intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn thành phố Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:80

17
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn thành phố Hà Nội" được hoàn thành với mục tiêu nhằm nghiên cứu làm rõ lý luận và thực tiễn về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đề tài đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn thành phố Hà Nội

  1. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI ---------- LÊ VĂN KHÁNH QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2022
  2. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI ---------- LÊ VĂN KHÁNH QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Mã số: 8380104 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ HẠNH HÀ NỘI - 2022
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. TÁC GIẢ Lê Văn Khánh
  4. LỜI CẢM ƠN Trong qúa trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn Thạc sỹ, tôi đã nhận được sự động viên, khuyến khích cũng như tạo điều kiện giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu Nhà trường, các Thầy, Cô giáo,các phòng, khoa, ban, bạn bè đồng nghiệp cũng như các học viên trong lớp Cao học khóa 2. Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các Thầy, Cô giáo, phòng Đào tạo trường Đại học Kiểm sát Hà Nội và đặc biệt là các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy (trực tiếp và trực tuyến) các chuyên đề của toàn khóa học cũng như những vấn đề chuyên sâu về chuyên ngành Hình sự và Tố tụng hình sự đã tạo điều kiện giúp đỡ trong suốt quá trình tham gia học tập tại trường để có kiến thức viết nên bản luận văn Thạc sỹ này. Đặc biệt tôi xin chân thành và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sỹ Bùi Thị Hạnh, Trường khoa Pháp luật Hình sự và Kiểm sát Hình sự Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội đã trực tiếp hướng dẫn tận tình, giúp đỡ tôi tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học để hoàn thành bản luận văn này. Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế mà thực tiễn lại vô cùng phong phú và rộng lớn. Luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được các ý kiến đóng góp chân thành từ các Thầy, Cô giáo, đồng nghiệp và bạn bè. Trân trọng cảm ơn! TÁC GIẢ Lê Văn Khánh
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BCCĐ : Bào chữa chỉ định BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CCTP : Cải cách tư pháp CQĐT : Cơ quan điều tra GĐĐT : Giai đoạn điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng LSBC : Luật sư bào chữa NBC : Người bào chữa NTHTT : Người tiến hành tốtụng QBC : Quyền bào chữa QCN : Quyền con người TTHS : Tố tụng hình sự TNHS : Trách nhiệm hình sự TGPL : Trợ giúp pháp lý TGVPL : Trợ giúp viên pháp lý VAHS : Vụ án hình sự
  6. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ...............................................6 1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền bào chữa trong tố tụng hình sự hình sự ................6 1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự......................................................................................................................................6 1.2.1. Khái niệm ..............................................................................................................8 1.2.2. Đặc điểm, ý nghĩa của quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ........................................................................................................................... 11 1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...........................................................................15 1.3.1. Quy định về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015.................................15 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 Giai đoạn từ năm 1975 đến trước khi ban hành Bộ luật TTHS năm 1988 1.3.1.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003...............................................................................................................................16 1.3.1.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành đến trước năm 2015...............................................................................................................................17 1.3.2. Quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự........................................................................................... 18 1.3.2.1. Quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự................19 1.3.2.2. Quyền nhờ người bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự...................................................................................................................................24 1.3.2.3. Quy định về quyền có người bào chữa bắt buộc của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự....................................................................................................30 Tiểu kết chương 1..........................................................................................................35 Chương 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................................................................................35
  7. 2.1. Tình hình có liên quan đến việc thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội ..................................................................35 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội .................................35 2.1.2. Tình hình khởi tố, điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian vừa qua ...........................................................................................................35 2.1.3. Tình hình tổ chức và hoạt động của đội ngũ luật sư và trợ giúp viên pháp lý trên địa bàn thành phố Hà Nội .............................................................................................. 37 2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ...................................................39 2.2.1. Kết quả khởi tố, điều tra vụ án hình sự trên đại bàn thành phố Hà Nội .............40 2.2.2. Kết quả thực hiện quyền tự bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ........................................................................................................................... 39 2.2.3. Kết quả thực hiện quyền nhờ người bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự..................................................................................................................41 2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân .................................................................46 2.3.1. Những tồn tại, hạn chế......................................................................................... 46 2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ............................................................ 50 Tiểu kết chương 2 ..........................................................................................................53 Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .....................................................................55 3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ....................................................................................................55 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ....................................................................................................56 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật ............................................................. 56 3.2.2. Các giải pháp về tổ chức và thực hiện .................................................................62 Tiểu kết chương 3 ..........................................................................................................65 KẾT LUẬN ..................................................................................................................66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền bào chữa là một trong những nội dung cơ bản của quyền được xét xử công bằng - một lĩnh vực cơ bản của quyền con người trong tố tụng hình sự. Việc đảm bảo quyền bào chữa trong tố tụng hình sự có vai trò quan trọng, góp phần bảo đảm quyền con người, một tiêu chí cơ bản trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quyền bào chữa là nội dung được thể hiện rất rõ trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng như Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020”. Đặc biệt, BLTTHS năm 2015 được xây dựng trên cơ sở thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong việc tôn trọng và thực hiện QBC, đồng thời bổ sung cơ chế cần thiết để thực hiện QBC. Những quy định của BLTTHS năm 2015 về bảo đảm QBC đòi hỏi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng phải được quán triệt đầy đủ, đảm bảo tính đúng đắn cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định trên thực tế nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền của bị can nói riêng. Hà Nội là một thành phố lớn, Thủ đô của cả nước với dân số đông, tình hình an ninh trật tự vô cùng phức tạp, tình hình tội phạm ngày càng có diễn biến khó lường. Việc khởi tố, điều tra, tuy tố, xét xử các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng có nhiều kết quả tích cực, trong đó có việc coi trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, việc thực hiện QBC của người bị buộc tội nói chung, của bị can nói riêng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự vẫn là vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện, như: Chưa phát huy hiệu quả của các quy định pháp luật về quyền bào chữa của bị can, nhất là trong trường hợp chỉ định người bào chữa bắt buộc; nhận thức của một bộ phận người tiến hành tố tụng về QBC chưa đúng, thiếu thống nhất nên vẫn còn tình trạng Điều tra viên, Cán bộ điều tra cản trở người bào chữa tham gia tố tụng, không tạo điều kiện cho bị can thực hiện đầy đủ các nội dung của quyền bào chữa trong quá trình điều tra vụ án. Mặt khác, nhìn nhận trên bình diện khoa học cho thấy, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về QBC nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về QBC của bị can trong giai đoạn ĐTVAHS, đặc biệt tại thành phố Hà Nội. Do đó, cần thiết phải 1
  9. tiếp tục nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận vấn đề quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng, từ đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa của bị can, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, tại trường Đại học Kiểm sát Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự, là nội dung quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về quyền bào chữa trong tố tụng hình sựcủa các nhà nghiên cứu như: Nhóm các công trình nghiên cứu là luận văn luận án có: - Luận văn “Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi từ thực tiễn thành phố Hà Nội” của Hà Văn Nam; năm 2018 tại Học viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. - Luận văn “Vai trò của luật sư bào chữa trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự” của Nguyễn Văn Phương; năm 2014 tại Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội. - Luận văn “Vai trò người bào chữa trong các vụ án hình sự” của Lê Thị Hoàn, năm 2017 tại Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội. - Luận văn thạc sĩ “Bảo đảm pháp lý tố tụng hình sự đối với việc thực hiện quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh” của Vương Sơn Hà, năm 2018 tại Học viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. - Luận án tiến sĩ luật học “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam” của NCS Nguyễn Hữu Thế Trạch, năm 2014, tại Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. - Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ” của Lương Thị Mỹ Quỳnh; Nhóm các công trình nghiên cứu là bài báo khoa học, sách chuyên khảo có: - Sách: Bình luận khoa học về Bộ luật TTHS năm 2015 của Tiến sỹ Phạm Mạnh Hùng, Nhà xuất bản Lao động, năm 2019. - Sách: Những điểm mới về chế định bào chữa trong TTHS của Tiến sỹ - Luật sư Phan Trung Hoài, năm 2015 NXB Chính trị Quốc gia. - Sách: Quyền bào chữa và vai trò của Luật sư trong TTHS, của Tiến sỹ Nguyễn Văn Tuân NXB Dân trí, năm 2018. 2
  10. - Sách: Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2915 của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh, TS. Phan Trung Hoài – NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2021. - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3, tr.12-17 của Phạm Hồng Hải, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2012), “Bàn về sự tham gia của người bào chữa trong giai đoạn điều tra”. - Tạp chí Kiểm sát, số 7, tr.12-19 của Phan Trung Hoài (2004), “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về sự tham gia của Luật sư từ giai đoạn điều tra và quyết định truy tố”. - “Một giấy bào chữa xuyên suốt tố tụng” của TS. Phan Trung Hoài (2013); Báo Pháp luật Việt Nam ngày 03/8/2013(www.phapluattttp.vn), Hà Nội. - “Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự” của Nguyễn Thái Phúc (2007), Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4, tr.21-26. - Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Những hạn chế trong việc thực hiện quyền bào chữa của người vị tạm giữ, bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật học, số 10, tr.12-17. Các đề tài, bài viết, sách tham khảo nêu trên đã phân tích, nghiên cứu các quy định của pháp luật về nhiều khía cạnh của quyền bào chữa trong pháp luật TTHS nhưng lại mang tính khái quát, dàn trải toàn bộ các giai đoạn của quá trình tố tụng hoặc chỉ là một giai đoạn nào đó như giai đoạn xét xử. Riêng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đặc biệt từ thực tiễn thành phố Hà Nội hiện chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu. Tuy nhiên, những công trình khoa học nghiên cứu nêu trên phần nào đã là guồn tài liệu tham khảo để tác giả tham khảo và kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ lý luận và thực tiễn về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đề tài đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: - Phân tích làm rõ nhận thức về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như khái niệm, đặc điểm, nội dung. - Đánh giá thực trạng pháp luật tổ chức thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3
  11. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về thời gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2021. - Về không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Về nội dung: Đề tài nghiên cứu về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, không nghiên cứu việc thực hiện quyền này trong giai đoạn truy tố và xét xử. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về cải cách tư pháp và bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp phân tích tổng hợp, được sử dụng để phân tích, tổng hợp các tài liệu, số liệu liên quan đến đề tài bao gồm: Các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo hàng năm về công tác điều tra hình sự của các Cơ quan điều tra; sách, luận án, luận văn, đề tài khoa học, bài báo khoa học về bảo đảm quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự hoặc có liên quan đến quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trên cơ sở đó, rút ra những luận cứ khoa học về thực trạng quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. - Phương pháp thống kê, so sánh, được sử dụng để thống kê, so sánh các số liệu về điều tra hình sự qua các năm của các Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Nội nhằm làm rõ các vấn đề nghiên cứu số liệu về số lượng vụ án đã thụ lý, đối tượng 4
  12. bị khởi tố, số lượt bị can nhờ người bào chữa, số lượng đối tượng thuộc diện chỉ định nhờ người bào chữa, tỷ lệ phần trăm vụ án hình sự có người bào chữa. 6. Đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, kết quả nghiên cứu của luận văn có những đóng góp mới về lý luận và thực tiễn: - Về phương diện lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. - Về phương diện thực tiễn, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác tham mưu đề xuất xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; cung cấp những chỉ dẫn khoa học và thao tác nghiệp vụ cần thiết về tổ chức thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong và ngoài ngành Công an. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học được bố cục làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Chương 2: Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp năng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội. 5
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới... Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người1. Theo đó, tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới đều có nghĩa vụ, trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Theo xu thế phát triển của nhân loại, quyền con người ngày càng được đề cao, các quốc gia ngày càng chú trọng và có những chính sách bảo đảm quyền con người. Ở Việt Nam hiện nay, việc bảo đảm nhân quyền - quyền con người là một trong những chính sách quan trọng để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quyền bào chữa luôn trở thành nguyên tắc Hiến định và ngày càng phát triển hoàn thiện, bảo đảm hơn. Bảo đảm quyền bào chữa là một phần trong chính sách bảo đảm quyền con người. Từ điển tiếng Việt định nghĩa bào chữa như sau: "Bào chữa là dùng lời lẽ, chứng cứ để bênh vực một việc". Như vậy, bào chữa là việc một người dùng lý lẽ, chứng cứ để bênh vực cho ai đó đang bị coi là phạm pháp hoặc bị lên án. Hay bào chữa là gạt bỏ lý lẽ khác để chữa tội cho mình hoặc chữa cho người khác2. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm bào chữa, quyền bào chữa và người bào chữa, như: PGS.TS. Phạm Hồng Hải cho rằng: Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơsở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toànbộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự3. PGS.TS. Hoàng Thị Sơn đưa ra quan điểm: "Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ"4. 1 Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, Lời nói đầu. 2 Viện Ngôn ngữ học (2013), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 133. 3 Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 29-30. 4 Hoàng Thị Sơn (2000), Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo,Tạp chí Luật học, số 05. 6
  14. Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam: Quyền bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự là tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự5. Theo BLTTHS năm 2003 thì quyền bào chữa chỉ dành cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chứ không dành cho những đối tượng tham gia TTHS khác và quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội của các cơ quan THTT hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đối vớiviệc bảo vệ các quyền và lợi ích khác của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không trực tiếp liên quan tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ án thì không thuộc về giới hạn của quyền bào chữa. Tuy nhiên, khi thực hiện bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ án thì người bào chữa cũng đồng thời giúp họ trong việc bảo vệ các quyền đó của mình. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng là chịu sự buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc buộc tội này thường gắn liền với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan có thẩm quyền. Việc phải chịu trách nhiệm hình sự mà thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thầy không phải mọi trường hợp buộc tội đến với người bị buộc tội đều chính xác mà vẫn còn có những trường hợp buộc tội oan, sai, mức hình phạt chưa phù hợp. Do vậy, quyền bào chữa thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là yêu cầu khách quan, tất yếu trong hoạt động TTHS nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn, khách quan, công bằng. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng thời điểm được tham gia bào chữa của người bào chữa vào hoạt động tố tụng (tham gia sớm hơn so với BLTTHS năm 2003), bảo đảm hơn về quyền bào chữa ngay từ khi bị giữ, bị bắt10, ghi nhận quyền bào chữa đầy đủ cho các đối tượng có khả năng bị hạn chế quyền và lợi ích, đối mặt với sự nghi ngờ, khả năng bị buộc tội bởi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, "Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa". Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định các trường hợp bắt buộc phải chỉ định người bào chữa đối với người bị buộc tội về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình hoặc trong trường hợp người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi. 5 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại họcQuốc gia Hà Nội, Hà Nội. 7
  15. Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, toàn diện và đầy đủ, tránh để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội thì Hội đồng xét xử (HĐXX) cũng cần có nhiều góc nhìn, hướng nhìn từ phía người buộc tội, người gỡ tội,... thì việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội và đặc biệt là bị cáo là hết sức cần thiết để có được một phán quyết khách quan, toàn diện, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan sai. Như vậy, quyền bào chữa là tổng hợp các quyền năng TTHS của người bị buộc tội, nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơquan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với họ, hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ trong vụ án hình sự. Qua sự phân tích trên cho thấy, quyền bào chữa trong TTHS Việt Nam luôn mang tính kế thừa và phát triển, tính kế thừa là nó luôn được ghi nhận là nguyên tắc Hiến định và được cụ thể hóa trong pháp luật TTHS qua các thời kỳ, tính phát triển là sau mỗi lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp và pháp luật TTHS thì quyền bào chữa luôn được ghi nhận và bảo đảm hơn. Quyền bào chữa có những đặc điểm sau: - Quyền bào chữa là nguyên tắc đặc thù, chỉ có trong pháp luật TTHS. - Bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS Việt Nam, nó chi phối toàn bộ quá trình giải quyết vụ án từ bắt, giữ người có dấu hiệu tội phạm, đến điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Nếu vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa ở bất kỳ giai đoạn nào đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng TTHS. - Việc bảo đảm quyền bào chữa xác định trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm của mình phải tạo các điều kiện để người bị buộc tội thực hiện các quyền của mình theo quy định của BLTTHS, ở mỗi giai đoạn, mỗi tư cách thì người bị buộc tội đều có những quyền nhất định. - Quyền bào chữa của người bị buộc tội bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa cho mình. 1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 1.2.1. Khái niệm Trước khi nghiên cứu tìm hiểu về khái niệm quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự cũng như khái niệm về bị can, quyền và nghĩa vụ của bị can. TTHS là một quá trình gồm các hoạt động được thực hiện theo một trìnhtự nhất định, có quan hệ chặt chẽ với nhau là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành 8
  16. án hình sự. Tham gia vào quá trình này có nhiều chủ thể khác nhau, trong đó bị can có vị trí, vai trò quan trọng. Cùng với bị cáo, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can có vị trí trung tâm trong số những người tham gia tố tụng. Bởi vì mọi hoạt động tố tụng đều hướng tới việc làm rõ các vấn đề có liên quan đến việc phạm tội hay không phạm tội của bị can. Giai đoạn ĐTVAHS là một trong các giai đoạn của tiến trình TTHS.Trong đó, chủ thể tiến hành các hoạt động ở giai đoạn ĐTHS bao gồm CQĐT và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Giai đoạn ĐTVAHS bắt đầu từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kết thúc khi CQĐT làm bản kết luận đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra. Giai đoạn ĐTVAHS là quá trình áp dụng pháp luật rất phức tạp. Tronggiai đoạn điều tra, cơ quan và người có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp do BLTTHS quy định để tiến hành các hoạt động điều tra như thu thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và chứng cứ xác định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can cũng như những chứng cứ xác định các tình tiết khác của vụ án. Những biện pháp tố tụng mà CQĐT được sử dụng đối với người bị buộc tội tương đối đa dạng, gồm: bắt người; tạm giữ người; khám xét; thu giữ, tạm giữ tài liệu, vật chứng; hỏi cung; lấy lời khai. Đây là những hoạt động có ảnh hưởng, tác động trực tiếp tới quyền con người, quyền công dân của người bị buộc tội. Trong đó bị can là người bị tác động lớn nhất. Chính vì vậy, để đảm bảo tính khách quan, chính xác trong quá trình điều tra, hạn chế sự lạm quyền của CQĐT, người có thẩm quyền THTT, pháp luật TTHS Việt Nam nói chung, BLTTHS năm 2015 nói riêng đã có nhiều quy định xác định địa vị pháp lý của bị can thông qua việc xây dựng các điều khoản cụ thể. Theo đó: Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự6. Bị can là người mà CQĐT có đủ căn cứ xác định rằng đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm nên đã ra quyết định khởi tố bị can. Kể từ thời điểm quyết định khởi tố bị can, Nhà nước thể hiện sự buộc tộiđối với con người cụ thể. Bị can là người chính thức bị truy cứu trách nhiệm hìnhsự, bị buộc tội. Đây là điểm khác biệt rất lớn giữa bị can và người bị tạm giữ liên quan đến việc bảo đảm QCN của họ trong điều tra vụ án hình sự. Khái niệm bị can được xác định theo những giai đoạn khác nhau của TTHS. Tuy nhiên, có một điểm chung là họ đã bắt đầu bị buộc tội, song chưa bị coi là người có tội theo nghĩa đầy đủ của từ đó. Bị can có vị trí đặc biệt vì họ là bên luôn tìm cách gỡ tội 6 Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội 9
  17. nhằm chống lại bên buộc tội là các cơ quan công tố. Bị can là người hiểu rõ nội dung, bản chất của vụ án, vụ việc hình sự nếu họ là người đã thực hiện. Vì vậy, sự tham gia của bị can vào quá trình giải quyết vụ án hình sự không những có tính chất quyết định đến tiến trình giải quyết vụ án mà còn quyết định đến nội dung và tính chính xác của vụ án hình sự. Do vậy, để có thái độ đối xử đúng với bị can cần có nhận thức đúng về các quyền công dân của họ theo quy định của pháp luật TTHS. Từ quan điểm coi bị can là công dân đang trong vòng tố tụng, chưa bị coi là người có tội nên khi tiến hành các hoạt động điều tra, các cơ quan và người có thẩm quyền THTT phải tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Quan điểm đó được thể hiện trong chính sách hình sự của Nhà nước ta là trong hoạt động phòng, chống tội phạm, không phải vì phát hiện, xử lý tội phạm mà gây đau đớn về thể xác hoặc hạ thấp danh dự, nhân phẩm của con người, dù đólà những người đang bị buộc tội. Pháp luật của Nhà nước ta nghiêm cấm việc gây thương tích, bức cung, nhục hình đối với người bị buộc tội, người bị kết án và kể cả người có tội. Do đó, pháp luật TTHS cũng như pháp luật hình sự nghiêm cấm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người phạm tội, người bị buộc tội. Các CQĐT, người có thẩm quyền tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, người bị buộc tội. Đặc biệt không được ép buộc người bị can nói ra những điều thuộc bí mật đời tư của họ nếu họ không muốn. Những gì thuộc bí mật đời tư của bị can mà cơ quan, người THTT biết được thì phải có trách nhiệm giữ gìn, không được tiết lộ. Để đảm bảo tìm ra sự thật của vụ án, pháp luật TTHS nước ta đã quy định khá đầy đủ, chi tiết về vị trí, vai trò, các quyền và nghĩa vụ bị can. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng để giải quyết mối quan hệ giữa buộc tội và gỡ tội. Việc xác định rõ địa vị pháp lý với các quyền cụ thể của bị can sẽ không chỉ giúp họ bảo vệ mình trước cơ quan tố tụng mà còn góp phần quan trọng làm rõ nội dung và tính chính xác của vụ án hình sự. Tiếp đến cần làm rõ khái niệm quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Thực tế khách quan cho thấy, việc buộc tội đối với một người tất yếu dẫn đến nhu cầu gỡ tội. Bị can là những người bị buộc tội nhưng chưa phải là những người có tội. Do đó, họ vẫn có những quyền con người, quyền công dân nhất định. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rằng, không phải trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, nhu cầu gỡ tội đều có thể được đáp ứng. Quyền được gỡ tội chỉ xuất hiện trên cơ sở các nhà lập pháp cho là thiết yếu và ghi nhận bằng các quy định cụ thể trong pháp luật TTHS. Nội dung và phạm vi quyền của người bị buộc tội, trong đó có bị can phụ thuộc vào quy định của pháp luật mỗi quốc gia. 10
  18. Qua các thời kỳ lịch sử, QBC được coi là một phần của quyền con người và được ghi nhận trong đạo luật của nhiều quốc gia. Tại Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền ngày 10/1/1948 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã ghi nhận: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội có quyền được coi là vô tội cho đến khiđược chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên tòa xét xử công khai với mọi bảo đảm biện hộ cần thiết; không ai bị coi là phạm tội về bất cứ hành động hoặc không hành động nào đã xảy ra vào thời điểm mà theo luật quốc gia hay quốc tế không cấu thành một tội hình sự”. Tương tự như vậy, không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt được áp dụng vào thời điểm hành vi phạmtội được phát hiện. Ở Việt Nam, một số nhà khoa học pháp lý hình sự quan niệm: “Quyền bào chữa trong TTHS là tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở những quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự7. Theo quan niệm này, QBC thuộc về bốn loại chủ thể là người bị tạm giam, bị can, bị cáo và người bị kết án. Từ sự phân tích trên, có thể khái quát như sau, Quyền bào chữa của bị can là tổng hợp các quyền mà pháp luật cho phép bị can được sử dụng để đưa ra lý lẽ, chứng cứ gỡ tội nhằm phủ nhận một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội từ phía cơ quan điều tra hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự. Từ khái niệm trên cho thấy, thực hiện QBC của bị can trong giai đoạn ĐTVAHS chính là trách nhiệm của CQĐT, ĐTV và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền liên quan trong việc tôn trọng và bảo đảm triển khai trên thực tế để thực hiện đúng QBC của bị can đã được pháp luật quy định. 1.2.2. Đặc điểm, ý nghĩa của quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự * Đặc điểm quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự có những đặc điểm như: - Quyền này được BLTTHS ghi nhận và bảo đảm cho nhóm đối tượng là người đã bị khởi tố về hình sự (bị can) và tồn tại trong suốt giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Bị can là người mà CQĐT có đủ căn cứ xác định rằng đã thực hiện hành vinguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm nên đã ra quyết định khởitố bị can. Kể từ thời điểm quyết định khởi tố bị can, Nhà nước thể hiện sự buộc tộiđối với con người 7 Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011) Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - So sánh Luật TTHS Việt Nam, Đức và Mỹ, luận án tiếnsĩ Luật học, Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh. 11
  19. cụ thể. Bị can là người chính thức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị buộc tội. Đây là điểm khác biệt rất lớn giữa bị can và người bị tạm giữ liênquan đến việc bảo đảm QCN của họ trong điều tra vụ án hình sự. Quyền này của bị can được thực hiện trong suốt giai đoạn điều tra vụ án hình sự, tức là từ khi có quyết định khởi tố bị can cho đến khi giai đoạn điều tra kết thúc bằng quyết định đình chỉ điều tra hoặc kết luận điều tra đề nghị truy tố do CQĐT ban hành. - Quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra có đặc điểm khác với quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử thể hiện ở việc các hoạt động tố tụng diễn ra trong giai đoạn điều tra phần lớn thuộc về các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đồng thời không có sự đối kháng, xuất hiện công khai và trực tiếp tại một phiên tòa công khai như tại phiên tòa hình sự. Ở phiên tòa hình sự, việc xuất hiện quan điểm buộc tội của bên buộc tội (VKS) và của bên gỡ tội (bị can và/hoặc người bào chữa) cho thấy quyền bào chữa mang tính chất trực tiếp, rõ ràng và đầy đủ hơn. - Quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra xuất hiện ngay từ khi có sự buộc tội đối với một người hoặc pháp nhân thương mại, thể hiện thông qua quyết định khởi tố bị can đối với họ. Điều này cho thấy thời điểm có sự buộc tội thì quyền bào chữa (sự gỡ tội) ngay lập tức xuất hiện để đảm bảo tính đối kháng, nhằm bảo đảm tốt hơn quyền của người bị buộc tội. - Về nội dung quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự cũng có nội dung gồm tự bào chữa và nhờ người bào chữa. Tuy nhiên, trên thực tiễn cho thấy, việc tự bào chữa trong giai đoạn này là phần lớn và có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng xuất hiện khi có quyết định khởi tố bị can, đồng thời trong giai đoạn này các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ thu thập chứng cứ nhằm buộc tội bị can để giải quyết vụ án một cách khách quan và đúng luật. Do vậy, quyền tự bào chữa của bị can cần phải được tiến hành ngay để đảm bảo được quyền lợi ích hợp pháp của bị can, chống lại các hành vi buộc tội trái luật, đặc biệt là hoạt động thu thập chứng cứ trái luật của cơ quan tiến hành tố tụng. Đây cũng chính là điều kiện để bảo vệ cho bị can trong giai đoạn tố tụng sau. - Quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra có đặc điểm sẽ là tiền để để đảm bào quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn sau đặc biệt là giai đoạn xét xử. Quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra sẽ góp phần quan trọng để bảo vệ bị can chống lại sự buộc tội diễn ra trong giai đoạn điều tra, đảm bảo hoạt động điều tra thu thập chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng được diễn ra đúng luật, khách quan. Do đó, các tài liệu chứng cứ này khi thu thập được là đúng đắn sẽ 12
  20. góp phần quan trọng vào hoạt động chứng minh của Tòa án ở giai đoạn xét xử. Việc thực hiện quyền bào chữa ở giai đoạn này cũng đảm bảo hiệu quả hơn. * Ý nghĩa quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. - Bào chữa đối với bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự góp phần bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội. Quyền con người là một trong những quyền cơ bản nhất của con người được quy định trong Hiến pháp và các Luật cụ thể. Đồng thời quyền con người cũng là một quyền tự nhiên gắn bó mật thiết nhất với con người. Nhìn chung quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người đực ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia cũng như là pháp luật quốc tế. Nhà nước được thành lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất là bảo vệ quyền con người, là công cụ, phương tiện để nhà nước khẳng định và ghi nhận cơ chế đảm bảo cá quyền con người đó và nhằm mục đích hạn chế các bất công trong hoạt động tố tụng hình sự. Ngoài ra cũng xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực” do vậy người bị buộc tội được đảm bảo các quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng hình sự thì quyền này được thể hiện bằng quyền bào chữa của họ. - Bào chữa đối với bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là góp phần cho việc bảo vệ công lý. Những giá trị của công lý có thể được nhận diện trong các chính sách bảo đảm công bằng xã hội, công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội nhằm thỏa mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân, xuất phát từ khả năng thực hiện của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Những giá trị mang tính chất công lý cũng thể hiện trong các yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Các cơ quan tiến hành tố tụng và các thủ tục tố tụng luôn được xác định là những yếu tố quan trọng trong quá trình giúp các tổ chức, cá nhân tìm kiếm, tiếp cận công lý. Sự thừa nhận quyền bào chữa của bị can cùng cơ chế bảo đảm thực hiện bằng chính sách pháp luật góp phần xác định rõ mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. - Bào chữa cho bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự củng cố thêm tính nhân đạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tính nhân đạo được thể hiện trong những trường hợp theo quy định của pháp luật. Ngoài việc bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa thì người thân thích của bị cáo cũng có quyền yêu cầu, nhờ 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2