intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, những vấn đề lý luận và thực tiễn

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

63
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với đề tài này, tác giả nhằm làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc bồi thường thiệt hại khi có sự xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng. Từ đó, đưa ra những giải pháp thiết thực để góp phần giải quyết những bất cập, tồn tại của những quy định pháp luật, hướng đến đảm bảo một cách tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và quyền được bồi thường thiệt hại nói riêng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, những vấn đề lý luận và thực tiễn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HOÀNG THỦY BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG, NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH ĐÀO TRÍ ÚC HÀ NỘI - 2013
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Hoàng Thủy
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài ............................................... 4 4. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4 6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 5 7. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 5 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG ................................................. 6 1.1 Khái quát chung về người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng ........ 6 1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng ............. 6 1.1.2 Đặc điểm của người tiêu dùng Việt Nam............................................ 12 1.1.3 Các quyền cơ bản của người tiêu dùng ............................................... 18 1.2 Khái niệm và đặc điểm của bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ................................................................... 26 1.2.1 Khái niệm ............................................................................................ 26 1.2.2 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ................................................................... 28 1.2.3 Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .............................................................................. 44 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG ...................................................................................... 47
  4. 2.1 Cơ sở pháp lý về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .............................................................................................. 47 2.2 Thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ...................... 51 2.2.1 Sơ lược lịch sử chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .............................................................................. 51 2.2.2 Những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng và nguyên nhân........ 54 2.2.3 Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ................................................................... 67 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG ............. 86 3.1 Quan điểm hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ................................................................... 86 3.1.1 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng điều chỉnh đối với người tiêu dùng...... 86 3.1.2 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng điều chỉnh đối với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh .................................................................... 87 3.1.3 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội ............................................................................................. 89 3.2 Phương hướng cơ bản hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ..................................................... 90 3.3 Các giải pháp hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ......................................................... 93 3.3.1 Hệ thống hóa, pháp điển hóa pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ..................................................... 93 3.3.2 Các giải pháp để tăng hiệu quả việc thực thi pháp luật ...................... 96 KẾT LUẬN .................................................................................................. 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây ngày càng phát triển và đạt được những kết quả quan trọng. Việc hòa nhập vào nền kinh tế thế giới vừa tạo ra những cơ hội phát triển nhưng đồng thời cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước những thách thức mới. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO, là thành viên của ASEAN, APEC. Điều đó đồng nghĩa với việc hàng hóa, sản phẩm nước ngoài sẽ tràn vào thị trường Việt Nam và tất yếu là cạnh tranh sẽ vô cùng khốc liệt. Tính hai mặt của vấn đề này ngày càng được thể hiện rõ nét. Xét về mặt tích cực, người tiêu dùng sẽ được lợi khi có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn sản phẩm chất lượng tốt và phù hợp với túi tiền của mình nhưng ngược lại mặt trái của vấn đề cũng là ở chỗ đó. Một khi người tiêu dùng đứng trước các sản phẩm hàng hóa vô cùng phong phú, đa dạng, nhà sản xuất nào cũng tung ra các chiêu thức quảng cáo sản phẩm mình là tốt nhất thì người tiêu dùng có thực sự dễ dàng khi lựa chọn được sản phẩm chất lượng như ý? Có một thực tế mà chúng ta dễ dàng nhận ra là chưa khi nào vấn đề người tiêu dùng lại được đặt ra cấp thiết như hiện nay. Đặc biệt trong thời gian gần đây, trên thị trường xuất hiện nhiều phương thức kinh doanh mới như bán hàng qua mạng, qua điện thoại… giao dịch điện tử để để đặt mua hàng hóa, dịch vụ từ một nước khác cũng đang phát triển. Những phương tiện giao dịch hiện đại tạo sự thuận tiện cho các bên nhưng bên cạnh những tiện ích thì đây cũng là môi trường làm phát sinh những hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ngày một tinh vi và phức tạp hơn. Người tiêu dùng là một tác nhân kinh tế quan trọng và chiếm số lượng đông đảo trong xã hội nhưng lại bị vi phạm quyền lợi nhiều nhất. Gần đây, 1
  6. trên thực tế đã xảy ra các vụ vi phạm của các nhà sản xuất, kinh doanh mà người tiêu dùng là đối tượng bị xâm phạm quyền lợi. Đã có nhiều vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng liên quan đến thực phẩm bị nhiễm độc; buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng v.v… Cụ thể hàng loạt các vụ vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của người tiêu dùng được phát hiện như vụ xăng pha aceton, vụ nước tương nhiễm chất 3-MCPD, vụ gian lận xăng dầu hay gần đây nhất là việc phát hiện hàng loạt các cơ sở kinh doanh mỡ động vật không rõ nguồn gốc xuất xứ, vụ sữa melamine trẻ em, vụ mũ bảo hiểm không bảo đảm chất lượng… Những vụ việc này đã gây thiệt hại không chỉ về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe thậm chí là tính mạng của người tiêu dùng. Thực tế trên đã cho thấy tình trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ngày càng trở nên phổ biến. Vậy thực sự thì điều mà người tiêu dùng cần nhất ở đây là gì? Đó là một cơ chế bảo vệ quyền lợi cho họ và hơn nữa là bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Khi người tiêu dùng tham gia vào giao lưu dân sự họ sẽ không nghĩ đến vấn đề bảo vệ quyền lợi của mình ra sao nếu sản phẩm mà họ được cung ứng không có vấn đề gì nhưng khi có sự vi phạm từ phía nhà sản xuất họ mới nghĩ đến quyền lợi của mình và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chính vì lẽ đó giải quyết được vấn đề bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng sẽ giúp bảo vệ người tiêu dùng một cách thiết thực nhất, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Có nhiều công cụ để thực hiện nhưng hiện nay pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất để từ đó có thể kết hợp hiệu quả với các biện pháp, công cụ khác. Tuy nhiên, pháp luật trong lĩnh vực này còn bộc lộ khá nhiều thiếu sót, bất cập cần phải được hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, những vấn đề lý luận và thực tiễn” cho đề tài luận văn thạc sỹ Luật học. 2
  7. 2. Tình hình nghiên cứu Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là vấn đề được rất nhiều đối tượng quan tâm và đang là vấn đề còn nhiều tranh luận. Luật “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” số 59/2010/QH12 của Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực ngày 1/7/2011 đã góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng các biện pháp chế tài nói chung, biện pháp bồi thường thiệt hại nói riêng cho người tiêu dùng khi họ bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp vẫn còn nhiều bất cập. Liên quan đến vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu và nhiều bài viết như “Những vấn đề bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam” của Đoàn Văn Trường, NXB Khoa học và kỹ thuật hay “Tìm hiểu luật bảo vệ người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam” của Viện Nhà nước và pháp luật, NXB Lao động 1999; “Khách hàng là thượng đế” của tác giả Phạm Côn Sơn, NXB Phương Đông năm 2006; “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và trách nhiệm của chúng ta” của tác giả Lê Văn Thiệu (Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam); “Người tiêu dùng trước xu thế hội nhập thị trường khu vực AFTA” của TS. Nguyễn Mộng Hùng… Vấn đề này cũng được đề cập ở các báo và tạp chí như “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật cạnh tranh” của tác giả Ngô Vĩnh Bạch Dương, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2000; TS. Nguyễn Văn Vân với “Hợp đồng theo mẫu và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Đặc san khoa học pháp lý… “Đặc điểm văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới” của Viện Nghiên Cứu Tư Vấn Phát Triển Xã Hội - Trường ĐH Quốc Gia TP.HCM (2009) được đăng trên http://vicongdong.vn, ngày 10/05; “Vì sao người tiêu dùng vẫn chưa "mặn mà" với Vinastas” của tác giả Y Nhung (2010) đăng trên http://vneconomy, ngày 14/10… Tuy nhiên, các công trình và các bài viết nêu trên chỉ tiếp cận ở góc độ khái quát về khoa học pháp lý 3
  8. đối với bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng hoặc nghiên cứu nó trong từng lĩnh vực, dưới những góc độ khác nhau hay là những vấn đề cụ thể mang tính thời sự. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể và chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Yêu cầu có những công trình nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề này để rút ra được những cơ sở lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng vì thế thật sự cần thiết đối với mọi người nói chung, người tiêu dùng nói riêng. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài Với đề tài này, tác giả nhằm làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc bồi thường thiệt hại khi có sự xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng. Từ đó, đưa ra những giải pháp thiết thực để góp phần giải quyết những bất cập, tồn tại của những quy định pháp luật, hướng đến đảm bảo một cách tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và quyền được bồi thường thiệt hại nói riêng. 4. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ một luận văn, tác giả không có tham vọng nghiên cứu và trình bày tất cả những vấn đề liên quan đến người tiêu dùng mà chỉ nghiên cứu ở khía cạnh bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng với tính chất là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong luật dân sự. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để làm sáng tỏ được nội dung cần nghiên cứu một cách tốt nhất, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá 4
  9. trình nghiên cứu, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp kết hợp so sánh với pháp luật một số nước cũng có những quy định về vấn đề này. Bên cạnh đó, tác giả nêu và bình luận một số quan điểm khoa học, pháp lý liên quan đến đề tài. Cụ thể: Ở Chương 1, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phân tích, tổng hợp so sánh, ở Chương 2 sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, bình luận, liên hệ các vụ việc thực tế và ở Chương 3 sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phân tích. 6. Đóng góp của đề tài - Tác giả thực hiện đề tài với ý nghĩa mang đến cho người đọc cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về khía cạnh pháp lý bồi thường thiệt hại khi có sự xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, thu hút sự quan tâm của các cơ quan chức năng đến vấn đề đang mang tính thời sự này để từ đây có những hướng nghiên cứu, sáng tạo hoàn thiện pháp luật và nâng cao tính khả thi của pháp luật, đồng thời nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, của toàn xã hội và trách nhiệm của cộng đồng trong việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng nói chung và quyền được bồi thường nói riêng. - Đề tài có thể là tài liệu tham khảo thêm của những người quan tâm. 7. Kết cấu của đề tài Kết cấu của đề tài gồm có 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về quyền lợi người tiêu dùng và bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. 5
  10. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG 1.1 Khái quát chung về ngƣời tiêu dùng và quyền lợi của ngƣời tiêu dùng 1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng Nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó mọi cá nhân, tổ chức đều được tự do sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật. Xã hội có người bán, người mua và quan hệ mua – bán được điều tiết theo quy luật cung cầu của thị trường. Lúc này, một trong những vấn đề được xã hội quan tâm hàng đầu là vấn đề người tiêu dùng. Tuy nhiên, chúng ta hãy quay ngược thời gian nhìn lại quá khứ, khi mà nền kinh tế mới chỉ là “tự cung tự cấp”. Lúc đó xã hội có sản xuất và có tiêu thụ nhưng sản phẩm làm ra là để phục vụ ngay cho cuộc sống của người sản xuất, cho chính nhu cầu sinh hoạt của họ, có chăng cũng chỉ là sự trao đổi vật phẩm ở mức độ sơ khởi nhất. Mặc dù vậy đây cũng là những hình thái ban đầu của sự tiêu dùng, thời kì này chưa có khái niệm người tiêu dùng với đầy đủ ý nghĩa và đặc điểm như hiện nay chúng ta đang sử dụng. Bước sang nền kinh tế quản lý hành chính, bao cấp, việc cung ứng hàng hóa hay tiêu thụ sản phẩm đều nằm dưới sự quản lý của Nhà nước và được điều chỉnh, phân phối thông qua chế độ tem phiếu. Người sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ là Nhà nước còn người mua và sử dụng là người dân. Tuy nhiên, người dân hoàn toàn thụ động, không hề có sự chọn lựa. Thậm chí có những mặt hàng được Nhà nước phân phối không đúng với nhu cầu của họ nhưng vì nhà nước “cho” nên họ vẫn nhận. Mặt khác, 6
  11. hầu hết người dân cũng không đủ khả năng kinh tế để mua sản phẩm ngoài phân phối hay những mặt hàng do tư nhân cung cấp. Mặc dù xã hội đã có sự phân chia “người sản xuất” và “người tiêu dùng” nhưng lúc này vấn đề người tiêu dùng vẫn chưa được đặt ra. Với nền kinh tế thị trường, chúng ta dễ dàng nhận ra những ưu điểm vượt trội của nó so với những nền kinh tế trước đây. Đặc biệt, “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” [14.Điều 15]. “Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật” [14.Điều 16]. Nhà nước đã chấm dứt sự độc quyền, mở ra cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Đây là một tất yếu của sự phát triển và cũng từ đó mà vấn đề người tiêu dùng chính thức được đề cập đến ở phương diện mới mẻ. Khái niệm người tiêu dùng được hiểu ở nhiều góc cạnh khác nhau nhưng hầu hết đều phản ánh được đầy đủ bản chất, đặc điểm và vị trí của chủ thể này trong các mối quan hệ của nền kinh tế, đặc biệt là mối quan hệ cung - cầu. Ở Việt Nam, vấn đề người tiêu dùng mới xuất hiện một số năm gần đây. Nhiều nước trên thế giới đã đi trước chúng ta vài chục năm và việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có nhiều bước phát triển lớn. Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về người tiêu dùng: “IOCU” (International Organization of Consumer Unions) - Tổ chức Quốc tế người tiêu dùng được thành lập vào 01/04/1960 do 5 nước Mỹ, Anh, Hà Lan, Bỉ, Úc ký quyết định trong “Hội nghị quốc tế khuyến khích và thử 7
  12. nghiệm, người tiêu dùng” tại La Hay; đến năm 1985 đổi tên thành “CI” (Consumer International). Theo Luật mẫu bảo vệ người tiêu dùng của tổ chức này thì “người tiêu dùng có nghĩa là người yêu cầu hay sử dụng hàng hóa hay dịch vụ cho những mục đích cá nhân, trong gia đình hay nội trợ”. [7] Trong lời phát biểu tại Thượng viện Mỹ ngày 15/03/1962 tổng thống Mỹ John Kenedy đã nói một câu nổi tiếng: “người tiêu dùng theo định nghĩa, bao gồm toàn thể chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo nhất, có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các quyết định về kinh tế, dù là của Nhà nước hay tư nhân”. Theo Bộ luật Dân sự của Cộng hòa liên bang Đức: “Người tiêu dùng là bất kỳ một thể nhân nào khi ký kết một giao dịch pháp lý không nhằm mục đích kinh doanh và cũng không phục vụ hoạt động hành nghề độc lập của mình”. [6] Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan: “Người tiêu dùng là những người tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vì mục đích tiêu dùng.” [6] Luật Bảo vệ người tiêu dùng Malaysia 1999: “người tiêu dùng là người mua hoặc sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ cho mục đích sinh hoạt cá nhân hoặc sinh hoạt gia đình… và không gồm việc mua hoặc sử dụng hàng hóa vì mục đích chính để bán lại hoặc đưa vào quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ khác hoặc để dùng cho việc sửa chữa, gắn thêm vào hàng hóa khác.” [6] Trong Từ điển cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau: Consumer – người tiêu dùng: “Bất cứ đơn vị kinh tế nào có nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng. Thông thường, người tiêu dùng được coi là một cá nhân nhưng trên thực tế, người tiêu dùng có thể là các cơ quan, các cá nhân và các nhóm cá nhân. Trong trường hợp cuối cùng, điều đáng lưu ý là để có các quyết định, đơn vị tiêu dùng là hộ gia đình chứ không phải của cá nhân. Điều này có ý nghĩa vì cho tới nay, các hộ có thể chấp nhận 8
  13. các quyết định “nhóm” dựa trên sự kết hợp các mong muốn của cá nhân trong gia đình, hoặc thậm chí có khả năng dựa trên phán quyết mang tính gia trưởng trong gia đình. Vì vậy, cầu của người tiêu dùng có thể được xem xét một phần trong bối cảnh quyết định nhóm phản ánh hàm phúc lợi xã hội bao quát mọi thành viên trong hộ gia đình.”[28]. Hay là: Consumer – người tiêu dùng là “đơn vị tiêu dùng, đơn vị cầu cơ bản trong lý thuyết kinh tế. Trong lý thuyết kinh tế, một đơn vị tiêu dùng có thể hoặc là một cá nhân hoặc là một hộ gia đình hoặc là một Chính phủ có mua một sản vật hay dịch vụ để sử dụng cho nhu cầu nào đó, miễn là không phải để đem bán lại.” [27] Nhiều cách định nghĩa khác nhau chứng tỏ một điều là trên thế giới, trong khoa học chưa có sự thống nhất khái niệm người tiêu dùng. Tuy vậy, cho dù đây là một khái niệm có nội hàm rộng nhưng không phải là quá trừu tượng. Để hiểu đúng và hiểu chính xác vấn đề không đơn giản nhưng hầu như ai cũng có thể hiểu một cách căn bản bởi trong số chúng ta ai cũng sẽ có lúc đóng vai trò là người tiêu dùng trong xã hội. Hầu hết các định nghĩa đều hướng đến hành vi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt (không nhằm mục đích kinh doanh hay bán lại kiếm lời). Việt Nam sau Đại hộ Đảng lần thứ VI bước vào thời kỳ đổi mới đã có những chính sách bước đầu thể hiện sự quan tâm đến vấn đề người tiêu dùng. Tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, năm 2011, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nước CHXHCN Việt Nam có hiệu lực. Trong đó định nghĩa về người tiêu dùng như sau: “người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.” [23.Khoản 1, Điều 3]. Cách định nghĩa như trên khá gọn, súc tích, nêu bật và đi thẳng vào vấn đề, nêu lên bản chất của người tiêu dùng. Theo đó, ta có thể hiểu người tiêu dùng theo nghĩa rộng bao gồm cả cá nhân, tổ chức nhưng khái niệm cũng được giới hạn bởi “mục đích”. Người 9
  14. tiêu dùng có thể là người mua đồng thời là người sử dụng; cũng có thể mua để tặng, cho; mua để phục vụ chung cho nhu cầu của toàn gia đình hay cho tổ chức nhưng mục đích ở đây đều là “tiêu dùng sinh hoạt”, nói chung là các yếu tố đầu vào để tổ chức phục vụ cho hoạt động của tổ chức mình (có thể là thỏa mãn tiêu dùng gia đình, tiêu dùng trong Hội, Đoàn…). Như vậy, Luật đã loại bỏ các chủ thể mua sắm hàng hóa hay sử dụng dịch vụ vào mục đích kinh doanh (đây cũng là cách hiểu phổ biến hiện nay về khái niệm người tiêu dùng). Tương tự như vậy, ta có thể phân biệt khái niệm người tiêu dùng (consumer) hoặc người tiêu dùng cuối cùng (end consumer) với khái niệm khách hàng (customer). Khái niệm “khách hàng” mang nghĩa rộng hơn, dùng để chỉ người mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc làm nguyên liệu cho sản xuất, kinh doanh. Do vậy, người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Bên cạnh khái niệm “người tiêu dùng”, một khái niệm nữa chúng ta cần làm rõ đó là khái niệm “quyền lợi người tiêu dùng”. Quyền lợi của người tiêu dùng là một trong những quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của nhiều nước trên thế giới và được xã hội tôn trọng. Tuy nhiên, trong khoa học nói chung cũng như trong khoa học pháp lý và thậm chí trong Bản hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng cũng chỉ nêu ra những quyền cơ bản của người tiêu dùng mà không có khái niệm quyền lợi của người tiêu dùng. Khi được hỏi, các nhà khoa học thường chỉ đưa ra những quan điểm, những lập luận chung nhất. Hiện nay chưa có một khái niệm chính thống nào giải thích về quyền lợi của người tiêu dùng. Theo Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật: “Lợi ích của người tiêu dùng ở đây được hiểu là những điều có lợi, có ích (trong đó có lợi ích kinh tế) cho người tiêu dùng thông qua việc thực hiện được những quyền của người 10
  15. tiêu dùng”[37]. Định nghĩa như vậy vẫn khá chung chung và “luẩn quẩn” chưa nêu bật được những điều căn bản để mọi người dân đều có thể hiểu thế nào là quyền của người tiêu dùng. Trong Từ điển Kinh tế có định nghĩa: “Consumer sovereignty (quyền quyết định của người tiêu dùng; chủ quyền của người tiêu dùng): những người tiêu dùng là những người sau cùng mua các mặt hàng và dịch vụ, do đó có quyền quyết định đòi phải sản xuất những gì. Điều đó hàm nghĩa rằng nếu những người tiêu dùng có nhu cầu lớn hơn thì sản vật phải được cung ứng nhiều hơn và rằng trong nền kinh tế thị trường tự do các nhà sản xuất chỉ là “những tác nhân thụ động” chỉ đáp ứng lại cái mà những người tiêu dùng muốn có. Tuy nhiên, trong một số loại thị trường khác (cụ thể là trong thị trường có vài công ty độc quyền hay trong thị trường có một công ty độc quyền) các nhà sản xuất lại có quyền lực mạnh mẽ đối với những người tiêu dùng đến mức chính họ là người thực sự quy định phạm vi lựa chọn của người tiêu dùng” [27]. Việc định nghĩa như trên khá trừu tượng lại thiên về bản chất kinh tế của vấn đề và cũng chưa giúp người đọc có thể hiểu rõ về quyền của người tiêu dùng. Dựa trên những kiến thức lý luận cơ bản và những đúc kết khoa học ta có thể đưa ra một định nghĩa như sau về quyền lợi của người tiêu dùng: Quyền lợi của người tiêu dùng đó là khả năng của người tiêu dùng được Nhà nước cho phép và ghi nhận trong pháp luật cũng như những lợi ích vật chất và tinh thần mà người tiêu dùng được hưởng từ việc được Nhà nước bảo hộ những khả năng trên. Khi đã hiểu một cách khái quát nhất về quyền lợi của người tiêu dùng, ta có thể tiếp cận đến những quyền cụ thể của người tiêu dùng và phân tích ở những góc độ chính xác và đúng đắn nhất. 11
  16. 1.1.2 Đặc điểm của người tiêu dùng Việt Nam Để khái quát được đặc điểm của người tiêu dùng không phải là điều dễ dàng bởi vì trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, kinh tế khác nhau thì Nhà nước có các chính sách, chế độ khác nhau và nhận thức của người tiêu dùng cũng khác. Bên cạnh đó là sự khác biệt về trình độ dân trí giữa các vùng, miền, giữa nông thôn với thành thị, miền núi với đồng bằng… Bởi vậy, không thể xét đặc điểm của bộ phận để khái quát nên toàn bộ, cũng không thể nhìn phiến diện ở một mặt nào đó mà ta phải có cái nhìn bao quát, tổng thể đồng thời phân tích vấn đề ở từng giai đoạn khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu lựa chọn xếp hạng 30/185 nền kinh tế có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới vừa được tập đoàn tư vấn AT Kearney công bố, “Chỉ số phát triển bán lẻ chung năm 2007” (GRDI) của Việt Nam đạt 74 điểm, xếp thứ 4 sau Ấn Độ và Nga, Trung Quốc. Năm 2008, thị trường bán lẻ nước ta “qua mặt” cả ba “người khổng lồ” Ấn Độ, Nga và Trung Quốc để chiếm thứ hai trong “làng bán lẻ” thế giới. Năm 2009, đạt 55 điểm, tuy có giảm trong bảng xếp hạng, nhưng nếu ổn định được tình hình vĩ mô và khôi phục được sự hấp dẫn, thì tương lai phát triển của thị trường bán lẻ nước ta sẽ rất sáng trở lại[31]. Điều này cho thấy trong những năm gần đây, người Việt Nam đầu tư khá nhiều cho tiêu dùng. Cùng với việc mở cửa cũng như hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã trở thành một trong những thị trường thu hút các nhà đầu tư. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp trong nước cũng ý thức được điều này nên sẵn sàng đầu tư công nghệ, cải tiến dây chuyền sản xuất để có thể cung cấp những mặt hàng tốt nhất, đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì vậy, người tiêu dùng Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình. Theo kết quả khảo sát của AC Nielsen thực hiện tại 47 nước trên thế giới về mức độ niềm 12
  17. tin người tiêu dùng những tháng đầu năm 2007, 50% người tiêu dùng Việt Nam cho biết sẽ chi tiêu cho việc mua sắm hàng điện máy công nghệ mới. Đây là tỉ lệ cao nhất trong số các nước được khảo sát về khoản chi tiêu cho loại hàng này, kế đến là Đức (45%), Nga (44%), cuối bảng là Thổ Nhĩ Kỳ (36%). Nhóm hàng được ưa thích thứ hai mà người tiêu dùng Việt Nam chi mạnh tay là áo quần. Một lĩnh vực đầu tư mới của người tiêu dùng Việt Nam là chứng khoán. Việt Nam đứng thứ chín trong nhóm mười nước và lãnh thổ có người dân đầu tư nhiều nhất vào chứng khoán với 26%. Đứng đầu vẫn là Hong Kong (58%). (Cuộc khảo sát được thực hiện trên mạng từ 16/4 đến 1/5/2007 bằng cách phỏng vấn 26.485 người sử dụng Internet trên 47 quốc gia). Hàng hóa có thương hiệu nổi tiếng qua nhiều năm thường được đánh giá cao và thường được lựa chọn nhiều hơn vì họ cho rằng mặc dù giá cao hơn nhưng sẽ được đảm bảo về chất lượng cũng như an toàn hơn trong khâu sử dụng. Điều này tạo tâm lý an tâm cho người tiêu dùng. Mặt khác, tuy chất lượng sản phẩm là một điều quan trọng nhưng hiện nay những yếu tố về thẩm mỹ, về mẫu mã, cung cách, thái độ phục vụ cũng được người tiêu dùng chú trọng và đôi khi đó lại là điều quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng. Một khi mức sống được nâng lên, người dân có khả năng kinh tế thì tâm lý “ăn chắc mặc bền” cũng dần mất đi. Ý thức của người tiêu dùng về quyền và nghĩa vụ của mình cũng được nâng cao, kiến thức về tiêu dùng được cập nhật qua nhiều kênh thông tin. Trong tiêu dùng, người tiêu dùng Việt Nam đã có sự quan tâm đến tiêu dùng xanh, tiêu dùng bền vững. Đó là một sự thể hiện ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng của người tiêu dùng Việt Nam. “Thực tế của xã hội nước ta trong những năm đổi mới gần đây đã chứng minh là tính năng động của xã hội – bắt nguồn từ tính năng động của mỗi cá nhân đã được nâng cao rõ rệt. Sự tăng tiến này có nguồn gốc từ sự mở rộng phạm vi hoạt động của sản xuất và gắn liền với nó là tăng cường thỏa 13
  18. mãn chất lượng của nhu cầu”[33]. Thực tế có một lớp người tiêu dùng có trình độ cao, họ am hiểu về kỹ thuật và tính năng của sản phẩm bởi vậy họ cũng đòi hỏi ở nhà sản xuất những mặt hàng tốt nhất và đương nhiên những người như vậy cũng không thụ động ngồi chờ maketings của nhân viên cũng như họ sẵn sàng khiếu nại khi hàng hóa, dịch vụ có vấn đề… số lượng những người tiêu dùng như vậy dần tăng lên nhất là tại các thành phố, đô thị lớn. Tóm lại, nền văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới sẽ gồm 03 đặc điểm căn bản sau: Tiêu dùng dựa trên giá trị; tiêu dùng thông minh và tiêu dùng có trách nhiệm [39]. Những đặc điểm này được hiểu như sau: * Thứ nhất, tiêu dùng dựa trên giá trị Trong nền Văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới, người tiêu dùng sẽ không còn bị động chờ đợi, tìm kiếm những giá trị trong hàng hóa – dịch vụ, mà người tiêu dùng trở nên chủ động “đặt hàng” với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những sản phẩm phù hợp những chuẩn mực về giá trị mà mình yêu cầu. Để chứng minh giá trị một thương hiệu hàng hóa đó, doanh nghiệp phải làm rõ đồng thời 03 nội dung mà cộng đồng tiêu dùng có thể chấp nhận và nhận diện được: Chất lượng sản phẩm – Trách nhiệm xã hội - Văn hóa kinh doanh. Tiêu dùng dựa trên giá trị là hành vi lựa chọn những sản phẩm - dịch vụ tốt, bền, giá cả phù hợp, thỏa mãn cao nhất nhu cầu cá nhân của người tiêu dùng. Tức tiêu dùng là hoạt động sử dụng giá trị của sản phẩm hay dịch vụ nào đó để thỏa mãn nhu cầu nhất định của mình. Là lực lượng chủ động, có quyền lực thực sự, giúp nuôi dưỡng và phát triển doanh nghiệp, thể hiện tinh thần trách nhiệm với sự phát triển xã hội - quốc gia. Khi người tiêu dùng chọn mua giá trị trong hàng hóa cũng đồng nghĩa họ thúc đẩy doanh nghiệp tạo ra các giá trị khác. Như vậy, chọn mua sản phẩm tức là chọn mua doanh nghiệp, người tiêu dùng cần tìm hiểu doanh nghiệp trước khi chọn mua sản phẩm. Một nền Văn hóa tiêu dùng Việt Nam 14
  19. mới theo chủ nghĩa giá trị không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng, mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng sáng tạo ra giá trị phục vụ cộng đồng. Nói cách khác, tiêu dùng có thể tác động đến doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa phù hợp với yêu cầu về giá trị mà tiêu dùng đặt ra. Đồng thời, thông qua các nội dung cốt lõi của văn hóa tiêu dùng doanh nghiệp tìm thấy con đường để định hướng doanh nghiệp phát triển phù hợp kỳ vọng và lợi ích cộng đồng. Triết lý “Tiêu dùng tạo ra giá trị” cũng đặt ra vấn đề rất mới về mối tương quan giữa tiêu dùng và sản xuất kinh doanh: mỗi hành vi tiêu dùng thông qua doanh nghiệp đều gián tiếp đóng góp giá trị cá nhân vào hệ thống giá trị chung của xã hội. * Thứ hai, tiêu dùng thông minh Tiêu dùng thông minh là hành vi tiêu dùng dựa trên tư duy nhận thức, tiêu dùng những gì mình biết, mình hiểu rõ, tập hợp những thông tin đầy đủ của sản phẩm, của doanh nghiệp để đưa ra quyết định đúng đắn, không bị tác động của các tiêu dùng khác để bảo vệ lợi ích bản thân, cộng đồng và xã hội. * Thứ ba, tiêu dùng có trách nhiệm Tiêu dùng có trách nhiệm là hành vi tiêu dùng mang tính xã hội cao. Người tiêu dùng có trách nhiệm không chỉ là biết tiêu dùng những hàng hóa - dịch vụ thỏa mãn nhu cầu đời sống cá nhân, biết lựa chọn những hàng hóa trong nước sản xuất mà còn biết lựa chọn hàng hóa của những doanh nghiệp có trách nhiệm với xã hội, đóng góp cho sự phát triển kinh tế cùng với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng và xã hội. Bên cạnh đó còn biết thể hiện quyền lực tối thượng của mình đối với những doanh nghiệp có hành vi xâm phạm đến quyền lợi tiêu dùng, vi phạm pháp luật. Tiêu dùng có trách nhiệm không chỉ là hưởng thụ. Việc tiêu dùng có 15
  20. trách nhiệm là một phần không thể tách rời của kinh doanh có trách nhiệm. Chính khách hàng là nhân tố thúc đẩy các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ thay đổi quan niệm về thương mại. Chính người tiêu dùng là động lực ủng hộ, định hướng sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường. Cộng đồng tiêu dùng sẽ cổ súy tinh thần và phong trào sử dụng sản phẩm sinh thái, thân thiện môi trường sống của doanh nghiệp và sẽ liên kết lại, chia sẻ thông tin và trừng phạt những doanh nghiệp làm ăn gian dối, thiếu đạo đức. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có mặt trái, văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề đáng quan tâm. Việc tiêu dùng một cách lãng phí, xa hoa… không phải là không tồn tại trong xã hội Việt Nam hiện nay. Đồng thời, hơn 20 năm sau đổi mới, số không nhỏ người tiêu dùng Việt Nam vẫn chưa làm quen với văn hóa tiêu dùng hiện đại. Cách đây một vài năm người tiêu dùng chỉ quen mua sắm tại chợ, đặc biệt là các chợ cóc, chợ tạm mọc lên ở khắp mọi nơi. Đi đâu ta cũng có thể thấy cảnh mua bán, ngã giá ngay dưới lòng đường hay trên vỉa hè vừa mất mỹ quan, vừa gây mất trật tự an toàn giao thông. Lực lượng trật tự đô thị giải quyết không xuể. Tình hình chỉ tạm lắng khi Chính phủ ban hành bởi Nghị định số 14/2003/NĐ-CP ngày 19/02/2003 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giao thông đường bộ, trong đó có những quy định hướng dẫn về việc bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị. Cuộc sống hiện đại ngày nay cũng làm thay đổi thói quen người tiêu dùng, thay vì mua hàng tại chợ họ đến siêu thị. Có thể chỉ để tham khảo giá cả nhưng hầu hết là để mua khối lượng hàng lớn cho nhiều ngày. Tuy nhiên, đó chỉ là mặt tích cực nhưng nếu chúng ta chịu để ý quan sát thì sẽ không mấy khó khăn để nhận ra cảnh không đẹp mắt. Người ta lựa hàng hóa tại các quầy khác nhau nhưng khi không mua nữa họ không xếp lại quầy cũ mà bỏ lại ở những 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2