BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------------------------

NGUYỄN HOÀI NAM

MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG DỰA VÀO DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC: VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH QUA NGHIÊN CỨU MỘT SỐ TÌNH HUỐNG ĐIỂN HÌNH

Chuyên ngành : Chính sách công Mã số

: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. VŨ THÀNH TỰ ANH

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013

i

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Tất cả những đoạn văn và ý tưởng

không phải của tôi đều được ghi chú nguồn gốc đầy đủ, các số liệu sử dụng trong luận văn đều

được dẫn nguồn với độ chính xác cao nhất có thể trong phạm vi hiểu biết của tôi. Luận văn

này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh tế TPHCM và Chương

trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

Hà Nội, ngày 21 tháng 06 năm 2013.

Người hoàn thành đề tài

Nguyễn Hoài Nam

ii

Lời cảm ơn

Sài Gòn đón tôi bằng những cơn mưa rát mặt và thử thách lòng người đi xa bằng nỗi nhớ gia

đình cứ nhói lên mỗi khi nghe một giọng Bắc nào đó cất tiếng.

Dù con đường học hành đến nay đã khá dài, tôi chưa từng tìm được niềm vui học tập

mãnh liệt như khi đến với Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. Từng quên mất niềm vui

hứng khởi khi đọc sách, tôi thấy lại đam mê của mình trong từng bài giảng kinh tế, trong mỗi

vấn đề chính sách và trong những cuộc thảo luận hăng say trên lớp. Quá lâu rồi kể từ thời

điểm chiếc đèn trên bàn học sáng lên mỗi tối, tôi như người khát nước cố kiếm lấy kiến thức

còn thiếu từ những trang tài liệu, từ sự giúp đỡ của thầy cô, bạn bè và từ nỗ lực của bản thân.

Được truyền đạt những phương pháp tiếp cận vấn đề mới, đam mê mới và cả những chân

trời tri thức mới, suy nghĩ của tôi đã thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn rất nhiều.

Lời cảm ơn đầu tiên xin được gửi tới Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright vì tất cả

những gì tốt đẹp nhất mà Chương trình dành cho học viên.

Chưa từng nghĩ mình sẽ trở thành người giống như bản thân hiện nay, tôi xin được gửi lời

cảm ơn chân thành nhất tới thầy hướng dẫn Vũ Thành Tự Anh và quý thầy cô của Chương

trình. Lời cảm ơn thậm chí cũng không đủ cho những bài giảng đầy nhiệt huyết, những nhận

xét đầy trí tuệ và cả những đêm trắng không ngủ mà quý thầy cô mang tới.

Sẽ không bao giờ hối hận vì thời gian dành cho nhau và sẽ luôn nhớ tới nơi này, tôi tin

rằng Chương trình ngày càng phát triển lớn mạnh và quý thầy cô sẽ vẫn mãi là những bậc trí

giả đáng ngưỡng vọng của nước nhà.

Gia đình luôn là nguồn động lực lớn lao nhất để tôi phấn đấu. Những kết quả thể hiện

trong luận văn này chính là lời cảm ơn đối với tình yêu và sự hỗ trợ từ những người mà tôi

trân quý nhất.

Hà Nội, hè 2013,

Nguyễn Hoài Nam.

iii

Tóm tắt

Gần bốn mươi năm sau khi chiến tranh trở thành quá vãng, Việt Nam đã vươn lên trở thành

một điểm đến thú vị trên bản đồ thế giới. Hơn hai mươi năm kể từ ngày “Đổi mới”, Việt Nam

đã thi hành nhiều chính sách và nỗ lực để dần chuyển mình từ một quốc gia có nền kinh tế kế

hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều cố gắng

được thực thi và một số kết quả đáng khích lệ đã tới.

Một nền kinh tế hướng thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa còn non trẻ như Việt

Nam, như cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), sau một thời gian phát

triển vượt bậc từ những năm đầu 2000 trở lại đây, bắt đầu bộc lộ một số dấu hiệu cần xem xét

kỹ lưỡng. Đầu tiên là mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào đầu tư thông qua các tập đoàn kinh

tế nhà nước (TĐKTNN) cho thấy một số bất ổn. Những bất ổn này thậm chí có thể gây ảnh

hưởng lớn tới nền kinh tế. Tiếp theo, việc thành lập một số TĐKTNN chưa cho thấy tính chất

sửa chữa thất bại thị trường như lý thuyết kinh tế vẫn đề cập. Cuối cùng là hiệu ứng chèn lấn

khi khu vực nhà nước trong ngắn hạn làm thu hẹp các khu vực kinh tế khác.

Luận văn có một số đóng góp sau: (1) Tổng hợp lý thuyết và thực tiễn, từ đó đưa ra

những nhận định về tính phù hợp khi thành lập một số TĐKTNN, dù chỉ mang tính thử

nghiệm, tại Việt Nam; (2) Đưa ra thang đo về khả năng tiếp cận tín dụng quốc tế để đánh giá

ảnh hưởng tiêu cực mà TĐKTNN có thể gây ra cho nền kinh tế Việt Nam; và (3) Thực hiện

mô hình kinh tế lượng SVAR để tìm hiểu về hiệu ứng chèn lấn khu vực kinh tế nhà nước có

thể gây ra cho các thành phần kinh tế khác. Kết quả cho thấy đầu tư khu vực nhà nước có ảnh

hưởng chèn lấn đối với đầu tư khu vực tư nhân trong giai đoạn 1995 – 2011. Đây là điểm khác

biệt so với một báo cáo năm 2007 của IMF về bài toán tương tự tại Việt Nam giai đoạn 1994 –

2006 khi kết quả trong nghiên cứu chỉ ra rằng không có hiện tượng chèn lấn.

iv

Mục lục

Lời cam đoan ............................................................................................................................... i

Lời cảm ơn .................................................................................................................................. ii

Tóm tắt .......................................................................................................................................iii

Mục lục ...................................................................................................................................... iv

Danh mục từ viết tắt ................................................................................................................... vi

Danh mục bảng biểu ................................................................................................................. vii

Danh mục hình .........................................................................................................................viii

Chương 1. Giới thiệu .............................................................................................................. 1

1.1. Bối cảnh chính trị, thể chế............................................................................................ 1

1.2. Bối cảnh kinh tế - xã hội .............................................................................................. 2

1.3. Một số phát hiện ........................................................................................................... 5

Chương 2. Vấn đề chính sách và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6

2.1. Vấn đề chính sách ........................................................................................................ 6

2.2. Câu hỏi và phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 7

2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................... 7

2.2.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 7

2.3. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 7

2.3.1. Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ nhất..................................................................... 7

2.3.2. Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ hai....................................................................... 8

2.3.3. Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ ba ........................................................................ 8

Chương 3. Sự cần thiết của các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam ................................ 9

3.1. Lý thuyết về sự cần thiết của các tập đoàn kinh tế nhà nước ....................................... 9

v

3.2. Đối sánh với trường hợp TĐKTNN Việt Nam .......................................................... 10

Chương 4. Ảnh hưởng tới bậc tín nhiệm quốc gia ............................................................... 16

4.1. Tiến trình hình thành, phát triển và không trả được nợ của Vinashin ....................... 17

4.2. Ảnh hưởng từ việc Vinashin không trả được nợ tới bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia18

Chương 5. Ảnh hưởng chèn lấn của khu vực nhà nước tới khu vực tư nhân ....................... 24

5.1. Bối cảnh Việt Nam ..................................................................................................... 24

5.2. Hiệu ứng chèn lấn ...................................................................................................... 28

5.3. Phương pháp hồi quy đa biến có cấu trúc SVAR ...................................................... 30

5.4. Kết quả định lượng và nhận xét ................................................................................. 32

Chương 6. Phân tích và khuyến nghị .................................................................................... 34

6.1. Sự phù hợp của việc sử dụng TĐKTNN làm trụ cột tăng trưởng và điều tiết kinh tế vĩ

mô 34

6.2. Trách nhiệm giải trình ................................................................................................ 36

6.2.1. Minh bạch ........................................................................................................... 36

6.2.2. Thanh tra và kiểm toán ....................................................................................... 37

6.2.3. Giám sát của Quốc hội ........................................................................................ 39

6.3. Khuyến nghị chính sách ............................................................................................. 39

Chương 7. Kết luận ............................................................................................................... 42

Tài liệu tham khảo .................................................................................................................... 44

Phụ lục A. Chi tiết mô hình định lượng .................................................................................... 47

vi

Danh mục từ viết tắt

Từ viết tắt Giải thích

DNNN Doanh nghiệp Nhà nước

TĐKTNN Tập đoàn Kinh tế Nhà nước

Vinacomin Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam

Vinalines Tổng công ty Hàng hải Việt Nam

Vinashin Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam

Vinatex Tập đoàn Dệt may Việt Nam

VRG Tập đoàn Cao su Việt Nam

vii

Danh mục bảng biểu

Bảng 1.1. Danh sách các tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam. .......................................... 4

Bảng 3.1. Thất bại thị trường và khả năng sửa chữa của một số tập đoàn. .............................. 11

Bảng 3.2. So sánh sản lượng thép của Việt Nam và Hàn Quốc. .............................................. 14

Bảng 4.1. Dự kiến đầu tư cơ sở hạ tầng của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 ........................ 16

Bảng 4.2. Quá trình thanh, kiểm tra chính thức đối với Vinashin giai đoạn 2006 – 2009 ....... 17

Bảng 4.3. Trái phiếu Việt Nam trên thị trường quốc tế ............................................................ 21

Bảng 4.4. Tích tụ nguồn lực của các khu vực trong nền kinh tế .............................................. 21

Bảng 5.1. Các hệ số được ước lượng trong mô hình SVAR ..................................................... 32

Bảng A.1. Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi sai phân bậc 1 biến ln𝐺𝐷𝑃 ....................... 48

Bảng A.2. Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi sai phân bậc 1 biến ln𝐺𝐼 .......................... 48

Bảng A.3. Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi sai phân bậc 1 biến ln𝑃𝐼 .......................... 48

Bảng A.4. Kết quả lựa chọn số độ trễ đưa vào mô hình. .......................................................... 49

viii

Danh mục hình

Hình 1.1. GDP và tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 1990 - 2011. ............................... 3

Hình 4.1. Quá trình hoạt động của Vinashin gắn với bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia ............ 20

Hình 4.2. Lãi suất trái phiếu trung bình của Việt Nam trên thị trường quốc tế. ....................... 23

Hình 5.1. Mối liên hệ giữa đầu tư và tăng trưởng GDP của Việt Nam. ................................... 25

Hình 5.2. Tốc độ tăng trưởng đầu tư và tốc độ tăng trưởng GDP. ........................................... 25

Hình 5.3. Đầu tư của các thành phần kinh tế và GDP Việt Nam giai đoạn 1995 – 2011. ........ 26

Hình 5.4. Cơ cấu lao động tại các khu vực kinh tế. .................................................................. 27

Hình 5.5. Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2010 – 2011. .............................................. 27

Hình 6.1. Vốn đầu tư ngoài ngành của TĐKTNN và Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2006 –

2011. ......................................................................................................................................... 35

Hình A.1. Các chuỗi dữ liệu chưa khử tính mùa vụ. ................................................................ 47

1

Chương 1. Giới thiệu

Gần bốn mươi năm sau khi chiến tranh trở thành quá vãng, Việt Nam đã vươn lên trở thành

một điểm đến thú vị trên bản đồ thế giới. Hơn hai mươi năm kể từ ngày “Đổi mới”, Việt Nam

đã thi hành nhiều chính sách và nỗ lực để dần chuyển mình từ một quốc gia có nền kinh tế kế

hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều cố gắng

được thực thi và một số kết quả đáng khích lệ đã tới.

Tuy vậy, cũng giống như nhiều quốc gia chuyển đổi khác, Việt Nam, với nền kinh tế

đang phát triển, cũng gặp phải nhiều vấn đề như kinh tế vĩ mô không ổn định, thể chế và quản

trị chưa hiệu quả đi kèm với việc nâng cao an sinh xã hội hoặc chưa được chú ý đúng mức

hoặc không đạt được kết quả như bài toán tối ưu đa mục tiêu mà tất cả các giai tầng trong xã

hội mong muốn. Trong những vấn đề kể trên, quan trọng nhất có lẽ là bất ổn kinh tế vĩ mô và

thể chế chưa hiệu quả. Đóng góp vào sự hiện diện của hai điểm yếu trên có lẽ có phần yếu tố

doanh nghiệp nhà nước (DNNN) khi mô hình phát triển còn bất cập và nguồn vốn tại những

doanh nghiệp này không được quản trị hiệu quả.

1.1. Bối cảnh chính trị, thể chế

Ngay từ những ngày đầu khi bắt đầu tập trung phát triển kinh tế và đặc biệt là từ thời điểm mở

cửa năm 1991, Việt Nam luôn coi trọng khu vực kinh tế nhà nước và xem đây là thành phần

kinh tế chủ chốt cũng như động lực phát triển kinh tế. Văn kiện tại Đại hội đại biểu Đảng

Cộng sản Việt Nam lần thứ VII và VIII cũng như Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành

Trung ương Đảng khóa VIII đã chỉ rõ điều này.

Sau khi đất nước mở cửa được một thời gian, Luật doanh nghiệp ra đời năm 2005 chứng

kiến số lượng doanh nghiệp đăng kí mới tăng lên nhanh chóng. Chuyên gia kinh tế Lê Đăng

Doanh cho rằng chính luật doanh nghiệp này đã cởi trói phần nào sức dân vốn dồi dào của Việt Nam.1 Bằng chứng là năm này nền kinh tế tăng trưởng rất cao, hơn 8%. Dù chắc chắn

rằng nhiều yếu tố ảnh hưởng tới việc nền kinh tế mở rộng, nhưng có lẽ không nhiều người phủ

1 Phát biểu trong buổi nói chuyện tại Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.

2

nhận vai trò của Luật doanh nghiệp trong việc hỗ trợ các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu

vực tư nhân.

Tuy khu vực kinh tế tư nhân có thể được phát triển mạnh sau thời điểm 2005, cho tới cuối

năm 2012 và có lẽ cả giai đoạn sau đó, đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam vẫn sẽ dựa

vào thành phần kinh tế nhà nước như trong Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khóa XI kết thúc tháng 11 năm 2012 có ghi. Ngoài ra, việc lấy ý kiến sửa

đổi Hiến pháp cũng không có nội dung soạn sẵn về việc giảm đi vai trò của kinh tế nhà nước.

Do đó, có nhiều cơ sở để tin rằng kinh tế Việt Nam vẫn sẽ gắn liền với vai trò chủ đạo của khu

vực kinh tế nhà nước.

1.2. Bối cảnh kinh tế - xã hội

Thời điểm từ năm 2000 tới năm 2008 – khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra – Việt

Nam có mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) khá ổn định đạt mức trung bình gần

7,5% mỗi năm. Nếu chỉ tính riêng thời điểm sau khi Luật doanh nghiệp ra đời năm 2005, tăng

trưởng kinh tế còn cao hơn nữa.

Quan sát trong Hình 1.1. có thể thấy từ năm 2000 đến nay tồn tại hai giai đoạn khác biệt.

Giai đoạn 1 bắt đầu từ năm 2000 tới 2007 và giai đoạn 2 từ 2008 tới nay. Trong giai đoạn đầu,

kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định với hai đỉnh tại năm 2005 và 2007. Năm 2005 là năm ra

đời Luật doanh nghiệp, còn 2007 là thời điểm Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và dòng vốn đầu tư từ nước ngoài năm này tăng gấp đôi so với năm 20062 là một phần

nguyên nhân giúp GDP tăng cao.

Giai đoạn 2 bắt đầu bằng thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ diễn ra năm 2008

và có ảnh hưởng sâu rộng trên toàn cầu. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ khi tăng trưởng

cao 8,46% năm 2007 giảm xuống chỉ còn hơn 6% năm 2008 và rơi xuống đáy 5,32% vào năm

2009, thấp nhất trong giai đoạn 2000-2011.

Tính từ 2008 tới nay, giai đoạn 3, đồ thị tăng trưởng của Việt Nam có dạng lên xuống thất

thường. Theo ước tính của Chính phủ, năm 2012 tăng trưởng GDP của Việt Nam cũng chỉ xấp

2 Số liệu của Tổng Cục thống kê cho thấy năm 2007, lượng vốn đầu tư nước ngoài lên tới gần 130,000 tỷ đồng, gấp đôi con số khoảng 65,000 tỷ đồng của năm 2006.

3

xỉ năm 2009, đạt 5,5%. Tuy nhiên, theo công bố của Tổng cục Thống kê ngày 14 tháng 12

năm 2012, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2012 chỉ đạt 5,03%, thấp nhất kể từ năm 2000

140,0

12%

trở lại đây, nền kinh tế tăng trưởng chậm hơn cả đáy năm 2009 trước đó.

tỷ USD

120,0

10%

100,0

8%

80,0

6%

60,0

4%

40,0

2%

20,0

-

0%

GDP (tỷ USD)

Tăng trưởng GDP (%)

Nguồn: WorldBank.

Hình 1.1. GDP và tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 1990 - 2011.

Trở lại với vấn đề khu vực kinh tế nhà nước, trong giai đoạn kinh tế đang phát triển vượt

bậc, các tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) lần lượt chính thức ra đời từ năm 2005. Trước

đó, theo Quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 1994, các tổng công ty, tiền thân

của các tập đoàn đã được hình thành. Đến năm 2005, những tập đoàn thử nghiệm đầu tiên bắt

đầu được thành lập. Cho tới nay, có tổng cộng 11 Tập đoàn kinh tế do Nhà nước nắm 100% cổ

phần hoặc cổ phần chi phối như liệt kê trong Bảng 1.1.

Tuy vậy, thời gian gần đây, nhiều vấn đề nổi cộm được đặt ra đối với các TĐKTNN nói

riêng và DNNN nói chung khi đồng vốn chưa được sử dụng hiệu quả (Ủy ban thường vụ Quốc

4

hội, 2008). Có thể kể ra trường hợp điển hình về sai lầm thuộc lĩnh vực đầu tư, mua bán và

quản lý trong khối DNNN là Tổng công ty hàng hải Vinalines còn thuộc khối TĐKTNN là Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin. Hai đơn vị này đều thua lỗ nặng nề3 đồng thời tạo ra

nhiều tranh luận gay gắt trong dư luận xã hội. Việc nhiều đơn vị DNNN thua lỗ, đầu tư ngoài

ngành, quản lý vốn không hiệu quả đặt ra những vấn đề về mặt chính sách cũng như mô hình

phát triển mà Việt Nam đang theo đuổi.

Bảng 1.1. Danh sách các tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam.

Nguồn: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.

Năm thành

Sở hữu nhà nước

Tên tập đoàn

tại công ty mẹ

lập

1. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT)

2005

100%

2. Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam

2005

100%

(VINACOMIN)

3. Tập đoàn Dệt may Việt Nam (VINATEX)

2005

100%

4. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN)

2006

100%

5. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)

2006

100%

6. Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (VINASHIN)

2006

100%

7. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG)

2006

100%

2007

8. Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt (BaoViet Holdings)

74.17%

9. Tập đoàn Viễn thông Quân đội (VIETTEL)

2009

100%

10.Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam (VINACHEM)

2009

100%

11. Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam (VNNIC)*

2010

100%

12. Tập đoàn Phát triển nhà và Đô thị Việt Nam (HUD holdings)*

2010

100%

2011

13. Tập đoàn xăng dầu Việt Nam (Petrolimex)

94.99%

*: TĐKTNN vừa chuyển lại thành Tổng công ty theo

Quyết định 1428/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 02 tháng 10 năm 2012.

3 Thanh tra Chính phủ báo cáo Thủ tướng chỉ riêng năm 2009, Vinashin đã lỗ tới hơn 5,000 tỷ đồng so với con số 1,700 tỷ đồng mà đơn vị này đưa ra. Còn theo nguồn số liệu mà VnExpress thu thập được từ báo cáo của Văn phòng Chính phủ thì Vinalines năm 2011 lỗ tới 2,600 tỷ, hơn gấp đôi so với con số 1,200 tỷ năm 2010 (truy xuất ngày 23 tháng 06 năm 2013 tại http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/tam-sao-that-ban-lo-lai-cua- vinalines-2720572.html).

5

Đặt trong bối cảnh chính trị và kinh tế - xã hội hiện tại, luận văn thực hiện nghiên cứu

một số vấn đề chính sách phát triển dựa vào thành phần kinh tế nhà nước, đặc biệt là

TĐKTNN, thông qua xem xét một số tình huống điển hình.

1.3. Một số phát hiện

Sau quá trình thực hiện nghiên cứu, luận văn có một số đóng góp chủ yếu:

Phát hiện 1. Việc thành lập thử nghiệm một số TĐKTNN không thỏa mãn đầy đủ

tính chất kinh tế của việc thành lập một đơn vị kinh tế nhà nước. Ví dụ như Tập đoàn

Dệt may Việt Nam (Vinatex). Bên cạnh đó, việc thành lập và quản trị một số tập đoàn,

dù cần thiết như lý thuyết kinh tế nêu, không được triệt để và dẫn tới một số kết quả

không như mong muốn.

Phát hiện 2. Chưa có cơ chế và thể chế quản lý hiệu quả đối với các TĐKTNN khiến

hoạt động của những tập đoàn này ảnh hưởng tiêu cực tới hạng tín nhiệm quốc gia. Cụ

thể, Việt Nam bị hạ bậc tín nhiệm do ảnh hưởng từ việc Vinashin không trả được nợ

cho các trái chủ quốc tế làm hạn chế khả năng tiếp cận thị trường vốn quốc tế của

nhiều doanh nghiệp trong nước, hoặc có tiếp cận được thì phải trả chi phí đắt đỏ hơn.

Phát hiện 3. Hiệu ứng chèn lấn của khu vực kinh tế nhà nước đối với khu vực tư

nhân trong nước đã xảy ra trong giai đoạn 1995 – 2011. Cụ thể, kết quả mô hình cho

thấy đầu tư Chính phủ gia tăng thực sự làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân.

Phần tiếp theo của luận văn được tổ chức như sau: Chương 2. nêu lên vấn đề chính sách

và câu hỏi chính sách cùng phương pháp nghiêm cứu; Chương 3. đi vào phân tích sự cần thiết

của TĐKTNN trong bối cảnh Việt Nam; Chương 4. tìm hiểu ảnh hưởng của khu vực kinh tế

nhà nước đối với nền kinh tế đồng thời nêu lên những nhận định từ các sự kiện và con số liên

quan; Chương 5. xem xét ảnh hưởng của khu vực kinh tế nhà nước tới khu vực kinh tế tư

nhân; Chương 6. đưa ra một số nguyên nhân khi các TĐKTNN gây ra ảnh hưởng tiêu cực đối

với nền kinh tế; cuối cùng Chương 7. đưa ra những khuyến nghị chính sách và kết luận.

6

Chương 2. Vấn đề chính sách và phương pháp

nghiên cứu

2.1. Vấn đề chính sách

Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia đang trong giai đoạn phát triển thấp, ngay khi chỉ so với một số quốc gia trong cùng khu vực Đông Nam Á như Thailand hay Malaysia.4 Tuy vậy, hoạt

động của một số DNNN lại gây ra nhiều vấn đề dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn đầu tư quốc gia

không hiệu quả trong bối cảnh đất nước còn nghèo khiến dư luận bất bình.

Năm 2008, vụ việc tập đoàn Vinashin – mở màn cho những tranh luận gay gắt trong xã

hội về mô hình TĐKTNN – bắt đầu được dư luận biết tới. Với việc được đầu tư nhiều, đơn cử

như khoản trái phiếu chính phủ 750 triệu USD năm 2005, Vinashin đã mở rộng với tốc độ khó

kiểm soát và năm 2007 số lượng lao động tại Vinashin lên tới con số 74.000 người tại gần 260

công ty mẹ - con. Tại phiên thảo luận Quốc hội về “Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội năm 2012, kế hoạch năm 2013”, con số nợ của Vinashin được Thanh tra Chính

phủ nêu ra lên tới hơn 86.000 tỷ đồng, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu vượt quá 11 lần và âm vốn

điều lệ 5.000 tỷ đồng. Từ đây có thể thấy phần nào hiệu quả hoạt động của Vinashin không

đáp ứng được yêu cầu đối với một doanh nghiệp. Về mặt kỹ thuật, Vinashin có thể được coi là

phá sản khi không thể trang trải được các nghĩa vụ nợ đúng hạn.

Tiếp theo trường hợp Vinashin là Tổng công ty hàng hải Vinalines. Có nhiều sai phạm và

làm ăn thua lỗ lớn trong thời kỳ khó khăn, Vinalines trở thành tâm điểm mới của tranh luận cả

trong xã hội lẫn tại nghị trường Quốc hội từ năm 2011 tới nay.

Nhiều ý kiến (xem thêm (Trần Hùng Viện, 2013), (Trần Tiến Cường và Nguyễn Cảnh

Nam, 2011)) cho rằng quá trình thành lập trước đây và tái cơ cấu DNNN trong thời điểm hiện

tại cần phải hiểu rõ bản chất của việc hình thành DNNN cho tới khả năng duy trì hoạt động và

trình độ quản trị đối với những doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, cần phải đánh giá cụ thể hơn

4 GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2011 là 1407 USD trong khi của Thailand là 4,972 USD và Malaysia là 9,977 USD.

7

về mô hình phát triển dựa vào vốn đầu tư Việt Nam đang tiến hành cũng như ảnh hưởng từ

hoạt động của những TĐKTNN đối với nền kinh tế. Cùng có quan điểm trên và để hiểu rõ hơn

quá trình thành lập – điều hành – quản trị TĐKTNN ảnh hưởng tới nền kinh tế ra sao, luận văn

tập trung vào một số câu hỏi chính sách được trình bày trong phần tiếp theo đồng thời cố gắng

đi tìm một phần nhỏ của câu trả lời.

2.2. Câu hỏi và phạm vi nghiên cứu

2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu

Trong bối cảnh kinh tế - xã hội đang có nhiều biến chuyển dần sang nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa và đường lối phát triển kinh tế dựa vào khu vực nhà nước, luận

văn quan tâm tới các vấn đề đặt ra dưới dạng những câu hỏi như sau:

Câu hỏi 1. Sự ra đời của một số TĐKTNN trong giai đoạn 2006 – 2011 có thực sự cần

thiết?

Câu hỏi 2. Trong trường hợp thành lập TĐKTNN không cần thiết, nếu đơn vị đó gây ảnh

hưởng tới bậc tín nhiệm quốc gia thì nền kinh tế bị ảnh hưởng như thế nào?

Câu hỏi 3. Mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư, đặc biệt là khu vực nhà nước và thông

qua DNNN, có gây ra hiệu ứng chèn lấn đối các thành phần kinh tế khác?

2.2.2. Phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung vào tìm hiểu những ảnh hưởng của khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt

là TĐKTNN, tới nền kinh tế.

Phạm vi thời gian

Luận văn sử dụng dữ liệu thu thập được cho giai đoạn 1995 tới 2011.

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ nhất

Để trả lời về sự cần thiết của các TĐKTNN, luận văn sẽ so sánh tình hình thực tế của Việt

8

Nam với lý thuyết kinh tế để xem xét xem việc thành lập một số tập đoàn có thực sự cần thiết.

Sau đó, luận văn sẽ tìm hiểu và so sánh trường hợp Việt Nam với thế giới để có cái nhìn đối

sánh.

2.3.2. Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ hai

Nhằm trả lời câu hỏi này, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống với trường

hợp Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin khi đơn vị này được coi là không trả được nợ

vào năm 2010. Khi Vinashin không trả được nợ, bậc tín nhiệm của Việt Nam cũng đồng thời

bị hạ bậc theo dẫn tới chi phí vốn đi vay của các doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế

trở nên đắt đỏ hơn.

2.3.3. Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ ba

Ngoài việc phân tích những số liệu cụ thể, luận văn sẽ thực hiện một phân tích sâu sắc hơn

thông qua việc sử dụng mô hình SVAR (tự hồi quy đa biến có cấu trúc) để ước lượng ảnh

hưởng thực sự của đầu tư khu vực nhà nước tới đầu tư của khu vực tư nhân.

9

Chương 3. Sự cần thiết của các tập đoàn kinh tế

nhà nước ở Việt Nam

3.1. Lý thuyết về sự cần thiết của các tập đoàn kinh tế nhà nước

Một điều có thể thấy rõ ràng rằng hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sở hữu DNNN, dù có

thể với quy mô khác nhau. Ngay cả tại những quốc gia phát triển nhất như Mỹ, vẫn tồn tại các DNNN (United States General Accounting Office, 1995).5 Thậm chí một số doanh nghiệp tư

nhân yếu hoặc có nguy cơ đổ vỡ đã được chính phủ Mỹ mua lại – quốc hữu hóa – sau đợt

khủng hoảng tài chính năm 2008 như General Motors hay Fannie Mae và Freddie Mac. Tại

khối các nước kinh tế phát triển nhất hiện nay là OECD, có tới 2057 DNNN (gồm cả doanh

nghiệp nhà nước nắm 100% cổ phần lẫn doanh nghiệp nhà nước nắm một phần sở hữu)

(Christiansen, 2011) hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau từ tài chính, viễn thông cho tới

giáo dục. Từ thực tế trên, có thể thấy rằng việc hình thành và duy trì các DNNN ở Việt Nam

vẫn có cơ sở thực tiễn nhất định.

Thống kê của OECD cho thấy, các DNNN có mặt nhiều tại lĩnh vực giao thông vận tải,

năng lượng và tài chính (Christiansen, 2011). Bên cạnh đó cũng có nhiều nghiên cứu chuyên

sâu về những lĩnh vực mà các DNNN xuất hiện như (Nunnenkamp, 1986), (Toninelli, 2008),

(FORFÁS, 2010) và (Efird, 2010). Tổng hợp lại, thường trong những lĩnh vực sau hoặc Chính

phủ chắc chắn thành lập các DNNN hoặc sự xuất hiện của DNNN nhận được sự ủng hộ từ các

nhà kinh tế hơn cả:

o Những ngành năng lượng nơi Chính phủ cần nắm giữ quyền điều khiến để giữ vững an

ninh năng lượng, chống lại sự chi phối từ bên ngoài hoặc loại trừ tình trạng độc quyền

của tư nhân. Những ngành này có thể là điện, dầu khí, than, thép hay năng lượng hạt

nhân.

o Hàng hóa thiết yếu, truyền thông và vận tải.

5 Thời gian của tài liệu tham khảo là năm 1995, đã khá cũ. Vì vậy, để kiểm chứng rõ hơn, tác giả đã truy cập vào một số trang web của các công ty được liệt kê như Amtrak (tàu hỏa) hay USEC (năng lượng) và cho tới thời điểm truy cập tháng 04 năm 2013 đây vẫn là các DNNN.

10

o Dịch vụ tài chính như ngân hàng, bảo hiểm và bảo hiểm xã hội cũng là lĩnh vực mà

Chính phủ các nước thường hay thành lập các DNNN để hoạt động.

o Giáo dục (trường học) và y tế (bệnh viện công).

Điểm chung mà các nhà kinh tế thừa nhận với nhau rằng việc thành lập các DNNN thực

chất là để sửa chữa những thất bại của thị trường (độc quyền, bất cân xứng thông tin, ngoại tác

và hàng hóa công). Nếu so sánh những thất bại thị trường với lĩnh vực mà các DNNN thường

xuất hiện, có thể thấy một sự tương đồng nhất định. Ví dụ, sự độc quyền gây ra bởi lợi thế

kinh tế theo quy mô trong ngành điện hoặc nước (đối với hệ thống phân phối) sẽ được các

DNNN hoạt động trong lĩnh vực này loại bỏ hoặc cải thiện dần. Hay như hàng hóa tựa hàng

hóa công mang tính khuyến dụng là giáo dục và chăm sóc sức khỏe cũng sẽ được các đơn vị

DNNN cung cấp. Tất nhiên, sửa chữa thất bại thị trường không nhất thiết phải dùng công cụ

nhà nước nhưng đó thường là những bước đi can thiệp đầu tiên (Musacchio & Flores-Macias,

2009).

3.2. Đối sánh với trường hợp TĐKTNN Việt Nam

Để đơn giản, luận văn chỉ dừng lại ở việc so sánh đối với TĐKTNN do việc tổng hợp thông

tin về lĩnh vực hoạt động của những TĐKTNN này có thể thực hiện được.

Từ danh sách tại Bảng 1.1, có thể thấy các TĐKTNN hoạt động trong các lĩnh vực:

o Bưu chính viễn thông (02 đơn vị gồm VNPT và Viettel);

o Năng lượng và khai khoáng (04 đơn vị gồm EVN, PVN, Petrolimex và Vinacomin);

o Tài chính, bảo hiểm, ngân hàng (01 đơn vị là BaoViet holdings);

o Hóa chất cơ bản và phân bón (01 đơn vị là Vinachem);

o Sản xuất và chế tạo (02 đơn vị gồm Vinashin và VRG); o Xây dựng và kinh doanh bất động sản (02 đơn vị gồm VNNIC và HUD holdings);6

o Dệt may (Vinatex).

Từ góc độ thực tiễn, khi so sánh với những lĩnh vực mà các DNNN trên thế giới thường

6 Người viết vẫn thống kê hai tập đoàn chuyển đổi về mô hình Tổng công ty này do phạm vi thời gian xem xét là tới cuối 2011 và hai TĐKTNN này vẫn hoạt động theo mô hình TĐKTNN cho tới đầu tháng 10 năm 2012.

11

tập trung, các TĐKTNN của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực sản xuất & chế tạo, xây dựng

& kinh doanh bất động sản cùng với dệt may “có vẻ” không phù hợp. Quan trọng hơn cả, việc

thành lập những tập đoàn này chưa cho thấy mục đích sửa chữa thất bại thị trường. Mục đích

thành lập các DNNN nói chung và TĐKTNN nói riêng, như khẳng định tại Hội nghị lần thứ 3

Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), là để sử dụng những đơn vị này như công cụ điều

tiết kinh tế vĩ mô và thị trường của Nhà nước. Đặc biệt, các TĐKTNN được hướng tới trở

thành những tập đoàn kinh tế mạnh, có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Điều này có

vẻ không phù hợp với tư tưởng công cụ điều tiết phải là chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ

và cơ cấu (Vũ Thành Tự Anh, 2012).

Bảng 3.1. Thất bại thị trường và khả năng sửa chữa của một số tập đoàn.

Thất bại thị trường Vinashin VRG VNNIC & HUD Vinatex

× ×* × × Độc quyền do lợi thế kinh tế theo quy mô

× × × × Bất cân xứng thông tin

× Ngoại tác × × ×

× × × × Hàng hóa công/ khuyến dụng

*: × thể hiện rằng tính chất tương ứng không xuất hiện trong

dạng hàng hóa mà TĐKTNN đó cung cấp.

Bảng 3.1 tổng hợp về các dạng thất bại thị trường đồng thời liệt kê một số TĐKTNN

được thành lập thử nghiệm mà những TĐKTNN này không sửa chữa được dạng thất bại thị

trường được liệt kê.

Thật vậy, độc quyền tự nhiên do lợi thế kinh tế theo quy mô không xuất hiện trong lĩnh

vực kinh doanh của Vinashin, VRG, VNNIC, HUD và Vinatex. Tương tự, lĩnh vực kinh

doanh của những TĐKTNN trên cũng không phải dạng hàng hóa công/khuyến dụng cần Nhà

nước thành lập tập đoàn để giải quyết.

12

Bất cân xứng thông tin xảy ra khi một trong hai bên tham gia giao dịch sử dụng thông tin

mà bên kia không biết để làm lợi cho mình. Với định nghĩa này, luận văn không tìm thấy cơ

sở để bất cân xứng thông tin xảy ra trong các lĩnh vực tham gia những tập đoàn trên.

Ngoại tác xảy ra trong lĩnh vực đóng tàu nghiêm trọng nhất là ô nhiễm môi trường và rác

thải công nghiệp. Tuy nhiên, Việt Nam đã có Luật bảo vệ môi trường cùng các Thông tư, Nghị

định hướng dẫn đi kèm. Do đó, tất cả các doanh nghiệp dù tham gia lĩnh vực nào cũng phải

tuân thủ đầy đủ luật định. Có lẽ không thể lấy Vinashin để làm giảm bớt ngoại tác dạng này.

Tác giả luận văn cũng không nhận thấy những ngoại tác trong lĩnh vực kinh doanh của VRG,

VNNIC, HUD và Vinatex. Ngay cả đối với đơn vị cần sử dụng nhiều đất đai để trồng cao su

như VRG cũng khó gây ra ngoại tác thiếu đất canh tác lúa hoặc hoa màu do đất trồng cây cao

su là loại đất khác biệt.

Hàng hóa công có hai đặc tính là không loại trừ và không tranh giành. Không loại trừ có

nghĩa là mọi người đều có thể sử dụng còn không tranh giành nghĩa là một người sử dụng sẽ

không làm ảnh hưởng tới số lượng mà người khác có thể sử dụng. Khi đối chiếu với các sản

phẩm mà những TĐKTNN kể trên thì không thấy những đặc tính này được thỏa mãn.

Sau khi phân tích về các thất bại thị trường, có thể thấy rằng việc thành lập một số

TĐKTNN kể trên không hoàn toàn phù hợp với lý thuyết kinh tế về sửa chữa thất bại thị

trường.

Ngoài ra, trong đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế ban hành theo Quyết định 339/QĐ-TTg

có ghi rõ “Không phân bổ và thực hiện đầu tư mới vào các ngành, lĩnh vực mà khu vực tư

nhân có khả năng và sẵn sàng đầu tư kinh doanh như các dịch vụ thương mại, khách sạn, nhà

hàng, kinh doanh bất động sản, lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và một số ngành, lĩnh vực

khác” nhưng ở đấy ta vẫn thấy có sự góp mặt của HUD và VNNIC. Dù Quyết định này được

ban hành sau khi HUD và VNNIC phải quay trở lại mô hình Tổng công ty nhưng rõ ràng về

mặt quy mô hai đơn vị này vẫn lớn và vốn đầu tư không hề nhỏ. Như vậy, có thể thấy rằng

việc tái cơ cấu chưa được tiến hành một cách thực sự triệt để như định hướng.

Có ý kiến lập luận cho rằng, việc thành lập TĐKTNN còn phải phụ thuộc vào tình hình

thực tiễn mỗi quốc gia chứ không chỉ dựa hoàn toàn vào lý thuyết. Ví dụ như Malaysia với các

13

doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu cao su và thiếc. Điều này đúng, tuy nhiên, luận văn sẽ đi sâu

phân tích để thấy ít nhất việc thành lập Vinashin cũng chưa phù hợp với thực tiễn.

Như được nêu lên rất kỹ trong nghiên cứu của (Huỳnh Thế Du, 2006), Việt Nam thiếu

nhiều điều kiện Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc sở hữu để có thể nâng tầm Vinashin lên

mức cạnh tranh quốc tế và chiếm được khoảng 10% thị phần đóng tàu trên thế giới vào năm

2015 như dự định. Những điều kiện này, theo nghiên cứu vừa dẫn, bao gồm:

1. Lợi thế nhân công giá rẻ: dù tại Việt Nam giá nhân công rẻ nhưng nhân công của chúng ta

khó có thể rẻ hơn Trung Quốc. Theo khảo sát của Bộ nhân lực và bảo hiểm xã hội Trung

Quốc, lương lao động tối thiếu tại những thành phố hạng A của Trung Quốc thấp nhất là 870RMB (tương đương với khoảng 140USD7), cao nhất là 1,500RMB (tương đương với

243USD) và thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc năm 2011 theo số liệu

WorldBank là 5,445USD. Con số tương ứng của Việt Nam là 1.65 triệu VNĐ (tương

đương 80USD cho khu vực IV) và 2.35 triệu VNĐ (tương đương với 113USD cho khu

vực I) (Chính phủ, 2011) với thu nhập bình quân đầu người theo số liệu của WorldBank là

1,407USD. Như vậy, nếu tính theo tỷ lệ thu nhập bình quân đầu người thì lương tối thiểu

của Việt Nam cao hơn so với Trung Quốc.

2. Sự hỗ trợ và trợ cấp của Chính phủ: (Huỳnh Thế Du, 2006) chỉ ra rằng Nhật Bản và Hàn

Quốc đã hỗ trợ rất nhiều cho ngành công nghiệp đóng tàu của hai quốc gia này. Tuy nhiên,

nghiên cứu chưa đưa ra số liệu để minh chứng cho nhận định này. Với Việt Nam, số vốn

Chính phủ bỏ ra cho Vinashin không hề ít như sẽ được phân tích ở Phần 4.1. So với nền

kinh tế Việt Nam, đó là những con số lớn nhưng do không có số liệu của Nhật Bản và Hàn

Quốc nên khó có thể so sánh và đưa ra nhận định thật chính xác. Tuy vậy, dù không thể so

sánh để đưa ra nhận xét tương quan với hai quốc gia trên, luận văn bảo lưu ý kiến

Vinashin nhận được sự hỗ trợ lớn từ phía Chính phủ.

3. Sự hỗ trợ từ các nước phương Tây và Hoa Kỳ: Rõ ràng Vinashin khó có thể nhận được sự

hỗ trợ nhiệt tình từ phía các đối tác phương Tây và Hoa Kỳ.

4. Các ngành công nghiệp phụ trợ rất phát triển (thiết kế, thép, tự động hóa và hàn): Rõ ràng

7 Tỷ giá tính theo ngày 29 tháng 04 năm 2013.

14

những ngành công nghiệp phụ trợ kể trên của Việt Nam quá nhỏ bé và mang trình độ lạc

hậu so với hai quốc gia Đông Á. Một lần nữa nghiên cứu được dẫn cũng không đưa ra các

số liệu cụ thể giúp củng cố nhận định trên. Để hiểu rõ hơn, luận văn đã thu thập một số số

liệu để minh chứng cho nhận định này. Do ngành đóng tàu Nhật Bản phát triển sớm (bắt

đầu năm 1956) trong khi số liệu về công nghiệp thép thời kỳ này chưa đầy đủ nên luận văn thực hiện so sánh với Hàn Quốc. Năm 1980,8 khi ngành công nghiệp đóng tàu Hàn Quốc

đang được mở rộng, lượng thép sản xuất của Hàn Quốc vượt xa sản lượng của Việt Nam

năm 2006 khi Vinashin được thành lập (Bảng 3.2). Ngay cả đến năm 2009, sản lượng của

Việt Nam cũng chỉ là 2.7 triệu tấn/năm, một khoảng cách rất xa so với Hàn Quốc 25 năm

trước. Bên cạnh đó, cần chú ý rằng, trên phương diện quốc gia đơn lẻ, Nhật Bản và Hàn

Quốc là những nước sản xuất thép lớn nhất thế giới và Việt Nam là nước nhập khẩu thép

ròng thứ ba thế giới năm 2011 (Số liệu của WorldSteel).

Bảng 3.2. So sánh sản lượng thép của Việt Nam và Hàn Quốc.

Nguồn: WorldSteel. Đơn vị: triệu tấn/năm.

Quốc gia Năm Sản lượng

Hàn Quốc Việt Nam 1980 2005 8.6 1.87

5. Chính sách đúng đắn trong phát triển nguồn nhân lực và hệ thống giáo dục: Luận văn

không tập trung vào phân tích khía cạnh này nhưng có lẽ không ai nhận xét nền giáo dục

Việt Nam vượt trội hoặc thậm chí chỉ bằng so với hai nền giáo dục của hai nước bạn châu

Á.

Từ những phân tích phía trên, có thể thấy rằng mục đích thành lập một số TĐKTNN

nhằm tạo nên những tập đoàn kinh tế mạnh chưa được chính xác về mặt lý thuyết kinh tế cũng

như chưa phản ánh đúng những thực tiễn và bối cảnh nền kinh tế Việt Nam. Luận văn không

phủ nhận việc thành lập một số TĐKTNN là điều cần thiết, tuy nhiên Nhà nước chỉ nên làm

những phần việc mà tư nhân không thể làm hoặc không muốn làm. Ví dụ như trong ngành

điện, do rào cản về đầu tư ban đầu và lợi thế kinh tế theo quy mô, Nhà nước có thể đầu tư xây

8 Luận văn sử dụng số liệu từ năm này vì không có số liệu năm từ 1970 – thời gian Hàn Quốc bắt đầu ngành đóng tàu.

15

dựng các cột điện và đường truyền tải trục còn việc phát điện và phân phối có thể để tư nhân

đầu tư và thực hiện (xem thêm (Steiner, 2000), (World Bank, 2003), (Cubbin & Stern, 2006)

và (Zhang, Parker, & Kirkpatrick, 2008)).

16

Chương 4. Ảnh hưởng tới bậc tín nhiệm quốc gia

Theo số liệu thống kê, Việt Nam cần nhiều nguồn lực để đầu tư cho cơ sở hạ tầng và để đáp

ứng nhu cầu thì chỉ nội lực không đủ mà còn cần có ngoại lực. Ước tính giai đoạn 2011 – 2020

nhu cầu về vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng mỗi năm khoảng 30 tỷ USD (Bảng 4.1). Với lượng

đầu tư cần thiết lớn như vậy trong khi GDP năm 2012 của Việt Nam chỉ hơn 100 tỷ USD, có

thể khẳng định ngay rằng Việt Nam không thể có vốn tự đáp ứng được mà phải đi vay và dù

có đi vay thì có lẽ cũng khó đủ để thực hiện con số đầu tư mong. Những điều trên cho thấy,

khả năng tiếp cận được với nguồn vốn quốc tế là yếu tố vô cùng quan trọng đối với bối cảnh

hiện nay của Việt Nam.

Bảng 4.1. Dự kiến đầu tư cơ sở hạ tầng của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

Nguồn: Tính toán của TS. Vũ Thành Tự Anh theo số liệu của TCTK.

Đơn vị: tỷ USD.

Vốn đầu tư Trung bình mỗi năm

160 45.5 11.5 16.6 8.5 8.5 15 28.5 294.1 16 4.55 1.15 1.66 0.85 0.85 1.5 2.85 29.41 Lĩnh vực đầu tư Giao thông Điện Thủy lợi Cấp thoát nước Hạ tầng giáo dục đào tạo Hạ tầng y tế Thông tin truyền thông Hạ tầng đô thị và nông thôn Tổng cộng

Cần vốn như vậy nhưng Việt Nam hiện đã được coi như quốc gia có thu nhập trung bình

cho nên những khoản vay thường được tính là vay thương mại chứ không là vay ưu đãi nữa và

điều kiện cho vay cũng ngặt nghèo hơn.

Luận văn sử dụng thang đo khả năng tiếp cận tín dụng trên trường quốc tế để đo lường sự

thất bại của Nhà nước khi sử dụng công cụ TĐKTNN làm phương tiện điều tiết kinh tế vĩ mô.

Tập trung vào lãi suất tiếp cận vốn quốc tế, luận văn chỉ ra rằng chi phí phải trả cho trái phiếu

17

quốc tế phát hành của các đơn vị tại Việt Nam từ năm 2010 đến nay đáng lẽ ra có thể giảm

được hơn 20 triệu USD nếu vẫn duy trì được hệ số tín nhiệm tín dụng tốt. Mong muốn là như

vậy nhưng thực tế việc Vinashin không trả nợ đã mang lại một số hệ lụy, đặc biệt là khả năng

tiếp cận vốn quốc tế giờ đây càng khó khăn và đắt đỏ hơn.

4.1. Tiến trình hình thành, phát triển và không trả được nợ của

Vinashin

Tập đoàn Vinashin, tiền thân là Tổng công ty Vinashin, được thành lập với mục tiêu trở thành

“quả đấm thép” giúp Việt Nam trở thành một điểm sáng trên trường đóng tàu quốc tế. Từ khi

thí điểm trở thành tập đoàn năm 2006, Vinashin được rót những nguồn vốn khổng lồ mà tiêu

biểu nhất là lượng trái phiếu quốc tế chính phủ phát hành trị giá 750 triệu USD năm 2005, và

khoản trái phiếu quốc tế trị giá 600 triệu USD Vinashin phát hành năm 2007. Năm 2009,

Vinashin lại phát hành tiếp 3,000 tỷ đồng trái phiếu nội địa. Rõ ràng, nguồn lực được dồn cho

Vinashin rất lớn.

Bảng 4.2. Quá trình thanh, kiểm tra chính thức đối với Vinashin giai đoạn 2006 – 2009

Nguồn: Tổng hợp từ Quốc hội, Thanh tra Chính phủ,

Bộ Tài chính, Bộ KH-ĐT, Bộ Xây dựng.

STT Năm Đơn vị thanh, kiểm tra Nội dung làm việc

2006 Bộ Tài chính Kiểm tra việc quản lý, sử dụng trái phiếu quốc tế 1

2 2007 Bộ Xây dựng Kiểm tra việc quản lý tài chính

3 2008 Bộ Tài chính Thanh tra việc quản lý tài chính

Thanh tra việc thực hiện quyết định 390/QĐ-TTg về

việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và 4 - Bộ Kế hoạch - Đầu tư chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm

chế lạm phát

Đoàn giám sát của Ủy Kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật trong 5 - ban Thường vụ Quốc hội đầu tư xây dựng, sử dụng vốn

18

STT Năm Đơn vị thanh, kiểm tra Nội dung làm việc

Thanh tra dự án xây dựng và mua sắm trang thiết bị

phòng thí nghiệm trọng điểm, bể thử mô hình tàu 6 - Thanh tra Chính phủ thủy do Viện khoa học công nghiệp tàu thủy

Vinashin làm chủ dự án

7 2009 Bộ Tài chính Kiểm tra việc quản lý sử dụng trái phiếu quốc tế

Trong giai đoạn này, 2006 – 2009, đã có nhiều cuộc thanh, kiểm tra chính thức đối với

Vinashin (Bảng 4.2) nhưng đều không phát hiện sai phạm gì dù thực tế Thanh tra Chính phủ

sau đó chỉ ra đa số sai phạm xảy ra vào thời gian này. Tới năm 2011 và 2012, khi mọi sai

phạm bị đưa ra ánh sang, bị buộc phải tái cơ cấu vì không hiệu quả và nhiều sai phạm,

Vinashin không thể trả được khoản lãi đầu tiên trong số nợ 600 triệu USD trái phiếu phát hành

và ngay sau đó hệ số tín nhiệm tín dụng của Việt Nam liên tiếp bị các tổ chức xếp hạng hàng đầu thế giới hạ bậc.9 Quá trình phát triển và không trả được nợ của Vinashin gắn liền với sự

thay đổi hệ số đánh giá tín nhiệm tín dụng của Việt Nam được thể hiện trong Hình 4.1.

4.2. Ảnh hưởng từ việc Vinashin không trả được nợ tới bậc tín

nhiệm tín dụng quốc gia

Có hai vấn đề kéo theo xảy ra khi hệ số tín nhiệm quốc gia bị hạ bậc: (1) Nhà nước và doanh

nghiệp không vay được trên trường quốc tế; và (2) nếu có vay được cũng phải chịu lãi suất

cao. Luận văn sử dụng hai yếu tố trên làm thang đo sự thất bại kinh tế khi sử dụng TĐKTNN

không theo cơ sở lý thuyết kinh tế.

Đối với ảnh hưởng thứ nhất, khi các TĐKTNN không vay được trên thị trường quốc tế do

tình hình không thuận lợi (Bảng 4.3) vì chỉ số tín nhiệm quốc gia bị hạ bậc một phần do việc Vinashin vỡ nợ,10,11,12 những đơn vị này sẽ quay lại tìm kiếm tín dụng từ thị trường nội địa và

9 Việc bị hạ bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia vì những yếu tố nào sẽ được phân tích rõ hơn trong phần tiếp theo. 10 Bloomberg. (2010). “Vietnam's Debt Rating Lowered by Fitch on Foreign Borrowing, `Weak' Banks.” (Hệ số tín nhiệm vay nợ nước ngoài của Việt Nam bị Fitch hạ bậc, nhiều ngân hàng yếu.) Truy xuất tại http://www.bloomberg.com/news/2010-07-29/vietnam-s-debt-rating-lowered-by-fitch-on-foreign-borrowing-

19

có khả năng gây ra chèn lấn đối với khu vực khác.

Với quá trình tích tụ vốn đa số của các TĐKTNN trong giai đoạn trước khi Vinashin

không trả được nợ (Bảng 4.4) cộng với định hướng chiến lược mô hình tăng trưởng kinh tế

quốc gia vẫn dựa vào khu vực kinh tế nhà nước, sự chèn lấn tiếp cận tín dụng nội địa được dự

đoán vẫn sẽ xảy ra trong tương lai và còn rõ nét hơn khi bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia bị hạ

khiến đi vay bên ngoài khó khăn. Hiệu ứng chèn lấn của khu vực DNNN đối với các thành

phần kinh tế tư nhân sẽ được phân tích cụ thể trong phần sau thông qua mô hình hồi quy đa

nhiều

nguy

hàng

Nam

ngân

Truy

xuất

cơ.)

khu

vực

biến có cấu trúc SVAR.

weak-banks.html ngày 12 tháng 05 năm 2012. Có 3 lý do trong đó lý do đầu tiên là “chính sách không nhất quán” (inconsistent policy) của Chính phủ về các khoản nợ. 11 Moody’s Investors Services. (2010). “Moody's lowers Vietnam's rating to B1; maintains negative outlook.” (Moody’s hậ bậc tín nhiệm của Việt Nam xuống B1; duy trì triển vọng tiêu cực.) Truy xuất tại http://www.moodys.com/research/Moodys-lowers-Vietnams-rating-to-B1-maintains-negative-outlook-- PR_211262 ngày 12 tháng 05 năm 2012. Có 4 lý do trong đó có lý do liên quan tới khoản nợ của Vinashin. 12 Reuters. (2010). “UPDATE 2-S&P downgrades Vietnam on susceptible bank sector.” (Cập nhật 2-S&P hạ bậc tại Việt http://www.reuters.com/article/2010/12/23/vietnam-economy-idUSL3E6NN0FZ20101223 ngày 12 tháng 05 năm 2012. Mặc dù trong lý do không đề cập đến Vinashin nhưng 13/12/2010, S&P đã có một cảnh báo về việc Vinashin không trả được nợ sẽ ảnh hưởng tới cái nhìn của tổ chức này về tín nhiệm của khu vực ngân hàng Việt Nam và sau đó 10 ngày là thông báo giảm hệ số tín nhiệm tín dụng của Việt Nam do hệ thống ngân hàng yếu kém. Như vậy, theo một cách nào đó, Vinashin không trả được nợ đã làm ảnh hưởng tới hệ số tín nhiệm tín dụng quốc gia.

20

Hình ảnh: Tác giả vẽ theo thông tin tổng hợp từ Bộ Tài chính, Moody’s, Fitch, S&P, Wall Street Journal.

Hình 4.1. Quá trình hoạt động của Vinashin gắn với bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia

21

Bảng 4.3. Trái phiếu Việt Nam trên thị trường quốc tế

Nguồn: Thị trường chứng khoán Luxembourg, Singapore.

Lãi suất coupon

Đơn vị phát hành

Khối lượng dự kiến (triệu USD) n/a n/a n/a 750 100 1000 200 90 n/a 300 500

Khối lượng thành công (triệu USD) 24.55 228.24 290.01 750 100 1000 200 90 235 185 250

LIBOR + 0.8125% 4% 6M LIBOR + 0.8125% 6.875% 6% 6.75% 7.625% 9.875% 5% + 1%/năm 5% 8%

Thời hạn (năm) 30 30 18 11 5 10 5 5 4 5 5

Thời điểm 1998 1998 1998 2005 2009 2010 2011 2011 2012 2012 2012

Trái phiếu chính phủ Trái phiếu chính phủ Trái phiếu chính phủ Trái phiếu chính phủ Vincom Trái phiếu chính phủ Texhong Hoàng Anh Gia Lai Masan group Vincom Vietinbank

Bảng 4.4. Tích tụ nguồn lực của các khu vực trong nền kinh tế

Nguồn: TS. Vũ Thành Tự Anh tính toán từ số liệu của GSO, IMF, Bộ Tài chính.

DNNN DN dân doanh FDI

2001-05 2006-10 2001-05 2006-10 2001-05 2006-10

a: Không có thông tin

Vốn đầu tư Tín dụng 56.6% 36.6% 44.7% 30.9% 26.4% -a 27.5% - 17.0% - 27.8% -

Ảnh hưởng thứ hai trực quan hơn. Lãi suất coupon trung bình trái phiếu của các đơn vị

xuất phát từ Việt Nam được thể hiện qua đồ thị Hình 4.2. . Với giả định rằng lãi suất của trái

phiếu phát hành mới sẽ tương tự như lãi suất Vincom phải chịu khi phát hành năm 2009 – thời

điểm trước khi vụ việc Vinashin được đưa ra ánh sáng, rõ ràng rằng từ thời điểm 2010 trở đi, các đơn vị phát hành phải chịu lãi suất cao hơn nhiều.13 Nếu so trái phiếu chính phủ tại hai

thời điểm 2005 và 2010 thì năm 2010 có rẻ hơn một chút nhưng thời hạn vay lại ngắn hơn. Do

đó thực chất cũng không rẻ hơn. Trường hợp của Vincom huy động được trái phiếu quốc tế

với lãi suất chỉ 5% trong năm 2012 là điều bất ngờ tuy nhiên có thể lý giải do: (1) đây là trái

13 Năm 2009 và 2010 nằm ngay sau cuộc khủng hoảng toàn cầu và lãi suất cho vay đều cao do khó khăn kinh tế. Bản thân Vincom cũng phải chịu lãi suất đi vay cao do đó có thể sử dụng lãi suất cuống phiếu trái phiếu Vincom làm tham chiếu.

22

phiếu có quyền chuyển đổi nên lãi suất thấp và (2) Vincom đã từng phát hành trái phiếu quốc

tế năm 2009 đồng thời thực hiện đúng cam kết nên được tín nhiệm và việc 99.9% lượng trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu đã chứng tỏ sự tin tưởng của các nhà đầu tư.14 Với mốc

tham chiếu Vincom, dựa vào mức chênh lệch lãi suất phải chịu do bị hạ bậc tín nhiệm, báo cáo

nhận định rằng các đơn vị phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam trong 2 năm từ năm 2011

đến nay phải chấp nhận trả nhiều hơn 20.075 triệu USD – một con số không hề nhỏ – trong

vòng 5 năm tới cho số trái phiếu đã phát hành so với giả định mọi việc vận hành như cũ và tín nhiệm tín dụng quốc gia không bị hạ bậc.15

Tựu chung lại, cái giá sử dụng TĐKTNN không đúng cơ sở là có thể khu vực khác bị chèn

lấn trong quá trình tiếp cận với nguồn vốn trong nước và chi phí vay ngoài cao hơn do yêu cầu

lãi suất trái phiếu quốc tế tăng lên khi bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia bị hạ với một phần lý

do tới từ khu vực TĐKTNN. Mặc dù có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới bậc tín nhiệm quốc gia

nhưng như trong các thông báo hạ bậc của các tổ chức đánh giá tín nhiệm quốc tế luận văn

dẫn phía trên, sự việc Vinashin là một trong những yếu tố không thể không tính tới khi Việt

Nam bị hạ bậc tín nhiệm.

14 Ngọc Tuyên. “Vincom phát hành thành công 185 triệu USD trái phiếu quốc tế.” Truy xuất từ http://taichinh.vnexpress.net/tin-tuc/dau-tu/co-phieu/2012/03/vincom-phat-hanh-thanh-cong-185-trieu-usd-trai- phieu-quoc-te-7197/ ngày 12 tháng 05 năm 2012. 15 Việc đánh giá tín nhiệm tín dụng của tổ chức không phải là một quốc gia dựa nhiều vào chỉ số tín nhiệm tín dụng của quốc gia đó. Do vậy, bị hạ bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia cũng đồng nghĩa với bậc tín nhiệm tín dụng của các tổ chức tại quốc gia đó bị xem xét lại, thậm chí hạ bậc theo.

12%

0.010%

10%

8%

8%

7%

0.007%

007%

0.008%

6%

6%

5%

4%

2%

0%

2009 Vincom

2011 Texhong

2012 Vietinbank

2012 Vincom

2005 Trái phiếu chính phủ

2010 Trái phiếu chính phủ

2011 Hoàng Anh Gia Lai

2012 Masan group

Lãi suất coupon

Lãi suất trung bình giả định

23

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu từ

Thị trường chứng khoán Luxembourg và Singapore.

Hình 4.2. Lãi suất trái phiếu trung bình của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

24

Chương 5. Ảnh hưởng chèn lấn của khu vực nhà

nước tới khu vực tư nhân

Luận văn thực hiện đánh giá tác động chèn lấn của khu vực kinh tế nhà nước tới nền kinh tế

nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng thông qua mô hình tự hồi quy đa biến có cấu

trúc (SVAR).

5.1. Bối cảnh Việt Nam

Trong gần hai thập kỷ qua, đầu tư luôn là một trong những bộ máy giúp Việt Nam tăng trưởng

cao. Từ

Hình 5.1 có thể thấy, dù tăng trưởng có suy giảm sau giai đoạn khủng hoảng châu Á cuối thập

niên 90 thế kỷ trước, nhưng với lượng đầu tư luôn đạt xấp xỉ 40%, so với GDP, tăng trưởng

luôn đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó, có những giai đoạn mà đầu tư của khu vực nhà nước chiếm

tỷ trọng rất lớn. Ví dụ như năm 2000, tỷ trọng đầu tư của nhà nước trong tổng đầu tư lên tới

60%. Cho tới giai đoạn gần đây, con số này mới có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao khi

chiếm tới gần một nửa tổng đầu tư của nền kinh tế.

Số liệu trong Hình 5.2 cho thấy tốc độ tăng trưởng đầu tư của Việt Nam luôn cao hơn so

với tốc độ tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng trưởng đầu tư cao cộng với tỷ trọng đầu tư lớn so với

GDP, con số đầu tư tuyệt đối không ngừng tăng như thể hiện trong Hình 5.3 cho thấy tổng đầu

tư của Việt Nam ngày càng tăng cao trong thời gian gần đây. Đi kèm theo đó là giá trị GDP

cũng tăng theo. Dù càng gần về đây, tỷ trọng đầu tư của các thành phần kinh tế càng cân bằng

hơn nhưng nếu so sánh với quốc tế thì mức đầu tư của khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng

khá lớn và một số nhận định cho thấy Việt Nam đang thực hiện mô hình tăng trưởng dựa vào

đầu tư và vốn (Trần Đình Thiên, 2013), (Võ Trí Thành, 2013).

Mặc dù khu vực nhà nước đầu tư lớn nhưng động lực phát triển lại tới từ khu vực phi nhà

nước (tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài). Thật vậy, từ số liệu trong Hình 5.4, có thể thấy

rằng lượng lao động hoạt động tại khu vực kinh tế nhà nước chỉ chiếm xấp xỉ 10% trong suốt

25

hơn 10 năm qua trong khi lượng lao động tại khu vực tư nhân luôn chiếm tới khoảng 86% và

khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang có xu hướng tạo nhiều việc làm hơn (từ 1% năm

12%

70%

60%

10%

50%

8%

40%

6%

30%

4%

20%

2%

10%

0%

0%

Tỷ trọng đầu tư so với GDP (cột trái)

Tỷ trọng đầu tư nhà nước so với tổng đầu tư

Tăng trưởng GDP

2000 tới 3.5% năm 2011).

35%

30%

25%

20%

15%

10%

5%

0%

Tốc độ tăng trưởng đầu tư

Tốc độ tăng trưởng GDP

Nguồn: Tổng cục thống kê. Hình 5.1. Mối liên hệ giữa đầu tư và tăng trưởng GDP của Việt Nam.

Nguồn: Tổng cục thống kê.

26

Hình 5.2. Tốc độ tăng trưởng đầu tư và tốc độ tăng trưởng GDP.

Ngoài ra có dấu hiệu cho thấy Chính phủ vay mượn nhiều hơn để thực hiện chiến lược

phát triển kinh tế dựa vào đầu tư và tiến hành chính sách tài khóa mở rộng thông qua chi tiêu.

Số liệu từ Hình 5.5 cho thấy tổng gộp nợ vay của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh

năm 2011 tăng cao hơn so với năm 2010, cả nợ trong nước và nợ nước ngoài. Việc vay nợ

nhiều hơn có thể giúp Chính phủ có thêm nguồn tài trợ và chi tiêu. Hơn nữa, số liệu cũng cho

thấy, dư nợ của các DNNN tại các tổ chức tín dụng chiếm tới 60% dư nợ toàn hệ thống, các

DNNN sử dụng đòn bẩy lớn, đặc biệt là các DNNN trung ương có hệ số lên tới 3.53 lần (Tô

1000000,0

3000000,0

900000,0

Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

2500000,0

800000,0

Khu vực kinh tế tư nhân

700000,0

2000000,0

Khu vực kinh tế nhà nước

600000,0

500000,0

1500000,0

GDP (cột phải, tỷ đồng)

400000,0

1000000,0

300000,0

200000,0

500000,0

100000,0

,0

,0

Ngọc Hưng, 2013).

Nguồn: Tổng cục thống kê.

Hình 5.3. Đầu tư của các thành phần kinh tế và GDP Việt Nam giai đoạn 1995 – 2011.

100%

90%

80%

70%

60%

50%

40%

30%

20%

10%

0%

Nhà nước

Ngoài nhà nước

Có vốn đầu tư nước ngoài

27

Nguồn: Tổng cục thống kê.

26,17

Nợ trong nước

28,73

32,74

Nợ nước ngoài

37,7

0

5

10

15

20

25

30

35

40

2010

2011

Hình 5.4. Cơ cấu lao động tại các khu vực kinh tế.

Đơn vị: tỷ USD. Nguồn: Bộ Tài chính.

Hình 5.5. Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2010 – 2011.

Từ những thông tin trên, có những dấu hiệu cho thấy khu vực kinh tế nhà nước đang tạo

28

ra hiệu ứng chèn lấn đối với khu vực phi nhà nước. Luận văn sẽ thực hiện nghiên cứu kỹ hơn

về tác động này trong phần sau thông qua mô hình SVAR.

5.2. Hiệu ứng chèn lấn

Hiệu ứng chèn lấn (crowding out effect) là vấn đề được nhiều nhà kinh tế quan tâm và đây

cũng là một trong những vấn đề kinh tế được tranh luận lâu và dai dẳng nhất (Carlson &

Spencer, 1975), (Friedman, 1978), (Vu, Byron, & Ilan, 2007), (Benedek, Crivelli, Gupta, &

Muthoora, 2012).

Một cách tổng quát, hiệu ứng chèn lấn xảy ra khi chính sách tài khóa của một quốc gia

được mở rộng mà việc chi tiêu của chính phủ được tài trợ bởi thuế hoặc các công cụ nợ được

chính phủ phát hành nhưng nền kinh tế không được kích thích tăng trưởng như mong muốn.

Hay nói cách khác, nền kinh tế không mở rộng dù khu vực kinh tế nhà nước lớn lên do có khu

vực nào đó bị ảnh hưởng giảm bớt đi và thông thường đó là khu vực tư nhân.

Theo mô hình IS-LM, một cách tổng quát, khi chi tiêu chính phủ gia tăng, đường đầu tư –

tiết kiệm IS sẽ dịch chuyển sang phải và đồng nghĩa với việc này thì mức lãi suất trong nền

kinh tế tại điểm cân bằng mới sẽ cao hơn mức lãi suất tại điểm cân bằng ban đầu dẫn tới đầu

tư tư nhân giảm vì chi phí vay vốn cao hơn ban đầu.

Cơ chế truyền dẫn khi có sự thay đổi trong chi tiêu chính phủ được mô tả như sau:

Δ𝐺 ↑⇒ Δ𝑌 ↑⇒ Δ𝑀𝑑 ↑⇒ Δ𝑟 ↑⇒ Δ𝐼 ↓,

trong đó

o Δ𝐺 mô tả sự thay đổi trong chi tiêu chính phủ,

o Δ𝑌 mô tả sự thay đổi đối với tổng sản phẩm quốc nội,

o Δ𝑀𝑑 mô tả sự thay đổi của cầu tiền,

o Δ𝑟 mô tả sự thay đổi về lãi suất thực, và

o Δ𝐼 mô tả sự thay đổi về đầu tư tư nhân.

Do hoạt động chi tiêu của chính phủ phải được tài trợ bởi một nguồn nào đó nên cầu tiền

trong nền kinh tế lớn lên và kết quả là lãi suất phải tăng tương ứng. Như vậy, khi chính phủ

29

thực thi chính sách tài khóa mở rộng, có khả năng rất lớn rằng khu vực kinh tế tư nhân phải

giảm đầu tư do lãi suất thực phải trả trên thị trường cao lên. Dù gia tăng chi tiêu để nâng tổng

sản lượng nền kinh tế, chính phủ theo một cách nào đó vẫn làm ảnh hưởng tiêu cực tới đầu tư

của khu vực kinh tế tư nhân và đó được coi là hiệu ứng chèn lấn.

Nghiên cứu định lượng về hiệu ứng chèn lấn nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà

kinh tế do kết quả của những nghiên cứu này mang tới tính thuyết phục cao hơn. Một trong

những nghiên cứu sớm nhằm làm rõ hơn mức độ ảnh hưởng của hiệu ứng chèn lấn là bài báo

của (Andreoni, 1993). Nghiên cứu này chỉ ra rằng việc tài trợ cho chi tiêu hàng hóa công đến

một lúc nào đó sẽ chèn lấn hoàn toàn đóng góp của các thành phần kinh tế khác. Nghiên cứu

khác về trường hợp của Ấn Độ (Serven, 1996) cho thấy trong ngắn hạn các dạng đầu tư của

khu vực công sẽ gây ảnh hưởng chèn lấn đối với khu vực tư nhân.

Tuy nhiên, các phương pháp nghiên cứu trên mới chỉ sử dụng những hàm hồi quy đơn

giản dựa trên một số mô hình kinh tế lượng thông thường. Điểm yếu của các phương pháp trên

là chưa tính toán tới độ trễ về mặt chính sách hay đầu tư cần được phản ánh vào trong mô

hình. Phương pháp hồi quy đa biến có cấu trúc SVAR (structural vector autoregression) có thể

giúp khắc phục những nhược điểm trên.

Bài toán hiệu ứng chèn lấn cần dựa trên mô hình lý thuyết kinh tế chuẩn IS-LM đồng thời

chứa nhiều mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô và phương pháp SVAR có thể giúp mô

hình hóa cả mô hình IS-LM lẫn những mối quan hệ trong mô hình. Điểm đặc biệt của phương

pháp SVAR là trong các phương trình mô tả mô hình kinh tế, ta có thể đưa vào những biến độ

trễ để phản ánh tốt hơn những tương tác chính sách theo thời gian. Hơn nữa, phương pháp này

còn cho phép mô tả những thay đổi đối với một hoặc nhiều biến nhất định nhằm đánh giá

những tác động này tới những biến số khác trong mô hình.

Trên thế giới, có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về hiệu ứng chèn lấn tại nhiều quốc gia sử

dụng SVAR (Mitra, 2006), (Alfonso & Sousa, 2009), (Fazzari, Morley, & Panovska, 2012),

(Wong, 2012). Tuy nhiên, tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào thực hiện phân tích hiệu ứng

chèn lấn áp dụng mô hình SVAR. Theo tìm hiểu, chỉ có duy nhất nghiên cứu của Quỹ tiền tệ

quốc tế IMF về vấn đề này tại Việt Nam sử dụng phương pháp SVAR hoàn thành năm 2007

30

(Lee, Tumbarello, Sacasa, & Mitra, 2007). Tuy nhiên, dữ liệu trong nghiên cứu này chỉ dừng

lại ở thời điểm năm 2006, trước khi Việt Nam gia nhập WTO và các TĐKTNN được thành lập

đầy đủ.

Chính vì những lợi thế của phương pháp SVAR đồng thời chưa có nghiên cứu cập nhật

nào về hiệu ứng chèn lấn của khu vực nhà nước tới khu vực ngoài nhà nước (khu vực tư nhân

và có vốn đầu tư nước ngoài) tại Việt Nam, luận văn thực hiện nghiên cứu hiệu ứng này trong

khoảng thời gian dài và xa hơn, 1995 – 2011, với hi vọng có được cái nhìn đầy đủ và chính

xác hơn so với nghiên cứu gần đây của IMF.

5.3. Phương pháp hồi quy đa biến có cấu trúc SVAR

Để nghiên cứu hiệu ứng chèn lấn của khu vực nhà nước tới khu vực tư nhân, luận văn áp dụng

mô hình SVAR đối với các biến: đầu tư chính phủ (GI), đầu tư tư nhân (PI) và tổng sản phẩm

quốc nội (GDP). Mô hình tự hồi quy đa biến VAR dù có thể giúp ta lượng hóa một số mối

quan hệ giữa những biến số trên nhưng lại không thể lượng hóa được những ảnh hưởng của

một biến số lên biến số khác (ở đây là GI lên PI). Do đó chúng ta phải bắt đầu bằng mô hình

VAR và phát triển theo hướng SVAR.

Giả sử mô hình VAR đơn giản có dạng:

(1) 𝐵0𝑦𝑡 = 𝐵1𝑦𝑡−1 + 𝐵2𝑦𝑡−2 + ⋯ + 𝐵𝑝 𝑦𝑡−𝑝 + 𝑢𝑡,

trong đó 𝑦𝑡 = [ln 𝐺𝐼 , ln 𝑃𝐼 , ln 𝐺𝐷𝑃] có thể biểu diễn dưới dạng tự hồi quy với bậc hữu hạn 𝑝

và 𝑢𝑡 là vector các sai số không tương quan với nhau đồng thời có trung bình bằng 0.

Viết lại phương trình (1) theo dạng ma trận hơn ta được

(2) 𝐵 𝐿 𝑦𝑡 = 𝑢𝑡,

trong đó 𝐵 𝐿 ≡ 𝐵0 − 𝐵1𝐿 − ⋯ − 𝐵𝑝 𝐿𝑝 là ma trận của các đa thức độ trễ với bậc hữu hạn.

Trong phương trình (2), mỗi biến thay đổi sẽ dẫn tới sự ảnh hưởng đối với biến khác. Tuy

nhiên, chúng ta sẽ không thể phân biệt và tách rời hiệu ứng lên một biến khi có biến khác thay

đổi. Vì lý do đó, cần phải sử dụng mô hình SVAR để tách được cụ thể các ảnh hưởng thông

qua việc áp vào một số điều kiện được sinh bởi các ma trận giới hạn.

31

Phương pháp SVAR cho phép định nghĩa mối quan hệ giữa các phần dư của mô hình

VAR (được coi là những thay đổi không biết trước) với những thay đổi mang tính cấu trúc (sự

thay đổi của biến này sẽ dẫn tới sự thay đổi của biến kia, theo một mô hình nào đó). Những

thay đổi mang tính cấu trúc thường là biến độc lập đồng thời không có mối tương quan với

nhau. Việc ước lượng ảnh hưởng thông qua mô hình SVAR được cho bởi phương trình

(3) 𝐴𝑢𝑡 = 𝐶𝑒𝑡,

trong đó 𝑒𝑡 là vector của các biến thay đổi có cấu trúc, A và C là những ma trận định nghĩa

mối quan hệ tuyến tính giữa các biến 𝑢𝑡 và 𝑒𝑡.

Sau khi có biểu diễn tuyến tính trong phương trình (3), sử dụng những mô hình lý thuyết

kinh tế, ta có thể ước lượng những phần tử còn lại sau khi dùng ma trận giới hạn để loại bỏ bớt

một số phần tử của ma trận A và C.

Nhiều tài liệu (dẫn phía trên) cho thấy mối quan hệ giữa 𝑢𝑡 và 𝑒𝑡 có thể được thể hiện qua

𝐺𝐷𝑃 + 𝑒𝑡

hệ phương trình SVAR sau:

𝐺𝐼 + 𝑒𝑡

𝐺𝐷𝑃

𝐺𝐼 𝑃𝐼 𝑁𝐺𝐼 + 𝑒𝑡

𝑃𝐼 𝑢𝑡

𝐺𝐼 + 𝑎𝐺𝐷𝑃

𝐺𝐷𝑃 𝑢𝑡 𝐺𝐼 = 𝑎𝐺𝐼 𝑢𝑡 𝐺𝐼𝑒𝑡 𝑃𝐼 = 𝑐𝑃𝐼 𝑢𝑡 𝐺𝐼 𝑢𝑡 𝐺𝐷𝑃 = 𝑎𝐺𝐷𝑃 𝑢𝑡

𝑖 biểu diễn sự thay đổi của biến j ứng với thay đổi không biết trước đối

, (4.1) (4.2) (4.3)

𝑖 biểu diễn sự thay đổi của biến j ứng với thay đổi có cấu trúc đối với biến i.

trong đó các hệ số 𝑎𝑗

với biến i; còn 𝑐𝑗

Phương trình (4.1) cho thấy những thay đổi không biết trước đối với đầu tư chính phủ GI được

gây ra bởi những thay đổi không biết trước của GDP và thay đổi có cấu trúc của chính GI.

Đầu tư chính phủ thường liên quan tới GDP hơn là tương quan với đầu tư khu vực tư nhân.

Tiếp theo, những thay đổi không biết trước của PI được gây ra bởi thay đổi có cấu trúc của GI

và thay đổi có cấu trúc của chính PI như phương trình (4.2) thể hiện. Cuối cùng, phương trình

(4.3) thể hiện rằng những thay đổi không biết trước của GDP là kết quả của những thay đổi

không biết trước từ GI và PI cùng với thay đổi có cấu trúc của chính GDP.

Nghiên cứu của (Blanchard & Perotti, 2002) (dẫn lại từ (Mitra, 2006)) cho thấy những

thay đổi không biết trước của GI thường đi liền với những thay đổi không biết trước của GDP.

32

𝑃𝐼

Vì vậy, ta có thể sử dụng 𝑎𝐺𝐼

𝐺𝐷𝑃 = 1 và khi đó việc ước lượng các hệ số trong hệ phương trình 𝐺𝐼 𝐺𝐼, 𝑎𝐺𝐷𝑃

𝐺𝐼 được quan tâm

. Dấu kỳ vọng của và 𝑎𝐺𝐷𝑃

(4) sẽ trở nên đơn giản hơn khi chỉ còn phải ước lượng 𝑐𝑃𝐼 𝐺𝐼 là dấu âm và hai tham số còn lại dấu dương. Trong các tham số trên, 𝑐𝑃𝐼 𝑐𝑃𝐼 nhất do đây là tham số thể hiện tác động từ cú sốc gây ra bởi đầu tư khu vực nhà nước tới đầu

tư khu vực tư nhân.

5.4. Kết quả định lượng và nhận xét

Dữ liệu về GDP, GI và PI trong khoảng thời gian 1995 – 2011 sử dụng trong luận văn được

cung cấp bởi Tổng cục Thống kê. Các biến được đưa vào mô hình là sai phân bậc 1 của

[ln 𝐺𝐼 , ln 𝑃𝐼 , ln 𝐺𝐷𝑃] và chi tiết về mô hình được mô tả trong Phụ lục A.

Kết quả ước lượng hệ số thể hiện các mối tương quan thể hiện trong Bảng 5.1. và dấu của

các biến đúng như kỳ vọng của mô hình. Điều đó có nghĩa là, trong ngắn hạn, sự thay đổi tăng

đầu tư từ khu vực nhà nước (kể cả thông qua DNNN hay TĐKTNN) sẽ dẫn tới việc giảm đầu

tư tư nhân. Cụ thể, nếu quý t + 1 tốc độ tăng trưởng đầu tư của khu vực nhà nước gia tăng 1%

so với quý t thì tốc độ đầu tư của khu vực tư nhân quý t + 1 sẽ giảm tương ứng xấp xỉ 0.66%

so với quý t.

Bảng 5.1. Các hệ số được ước lượng trong mô hình SVAR

Giá trị p-value

-0.663 0.000

0.109 0.000

0.981 0.000 Hệ số 𝐺𝐼 𝑐𝑃𝐼 𝑃𝐼 𝑎𝐺𝐷𝑃 𝐺𝐼 𝑎𝐺𝐷𝑃

Kết quả này khác với báo cáo của (Lee, Tumbarello, Sacasa, & Mitra, 2007) khi nghiên

cứu của IMF cho thấy chưa có dấu hiệu đầu tư khu vực nhà nước chèn lấn đầu tư tư nhân. Có

thể lý do của sự khác biệt là do mô hình của IMF được thực hiện trên chuỗi dữ liệu từ 1994 tới

2006, ngắn hơn chuỗi dữ liệu từ 1995 tới 2011 của luận văn. Đồng thời sự khác biệt này có thể

phản ánh một số sự thay đổi lớn trong giai đoạn 2006-2011, trong đó quan trọng nhất phải kể

đến (i) sự ra đời nhiều TĐKTNN (mặc dù mới chỉ ở giai đoạn “thí điểm”); (ii) bất ổn kinh tế

33

vĩ mô nghiêm trọng trong nước (lạm phát và lãi suất cao) cùng với khủng hoảng tài chính toàn

cầu; (iii) gói kích cầu lớn trị giá hơn 140,000 tỷ đồng (khoảng 8 tỷ USD) năm 2009; và (iv)

thua lỗ nặng nề của một số DNNN như Vinashin, Vinalines hay Sông Đà.

Bên cạnh đó, kết quả cũng cho thấy PI thực sự có ảnh hưởng tích cực tới GDP. Theo đó,

nếu tốc độ đầu tư khu vực tư nhân quý t + 1 tăng 1% so với quý t thì tốc độ tăng GDP quý t +

1 sẽ cao hơn xấp xỉ 0.11% so với quý t. Vì vậy, khi GI ảnh hưởng tiêu cực tới PI thì nền kinh

tế nói chung không được lợi. Dù GI có ảnh hưởng tới GDP mạnh hơn so với PI ảnh hưởng tới

GDP, việc GI chèn lấn PI cũng cần được xem xét dưới nhiều giác độ, không chỉ là phát triển

kinh tế tổng thể mà cần quan tâm tới các thành phần kinh tế khác nhau. Bên cạnh đó, dù tác

động của GI tới GDP mạnh hơn so với PI tới GDP nhưng luận văn không khẳng định GI hiệu

quả hơn PI do trong thực tế nguồn lực được tập trung cho GI lớn hơn nhiều so với PI.

34

Chương 6. Phân tích và khuyến nghị

6.1. Sự phù hợp của việc sử dụng TĐKTNN làm trụ cột tăng

trưởng và điều tiết kinh tế vĩ mô

Những công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô không nên đưa xuống mức DNNN, mà ở đây điển hình

là TĐKTNN. Đó phải là nơi chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ phát huy tác dụng. Vì

nếu sử dụng các DNNN làm trụ cột tăng trưởng và công cụ điều hành kinh tế vĩ mô, cần phải

dồn cho những doanh nghiệp này lượng vốn (tiền, bất động sản, nhân lực) lớn. Khi tích tụ

nguồn lực lớn, các DNNN, đặc biệt là TĐKTNN, đã mở rộng nhanh chóng, có ảnh hưởng tới

nhiều mặt xã hội và một khi có sự việc không hay xảy ra với những đơn vị này, ảnh hưởng

tiêu cực tới nền kinh tế có thể sẽ xuất hiện, điển hình như được trình bày trong Chương 4.

Ban hành ngày 19 tháng 02 năm 2013, Quyết định 339/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án tổng

thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng năng cao chất

lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020” có phần tái cơ cấu DNNN với

trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo hướng tinh gọn và tập trung vào hoạt

động cốt lõi, giảm thiểu đầu tư ngoài ngành. Thực hiện theo đề án tổng thể, một số TĐKTNN

đã đề xuất các phương án tái cấu trúc của riêng mình. Số liệu thống kê cho thấy, trong số 06 tập đoàn được phê duyệt đề án,16 chỉ tính riêng 02 tập đoàn VRG và Vinacomin, tổng số vốn

ngoài ngành phải thoái tính tới cuối năm 2015 đã vào khoảng xấp xỉ 10,000 tỷ đồng (Trần

Hùng Viện, 2013). Nếu tính đúng và đủ với các tập đoàn khác, con số chắc chắn sẽ lớn hơn rất

nhiều.

Xem xét trên số liệu cũ hơn (Hình 6.1), tổng vốn đầu tư ngoài ngành của các TĐKTNN

và Tổng công ty nhà nước liên tục tăng từ năm 2006 đến nay (chỉ trừ năm 2009 giảm so với

năm bắt đầu khủng hoảng 2008). Hơn nữa, số vốn ngoài ngành này lại đổ vào những lĩnh vực

mang rủi ro cao như chứng khoán hay góp vốn vào quỹ đầu tư hoặc ngành được coi là hay tạo

16 Bao gồm PVN, Vinacomin, Vinachem, Vinatex, VRG và EVN.

35

ra bong bóng như bất động sản.17 Trong tình hình khó khăn của bất động sản và hệ thống ngân

25000,0

20000,0

15000,0

10000,0

hàng hiện nay, việc thu hồi vốn trở nên khó khăn và dòng tiền bị ứ đọng, không sinh lợi.

) g n ồ đ ỷ t : ị v n ơ đ ( ư t u ầ đ n ố v ố S

5000,0

-

2006

2007

2008

2009

2010

2011

Tổ chức tín dụng

3838,0

7977,0

11427,0

8734,0

10128,0

11403,0

Bảo hiểm

758,0

2655,0

3007,0

1578,0

2236,0

1682,0

Chứng khoán

707,0

1328,0

1697,0

986,0

3576,0

696,0

Góp vốn vào quỹ đầu tư

600,0

1050,0

1424,0

694,0

495,0

675,0

Bất động sản

211,0

1431,0

2285,0

2999,0

5379,0

9286,0

Tổng đầu tư ngoài ngành

5903,0

14441,0

19840,0

14991,0

21814,0

23742,0

Nguồn: Bộ Tài chính.

Hình 6.1. Vốn đầu tư ngoài ngành của TĐKTNN và Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2006 – 2011.

Bên cạnh đó, việc đầu tư vào các tổ chức tín dụng cũng làm cho hệ thống ngân hàng trở

nên khó kiểm soát hơn. Đơn cử như trường hợp của ngân hàng An Bình, cơ cấu cổ đông có

EVN và Công ty tài chính dầu khí mà PVN chiếm tới 78% cổ phần. Hay như ngân hàng GP

bank cũng có cổ đông là PVN. Ngoài ra, các TĐKTNN có nợ xấu chiếm tới hơn 50% tổng số

nợ xấu mà các tổ chức tín dụng hiện đang nắm giữ, ước tính vào khoảng gần 90,000 tỷ đồng

(Tô Ngọc Hưng, 2013).

17 Thập kỷ mất mát mà Nhật Bản đang phải đối mặt hiện nay là hậu quả của bong bóng bất động sản xảy ra những năm 1990. Khủng hoảng tại Tây Ban Nha hiện nay cũng do bong bóng bất động sản.

36

Theo tính toán, số ngành trung bình mà mỗi TĐKTNN của Việt Nam tham gia là 6.4, con

số khá lớn so với các nước như Hàn Quốc hay Malaysia (Vũ Thành Tự Anh, 2011). Như vậy,

ngoài những ngành có rủi ro cao như chứng khoán, bảo hiểm hay bất động sản, các TĐKTNN

còn tham gia vào các lĩnh vực khác. Vì thế, có thể thấy các TĐKTNN sẽ ảnh hưởng tới nhiều

mặt của nền kinh tế. Khi đó, nếu các TĐKTNN không hoạt động tốt, kinh tế sẽ bị ảnh hưởng.

Ngược lại, khi nền kinh tế có vấn đề và có TĐKTNN nào đó thua lỗ, người chịu thiệt thòi là

những người đóng thuế để trả cho sản phẩm, dịch vụ mình có thể không sử dụng hoặc có thể

cho chính đối thủ cạnh tranh của mình.

6.2. Trách nhiệm giải trình

Chính phủ Việt Nam hiện chưa quản lý các TĐKTNN chặt chẽ, không có một luật nào thực sự

điều chỉnh khu vực này. Các TĐKTNN không có tư cách pháp nhân và Chủ tịch Hội đồng

thành viên do Thủ tướng trực tiếp bổ nhiệm (Thủ tướng Chính phủ, 2009). Không hoàn toàn

chịu điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp (2005), mọi hướng nhìn của TĐKTNN đều dẫn về

phía Chính phủ. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới những sai phạm của

các TĐKTNN làm ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam là trách nhiệm giải trình chưa được thực

thi đầy đủ và mạnh mẽ.

6.2.1. Minh bạch

Yếu tố đầu tiên để có được trách nhiệm giải trình đầy đủ là phải minh bạch thông tin. Rất tiếc

điều kiện cần này lại không được thỏa mãn khi soi chiếu vào mối quan hệ phân quyền giữa

TĐKTNN với Chính phủ và Chính phủ với người dân.

Trước hết, nhiều TĐKTNN không minh bạch trong báo cáo thông tin với Chính phủ. Báo

cáo không đầy đủ, không minh bạch hoặc thậm chí sai sự thật làm trách nhiệm giải trình

hướng lên trên trở nên yếu hơn và chỉ mang tính hình thức. Với thông tin không minh bạch từ

đơn vị phía dưới trong giải trình hướng lên trên, Chính phủ rất khó có thể đưa ra những quyết

sách tốt.

Khi các TĐKTNN muốn thực hiện một dự án nào đó (không phải dự án Nhà nước chỉ

định), toàn bộ thông tin liên quan phục vụ việc phê duyệt cần phải được gửi cho bộ phận xử lý

37

trong Chính phủ. Rủi ro có thể xảy ra tại thời điểm này khi thông tin không chính xác hoặc bị

thay đổi để phục vụ mục đích riêng của tập đoàn hoặc một nhóm lợi ích nào đó. Quay lại

trường hợp Vinashin, tàu Hoa Sen là điển hình cho trường hợp thông tin bị che giấu và sửa

đổi. Trong vụ án này, việc mua tàu cũ không phù hợp với chủ trương và chỉ đạo nhưng

Vinashin vẫn mang về con tàu “ngàn tỷ” này rồi cuối cùng để không, thiệt hại về kinh tế rất

lớn. Ngoài dự án tàu Hoa Sen còn rất nhiều các dự án sai phạm khác do không minh bạch

thông tin trong đề xuất từ dưới lên, ví dụ như vụ mua ụ nổi của Vinalines.

Rủi ro minh bạch cũng xảy ra khi xét trên mối quan hệ giữa Chính phủ – người thừa hành

– với người dân – người ủy quyền. Theo Nghị quyết 49/2010/QH12 được Quốc hội ban hành

ngày 19 tháng 06 năm 2010 thì dự án có tổng vốn nhà nước liên quan lên tới 11,000 tỷ đồng sẽ

do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, theo Điều lệ hoạt động của các

TĐKTNN, Hội đồng Quản trị (Hội đồng thành viên) có thể quyết định đầu tư lên tới 50% vốn

điều lệ và vốn được cấp vào những dự án của mình. Với Vinashin, 50% vốn điều lệ là gần

5,000 tỷ đồng nhưng Vinashin đã đầu tư nhiều hơn thế với số tiền có từ trái phiếu (cả Chính

phủ bảo lãnh và tự phát hành). Như vậy có thể thấy rằng, mặc dù đã có luật định nhưng những

khoản đầu tư của các TĐKTNN có thể được quyết định không thông qua cơ quan giám sát của

dân là Quốc hội dù vượt quá cả con số mà Chính phủ buộc phải trình Quốc hội để thông qua

chủ trương đầu tư. Trong thực tế, Chính phủ đã trao cho Vinashin số vốn 750 triệu USD vay

được từ phát hành trái phiếu quốc tế đồng thời sau đó lại cho phép Vinashin tiếp tục phát hành

hai lần trái phiếu nữa với số tiền lần lượt là 600 triệu USD và 3,000 tỷ đồng. Số tiền được đầu

tư ra sao thì Quốc hội chưa kiểm soát được dẫn tới thiếu hiệu quả và tổn thất rất lớn có lỗi

ngay từ cách mà đề xuất ý tưởng đầu tư không được tiến hành theo quy trình nghiêm túc.

6.2.2. Thanh tra và kiểm toán

Trách nhiệm giải trình được hỗ trợ rất nhiều khi đi kèm với giám sát mạnh mẽ và hiệu quả.

Trong mối quan hệ giữa TĐKTNN và Chính phủ, khi cần giám sát Chính phủ sẽ sử dụng công

cụ thanh tra. Còn nếu cần một tiếng nói độc lập thì đó là thời điểm kiểm toán xuất hiện. Tại

một quốc gia dân chủ có thiết chế chặt chẽ, đây là công cụ hoạt động độc lập với Chính phủ và

do đó có thể kiểm tra các TĐKTNN bất cứ lúc nào. Khi có đối trọng kiểm soát, các TĐKTNN

38

sẽ khó có động cơ vụ lợi cũng như khả năng làm sai giảm đi vì các kết quả hoạt động và đầu

tư sẽ được soi rọi dưới nhiều con mắt. Tuy nhiên, cả hai hoạt động này đối với TĐKTNN tại

Việt Nam đều không đạt hiệu quả như mong muốn.

Theo thống kê, từ khi Vinashin bắt đầu đi vào hoạt động năm 2006 cho tới khi mọi việc

xấu bị đưa ra ánh sáng, đã có ít nhất 7 cuộc thanh kiểm tra chính thức từ các đơn vị có thẩm quyền đối với Vinashin18 nhưng không có sai phạm nào được đề cập cụ thể, mọi việc đều “tốt

đẹp.” Chức năng tham mưu của các bộ phận cho Chính phủ đã không hoàn thành nhiệm vụ

dẫn tới việc Chính phủ thực hiện chưa được đầy đủ nhiệm vụ giám sát của mình đối với

Vinashin nói riêng và các TĐKTNN nói chung. Những sai phạm của Vinashin không hề nhỏ,

hệ lụy mà những sai phạm không được phát hiện này để lại cũng rất lớn thế nhưng trách

nhiệm của đơn vị thực hiện thanh tra vẫn không hề được nhắc tới hoặc dù có bị kiểm điểm dư

luận cũng chưa giám sát được.

Kiểm toán Nhà nước của Việt Nam trực thuộc Quốc hội và về lý thuyết được phép tiến

hành kiểm toán đối với bất kì đơn vị nào. Tuy nhiên trường hợp Vinashin lại không như vậy.

Kiểm toán Nhà nước chưa hề thực hiện được bất kì cuộc kiểm toán nào đối với tập đoàn này

cho tới thời điểm mọi việc bị đưa ra ánh sáng vì chức năng và quyền hạn của Kiểm toán Nhà

nước hoàn toàn không được thể hiện đầy đủ. Dù đã lập kế hoạch kiểm toán Vinashin nhiều lần

nhưng Kiểm toán Nhà nước đều phải cắt đi do trùng với thời điểm Thanh tra Chính phủ kiểm

tra tập đoàn này. Mặc dù độc lập về chức năng, nhiệm vụ nhưng, theo lý giải của Kiểm toán

Nhà nước, cơ chế kiểm toán và thanh tra có tương quan chặt chẽ, khi Thanh tra Chính phủ tiến

hành thanh tra thì Kiểm toán Nhà nước dừng lại. Thậm chí ngay cả khi không có thanh tra thì

Kiểm toán Nhà nước lại nhận được đề nghị hoãn để doanh nghiệp tập trung sản xuất. Vì lẽ đó

trong toàn bộ thời gian sai phạm của mình, Vinashin đã không phải chịu một đợt kiểm toán

nào.

Hai hoạt động kiểm tra giám sát của Chính phủ và kiểm toán của Quốc hội một khi không

thể hoặc thực thi yếu đã làm trách nhiệm giải trình hướng lên trên trở nên kém minh bạch hơn

đồng thời tính chịu trách nhiệm bị bào mòn. Điều này dẫn tới việc đảm bảo trách nhiệm giải

18 Xem trong Bảng 4.2.

39

trình hướng lên trên và hướng xuống dưới không được xem xét đúng mức như cần phải có

nhằm đạt được quản trị hiệu quả.

6.2.3. Giám sát của Quốc hội

Như đã phân tích ở trên, một Quốc hội mạnh trong chế độ dân chủ đại diện cần có đủ cơ chế

và năng lực để giám sát nguồn công sản. Một nền hành chính công không thể mạnh nếu cơ chế

giám sát không đủ mạnh. Gắn với trường hợp của Việt Nam, năng lực hiện hữu cùng cơ chế

làm việc đã chưa mang tới cho Quốc hội đủ công cụ giám sát tốt khối tài sản đang được các

TĐKTNN nắm giữ. Chỉ tới khi đổ vỡ xảy ra tại Vinashin hay Vinalines cùng với những sai

phạm liên tiếp được phát hiện tại các TĐKTNN thì Quốc hội mới bắt đầu thực thi quyền và

chức năng của mình trong một vùng khả năng hạn chế và khi đó mọi việc cũng đã đi quá xa.

Quốc hội không đủ bộ máy thực hiện kiểm tra, kiểm soát vì bất cân xứng thông tin giữa người

được ủy quyền và người ủy quyền đã lớn lên. Một khi những sai phạm không bị phát hiện kịp

thời và những thiết chế giám sát không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì trách

nhiệm giải trình không thể trở thành công cụ tốt để đạt được nền quản trị hiệu quả.

6.3. Khuyến nghị chính sách

Các khuyến nghị chính sách tập trung theo hướng giảm dần sự ảnh hưởng của DNNN nói

chung và TĐKTNN nói riêng đối với nền kinh tế đồng thời gia tăng trách nhiệm giải trình của

những đơn vị này.

Khuyến nghị 1. Dần đưa các DNNN và TĐKTNN gần hơn với vị thế là những đơn vị

phục vụ sửa chữa thất bại thị trường hoặc ít nhất cũng theo thông lệ quốc tế. Cụ thể: (1)

cổ phần hóa những TĐKTNN không được sự ủng hộ về mặt lý thuyết kinh tế như đã phân

tích trong Chương 3. ; (2) nghiên cứu kỹ về cách thức hoạt động của các DNNN tại những

nước có nền quản trị công tiên tiến và những nước có điều kiện tương tự như Việt Nam để

đưa DNNN Việt Nam theo mô hình tối ưu nhất có thể, cắt giảm những thành phần trực

tiếp cạnh tranh với khu vực khác hoặc những phần việc mà thành phần kinh tế khác có thể thực hiện tốt. Khuyến nghị 2. Mô hình tăng trưởng kinh tế dựa nhiều vào đầu tư thông qua những

40

“quả đấm thép” là TĐKTNN và Tổng công ty cần được nghiên cứu kỹ càng hơn, đặc biệt

là đưa ra các biện pháp quản trị hiệu quả; tránh trường hợp như Vinashin hay Vinalines.

Bên cạnh đó, việc coi những TĐKTNN là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô cần được xem

xét một cách nghiêm túc trên khía cạnh chi phí – lợi ích. Như đã thấy, lợi ích của những

Vinashin hay Vinalines có thể chưa được xã hội biết tới nhưng chi phí để giải quyết hậu quả lại quá lớn và cả xã hội đều thấy một cách rõ rệt, thậm chí phản ứng gay gắt.

Khuyến nghị 3. Quyết liệt tái cấu trúc các DNNN, đặc biệt là TĐKTNN, theo hướng

thoái vốn khỏi tất cả những ngành kinh doanh không cốt lõi để giảm ảnh hưởng đối với

nền kinh tế. Tái cơ cấu phải đi kèm với lộ trình cụ thể và nghiêm ngặt. Thật vậy, những đề

án tái cấu trúc hiện nay vẫn mới chỉ có lộ trình mà chưa có cơ chế thưởng phạt và những

mốc mục tiêu đạt được cụ thể để từ đó có cơ sở thực thi chính sách thưởng phạt. Chỉ khi có chế tài cụ thể thì quá trình tái cấu trúc mới có thể tiến hành hiệu quả.

Khuyến nghị 4. Để nâng cao minh bạch thông tin đối với khối TĐKTNN, có thể yêu

cầu các đơn vị này phải công bố báo cáo tài chính thường niên được kiểm toán bởi bên

thứ ba độc lập. Tuy nhiên, như đã thấy trong trường hợp Vinashin, kiểm toán độc lập

không chắc lúc nào cũng đã hoạt động hiệu quả. Trong cùng quãng thời gian 2006 – 2009

với các cuộc thanh, kiểm tra của Chính phủ và các Bộ, công ty kiểm toán KPMG cũng đã

thực hiện kiểm toán mỗi năm một lần nhưng không có công bố về sai sót. Lý do có thể

ảnh hưởng tới công tác kiểm toán độc lập là họ không đủ quyền để yêu cầu đầy đủ hồ sơ,

nếu thiếu họ chỉ có thể đưa ra các ngoại trừ. Điều này đặt ra thách thức mới rằng không

phải cứ công bố báo cáo tài chính có kiểm toán là sẽ đạt được minh bạch trong hoạt động.

Do vậy cần có lộ trình để đẩy yêu cầu lên một mức cao hơn là bắt buộc các TĐKTNN cổ

phần hóa và niêm yết doanh nghiệp mẹ, dù chỉ là một lượng cổ phần nhỏ. Việc niêm yết

sẽ làm động cơ sai phạm trong đầu tư và quản lý vốn giảm đi và nếu có sai phạm thì hậu

quả chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều do cả xã hội đều được biết thông tin. Như vậy, với việc

yêu cầu các TĐKTNN cổ phần hóa và niêm yết, minh bạch sẽ cao hơn dẫn tới trách nhiệm giải trình được xác lập đầy đủ hơn.

Khuyến nghị 5. Về vấn đề thanh tra và kiểm toán, cần xác lập một cơ chế làm việc cụ

thể dài hạn. Đồng thời phải đảm bảo khi công việc của một bên không thay đổi nếu kế

41

hoạch của bên còn lại thay đổi. Trong trường hợp có sự trùng lặp do đột xuất, mọi việc

vẫn cần được tiến hành theo kế hoạch. Thêm nữa, sau khi có kết luận thanh tra và kiểm

tra, các báo cáo phải được cơ quan có thẩm quyền công bố rộng rãi trên phương tiện

thông tin đại chúng trong vòng 01 tháng để đảm bảo tính thời sự và đa số mọi người được

biết. Không nên để tình trạng như hiện nay, tìm kiếm các báo cáo thanh tra và kiểm toán rất khó khăn, nhiều khi phải chờ đợi các kỳ họp Quốc hội để được tiếp cận thông tin.

Khuyến nghị 6. Quốc hội cần thực thi quyền giám sát mạnh mẽ hơn nữa, ít nhất định kỳ

mỗi kỳ họp yêu cầu Chính phủ cung cấp báo cáo về tình hình sử dụng vốn, đầu tư và quản

trị tại các TĐKTNN. Những báo cáo này cũng cần phải được công bố rộng rãi để người

dân có thể giám sát.

42

Chương 7. Kết luận

Luận văn tập trung vào tìm hiểu một số vấn đề chính sách xảy ra khi mô hình tăng trưởng kinh

tế Việt Nam phụ thuộc vào đầu tư thông qua các DNNN, đặc biệt là TĐKTNN. Đi kèm với

đó, luận văn cũng tìm hiểu một số hệ lụy khi để khu vực TĐKTNN hoạt động như những công

cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, được tập trung nguồn lực lớn nhưng lại không có một khung quản

trị mạnh mẽ và hiệu quả. TĐKTNN là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn thông qua

việc trả lời các câu hỏi về (1) tính hợp lý khi thành lập một số TĐKTNN; (2) những ảnh

hưởng có thể xảy ra khi các TĐKTNN nói riêng và DNNN nói chung được tập trung nguồn

lực lớn; và (3) mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư khu vực nhà nước có ảnh hưởng chèn lấn

khu vực khác hay không.

Trong quá trình tìm kiếm, luận văn nhận thấy, ngoài việc một số TĐKTNN được thành

lập chưa nhằm mục đích giải quyết thất bại thị trường thì việc quản lý các TĐKTNN khá lỏng

lẻo cộng với việc nguồn lực được tập trung lớn đã gây ra một số ảnh hưởng tiêu cực tới nền

kinh tế. Thứ nhất là khu vực kinh tế khác bị ảnh hưởng chèn lấn khi khó tiếp cận tín dụng và

hệ thống ngân hàng phải chịu tình trạng nợ xấu cao từ khu vực DNNN. Thứ hai, ảnh hưởng

xấu tới từ TĐKTNN có thể làm bậc tín nhiệm quốc gia bị giảm khiến việc vay mượn vốn trên

trường quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam trở nên khó khăn và đắt đỏ hơn. Cuối cùng,

theo mô hình SVAR, hiệu ứng chèn lấn từ khu vực kinh tế nhà nước đối với khu vực tư nhân

đã diễn ra tại Việt Nam trong thời gian 1995 – 2011. Kết quả này khác biệt so với nghiên cứu

của IMF năm 2007 khi báo cáo đó cho thấy không có hiện tượng chèn lấn xảy ra tại Việt Nam

trong giai đoạn 1994 – 2006.

Trong tương lai, tác giả dự định thực hiện thêm nghiên cứu về quá trình “Thất bại thị

trường – Nhà nước sửa chữa thất bại thị trường – Nhà nước thất bại – Sửa chữa thất bại”. Nếu

thực hiện được, đó sẽ là một kết quả bổ sung làm hoàn chỉnh thêm nghiên cứu hiện nay của

luận văn. Đồng thời, việc mở rộng mô hình SVAR để đưa vào thêm khu vực kinh tế có vốn

đầu tư nước ngoài nhằm có cái nhìn đầy đủ hơn mô hình hiện nay là một hướng cần phát triển.

Điểm yếu của luận văn là việc không có được số liệu về đầu tư và tín dụng đối với khu

43

vực DNNN làm kết quả phân tích trong luận văn chưa được sâu như mong muốn, ví dụ như sự

tương tác giữa chính sách tiền tệ, tài khóa và những yếu tổ liên quan tới thể chế.

44

Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt

1. Vũ Thành Tự Anh (2011), Đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế Việt

Nam, Fulbright Economics Teaching Program.

2. Vũ Thành Tự Anh (2012), Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Ủy ban Kinh

tế Quốc hội Việt Nam.

3. Chính phủ (2011), Nghị định 70/2011/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với

người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ

gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có thuê mướn lao động.

4. Trần Tiến Cường và Nguyễn Cảnh Nam (2011), Báo cáo về thí điểm thành lập Tập đoàn

kinh tế nhà nước, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM).

5. Huỳnh Thế Du (2006), Cơ hội nào cho ngành đóng tàu Việt Nam? Fulbright Economics

Teaching Program.

6. Tô Ngọc Hưng (2013), Nợ xấu từ các khu vực kinh tế: Thực trạng và một số khuyến

nghị chính sách, Ủy ban Kinh tế, Quốc hội Việt Nam.

7. Võ Trí Thành (2013), Các quy định về tài chính, tái cấu trúc thị trường tài chính và hiệu

quả của chính sách tiền tệ tại Việt Nam, Ủy ban Kinh tế, Quốc hội Việt Nam.

8. Trần Đình Thiên (2013), Tình hình kinh tế vĩ mô 2012 và triển vọng 2013: Những nhận

xét và đánh giá bổ sung, Ủy ban Kinh tế, Quốc hội Việt Nam.

9. Thủ tướng Chính phủ (2009), Nghị định 101/2009/NĐ-CP về việc “Thí điểm thành lập,

tổ chức, hoạt động và quản lý Tập đoàn kinh tế nhà nước”.

10. Trần Hùng Viện (2013), Tái cơ cấu các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91: Phương

thức và lộ trình, Ủy ban Kinh tế, Quốc hội Việt Nam.

45

Tiếng Anh

11. Alfonso, A., & Sousa, R. M. (2009), The Macroeconomic Effect of Fiscal Policy.

European Central Bank.

12. Andreoni, J. (1993), “An Experimental test of Public-Good Crowding-Out Hypothesis”,

The American Economic Review, 83(5), pp. 1317-1327.

13. Benedek, D., Crivelli, E., Gupta, S., & Muthoora, P. (2012), “Foreign Aid and

Revenue: Still a Crowding Out Effect?”, IMF.

14. Blanchard, O., & Perotti, R. (2002), “An Empirical Characterization of the Dynamic

Effects of Changes in Government Spending and Taxes on Output”, Quarterly Journal

of Economics, 117(4), pp. 1329-1368.

15. Carlson, K., & Spencer, R. (1975), Crowding Out and Its Critics, Federal Reserve Bank

of St. Louis.

16. Christiansen, H. (2011), “The Size and Composition of the SOE Sector in OECD

Countries”, OECD Corporate Governance Working Papers, (No.5).

17. Cubbin, J., & Stern, J. (2006), “The Impact of Regulatory Governance and Privatisation

on Electricity Industry Generation Capacity in Developing Economies”, World Bank

Economic Review, No.20, pp. 115-141.

18. Efird, N. (2010), “The State-Owned Enterprise as a Vehicle for Stability”, Strategic

Studies Institute.

19. Fazzari, S. M., Morley, J., & Panovska, I. (2012), “State-Dependent Effects of Fiscal

Policy”, University of New South Wales, School of Business Research Paper.

20. Forfás, Ireland (2010), “The Role of State-Owned Enterprises: Providing Infrastructure

and Supporting Economic Recovery”.

21. Friedman, B. M. (1978), “Crowding out or Crowding in? Economic Consequences of

Financing Government Deficits”, Brookings Papers on Economic Activity, (No. 3), pp.

593-654.

22. Lee, I. H., Tumbarello, P., Sacasa, N., & Mitra, P. (2007), “Vietnam Selected Issues”,

International Monetary Fund, (No. 07/385).

23. Mitra, P. (2006), “Has Government Investment Crowded out Private Investment in

46

India?”, The American Economic Review.

24. Musacchio, A., & Flores-Macias, F. (2009), “The Return of State-Owned Enterprises”.

Harvard International Review, truy cập ngày 11/04/2013 tại địa chỉ:

http://hir.harvard.edu/the-return-of-state-owned-enterprises?page=0,0.

25. Nunnenkamp, P. (1986), “State Enterprises in Developing Countries, Intereconomics,

21(4), pp. 186-193.

26. Serven, L. (1996), Does Public Capital Crowd out Private Capital: Evidence from

India. World Bank.

27. Steiner, F. (2000), Regulation, Industry Structure and Performance in the Electricity

Supply Industry. OECD.

28. Toninelli, P. (2008), “From Private to Public to Private Again: A Long-Term

Perspective on Nationalization”, Análise Social, XLIII(4), pp. 675-692.

29. United States General Accounting Office (1995), Profile of Existing Goverment

Corporations.

30. Vu, T. B., Byron, G., & Ilan, N. (2007), “Is Foreign Direct Investment Good for

Growth? Evidence from Sectoral Analysis of China and Vietnam”, Working Papers,

Santa Cruz Center for International Economics.

31. Wong, C. S. (2012), A Quantitative Study of Hong Kong's Fiscal Policy, The Chinese

University of Hong Kong.

32. World Bank. (2003), Power for Development: A Review of the World Bank Group’s

Experience with Private Participation in the Electricity Sector, World Bank.

33. Zhang, Y.-F., Parker, D., & Kirkpatrick, C. (2008), “Electricity Sector Reform in

Developing Countries: An Econometric Assessment of the Effects of Privatisation,

Competition and reguLation”, Journal of Regulatory Economics, 33(2), pp. 159-178.

47

Phụ lục A. Chi tiết mô hình định lượng

Dữ liệu luận văn sử dụng được thu thập từ Tổng cục Thống kê. Tuy nhiên, chỉ có duy nhất dữ

liệu về GDP được cho theo chu kỳ quý còn số liệu về GI và PI theo chu kỳ năm. Chính vì vậy,

tác giả phải thực hiện nội suy hai chuỗi dữ liệu GI và PI dựa trên mẫu (pattern) của chuỗi

GDP. Luận văn phải thực hiện nội suy theo mẫu để đảm bảo chuỗi có tính chất “tự nhiên” nhất

có thể. Theo quan sát, vốn đầu tư GI và PI đều tăng tương ứng với GDP, do đó luận văn sử

dụng mẫu GDP để nội suy hai chuỗi dữ liệu cần thiết.

Sau khi nội suy, dựa trên Hình A.1, có thể thấy các chuỗi dữ liệu không dừng (non-

stationary) và có tính mùa vụ (seasonality) cao. Để đạt kết quả chính xác, ta có thể hoặc (1)

sinh các chuỗi dữ liệu có tính dừng từ các chuỗi trên và khử tính mùa vụ hoặc (2) kiểm định

tính đồng liên kết giữa các chuỗi GDP, GI và PI, nếu các chuỗi trên đồng liên kết

200000,0

180000,0

160000,0

140000,0

120000,0

100000,0

80000,0

60000,0

40000,0

20000,0

,0

3 Q 2 0 0 2

1 Q 4 0 0 2

1 Q 5 9 9 1

3 Q 5 9 9 1

1 Q 6 9 9 1

3 Q 6 9 9 1

1 Q 7 9 9 1

3 Q 7 9 9 1

1 Q 8 9 9 1

3 Q 8 9 9 1

1 Q 9 9 9 1

3 Q 9 9 9 1

1 Q 0 0 0 2

3 Q 0 0 0 2

1 Q 1 0 0 2

3 Q 1 0 0 2

1 Q 2 0 0 2

1 Q 3 0 0 2

3 Q 3 0 0 2

3 Q 4 0 0 2

1 Q 5 0 0 2

3 Q 5 0 0 2

1 Q 6 0 0 2

3 Q 6 0 0 2

1 Q 7 0 0 2

3 Q 7 0 0 2

1 Q 8 0 0 2

3 Q 8 0 0 2

1 Q 9 0 0 2

3 Q 9 0 0 2

1 Q 0 1 0 2

3 Q 0 1 0 2

1 Q 1 1 0 2

3 Q 1 1 0 2

GDP

GI

PI

(cointegration) thì có thể sử dụng trong mô hình.

Hình A.1. Các chuỗi dữ liệu chưa khử tính mùa vụ.

Để thuận tiện trong việc xử lý số liệu và làm dừng các chuỗi, luận văn lấy sai phân bậc 1

48

của [ln 𝐺𝐼 , ln 𝑃𝐼 , ln 𝐺𝐷𝑃] sau đó kiểm định tính dừng của các chuỗi đã được lấy sai phân bậc

1. Kết quả trong Bảng A.1, Bảng A.2 và Bảng A.3 cho thấy, sau khi lấy sai phân thì các chuỗi

mới [dln 𝐺𝐼 , dln 𝑃𝐼 , dln 𝐺𝐷𝑃] đều dừng. Trong đó chuỗi dln 𝐺𝐷𝑃 dừng với mức ý nghĩa 1%,

còn chuỗi dln 𝐺𝐼 và dln 𝑃𝐼 dừng với mức ý nghĩa 5%.

Null Hypothesis: DLNGDP has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Fixed)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level

t-Statistic -9.767965 -4.103198 -3.479367 -3.167404

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Prob.* 0.0000

Bảng A.1. Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi sai phân bậc 1 biến ln 𝐺𝐷𝑃

Null Hypothesis: DLNGI has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 1 (Fixed)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level

t-Statistic -4.038840 -4.105534 -3.480463 -3.168039

Prob.* 0.0120

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Bảng A.2. Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi sai phân bậc 1 biến ln 𝐺𝐼

Null Hypothesis: DLNPI has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 1 (Fixed)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level

t-Statistic -3.542401 -4.105534 -3.480463 -3.168039

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Prob.* 0.0432

Bảng A.3. Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi sai phân bậc 1 biến ln 𝑃𝐼

Luận văn sử dụng chương trình Eviews để khử tính mùa vụ của các chuỗi. Do các chuỗi

49

nhận được đều dừng và không còn tính mùa vụ, ta có thể sử dụng vào mô hình mà không cần

xét tới tính đồng liên kết của các chuỗi này.

Luận văn chọn số độ trễ đưa vào hệ VAR là 9. Lý do với số độ trễ này trở xuống, có tới 4

trên 5 phép kiểm định đề xuất sử dụng (gồm LR, FPE, SC và HQ) như trong Bảng A.4.

VAR Lag Order Selection Criteria Endogenous variables: DLNGDP DLNGI DLNPI Exogenous variables: C Date: 06/24/13 Time: 12:58 Sample: 1995Q1 2011Q4 Included observations: 55

Lag 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

LogL 415.6094 512.5745 550.3371 557.5526 578.9130 617.7406 632.3946 640.5652 657.3694 672.0594 682.8360 688.9067 700.9863

LR NA 179.8263 65.91291 11.80706 32.62322 55.06455 19.18350 9.804722 18.33180* 14.42294 9.405036 4.635766 7.906665

FPE 6.12e-11 2.50e-12 8.81e-13 9.47e-13 6.14e-13 2.13e-13 1.80e-13 1.95e-13 1.58e-13 1.42e-13* 1.52e-13 2.02e-13 2.28e-13

AIC -15.00398 -18.20271 -19.24862 -19.18373 -19.63320 -20.71784 -20.92344 -20.89328 -21.17707 -21.38398 -21.44858 -21.34206 -21.45405*

* indicates lag order selected by the criterion LR: sequential modified LR test statistic (each test at 5% level) FPE: Final prediction error AIC: Akaike information criterion SC: Schwarz information criterion HQ: Hannan-Quinn information criterion

SC -14.89449 -17.76475 -18.48219 -18.08882 -18.20982 -18.96598* -18.84311 -18.48448 -18.43980 -18.31823 -18.05436 -17.61937 -17.40288

HQ -14.96164 -18.03335 -18.95224 -18.76032 -19.08277 -20.04038 -20.11896 -19.96178 -20.11854 -20.19843* -20.13601 -19.90247 -19.88743

Bảng A.4. Kết quả lựa chọn số độ trễ đưa vào mô hình.

Sau đó luận văn ước lượng các tham số và được kết quả cuối cùng như đã nêu tại Phần 5.4.