BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH 

NNGGUUYYỄỄNN TTÚÚ MMAAII VẤN ĐỀ RỦI RO THANH KHOẢN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FUBRIGHT CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH CÔNG

MÃ SỐ: 60.31.14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS TRẦN THỊ QUẾ GIANG

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử dụng

trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của

tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh tế thành phố

Hồ Chí Minh hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

TP. H ồ Chí Minh, ngày 25 tháng 4 năm 2012

Tác giả luận văn

Nguyễn Tú Mai

ii

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này đã được hoàn thành bằng sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ quý báu của Tiến

sĩ Trần Thị Quế Giang. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc vì sự đóng góp ý kiến và hướng

dẫn tận tình của Cô. Trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô đã truyền cho tôi những kiến thức và

phương pháp học tập tốt nhất để tôi có thể thực hiện các nghiên cứu của mình. Cũng xin gửi

lời cảm ơn tới các cán bộ, các anh chị và các bạn học viên đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian

qua để tôi có thể vượt qua những khó khăn thử thách.

Tác giả luận văn

Nguyễn Tú Mai

iii

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

Tính kém thanh khoản ở một số ngân hàng đơn lẻ có thể gây ra những ảnh hưởng xấu đến cả

hệ thống ngân hàng. Trong những năm gần đây, căng thẳng về thanh khoản của hệ thống ngân

hàng Việt Nam được biểu hiện rõ qua các cuộc đua lãi suất của các ngân hàng thương mại

trong giai đoạn 2008 – 2011 để huy động vốn từ khu vực dân cư và trên thị trường liên ngân

hàng. Một hệ quả kéo theo đó là sự khó khăn của các ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu

vốn cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng như toàn bộ nền kinh tế.

Giai đoạn 2006 – 2010, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng thương

mại phát triển với đặc điểm là nhiều ngân hàng qui mô nhỏ, tín dụng tăng trưởng với tốc độ

cao do đó tiềm ẩn rủi ro nợ xấu và sự sở hữu vốn chồng chéo tồn tại ở nhiều ngân hàng. Dựa

trên đánh giá hoạt động quản lý rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong

giai đoạn 2008 – 2011, nghiên cứu đã chỉ ra rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém thanh

khoản của các ngân hàng trước hết là do sự bất cập trong chính sách vĩ mô. Giai đoạn 2006 –

2010, các chính sách vĩ mô được nới lỏng nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP từ 7,5% –

8%/năm, trong khi đó sự phối hợp không nhất quán giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài

khóa đã làm tăng áp lực thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Để ổn định thị trường tiền tệ,

Ngân hàng nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp can thiệp, tuy nhiên do các công cụ mang

tính hành chính đã làm cho thanh khoản của một số ngân hàng càng khó khăn hơn. Ngoài ra,

quản lý thanh khoản của bản thân các Ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập, do đó không

đối phó được với các vấn đề về thanh khoản.

Trên cơ sở phân tích thực trạng của hệ thống ngân hàng, xác định các nguyên nhân ảnh hưởng

tới rủi ro thanh khoản, nghiên cứu đề xuất các chính sách đối với chính phủ để tăng cường sự

phối hợp nhất quán giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ phù hợp với mục tiêu tăng

trưởng. Đối với Ngân hàng nhà nước cần tăng cường việc sử dụng công cụ thị trường, làm

lành mạnh hệ thống ngân hàng bằng việc loại bỏ sở hữu chéo, đồng thời phân loại các ngân

hàng yếu kém về thanh khoản, minh bạch thông tin trong hoạt động ngân hàng để có các chính

sách giám sát thích hợp. Sau cùng giải pháp đối với ngân hàng thương mại là nâng cao chất

lượng quản lý tài sản để đảm bảo mục tiêu hoạt động an toàn và hiệu quả.

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN............................................................................................................................. ii

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU........................................................................................................ iii

MỤC LỤC ................................................................................................................................. iv

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................... vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU ..................................................................................................... viii

DANH MỤC HÌNH................................................................................................................... ix

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU......................................................................................................... 1

1.1 Bối cảnh nghiên cứu..................................................................................................... 1

1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu ................................................................................... 2

1.3 Phương pháp, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................. 3

1.4 Kết cấu của nghiên cứu ................................................................................................ 4

CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT RỦI RO THANH KHOẢN NGÂN HÀNG.................................. 5

2.1 Thanh khoản của ngân hàng......................................................................................... 5

2.1.1 Khái niệm tính thanh khoản.................................................................................. 5

2.1.2 Đo lường thanh khoản .......................................................................................... 5

2.2 Rủi ro thanh khoản trong hệ thống ngân hàng ............................................................. 7

2.2.1 Khái niệm rủi ro thanh khoản ............................................................................... 7

2.2.2 Hệ quả của mất thanh khoản trong hệ thống ngân hàng....................................... 8

2.2.3 Quản lý rủi ro thanh khoản ................................................................................... 9

2.3 Các nghiên cứu về thanh khoản hệ thống ngân hàng................................................. 10

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG THANH KHOẢN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ............................................................................................................................... 12

3.1 Sơ lược về hệ thống Ngân hàng Việt Nam ................................................................ 12

3.2 Tình trạng thanh khoản của hệ thống NHTM ............................................................ 15

3.2.1 Các NHTM đua tăng lãi suất huy động vốn ....................................................... 15

3.2.2 Các ngân hàng khó đáp ứng nhu cầu vay vốn .................................................... 17

3.2.3 Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng cao ................................................ 18

v

3.3 Hoạt động quản lý thanh khoản của các NHTM........................................................ 19

3.3.1 Tài sản thanh khoản chiếm tỷ lệ thấp ................................................................. 20

3.3.2 Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao......................................................................... 22

3.3.3 Tỷ lệ cho vay so với nguồn vốn huy động cao ................................................... 23

3.3.4 Vốn huy động từ khu vực dân cư chiếm tỷ trọng thấp ....................................... 25

3.3.5 Mức độ phụ thuộc vào thị trường LNH .............................................................. 26

3.3.6 Nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn...................... 27

CHƯƠNG 4. NGUYÊN NHÂN RỦI RO THANH KHOẢN NGÂN HÀNG......................... 30

4.1 Rủi ro do chính sách kinh tế vĩ mô ............................................................................ 30

4.2 Rủi ro do hạn chế trong hoạt động giám sát của NHNN ........................................... 32

4.3 Rủi ro do bất cập trong hoạt động quản lý thanh khoản của các NHTM................... 34

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ........................................... 36

5.1 Kết luận ...................................................................................................................... 36

5.2 Khuyến nghị chính sách ............................................................................................. 38

5.2.1 Đối với chính phủ và NHNN .............................................................................. 38

5.2.2 Đối với các NHTM ............................................................................................. 39

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 41

vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ngân hàng TMCP An Bình ABB

Ngân hàng TMCP Á Châu ACB

Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển BIDV

Ngân hàng TMCP Bảo Việt BVB

Doanh nghiệp DN

Ngân hàng TMCP Đại Á Đại Á

Ngân hàng TMCP Xuất Nhập khẩu (Eximbank) EIB

GP bank Ngân hàng TMCP Dầu Khí toàn cầu

Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội HBB

Ngân hàng TMCP Phát triển TP HCM HDB

Liên ngân hàng LNH

Ngân hàng TMCP Hàng hải MSB

Ngân hàng TMCP Quân đội MB

Ngân hàng TMCP Phát triển Mêkông MDB

NH TMCP Ngân hàng thương mại cổ phần

Ngân hàng liên doanh NHLD

Ngân hàng nhà nước NHNN

Ngân hàng nước ngoài NHNNg

Ngân hàng thương mại NHTM

NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước

Ngân hàng TMCP Nam Việt NVB

Ngân hàng TMCP Phương Đông OCB

OceanBank Ngân hàng TMCP Đại Dương

Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex PGB

SeAbank Ngân hàng TMCP Đông Nam Á

Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương SGB

vii

SHB Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội

STB Ngân hàng TMCP Sài Gòn thương tín

TCB Ngân hàng TMCP Kỹ thương

TCTD Tổ chức tín dụng

TPCP Trái phiếu Chính phủ

VCB Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

VIB Ngân hàng TMCP Quốc tế

Vietinbank Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam

Westernbank Ngân hàng TMCP Phương Tây

viii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Trang

Bảng 3.1: Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM năm 2010 – 2011 14

Bảng 3.2: Chỉ số tài sản thanh khoản của các NHTM năm 2011 21

Bảng 3.3: Tốc độ tăng trưởng dư nợ các NHTM giai đoạn 2009 – 2011 22

Bảng 3.4: Tỷ lệ cho vay so với huy động vốn của các NHTM 24

Bảng 3.5: Tỷ lệ tiền gửi so với vay trên thị trường LNH năm 2011 27

Bảng 3.6: Lãi suất áp dụng tại một số NHTM tháng 9/2011 28

Bảng 3.7: Lãi suất huy động không kỳ hạn tháng 3/2011 áp dụng tại một số NHTM 29

Bảng 4.1: Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa giai đoạn 2006 - 2011 30

ix

DANH MỤC HÌNH

Trang

Hình 3.1: Số lượng các ngân hàng trong hệ thống giai đoạn 2001 – 2011 12

Hình 3.2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống NH giai đoạn 2004 – 2011 13

Hình 3.3: Lãi suất trên thị trường LNH năm 2011 18

Hình 3.4: Tỷ lệ nắm giữ TPCP so với Tổng tài sản có của các NHTM năm 2011 21

Hình 3.5: Tốc độ tăng trưởng huy động vốn và cho vay của NHTM năm 2011 23

Hình 3.6: Tỷ lệ huy động tiền gửi từ khách hàng so với tổng vốn huy động của các 25

NHTM giai đoạn 2008 – 2011

1

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU

1.1 Bối cảnh nghiên cứu

Thanh khoản của ngân hàng được hiểu là khả năng đáp ứng nguồn vốn cho việc tăng tài sản có

và thanh toán các khoản nợ khi đến hạn, do đó thanh khoản được xem là yếu tố quan trọng đối

với sự an toàn trong hoạt động của một ngân hàng cũng như sự phát triển lành mạnh của cả hệ

thống. Khi một ngân hàng (NH) không có khả năng đáp ứng các nhu cầu thanh toán tại một

thời điểm nào đó hoặc phải huy động nguồn vốn với chi phí cao, rủi ro thanh khoản sẽ xảy ra

và khi đó việc sụt giảm khả năng thanh khoản của NH sẽ có ảnh hưởng đến cả hệ thống. Chính

vì vậy quản lý rủi ro thanh khoản có một vai trò quan trọng đảm bảo sự ổn định cho từng NH

riêng lẻ và cho toàn bộ hệ thống tài chính.

Nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng cao từ 7,5% –

8%/năm, các chính sách vĩ mô được nới lỏng nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP, trong

khi đó sự phối hợp không nhất quán giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã làm tăng

áp lực thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Để ổn định thị trường tiền tệ, Ngân hàng nhà

nước đã thực hiện nhiều biện pháp can thiệp, tuy nhiên do các công cụ mang tính hành chính

đã làm cho thanh khoản của một số ngân hàng càng khó khăn hơn. Nói riêng đối với hệ thống

ngân hàng trong giai đoạn 2008 – 2011, rủi ro thanh khoản đang là vấn đề ảnh hưởng nghiêm

trọng đến thị trường tài chính, đồng thời cản trở việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân

hàng nhà nước (NHNN). Hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay đã có sự gia tăng nhanh về số

lượng, mạng lưới các NH được mở rộng với hơn 100 NHTM và các Chi nhánh NH nước ngoài

(NHNNg). Tuy nhiên, sự phát triển chủ yếu là mở rộng về số lượng trong khi một số ngân

hàng thương mại cổ phần (NH TMCP) không được nâng cao về chất lượng dịch vụ cũng như

chưa quan tâm tốt đến vấn đề quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro thanh khoản. Theo đánh giá của

Moody’s phát hành năm 2011, một trong những thách thức của NH Việt Nam đó là đảm bảo thanh khoản trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng quá nhanh trong quá khứ1. Hoạt động trên thị

1 Thủy Triều (2011)

trường tiền tệ các năm 2008 – 2011 đã có nhiều biểu hiện căng thẳng về thanh khoản, điển

2

hình là các cuộc đua lãi suất của các NHTM đã làm cho lãi suất huy động và cho vay trên thị

trường tăng cao. Năm 2011 các doanh nghiệp VN khó tiếp cận được vốn NH hoặc phải chịu chi phí vốn cao gấp 3 – 4 lần so với các nước trong khu vực2. Trong khi đó, thị trường liên

ngân hàng (LNH) tăng cao cả về lãi suất và doanh số hoạt động. Một số NHTM đã gặp khó

khăn về thanh khoản, cụ thể là vào tháng 12/2011, NHNN đã phải hỗ trợ cho 3 NHTM mất

thanh khoản tạm thời là NHTMCP Tín Nghĩa, NH TMCP Sài Gòn, NHTMCP Đệ Nhất, và

thực hiện sáp nhập để đảm bảo an toàn cho hệ thống.

Đằng sau những yếu kém trong việc quản lý thanh khoản của các NHTM tiềm ẩn nguy cơ xảy

ra rủi ro thanh khoản đối với hệ thống NH, đồng thời làm cản trở tác động của chính sách tiền

tệ. Do đó để đảm bảo cho hệ thống NH lành mạnh và phát triển ổn định, cần thiết phải xem xét

vấn đề quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM cũng như hoạt động quản lý giám sát của

NHNN để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các NHTM.

1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

Xuất phát từ thực tiễn, đề tài: “Vấn đề rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt

Nam” được thực hiện nhằm đưa ra các giải pháp chính sách đảm bảo thanh khoản cho hệ

thống NH. Qua những phân tích về rủi ro thanh khoản trong NH, nghiên cứu sẽ tìm ra những

nguyên nhân gây rủi ro thanh khoản cho hệ thống NH Việt Nam, bao gồm cả các yếu tố bên

trong hoạt động quản lý nội bộ của NHTM và các yếu tố chính sách có thể ảnh hưởng đến

thanh khoản NH.

Nghiên cứu chính sách sẽ tập trung vào trả lời câu hỏi:

1. Rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam xuất phát từ những nguyên

nhân nào?

2. Cần có giải pháp chính sách nào để hạn chế rủi ro thanh khoản đối với hệ thống

2 Phỏng vấn TS. Vũ Thành Tự Anh ( Bạch Hường, 2011)

ngân hàng?

3

Để đạt được mục đích nghiên cứu, các nội dung phân tích sẽ bao gồm (i) xem xét đánh giá vấn

đề thanh khoản của hệ thống NH hiện tại và hoạt động giám sát của NHNN đối với vấn đề

thanh khoản; (ii) xác định những nguyên nhân ảnh hưởng đến thanh khoản của NH bao gồm

các yếu tố bên trong hoạt động quản lý tài sản và các yếu tố bên ngoài có thể dẫn tới rủi ro về

thanh khoản; (iii) tìm các giải pháp chính sách để hạn chế rủi ro thanh khoản có thể xảy ra.

1.3 Phương pháp, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu thực hiện các phân tích đánh giá dựa trên thông tin về hoạt động của NHNN và

các NHTMVN trong giai đoạn 2008 - 2011, là giai đoạn có những biểu hiện căng thẳng về

thanh khoản. Số liệu thu thập thông qua hệ thống Báo cáo thường niên và các Báo cáo tài

chính đã được kiểm toán của các NHTM, Báo cáo thường niên và Báo cáo kết quả hoạt động

thường kỳ của NHNN trên các lĩnh vực hoạt động tín dụng, thị trường LNH trong giai đoạn

2008 đến nay. Nguồn số liệu tổng hợp của các tổ chức đánh giá, báo cáo ngành NH hàng năm

của công ty chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương (VCBS), số liệu phân tích từ Bộ phận quản

lý rủi ro của các NHTM cũng được sử dụng để phân tích. Ngoài ra nghiên cứu còn thực hiện

tham khảo ý kiến chuyên gia tài chính trong vấn đề thanh khoản của hệ thống NHTM VN để

làm tư liệu cho việc phân tích đánh giá.

Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu là phương pháp định tính dựa trên việc thống kê

mô tả số liệu có được từ các nguồn thông tin đáng tin cậy.

Nghiên cứu sẽ đi từ việc phân tích thực trạng quản lý thanh khoản của hệ thống NHTM Việt

Nam để chỉ ra sự bất ổn vĩ mô do hệ quả của rủi ro thanh khoản trong NH đem lại. Dựa trên cơ

sở đó NHNN cần thiết phải có các chính sách can thiệp để giải quyết các vấn đề thanh khoản

của hệ thống NH. Mặt khác nghiên cứu cũng thực hiện việc đánh giá các tác động từ chính

sách đó đối với tính thanh khoản của các NHTM, để thấy được những thất bại về mặt chính

sách của nhà nước là nguyên nhân của tình trạng thanh khoản NH hiện nay. Qua việc xem xét

đánh giá, nghiên cứu sẽ đưa ra những kết luận về sự thay đổi chính sách cần phải có để đảm

bảo sự ổn định cho hệ thống NH và thị trường tiền tệ.

4

1.4 Kết cấu của nghiên cứu

Nội dung nghiên cứu ngoài phần thứ nhất (Chương 1) giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên

cứu, bao gồm 4 phần chính. Chương 2 đề cập đến khái niệm và các vấn đề lý thuyết về rủi ro

thanh khoản, cách đo lường thanh khoản cũng như khung chính sách quản lý thanh khoản của

một NHTM. Tiếp đó, Chương 3 sẽ khái quát thực trạng thanh khoản của hệ thống NHVN,

trong đó phân tích những biểu hiện rủi ro thanh khoản của hệ thống NHTM VN, và đánh giá

hoạt động quản lý của NHNN trong vai trò giám sát việc quản lý thanh khoản. Chương 4 xác

định các nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản của hệ thống NHTM VN bao gồm các

yếu tố xuất phát từ bối cảnh vĩ mô, từ hoạt động giám sát của NHNN và việc xây dựng chính

sách quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM. Trên cơ sở các phân tích đánh giá ở các phần

trước, Chương 5 sẽ đưa ra các kết luận và kiến nghị các nhóm giải pháp chính sách nhằm đảm

bảo thanh khoản cho hệ thống NH.

5

CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT RỦI RO THANH KHOẢN NGÂN HÀNG

2.1 Thanh khoản của ngân hàng

2.1.1 Khái niệm tính thanh khoản

Theo định nghĩa của Ủy ban Basel về giám sát NH: “Thanh khoản của ngân hàng là khả năng

của ngân hàng đó để tăng thêm tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ nợ khi đến hạn mà không bị thiệt hại quá mức”3. Như vậy thanh khoản của một NH liên quan đến tiền mặt và các dòng lưu

chuyển tiền tệ để thực hiện các nghĩa vụ thanh toán tại một thời điểm. Cụ thể hơn thanh khoản

của một NH có thể được định nghĩa là: “Thanh khoản đại diện cho khả năng thực hiện tất cả các nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn đến mức tối đa bằng đơn vị tiền tệ được quy định”4. Theo

đó, việc không thực hiện được các nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến thiếu khả năng hoặc mất

thanh khoản của một NH. Một NH có thanh khoản tốt nếu như NH đó nắm giữ nhiều tài sản

thanh khoản, dễ dàng chuyển sang tiền mặt hoặc có khả năng huy động thêm nguồn vốn với

thời gian và chi phí thấp để đáp ứng nhu cầu về vốn khi cần thiết.

Tính thanh khoản có sự khác biệt với khả năng thanh toán của NHTM đó là tính chất thời

điểm. NH vẫn còn khả năng thanh toán trong điều kiện có vốn để trang trải các khoản chi phí.

Tuy nhiên, nếu không có khả năng thanh toán các khoản nợ vào thời điểm đến hạn thì NH sẽ

rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản. Như vậy, một NH có thể mất thanh khoản trong khi vẫn

có khả năng thanh toán, hay nói cách khác vốn là điều kiện cần nhưng chưa đủ để một NH

đảm bảo khả năng thanh khoản.

2.1.2 Đo lường thanh khoản

Theo lý thuyết về quản trị NHTM của Peter S.Rose, trạng thái thanh khoản của NH được xác

định thông qua mô hình cung – cầu về thanh khoản. Đối với các NH, cầu về thanh khoản gồm

các yêu cầu chính về vốn để đáp ứng khi khách hàng rút tiền ra khỏi NH và các khách hàng

3 Basel (2008) 4 R.Duttweiler (2009)

muốn vay vốn từ NH. Nguồn vốn mà các NH có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu về thanh

6

khoản là từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản vay trên thị trường LNH. Trong

trường hợp nguồn cung thanh khoản không đủ để đáp ứng nhu cầu, NH sẽ rơi vào trạng thái thiếu hụt về thanh khoản và phải tìm cách huy động để bổ sung vốn thanh khoản5. Để đảm bảo

khả năng chi trả tức thời tại mọi thời điểm, các ngân hàng phải giám sát hàng ngày dự trữ

thanh khoản của mình. Dự trữ thanh khoản bao gồm cả dự trữ sơ cấp bằng tiền (tiền mặt tại

quỹ, tiền gửi NHNN, tiền gửi các tổ chức tín dụng khác) và dự trữ thứ cấp (giấy tờ có giá có

đủ điều kiện để tái cấp vốn hoặc tái chiết khấu, hạn mức tín dụng được cấp bởi tổ chức tài

chính khác…). Đồng thời các NH cần xây dựng chính sách quản lý tài sản để đảm bảo duy trì

nguồn vốn ổn định và có tính thanh khoản cao trong dài hạn.

Theo bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF đã được nhiều nước áp dụng, các chỉ số đánh giá

sự lành mạnh về thanh khoản của NH bao gồm:

Chỉ số tài sản thanh khoản trên tổng tài sản – hệ số tài sản thanh khoản (Liquid assets to total

asset – Liquid asset ratio): đo lường mức thanh khoản của NH cho biết khả năng đáp ứng nhu

cầu rút tiền mặt theo dự tính và bất thường của khách hàng.

Tài sản thanh khoản trên nguồn vốn ngắn hạn (Liquid asets to shortterm liabilities): cho biết

khả năng đáp ứng việc rút vốn ngắn hạn của khách hàng mà không ảnh hưởng đến thanh

khoản của NH.

Tổng tiền gửi của khách hàng so với tổng dư nợ (Customer deposit to total (noninterbank)

loans): dùng để phát hiện những vấn đề thanh khoản, tỷ lệ này thấp cho thấy nguy cơ căng

thẳng trong hệ thống NH và có thể là dấu hiệu dẫn đến sự suy giảm niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống NH.

Chênh lệch giữa lãi suất LNH cao nhất và thấp nhất (Spead between hihgest and lowest

5 Peter S.Rose (2004) 6 Bộ chỉ số lành mạnh tài chính theo tiêu chuẩn IMF (NHNN, 2011)

interbank rate): Để đánh giá các vấn đề thanh khoản và rủi ro của hệ thống NH, nếu chênh lệch càng lớn cho thấy một vài NH đang gặp vấn đề về thanh khoản6.

7

2.2 Rủi ro thanh khoản trong hệ thống ngân hàng

2.2.1 Khái niệm rủi ro thanh khoản

Theo A.Vento, rủi ro thanh khoản là một loại rủi ro của NH khi NH không có đủ các nguồn tài

chính để thanh toán các nghĩa vụ nợ vào thời điểm đến hạn, hoặc là phải sử dụng những nguồn tài chính với chi phí cao mặc dù NH vẫn có khả năng thanh toán7.

Như vậy, rủi ro thanh khoản sẽ xảy ra khi NH không có đủ lượng tiền mặt để đáp ứng các nhu

cầu tức thì về vốn để đáp ứng các nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam

kết với khách hàng. Trong trường hợp đó, các NH sẽ phải tăng vốn bằng cách chuyển đổi tài

sản sang tiền mặt, hoặc vay mượn trên thị trường để có đủ vốn thực hiện các yêu cầu thanh

toán, do vậy NH có thể rơi vào tình trạng thiếu vốn thanh toán hoặc phải chịu mức chi phí cao

để vay được vốn.

Hoạt động của các NH thực chất là sử dụng các khoản vốn huy động với thời hạn ngắn để cho

vay với kỳ hạn dài hơn nên luôn có sự chênh lệch về kỳ hạn của dòng vốn, do vậy mà rủi ro

thanh khoản luôn luôn tiềm ẩn đối với các NH và có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào. Mặt

khác, các loại rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường đều

có ảnh hưởng đến trạng thái thanh khoản của NH và khi một trong các loại rủi ro xảy ra đều

kéo theo rủi ro thanh khoản.

Tình trạng kém thanh khoản của các NH có thể xuất phát từ phía tài sản nợ do sự sụt giảm về

nguồn vốn huy động, hoặc từ phía tài sản có do các khoản nợ xấu không thu hồi được, từ đó

ảnh hưởng lan truyền đến cả hệ thống NH làm cho thị trường tiền tệ bị bóp méo và và gây ra

những trục trặc đối với toàn bộ nền kinh tế. Trên thị trường tiền tệ, tình trạng kém thanh khoản

của hệ thống NH được biểu hiện ở việc tăng lãi suất để huy động vốn do đó lãi suất thị trường

luôn ở mức cao. Mặt khác, do thiếu thanh khoản các NH đều có xu hướng cắt giảm cho vay,

làm cho khách hàng rất khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng NH hoặc nếu có thì phải chịu

mức lãi suất vay cao. Tình trạng thiếu thanh khoản khiến cho các NH phải tăng cường vay

mượn trên thị trường LNH, trong khi đó các NH khác không muốn cho vay đối với các NH có

7 A.Vento (2009)

vấn đề, hoặc đòi hỏi mức lãi suất cao đi kèm với các yêu cầu về đảm bảo tài sản. Tình trạng đó

8

gây ra những trục trặc trên thị trường LNH, lãi suất LNH tăng cao đồng thời dòng vốn không

lưu thông thông suốt do đó các NH càng thêm khó khăn trong việc cải thiện thanh khoản.

2.2.2 Hệ quả của mất thanh khoản trong hệ thống ngân hàng

Hệ thống NHTM đóng vai trò cơ bản như là người tạo thanh khoản cho nền kinh tế thông qua

các hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi, cho vay, và nhiều hoạt động tài chính khác, do đó rủi

ro thanh khoản của một NH sẽ có ảnh hưởng đến cả hệ thống và toàn bộ nền kinh tế. Theo

R.Duttweiler, “rủi ro thanh khoản là nguy cơ không thể thực hiện được các nghĩa vụ thanh

toán, theo đó việc không thể thực hiện được này sẽ kéo theo những hậu quả không mong muốn”8. Rủi ro thanh khoản có thể dẫn đến phá sản NH tại một thời điểm mặc dù khả năng tài

chính của NH đó vẫn đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận. Do vậy xảy ra tình trạng thiếu khả

năng thanh khoản được xem là loại rủi ro nghiêm trọng nhất đối với các NH.

Rủi ro thanh khoản có thể làm cho các NH thiếu hụt tạm thời về thanh khoản, khi đó các NH

phải tìm các nguồn bổ sung thanh khoản bằng cách vay mượn từ các NH khác hoặc vay

NHTW để giải quyết các nhu cầu đột biến về vốn. Nghiên cứu về rủi ro của hệ thống NH cho

thấy, tình trạng thiếu hụt tạm thời về thanh khoản có thể dẫn đến thanh khoản của NH nhanh

chóng cạn kiệt và NH sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả. Khi đó, việc hỗ trợ thanh

khoản của NHTW cho các NH này sẽ làm tăng thêm rủi ro hệ thống và tăng chi phí cứu trợ.

Đối với một NH, rủi ro thanh khoản có nguy cơ làm giảm uy tín của NH đó và đặc biệt

nghiêm trọng khi các thông tin bị rò rỉ ra bên ngoài. Do bất cân xứng thông tin trong các giao

dịch giữa khách hàng và NH, khi các biểu hiện thiếu thanh khoản xuất hiện sẽ nhanh chóng

dẫn đến hiện tượng khách hàng rút tiền hàng loạt để bảo toàn vốn. Điều này làm cho các NH

trở nên cạn kiệt về thanh khoản, và thậm chí buộc phải đóng cửa.

Trong trường hợp xảy ra rủi ro thanh khoản, các NH thường lựa chọn các giải pháp hoặc là

nâng mức lãi suất cao để huy động thêm vốn, hoặc thu hồi hoặc hạn chế bớt các khoản cho

vay mới, hoặc bán tài sản để chuyển sang tiền mặt. Tuy nhiên, khi các NH đều cố gắng sử

8 R.Duttweiler (2009)

dụng các giải pháp cùng lúc với nhau sẽ không đạt được hiệu quả, chẳng hạn như việc thắt

9

chặt tín dụng, hoặc bán các loại tài sản thế chấp để thu hồi nợ sẽ làm tài sản bị giảm giá do đó

càng làm tăng rủi ro tín dụng và tình trạng căng thẳng thanh khoản sẽ lan rộng ra thị trường.

Rủi ro thanh khoản của NH có hiệu ứng lan truyền và gây đổ vỡ trong toàn hệ thống do các

NH thường thực hiện các khoản vay mượn lẫn nhau. Khi một NH không đủ khả năng chi trả

các khoản vay nợ, sẽ làm ảnh hưởng đến các NH khác và từ đó kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ

hệ thống.

2.2.3 Quản lý rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản luôn luôn tồn tại trong hoạt động NH, đòi hỏi các NH phải đánh đổi giữa

việc đảm bảo khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời. Do đó việc quản lý thanh khoản phải

được thực hiện thường xuyên để đảm bảo cân bằng giữa hai mục tiêu an toàn và hiệu quả.

Theo thông lệ tốt nhất về quản lý khả năng thanh khoản của các NH, chính sách thanh khoản

cần được xây dựng bởi các nhà quản lý ở cấp cao nhất (Basel, 2000), trong đó xác định trạng

thái thanh khoản thông qua các chỉ số phản ánh mức thanh khoản của từng NH.

Ngoài ra, để duy trì nguồn vốn ổn định, chính sách thanh khoản cần đảm bảo qui mô, cấu trúc

của nguồn vốn và sự đa dạng các loại vốn huy động. Qui mô nguồn vốn lớn sẽ tạo cho các NH

có thể dễ dàng đối phó với những biến động trong hoạt động huy động vốn và thực hiện cho

vay một cách an toàn. Cấu trúc của nguồn vốn huy động phân theo kỳ hạn, đối tượng khách

hàng gửi tiền, hay các hình thức huy động khác nhau sẽ là yếu tố quyết định sự bền vững của

nguồn vốn và có ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản của các NH. Thông thường, dựa vào các

đối tượng khách hàng gửi tiền hoặc hình thức huy động, các NH có thể dự báo được biến động

của nguồn vốn huy động. Đối với các khoản tiền gửi huy động từ khách hàng cá nhân thường

dễ biến động hơn so với nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp, hoặc huy động vốn tập

trung một vào một vài khách hàng sẽ làm nguồn vốn bị sụt giảm mạnh khi khách hàng đó rút

tiền. Do đó các NH cần có sự đa dạng về nguồn vốn huy động từ dân cư để đáp ứng tốt hơn

nhu cầu về thanh khoản.

Mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn vay trên thị trường LNH cũng là yếu tố quan trọng trong

chính sách thanh khoản của NH quyết định khả năng vay mượn của các NH để bù đắp thiếu

hụt thanh khoản tạm thời. Tuy nhiên, khả năng vay mượn sẽ thay đổi qua các giai đoạn, các

10

NH gặp vấn đề về thanh khoản sẽ khó tiếp cận vốn hoặc là phải chịu mức lãi suất cao, do đó

càng làm căng thẳng thêm tình trạng thanh khoản.

Theo khung phân tích về rủi ro hoạt động ngân hàng “quản lý thanh khoản liên quan đến các yếu tố thị trường nhiều hơn là các quy định về đảm bảo khả năng thanh khoản”9. Do đó, ngoài

việc đo lường và quản lý các yêu cầu về vốn, để đối phó với các vấn đề về thanh khoản đòi hỏi

các nhà quản lý rủi ro phải thực hiện việc đánh giá thị trường, dự báo các trường hợp có thể

xảy ra sự suy giảm về thanh khoản, xây dựng kịch bản đối phó trong tình huống xảy ra khủng

hoảng.

Hơn nữa, thanh khoản NH có ảnh hưởng vượt ra khỏi phạm vi của một NH, do đó quản lý

thanh khoản đòi hỏi phải có sự giám sát thường xuyên của Ngân hàng trung ương (NHTW).

Vai trò quan trọng của các cơ quan giám sát thể hiện trong việc kiểm tra tính tuân thủ các

nguyên tắc quản lý rủi ro, đồng thời đánh giá hiệu quả của chính sách đo lường, theo dõi rủi ro

thanh khoản của các NHTM. Trên cơ sở thu thập thông tin đầy đủ và kịp thời, cơ quan giám

sát cần đánh giá mức độ rủi ro của từng NH để có các chính sách phù hợp, ngăn ngừa sự suy

giảm khả năng thanh khoản có thể lan truyền tới cả hệ thống.

2.3 Các nghiên cứu về thanh khoản hệ thống ngân hàng

Ủy ban Basel đã đưa ra Thông lệ tốt nhất về quản lý khả năng thanh khoản của các NH bao

gồm các nguyên tắc đối với công tác quản lý thanh khoản của NH. Trước hết, việc xây dựng

cơ cấu cho việc quản lý thanh hoản cần được thực hiện ở cấp quản lý cao nhất của một NH.

Đối với việc phân tích khả năng thanh khoản của NH đòi hỏi phải đo lường một cách liên tục

các chỉ số đảm bảo thanh khoản đồng thời xem xét khả năng thanh khoản trong nhiều tình

huống khác nhau. Đối với các cơ quan giám sát, cần thực hiện việc đánh giá các chính sách

liên quan đến thanh khoản của các NH một cách độc lập.

A.Vento (2009) đã thực hiện phân tích các kỹ thuật quản lý và giám sát thanh khoản tại một số

nước Châu Âu để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý và giám sát thanh khoản

NH. Nghiên cứu cũng chứng tỏ rằng không có một công cụ đầy đủ và chính xác để chống lại

9 Hennie & Sonja (2009)

rủi ro thanh khoản nhưng các yếu tố cơ bản không thể thiếu đối với các NH là phải có những

11

nguyên tắc quản trị rõ ràng để xây dựng một chiến lược về quản lý rủi ro thanh khoản, áp dụng

các phương thức đánh giá vị trí thanh khoản thường xuyên và các kế hoạch về thanh khoản

cần được xây dựng trong cả trường hợp khủng hoảng. Đối với vấn đề thanh khoản, các NH có

mức độ vốn hóa càng cao thì chắc chắn sẽ dễ dàng tăng vốn thông qua thị trường LNH, tuy

nhiên, đó cũng chưa hẳn là giải pháp tối ưu khi các NH phải đối mặt việc thanh khoản bị cạn

kiệt. Nghiên cứu này cũng đánh giá cao vai trò của các tổ chức đánh giá xếp hạng trong việc

cung cấp thông tin và đưa ra những cảnh báo cho thị trường tài chính.

V.Acharya và các đồng tác giả (2009) trong một nghiên cứu bằng mô hình về những tác động

do các chính sách can thiệp của chính phủ đến sự lựa chọn mức thanh khoản của các NH đã

chỉ ra rằng, chính sách hỗ trợ vô điều kiện của chính phủ về thanh khoản cho các NH yếu kém

sẽ làm giảm sự khuyến khích các NH nắm giữ tài sản thanh khoản.

Một nghiên cứu khác của Shen (2009) đã sử dụng mô hình định lượng cho 12 nước trong giai

đoạn 1994 – 2006 để tìm nguyên nhân của rủi ro thanh khoản. Trong đó, các nguyên nhân

chính bao gồm các yếu tố đặc thù của từng NH, các yếu tố liên quan đến hoạt động giám sát

và các yếu tố chính sách vĩ mô.

Các nghiên cứu về vấn đề thanh khoản của hệ thống NH VN đã được thực hiện chủ yếu tập

trung vào khía cạnh quản trị rủi ro trong nội bộ NH. Nguyễn Duy Sinh (2009) đã đưa ra những

đặc điểm của hoạt động quản lý thanh khoản trong các NHTM thông qua phương pháp tiếp

cận các chỉ số đảm bảo khả năng thanh toán để đưa ra đánh giá chung về sự yếu kém trong

quản lý rủi ro thanh khoản tại các NHTM.

Nghiên cứu về tăng cường vai trò của tính thanh khoản trong ổn định hệ thống tài chính, nhóm

nghiên cứu của trường ĐH Kinh tế TP HCM (2010) đã khái quát thực trạng thanh khoản và

các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của cả hệ thống tài chính. Trong đó đã chỉ ra việc quản

lý thanh khoản của khu vực NH chưa đáp ứng được những thay đổi của thị trường là do các

NH đã đánh giá thấp vai trò của quản lý thanh khoản và do năng lực quản lý yếu kém của bản

thân các NH.

12

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG THANH KHOẢN HỆ THỐNG

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

3.1 Sơ lược về hệ thống Ngân hàng Việt Nam

Trong quá trình đổi mới và hội nhập, hệ thống NHTM Việt Nam đã có nhiều thay đổi cả về số

lượng và chất lượng. Số lượng các NH gia tăng, mạng lưới các chi nhánh và phòng giao dịch

được mở rộng, đồng thời các NH phát trển đa dạng về hình thức sở hữu. Theo số liệu thống kê

của NHNN, năm 2006 cả hệ thống có 78 NH đến năm 2011 đã tăng lên 94 NH gồm 5 NHTM

của nhà nước (NHTMNN) (4 NHTMNN đã được cổ phần hóa nhưng vốn nhà nước vẫn chiếm

đa số), 35 NH TMCP, 50 Chi nhánh NH nước ngoài (NHNNg) và 4 NH liên doanh (NHLD)

(Hình 3.1).

Hình 3.1: Số lượng các ngân hàng trong hệ thống giai đoạn 2001 – 2011

2011 5 35 50 4

2010 5 37 53 5

2009 5 39 45 5

2008 5 40 44 5

2007 5 34 41 5

2006 5 37 31 5

5 2005 37 29 4

5 2001 39 26 4

0 20 40 60 80 100 1 20

Nguồn: NHNN, Báo cáo ngành NH của Công ty chứng khoán NH Ngoại thương (VCBS)

NH TM NN NH TM CP NHNN NH LD

13

Số lượng NH đã tăng từ năm 2006 do chủ trương của NHNN mở rộng hệ thống các NHTM

nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Các quy định thành lập NHTM được nới

lỏng, trước tháng 6/2007 yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu đối với các NH đô thị là 70 tỷ đồng.

Đồng thời, NHNN đã ban hành Quyết định số 1557/QĐ-NHNN thực hiện đề án cơ cấu lại

NHTMCP nông thôn, theo đó cho phép chuyển đổi các NHTMCP nông thôn có đủ điều kiện

lên thành NH đô thị. Do đó nhiều NH mới được thành lập cùng với hầu hết các NH nông thôn

được chuyển đổi thành NH đô thị với qui mô nhỏ. Mặt khác, trong những năm 2006 – 2007,

sự phát triển mạnh của thị trường chứng khoán đã trở thành động cơ khuyến khích các nhà đầu

tư và các tập đoàn kinh tế xin thành lập NH mới hoặc mua lại các NH nông thôn, sau đó

chuyển đổi thành NH đô thị. Hệ thống NH phát triển nhanh với sự tham gia của các doanh

nghiệp trong việc sở hữu cổ phần đã tạo ra một mạng lưới sở hữu vốn chồng chéo giữa các

NH với doanh nghiệp và NH với NH (xem Phụ lục 3).

Hình 3.2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống NH giai đoạn 2004 – 2011

60.00%

53.89%

50.00%

41.65%

41.17%

37.53%

40.00%

31.04%

25.44%

25.43%

30.00%

20.00%

13.10%

10.00%

0.00%

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN, Tổng cục Thống kê.

14

Đối với hoạt động tín dụng, doanh số cho vay của hệ thống NH tăng với tốc độ cao do việc nới

lỏng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. Theo số

liệu báo cáo của NHNN, tốc độ tăng trưởng tín dụng NH trung bình của giai đoạn 2000 – 2011 là 29,4%, và giai đoạn 2006 – 2011 tăng trung bình khoảng 33%10, qui mô tín dụng so với

GDP tăng lên gần 140% vào cuối năm 2010.

Việc tăng trưởng tín dụng cao như vậy đã làm tăng áp lực lạm phát, đồng thời do các điều kiện

cho vay dễ dãi làm tỷ lệ nợ xấu tăng kéo theo nguy cơ rủi ro cho hệ thống NH tăng cao. Theo

số liệu báo cáo tài chính của các NHTM năm 2011, tỷ lệ nợ xấu của nhiều NH đã tăng hơn so

với năm 2010 (Bảng 3.1), tính chung cả hệ thống tỷ lệ nợ xấu trung bình năm 2011 là 3,3%, cao hơn nhiều so với mức 2,14% của năm 201011, và theo đánh giá của Fitch Ratings, nợ xấu thực tế 2011 của các NH VN có thể cao gấp 4 lần.12

Bảng 3.1: Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM năm 2010 – 2011

NGÂN HÀNG Tỷ lệ nợ xấu năm 2011 Tỷ lệ nợ xấu năm 2010

BIDV 2.84% 2.47%

Vietinbank 0,74% 0.66%

VCB 2,01% 2.83%

Eximbank 1,58% 1.42%

STB 0,56% 0.52%

ACB 0,86% 0.34%

MB 1,61% 1.35%

Techcombank 2,83% 2.29%

Nguồn: Báo cáo ngành NH năm 2011 (VCBS), tính toán của tác giả

10 Phỏng vấn Thống đốc Nguyễn Văn Bình (Hà Anh, 2012)   11 Nguyễn Minh Cường (2011) 12 Bích Diệp (Trang thông tin dantri.com.vn, 2012)

SHB 2,13% 1,4%

15

Hệ thống NH đã phát triển đa dạng về các loại hình sở hữu, ngoài các NHTM NN, các

NHTMCP đã tăng trưởng nhanh, nhiều chi nhánh NHNNg và NHLD được cấp phép hoạt

động, tuy nhiên thị phần của các NHTMNN vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động huy động

và cho vay. Bốn trong số 5 NHTMNN đã được cổ phần hóa (VCB, BIDV, Vietinbank, MHB)

nhưng phần vốn nhà nước vẫn chiếm đa số, do vậy hoạt động tín dụng của các NH vẫn bị chi

phối thông qua việc nhà nước trực tiếp can thiệp hoặc bảo lãnh cho vay đối với các dự án và

doanh nghiệp trong một số lĩnh vực, ngành nghề và những tập đoàn kinh tế của nhà nước kém

hiệu quả do đó làm giảm chất lượng của các khoản tín dụng.

Tóm lại, giai đoạn từ 2006 đến nay, hệ thống NHTM đã phát triển nhanh về số lượng nhưng

đang tiềm ẩn nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh, nhiều NH có qui mô nhỏ, sở hữu chồng

chéo trong khi đó tỷ lệ nợ xấu gia tăng. Sự phát triển không bền vững như vậy đã làm hạn chế

năng lực cạnh tranh của khu vực NH, đồng thời làm cản trở việc điều hành chính sách tiền tệ

của NHNN, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động của thị trường tài chính và toàn bộ nền kinh tế

nói chung.

3.2 Tình trạng thanh khoản của hệ thống NHTM

Trong giai đoạn 2008 – 2011, NHNN đã thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ với nhiều biện

pháp mạnh để ngăn ngừa lạm phát, do đó điểm yếu về thanh khoản của các NHTM đã dần dần

bộc lộ thông qua tình trạng căng thẳng trên thị trường LNH và các cuộc đua lãi suất của nhiều

NHTM để huy động vốn.

3.2.1 Các NHTM đua tăng lãi suất huy động vốn

Những cuộc đua lãi suất diễn ra trong giai đoạn 2008 – 2011 cho thấy thanh khoản của hệ

thống NHTM căng thẳng đã ảnh hưởng xấu đến thị trường tiền tệ và các doanh nghiệp. Đầu

năm 2008, NHNN đã thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và

các loại lãi suất chủ chốt, phát hành tín phiếu bắt buộc do đó làm tăng nhu cầu về tiền mặt đối

với các NHTM. Để đảm bảo khả năng thanh khoản các NHTM đã phải liên tục tăng mức lãi

suất tiền gửi để huy động vốn. Tháng 1/2008 lãi suất huy động trung bình ở mức 8,5%/năm,

đã tăng cao nhất vào tháng 6/2008, nhiều NH đã công bố lãi suất huy động ở mức 18% –

16

20%/năm như NH SeAbank áp dụng lãi suất 19,2%/năm cho kỳ hạn 13 tháng13, NH Mỹ

Xuyên (NH MDB hiện nay) đã tăng lãi suất lên 19,56%/năm cho kỳ hạn 24 tháng và lãi suất kỳ hạn 1 tháng là 17,76%/năm14. Cuộc đua lãi suất tiếp theo xảy ra vào năm 2010, do lạm phát

đã tăng đến 9,58% vào tháng 11/2010 buộc NHNN điều chỉnh tăng lãi suất để thực hiện chính

sách tiền tệ thắt chặt. Để hạn chế việc các NHTM đua tăng lãi suất, NHNN đã yêu cầu các NH

ký kết đồng thuận áp dụng lãi suất ở mức 12% vào tháng 11/2010 và tăng lên 14%/năm vào

tháng 12/2010. Tuy nhiên, trên thực tế các NHTM vẫn đua tăng lãi suất huy động cao hơn

mức lãi suất đồng thuận. Vào thời điểm tháng 12/2010 mức lãi suất cao nhất của NH SeAbank công bố mức 18%/năm, cao hơn nhiều so với mức lãi suất đồng thuận 14%15.

Để chấm dứt tình trạng các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất năm 2011, NHNN đã ban hành

Thông tư 02/2011/TT-NHNN ấn định mức trần lãi suất huy động bằng VND áp dụng cho các

NHTM là 14%/năm. Mức lãi suất qui định thấp hơn lãi suất huy động trên thị trường trước đó

nên các NHTM gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì các khoản tiền gửi của khách hàng, dẫn

đến việc qui định trần lãi suất đã không được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Nhiều NHTM

đã dùng các biện pháp trả thưởng, khuyến mãi… để tăng lãi suất cho khách hàng, chi phí huy

động tiền gửi thực tế cao hơn nhiều so với trần lãi suất qui định. Sau một thời gian áp dụng,

NHNN đã phải sử dụng các biện pháp mạnh để chấn chỉnh việc thực hiện trần lãi suất tại các

NHTM. Chỉ thị 02 và Thông tư 30/2011/TT-NHNN của NHNN ban hành sau 6 tháng qui định

áp dụng trần lãi suất đã yêu cầu các NHTM chấn chỉnh lại mức lãi suất về 14% đồng thời kiểm

tra việc thực hiện tại các NHTM và kiên quyết xử lý các vi phạm vượt trần lãi suất. Tại thời

điểm tháng 9/2011, lãi suất được áp dụng chung cho tất cả các NHTM ở mức 6%/năm đối với

tiền gửi không kỳ hạn và 14%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn. Thực tế, một số NH vẫn huy

động vượt trần lãi suất qui định do vốn huy động có xu hướng chuyển đến những NHTM lớn

hơn làm cho việc đảm bảo thanh khoản đặc biệt khó khăn đối với các NHTM có qui mô và

13 Trí Dũng (2010). 14 Minh Yến (2008) 15 Lệ Chi - Song Ly (2010)

mạng lưới nhỏ.

17

Những cuộc đua tăng lãi suất huy động vốn trong các năm 2008, 2010 và 2011 là dấu hiệu cho

thấy các NHTM phải huy động vốn bằng mọi cách để bù đắp thiếu hụt về thanh khoản, một số

NH quản lý thanh khoản không tốt, không đối phó được với những thay đổi của chính sách do

đó dẫn đến sự căng thẳng về thanh khoản.

3.2.2 Các ngân hàng khó đáp ứng nhu cầu vay vốn

Cạnh tranh để huy động vốn giữa các NHTM đã làm tăng lãi suất đầu vào, do đó mức lãi suất

cho vay mà các NHTM áp dụng đối với các doanh nghiệp cũng tăng cao. Năm 2011 “lãi vay

trên thị trường mà doanh nghiệp Việt Nam phải chịu là 18-20%, thậm chí cao hơn, trong khi Trung Quốc, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Singapore chỉ dao động 6-7%”16 (Vũ Thành Tự

Anh, 2011).

Trong khi đó NHNN ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN năm 2011 đã đưa ra các qui định hạn chế

tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NH đồng thời kiểm soát dòng vốn vào các lĩnh vực rủi ro

cao như chứng khoán và bất động sản. Hoạt động cho vay của các NH ngày càng siết chặt, các

NHTM đều phải cắt giảm các khoản cho vay mới, đồng thời thu hồi nợ cũ để đưa tốc độ tăng

trưởng tín dụng xuống 20% vào cuối năm 2011. Theo số liệu điều tra của Cục Thống kê

TPHCM cho thấy, trong số gần 2.000 doanh nghiệp được hỏi có 41,5% các DN có vốn vay đáp ứng từ 25% - 50% nhu cầu, và 32,5% các DN được đáp ứng dưới 25% nhu cầu vay vốn17.

Các DN khó vay được vốn từ hệ thống NH, do đó dẫn đến tình trạng thiếu vốn cho hoạt động

sản xuất kinh doanh, buộc phải ngưng sản xuất hoặc đóng cửa. Theo điều tra của Phòng

Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tính đến cuối năm 2011 đã có đến khoảng

79.000 DN giải thể, tổng số DN thành lập trong năm 2011 là 77.548 DN, nhưng đã có đến

7.611 DN phải sớm dừng hoạt động18. Ngoài ra những vụ đổ vỡ tín dụng cuối năm 2011 đã

16 Thủy Triều (2012) 17 Thanh Hương (2012) 18 Nguyễn Việt Phong, Bùi Trinh, Phạm Đỗ Chí (2012)

cho thấy tình trạng khó khăn của các DN trong việc tiếp cận vốn tín dụng từ các NH.

18

Như vậy, các DN trong nền kinh tế phải gánh chịu mức chi phí lãi vay cao, thậm chí không

vay được vốn NH. Điều đó cho thấy các NHTM đã không đáp ứng được nhu cầu vốn vay của

nền kinh tế.

3.2.3 Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng cao

Thị trường hoạt động giữa các NH được xem như là thước đo thanh khoản của hệ thống. Khi

NHNN thực hiện các qui định chặt chẽ đối với hoạt động huy động vốn của các NHTM, một

số NHTM thiếu hụt về thanh khoản đã phải tham gia vào thị trường LNH vay vốn để bù đắp,

làm thị trường tăng cao cả về lãi suất và doanh số hoạt động.

Do căng thẳng về thanh khoản, các NHTM chạy đua tăng lãi suất huy động đã làm cho lãi suất

trên thị trường LNH tăng cao. Tháng 2/2008, lãi suất vay qua đêm giữa các NHTM lên đến

43%/năm, trong khi đó mức lãi suất cao nhất trong năm 2007 là 17%/năm.

Hình 3.3: Lãi suất trên thị trường LNH năm 2011

Lãi suât (%/năm)

40 35 30 25

20 15 10 5 0

Jul-11

A pr-11

Jun-11

Feb-11

Jan-11

Sep-11

O ct-11

A ug-11

D ec-11

N ov-11

M ar-11

M ay-11

Nguồn: Trang web NHNN

Qua đêm 1 tháng 3 tháng 12 tháng

19

Năm 2011, lãi suất thị trường LNH đã tăng mạnh trong tháng 10 và tháng 11, sau khi NHNN

ban hành qui định áp dụng lãi suất huy động tối đa cho tất cả các NHTM là 14%/năm đối với

tiền gửi có kỳ hạn và 6%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn (Hình 3.2). Lãi suất ngày 17/10

có thời điểm đến 30%/năm cho kỳ hạn 1 tháng19, và ngày 7/11 tăng đến 37%/năm cho kỳ hạn

một năm 20. Nguyên nhân là do những NHTM khó thu hút tiền gửi từ khu vực dân cư (trên thị

trường 1), mặt khác lại không đủ điều kiện vay NHNN do đó phải huy động, vay vốn từ các

NH khác (trên thị trường 2) để bù đắp thiếu hụt về thanh khoản. Tình trạng khó khăn về thanh

khoản cũng được biểu hiện thông qua các điều kiện vay vốn LNH, một số ngân hàng mất uy

tín do không trả nợ hoặc không thanh toán được các khoản trái phiếu đến hạn, nên phải có tài

sản đảm bảo cho các khoản vay. Trong khi đó, các NH có dư thanh khoản hạn chế cho vay

làm cho dòng vốn LNH bị ách tắc, các NN khó khăn về thanh khoản càng khó tiếp cận được

vốn.

Diễn biến trên thị trường tiền tệ đã cho thấy những bất cập của hệ thống NH. Trong điều kiện

chính sách tiền tệ thắt chặt, một số NH đã bộc lộ những yếu kém về thanh khoản như khó khăn

trong việc huy động vốn và cung cấp các khoản tín dụng đáp ứng các nhu cầu vốn của nền

kinh tế, thị trường LNH có nhiều bất ổn, do đó làm tăng rủi ro thanh khoản đối với cả hệ

thống. Để giải quyết vấn đề thanh khoản của hệ thống NH cần đánh giá một cách đầy đủ chính

sách quản lý thanh khoản của các NHTM và vai trò quản lý giám sát của NHNN.

3.3 Hoạt động quản lý thanh khoản của các NHTM

Việc đánh giá chính sách quản lý thanh khoản của các NHTM được khảo sát ở 22 NHTMCP

VN và so sánh các chỉ số đánh giá tính thanh khoản của các NHTM theo nhóm trên cơ sở có

đầy đủ số liệu báo cáo tài chính các năm 2008 – 2011. Theo cách phân nhóm của NHNN để

giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 dựa vào các tiêu chí là chất lượng tài sản nợ, qui

mô vốn, khả năng quản trị rủi ro và việc tuân thủ các qui định của NHNN, các NHTM được

phân thành 4 nhóm. Trong đó các NH nhóm 1 được tăng trưởng tối đa 17%, nhóm 2 được tăng

19 Lệ Chi, Tuệ Minh (2011) 20 Lãi suất BQLNH công bố trên website của Ngân hàng nhà nước http://www.sbv.gov.vn

trưởng 15%, nhóm 3 được tăng trưởng 8% và nhóm 4 không được tăng trưởng tín dụng. Theo

20

đó các NH khảo sát thuộc nhóm 1 sẽ bao gồm các NH: VCB, BIDV, Vietinbank, ACB, STB,

EIB, TCB, VIB, MB, SHB. Các NH thuộc nhóm 2 gồm: ABB, OCB, Đại Á, Bảo việt,

Oceanbank, Westernbank. Các NH còn lại không có động lực công bố chỉ tiêu tăng trưởng tín

dụng là các NH thuộc nhóm 3 và nhóm 4 gồm: HBB,SGB, PGB, HDB, NVB, MDB.

Các NH TMCP đạt được mục tiêu tăng về qui mô vốn vào cuối năm 2011 theo như qui định

của NHNN nhưng trên thực tế chính sách quản lý rủi ro thanh khoản của một số NH chưa phù

hợp. Hoạt động quản lý thanh khoản của các NHTM đã có những biểu hiện mất cân đối giữa

việc huy động và sử dụng vốn về qui mô cũng như kỳ hạn, các NH có tỷ lệ cho vay cao so với

nguồn vốn huy động, trong khi đó tỷ lệ nắm giữ các loại tài sản thanh khoản như các loại

chứng khoán do Chính phủ phát hành so với tổng tài sản thấp, đồng thời nguồn vốn huy động

không đa dạng do đó không tạo ra nguồn vốn ổn định để đảm bảo tính thanh khoản bền vững

trong dài hạn.

3.3.1 Tài sản thanh khoản chiếm tỷ lệ thấp

Chỉ số thanh khoản được tính bằng tỷ lệ tài sản thanh khoản so với tổng tài sản có cho biết khả

năng thanh toán tức thì của NH hay khả năng dễ dàng chuyển tài sản thành tiền mặt, các NH

có tỷ lệ tài sản thanh khoản thấp sẽ khó đáp ứng được các nhu cầu bất thường về vốn, do đó

rủi ro thanh khoản càng cao. Theo số liệu Báo cáo tài chính của các NHTMCP năm 2011, các

NH thuộc nhóm 1 có tỷ lệ trung bình của tài sản thanh khoản so với tổng tài sản là 31,4%, các

NH thuộc nhóm 2 có tỷ lệ trung bình là 26,3%, và các ngân hàng thuộc nhóm còn lại có tỷ lệ

trung bình là 19,2% (Bảng 3.2). Trong khi đó từ cuối năm 2010 hệ thống xếp hạng nội bộ theo

nguyên tắc CAMELS đã được triển khai áp dụng cho toàn bộ hệ thống NH Trung Quốc, với tỷ lệ thanh khoản tối ưu theo quy định là 35%21.

Các NH thuộc nhóm 1 được đánh giá là hoạt động tốt trên thị trường cũng là các NH nắm giữ

các tài sản thanh khoản cao nhất, trong đó bao gồm các NHTM của NN và các NHTMCP dẫn

21 Trang thông tin của NHNN, (2010)

đầu có chất lượng quản lý thanh khoản tốt đảm bảo được mục tiêu hoạt động an toàn.

21

Bảng 3.2: Chỉ số tài sản thanh khoản của các NHTM năm 2011

NHÓM NGÂN HÀNG Tỷ lệ tài sản thanh khoản trung bình

31.4% Nhóm 1

26.3% Nhóm 2

Nguồn:Tính toán của tác giả từ Báo cáo tài chính năm 2011

19.2% Nhóm 3 & 4

Mức tài sản thanh khoản mà các NHTM thuộc nhóm 3 và 4 nắm giữ thấp như vậy khiến cho

một số NH không có đủ dự trữ thanh khoản do đó dễ gặp rủi ro khi chính sách tiền tệ của

NHNN có thay đổi. Điều đó cũng giải thích việc các NH này phải tham gia vào những cuộc

đua lãi suất để huy động bằng mọi cách, đáp ứng nhu cầu về vốn.

Trong danh mục tài sản của các NH được khảo sát cho thấy ở một số NHTM các loại chứng

khoán do Chính phủ phát hành chiếm tỷ lệ thấp thậm chí không có trong danh mục các tài sản

thanh khoản. (Hình 3.4).

Hình 3.4: Tỷ lệ nắm giữ TPCP so với Tổng tài sản có của các NHTM năm 2011

8.4%

7.5%

6.2%

5.1%

4.3%

3.6%

3.3%

3.3%

2.8%

2.7%

0.9%

0.7%

0.1%

9.0% 8.0% 7.0% 6.0% 5.0% 4.0% 3.0% 2.0% 1.0% 0.0%

D B

M B

S T B

S H B

V C B

A C B

B V B

E xim

N V B

M

BID V

Vietin B

O cean B

W estern

Nguồn:Tính toán của tác giả từ Báo cáo tài chính năm 2011

22

Các NH có tỷ lệ trái phiếu chính phủ (TPCP) cao hơn thường là các NH ở nhóm 1, hoạt động

lành mạnh và chú trọng việc bảo đảm thanh khoản, Vietinbank có tỷ lệ TPCP năm 2011 là

7,9%, MB là 7,5%, VCB là 3,6% so với tổng tài sản có, trong khi đó các NH khác chỉ có một

lượng TPCP thấp như NVB có 0,7%, MDB có 0,1% so với tổng tài sản. Đây chính là nguyên

nhân dẫn đến việc các NHTM không đủ tài sản làm đảm bảo để vay tái cấp vốn, tái chiết khấu

từ NHNN, do đó không đủ điều kiện tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ của NHNN để bù đắp

thanh khoản khi cần thiết. Như vậy do đặt cao mục tiêu lợi nhuận và những lợi ích trong ngắn

hạn, các NHTM đã không lựa chọn đầu tư vào các loại trái phiếu Chính phủ là các loại tài sản

có lợi nhuận thấp, do đó không xây dựng được một danh mục tài sản an toàn để đảm bảo thanh

khoản một cách bền vững.

3.3.2 Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao

Trong những năm trước, các NHTM có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, theo số liệu của các

NH được khảo sát thuộc nhóm 1 có tốc độ tăng cho vay khách hàng vào năm 2009 là 60,1%,

và giảm dần đến năm 2011 là 17,2%, trong khi đó các NH thuộc 3 và 4 tăng trưởng tín dụng

năm 2009 là 67,1% giảm dần đến năm 2011 là 14,7% (Bảng 3.3). Qui mô tín dụng tăng nhanh

làm tăng rủi ro tín dụng, đồng thời gây ra những khó khăn về thanh khoản khi NHNN cắt giảm

tăng trưởng tín dụng, do đó, kéo theo rủi ro về thanh khoản.

Bảng 3.3: Tốc độ tăng trưởng dư nợ các NHTM giai đoạn 2009 - 2011

NHÓM NGÂN HÀNG 2011 2010 2009

17,2% 46,4% 60,1% Nhóm 1

56,0% 57,8% 99,8% Nhóm 2

Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTM 2008 - 2011

14,7% 31,1% 67,1% Nhóm 3 & 4

23

Trong khi đó tín dụng đầu tư vào các lĩnh vực phi sản xuất rủi ro cao như bất động sản, chứng

khoán chiếm tỷ trọng lớn. Theo số liệu của NHNN, các NHTM có tỷ lệ dư nợ cao trong lĩnh

vực phi sản xuất so với tổng dư nợ như: SeAbank 21%, SHB 47%, NVB 41%, Westernbank 52,2%.22 Do đó trong giai đoạn NHNN thực hiện thắt chặt tín dụng phi sản xuất, hoạt động

của các NH này phải đối phó với tình trạng kém thanh khoản do chịu tác động lớn của thị

trường.

3.3.3 Tỷ lệ cho vay so với nguồn vốn huy động cao

So sánh mức độ tăng trưởng tín dụng với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của các

NHTM qua các năm cho thấy, ở một số NHTM có mức tăng trưởng nguồn vốn huy động thấp

hơn mức tăng dư nợ tín dụng (Hình 3.5). Năm 2011 NVB tăng trưởng tín dụng gần 20% trong

khi huy động chỉ đạt mức tăng xấp xỉ 14%, PGbank tăng tín dụng 11% trong khi huy động

tăng 3%, SGbank và MDB có tăng trưởng tín dụng trong khi huy động giảm.

Hình 3.5: Tốc độ tăng trưởng huy động vốn và cho vay của NHTM năm 2011

60%

40%

20%

0%

B M

B I E

B I V

B T S

B C T

B H S

B G S

B G P

B C A

B V B

B C V

-20%

B B H

B V N

B C O

B D H

B D M

V D I B

-40%

k n a b n i t e i V

-60%

Huy đông

Cho vay

Nguồn: Tính toán từ Báo cáo tài chính của các NHTM năm 2011

22 Trang thông tin NHNN (2011)

24

Việc tăng tín dụng của các NHTM như vậy nên các NH đã sử dụng tối đa nguồn vốn huy động

vào việc cho vay. Số liệu khảo sát qua các năm cho thấy các NHTM có tỷ lệ cho vay cao, đặc

biệt là các NH thuộc nhóm 3 và 4 có tỷ lệ cho vay vượt quá mức vốn huy động (Bảng 3.4).

Bảng 3.4: Tỷ lệ cho vay so với huy động vốn của các NHTM

NHÓM NGÂN HÀNG 2011 2010 2009 2008

95,5% 90,7% 86,7% 72,8% Nhóm 1

97,4% 84,5% 76,8% 92,7% Nhóm 2

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên Báo cáo tài chính năm của các NHTM.

124% 91,8% 112,1% 96,1% Nhóm 3 & 4

Theo qui định của NHNN tại Thông tư 13/2010 TT-NHNN và sửa đổi tại Thông tư 19/2010

TT-NHNN, mức cho vay tối đa là 80% so với tổng vốn huy động của các NHTM. Sau đó

tháng 9/2011 NHNN đã ban hành Thông tư 22, trong đó bãi bỏ qui định giới hạn mức cho vay

so với vốn huy động. Mục đích là nhằm giúp cho các NH tăng thêm dòng vốn trên thị trường

và tăng thêm thanh khoản đồng thời hỗ trợ để giảm lãi suất cho vay. Tuy nhiên qui định đó

cũng làm tăng mức cho vay tại các NHTM. Năm 2011 tỷ lệ cho vay của nhiều NH đã vượt quá

so với vốn huy động như tỷ lệ cho vay so với huy động của NH Eximbank là 138%, OCB là

139,6%, NH Đại Á là 135,4%, SGbank là 122%. Năm 2011, các NH nhóm 2 và nhóm 3, 4 đều

cho vay cao hơn so với vốn huy động được, tính bình quân tỷ lệ cho vay so với huy động vốn

của các NH nhóm 2 là 105,8% và nhóm 3, 4 là 111%. Trong khi đó qui định về tỷ lệ này của

hệ thống NH Trung Quốc là 75%.

Đối với các NHTM có tỷ lệ vốn vay so với tổng vốn huy động cao thì khả năng rủi ro thanh

khoản càng cao do các khoản cho vay được xem là kém thanh khoản nhất trong danh mục tài

sản. Trong trường hợp nhu cầu vốn đột xuất các NH sẽ phải giải quyết thanh khoản bằng cách

thu hồi nợ, hoặc giảm bớt các khoản cho vay mới, dẫn đến việc các NH thiếu vốn để đáp ứng

nhu cầu vay của các doanh nghiệp, do đó phải thắt chặt cho vay và làm tăng nguy cơ xảy ra rủi

ro thanh khoản.

25

3.3.4 Vốn huy động từ khu vực dân cư chiếm tỷ trọng thấp

Xem xét tỷ lệ tiền gửi so với tổng vốn huy động sẽ cho phép đánh giá khả năng thu hút vốn

trên thị trường 1 từ khu vực dân cư, để đảm bảo tính ổn định của nguồn vốn. Năm 2011, tỷ lệ

vốn huy động từ dân cư giảm so với các năm trước ở nhiều NH được khảo sát (Hình 3.6), nhất

là những NH thuộc nhóm 3 và nhóm 4 là những ngân hàng vừa và nhỏ như MDB, vốn từ dân

cư năm 2010 chiếm 49,7% tổng vốn huy động, năm 2011 giảm xuống chỉ còn 20,6%; NH Đại

Á, năm 2010 vốn dân cư chiếm 75,7%, đến năm 2011 chỉ còn 30,4%. Do đó, những NH này

luôn căng thẳng về thanh khoản, phải phụ thuộc vào việc huy động từ thị trường LNH.

Hình 3.6: Tỷ lệ huy động tiền gửi từ khách hàng so với tổng vốn huy động của các NHTM giai đoạn 2008 – 2011

2008 2009

2010 2011

100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%

D B

EIB

VIB

T C B

S H B

A C B

M

BID V

Vietinbank V C B

O ceanbank A B B

Nguồn: Tính toán dựa trên Báo cáo tài chính các năm của các NHTM

Trong hệ thống NHTM VN, các NHTM có vốn nhà nước đều là những NH có qui mô lớn, có

uy tín trong các hoạt động NH truyền thống do đó các NH này thường có lợi thế trong việc thu

hút tiền gửi của khu vực dân cư, với thị phần huy động vốn lớn hơn. Trong khi đó các

26

NHTMCP vừa và nhỏ là những NH mới thành lập hoặc được chuyển đổi từ các NH nông

thôn, qui mô và mạng lưới huy động nhỏ, chủ yếu phải cạnh tranh bằng lãi suất. Như vậy, các

chính sách về lãi suất của NHNN áp dụng đồng loạt cho các NH sẽ tạo ra môi trường cạnh

tranh không lành mạnh giữa các NHTM, gây ra những bất lợi cho nhóm các NH vừa và nhỏ

trong việc duy trì thanh khoản.

3.3.5 Mức độ phụ thuộc vào thị trường LNH

Tỷ lệ so sánh giữa tiền gửi và tiền vay LNH cho thấy một số NH nằm trong nhóm 3 và 4

(SGbank, PG bank) phải huy động vốn trên thị trường LNH gấp nhiều lần so với tiền gửi

LNH, trong khi các NH trong nhóm 1 và 2 (VCB, BIDV, ACB) có thanh khoản tốt do đó là

những NH chủ yếu cung cấp thanh khoản trên thị trường LNH (Bảng 3.5). VCB có tổng số

tiền gửi trên thị trường LNH gấp 2,18 lần so với đi vay từ các TCTD khác, ACB có tỷ lệ này

là 2,06 lần, trong khi đó HBB chỉ có số tiền gửi bằng 0,39 lần so với tiền đi vay LNH và tỷ lệ

này ở PGB là 0,42.

Đối với các NH nhỏ phải phụ thuộc vào nguồn vốn trên thị trường LNH thường không chủ

động được nguồn vốn, do đó khi nhu cầu vốn tăng đột biến, các NH này buộc phải đi vay với

lãi suất cao thậm chí phải đáp ứng các yêu cầu thế chấp khác. Trong thời điểm căng thẳng về

thanh khoản, lãi suất vay LNH tăng cao, đồng thời trên thị trường LNH cũng đã xuất hiện các

trường hợp không trả được nợ đúng hạn nên các NH dư thanh khoản như VCB đã thực hiện cơ

chế cho vay có tài sản làm đảm bảo “khác với thông lệ của thị trường trong nhiều năm trước”23. Các điều kiện vay vốn khắt khe do đó càng làm cho các NH kém thanh khoản khó

23 Minh Đức (2011)

tiếp cận được vốn vay LNH.

27

Bảng 3.5 : Tỷ lệ tiền gửi so với vay trên thị trường LNH năm 2011

Ngân hàng

Nguồn: Tính toán từ Báo cáo tài chính 2011 của các NHTM

VCB ACB BIDV VietinBank MB SHB VIB TCB EIB STB OceanBank Westernbank Đại Á BVB ABB OCB NVB MDB SGB PGB HBB Tỷ lệ gửi LNH/vay LNH (lần) 2.18 2.06 1.62 0.88 1.53 1.18 0.98 0.90 0.90 0.75 1.38 0.96 0.96 0.91 0.83 0.47 0.87 0.87 0.65 0.42 0.39

3.3.6 Nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn

Qua biểu lãi suất áp dụng tại các NHTM có thể thấy nguồn vốn thu hút chủ yếu tập trung vào

kỳ hạn ngắn. Các NHTM đều nâng mức lãi suất không kỳ hạn, hoặc áp dụng mức lãi suất ngắn

hạn cao hơn lãi suất dài hạn (Bảng 3.6), do đó, trên thị trường tạo ra một đường cong lãi suất

đi ngược với qui luật. Với mức lãi suất như vậy thường khuyến khích khách hàng lựa chọn gửi

ngắn hạn, nên thực tế nguồn vốn huy động khó thu hút được kỳ hạn dài mà chủ yếu là kỳ hạn

ngắn. Trong khi đó, các NH vẫn cho vay trung dài hạn với tỷ trọng cao do nhu cầu đầu tư của

28

nền kinh tế và mục tiêu lợi nhuận của các NH, do đó các NH luôn phải đối phó với nhu cầu

cao về thanh khoản.

Đơn vị: %/năm

Bảng 3.6: Lãi suất áp dụng tại một số NHTM tháng 9/2011

Kỳ hạn SeaBank ACB HBB VPB TCB BIDV VCB

3.60 9.60 12.00 3.00 2.40 3.00 2.40 KKH

14.00 13.80 14.00 14.00 14.00 14.00 14.00 1 tháng

14.00 13.80 14.00 14.00 14.00 14.00 14.00 2 tháng

14.00 13.80 14.00 14.00 14.00 14.00 14.00 3 tháng

14.00 13.80 13.50 14.00 14.00 14.00 14.00 6 tháng

14.00 13.80 12.00 14.00 14.00 14.00 14.00 9 tháng

14.00 14.00 13.50 14.00 14.00 14.00 14.00 12 tháng

12.00 10.05 12.00 12.00 11.95 14.00 12.00 18 tháng

12.00 11.40 12.00 12.00 11.95 14.00 12.00 24 tháng

Nguồn: Trang web http://laisuat.vn

10.90 12.00 12.00 11.95 14.00 12.00 36 tháng

Sau các đợt siết chặt lãi suất của NHNN, các NHTM đều tập trung huy động vốn vào những

kỳ hạn ngắn thậm chí là không kỳ hạn. Năm 2011, sau khi NHNN ban hành Thông tư số

02/2011/TT-NHNN ngày 03/03/2011 qui định trần lãi suất tiền gửi có kỳ hạn là 14%/năm, các

NH đã chạy đua nâng lãi suất không kỳ hạn, nhiều NH nhỏ tăng lãi suất không kỳ hạn lên 8-

9%/năm, thậm chí là 12%/năm (Bảng 3.7).

29

Bảng 3.7: Lãi suất huy động không kỳ hạn tháng 3/2011 áp dụng tại một số NHTM

NGÂN HÀNG Lãi suất không kỳ hạn (%/năm)

6% – 9,6% ACB

ấ VPBank 9%

OCB 9,5%

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

12% (cho 50 triệu VND trở lên) SeABank 9% (cho dưới 50 triệu VND)

Mặt khác, để đảm bảo được tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn các NH đã huy

động các khoản tiền gửi kỳ hạn dài nhưng cho phép khách hàng rút trước thời hạn, do đó tạo

ra nguồn vốn không ổn định, ở các NH luôn xảy ra tình trạng căng thẳng về thanh khoản do

các khoản tiền gửi đến hạn và khách hàng rút tiền trước thời hạn, do đó luôn tiềm ẩn nguy cơ

xảy ra rủi ro thanh khoản.

30

CHƯƠNG 4. NGUYÊN NHÂN RỦI RO THANH KHOẢN NGÂN HÀNG

Hoạt động của thị trường tiền tệ và hệ thống NH trong những năm gần đây đã cho thấy vấn đề

thanh khoản đang làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các NH, đó cũng là nguyên nhân

dẫn đến những hệ quả xấu trên thị trường tiền tệ và toàn bộ nền kinh tế. Các NHTM do thiếu

thanh khoản đã tham gia vào cuộc đua lãi suất, gây ra những trục trặc trong việc huy động vốn

từ khu vực dân cư và trên thị trường LNH, đồng thời gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất

kinh doanh của các doanh nghiệp. Tình trạng thiếu thanh khoản của hệ thống NH như vậy

trước hết là do tác động của các chính sách can thiệp của nhà nước đối với hoạt động của hệ

thống NH, việc giám sát các NH chưa hiệu quả, và do việc quản lý thanh khoản của các

NHTM chưa hợp lý.

4.1 Rủi ro do chính sách kinh tế vĩ mô

Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa không được phối hợp chặt chẽ đã làm giảm hiệu quả

điều hành chính sách, đồng thời gây ra những áp lực về thanh khoản cho hệ thống NH (Bảng

4.1).

Hình 4.1: Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa giai đoạn

2006 - 2011

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

Thắt chặt Mở rộng

2008 2011 Thắt chặt

CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA 2010 2007 Mở rộng

Nguồn: Vũ Thành Tự Anh

Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 tập trung vào tăng trưởng kinh tế với mục tiêu đặt ra

là tăng trưởng GDP ở mức 7,5% – 8%/ năm, do đó các chính sách vĩ mô đều nhằm vào kích

31

thích tăng trưởng kinh tế. Việc nới lỏng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã làm gia

tăng lạm phát: năm 2008 lạm phát là 19,9%, năm 2009 là 6,5% và năm 2010 lạm phát là

11,8% vượt quá so với mục tiêu 8%. Do vậy năm 2010, NHNN đã thực hiện thắt chặt tiền tệ,

kiểm soát tăng trưởng tín dụng, và áp dụng các biện pháp nhằm hạ lãi suất thị trường. Trong

khi đó, chính sách tài khóa vẫn tiếp tục mở rộng, phát hành trái phiếu với khối lượng lớn để

thu hút vốn phục vụ cho nhu cầu đầu tư công. Sự thiếu phối hợp như vậy dẫn đến khan hiếm

vốn cho khu vực sản xuất, khiến cho lãi suất tăng, các doanh nghiệp khó vay thậm chí phải

ngừng hoạt động do lãi suất cao, gây sức ép về thanh khoản cho hệ thống NH và làm cho

chính sách tiền tệ mất đi hiệu quả chống lạm phát.

Điều hành chính sách tiền tệ của NHNN do việc thắt chặt đột ngột đã gây ra những cú sốc

thanh khoản cho hệ thống NH. Năm 2007 là năm tăng trưởng cao trong hoạt động tín dụng,

các NH mở rộng cho vay với tốc độ nhanh, dư nợ cho vay của cả hệ thống tăng 53,89% cao

hơn nhiều so với mức 25,44% của năm 2006. Đầu năm 2008, để kiểm soát lạm phát NHNN đã

thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ, tăng các loại lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu và lãi

suất tái cấp vốn, đồng thời tăng yêu cầu dự trữ bắt buộc thêm 1% đối với các NHTM. Do đó

khi NHNN thực hiện việc phát hành 20.300 tỷ đồng trái phiếu bắt buộc phân bổ cho 41

NHTM, đã làm một số NHTM đã rơi vào tình trạng thiếu tiền mặt, phải vay trên thị trường

LNH và chạy đua tăng lãi suất huy động vốn để tránh mất thanh khoản. Việc cắt giảm đột ngột

chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2011 cũng gây ra những hậu quả tương tự. Tháng 2/2011

khi NHNN thực hiện Chỉ thị 01, cắt giảm tín dụng của các NHTM về mức tăng trưởng dưới

20% nhằm vào mục tiêu kiềm chế lạm phát, và kiểm soát dòng vốn vào lĩnh vực bất động sản.

Do đó các NHTM phải thu hồi các khoản đã cho vay đồng thời hạn chế các khoản cho vay

mới. Trong khi đó tính thanh khoản của thị trường bất động sản bị sụt giảm, đồng thời các tài

sản thế chấp là bất động sản cũng bị giảm giá do đó gây ra khó khăn cho các NH trong việc

thu hồi các khoản cho vay, vốn NH đầu tư vào các dự án bị ứ đọng. Theo công bố của NHNN

tại thời điểm tháng 6/2011, 9 NHTM không giảm được dư nợ phi sản xuất về mức là 22% so

với tổng dư nợ theo qui định. Nợ xấu tăng làm cho nguồn vốn của các NH bị sụt giảm, do đó

tăng nguy cơ xảy ra rủi ro thanh khoản.

32

Các giải pháp thắt chặt đột ngột của NHNN cũng cho thấy sự phản ứng chính sách mang tính

giải pháp tình thế, đáp ứng các yêu cầu cấp bách ngắn hạn do đó có thể gây ra những tác động

ngược lại với mục tiêu dài hạn của chính sách tiền tệ, đồng thời tạo nên những cú sốc đối với

hệ thống NH và thị trường tiền tệ.

4.2 Rủi ro do hạn chế trong hoạt động giám sát của NHNN

Hoạt động giám sát NH ở VN được thực hiện bởi Cơ quan thanh tra giám sát NH của NHNN.

Theo Quyết định thành lập, giám sát chuyên ngành về NH thực hiện các chức năng về giám

sát thực hiện các qui định về an toàn hoạt động NH, phân tích đánh giá tình hình tài chính,

hoạt động quản trị và mức độ rủi ro của các NH; phát hiện, cảnh báo rủi ro gây mất an toàn và

nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động NH.

Tổ chức giám sát được thực hiện trên hai nội dung là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ với

mục đích theo dõi thường xuyên tình trạng của từng NHTM cũng như tình trạng của hệ thống

NHTM, phân tích xu hướng của các NHTM qua các năm, so sánh theo các nhóm tương

đương. Trên cơ sở đó có những nhận biết sớm về rủi ro và các vấn đề tài chính để có các biện

pháp can thiệp kịp thời.

Nội dung giám sát việc đảm bảo thanh khoản của các NHTM được qui định tại Thông tư số

13/2010/TT-NHNN và Thông tư số 19/2010 sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư 13,

trong đó quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn của tổ chức tín dụng (TCTD) dựa trên các yêu cầu

định lượng và các yêu cầu định tính. Các qui định về định tính như yêu cầu các NH phải có cơ

cấu tổ chức phù hợp về quản lý rủi ro thanh khoản, và các qui định nội bộ về quản lý rủi ro

thanh khoản. Qui định định lượng gồm tỷ lệ về khả năng chi trả hàng ngày và khả năng chi trả

trong 7 ngày tiếp theo, và yêu cầu các NH báo cáo hàng ngày theo chế độ báo cáo thống kê.

Đối với tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động, qui định tại Thông tư 19 là 80% đối với

các NH, sau đó tại Thông tư số 22/2011/TT-NHNN ban hành tháng 8/2011, NHNN đã hủy bỏ

giới hạn tỷ lệ cho vay so với huy động vốn, do đó các NHTM đều tăng tỷ lệ cho vay.

Trên cơ sở giám sát các NH, cơ quan giám sát NH VN cũng thực hiện việc xếp loại các

NHTMCP theo qui định tại QĐ 06/2008/QĐ-NHNN, trong đó các thang điểm xếp hạng được

33

dựa trên các tiêu chí CAMEL theo thông lệ của cơ quan giám sát quốc tế. Tuy nhiên hiện nay,

báo cáo đánh giá xếp hạng của NHNN vẫn chỉ đơn thuần dựa trên kết quả thanh tra tại chỗ mà chưa có sự theo dõi liên tục24.

Hoạt động giám sát của NHNN đối với hoạt động của hệ thống NHTM còn nhiều bất cập, các

giải pháp mang tính hành chính do đó không phát huy được hiệu quả mà còn tác động tiêu cực

đến hoạt động của các NH và thị trường. Việc áp dụng trần lãi suất đã làm ảnh hưởng lớn đến

thanh khoản của các NHTM. Để giảm lãi suất trên thị trường và ngăn các cuộc đua lãi suất của

NHTM, NHNN đã qui định trần lãi suất huy động vốn, áp dụng đồng loạt cho tất cả các NH

vào tháng 9/2011 là 14%/năm. Đây là các giải pháp hành chính, không phù hợp với cung cầu

về vốn trên thị trường do đó sự can thiệp của NHNN không đạt được mục tiêu là giảm lãi suất.

Theo lý thuyết về áp chế tài chính của McKinnon & Shaw (1973), sự can thiệp của nhà nước

thông qua chính sách kiểm soát lãi suất tạo ra lợi thế cho các NH lớn, trong khi các NH nhỏ

khó cạnh tranh, do đó sẽ tác động làm cản trở hệ thống NH phát triển theo chiều sâu. Ngoài ra,

mức lãi suất thấp làm hạn chế khả năng huy động tiết kiệm vào NH dẫn đến tình trạng khó

khăn về thanh khoản, buộc các NH nhỏ phải lách trần lãi suất dưới các hình thức khuyến mại,

tặng quà cho khách hàng. Tình trạng đó gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các NH và

những xáo trộn trên thị trường tiền tệ, đồng thời khó khăn cho các cơ quan giám sát trong việc

phát hiện và xử lý. Trên thực tế việc áp dụng trần lãi suất tại những thời điểm năm 2008, 2010

không phù với cung – cầu về vốn của thị trường do đó đã không giải quyết được vấn đề căn

bản là hạ lãi suất huy động và cho vay.

Hạn chế của hoạt động giám sát đã được Nhóm nghiên cứu của Diễn đàn Phát triển Việt Nam

“Hoạt động giám sát của NHNN VN mới chỉ dừng lại ở việc theo dõi thông qua việc thu thập

thông từ các báo cáo định kỳ của các NHTM việc xử lý và phân tích thông tin vẫn chỉ mang tính

đơn giản, chưa thực sự đảm bảo theo đúng ý nghĩa của việc giám sát các NHTM một cách thường xuyên liên tục và theo các nội dung giám sát toàn diện, đầy đủ.”25.

24 Nguyễn Thị Minh Huệ ( Tạp chí Ngân hàng, 12/2009) 25 Nguyễn Thị Minh Huệ ( NXB GTVT, 2011)

và Ủy ban giám sát tài chính quốc gia đánh giá:

34

Do hoạt động của hệ thống giám sát NH Việt Nam hiện nay chủ yếu là theo dõi sự tuân thủ

của các NH dựa trên số liệu báo cáo thống kê nên chưa đưa ra được cảnh báo đối với các NH

có những biến động bất thường, điều đó đã làm hạn chế các NHTM trong việc xây dựng các

kế hoạch đối phó với các tình huống thanh khoản.

Mặt khác, trong quá trình giám sát của NHNN thiếu sự minh bạch và các công cụ chế tài đủ

mạnh để xử lý các NH vi phạm và do đó khó khăn trong việc đảm bảo kỷ luật thị trường.

Trong năm 2011, mặc dù đã được NHNN ban hành các qui định cảnh báo nhưng nhiều NHTM

vẫn tham gia vào các cuộc đua tăng lãi suất huy động vốn. Ban hành tại thời điểm tháng

9/2011, Chỉ thị số 02/CT-NHNN đã thừa nhận “trong thời gian qua hầu hết các TCTD đã thực hiện lãi suất huy động cao hơn mức lãi suất quy định”26.

Ngoài ra, sự hỗ trợ của NHNN đã làm nảy sinh tâm lý ỷ lại của các NHTM. Theo nghiên cứu

về những trục trặc xảy ra trong hệ thống NH, thì “sự bảo hộ của chính phủ đã khiến cho những người gửi tiền không có động cơ giám sát các NH, và không có sự sàng lọc các NH”27. Đối

với hệ thống NHVN, NHNN có vai trò là người cho vay cuối cùng để hỗ trợ thanh khoản cho

các NHTM và giữ an toàn cho cả hệ thống, tuy nhiên việc NHNN cứu trợ tất cả các NH sẽ làm

nảy sinh tâm lý ỷ lại của các NHTM do đó không chú trọng việc phòng ngừa rủi ro thanh

khoản.

4.3 Rủi ro do bất cập trong hoạt động quản lý thanh khoản của các NHTM.

Quản lý thanh khoản của nhiều NHTM trong nhóm 3 và 4 đã cho thấy hoạt động quản lý tài

sản còn nhiều bất cập. Các NHTM chưa chú trọng việc nắm giữ tài sản thanh khoản để phòng

ngừa rủi ro, trong khi đó tăng trưởng tín dụng với tỷ trọng lớn và tập trung vào các lĩnh vực rủi

ro cao làm tăng nợ xấu, do đó cơ cấu tài sản của các NHTM thuộc nhóm 3 và 4 làm tiềm ẩn

nguy cơ xảy ra rủi ro tín dung và từ đó kéo theo rủi ro thanh khoản. Ngoài ra, trong cơ cấu

nguồn huy động, tỷ lệ vốn huy động từ khu vực dân cư của các NHTM nhóm 3 và 4 thường

chiếm tỷ trọng thấp, như vậy nguồn vốn của NH không đảm bảo bền vững trong dài hạn do đó

luôn phải đối phó với sự căng thẳng thanh khoản.                                                              26 Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 7/9/2011 27 D.O.Beim & C.W.Calomiris

35

Đối với việc quản lý thanh khoản, các NHTM có thể đạt mức bình quân chung của hệ thống

theo các chỉ số tài chính giám sát thanh khoản, tuy nhiên điều đó vẫn chưa đủ đảm bảo an toàn

cho NH đó vì thanh khoản của NH còn liên quan đến các yếu tố đặc trưng của từng NH như

tính ổn định bền vững của nguồn tiền gửi, khả năng vay NHNN và vay trên thị trường LNH,

khả năng huy động vốn từ tổ chức kinh tế và dân cư thông qua mạng lưới hoạt động và chất

lượng dịch vụ, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng của từng NHTM.

Việc thực hiện các chỉ tiêu về quản lý thanh khoản của nhiều NHTM VN hiện nay chỉ mang

tính tuân thủ, đảm bảo các qui định của cơ quan quản lý và mang tính đối phó với các chính

sách, do đó không đảm bảo hiệu quả và bền vững. Cụ thể như để thực hiện qui định của

NHNN về mức sử dụng tối đa 30% vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, các NHTM đã huy

động tiền gửi với kỳ hạn dài và cho phép khách hàng được rút trước hạn với cùng một mức lãi

suất. Như vậy chính sách thanh khoản của NH đảm bảo được nguồn vốn cho vay trung dài hạn

đúng qui định nhưng trên thực tế NH luôn phải đối phó với rủi ro thanh khoản tăng lên do

khách hàng rút trước hạn.

36

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Kết luận 5.1

Thanh khoản của một số NH hiện nay đã gây ra những ảnh hưởng xấu đến thị trường tiền tệ,

do đó làm yếu đi vai trò của hệ thống NH là kênh dẫn vốn cho nền kinh tế. Do thiếu thanh

khoản các NH đã gây ra các cuộc đua lãi suất, đẩy lãi suất lên cao khiến cho các doanh nghiệp

khó tiếp cận được vốn hoặc phải chịu lãi suất cao, mặt khác dòng vốn trên thị trường LNH

cũng bị ách tắc.

Hệ thống NHTM VN từ năm 2006 đến nay đã phát triển nhanh về số lượng các NH cũng như

qui mô vốn, đồng thời tín dụng NH cũng được mở rộng với tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên,

trong hệ thống tồn tại những NH mà khả năng quản trị thấp. Do đó khi NHNN thực hiện chính

sách thắt chặt tiền tệ để kiểm soát lạm phát, những điểm yếu trong quản lý thanh khoản của

các NHTM đã bộc lộ. Các NH gặp khó khăn về thanh khoản thể hiện ở mức lãi suất cho vay

và huy động trên thị trường tăng cao khiến cho các doanh nghiệp khó vay được vốn. Trong khi

đó, lãi suất và doanh số hoạt động trên thị trường LNH đều tăng cho thấy những khó khăn mà

các NH đang gặp phải trong việc huy động vốn từ khu vực dân cư và cả huy động từ các NH.

Nợ xấu của hệ thống NH tăng cao khi NHNN thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ. Nguyên

nhân do trong giai đoạn 2006 đến nay các NHTM đều đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, nới

lỏng các điều kiện cho vay và đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán.

Do đó, vào các năm 2008 – 2011, khi NHNN cắt giảm tín dụng, nhiều NH trong hệ thống đã

gặp khó khăn về thanh khoản.

Các NHTM đã đạt được yêu cầu tăng vốn tối thiểu lên 3.000 tỷ đồng theo qui định của

NHNN, tuy nhiên, ở một số NH nguồn vốn thực sự để đảm bảo dự trữ thanh khoản thấp hơn

so với báo cáo. Nguyên nhân là do sự mở rộng về số lượng các NHTM từ năm 2006 đến nay

và quá trình tăng vốn đã kéo theo tình trạng sở hữu chồng chéo giữa các NH và doanh nghiệp,

gây ra tình trạng thiếu vốn và nguy cơ đổ vỡ hệ thống.

37

Những bất ổn của hệ thống NHTM do các nguyên nhân từ chính sách vĩ mô của nhà nước,

hoạt động quản lý giám sát của NHNN đối với hoạt động của hệ thống NHTM và những yếu

kém trong hoạt động quản trị rủi ro của bản thân các NH.

Chính sách tiền tệ của NHNN thường thay đổi theo các mục tiêu của chính phủ trong việc thúc

đẩy tăng trưởng và kiềm chế lạm phát ổn định vĩ mô, trong khi đó, thiếu sự phối hợp với chính

sách tài khóa do đó làm giảm hiệu quả của việc điều hành chính sách đồng thời tăng thêm áp

lực thanh khoản lên hệ thống NH.

Trong bối cảnh tín dụng NH tăng trưởng nhanh và đầu tư với tỷ trọng lớn vào lĩnh vực bất

động sản, chính sách cắt giảm đột ngột dòng vốn tín dụng, đặc biệt là tín dụng phi sản xuất đã

làm tăng rủi ro tín dụng, và do đó kéo theo rủi ro thanh khoản. Các chính sách can thiệp của

NHNN chủ yếu là các giải pháp hành chính mang tính tình thế, giải quyết các yêu cầu ngắn

hạn do đó hiệu quả thấp đồng thời ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh giữa các NH. Trong

khi đó, không có sự phân định giữa các NH thiếu thanh khoản tạm thời với các NH mất khả

năng chi trả do đó đã dẫn đến rủi ro đạo đức do các NH có tâm lý ỷ lại vào sự hỗ trợ của

NHNN. Ngoài ra hoạt động giám sát của NHNN chủ yếu là giám sát sự tuân thủ của các

NHTM, chưa có đầy đủ các thông tin minh bạch để cung cấp thông tin dự báo làm cơ sở cho

các NHTM xây dựng kế hoạch thanh khoản phù hợp trong dài hạn.

Nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro thanh khoản của các NHTM là do hoạt động quản lý

rủi ro của bản thân các NH. Do đặt cao mục tiêu lợi nhuận nên các NH nắm giữ những danh

mục tài sản kém thanh khoản, mất cân đối về qui mô và kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và

cho vay.

Như vậy, để đảm bảo thanh khoản của hệ thống NH, cần có các giải pháp tác động đến chính

sách vĩ mô của nhà nước, cải thiện hoạt động giám sát của NHNN, đồng thời nâng cao khả

năng quản trị rủi ro của các NHTM trong việc xây dựng chính sách quản lý tài sản hợp lý để

kết hợp giữa mục tiêu hoạt động an toàn và hiệu quả.

38

5.2 Khuyến nghị chính sách

5.2.1 Đối với chính phủ và NHNN

Phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để tăng cường hiệu quả của

chính sách trong việc điều tiết thị trường tiền tệ.

Để có thể ngăn ngừa được lạm phát, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cần được phối

hợp nhất quán. Kế hoạch phát hành trái phiếu về khối lượng và lãi suất của chính sách tài khóa

cần được cung cấp đầy đủ và minh bạch thông tin để làm cơ sở dự báo cho chính sách tiền tệ.

Để đảm bảo hiệu quả của chính sách tiền tệ thắt chặt, chính sách tài khóa cũng cần thực hiện

giảm thâm hụt ngân sách và cắt giảm đầu tư công để tập trung vốn cho khu vực doanh nghiệp,

giảm bớt căng thẳng về nhu cầu vốn của nền kinh tế, trên cơ sở đó để giảm áp lực thanh khoản

cho thị trường tiền tệ và cả hệ thống NH.

Giảm bớt các công cụ hành chính, sử dụng có hiệu quả các công cụ thị trường trong việc điều

hành chính sách tiền tệ và giám sát hoạt động của các NHTM.

NHNN phải giảm bớt các công cụ hành chính, sử dụng linh hoạt các công cụ mang tính thị

trường đảm bảo sự can thiệp của NHNN phù hợp với các qui luật của thị trường như lãi suất

tái cấp vốn hoặc phát hành tín phiếu NHNN với lãi suất phù hợp để điều hòa vốn trên thị

trường LNH, xóa bỏ trần lãi suất để các NHTM có thể tăng thêm huy động vốn. Các quy định

giám sát hệ thống NH cần phải giảm bớt các biện pháp giải quyết tình thế mang tính đối phó

phụ thuộc vào mục tiêu của chính phủ để tránh việc can thiệp một cách đột ngột, gây ra những

tác động ngược và áp lực đối với hoạt động của hệ thống NH. Đồng thời, NHNN cần có các

biện pháp chế tài đủ mạnh đối với các NHTM trong việc tuân thủ các qui định giám sát.

Định kỳ đánh giá xếp loại các NH trong hệ thống sẽ giúp cho các cơ quan quản lý của NHNN

có được giải pháp chính sách phù hợp với từng NH. Trên cơ sở đánh giá các NH, NHNN cũng

28 Ngọc Lan (2011)

cần phân tách các NH thiếu thanh khoản tạm thời với các NH mất khả năng chi trả, để từ đó thực hiện các biện pháp kiểm soát kịp thời, thay đổi nguyên tắc “không để ngân hàng đổ vỡ”28

39

mà NHNN đã đưa ra, tránh tình trạng cứu trợ tất cả các NH nhằm giảm thiểu rủi ro do tâm lý ỷ

lại, nhờ đó, thúc đẩy các NH phải tuân thủ quy trình về quản trị rủi ro. Kinh nghiệm trong

việc đối mặt với sự đổ vỡ NH năm 1992 của Thụy Điển được đánh giá là thành công đó là

thực hiện nguyên tắc “các chủ NH phải chịu lỗ và mất vốn trước khi chính phủ rót tiền cứu

trợ”. Chính phủ Thụy Điển đã tuyên bố “bảo đảm toàn bộ số vốn của người dân và doanh nghiệp gửi hoặc đầu tư trong hệ thống NH ngoại trừ vốn của giới chủ NH”29

NHNN cần đảm bảo môi trường minh bạch thông tin

Minh bạch thông tin giúp cho NHNN có thể tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các

ngân hàng như công bố xếp hạng tín nhiệm các NH thông qua các tổ chức độc lập, công bố

đầy đủ các thông tin về tình trạng hoạt động của từng NHTM để từ đó giúp cho người gửi tiền

có thể nhìn nhận một NH lành mạnh, đảm bảo việc lựa chọn NH không chỉ dựa vào mức lãi

suất công bố. Việc loại bỏ tình trạng sở hữu chồng chéo về vốn giữa các NH cũng là yêu cầu

cần thiết để NHNN có thể xóa bỏ rào cản đối với hoạt động giám sát của NHNN, minh bạch

trong hoạt động của các NHTM để từ đó có thể can thiệp một cách hiệu quả vào hệ thống NH,

tạo ra một hệ thống NH lành mạnh, và hạn chế việc xảy ra rủi ro với cả hệ thống.

5.2.2 Đối với các NHTM

Để quản lý tốt thanh khoản của cả hệ thống phải cải thiện hoạt động quản lý rủi ro của từng

NH, áp dụng các chuẩn mực quốc tế liên quan đến quản trị rủi ro, và minh bạch thông tin. Như

vậy mới có thể giải quyết được vấn đề một cách triệt để về quản lý thanh khoản, đảm bảo hiệu

quả trong trường sáp nhập các NH yếu kém.

Chính sách quản lý tài sản của các NH phải đảm bảo cân đối giữa mục tiêu lợi nhuận và an

toàn vốn, do đó các NHTM cần tăng tỷ nắm giữ các loại tài sản thanh khoản và các loại TPCP

hợp lý để đảm bảo dự phòng thanh khoản. Đối với nguồn vốn huy động, các NHTM cần chú

trọng việc đa dạng hóa các sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, chính sách khách hàng,

29 Lê Hồng Giang (2012)

chính sách lãi suất, đưa ra các loại tiền gửi hấp dẫn nhằm tăng tỷ trọng vốn huy động trên thị

40

trường dân cư trong tổng nguồn vốn. Đặc biệt là loại bỏ các sản phẩm tiền gửi được phép rút

trước hạn với lãi suất cao để từ đó tạo ra một nguồn cung thanh khoản ổn định.

Ngoài ra, NHTM cần chủ động trong việc xây dựng chính sách thanh khoản trong dài hạn, các

NHTM cần tổ chức và nâng cao vai trò của bộ phận giám sát nội bộ, chú trọng việc dự báo để

xây dựng kế hoạch đối phó với rủi ro thanh khoản, thực hiện quản lý thông tin để ứng phó kịp

thời với các tin đồn có thể ảnh hưởng đến tính thanh khoản của NH.

41

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bạch Hường (2011), “Doanh nghiệp Việt Nam vay vốn đắt gấp 3 lần khu vực”,

vnexpress.net, truy cập ngày 12/4/2012 tại địa chỉ: http://vnexpress.net/gl/kinh-

doanh/2011/04/doanh-nghiep-viet-vay-von-dat-gap-3-lan-khu-vuc/

2. Basel (2000), “Thông lệ tốt nhất về quản lý khả năng thanh toán của các ngân hàng”,

sbv.gov.vn

3. Bích Diệp (2012), “Fitch nghi ngại nợ xấu thực ngân hàng VN cao gấp 4 lần”, Dân Trí,

truy cập ngày 15/4/2012, tại địa chỉ: http://dantri.com.vn/c76/s76-582605/Fitch-nghi-

ngai-no-xau-thuc-ngan-hang-Viet-am-cao-gap-4-lan.htm

4. D.O.Beim & C.W.Calomiris (2012), “Chương 7: Trục trặc với ngân hàng”, Các thị

trường tài chính mới nổi (Tài liệu đọc môn Tài chính phát triển, Chương trình giảng

dạy Kinh tế Fulbright)

5. Hà Anh (2012), “Tái cơ cấu ngân hàng để phát triển hệ thống ngân hàng lớn, đủ sức

cạnh tranh”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 12/3/2012 tại địa chỉ:

http://cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30363&cn_id=500643

6. Lệ Chi, Song Ly (2010), “Lãi suất náo loạn vì Techcombank”, vnexpress.net, truy cập

ngày 12/4/2012 tại địa chỉ: http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2010/12/3ba23f94/

7. Lệ Chi, Tuệ Minh (2011), “Lãi suất liên ngân hàng lên 30% kỳ hạn một tháng”,

ebank.vnexpress.net,truy cập ngày 10/12/2011 tại địa chỉ:

http://ebank.vnexpress.net/gl/ebank//thi-truong/2011/10/lai-suat-lien-ngan-hang-len-

30-ky-han-mot-thang/

8. Lê Hồng Giang (2012), “Tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng: Bài học của Thụy Điển”,

Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, truy cập ngày 12/4/2012 tại địa chỉ:

http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/71812/

9. Minh Đức (2011), “Vietcombank hỗ trợ thanh khoản cho nhiều ngân hàng khó khăn”,

Vneconomy, truy cập ngày 15/3/2012 tại địa chỉ:

42

http://vneconomy.vn/20111103094224784P0C6/vietcombank-ho-tro-thanh-khoan-cho-

nhieu-ngan-hang-kho-khan.htm

10. Minh Yến (2008), “Huy động lãi suất tiền gửi cao nhất là 19,56%/năm”, VTC News,

truy cập ngày 12/4/2012 tại địa chỉ: http://vtc.vn/1-183302/kinh-te/huy-dong-lai-suat-

tien-gui-cao-nhat-la-1956nam.htm

11. Ngân hàng Nhà nước (2010), “Quản lý rủi ro tại các định chế tài chính: Những bài học

kinh nghiệm của Nhật Bản”, truy cập ngày 15/12/2011 tại địa chỉ:

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3g

DFxNLczdTEwMLQ1dLA09_X--

AYNcAQwNzA_2CbEdFAFjmS9E!/?WCM_PORTLET=PC_7_0D497F540O8A70IO

VKL3FS1GE5_WCM&WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/sbv_vn/sbv

_vn/vn.sbv.research/vn.sbv.research.research/MfuPySn-EKPekHeVLffFiZM2010-03-

05-05-28-09

12. Ngân hàng Nhà nước (2010), “Quản trị rủi ro theo hệ thống CAMELs trong hệ thống

ngân hàng Trung quốc”, truy cập ngày 15/12/2011 tại địa chỉ

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3g

DFxNLczdTEwMLQ1dLA09_X--

AYNcAQwNzA_2CbEdFAFjmS9E!/?WCM_PORTLET=PC_7_0D497F540O8A70IO

VKL3FS1GE5_WCM&WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/sbv_vn/sbv

_vn/vn.sbv.research/vn.sbv.research.research/f8a8fd8047e3de48bf22ff8e278a8829

13. Ngân hàng Nhà nước (2011), “Bộ chỉ số lành mạnh tài chính theo tiêu chuẩn IMF” truy

cập ngày 15/12/2011 tại:

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3g

DFxNLczdTEwMLQ1dLA09_X--

AYNcAQwNzA_2CbEdFAFjmS9E!/?WCM_PORTLET=PC_7_0D497F540O8A70IO

VKL3FS1GE5_WCM&WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/sbv_vn/sbv

_vn/vn.sbv.research/vn.sbv.research.research/ada7290047b916c8be66fe8b568b3045

43

14. Ngân hàng Nhà nước (2011), Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 7/9/2011 Về việc chấn

chỉnh việc thực hiện quy định về mức lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam và bằng

đồng đô la Mỹ của các TCTD, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài.

15. Ngọc Lan (2011), “Không để ngân hàng đổ vỡ”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, truy

cập ngày 25/11/2011 tại địa chỉ:

http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/65017/

16. Nguyễn Minh Cường (2012), “Ngân hàng năm 2012: Mối lo từ nợ xấu”, SGTT Media,

truy cập ngày 12/3/2012 tại địa chỉ: http://sgtt.vn/Goc-nhin/158565/Ngan-hang-nam-

2012-moi-lo-tu-no-xau.html

17. Nguyễn Thị Minh Huệ (2009), “Thực trạng hoạt động giám sát của NHNN VN đối với

NHTM”, Tạp chí Ngân hàng số 21/2009

18. Nguyễn Việt Phong, Bùi Trinh, Phạm Đỗ Chí (2012), “Dấu hiệu rõ rệt của đình đốn

sản xuất”, Diễn đàn kinh tế Việt Nam, truy cập ngày 21/4/2012 tại địa chỉ

http://vef.vn/2012-03-29-dau-hieu-ro-ret-cua-dinh-don-san-xuat

19. Nhật Trung (2010), “Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động – những thông lệ

quốc tế”, Tạp chí Ngân hàng số 17/2010

20. Peter S.Rose (2004), “Quản trị Ngân hàng thương mại”, Chương 11: Thanh khoản và

dự trữ – Chính sách và chiến lược quản lý, NXB ĐHKTQD

21. R.Duttweiler (2009), “Quản lý thanh khoản trong Ngân hàng”, NXB Tổng hợp TP

HCM

22. Thanh Hương (2012), “TP HCM: Nhiều doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất trên

19%”, Thời báo kinh tế Sài Gòn Online, truy cập ngày 24/5/2012 tại địa chỉ:

http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/77086/TPHCM-Nhieu-doanh-

nghiep-phai-vay-von-voi-lai-suat-tren-19.html

23. Thủy Triều (2011), “Moody’s nêu 6 thách thức của ngân hàng Việt Nam”, Thời báo

kinh tế Sài Gòn Online, truy cập ngày 12/3/2012 tại địa chỉ

http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/60974/

24. Trang thông tin của NHNN, Lãi suất BQLNH công bố trên website của Ngân hàng nhà

nước http://www.sbv.gov.vn

44

25. Trí Dũng (2010), “Bốn nguyên nhân khiến lãi suất đạt đỉnh”, Trang thông tin cafef.vn

truy cập ngày 12/4/2012 tại: http://cafef.vn/20101210113659780CA34/bon-nguyen-

nhan-khien-lai-suat-dat-dinh.chn

45

Trang thông tin của các NHTM

26. NHTMCP Á Châu, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.acb.com.vn/

27. NHTMCP An Bình, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2010 trên trang web

http://www.abbank.vn/vi/Home/

28. NHTMCP Bảo Việt, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.baovietbank.vn/

29. NHTMCP Công thương VN, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/index.html

30. NHTMCP Đại Á, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.daiabank.com.vn/

31. NHTMCP Đại Dương, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2010 trên trang web

http://www.seabank.com.vn/index.php

32. NHTMCP Đầu tư Phát triển VN, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.bidv.com.vn/

33. NHTMCP Kỹ thương VN, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

https://www.techcombank.com.vn/

34. NHTMCP Nam Việt, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.navibank.com.vn/

35. NHTMCP Ngoại thương VN, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.vietcombank.com.vn/

36. NHTMCP Phát triển Mêkông, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.mdb.com.vn/

37. NHTMCP Phát triển TP HCM, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2010 trên trang web

http://www.hdb.com.vn/

38. NHTMCP Phương Đông, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2010 trên trang web

http://www.ocb.com.vn/

46

39. NHTMCP Phương Tây, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.westernbank.vn/

40. NHTMCP Quân đội, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.mbbank.com.vn/vi/

41. NHTMCP Quốc tế, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.vib.com.vn/default.aspx

42. NHTMCP Sài Gòn Công thương, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.saigonbank.com.vn/

43. NHTMCP Sài Gòn Hà Nội, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2010 trên trang web

http://www.shb.com.vn/

44. NHTMCP Xăng dầu Petrolimex, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2011 trên trang web

http://www.pgbank.com.vn/

45. NHTMCP Xuất Nhập khẩu, Báo cáo tài chính năm 2008 – 2010 trên trang web

http://www.eximbank.com.vn/vn/

47

Tiếng Anh

46. A.Vento (2009), “Bank liquidity risk management and supervision: Which lessons

from recent market tumoil?”, Journal of Money, Investment and Banking.

47. Basel (2008), “Principles for Sound Liquidity Risk Management and Supervision” ,

BIS

48. CH Shen (2009), “Bank liquid risk and performance”

49. Drehmannn M. & Nikolaou K. (2009), “Funding liquidity risk Definition and

Measurement”, ECB

50. Greuning, H. V., & Bratanovic S.B. (2009), “Analyzing Banking Risk”, World Bank

51. Hennie & Sonja (2009), “ Analyzing banking risk: A framework for asessing coporate

governance and financial risk management”, World Bank

52. V.Achrya et al. (2009), “Crisis resolution and bank liquidity”, Working paper 15567

http://www.nber.org/papers/w15567.

48

PHỤ LỤC 1

THÔNG TƯ 13/2010/TT-NHNN QUI ĐỊNH VỀ TỶ LỆ BẢO ĐẢM AN TOÀN CỦA

TCTD (trích)

MỤC 3. TỶ LỆ VỀ KHẢ NĂNG CHI TRẢ

Điều 11. Quản lý khả năng chi trả

1. Tổ chức tín dụng phải thành lập một bộ phận quản lý tài sản “Nợ”, tài sản “Có” (từ cấp

phòng hoặc tương đương trở lên), để theo dõi và quản lý khả năng chi trả hàng ngày. Bộ

phận quản lý tài sản “Nợ”, tài sản “Có” do Tổng Giám đốc (Giám đốc) hoặc Phó Tổng

Giám đốc (Phó Giám đốc) được ủy quyền phụ trách.

2. Tổ chức tín dụng phải xây dựng và ban hành quy định nội bộ về quản lý khả năng chi

trả đối với Đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và đồng đô la Mỹ (bao gồm đồng

đô la mỹ và các ngoại tệ khác còn lại được quy đổi sang đồng đô la Mỹ theo tỷ giá liên

ngân hàng cuối mỗi ngày), trong đó tối thiểu phải có các nội dung sau

3. Quy định nội bộ về quản lý khả năng chi trả phải được Hội đồng quản trị thông qua và

phải được rà soát, xem xét sửa đổi, bổ sung tối thiểu 6 tháng một lần hoặc theo yêu cầu

của Ngân hàng Nhà nước (Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng).

4. Tổ chức tín dụng phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước (Cơ quan Thanh tra, giám sát

ngân hàng)

Điều 12. Tỷ lệ về khả năng chi trả

Cuối mỗi ngày, tổ chức tín dụng phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo các tỷ lệ

về khả năng chi trả cho ngày hôm sau như sau:

1. Tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh toán ngay và tổng Nợ phải trả.

49

2. Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo

kể từ ngày hôm sau và tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ

ngày hôm sau đối với đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và đồng đô la Mỹ (bao

gồm đồng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác còn lại được quy đổi sang đô la Mỹ theo tỷ giá

liên ngân hàng cuối mỗi ngày).

50

PHỤ LỤC 2

THÔNG TƯ SỐ 19/2010/TT-NHNN NGÀY 27/09/2010 SỬA ĐỔI BỔ SUNG MỘT

SỐ ĐIỀU CỦA THÔNG TƯ SỐ 13/2010/TT-NHNN NGÀY 20/5/2010 (trích)

3. Mục 5 được sửa đổi như sau:

“Mục 5. TỶ LỆ CẤP TÍN DỤNG TỪ NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG

Điều 18. Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động

1. Tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với điều kiện

trước và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả và các tỷ lệ bảo đảm

an toàn khác quy định tại Thông tư này và việc cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động

không được vượt quá tỷ lệ dưới đây:

1.1. Đối với ngân hàng: 80%

1.2. Đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng: 85%

2. Cấp tín dụng quy định tại Khoản 1 Điều này bao gồm các hình thức cho vay, cho thuê

tài chính, bao thanh toán, chiết khấu giấy tờ có giá và công cụ chuyển nhượng.

3. Nguồn vốn huy động quy định tại Khoản 1 Điều này bao gồm:

3.1. Tiền gửi của cá nhân dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn;

3.2. Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức, bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức tín dụng

khác và chi nhánh ngân hàng nước ngoài;

3.3. 25% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng).

3.4. Tiền vay của tổ chức trong nước, tiền vay của tổ chức tín dụng khác có kỳ hạn từ 3

tháng trở lên (trừ tiền vay của tổ chức tín dụng khác trong nước để bù đắp thiếu hụt tạm

thời đối với các tỷ lệ về khả năng chi trả theo quy định tại Khoản 1, Điều 14) và tiền vay

của tổ chức tín dụng nước ngoài;

51

3.5. Vốn huy động từ tổ chức, cá nhân dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá.”

4. Phụ lục 2 về Bảng theo dõi tỷ lệ khả năng chi trả được sửa đổi như sau:

a) “Đơn vị: triệu đồng” được sửa đổi thành “Đơn vị: triệu đồng/EUR/GBP/USD”;

b) Giới hạn quy định: “Lớn hơn 1” tại cột (5) được sửa đổi thành “Lớn hơn hoặc bằng 1”.

52

Nguồn: CafeF.vn (2012)

PHỤ LỤC 3