã có chủ đề đời tư. Trong những bài thơ tự thuật, cảm hoài, ngôn chí, ngôn hoài..., các tác giả đã gửi gắm, bộc lộ tâm sự của mình. Nhưng thời trung đại, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và giai đoạn phát triển của nhà nước phong kiến, con người sống bằng các giá trị chủ yếu như đạo lí cương thường, cho nên bộc lộ tâm sự mà không thấy tâm trạng, không thấy cái “tôi” trữ tình riêng, không nhằm nói tiếng nói của cái “tôi” cá biệt mà nói tiếng nói của cái “ta” (phần đạo lí trong cái “tôi” đó). Đây là tiếng nói của sự tự ý thức về nghĩa vụ, về trách nhiệm của con người cá nhân trước vận mệnh đất nước chứ không phải mang màu sắc của con người cá nhân ở một mức độ nhất định. “Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội” (Các Mác). Văn học lại là một bộ môn nghệ thuật lấy con người làm đối tượng phản ánh chủ yếu cho nên văn học phản ánh các mối quan hệ xung quanh con người. Chỉ khi nào con người với những mối quan hệ riêng tư chiếm một vị trí lớn trong đời sống của họ, những giá trị cá nhân như quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một quyền tự nhiên... được đề cao, được chú ý thì khi đó có sự xuất hiện của chủ đề đời tư trong văn học. 1.1.3. Khái niệm chủ đề đời tư Từ khái niệm chung về chủ đề có thể xác định: ở chủ đề đời tư, vấn đề chủ yếu, vấn đề trung tâm mà nhà văn nêu lên, đặt ra trong tác phẩm là các vấn đề đời tư của chính bản thân tác giả, thể hiện trên các phương diện cơ bản sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. 10 - Con người và cuộc sống riêng của chính tác giả. - Các mối quan hệ riêng tư Như vậy, trong tác phẩm văn học có sự xuất hiện của chủ đề đời tư, tác giả đã đưa chính mình vào thơ văn mình như một nhân vật khách thể. Nhân vật ấy với tác giả vừa là một, vừa không là một vì nó đã là một nhân vật của văn học được xây dựng theo quy luật sáng tạo của nghệ thuật vốn dĩ là thiên hình vạn trạng, vừa thực vừa hư nhưng tất cả đều trên một cái nền tâm trạng thực, một nhân cách thực. Dễ thấy, có hai nguyên nhân chủ yếu của sự hình thành và xuất hiện chủ đề đời tư trong văn học. Nguyên nhân thứ nhất có thể kể đến là do quy luật phát triển tất yếu của văn học. Nguyên nhân thứ hai chính là do có sự phát triển của cá tính và ý thức cá nhân trong văn học. Trên thực tế, chủ đề đời tư chỉ xuất hiện khi con người có ý thức về cá nhân, cá tính của mình. Bởi thế, một số thể loại văn học dân gian tiêu biểu không hề có chủ đề đời tư. Chẳng hạn, “Thần thoại là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người”. Thần thoại được coi là những sáng tác sớm nhất trong quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Thần thoại là sản phẩm của người nguyên thủy, khi con người bắt đầu có ý thức nhưng chưa tách mình ra khỏi tự nhiên. Điều kiện sinh sống của người nguyên thủy một mặt khiến cho họ không thể đấu tranh với lực lượng tự nhiên, mặt khác gắn chặt họ với tự nhiên. Sáng tạo thần thoại, người nguyên thủy đã “dùng tưởng tượng, mượn tưởng tượng để chinh phục sức tự nhiên, chi phối tự nhiên, hình tượng hóa tự nhiên” [21, tr. 69]. Hàng loạt truyện thần thoại của người Việt như “Thần trụ trời”, “Sơn tinh thủy tinh”, “Thần mưa”, “Thần mặt trời” “Nữ thần mặt trăng” “Mười hai bà mụ”... đã ra đời như một nhu cầu để nhận thức, lý giải các hiện tượng tự nhiên và thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên của người Việt cổ. Như vậy, thần thoại phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là chủ yếu. Do đó, ở thần thoại chưa xuất hiện chủ đề đời tư. Tương tự, sử thi ra đời khi xã hội nguyên thủy đã tan rã, xã hội phong kiến chưa hình thành; là bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. 11 đại diện cho bộ tộc. Đó là những bài ca ca ngợi những kì tích của toàn thể cộng đồng mà tiêu biểu là ca ngợi những nhân vật anh hùng trong sự nghiệp xây dựng đời sống chung như chinh phục tự nhiên, chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ bộ tộc... Con người sử thi là những dũng sĩ có sức mạnh, tài năng và vẻ đẹp phi thường. Họ có thể giết tê giác, bắt voi rừng, quật ngã trâu như Khinh Dú, Xinh Nhã... Có thể đánh bại các tù trưởng để trở thành “tù trưởng của các tù trưởng”, chặt cây thần, đi bắt nữ thần mặt trời để chinh phục tự nhiên như Đam San... Con người sử thi có ý thức và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ đối với cộng đồng, nhưng con người sử thi chưa phải là những con người phát triển ý thức cá nhân, con người bên trong, con người cho riêng mình, vì mình. Đại diện toàn năng cho bộ tộc, tiêu biểu cho những gì tốt đẹp nhất của cộng đồng, rõ ràng sử thi chủ yếu phản ánh mối quan hệ giữa con người và lịch sử, con người với cộng đồng. Không thể tìm thấy chủ đề đời tư trong những tác phẩm này. Đến thời trung đại, bản chất con người bắt nguồn từ quan hệ cộng đồng; giá trị cá nhân nằm trong giá trị tập thể. Con người ý thức cá tính trong cái chuẩn mực vô ngã. Theo giáo sư Trần Đình Sử, sự ý thức về cá tính trong xã hội Việt Nam trung đại không nằm ngoài quy luật phổ biến trên nhưng có tính đặc thù. Con người một mặt lấy luân thường đạo lí làm phương châm răn mình, làm khuôn đúc nhân cách, mặt khác cá tính con người được ý thức bằng các phạm trù “siêu chuẩn”, “phi chuẩn”. Các phạm trù đó có thể là “tài tình”, “nghịch tử”... Nó được ý thức qua phạm trù “tâm sự” mang tính chất trữ tình. Khi Nguyễn Trãi viết: Đống lương tài có mấy bằng mày, Nhà cả nhiều phen chống khỏe thay . (Tùng) thì “tài” ở đây không phải để khoe mà nó là một phạm trù để ý thức cá tính, để nhận ra giá trị tự thân của con người. Sang giai đoạn văn học cuối thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX, lại xuất hiện hàng loạt các tác giả như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... lấy “ngông” làm tài để khẳng định cá tính... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. 12 Tất cả đều là kết quả của việc con người tách mình ra khỏi môi trường xung quanh, con người tự cho phép mình như một chủ thể tự nhận thức. Và chính sự vượt lên khuôn khổ, sự tự nhận thức ấy, con người cá nhân đã được khẳng định. 1.2. Chủ đề đời tư trong văn học trung đại 1.2.1. Khái quát chung Con người trong văn học chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng triết học, thần học mỗi thời. Giống như con người trong văn học trung đại Trung Quốc mang đậm dấu ấn của tam giáo Nho, Đạo, Phật, văn học trung đại Việt Nam ra đời và phát triển dưới các triều đại phong kiến, ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến. Đặc điểm chung của ý thức trung đại phản ánh vào các luồng tư tưởng này là quan niệm về con người “vô ngã”. Cả Nho, Phật, Đạo đều chủ trương lý tưởng vô ngã, phá ngã, vô kỷ... Điều này đã chi phối đến cách ứng nhân xử thế, xác định mối quan hệ qua lại giữa cá nhân và cộng đồng của con người trong văn học. Có thể nói, thời trung đại cái riêng chưa phát triển, mối quan hệ của con người là mối quan hệ với cái chung, với cộng đồng, với dân tộc. Nhân cách con người được tăng cường ở vị trí công dân – một phần tử của đất nước, ít có chỗ cho cá nhân tự ý thức, có khi hy sinh cũng là sự xả thân để thành nhân. Tuy vậy, đặc trưng này không phải là sự nhất thành bất biến trong suốt quá trình phát triển của văn học trung đại. Lý tưởng chung của tam giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn học là vậy, nhưng văn học lại là một lĩnh vực ý thức về đời sống con người, không thể lược quy con người trong văn học vào các ô có sẵn của triết học. Văn học trung đại Việt Nam chịu sự chi phối của tư tưởng triết học Trung Quốc nhưng không đồng nhất với chúng. Con người ta sinh ra, ai cũng có cá tính, có nhu cầu tự khẳng định mình trong xã hội, trong sự tồn tại của chính mình. Con người cá nhân riêng tư với những nhu cầu, lợi ích của “đời sống hiện hữu” luôn tồn tại bên “một đời sống tâm linh”. Người ta không chỉ coi trọng mặt tinh thần của cuộc sống để trau dồi cho mình những đức tính cần thiết, khi phải đối diện với những cái thường ngày, những vấn đề của riêng mình, sự tự ý thức về cá nhân sẽ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. 13 lớn dần lên đòi quyền được sống, quyền được tự bộc lộ. Con người “vô ngã” sẽ chuyển dần sang con người “hữu ngã”, con người “chung” sẽ tiến dần đến con người “riêng” như là một quy luật tất yếu. Tác giả Nguyễn Hữu Sơn trong cuốn “Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam” đã phát hiện: “Điều đặc biệt là với những tác giả lớn (chẳng hạn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ....) thì các nguyên tắc lớn trên kia thường dễ được bỏ qua... tự thân các tác gia cổ điển có khả năng vượt qua mọi vách ngăn của thời đại” [26, tr. 19]. Nếu như “vách ngăn” của thời trung đại là những tư tưởng chuẩn mực và vô ngã thì con người đã “vượt qua” bằng sự tự khẳng định mình, ý thức về mình. “Văn học Việt Nam trước thế kỷ XVIII khẳng định cá nhân trong các tư tưởng lớn. Từ thế kỷ XVIII, nó ý thức về cái thân con người như một giá trị trần thế” [32. tr, 55]. Như vậy, con người có thể khẳng định mình trong các chuẩn mực của luân lí xã hội, trong bậc thanh danh vị; con người cũng có thể khẳng định mình bằng những biểu hiện “phi chuẩn”, “ngoài chuẩn”. Văn học trung đại Việt Nam đã ghi dựng được những mẫu hình anh hùng, tài nhân, quân tử, văn học trung đại cũng tái hiện được những cái “tôi” rất ngông nghênh, kiêu bạc. Đây là những phạm trù biểu hiện cá tính đặc trưng của thời trung đại. Với ý thức cá nhân sâu sắc, văn học Việt Nam trung đại đã xuất hiện chủ đề đời tư. Có thể thấy rõ điều này qua những tác phẩm của một số những nhà thơ tiêu biểu. 1.2.2. Chủ đề đời tư trong sáng tác của một số tác giả trước Nguyễn Khuyến 1.2.2.1. Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Trãi Nói về con người Nguyễn Trãi là nói về một nhà yêu nước một nhà nhân đạo, một nhà văn hóa lớn. Đó là con người có cái tài kinh bang tế thế, làm rạng rỡ cho đất nước, từ xưa tới nay chưa từng có. Nguyễn Trãi xuất hiện ở cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV, là tác giả đầu tiên của giai đoạn văn học trung đại Việt Nam đã chú ý đến chủ đề đời tư. Với những sáng tác văn học có tính chất quan phương, Nguyễn Trãi từng được biết đến như là một nghệ sĩ tài ba, một nhà tư tưởng vĩ đại, một anh hùng kiệt xuất của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. 14 dân tộc. Tìm hiểu đời tư trong thơ ông, chúng ta còn hiểu hơn về một cá nhân giữa đời thường, một nhà thơ luôn yêu thương trìu mến với cảnh vật với con người, với đời sống nghèo mà trong sạch của quê hương: với mồ mả ông bà, với cha mẹ, họ hàng thân thích; cả những khát khao âm thầm, những ưu sầu nặng lẽ đang diễn ra trong chính bản thân nhà thơ. Ở giai đoạn lịch sử mà văn học còn chịu sự ngự trị của những tư tưởng chuẩn mực, những mẫu hình lý tưởng, văn chương quan phương cung đình giàu ý nghĩa tụng ca vương triều, tụng ca thánh đế thì sự xuất hiện chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Trãi có ý nghĩa như là “những sáng tạo đột xuất, vượt qua thông lệ, vượt qua mọi ràng buộc...” [26, tr. 20]. Nguyễn Trãi vừa là tư cách một con người xã hội, vừa “thấy sự bung tỏa, thấy những lực ly tâm của sự sáng tạo thơ ca ra xa quỹ đạo quan phương chính thống” [26, tr. 20]. Điều này càng làm tăng thêm vẻ đẹp tài năng, trí tuệ tâm hồn Nguyễn trãi, tăng thêm nhân cách của một nhà thơ lỗi lạc. Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Trãi trước hết được biểu hiện ở mối quan hệ riêng tư. Đó là tình cảm của nhà thơ đối với cha mẹ, với vợ con, bạn bè, mối quan hệ trong tình yêu nam nữ và ngay cả với chính bản thân mình. Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều biến cố thăng trầm, trong một thời gian dài phải sống xa quê hương, nỗi nhớ cha mẹ già, nỗi nhớ người thân, hình ảnh quê hương lối cũ trở đi trở lại day dứt qua những vần thơ: Non quê ngày nọ chiêm bao thấy, Viên hạc chăng hờn lại những thương. (Tự thán 1) Trái tim nhạy cảm với cội với nguồn ấy không chỉ đập ngày một ngày hai mà trải dài theo năm tháng: Can qua thập tải thân bằng thiểu Vũ trụ thiên niên biến cố đa.. ( Hoạ Tân trai vận ) Dịch: Mười năm can qua bạn bè bà con đều ít Nghìn năm trong vũ trụ biến cố xảy nhiều. (Hoạ vần thơ Tân trai ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. 15 Tiếng lòng 10 năm, nỗi xót xa đến quặn lòng ấy là của một người con nặng tình nặng nghĩa luôn đau đáu niềm riêng, luôn thiết tha trong tâm khảm. Sự xuất hiện của tình yêu nam nữ, của những tình cảm nồng ấm vợ chồng trong thơ Nguyễn Trãi cũng là một khía cạnh mới mẻ và độc đáo. Bài “Tiếc cảnh số 10”, nhiều người cho rằng đó là những câu thơ Nguyễn Trãi viết cho Nguyễn Thị Lộ - người thiếp yêu của nhà thơ - ở tuổi 40 mà vẫn vô cùng tình tứ và ý nhị: Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng, Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng. Ngoài ấy dầu còn áo lẻ? Cả lòng mượn lấy đắp hơi cùng. (Tiếc cảnh số 10) Ẩn sau cái vẻ ngoài của lời lẽ trách móc là một tình cảm mãnh liệt của một tâm hồn đang tràn ngập yêu thương. Vì yêu mới dằn vặt, vì yêu mới nghi ngờ và khát khao. Tình cảm vợ chồng thắm đượm này đã trở thành một thứ đặc sản quý và vô cùng hiếm của thơ ca trung đại Việt Nam. Với bản thân, con người và cuộc sống sinh hoạt cá nhân, những nhu cầu, lợi ích... cũng được Nguyễn trãi ý thức rất rõ, nó được biểu hiện sinh động và phong phú trong những sáng tác của ông. Hình ảnh một ông già tuổi cao, đầu bạc, đôi mắt lòa, ăn mặc giản dị là hình ảnh Nguyễn Trãi tự họa mình trong thơ: Lưỡng nhãn hôn hoa đầu cánh bạch, Quyên ai hà dĩ đáp quân ân. (Thứ Cúc Pha tặng phi ) Dịch: Hai mắt đã lòa đầu lại bạc, Ơn vua chưa đáp, dạ đâu đành. (Hoạ thơ của Cúc Pha tặng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2