
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Kiến trúc theo phong cách Đông Dương ở Hà Nội (qua tác phẩm của Ernest Hébrard và Arthur Kruze)
lượt xem 1
download

Luận văn "Kiến trúc theo phong cách Đông Dương ở Hà Nội (qua tác phẩm của Ernest Hébrard và Arthur Kruze)" nhằm phân tích các cơ sở khoa học của sự hình thành của kiến trúc theo phong cách Đông Dương từ đó xác định các yếu tố tác động đến sự hình thành và đặc điểm của kiến trúc theo phong cách Đông Dương mà trọng tâm là các công trình kiến trúc theo phong cách Đông Dương của hai kiến trúc sư Ernest Hébrard và Arthur Kruze tại Hà Nội. Phân tích, đánh giá triết lý sáng tác của các công trình kiến trúc theo phong cách Đông Dương của hai kiến trúc sư Ernest Hébrard và Arthur Kruze tại Hà Nội. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Kiến trúc theo phong cách Đông Dương ở Hà Nội (qua tác phẩm của Ernest Hébrard và Arthur Kruze)
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tên đề tài: Kiến trúc theo phong cách Đông Dương ở Hà Nội (qua tác phẩm của Ernest Hébrard và Arthur Kruze) 2. Lý do chọn đề tài Di sản kiến trúc Việt Nam do những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của các triều đại phong kiến trước đây đã bị phôi phai, riêng cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX để lại những dấu ấn sâu đậm trong đô thị và bộ mặt kiến trúc ở Hà Nội. Sài Gòn, Đà Lạt, Huế... Những di sản kiến trúc thời Pháp thuộc cùng với các phố cổ, các di tích kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng, những cảnh quan thiên nhiên và nhân tạo tạo nên nét đặc trưng riêng cho các đô thị đó. Trong đó đặc biệt Hà Nội có một di sản kiến trúc Pháp với hàng ngàn công trình lớn nhỏ mang nhiều phong cách, kiểu cách, thể loại mà ở các đô thị khác ở Việt Nam không thể có như vậy được. Kiến trúc thời thuộc địa với tư cách di sản đô thị và kiến trúc với nhiều giá trị cần được bảo tồn và khai thác, trong đó giá trị nổi bật là những sự tìm tòi của các kiến trúc sư Pháp để cho công trình của họ thích nghi với đặc điểm thiên nhiên và truyền thống văn hóa bản địa. Sự giao lưu với kiến trúc Pháp, khởi đầu chính là những vấn đề nảy sinh giữa mẫu thiết kế kiến trúc mang từ chính quốc không phù hợp với điều kiện tự nhiên bản địa. Tiếp đến là nền kiến trúc cổ điển Châu Âu với nguồn gốc Hy Lạp – La Mã phải tiếp cận với nền văn hóa bản địa ở phương Đông. Tiến trình trên sáu mươi năm bởi nhiều lý do khác nhau đã tạo nên sự giao lưu về kiến trúc giữa chính quốc và bản địa. Kết quả của sự giao lưu đó là sự ra đời phong cách kiến trúc Đông Dương. Kiến trúc theo phong cách Đông Dương tại Hà Nội trong giai đoạn sau thập kỷ 20 đã tìm cách thích nghi với các điều kiện môi trường xã hội tự nhiên và bản địa, dẫn tới sự định hình rõ nét của một phong cách mới phù hợp 1
- với những đặc thù của Hà Nội. Bên cạnh đó, xu hướng kiến trúc hiện đại phương Tây cũng đã bắt đầu có mặt với sự đóng góp bằng một loạt các công trình khác nhau. Việc dung hợp các yếu tố kiến trúc khác biệt giữa hai nền văn hóa Đông Tây dần giải quyết được sự thích nghi cho các xu hướng đã có thâm niên tồn tại ở Hà Nội, nhưng đối với các xu hướng mới thì vẫn còn độ vênh nhất định, chưa tìm được tiếng nói chung với các điều kiện bản địa để tạo ra nét đặc trưng riêng. Có thể nói, ảnh hưởng của kiến trúc theo phong cách Đông Dương ở Hà Nội diễn ra có quy luật, bộc lộ những giá trị tích cực nhất định, đi từ cưỡng bức, cộng sinh, chuyển hóa mềm mại và có đặc trưng phù hợp với đặc điểm tự nhiên và nhân văn Hà Nội, bao chứa cả tính khách quan của thời đại và tính chủ quan của các cá nhân. Ảnh hưởng ấy bộc lộ rõ rệt qua sự kết hợp của của phương pháp tư duy phân tích (có nguồn gốc phương Tây) với phương pháp tư duy tổng hợp mang tính cân bằng dung hòa (có nguồn gốc phương Đông), thể hiện trong mọi khía cạnh của quá trình tác nghiệp, tạo lập nên một công trình kiến trúc. Kiến trúc theo phong cách Đông Dương ở Hà Nội đã trở thành một quỹ di sản kiến trúc mang ý nghĩa lịch sử, kết hợp hài hòa với các thành phần kiến trúc và cảnh quan đô thị truyền thống. Quỹ di sản ấy cần có được các tiêu chí nhận diện chính xác và đặt ra các phương thức ứng xử phù hợp phục vụ cho mục tiêu bảo tồn, cải tạo các giá trị nguyên gốc cần lưu giữ. Quá trình ảnh hưởng của kiến trúc Pháp tại Hà Nội cùng với những bài học và di sản của nó là một tiền đề thuận lợi cho kiến trúc Việt Nam tiếp cận với kiến trúc hiện đại phương Tây trong xu thế hội nhập quốc tế tất yếu hiện nay. Chính vì vậy, việc phân tích, nghiên cứu về kiến trúc theo phong cách Đông Dương và đề ra giải pháp cho việc gìn giữ và phát huy các giá trị sáng tạo của nó là điều cần thiết và thu hút sự quan tâm của xã hội 2
- 3. Mục tiêu nghiên cứu - Phân tích các cơ sở khoa học của sự hình thành của kiến trúc theo phong cách Đông Dương từ đó xác định các yếu tố tác động đến sự hình thành và đặc điểm của kiến trúc theo phong cách Đông Dương mà trọng tâm là các công trình kiến trúc theo phong cách Đông Dương của hai kiến trúc sư Ernest Hébrard và Arthur Kruze tại Hà Nội. Sở dĩ nghiên cứu về kiến trúc theo phong cách Đông Dương lại lựa chọn hai kiến trúc sư Ernest Hébrard và Arthur Kruze bởi vì đây là hai kiến trúc sư có nhiều công trình kiến trúc tiêu biểu về thời kỳ này ở Hà Nội. Hơn nữa, Ernest Hébrard là người tiên phong cho phong cách này và các tác phẩm của hai ông đặc sắc và tiêu biểu cho phong cách Đông Dương nói chung. - Phân tích, đánh giá triết lý sáng tác của các công trình kiến trúc theo phong cách Đông Dương của hai kiến trúc sư Ernest Hébrard và Arthur Kruze tại Hà Nội. - Kết luận và kiến nghị. Nguyên nhân ra đời và đặc điểm điển hình của phong cách Đông Dương. Khẳng định đây là một phong cách độc đáo và cần được bảo tồn, lưu giữ giống như xưa. Kiến trúc Đông Dương cùng với những bài học và di sản của nó là tiền đề thuận lợi cho kiến trúc Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.. Từ đó đúc rút được kinh nghiệm thiết kế kiến trúc thoả mãn các tiêu chí: + Kết hợp kiến trúc hiện đại và kiến trúc truyền thống. + Thích nghi môi trường, tạo điều hiện vi khí hậu tốt nhất cho người sử dụng. + Gắn kết các công trình kiến trúc với cảnh quan chung của đô thị, tạo nét đặc trưng và nâng cao chất lượng thẩm mỹ đô thị. 3
- + Phù hợp với điều kiện tuej nhiên khí hậu 4.Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu : + Đối tượng nghiên cứu chính là kiến trúc Đông Dương mà người Pháp đã xây dựng ở Việt Nam qua công trình của hai kiến trúc sư Ernest Hébrard và Arthur Kruze tại Hà Nội. 5. Phạm vi nghiên cứu Các công trình kiến trúc theo phong cách Đông Dương tại Hà Nội. - Tập trung nghiên cứu công trình tiêu biểu và các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành và triết lý sáng tác của hai kiến trúc sư Ernest Hébrard và Arthur Kruze tại Hà Nội. 6. Nội dung nghiên cứu - Tìm hiểu bối cảnh ra đời của phong cách Đông Dương ở Việt Nam. - Tiến trình du nhập và biến đổi của kiến trúc châu Âu vào Hà Nội. - Phân tích, nhận xét, đánh giá triết lý sáng tác các công trình kiến trúc theo phong cách Đông Dương của hai kiến trúc sư Ernest Hébrard và Arthur Kruze tại Hà Nội. - Tìm kiếm các cơ sở ảnh hưởng tới việc hình thành và các tác động của kiến trúc theo phong cách Đông Dương tới kiến trúc và không gian của người dân Hà Nội. - Kết luận và kiến nghị. 7. Phương pháp nghiên cứu - Tổng hợp tư liệu, xây dựng thư mục, phân tích những vấn đề liên quan đến đề tài. Khảo sát, phát hiện đo vẽ, chụp ảnh các công trình kiến trúc theo phong cách Đông Dương ở Hà Nội. - Các điều kiện tự nhiên khí hậu và những đặc điểm của nền kiến trúc – mỹ thuật dân tộc dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn. 4
- - Phân tích, so sánh những đặc điểm cơ bản của các công trình kiến trúc theo phong cách Đông Dương mà trọng tâm là của hai kiến trúc sư Ernest Hébrard và Arthur Kruze tại Hà Nội. - Sơ đồ hóa bằng hình vẽ, ảnh chụp và những nhận xét tổng quát. 8. Cấu trúc luận văn Luận văn bao gồm ba phần: Phần 1: Phần mở đầu : Lý do chọn đề tài, mục đích (các kết quả đạt được), đối tượng và phạm vi nghiên cứu, nội dung, phương pháp nghiên cứu và cấu trúc của đề tài nghiên cứu. Phần 2: Nội dung chính của luận văn. Bao gồm ba chương: Chương 1: Tổng quan về kiến trúc theo phong cách Đông Dương Chương 2: Những yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của phong cách Đông Dương tại Hà Nội Chương 3: Các công trình kiến trúc mang phong cách Đông Dương của hai kiến trúc sư Ernest Hébrard và Arthur Kruze ở Hà Nội. Phần 3: Kết luận và kiến nghị. 5
- Sơ đồ nội dung và phương pháp nghiên cứu 6
- PHẦN NỘI DUNG Chương I TỔNG QUAN VỀ KIẾN TRÚC THEO PHONG CÁCH ĐÔNG DƯƠNG 1.1.Tổng quan về kiến trúc theo phong cách Đông Dương tại Việt Nam Khái niệm về “phong cách Đông Dương” (style Indochinois): đây là một loại kiến trúc mới do người Pháp ở nước ta sáng tác. Thực chất đây là một phong cách chiết trung châu Á, không chỉ có chi tiết của ba nước Đông Dương mà có cả chi tiết kiến trúc Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… Vì sao ra đời theo phong cách này? Có ba lý do : Thứ nhất, những kiến trúc mang từ Pháp sang sau một số năm thì bộc lộ nhiều bất cập, nhất là không phù hợp với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, gió mạnh…Sau nữa là lúc đó, vào những năm 30-40 của thế kỷ XX, ảnh hưởng của Nhật Bản với thuyết Đại Đông Á đang lan tràn, ảnh hưởng của Pháp ở Việt Nam giảm sút. Để tranh thủ được lòng dân, để thân thiện hơn với Việt Nam, một số kiến trúc sư Pháp dạy tại Trường Mỹ thuật Đông Dương nghĩ cách thiết kế những công trình mang tính chất Việt Nam để lấy lại lòng tin của dân Việt. Người có công nhất trong việc sáng lập ra phong cách kiến trúc này là Ernest Hébrard, giáo sư của Trường Mỹ thuật Đông Dương, một viên chức cao cấp được chính phủ Pháp đưa sang để phụ trách công việc quy hoạch và kiến trúc của ba nước Đông Dương. Ông là kiến trúc sư nổi tiếng đã có giải thưởng Prix de Rome. Ông gọi phong cách kiến trúc này là phong cách kiến trúc Đông Dương (Style indochinois). Sau khi ổn định tương đối chế độ thực dân của mình ở Việt Nam, từ năm 1887 người Pháp bắt đầu tiến hành chương trình khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất. Đây cũng là thời gian mà nhiều đô thị lớn nước ta bắt đầu được mở rộng và qui hoạch lại theo những nguyên tắc về đô thị thịnh hành ở Pháp lúc bấy giờ. 7
- Các công trình kiến trúc chủ đạo được xây dựng ở Hà Nội, Hải Phòng hay Sài Gòn đều mang tinh thần của chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỷ 19. Có lẽ vì vậy mà nhiều người nhận xét Hà Nội giống như một Paris thu nhỏ. Có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu theo xu hướng này, ở Hà Nội như Phủ Toàn quyền, Dinh Thống sứ, Toà án Hà Nội, Viện Radium, Nhà hát lớn... ở Sài Gòn có toà Đốc lý, Nhà hát lớn, Toà Pháp đình... Từ sau thập kỉ 20, chương trình khai thác thuộc địa Đông Phương lần thứ hai bắt đầu và cũng được tiến hành ồ ạt hơn ở giai đoạn trước nhiều. Phong cách kiến trúc cổ điển Pháp mất dần vị trí độc tôn. Một mặt là sự xâm nhập của trào lưu kiến trúc hiện đại Pháp vào Việt Nam, mặt khác là sự xuất hiện của những xu hướng tìm tòi, kết hợp khai thác kiến trúc truyền thống Việt Nam. Sự hình thành một phong cách mới, kết hợp thành tựu công nghệ và văn hoá Pháp với truyền thống văn hoá và kiến trúc bản địa là xu hướng tất yếu. Bản thân giới trí thức Pháp ở thuộc địa cũng thấy được sự áp đặt những giá trị văn hoá từ chính quốc vào một đất nước cũng vốn có truyền thống văn hoá lâu đời là không thể chấp nhận được. Hơn nữa, sau một thời gian khai thác các công trình mang phong cách thuần tuý châu Âu cho thấy nó hoàn toàn không phù hợp về mặt khí hậu cũng như tập quán sinh hoạt, truyền thống thẩm mỹ và cảnh quan Việt Nam. Do vậy việc tìm tòi một phong cách kiến trúc vừa có khả năng đáp ứng công năng hiện đại, vừa phù hợp với khí hậu, cảnh quan và truyền thống văn hoá địa phương được một loạt kiến trúc sư người Pháp và sau đó là người Việt theo đuổi, từ đó tạo ra một phong cách kiến trúc kết hợp sau này được gọi là phong cách kiến trúc Đông Dương. Kiến trúc theo phong cách Đông Dương là những công trình có cấu trúc mặt bằng, hình khối hoàn toàn theo kiểu Pháp thịnh hành lúc bấy giờ nhưng 8
- đã có sự tìm tòi, biến đổi về mặt không gian và cấu tạo kiến trúc nhằm tạo ra những công trình có khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, cảnh quan cũng như truyền thống văn hoá bản địa. 1.2. Tổng quan về kiến trúc theo phong cách Đông Dương ở Hà Nội Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nước Pháp cho tiến hành chương trình khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ hai với quy mô gấp nhiều lần giai đoạn trước đó. Chương trình này đã dẫn tới sự biến đổi mạnh mẽ nền kinh tế và xã hội ở Hà Nội nói riêng và toàn cõi Đông Dương nói chung Cùng với đó là sự biến đổi về mặt nhận thức của giới trí thức Pháp ở thuộc địa, họ đã nhận ra rằng việc áp đặt một cách đơn thuần những giá trị văn hoá chính quốc vào một sứ sở vốn đã có truyền thống văn hoá từ lâu đời là không chấp nhận được. Từ đó, một xu hướng mong muốn kết hợp hài hoà giữa văn hoá Phương Đông và Phương Tây, giữa văn hoá bản địa và chính quốc đã diễn ra ở nhiều lĩnh vực, trong đó kiến trúc là một trong những lĩnh vực đi tiên phong. Từ đầu thập niên 1920, một loạt công trình kiến trúc được xây dựng theo phong cách kết hợp giữa kiến trúc kinh viện Châu Âu với các thành phần và giải pháp kiến trúc bản địa, sau này được Ernest Hébrard - Kiến trúc sư hàng đầu của phong cách này, gọi là phong cách Kiến trúc Đông Dương. Kiến trúc sư Ernest Hébrard là một trong những người tiên phong trong xu hướng kiến trúc này. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của một số công trình mang phong cách kiến trúc hiện đại do các KTS Pháp thiết kế, phần nào thể hiện sự hòa nhập của kiến trúc bản địa với thế giới. Các công trình kiến trúc tiêu biểu để lại dấu ấn của giai đoạn này tại Hà Nội là: - Tác phẩm đầu tiên theo phong cách Kiến trúc Đông Dương được xây dựng ở Hà Nội do kiến trúc sư E.Hébrard thiết kế năm 1924 là Toà nhà chính của khu Đại học Đông Dương đã hình thành trước đó. Toạ lạc tại vị trí án ngữ 9
- một đại lộ lớn lúc bấy giờ - Boulevard Carreau (phố Lý Thường Kiệt ngày nay), xế phía trước lại có một vườn hoa nhỏ, công trình đã tạo ra một điểm nhấn đô thị nổi bật. - Sở tài chính ( Nay là trụ sở Bộ ngoại giao) tiêu biểu cho xu hướng tìm tòi một phong cách kiến trúc Á đông những năm 1925 – 1930, gây được ấn tượng tốt về loại kiến trúc phù hợp với đặc điểm khí hậu nhiệt đới. Tác giả KTS E. Hébrard. - Bảo tàng Viễn Đông Bác Cổ của kiến trúc sư E. Hébrard là một công trình văn hóa vào loại tiêu biểu nhẩt và là một công trình kiến trúc được đánh giá là có nhiều thành công trong xử lý không gian kiến trúc gây ấn tượng sâu sắc về một kiểu kiến trúc phù hợp với phương Đông. Công trình được xây dựng trong 6 năm ( 1926 – 1932). - Viện Pasteur là Viện vệ sinh dịch tễ là một công trình có phong cách kiến trúc Phương Đông rõ rệt nhờ ở bộ mái có kết cấu phong phú với nhiều lớp mái chính, mái phụ cũng như sự phân đoạn và phân mảng hài hòa giữa phần đặc và phần rỗng với nhiều chi tiết trang trí hài hòa và tinh tế… Công trình được thiết kế năm 1927 của kiến trúc sư Gaston Roger. - Nhà thờ Cửa Bắc. KTS E. Hébrard với tổ hợp không gian kiến trúc không nhấn mạnh sự đối xứng mà có sự biến hóa rất hài hòa với không gian xung quanh, nhưng vẫn đảm bảo sự trang nghiêm và có phần tĩnh mịch, gây được ấn tượng về một sự siêu thoát. Như nhiều sáng tác khác của Hebrard, kiến trúc nhà thờ Cửa Bắc thể hiện sự hòa hợp với khung cảnh nhiệt đới, với văn hóa phương Đông. Đây là một công trình kiến trúc thời kỳ 1925 – 1930. - Câu lạc bộ Thủy quân ( nay là Trụ sở Tổng cục thể dục thể thao) ở đường Trần Phú do kiến trúc sư Kruze thiết kế và xây dựng năm 1939. Đây thực sự là một thể nghiệm đáng lưu ý của phong cách kiến trúc kết hợp. - Biệt thự Didelot đầu đường Ngọc Hà do kiến trúc sư Kruze thiết kế. 10
- - Tòa báo Văn nghệ Quân đội ( số 4 phố Lý Nam Đế) do kiến trúc sư Kruze thiết kế. “Nhà số 4” “phố nhà binh” - tức số 4 phố Lý Nam Đế, quận Hoàn Kiếm- Hà Nội không chỉ là một ngôi biệt thự với những nét kiến trúc độc đáo mang phong cách Á - Âu hài hoà nổi tiếng ở Thủ đô (được xếp hạng di tích kiến trúc) với những vòm mái cong, ô cửa tròn, ống khói lấp ló bên màu đỏ tươi của lớp ngói ống cùng một nội thất hiện đại (cầu thang gỗ liền khối uốn lượn mềm mại, có lò sưởi, vòi tắm sen) với đôi cây đại già nơi cổng chính đã đi vào thi ca. Có thể nói, ảnh hưởng của kiến trúc Pháp ở Hà Nội diễn ra có quy luật, bộc lộ những giá trị tích cực nhất định, đi từ cưỡng bức, cộng sinh, chuyển hóa mềm mại và có đặc trưng phù hợp với đặc điểm tự nhiên và nhân văn Hà Nội, bao chứa cả tính khách quan của thời đại và tính chủ quan của các cá nhân. Ảnh hưởng ấy bộc lộ rõ rệt qua sự kết hợp của của phương pháp tư duy phân tích (có nguồn gốc phương Tây) với phương pháp tư duy tổng hợp mang tính cân bằng dung hòa (có nguồn gốc phương Đông), thể hiện trong mọi khía cạnh của quá trình tác nghiệp, tạo lập nên một công trình kiến trúc. Kiến trúc Pháp ở Hà Nội đã trở thành một quỹ di sản kiến trúc mang ý nghĩa lịch sử, kết hợp hài hòa với các thành phần kiến trúc và cảnh quan đô thị truyền thống. Quỹ di sản ấy cần có được các tiêu chí nhận diện chính xác và đặt ra các phương thức ứng xử phù hợp phục vụ cho mục tiêu bảo tồn, cải tạo các giá trị nguyên gốc cần lưu giữ. Quá trình ảnh hưởng của kiến trúc Pháp tại Hà Nội cùng với những bài học và di sản của nó. Nghiên cứu kiến trúc Pháp nói chung và kiến trúc Đông Dương nói riêng trong một giai đoạn tiến trình phát triển của kiến trúc Việt Nam là một việc làm cần thiết. Bởi vì, những công trình kiến trúc thuộc địa đã khẳng định vị trí của nó trong một giai đoạn lịch sử sẽ đúc rút ra những bài học tốt cùng với kiến trúc 11
- truyền thống Việt nam sẽ góp phần xây dựng bản sắc cho nền kiến trúc Việt Nam thời kỳ mới hội nhập quốc tế tất yếu hiện nay. 1.3. Giới thiệu về 2 KTS tiên phong trong phong cách Đông Dương là: KTS Ernest Hébrard và Arthur Kruze. 1.3.1. Ernest Hébrard Ernest Hébrard (1875-1933) là kiến trúc sư, nhà khảo cổ học, nhà quy hoạch người Pháp. Ông là Giám đốc sở Quy hoạch kiến trúc Đông Dương thuộc Pháp. Ông học kiến trúc ở Paris và đã thực hiện một chuyến đi đến Rome. Cùng với nhà sử học Jacques Zeiller , ông đã tiến hành một nghiên cứu có hệ thống cung điện Diocletian tại Split , đó là một trong các công trình cơ bản về di tích này. Trong suốt Thế chiến thứ nhất , nó là một phần của bộ phận khảo cổ học của quân đội đóng quân ở Thessaloniki: trong khả năng này, ông đã dẫn cuộc khai quật tại các Lăng của Galerius . Ông trở nên nổi tiếng sau khi có công trình quy hoạch cải tạo thành phố Thessaloniki tại Hy Lạp. Sau khi có trận đại hỏa hoạn vào năm 1917, phần lớn thành phố Thessaloniki bị thiêu hủy. Thủ tướng Hy Lạp Eleftherios Venizelos, cấm việc xây dựng lại trung tâm thành phố trừ khi có một đồ án quy hoạch hiện đại của thành phố được thông qua. Đồ án hoàn thiện với sự chủ trì của kiến trúc sư Ernest Hébrard, đồ án được hình thành và phát triển với sự tham gia của các kiến trúc sư Hy Lạp Aristotelis Zachos và Konstantinos Kitsikis. Đồ án quét sạch mọi đặc trưng phương đông của Thessaloniki, giữ lại phần di sản của kiến trúc Byzantine, và chuyển đổi nó thành một thành phố mang phong cách Châu Âu. Hébrard còn biết đến qua các dự án khác như là nâng cấp Casablanca và cung điện Diocletian tại Split, và quy hoạch các thành phố thuộc địa của Pháp ở Đông Dương. Ông đã đạt được giải thưởng : “Khôi nguyên La Mã” (Prix de Rome). 12
- Năm 1920 , ông tham gia các hội nghị chuyên đề về quy hoạch đô thị tại Athens. Từ 1921 , ông sống ở Đông Dương , nơi ông tham gia vào quy hoạch một số thành phố, bao gồm cả Hà Nội. Ông tạo ra "phong cách Đông Dương" mà kết quả từ sự quan sát cẩn thận các họa tiết truyền thống kiến trúc và cân bằng phát triển ở Đông Dương theo nghĩa rộng nhất, tức là từ Ấn Độ đến Trung Quốc. Một số tòa nhà tại Hà Nội là từ cảm hứng này, bao gồm: - Sở Tài chính Đông Dương nay trở thành Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, - Louis Finot Museum (đặt theo tên của giám đốc đầu tiên của Trường Viễn Đông Bác Cổ) đến nhà các bộ sưu tập của EFEO và nay trở thành Bảo tàng lịch sử Việt Nam, - Đại học Tổng hợp Đông Dương, sau là Đại học Tổng hợp Hà Nội - Nhà thờ Cửa Bắc Ông trở lại Hy Lạp vào năm 1927 để trở thành cố vấn chính phủ và giám đốc của công trình trường học tại Bộ Giáo dục. Năm 1930, ông trình bày một nghiên cứu của Đại học Thessaloniki. Ngay sau đó, đã thành công ngăn chặn việc xây dựng một tòa án ở huyện Makriyianni của Athens - theo quan điểm của mình nó sẽ bị hư hỏng không thể sửa chữa các khu vực nhạy cảm xung quanh Acropolis - ông trở về Paris, nơi ông qua đời. Ông là người đứng đầu về kiến trúc ở Đông Dương và quy hoạch Thành Phố 1923-1931 và làm cho sự đổi mới của việc kết hợp các yếu tố của thiết kế bản địa vào phong cách Pháp hiện đại. Hébrard được coi là kiến trúc sư khởi nguồn cho phong cách kiến trúc Đông Dương. Phong cách kiến trúc Đông Dương đặc trưng bởi sự tích hợp một cách sáng tạo và nhuần nhuyễn các vật liệu xây dựng và chi tiết kiến trúc của các nước bản địa (các nước Đông Dương) vào kiến trúc thuộc địa Pháp thời kỳ 13
- đó. Phong cách kiến trúc Đông Dương hiện nay được nhiều nhà phê bình đánh giá cao. 1.3.2. Arthur Kruze Arthur Kruze sinh ra tại Roubaix ( Pháp) vào năm 1900. Ông là giáo sư tại bộ phận kiến trúc Cao đẳng nghệ thuật Đông Dương từ năm 1930. Việc đáng chú ý nhất, Arthur Kruze được biết đến là một giáo sư hơn là giám đốc của Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương trong thập niên 1940. Ông đã tái chiếm lại các yếu tố cơ bản của phong cách này trong việc xây dựng các biệt thự của ông cho khách hàng Pháp và Việt Nam. Biệt thự xây dựng trong khu dân cư của Đại lộ Carnot (nay là Phan Đình Phùng) gần Palace Tổng Thống đốc (một Crédit Foncier giao dịch bất động sản) đã được Kruze chỉ định các kiến trúc sư thiết kế. Ông cũng bổ nhiệm kiến trúc sư để xây dựng Ngân hàng Đông Dương (Đại lộ Henri Rivière, bây giờ là Ngô Quyền) và cho các Văn phòng của Crédit Foncier (Rue Paul Bert, bây giờ là Tràng Tiền). Một số công trình tiêu biểu của KTS Arthur Kruze ở Hà Nội là: - Câu lạc bộ Thủy quân nay là Tổng cục thể dục thể thao (1939); - Tòa báo văn nghệ Quân đội (số 4 Lý Nam Đế); - Biệt thự Didelot đầu đường Ngọc Hà 1.4. Kết luận chương I Nền kiến trúc dân tộc của Việt Nam đã trải qua một chặng đường phát triển lịch sử lâu dài trên nền tảng một quốc gia quân chủ - phong kiến lâu đời, có một nền văn hóa có bề dầy và bản sắc. Nền kiến trúc đó tiếp tục phát triển trong hoàn cảnh đất nước chịu ách nô lệ. Nền kiến trúc châu Âu du nhập vào Việt Nam bằng con đường xâm lược của đế quốc, đã nhanh chóng khẳng định và phát triển, tạo lập những giá trị lớn lao về kiến trúc, đô thị và thẩm mỹ đạt được những đỉnh cao trong phát triển bởi sự thích ứng với môi trường tự nhiên và văn hóa của nước sở tại, để lại một di sản lớn có giá trị về mặt văn 14
- hóa, kiến trúc và sử dụng. Mà điển hình phải kể đến phong cách kiến trúc Đông Dương của người Pháp ở Hà Nội. Việc nghiên cứu làm rõ những giải pháp và thủ pháp thích ứng với những điều kiện tự nhiên và khí hậu, con đường tiếp cận khai thác các giá trị truyền thống văn hóa bản địa trong các công trình do người Pháp xây dựng đã góp phần thúc đẩy nền kiến trúc Việt Nam thời kỳ mới có bản sắc riêng. 15
- Chương II NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ RA ĐỜI CỦA PHONG CÁCH ĐÔNG DƯƠNG Ở HÀ NỘI 2.1.Cơ sở và bối cảnh xã hội ra đời của phong cách Đông Dương Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, xã hội Việt Nam và nền văn hóa Việt Nam có những chuyển biến quan trọng. Lúc này châu Âu mới thoát ra khỏi cuộc Chiến tranh Thế giới lần I (1914-1918) và nền kinh tế của nước Pháp bị tàn phá nặng nề. Để khắc phục hậu quả chiến tranh và củng cố địa vị trên thế giới, thực dân Pháp chủ trương đẩy mạnh đầu tư và khai thác thuộc địa Đông Dương. Từ năm 1920, Pháp triển khai chương trình “Khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương” với tốc độ và quy mô tăng gấp nhiều lần so với thời kỳ trước. Một dự luật về “Khai thác các thuộc địa sau chiến tranh” được thông qua đã thúc đẩy giới tư bản Pháp tăng cường đầu tư vào các nước Đông Dương. Điều này đã dẫn tới nhiều biến đổi về kinh tế và xã hội ở nước ta. Bên cạnh các mối quan hệ kinh tế – xã hội truyền thống đã xuất hiện các yếu tố kinh tế – xã hội mang tính tư bản được du nhập từ châu Âu, kết quả là xã hội Việt Nam mang đầy đủ tính chất của một xã hội thuộc địa – nửa phong kiến. Thực dân Pháp sau khi chiếm được Hà Nội đã đặt ách thống trị lên toàn bộ Đông Dương và thực hiện chính sách thuộc địa nửa phong kiến. Một mặt vẫn duy trì chế độ phong kiến, triều đình nhà Nguyễn chỉ là chính quyền bù nhìn. Thực chất mọi việc điều hành là do Toàn quyền Đông Dương (người Pháp) cai trị và trung tâm chính trị đặt tại Hà Nội. Về địa lý hành chính của Liên bang Đông Dương là thuộc địa của Pháp bao gồm toàn bộ lãnh thổ An Nam (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ), Lào, Cao Miên (Campuchia ngày nay). Việt Nam lúc đó nằm trong chế độ hành chính của Liên bang Đông Dương. 16
- Hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa do người Pháp đưa vào Đông Dương đã tạo nên những yếu tố đô thị mới đã làm thay đổi cấu trúc đô thị truyền thống. Sản xuất công nghiệp, hoạt động thương nghiệp là những yếu tố mới với chính sách độc quyền kinh doanh thương mại và hạn chế phát triền công nghiệp. Hệ thống chính sách hoàn thiện về điện, cấp thoát nước đã nâng cao rõ rệt các điều kiện sinh hoạt đô thị. Tham vọng khai thác thuộc địa không chỉ dừng ở việc bóc lột tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ mạt mà còn cả ở việc huy động nhân lực có học vấn, được đào tạo nghề nghiệp để phục vụ cho các bộ máy của chính quyền thực dân. Từ đó nền giáo dục phổ thông, dạy nghề, cao đẳng kỹ thuật... đã dần được triển khai. Nhà học chính Đông Dương lập vào năm 1906 đã định ra ba bậc học cơ sở là ấu học (ở thôn xã), tiểu học (ở phủ huyện) và trung học (ở các tỉnh). Một số trường cao đẳng được thành lập và đến năm 1908 thì mở ra Trường Đại học Đông Dương. Nền văn hóa Pháp qua đó được chuyển hóa vào Việt Nam đã tạo nên sự tiếp xúc giữa văn hóa truyền thống nước ta với văn hóa hiện đại phương Tây. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây ở Việt Nam được thể hiện rõ nhất tại các đô thị, trước tiên là các đô thị lớn như Hà Nội và Sài Gòn. Tại đây, bên cạnh những cấu trúc đô thị truyền thống, những “khu phố Ta” đã thấy có những “khu phố Tây” với những cách thức về xây dựng đô thị của châu Âu đã được đưa vào Việt Nam. Tại những không gian đô thị mới này đã mọc lên những tòa nhà uy nghi của chính quyền thực dân như để chứng tỏ sự hiện diện của một thế lực đang áp đặt lên xã hội thuộc địa. Chính quyền thực dân đã cử những kiến trúc sư người Pháp có năng lực để thực hiện những công trình này, họ đã mang được nhiều nét tinh hoa văn hóa và kiến trúc Pháp đã rất phát triển tới những đô thị này. Vượt lên trên những mưu đồ bóc lột và nô 17
- dịch của Chủ nghĩa thực dân, nhiều kiến trúc sư người Pháp đã có những đóng góp đáng kể cho sư tiếp xúc và hòa hợp của hai nền văn hóa Đông – Tây với những kiến trúc có sự kết hợp những yếu tố của hai nền văn hóa. Kết quả của sự kết hợp đó là sự ra đời phong cách kiến trúc Đông Dương. Thập kỷ 1920 ở Hà Nội, sau khi một loạt công trình đại diện cho chính quyền thực dân theo phong cách Cổ điển được xây dựng và đưa vào sử dụng cho thấy chúng hoàn toàn không phù hợp với khí hậu cũng như truyền thống thẩm mỹ và cảnh quan ở đây. Bản thân giới trí thức Pháp ở thuộc địa cũng nhận ra việc áp đặt những giá trị văn hoá từ chính quốc vào một đô thị bản địa có truyền thống văn hoá lâu đời và rất khó chấp nhận. Do vậy việc tìm tòi một phong cách kiến trúc vừa có khả năng đáp ứng công năng hiện đại, vừa phù hợp với khí hậu, cảnh quan và truyền thống văn hoá địa phương được một loạt kiến trúc sư người Pháp và sau đó là người Việt theo đuổi, từ đó tạo ra một phong cách kiến trúc kết hợp sau này được gọi là phong cách kiến trúc Đông Dương. Kiến trúc theo phong cách Đông Dương là những công trình có cấu trúc mặt bằng, hình khối hoàn toàn theo kiểu Pháp thịnh hành lúc bấy giờ. Nhưng đã có sự tìm tòi, biến đổi về mặt không gian và cấu tạo kiến trúc nhằm tạo ra những công trình có khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, cảnh quan cũng như truyền thống văn hoá bản địa.Các kiến trúc sư theo phong cách này thường sử dụng những hình thức và chi tiết kiến trúc truyền thống Việt Nam, Khơmer trong việc tạo nên các bộ mái, ô văng che cửa, cùng các hoạ tiết trang trí khác. Nhìn chung đây là phong cách thành công nhất trong việc tạo ra những công trình kiến trúc đẹp, hiện đại, phù hợp với khí hậu, cảnh quan và văn hoá truyền thống bản địa thời kỳ Pháp thuộc. 2.2. Cơ sở nghệ thuật ảnh hưởng đến tiến trình du nhập các phong cách kiến trúc châu Âu vào Hà Nội 18
- 2.2.1. Sự du nhập của kiến trúc châu Âu vào Hà Nội 2.2.1.1. Thông qua các cố vấn kỹ thuật về xây dựng thành lũy Cuối thế kỷ 18, nhà Nguyễn nhờ một số võ quan và lái buôn người Pháp giúp đỡ thiết kế và xây dựng thành phỏng theo kiểu Vô băng (loại thành do kiến trúc sư Vauban thiết kế và xây dựng ở Pháp từ thế kỷ 17), với nhiều hình thức khác nhau , xây dựng nhiều từ Bắc chí Nam. Thành Vauban có hình vuông, hình chữ nhật hoặc đa giác đều. Trong thành có đường phố kẻ ô bàn cờ. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh, phần lớn thành lũy ở các tỉnh bị phá hủy, còn lại khá nguyên vẹn ở Huế. 2.2.1.2. Thông qua các nhà truyền bá Thiên chúa giáo Kiến trúc và văn hóa có quan hệ khăng khít, nhân quả. Điều đó thể hiện trong kiến trúc Pháp ở Hà Nội. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ thực dân là sự áp đặt văn hóa Pháp thông qua kiến trúc du nhập. Ở giai đoạn sau, chính sự khác biệt giữa hai nền văn hóa Đông Tây đã tạo ra những điều kiện và cơ sở thuận lợi cho quá trình chuyển hóa của kiến trúc Pháp ở Hà Nội với nét riêng, trong đó đặc trưng văn hóa, xã hội và môi trường tự nhiên bản địa có vai trò quan trọng. Người châu Âu đến Việt Nam từ thế kỷ 16. Những nhà truyền giáo đi theo tàu buôn và truyền bá đạo vào nước ta cũng đồng thời đưa các công trình kiến trúc tu viện và nhà thờ vào Việt Nam. Cuối thế kỷ 19, đỉnh cao của loại kiến trúc này là nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn (1880), nhà thờ lớn Hà Nội (1884), nhà thờ Phát Diệm được xây dựng năm 1896 là sự kết hợp hết sức độc đáo kiến trúc thánh đường châu Âu và kiến trúc Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1883, người Pháp bắt đầu lên kế hoạch xây dựng lại thành phố Hà Nội. Dựa trên các khu phố Hà Nội vốn có, những kiến trúc sư người Pháp vạch thêm các con đường mới, xây dựng các công trình theo hướng thích nghi với môi trường sở tại, tạo nên một phong cách ngày nay 19
- được gọi là kiến trúc thuộc địa. Khu vực đô thị do người Pháp quy hoạch và xây dựng gồm ba khu: nhượng địa, thành cũ và nam hồ Hoàn Kiếm, ngày nay mang tên chung là khu phố cũ, hay khu phố Pháp. Khu nhượng địa mang hình chữ nhật được giới hạn bởi các con phố Bạch Đằng, Tràng Tiền, Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Nguyễn Huy Tự hiện nay. Vốn là đồn thủy quân của Hà Nội cổ, đến năm 1875, khu vực này được nhượng lại cho quân đội Pháp xây doanh trại, dinh thự và bệnh viện. Những công trình kiến trúc ở đây có mái lợp ngói đá đen, hành lang xung quanh, nhà cuốn hình cung. Dinh thự Tổng tham mưu trưởng quân Pháp, ngày nay là Nhà khách Bộ Quốc phòng xây dựng trong khoảng thời gian 1874 đến 1877. Bệnh viện Lanessan, hiện là Quân y viện 108 và Bệnh viện Hữu Nghị, khánh thành năm 1893. Khu thành cũ gồm các phố Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Hoàng Diệu, Điện Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Chu Văn An, Trần Phú. Những con đường ở đây rộng, dài và được trồng nhiều cây xanh. 2.1.1.3.Trong quá trình thiết lập ách thống trị thực dân và đô hộ Khi một chính quyền mới lên dù thuộc giai cấp nào cũng muốn tìm cho mình một hình thức kiến trúc biểu hiện tinh thần của chế độ mới. Hầu hết các công trình chính thống của thực dân Pháp ở thuộc địa đều được kiến trúc Pháp thiết kế từ chính quốc mang sang xây dựng. Những công trình này được xây dựng vào những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 như Dinh toàn quyền, Tòa đốc lý, tòa án tối cao, ga xe lửa Hà Nội. Các công trình mang phong cách cổ điển trong giai đoạn này tạo hiệu quả tính chất trang nghiêm, đồ sộ của các công trinh chính thống của Pháp gây uy tín cho chính quyền thuộc địa, biểu hiện tính vững vàng của chính quyền bảo hộ và ý định ở lại Việt Nam lâu dài của thực dân Pháp. 20

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở riêng lẻ Thành phố Hồ Chí MInh
37 p |
52 |
5
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Bảo tồn và khai thác du lịch tại cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình
104 p |
10 |
2
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Giải pháp kiến trúc nhà trẻ (trường mầm non) tại quận Hà Đông - thành phố Hà Nội
117 p |
9 |
2
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Giải pháp kiến trúc sinh thái trong nhà ở cao tầng tại khu công nghệ cao Hòa Lạc
129 p |
9 |
2
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Đặc điểm kiến trúc nhà thờ Thiên Chúa giáo trong di sản kiến trúc thời Pháp thuộc tại Hải Phòng
113 p |
13 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Đánh giá kiến trúc nhà chung cư mới xây dựng trên địa bàn huyện Từ Liêm – thành phố Hà Nội
157 p |
16 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan các tuyến phố Pháp cũ trong khu vực nội thành Hà Nội
116 p |
1 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Đặc điểm và giá trị quy hoạch - kiến trúc làng khoa bảng Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định
113 p |
1 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Bảo tồn, tôn tạo không gian kiến trúc khu di tích văn miếu Nghệ An
107 p |
3 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Ứng dụng kiến trúc không gian lớn trong nhà công nghiệp một tầng ở Hà Nội
91 p |
10 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Nghiên cứu hình thái kiến trúc những công trình xây chen trong khu phố cổ Hà Nội
94 p |
1 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Nhận dạng phong cách kiến trúc và đề xuất bảo tồn phát triển kiến trúc biệt thự thời Pháp thuộc ở Hà Nội
110 p |
4 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Tổ chức không gian kiến trúc các khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội
109 p |
3 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Hình thái kiến trúc Phủ thờ Mẫu vùng Bắc Bộ (lấy Phủ Dầy và Phủ Tây Hồ là đối tượng nghiên cứu)
126 p |
18 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Giải pháp cải tạo không gian kiến trúc đô thị khu chung cư cũ tại Hà Nội (Lấy trường hợp khu Giảng Võ làm ví dụ nghiên cứu)
160 p |
1 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Đề xuất giải pháp quy hoạch - kiến trúc cho các khu đô thị mới phù hợp với điều kiện khí hậu của thành phố Vinh tỉnh Nghệ An
128 p |
4 |
1
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Tính tư tưởng trong tác phẩm kiến trúc nhà tắm công cộng bắc Thụy Sĩ của KTS. Peter Zumthor
110 p |
1 |
1


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
