Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
lượt xem 9
download
Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ bản chất, nội dung và thực trạng quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết tốt quan hệ lao động và lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
- TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN GIANG TUỆ MINH QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NGƯỜI LAO ĐỘNG VÀ NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN TH.S KINH TẾ Người hướng dẫn: Chu Văn Cấp Hà Nội 2006
- BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNXH: Chủ nghĩa xã hội CNH-HĐN: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CĐ: Cao đẳng CPH: Cổ phần hoá DNCVĐTNN: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN: Doanh nghiệp ĐTNN: Đầu tư nước ngoài ĐH: Đại học ILO: Tổ chức Lao động Thế giới KCN: Khu công nghiệp KCX: Khu chế xuất LĐTB&XH: Lao động Thương binh và Xã hội HĐLĐ: Hợp đồng lao động LĐLĐ: Liên đoàn Lao động TLĐLĐVN: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam TNHH: Trách nhiệm hữu hạn FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 3
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam đã chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, bắt đầu từ việc thông qua Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1987 và thực thi từ đầu năm 1988, trong gần 20 năm qua khu vực đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh chóng và được công nhận là bộ phận cấu thành của nền kinh tế với những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Sự tăng trưởng về số lượng cũng như qui mô các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong cả nước đã góp phần làm tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước, đóng góp ngân sách cho nhà nước… và tạo ra hàng trăm ngàn chỗ làm việc mới cho người lao động, góp phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm, giảm bớt tình trạng thất nghiệp hiện nay ở nước ta. Thu nhập bình quân của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhìn chung cao hơn lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp khác, đời sống vật chất của một bộ phận công nhân lao động được cải thiện hơn trước. Bên cạnh những mặt tích cực trên, những năm qua mâu thuẫn về mặt kinh tế - xã hội trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã xuất hiện và có xu hướng gia tăng đưa đến tình trạng đình công trái luật của công nhân mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tình hình đó không những gây tổn hại cho người lao động, làm thiệt hại kinh tế cho doanh nghiệp, mà còn gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự, an ninh xã hội, môi trường đầu tư, trước hết là khung khổ pháp luật thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 4
- Xuất phát từ thực tiễn nêu trên và nhằm góp phần giải toả những mâu thuẫn kinh tế - xã hội trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tôi chọn đề tài “Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế chuyên ngành kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề lợi ích và lợi ích kinh tế được bắt đầu thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam từ đầu những năm 1980, nhất là từ khi Đảng ta quyết định thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến vấn đề lợi ích và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được công bố trong các cuốn sách: “Bàn về các lợi ích kinh tế” do Đào Duy Tùng chủ biên (1982), Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. “Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư nước ngoài vào Việt Nam do Nguyễn Khắc Thân, Chu Văn Cấp đồng chủ biên (1996), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. “Lợi ích động lực phát triển xã hội”do Nguyễn Linh Khiếu chủ biên (1999), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. “Tạo việc làm cho người lao động qua trực tiếp đầu tư nước ngoài vào Việt Nam” do Bùi Anh Tuấn biên soạn, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2000. - Dương Thuỵ Mỹ, “Mấy vấn đề về người lao động Việt Nam trong các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài” (Tạp chí Công tác tư tưởng và văn hoá, số 6/1995). - Trần Đình Giám, “Nguyên nhân chính dẫn đến đình công ở một số xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” (Tạp chí Lao động và xã hội, số 6/1996). 5
- - Phụng Hiệp, “Xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa đại diện lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp” (Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 1/1997). - Ngoài ra còn có một số cuộc hội thảo, hội nghị liên quan đến vấn đề quan hệ lợi ích trong các doanh nghiệp. Các công trình nghiên cứu nói trên đã tiếp cận vấn đề lợi ích, lợi ích kinh tế. Vai trò của lợi ích trong sự phát triển của xã hội, của con người và mối quan hệ giữa các lợi ích dưới nhiều góc độ khác nhau. Các công trình viết về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đề cập đến loại hình doanh nghiệp, vai trò vị trí của nó…, và cũng mới chỉ đề cập đến vấn đề lợi ích một cách chung chung đặt trong tổng thể các mối quan hệ khác liên quan đến người lao động và người sử dụng lao động. Nhìn chung còn ít công trình nghiên cứu vấn đề quan hệ lợi ích kinh tế giữa người sử dụng lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy đề tài luận văn vẫn cần thiết và có ý nghĩa lý luận thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: Làm rõ bản chất, nội dung và thực trạng quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết tốt quan hệ lao động và lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. * Nhiệm vụ: + Nghiên cứu cơ sở lý luận về lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế, các hình thức thể hiện quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta. 6
- + Phân tích thực trạng về quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta trong thời gian qua. + Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta. * Phạm vi nghiên cứu: được giới hạn trong thời gian từ khi có Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam (1987) đến 2005. Đặc biệt quan tâm tới các số liệu 2000-2005. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, các quan điểm đường lối của Đảng, nhà nước Việt Nam và các lý luận kinh tế liên quan. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp truyền thống của khoa học kinh tế chính trị, nhất là phương pháp khảo sát, phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê, tổng hợp , khái quát vấn đề và nghiên cứu tổng kết thực tiễn... 6. Đóng góp của luận văn Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội nhằm điều chỉnh quan hệ lợi ích kinh tế, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu, giảng dạy các chuyên đề kinh tế liên quan. 7
- 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 7 tiết. 8
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NGƢỜI LAO ĐỘNG VÀ NGƢỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI 1.1. Căn cứ lý luận của quan hệ lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 1.1.1. Những luận điểm cơ bản về lợi ích kinh tế Con người ngay từ khi mới xuất hiện đã tiến hành các hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế luôn luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã hội và nó là cơ sở các hoạt động văn hoá, tư tưởng, chính trị… Trong hoạt động kinh tế, con người đều có động cơ. Động cơ thúc đẩy con người hành động. Mức độ hành động (mạnh hay yếu) tuỳ thuộc vào mức độ chín muồi của động cơ, mà sự chín muồi của động cơ lại phụ thuộc vào nhận thức và thực hiện lợi ích của họ. Có nhiều loại động cơ: kinh tế, chính trị, tư tưởng, tinh thần… Nhưng suy cho cùng thì động cơ kinh tế quyết định sức mạnh và nội dung của các động cơ khác. Ph. Ăngghen: xét đến cùng, mọi cuộc cách mạng được tiến hành “thì trước hết vấn đề là ở những lợi ích kinh tế”. • Lợi ích và lợi ích kinh tế - Lợi ích: Trong các tác phẩm của C.Mác thì những từ: lợi ích, ích lợi, có lợi được sử dụng như là cùng nghĩa và có thể thay thế nhau. Lợi ích không phải là một cái gì trừu tượng và có tính chất chủ quan, mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu của con người. Con người có nhiều loại nhu cầu do đó có nhiều loại lợi ích. Ví dụ: nhu cầu vật chất dẫn đến lợi ích vật chất, nhu cầu chính trị dẫn đến lợi ích chính trị, nhu cầu văn hoá dẫn đến lợi ích văn hoá tinh thần… 9
- - Lợi ích kinh tế: Lợi ích kinh tế nảy sinh trong điều kiện tồn tại xã hội của con người, những nhu cầu vật chất của con người khi được xác định về mặt xã hội thì nó trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, nó được qui định một cách khách quan bởi phương thức sản xuất, bởi hệ thống quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Như vậy, lợi ích kinh tế không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các chủ thể lợi ích kinh tế. V.I. Lênin trong tác phẩm: Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và Sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơ-ru-vê về nội dung đó, đã viết: “Lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có trong hệ thống quan hệ sản xuất, theo những hoàn cảnh và điều kiện sống của họ”. Là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, lợi ích kinh tế thể hiện trong tất cả 4 khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Phải khẳng định rằng: ở đâu có hoạt động sản xuất kinh doanh thì ở đó có lợi ích kinh tế và chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh cũng là chủ thể các lợi ích kinh tế. • Vai trò của lợi ích kinh tế trong sự phát triển kinh tế - xã hội Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời sống. Lịch sử đã từng chứng minh, động lực thúc đẩy con người hành động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không phải là cái gì khác ngoài lợi ích của họ. Chính những lợi ích đó đã gắn bó con người với cộng đồng của mình và tạo ra ở con người những sự kích thích, thôi thúc, khát vọng và sự say mê trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi ích kinh tế được nhận thức và thực hiện đúng thì nó sẽ là động lực kinh tế thúc đẩy con người hành động. (lưu ý: nhận thức lợi ích là quá trình mang tính chủ quan. Cái khách quan được biểu hiện dưới dạng chủ quan). Khi các lợi ích kinh tế được nhận thức và thực hiện đúng sẽ làm nảy sinh các hoạt 10
- động làm chủ, đồng thời tạo ra sự say mê, kích thích hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, lợi ích kinh tế thể hiện như là một trong những động lực cơ bản của sự tiến bộ xã hội nói chung, phát triển sản xuất kinh doanh nói riêng. Ph. Angghen cho rằng: Lợi ích kinh tế đó là những động cơ đã lay chuyển những quần chúng đông đảo. Và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của con người “thì chúng lay chuyển đời sống nhân dân”. Lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất kinh, doanh. Một khi con người (chủ thể) tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới các lợi ích nhất định. Đạt được những lợi ích kinh tế tương xứng với kết quả sản xuất, kinh doanh thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ thể lợi ích. Ngược lại, khi không mang lại lợi ích hoặc lợi ích không được thực hiện đầy đủ thì sẽ làm cho các mối quan hệ giữa các chủ thể xuống cấp. Nếu tình trạng đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tình trạng tiêu cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.1.2. Các mối quan hệ cơ bản trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngoài góp một lượng vốn đủ lớn để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh: nhờ đó cho phép họ trực tiếp tham gia quản lý, điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ rủi ro và thu lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm sau: Một là: Về vốn góp của chủ ĐTNN, phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu theo qui định của từng nước, qua đó để họ có quyền được trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. 11
- Các nước phương Tây nói chung, qui định lượng vốn này phải chiếm trên 10% cổ phần của doanh nghiệp nước ngoài thì mới được xem là đầu tư trực tiếp. Có nước qui định là 25%, hoặc có nước qui định có cổ phần tuy dưới 25% nhưng nếu có một trong những điều kiện sau đây đều được xem là đầu tư trực tiếp: cử nhân viên quản lý hoặc nhân viên kỹ thuật đến doanh nghiệp đầu tư, cung cấp kỹ thuật, cung cấp nguyên liệu; mua sản phẩm của doanh nghiệp, giúp đỡ tiền vốn, cho vay hoặc đầu tư theo hình thức thương mại có hoàn trả… [13]. Hai là, về quyền điều hành quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì doanh nghiệp đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý. Ba là, chia lợi nhuận, nhà đầu tư nước ngoài thu được lợi nhuận đầu tư phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lãi, lỗ được phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong pháp định, sau khi đã trừ đi thuế lợi tức và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà. Bốn là: về hình thức đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được áp dụng dưới các hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam được hiểu là các đơn vị kinh tế, cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ một cách hợp pháp theo nhu cầu của thị trường, có sự tham gia và góp vốn của bên quản lý nước ngoài với tỷ lệ góp vốn không thấp hơn 30% (trường hợp đặc biệt không thấp hơn 20%) vốn pháp định của doanh nghiệp, được thành lập và hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan, nhằm thu lợi nhuận hoặc mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội. 12
- Theo khái niệm trên hiện nay doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài ở Việt Nam chủ yếu có hai loại: doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. • Doanh nghiệp liên doanh: Ở đây chỉ xin đề cập đến hình thức liên doanh theo tỷ lệ vốn có mức độ khác nhau giữa các bên chủ nhà với các cá nhân và các tổ chức kinh tế nước ngoài. Theo điều 2 chương 1- Luật Đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi thì doanh nghiệp liên doanh “là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam, hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh”. Như vậy theo văn bản pháp luật đó, khái niệm “Doanh nghiệp liên doanh” được hiểu là sự liên doanh, liên kết giữa các tổ chức kinh tế và cá nhân Việt Nam với các tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài thuộc một hay nhiều quốc tịch khác nhau. Những trường hợp trái với qui định này thì không được coi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn và là pháp nhân Việt Nam. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia. Như vậy thực chất của doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là doanh nghiệp hỗ hợp do hai hoặc nhiều bên cùng đóng góp tài sản (dưới hình thức tiền mặt, thiết bị máy móc, nhà xưởng, đất đai) cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ tài sản đóng góp. Vì thế ở Trung Quốc, doanh nghiệp thuộc loại này được gọi là doanh nghiệp hùn vốn. • Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 13
- Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 100% là doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài được Chính phủ Việt Nam phê chuẩn việc thành lập, đầu tư 100% vốn, tự chịu lỗ lãi. Dù là 100% vốn nước ngoài nhưng doanh nghiệp thuộc loại này cũng là một pháp nhân Việt Nam, hoạt động theo luật pháp Việt Nam, được luật pháp Việt Nam bảo vệ. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài về thực chất là một “giao kèo” một “hợp đồng cho thuê” có điều kiện của nước chủ nhà với các nhà đầu tư nước ngoài. 14
- • Đặc điểm quan hệ sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Cũng như bất kỳ khu vực kinh tế nào khác, quan hệ sản xuất của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng bao gồm ba mỗi quan hệ là quan hệ về sở hữu, quan hệ về quản lý và quan hệ về phân phối. Các quan hệ này có những điểm chung, nhưng cũng có những đặc điểm riêng biệt của nó. Sở dĩ như thế là vì, khu vực có vốn ĐTNN có nhiều yếu tố đặc thù về kinh tế, văn hoá, con người. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những nét đặc thù của quan hệ sản xuất trong khu vực kinh tế có vốn ĐTNN để có những qui định chính sách phù hợp là vấn đề cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Thứ nhất, về quan hệ sở hữu. Cũng như các khu vực kinh tế khác, một trong những nội dung của quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu các nguồn vốn. Trong khu vực có vốn ĐTNN sở hữu vốn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài. Khi nói về khu vực kinh tế có vốn ĐTNN, trước hết người ta thường nhấn mạnh là nhà đầu tư vốn, có tư bản. Chính điều đó đã hấp dẫn việc thu hút đầu tư nước ngoài. Rõ ràng là, muốn đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư trước hết phải có vốn, có tư bản, nhà đầu tư mới có thể xây dựng được nhà máy, mua sắm trang thiết bị, thuê công nhân tại các nước sở tại để tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên cũng cần phải hiểu thêm, vốn của nhà đầu tư bao gồm không chỉ vốn riêng có của nhà đầu tư nước ngoài mà còn có cả nguồn vốn mà nhà đầu tư vay của các ngân hàng và dân cư ở nước ta. Vấn đề là cần có một môi trường pháp lý để bảo toàn vốn cho chủ sở hữu vốn đó. Thứ hai, về quan hệ quản lý Dù nhà đầu tư nước ngoài hoạt động bằng nguồn vốn tự có hay nguồn vốn đi vay, về mặt pháp lý họ phải chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển 15
- nguồn vốn của mình. Chính vì thế các nhà đầu tư nước ngoài là người chủ hoặc đóng vai trò quan trọng trong công tác điều hành, quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, cùng với việc tách quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn là việc tách rời chủ sở hữu doanh nghiệp với chủ kinh doanh. Ngày càng có nhiều nhà đầu tư thuê giám đốc điều hành hoạt động của doanh nghiệp của mình ở các nước sở tại.Thông qua hoạt động đó nhà kinh doanh vẫn bảo tồn được quyền sở hữu vốn của họ, đồng thời, những giám đốc điều hành, đội ngũ cán bộ quản lý tiếp thu được kỹ năng điều hành sản xuất kinh doanh hiện đại. Thứ ba, về quan hệ phân phối. Phân phối trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, đó là phân phối dựa vào sở hữu và đóng góp các nguồn lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. • Các mối quan hệ cơ bản của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Để hiểu rõ thêm bản chất của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cần thiết phải làm rõ các mỗi quan hệ cơ bản trong hoạt động của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Một là, quan hệ giữa nước chủ nhà với các nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nước ta có những vai trò tích cực và trở thành nhân tố thúc đẩy CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong họat động đầu tư trực tiếp nước ngoài, ta thấy nổi lên mối quan hệ cơ bản, quan trọng- quan hệ giữa nước chủ nhà với nhà đầu tư nước ngoài. Trong mối quan hệ này, các nhà đầu tư là những người chủ sở hữu các nguồn vốn đầu tư và mục đích đầu tư của họ là nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Trái lại, với tư cách là nước chủ nhà, nước nhận đầu tư có quyền xem xét và quyết định cho phép đầu tư 16
- (kể cả ngành nghề, địa bàn đầu tư…) trên đất nước mình và nước chủ nhà có thể dùng luật pháp của mình để điều chỉnh của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đây cho thấy: mối quan hệ giữa nước chủ nhà và nhà đầu tư trong hoạt động kinh tế này là rất bình đẳng và về nguyên tắc không ai có thể dùng ý chí của mình để áp đặt cho các đối tác của mình. Quan hệ giữa nước chủ nhà với các nhà đầu tư nước ngoài còn thể hiện ở mối quan hệ về lợi ích giữa hai bên. Theo đuổi và bằng mọi cố gắng để thu được lợi ích kinh tế cao nhất là mục tiêu đặt ra của cả các bên liên quan đến hoạt động đầu tư. Tuy vậy, trên thực tế một dự án trực tiếp đầu tư nước ngoài chỉ có thể được thực thi khi lợi ích kinh tế được phân chia một cách hợp lý giữa nhà đầu tư nước ngoài và nước chủ nhà - nước nhận đầu tư. Điều này lại phụ thuộc vào việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu với quyền điều hành quản lý sản xuất kinh doanh và phân chia lợi ích cho các bên. Hai là, quan hệ lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quan hệ lao động trước hết là quan hệ giữa giới quản lý, người sử dụng lao động và người lao động, quan hệ giữa chủ sở hữu hay là đại diện của chủ sở hữu với người lao động làm thuê. Mối quan hệ này được thực hiện thông qua hợp đồng lao động giữa mỗi công nhân và người chủ, cũng như hợp đồng lao động tập thể giữa đại diện chủ sở hữu và đại diện người lao động. Theo quan niệm “truyền thống” thì quan hệ giữa chủ (người sử dụng lao động) - thợ (người làm công, làm thuê) là “quan hệ bóc lột”. Song trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thì quan niệm về “quan hệ bóc lột” đã có sự thay đổi và có sự điều chỉnh. Điều này được lý giải bởi bản chất của nhà nước XHCN - Nhà nước của dân, do dân, vì dân - do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, luôn luôn kiên trì mục tiêu, lý tưởng: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng 17
- XHCN, tiến tới xoá bỏ chế độ người bóc lột người. Từ đó, nhà nước có thể sử dụng pháp luật, áp dụng các chính sách, biện pháp cần thiết để hạn chế “sự bóc lột” đến mức có thể chấp nhận được trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa giới quản lý, người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tốt hay xấu, phần lớn tuỳ thuộc vào: - Trình độ tổ chức, quản lý lao động tại doanh nghiệp. - Quyền và trách nhiệm của tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp. - Giải quyết thoả đáng mối quan hệ lợi ích giữa giới quản lý và người lao động (đặc biệt là lợi ích đối với người lao động). Mối quan hệ này còn thể hiện ở chỗ: hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu tối ưu, trong đó “nhân tố con người” giữ vai trò quyết định, vì thế trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng góp phần tích cực vào việc đào tạo một đội ngũ công nhân, chuyên gia có khả năng lao động, tay nghề cao và có tác phong, kỷ luật công nghiệp… làm tăng thêm tiềm lực cho nền kinh tế quốc dân. 1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một loại hình kinh tế mới ở nước ta, các mối quan hệ lợi ích kinh tế trong các doanh nghiệp này có đặc thù riêng, do tính đa dạng về kinh tế, văn hoá và ngôn ngữ trong quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Để làm rõ về mỗi quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp này, trước hết ta cần làm rõ lợi ích kinh tế của từng chủ thể: 18
- 1.2.1. Lợi ích kinh tế của người lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Người lao động bao gồm tất cả những người làm việc với các chủ sử dụng lao động nhằm mục đích lấy tiền và thuộc quyền điều khiển của người chủ trong thời gian làm việc. Người lao động có thể là: cán bộ, nhân viên làm công tác quản lý; những người thợ có chuyên môn tay nghề làm những công việc kỹ thuật; những lao động phổ thông làm những công việc giản đơn không đòi hỏi có khả năng hay qua đào tạo chuyên môn. Người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của lực lượng công nhân lao động nước ta. Cùng với sự tăng nhanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, số lượng người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng lên không ngừng. Tính đến hết năm 2005, đã có khoảng 1 triệu lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [10, tr.153]. Cũng giống như những người lao động Việt Nam khác, người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nhu cầu làm việc và mong muốn được hưởng lợi ích kinh tế xứng đáng với thành quả lao động mà công sức họ đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thể hiện với tư cách là từng cá nhân, đồng thời với tư cách là tập thể thông qua tổ chức công đoàn. Luật Lao động của nước ta đã qui định đầy đủ phương thức hợp đồng lao động giữa đại diện doanh nghiệp và người lao động, cách tính tiền lương và trả lương, bảo hiểm xã hội, quyền và nghĩa vụ của người lao động đối với doanh nghiệp, kể cả quyền được đình công. Người lao động cần có nhận thức đúng lợi ích, quyền lợi và những nghĩa vụ của mình trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, bởi vì thành công của doanh nghiệp cũng đồng 19
- thời là sự đảm bảo thu nhập ngày càng gia tăng và điều kiện làm việc ngày càng được cải thiện đối với họ. - Việc làm ổn định: Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Việc làm là vấn đề mọi người lao động đều quan tâm vì nó là tiền đề để có thu nhập và thông qua công việc người lao động mới có cơ hội bộc lộ tài năng và nâng cao kiến thức. Trong việc làm vấn đề quan trọng đối với người lao động nhất là tính ổn định và phù hợp. Với việc làm ổn định và công việc phù hợp với năng lực, trình độ, sức khoẻ của bản thân là điều kiện để người lao động có cơ hội tăng thu nhập và cải thiện đời sống. Ngược lại việc làm không thường xuyên, công việc không phù hợp sẽ dẫn tới thu nhập của người lao động bấp bênh, đời sống không đảm bảo. Vì vậy việc làm trở thành động lực thúc đẩy người lao động ra sức học tập, nâng cao kỹ năng để có được chỗ làm việc phù hợp với năng lực, đáp ứng với yêu cầu của doanh nghiệp. Nhu cầu được làm việc đã gắn người lao động vào với doanh nghiệp, gắn trách nhiệm của họ với sản phẩm cuối cùng, họ ý thức rõ ràng về hiệu quả công việc và trách nhiệm của mình trước doanh nghiệp. - Thu nhập: Thu nhập là toàn bộ những khoản tiền mà người lao động nhận được từ doanh nghiệp bao gồm tiền lương, tiền thưởng, tiền làm thêm giờ, các loại trợ cấp hay được hưởng một phần lợi nhuận của doanh nghiệp. Tiền lương, tiền công là phần cơ bản nhất trong thu nhập của người lao động, giúp cho họ và gia đình trang trải các chi tiêu, sinh hoạt, dịch vụ cần thiết. Tiền lương, tiền công được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người có sức lao động phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường. 20
- Trong xã hội nói chung và trong nền kinh tế thị trường nói riêng, tiền lương luôn là mối quan tâm hàng đầu của người lao động trong mọi thành phần kinh tế. Người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nước ngoài thực chất là những người làm thuê, vì thế tiền lương của họ thực chất là giá cả sức lao động, nên nó chịu ảnh hưởng bởi quan hệ cung- cầu lao động. Tiền lương là động lực trực tiếp tác động mạnh mẽ, là chất kích thích quan trọng thiết yếu, điều mà người lao động quan tâm đầu tiên khi thoả thuận hợp đồng làm việc. Ngưòi lao động sẽ thấy phấn khởi, thoả mãn khi sức lao động của họ bỏ ra được thù lao xứng đáng, kích thích họ tìm tòi sáng tạo để không ngừng nâng cao năng suất lao động, không ngừng cống hiến để tăng thu nhập, nâng cao đời sống của bản thân và gia đình. Mức lương cụ thể của người lao động được hưởng phụ thuộc vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề và mức độ phức tạp của công việc mà người đó đang đảm nhận, phụ thuộc vào độ dài ngày lao động và cường độ lao động… Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay, những lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao sẽ có nhiều cơ hội có được việc làm với mức thu nhập cao và ngược lại, những lao động giản đơn với tay nghề thấp sẽ khó có thể có được thu nhập cao như mong muốn. Trong từng doanh nghiệp mức lương do hai bên (người lao động và người sử dụng lao động) thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu qủa công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước qui định. Với đặc thù riêng trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, việc qui định mức lương tối thiểu là vấn đề nhạy cảm bởi vì mức lương tối thiểu của người lao động được qui định sao cho vừa đảm bảo mức sống của người lao động vừa khuyến khích được đầu tư. Nếu qui định mức lương tối thiểu 21
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 621 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 350 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 36 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 20 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 19 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 11 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn