intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

405
lượt xem
47
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về ly hôn và căn cứ ly hôn, áp dụng căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014; phát hiện vướng mắc, bất cập quy định nội dung căn cứ ly hôn về lý luận và thực tiễn áp dụng; từ đó nêu các kiến nghị, đề xuất giải pháp để hoàn thiện căn cứ ly hôn theo pháp luật về HN&GĐ Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ THÙY LINH CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LY HÔN LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ THÙY LINH CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LY HÔN Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Cừ Hà Nội - 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, với sự hƣớng dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Cừ, Giảng viên Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Dƣơng Thị Thùy Linh
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƢƠNG 1............................................................................................................ 7 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN ........................................................ 7 1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn ................................................................. 7 1.1.1. Khái niệm ly hôn .......................................................................................... 7 1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn............................................................................. 11 1.1.3. Cơ sở và ý nghĩacủa việc quy định căn cứ ly hôn ...................................... 13 1.2. Khái lƣợc pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn lịch sử .. 14 1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến ...................................... 14 1.2.2. Căn cứ ly hôn thời kỳ Pháp thuộc .............................................................. 18 1.2.3. Căn cứ ly hôn thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay ........... 21 1.3. Căn cứ ly hôn theo quy định của một số nƣớc trên thế giới ......................... 25 1.3.1. Căn cứ ly hôn theo quy định của Thái Lan ................................................ 25 1.3.2. Căn cứ ly hôn theo quy định của Cộng hòa Pháp ..................................... 27 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 ..................................................................... 31 2.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ, chồng thuận tình ly hôn ...................... 32 2.2. Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của của một bên ........ 42 2.2.3. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu ly hôn ..................... 60 CHƢƠNG 3.......................................................................................................... 66 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ LY HÔN .. 66 3.1. Một số vƣớng mắc, bất cập ........................................................................... 66 3.2. Kiến nghị hoàn thiện ..................................................................................... 72 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 83
  5. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật Dân sự BLHS: Bộ luật Hình sự BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự HN&GĐ: Hôn nhân và gia đình TAND: Tòa án nhân dân
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ ngàn xƣa, gia đình Việt Nam đã mang truyền thống tốt đẹp với những giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc Lạc Hồng. Gia đình là tổ ấm mang lại hạnh phúc, là sự hài hòa cho đời sống của mỗi thành viên trong gia đình, mỗi cá nhân trong xã hội. Gia đình êm ấm, hạnh phúc sẽ là hành trang, là nền tảng để mỗi cá nhân phát huy hết năng lực của mình, góp phần xây dựng đất nƣớc ổn định, phồn vinh và phát triển. Ngày nay, trong bối cảnh đất nƣớc bƣớc sang giai đoạn phát triển mới, cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế, đất nƣớc ta đang chịu những tác động tích cực và tiêu cực, không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả về mặt văn hóa, xã hội. Gia đình với tƣ cách là tế bào của xã hội cũng không tránh khỏi sự tác động đa chiều đó: gia đình hạt nhân (hai thế hệ) đang dần thay thế cấu trúc gia đình truyền thống (nhiều thế hệ); việc đề cao tự do của cá nhân trong gia đình đã làm cho sự gắn kết giữa cha, mẹ, con và giữa các thành viên khác có xu hƣớng giảm sút; quan hệ sở hữu, giao dịch đƣợc thực hiện không chỉ nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình mà còn nhằm mục đích kinh doanh, thƣơng mại ngày càng phổ biến... Quan trọng hơn cả đó là sự thiếu bền vững về hôn nhân, tình trạng ly thân, ly hôn gần đây có xu hƣớng năm sau cao hơn năm trƣớc, đặc biệt trong các gia đình trẻ... Hôn nhân tan vỡ không chỉ làm ảnh hƣởng đến gia đình, các thành viên trong gia đình mà còn ảnh hƣởng đến xã hội. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào không “khỏe” thì xã hội bị ảnh hƣởng nhiều mặt. Trƣớc kia xã hội Việt Nam coi ly hôn nhƣ một hành vi phi đạo đức, phi chuẩn mực ảnh hƣởng đến danh dự, sự thăng tiến của cá nhân. Hiện nay và trong tƣơng lai, dƣới ảnh hƣởng của những nhân tố 1
  7. kinh tế xã hội mới, hiện tƣợng ly hôn sẽ đƣợc bình thƣờng hóa. Tuy nhiên, hệ lụy để lại sau khi ly hôn là vô cùng lớn. Tiềm ẩn đằng sau những vụ ly hôn là những yếu tố bất ổn, sự lỏng lẻo trong kết cấu của gia đình khi mà mỗi thành viên đều có thể dễ dàng tự quyết định số phận của cuộc sống gia đình, vai trò, trách nhiệm của ngƣời vợ, ngƣời chồng cũng dần bị xem nhẹ, sợi dây liên kết tình cảm giữa vợ - chồng, bố mẹ - con cái ngày càng xa cách, dẫn đến sự bất ổn, khủng hoảng trong cuộc sống xã hội. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nƣớc ta dành sự quan tâm đặc biệt cho lĩnh vực HN&GĐ. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có nhiều quy định tiến bộ, bảo vệ quyền lợi của mọi thành viên trong gia đình, hƣớng tới xây dựng gia đình hạnh phúc theo mô hình xã hội chủ nghĩa, là căn cứ để Tòa án giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách thấu tình đạt lý, tuy nhiên thực tế hiệu lực của Luật HN&GĐ năm 2014 phát huy còn chƣa cao, một số quy định còn bất cập, nhiều vấn đề còn thiếu sự điều chỉnh của luật... Bên cạnh các quy định về điều kiện kết hôn, Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định về căn cứ ly hôn trên nguyên tắc vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng, vừa là cơ sở pháp lý chính đáng để Tòa án giải quyết ly hôn chính xác theo bản chất của hôn nhân đã tan vỡ. Tuy nhiên, căn cứ ly hôn hiện nay rất chung chung, khó xác định, ảnh hƣởng đến công tác xét xử ly hôn. Bởi vậy, với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về các căn cứ ly hôn, và nghiên cứu việc áp dụng căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn của Tòa án, tôi đã lựa chọn đề tài "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn". Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ nội dung căn cứ ly hôn và việc áp dụng nội dung căn cứ ly hôn trong việc giải quyết các tranh chấp ly hôn theo luật định. Trên cơ sở đó phát 2
  8. hiện những vƣớng mắc, bất cập khi áp dụng giải quyết các vụ án ly hôn; từ đó kiến nghị hoàn thiện các quy định về căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành. 2. Tình hình nghiên cứu Một số công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo đƣợc đăng trên các tạp chí về HN&GĐ đề cập đến vấn đề ly hôn và căn cứ ly hôn: Bài viết "Những điều cần biết về ly hôn" của tác giả Nguyễn Ngọc Điệp, Trần Đông Phong, Hồ Thị Nệ, NXB Phụ nữ, 2001; Bài viết "Ly hôn nghiên cứu trƣờng hợp Hà Nội" của tác giả Nguyễn Thanh Tâm, Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, Hà Nội, 2002; Bài viết “Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam”, thạc sỹ Nguyễn Thị Thu Vân, tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật.- 8/2005.- Số 208.- Tr.55- 61;… Một số luận văn thạc sỹ luật học đã nghiên cứu về căn cứ ly hôn: "Căn cứ ly hôn và các trƣờng hợp ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", của tác giả Hà Thị Mai Hoa, năm 2000; "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng", của tác giả Nguyễn Thị Thúy Kiều, năm 2013; "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014" của tác giả Nguyễn Thị Thơm, năm 2015. Nhƣ vậy, đã có không ít bài viết, công trình khoa học, luận văn thạc sỹ nghiên cứu pháp luật về ly hôn, căn cứ ly hôn. Tuy nhiên, thông qua việc nghiên cứu đề tài “Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 và thực tiễn áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn”, tôi muốn chỉ ra những bất cập và kiến nghị những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn. 3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu 3
  9. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014; Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn trong việc giải quyết các tranh chấp ly hôn qua một số vụ án cụ thể. Đề tài không nghiên cứu áp dụng căn cứ ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về ly hôn và căn cứ ly hôn, áp dụng căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014; phát hiện vƣớng mắc, bất cập quy định nội dung căn cứ ly hôn về lý luận và thực tiễn áp dụng; từ đó nêu các kiến nghị, đề xuất giải pháp để hoàn thiện căn cứ ly hôn theo pháp luật về HN&GĐ Việt Nam. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu của đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài gồm: Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn, căn cứ ly hôn gồm: khái niệm ly hôn, căn cứ ly hôn; cơ sở và ý nghĩa của việc quy định căn cứ ly hôn; nghiên cứu căn cứ ly hôn qua các giai đoạn phát triển của lịch sử: từ thời kỳ phong kiến, đến thời kỳ Pháp thuộc, từ năm 1945 đến nay; đồng thời nghiên cứu căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật một số quốc gia nhƣ Pháp, Thái Lan… để thấy những điểm giống nhau và khác nhau. Thứ hai, nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về căn cứ ly hôn; phân tích một số vụ án Tòa án áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết tranh chấp ly hôn, từ đó đƣa ra nhận định của cá nhân, chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập trong việc áp dụng căn cứ ly hôn. 4
  10. Thứ ba, đƣa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về căn cứ ly hôn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, những phƣơng pháp đƣợc sử dụng để nghiên cứu luận văn gồm: Phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nƣớc về HN&GĐ. Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp diễn giải: Những phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để làm rõ các quy định của pháp luật về ly hôn và căn cứ ly hôn. Phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp so sánh: Những phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để đƣa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp lý hay không, đồng thời nhìn nhận trong mối tƣơng quan của pháp luật các thời kỳ hay các quy định pháp luật có liên quan và pháp luật của một số nƣớc khác trên thế giới… Phƣơng pháp quy nạp, phƣơng pháp diễn dịch: Những phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để triển khai các vấn đề liên quan đến căn cứ ly hôn, đặc biệt là các vƣớng mắc, bất cập và các kiến nghị hoàn thiện. Ví dụ: phƣơng pháp quy nạp đƣợc sử dụng để đúc kết lại những bất cập từ các vấn đề thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ án ly hôn; đƣa ra những kiến nghị mang tính khái quát, súc tích, sau đó sử dụng phƣơng pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của kiến nghị đó… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5
  11. Kết quả đạt đƣợc của luận văn góp phần làm sáng tỏ phƣơng diện lý luận của vấn đề ly hôn và căn cứ ly hôn, đồng thời làm sáng tỏ vấn đề căn cứ ly hôn đƣợc áp dụng trong thực tiễn. Cụ thể: Xây dựng đƣợc khái niệm và đƣa ra những tiêu chí cơ bản nhất để Tòa án xác định căn cứ ly hôn, phân tích thực tiễn áp dụng các căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết các vụ án ly hôn, chỉ ra những bất cập của pháp luật và đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn. Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là một kênh thông tin để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình có thể tham khảo để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tƣơng ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích với đội ngũ giảng viên, sinh viên và có giá trị đối với các cán bộ đang làm công tác xây dựng pháp luật về HN&GĐ ở Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng: Chƣơng 1: Lý luận chung về căn cứ ly hôn Chƣơng 2: Căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng giải quyết tranh chấp ly hôn Chƣơng 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn. 6
  12. CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN 1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn 1.1.1. Khái niệm ly hôn Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc đời con ngƣời vì nó đƣợc xác lập trên cơ sở tình yêu thƣơng, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn đƣợc đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhƣng là mặt không thể thiếu đƣợc khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tƣ tƣởng của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa, dƣới chế độ xã hội này, hôn nhân đƣợc xây dựng hoàn toàn theo chế độ một vợ, một chồng, tự do, tiến bộ và bình đẳng. Pháp luật xã hội chủ nghĩa chỉ thừa nhận quan hệ hôn nhân xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ, tự do và tự nguyện. Quyền tự do ấy biểu hiện trong việc tự do kết hôn và tự do ly hôn. Theo Lênin: “Tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan rã” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh”[23, tr. 335]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn nhân nói chung, ly hôn nói riêng là hiện tƣợng xã hội mang tính giai cấp. Nghĩa là nhà nƣớc thông qua pháp luật quy định chế độ hôn nhân phù hợp với ý chí của 7
  13. nhà nƣớc. Các-Mác phê phán quan điểm vợ chồng chỉ chú ý đến hạnh phúc cá nhân, ly hôn một cách tùy tiện:“Họ đứng trên quan điểm coi hạnh phúc cá nhân của mình là mục đích của cuộc sống, họ chỉ nghĩ đến hai cá nhân mà quên mất gia đình. Họ quên rằng, hầu như mọi sự tan vỡ của hôn nhân đều là sự tan vỡ của gia đình và quên rằng, ngay cả khi đứng trên quan điểm thuần túy pháp lý, hoàn cảnh của con cái và tài sản của chúng cũng không thể bị lệ thuộc vào sự xử lý tùy tiện của bố mẹ, vào việc bố mẹ muốn sao làm vậy. Nếu như hôn nhân không phải là cơ sở của gia đình thì nó cũng không phải là đối tượng của công việc lập pháp, ví dụ như tình bạn chẳng hạn. Như vậy, chỉ có ý chí cá nhân, hay nói đúng hơn là ý muốn tùy tiện của vợ chồng, là được chú ý; còn ý chí của hôn nhân, thực chất đạo đức của mối quan hệ này thì chưa được chú ý tới”[19, tr. 281]. Ở mỗi nƣớc khác nhau, dƣới mỗi thời kỳ khác nhau có những quan niệm khác nhau về vấn đề ly hôn, cụ thể: Một số nƣớc cấm ly hôn: Quan niệm này đƣợc chấp nhận trong rất nhiều hệ thống luật nguyên sơ và đƣợc coi là một trong những quan niệm nền tảng của luật giáo hội về gia đình, không ít nƣớc Châu Âu chỉ mới từ bỏ quan niệm này cách đây không lâu nhƣ: ở Ý từ năm 1975, ở Tây Ban Nha từ năm 1982,...nghĩa là hôn nhân đƣợc xác lập và đƣợc duy trì chỉ nhờ vào sự ƣng thuận lúc ban đầu, một khi đã ƣng thuận kết hôn, ngƣời kết hôn không thể thay đổi ý chí, phải chấp nhận cuộc sống chung cho đến cuối đời. Nói rõ hơn, kết hôn thì đƣợc, nhƣng ly hôn thì không đƣợc. Việc duy trì quan niệm này trong luật cận đại và đƣơng đại của các nƣớc chủ yếu vì lý do tôn giáo. Trái ngƣợc lại quan niệm trên, một số nƣớc cho phép tự do ly hôn: hệ thống tự do ly hôn chủ trƣơng rằng hôn nhân không thể đƣợc duy trì, một khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai không còn cảm thấy đƣợc thôi thúc bởi ý muốn chung sống với nhau. 8
  14. Mỗi ngƣời phải có quyền tự do chấm dứt quan hệ hôn nhân, nhƣ đã có quyền tự do xác lập quan hệ đó. Nếu cả vợ và chồng đều đồng ý ly hôn, thì càng tốt; nếu không, mỗi ngƣời có quyền ly hôn chỉ bằng quyết định đơn phƣơng của mình. Quyền tự do ly hôn đƣơc thiết lập trong luật La Mã thời kỳ cuối. Trong luật đƣơng đại của nhiều nƣớc theo hệ thống Common law hoặc của các nƣớc Bắc Âu, ly hôn theo ý chí đơn phƣơng đƣợc thừa nhận dƣới hình thức “ly hôn do không hợp tính tình”, chỉ cần chứng minh rằng giữa vợ và chồng có sự khác biệt về tính tình và sự khác biệt đó là nguyên nhân của những xung đột gay gắt giữa hai ngƣời khiến cho cuộc sống chung không thể chịu đựng đƣợc, vợ hoặc chồng có thể xin ly hôn và thẩm phán phải đáp ứng thuận lợi đối với yêu cầu ly hôn đó. Mô hình thứ ba nhƣ là sự dung hoà giữa hai mô hình cấm ly hôn và tự do ly hôn đó là ly hôn tự do dƣới sự kiểm soát của Nhà nƣớc. Có thể coi ly hôn vẫn nằm trong nội dung quyền dân sự của cá nhân; nhƣng yêu cầu ly hôn chỉ đƣợc Toà án tiếp nhận trong những trƣờng hợp đƣợc luật dự kiến. Yêu cầu ly hôn có thể do vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng đƣa ra. Thẩm phán, về phần mình, có quyền quyết định cho phép hay không cho phép ly hôn trên cơ sở đánh giá mức độ chính đáng, hợp lý, hợp tình của yêu cầu ly hôn; ngay nếu nhƣ yêu cầu ly hôn rơi đúng vào trƣờng hợp đƣợc luật dự kiến, thẩm phán có thể bác đơn xin ly hôn, một khi xét thấy lý do ly hôn không vững chắc hoặc việc ly hôn có thể ảnh hƣởng bất lợi nghiêm trọng đối với cuộc sống sau ly hôn của một trong hai đƣơng sự (hoặc cả hai) hoặc đối với tƣơng lai của con cái, so với việc tiếp tục quan hệ hôn nhân. Hệ thống ly hôn tự do dƣới sự kiểm soát của Nhà nƣớc cho phép cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền can thiệp vào sự hình thành suy nghĩ của vợ, chồng về vấn đề ly hôn đồng thời vẫn tôn trọng ý chí thực, nghiêm túc và 9
  15. chắc chắn của vợ, chồng hoặc của cả hai về việc duy trì hay không duy trì cuộc sống chung. Việt Nam theo mô hình thứ ba, ly hôn đƣợc thực hiện dƣới sự kiểm soát của nhà nƣớc. Ly hôn là một biện pháp chấm dứt hôn nhân đƣợc thừa nhận từ rất sớm trong pháp luật Việt Nam, từ thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc cho đến nay. Theo từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp, ly hôn đƣợc hiểu là: "chấm dứt quan hệ vợ chồng do TAND công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng" [41, tr. 460]. Khoản 8 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng”. Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án". Đây là điểm mới trong quy định về ly hôn tại Luật HN&GĐ năm 2014, không cần phải có thêm cụm từ “theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng”, bởi vì theo Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: ngoài vợ, chồng có quyền yêu cầu ly hôn thì còn có một số chủ thể khác không phải là vợ, chồng nhƣng cũng có quyền yêu cầu ly hôn trong một số trƣờng hợp đặc biệt, đó là cha, mẹ, ngƣời thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Nhƣ vậy, về mặt pháp lý, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân trong lúc cả vợ và chồng đều còn sống. Đây là biện pháp cuối cùng mà pháp luật cho 10
  16. phép thực hiện trong trƣờng hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng hoảng mà không thể đƣợc khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác. 1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn Nếu nhƣ kết hôn là khởi đầu để xác lập nên quan hệ vợ chồng thì ly hôn có thể coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hệ này thực sự tan rã. Khi đời sống hôn nhân không thể duy trì đƣợc nữa thì ly hôn là một giải pháp cần thiết cho cả đôi bên vợ chồng. Ly hôn giải phóng cho các cặp vợ chồng và những thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn, bế tắc trong cuộc sống. Bằng các quy định về ly hôn, Nhà nƣớc cũng hƣớng tới bảo vệ lợi ích của gia đình, của xã hội khi xác định những điều kiện cho phép chấm dứt quan hệ hôn nhân trƣớc pháp luật, gọi chung là căn cứ ly hôn. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nƣớc, bằng pháp luật quy định chế độ hôn nhân phù hợp với ý chí của Nhà nƣớc. Tức là Nhà nƣớc bằng pháp luật quy định những điều kiện nào xác lập quan hệ vợ chồng, và những điều kiện nào đƣợc phép xóa bỏ quan hệ hôn nhân. Do có quan điểm khác nhau về quy định ly hôn và giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn đƣợc quy định trong pháp luật của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa có nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly hôn do Nhà nƣớc phong kiến, tƣ bản đặt ra. Pháp luật của nhà nƣớc phong kiến, tƣ sản quy định có thể cấm ly hôn, không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ chồng đƣợc sống tách biệt nhau (biệt cƣ) bằng chế định ly thân; bằng hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi của vợ chồng; và thƣờng quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ chồng,đó là các điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh 11
  17. nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ không phải bản chất ly hôn đã tan vỡ. Ngƣợc lại, pháp luật của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình.Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các thành viên trong gia đình. Các-Mác đã viết: "Sự ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là cái vỏ bề ngoài và là sự giả dối. Đương nhiên, không phải sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không phải sự tùy tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn nhân này đã chết hoặc chưa chết. Bởi vì… việc xác nhận sự kiện chết là tùy thuộc vào thực chất của vấn đề chứ không phải vào nguyện vọng của những bên hữu quan… Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện trong đó hôn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó, về thực chất hôn nhân tự nó đã bị phá vỡ rồi, việc Tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ có thể là việc ghi biên bản sự tan vỡ bên trong của nó" [18, tr. 119-121]. Pháp luật Việt Nam là pháp luật xã hội chủ nghĩa nênkhái niệm căn cứ ly hôn có thể hiểu là: những tình tiết hay các điều kiện pháp lý do pháp luật quy định, chỉ khi có những tình tiết, hay điều kiện đó, thì Tòa án mới quyết định cho vợ chồng ly hôn. Hoặc căn cứ ly hôn là những yếu tố để xác định đúng tình trạng tan vỡ thực sự về tình cảm, đời sống vợ chồng, mục đích của hôn nhân từ đó Tòa án cho phép vợ chồng ly hôn. 12
  18. Theo tác giả có thể định nghĩa: “Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý đƣợc luật định dựa trên cơ sở hôn nhân tan vỡ, dựa vào đó để Tòa án giải quyết các vụ việc ly hôn”. 1.1.3. Cơ sở và ý nghĩacủa việc quy định căn cứ ly hôn Dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự do hôn nhân bao gồm quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn, sự điều chỉnh các quy định của pháp luật HN&GĐ về căn cứ để ly hôn là hết sức cần thiết. Hệ thống pháp luật HN&GĐ của nhà nƣớc ta qua các giai đoạn phát triển của lịch sử đã quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện, phù hợp, là cơ sở pháp lí để tòa án giải quyết các án kiện ly hôn. Sắc lệnh số 159/SL quy định căn cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng. Sau đó, Luật HN&GĐ năm 1959 (Điều 26), Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 40), Luật HN&GĐ năm 2000 (Điều 89) và hiện nay là Luật HN&GĐ năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Nhƣ vậy, căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 của Nhà nƣớc ta đƣợc quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ sở khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm trong nhiều năm, từ khi Nhà nƣớc ta ban hành Luật HN&GĐ năm 1959. Khi giải quyết ly hôn, cần hiểu điều đó nói lên một thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại đƣợc nữa, vì “sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” và ly hôn là một giải pháp tích cực để giải phóng cho vợ chồng cũng nhƣ các thành viên khác trong gia đình khỏi cảnh “bất bình thƣờng” đó, đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội. Quan điểm của nhà nƣớc ta là tôn trọng quyền tự do ly hôn và giải quyết ly hôn 13
  19. dựa vào thực chất của quan hệ hôn nhân có còn tồn tại hay không, hay sự tồn tại chỉ là hình thức bề ngoài. Do vậy, việc quy định căn cứ ly hôn là rất cần thiết và quan trọng. Nó thể hiện quan điểm của nhà nƣớc ta về vấn đề này. Việc quy định căn cứ ly hôn rõ ràng là cơ sở quan trọng để Tòa án, Thẩm phán giải quyết việc ly hôn đúng đắn, thấu tình đạt lý, có ý nghĩa quan trọng giúp vợ chồng nhận thức, điều chỉnh hành vi của mình để có thể dàn xếp, thỏa thuận trƣớc khi đƣa ra quyết định ly hôn, góp phần bình ổn quan hệ hôn nhân, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của xã hội, củng cố chế độ một vợ, một chồng, tự nguyện, tiến bộ. 1.2. Khái lƣợc pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn lịch sử 1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nƣớc quân chủ và phong kiến ở nƣớc ta đã nhận thức đƣợc vai trò của luật pháp và quan tâm, đầu tƣ cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác nhƣ: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình thƣ (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là Bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là Bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những Bộ luật cổ tiêu biểu nhất đƣợc xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX. Trong đó Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long là 02 bộ luật điển hình của thời kỳ phong kiến: Bộ luật Hồng Đức là Bộ luật có những thành tựu to lớn, có những nét riêng biệt, thể hiện độc đáo bản sắc dân tộc và tính độc lập của một quốc gia có chủ quyền. Đây là Bộ luật đã khẳng định đƣợc giá trị và vị thế của mình trong lịch sử hệ thống pháp luật của dân tộc và trên thế 14
  20. giới bởi những giá trị tiến bộ của nó vƣợt trƣớc thời đại bấy giờ, và mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc của ngƣời Việt. Bộ luật Gia Long đƣợc thiết lập vào đầu thế kỷ XIX, là triều đại cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến nƣớc ta. Do đó, triều Nguyễn có điều kiện tiếp thu nền lập pháp của các triều đại trƣớc. Pháp luật dƣới triều Nguyễn vì thế là nền luật pháp hoàn bị dƣới thời phong kiến ở Việt Nam. Những quy định về HN&GĐ của 02 bộ luật này có sự phát triển đi trƣớc thời đại. Ngƣời Việt Nam xƣa và nay, về đạo lý luôn luôn mong muốn cuộc hôn nhân lâu dài, bền vững. Tuy nhiên, vì một số lý do mà hôn nhân không thể tiếp tục. Để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích gia đình, lợi ích của ngƣời đàn ông, bảo vệ phong tục tập quán cổ xƣa… Pháp luật phong kiến cũng thừa nhận việc chấm dứt hôn nhân do những nguyên nhân khác nhau: do vi phạm điều kiện thủ tục kết hôn, do một ngƣời chết và do ly hôn. Những quy định về ly hôn đã tính đến sự bảo vệ lợi ích của ngƣời phụ nữ. Cũng nhƣ pháp luật hiện nay, để vợ chồng đƣợc Tòa án chấp nhận ly hôn phải đảm bảo các điều kiện ly hôn hay còn gọi là các căn cứ ly hôn. Trong pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến, các căn cứ ly hôn thƣờng đƣợc biết đến với tên gọi “duyên cớ ly hôn”. Nhìn chung, các căn cứ ly hôn trong thời kỳ phong kiến thấm nhuần sâu sắc tƣ tƣởng Nho giáo, chúng đƣợc quy định dựa trên sự bất bình đẳng giữa vợ chồng và nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân nên chúng đƣợc chia làm các loại: rẫy vợ, ly hôn bắt buộc và ly hôn thuận tình. Thứ nhất, rẫy vợ: là việc ngƣời chồng đƣợc đơn phƣơng bỏ vợ ngoài tầm kiểm soát của tất cả các thiết chế xã hội. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định, nếu ngƣời vợ phạm phải một trong các điều "thất xuất" thì chồng phải bỏ vợ, không bỏ sẽ bị tội biếm. Tuy Bộ luật Hồng Đức không thống kê rõ các trƣờng 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0