intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật đất đai ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

89
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày những vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thực trạng pháp luật đất đai và thực tiễn thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai ; Giải pháp hoàn thiện pháp luật đất đai và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật đất đai ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- LÊ ĐỖ KIM CHI BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- LÊ ĐỖ KIM CHI BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ Hà Nội, năm 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cuộc sống xã hội nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ và trong thời kỳ đổi mới. Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có định hướng thích hợp đã giúp cho nước ta có sự phát triển mạnh mẽ, bứt phá trong hầu hết các lĩnh vực chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội,… Nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng được triển khai thực thi cùng với xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế nước Việt Nam là nền kinh tế nông nghiệp, do đó, nông nghiệp là một ngành kinh tế vô cùng quan trọng ở hệ thống kinh tế nước ta, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế. Cơ sở để phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp gồm nông dân và đất đai, trong đó (i) nông dân là người trực tiếp tạo ra sản phẩm bằng cách tác động đến đất đai phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, đáp ứng nhu cầu sử dụng trong xã hội; (ii) Đất đai là tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm giúp nông dân làm việc. Mỗi nước trên thế giới đều có quỹ đất riêng để phát triển nông nghiệp, phục vụ sản xuất và Việt Nam cũng không phải là nước ngoại lệ. Nền kinh tế phát triển dẫn đến tốc độ đô thị hóa tăng nhanh dẫn đến mục đích sử dụng đất thay đổi thường xuyên, nhu cầu thu hồi đất phục vụ cho các mục đích khác. Song song với lợi ích của việc thu hồi đất là phát triển đất nước trở thành nền kinh tế công nghiệp hóa thì thách thức của việc thu hồi đất chính là diện tích đất bị thu hẹp, người dân sẽ sinh sống như thế nào, vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh trật tự xã hội, người bị thu hồi đất có đồng tình hay không, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được giải quyết ra sao. Việc thu hồi đất vì mục đích an ninh, quốc phòng hoặc vì kinh tế xã hội,… gây nhiều nguồn dư luận trong xã hội. Tuy vấn đề này không còn xa lạ với bối cảnh hiện nay nhưng nó chưa bao giờ cũ, luôn là vấn đề “nóng bỏng” và tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây rối loạn trật tự xã hội trong thời kỳ “đất chật 1
  4. người đông” như hiện nay. Đây là sự việc có mối quan hệ chặt chẽ giữa quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, người bị thu hồi đất. Qua từng giai đoạn, Nhà nước luôn tìm mọi giải pháp để cải tiến, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn thi hành quy định pháp luật vẫn tồn tại những hạn chế, các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo vẫn xảy ra. Hiến pháp năm 2013 ban hành và Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội thông qua đã có những thay đổi theo hướng tích cực, hoàn thiện dần trong chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy vậy, thực tế áp dụng các quy định về vấn đề này còn nhiều hạn chế, thiếu sót, điển hình như con số 70% các vụ kiện liên quan đến lĩnh vực đất đai do Thanh tra Chính Phủ đánh giá năm 2020. Vấn đề được đặt ra ở đây là “Nếu như các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất hoàn thiện thì tình trạng khiếu nại, tố cáo còn xảy ra nhiều như vậy hay không?” Với mục đích đi sâu tìm hiểu các quy định của pháp luật đất đai Việt Nam hiện nay về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, qua đó tìm ra những hạn chế, giải pháp khắc phục những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện. Xuất phát từ mong muốn trên, tác giả lựa chọn đề tài “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật đất đai ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật kinh tế của mình. Hy vọng qua đề tài này, tác giả có thể phần nào làm rõ được một số vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong tình hình hiện nay, với chủ đề nhạy cảm, nóng bỏng và đầy sự phức tạp của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đai, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, điển hình như: 2
  5. Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành tại quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Duy Thơ, Khoa Luật kinh tế - Viện Đại học Mở Hà Nội, năm 2017. Luận văn đã khái quát một cách tổng thể về những lý luận của pháp luật bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến người bị thu hồi đất. Từ những lý luận đó, bài viết đã phân tích, dẫn chứng thực trạng pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Tại thành phố Hải Phòng nói chung và Quận Dương Kinh nói riêng, bài viết có nghiên cứu về tình trạng và có những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý. Bài viết có những nghiên cứu về kinh nghiệm của các nước trên thế giời. Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài “Pháp luật bồi thường, tái định cư cho người bị thu hồi đất từ thực tiễn huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định” của tác giả Lưu Văn Dũng, Trường Đại học Mở Hà Nội, năm 2019. Luận văn đã hệ thống quy định pháp luật, nêu lên những vấn đề thực tế tại địa phương huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Từ đó, đưa ra các giải pháp, kiến nghị, đề xuất phù hợp với thực tiễn khu vực. Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Hà Nam", tác giả Trần Thị Huyền Lê, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015. Bài viết làm sáng tỏ một lý luận cơ bản cho việc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Sau đó định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao tính hiệu quả trong công tác thực thi pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất. Luận văn chỉ đề cập đến việc bồi thường và hỗ trợ mà chưa đi sâu vào vấn đề tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Củ Chi, Thành phố. Hồ Chí Minh", tác giả Nguyễn Văn Vững, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016. Luận văn 3
  6. đã xác định và hệ thống hóa lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, Luận văn chưa so sánh quy định giữa các nước với nhau. Luận án Tiến sĩ Luật học về “Pháp luật về bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam” của tác giả Phạm Thu Thủy, Đaị học Luật Hà Nội, năm 2014. Luận án đã khái quát hóa giúp phần nào làm rõ thêm lý luận cơ sở về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người dân. Luận án đi sâu vào làm rõ các khái niệm, đặc điểm và giá trị bên trong của việc bồi thường. Từ đó rút ra những bài họ kinh nghiệm cho nước ta trong thời kỳ hoàn thiện quy định pháp luật. Bên cạnh đó, Luận án cũng đã phân tích các quy định của pháp luật đất đai về bồi thường đất nông nghiệp khi nhà nước thu hồi đất, đánh giá hạn chế còn tồn tại và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó. Trên nền tảng cơ sở, quy định pháp luật có thêm những yêu cầu, định hướng và các giải pháp nâng cao tính hiệu quả do tác giả đề xuất về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Luận văn Thạc sĩ Luật học kinh tế với đề tài “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình” của tác giả Nguyễn Thị Phương, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019. Luận văn nêu rõ hơn về vấn đề lý luận và tình hình thực tế tại huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất. Từ đó, phân tích những thành tựu đã đạt được, những hạn chế còn đang vướng mắc và đưa ra các giải pháp, định hướng, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi khi áp dụng từ lý thuyết đến thực tế trong quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Tuy nhiên, Luận văn nêu lên những vấn đề chủ yếu của đất nông nghiệp nói riêng mà chưa nêu lên vấn đề tổng thể của đất đai nói chung khi nhà nước thu hồi đất. 4
  7. Ngoài ra còn một số luận văn, bài viết trên các tạp chí với nội dung liên quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất như: Tạp chí Luật học số 10 năm 2010 về “Chính sách hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất” của tác giả Trần Quang Huy; Tạp chí Luật học số 01 năm 2009 về “Vấn đề xung quanh khái niệm bồi thường, thu hồi đất” của tác giả Nguyễn Quang Tuyến; Tạp chí Luật học số 5 năm 2011 về “Những tồn tại, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng các phương thức bồi thường khi nhà nước thu hồi đất” của tác giả Nguyễn Thị Nga; Luận văn Thạc sĩ Quản lý đất đai “Đánh giá công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thực hiện một số dự án thu hồi đất để quản lý theo quy hoạch tại Thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái” của tác giả Phan Long, Đại học Thái Nguyên - Trường Đại học Nông Lâm, năm 2019;….. Kết quả nghiên cứu nêu trên kết hợp với việc triển khai điều tra và tổng hợp số liệu thứ cấp là tài liệu quan trọng cho tác giả trong việc kế thừa, đề nghị hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan. Các công trình khoa học nói trên chủ yếu đi sâu vào việc nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, về sự bất cập của giá đất Luật Đất đai năm 2003. Các tác giả còn bỏ ngỏ một số nội dung như sự hạn chế của việc áp dụng các phương pháp định giá đất trong thời điểm hiện nay; sự chia sẻ lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi trên cơ sở tiếp cận từ việc đánh giá lợi ích được thụ hưởng trong giới hạn ở một địa phương riêng lẻ là huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai theo Luật Đất đai năm 2013 cũng như các quy định pháp luật có liên quan đến nội dung này. Việc kế thừa, tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu về thu hồi đất dưới góc độ lý luận, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về nội dung này trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai và đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất là hết sức cần thiết và chưa trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã thực hiện trước đây. 5
  8. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua tìm hiểu tại huyện Vĩnh Cửu, tình Đồng Nai, tác giả thực hiện nghiên cứu luận văn nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đánh giá những thành công, hạn chế và tìm ra nguyên nhân những hạn chế của việc thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Từ những cơ sở trên, tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật đất đai và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong vấn đề này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn cần giải quyết các vấn đề dưới đây để đạt được mục đích nghiên cứu trên: − Hệ thống hoá các quy định pháp luật nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; − Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật nói chung và thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đổng Nai nói riêng. Trên cơ sở đó, chỉ ra những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế, sai sót đang còn tồn tại của hoạt động này và nguyên nhân của chúng; − Lấy kết quả của nghiên cứu lý luận pháp luật nêu trên để đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bồi thường, tái định cư cho người bị thu hồi đất hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng là các văn bản quy phạm pháp luật đất đai và thực tiễn thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. 6
  9. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu hoạt động thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật đất đai ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vĩnh Cửu, tình Đồng Nai” được tìm hiểu, nghiên cứu trên nền tảng quan điểm của Đảng, cơ quan nhà nước và phương pháp luận nghiên cứu khoa học xã hội về các chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật đất đai Việt Nam hiện nay. Luận văn được áp dụng các biện pháp nghiên cứu như sau: − Phương pháp phân tích các thông tin, số liệu thứ cấp: Đây là phương pháp chủ yếu được áp dụng trong bài luận văn này. Một là, phân tích các tài liệu, số liệu, báo cáo chuyên ngành, các giấy tờ liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, các văn vản nghị định, thông tư hướng dẫn của Chính phủ, các quyết định, văn bản đặc thù, chỉ đạo giải quyết những trường hợp vướng mắc riêng và kinh phí phải chi trả cho việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở các dự án, định mức giá trị đất của Nhà nước và kinh phí phải chi trả cho việc bồi thường được áp dụng cho huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Hai là, số liệu về tình hình sử dụng đất, diện tích đất bị thu hồi, số hộ bị thu hồi đất, kinh phí giải phóng mặt bằng trong các Báo cáo hàng năm, Báo cáo theo giai đoạn 2018-2020 của UBND huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, Hội đồng giải phóng mặt bằng, phòng Tài nguyên và Môi trường; phòng Thống kê, các phòng, ban của huyện và UBND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. − Phương pháp phân tích các thông tin, số liệu sơ cấp: Bên cạnh việc sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp, luận văn sử dụng nguồn dữ liệu sơ cấp nhằm 7
  10. đánh giá thực trạng pháp luật đất đai và thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện. − Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ nguồn thông tin nêu trên, bài viết dùng phương pháp phân tích, tổng hợp dữ liệu để hệ thống hóa quy định pháp luật và nêu lên những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và đánh giá khách quan việc thực hiện quy định pháp luật đất đai về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Sau đó, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất tại huyện Vĩnh Cửu trong thời gian tới. − Phương pháp so sánh: Để nhìn thấy rõ sự khác nhau, giống nhau giữa các dữ liệu, toàn bộ số liệu và chỉ tiêu sẽ được chia thành các nhóm để so sánh những ưu điểm và những hạn chế của kết quả thực hiện, ví như so sánh kết quả đạt được của chuỗi ngày dài thực hiện mục tiêu so với kết quả của mục tiêu đặt ra ban đầu. − Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp thống kê mô tả được áp dụng nhằm phân tích và tổng hợp các mô tả tổng quan, mô tả chi tiết tư liệu để có góc nhìn đa chiều, đầy đủ, chính xác trong quản lý việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật đất đai ở Việt Nam hiện nay tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Phương pháp này cho phép lượng hóa kết quả, đánh giá đúng hiệu quả của công tác giải phóng mặt bằng hiện nay. − Phương pháp quan sát thực địa: Quan sát thực địa giúp bài viết có cái nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau, chân thực từ thực tế về quá trình thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư trên địa bàn huyện. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận, luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận của chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và quy trình thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Dùng nền tảng là cơ sở sở lý luận sau khi được hệ thống, người bị thu hồi đất có cơ hội tiếp cận, phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện 8
  11. chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Từ đó, đưa ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân những hạn chế của việc thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật đất đai, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Về mặt thực tiễn, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai có thể lấy kế quả nghiên cứu này làm tài liệu tham khảo sử dụng trong thực tiễn khi thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn huyện. Ngoài ra, công trình nghiên cứu này cũng là một trong những nguồn tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu pháp luật đất đai Việt Nam khi nhà nước thu hồi đất chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Chương 2: Thực trạng pháp luật đất đai và thực tiễn thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật đất đai và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai 9
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT 1.1. Các khái niệm “bồi thường”, “hỗ trợ”, “tái định cư” khi Nhà nước thu hồi đất 1.1.1. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Tất cả các thiệt hại được đền bù một cách tương xứng được gọi là sự bồi thường, những thiệt hại ấy có thể là thiệt hại về vật chất hoặc thiệt hại về tinh thần hoặc bao gồm cả thiệt hại về vật chất và tinh thần. Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác Pháp luật dân sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần. Trách nhiệm bù đắp tổn thất về vật chất thực tế, được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra gồm các thiệt hại về tài sản, chi phí để hạn chế tối đa thiệt hại thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút được gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất. Người gây thiệt hại tình thần cho người khác ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai thì còn phải bồi thường một khoảng tiền cho người bị thiệt hại.. Trong quá trình hình thành và phát triển, đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như: Theo Nghị định số 151/TTg ngày 14/04/1959 quy định tạm thời về trưng dụng ruộng đất và Luật cải cách ruộng đất năm 1954 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của nước ta quy định về bồi thường đất. Là văn bản sơ khai nên các quy định này còn đơn giản sao cho đáp ứng đầy đủ yêu cầu hiện tại và được sự chấp thuận của người dân. Sau thời gian đất nước thống nhất, việc quản lý đất đai được nhà nước hoàn thiện chế độ quản lý thể hiện tại Luật đất đai năm 1987 trên cơ sở Hiến 10
  13. pháp năm 1980. Luật đất đai năm 1987 quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết hơn việc thu hồi đất và trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước. Xã hội không ngừng phát triển, đời sống phức tạp dần dần. Do đó, các quy định cũng theo đó phát triển, đổi mới theo từng thời kỳ. Luật đất đai năm 1993 đã cụ thể hóa nguyên tắc việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất như quy định tại Điều 27 về các trường hợp được thu hồi đất, Điều 28 về cơ quan có thẩm quyền quyết định việc thu hồi đất và quyền của người sử dụng đất là được bồi thường thiệt hại tại Điều 73. Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất là định nghĩa đầu tiên được nêu một cách rõ ràng về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, thể hiện tại Luật đất đai năm 2003. Tuy nhiên, Điều 4 Luật đất đai 2003 chỉ quy định bồi thường về giá trị quyền sử dụng đất mà không tính đến các tài sản vô hình và giá trị tài sản ở trên đất khác khi nhà nước bồi thường cho việc thu hồi đất. Quy định chưa cụ thể và chặt chẽ trước đó buộc Luật đất đai năm 2013 ra đời, định nghĩa về bồi thường đất được thể hiện như sau: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”. Luật này không chỉ quy định bồi thường về giá trị quyền sử dụng đất khi nhà nước bồi thường cho việc thu hồi đất mà còn quy định cụ thể về việc hỗ trợ, bồi thường những tài sản gắn liền với đất, chi phí đầu tư vào đất và các tài sản vô hình khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhìn chung, ta có thể hiểu bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là các khoản chi trả của nhà nước cho người sử dụng đất bị nhà nước thu hồi khi người sử dụng đất đáp ứng đủ các yêu cầu do luật định nhằm bù đắp những thiệt hại về đất, tài sản và chi phí đầu tư trên đất cho người bị thu hồi đất. 1.1.2. Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Từ ngàn xưa, ông cha ta đã sử dụng từ ngữ “hỗ trợ” nhằm diễn đạt tinh thần giúp đỡ, tương thân, tương ái giữa mọi người với nhau và đặc biệt là cùng nhau vượt qua gian lao, vất vả trong cuộc sống hàng ngày vẫn đang diễn 11
  14. ra. Không chỉ được dùng trong cuộc sống hàng ngày mà thuật ngữ hỗ trợ còn được nhắc đến ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó lĩnh vực không thể thiếu trong hệ thống pháp luật chính là pháp luật về đất đai. Đất đai là nguồn lực cực kỳ quan trọng của mỗi người nông dân, do đó khi bị thu hồi quyền sử dụng đất, cuộc sống người sử dụng đất bị thu hồi ít nhiều có sự xáo trộn, mất việc, mất đi công cụ kiếm kế sinh nhai thường ngày. Thu hồi đất kéo theo nhiều hệ luỵ, do đó hạng mục hỗ trợ khi thu hồi đất là điều không thể bỏ xót trong pháp luật về thu hồi và bồi thường đất. Nhà nước bày tỏ trách nhiệm đối với người sử dụng đất bị thu hồi thông qua sự bồi thường và hỗ trợ. Nhà nước không những bù đắp những tổn thất về quyền và lợi ích của người bị thu hồi đất mà còn trợ giúp những mất mát của người có quyền sử dụng đất bị thu hồi. Bên cạnh đó, chúng ta có thể hiểu biện pháp bù đắp nhiều hơn nữa cho bồi thường là hỗ trợ nhằm giúp các quy định pháp luật được hoàn thiện hơn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người có quyền sử dụng đất bị thu hồi. Do vậy, trong Luật đất đai năm 2013, tại Điểu 3 đã nêu rõ định nghĩa về việc hỗ trợ khi thu hồi đất như sau: Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển. Từ đây, ta có thể hiểu: Nhà nước giúp đỡ người có đất bị thu hồi vượt qua tình trạng khó khăn, khôi phục kinh tế thường ngày, phát triển đời sống và ổn định sản xuất như hỗ trợ tạo việc làm, tái định cư, di chuyển, thay đổi ngành nghề làm việc, ổn định đời sống. 1.1.3. Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Tại Việt Nam, pháp luật đất đai quy định rằng các cơ quan của bộ máy nhà nước có thẩm quyền chuẩn bị nơi ở mới đáp ứng đầy đủ các điều kiện do luật quy định khi nhà nước thu hồi đất ở của người bị thu hồi để giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống là tái định cư. 12
  15. Sau khi bị nhà nước thu hồi đất, cá nhân, hộ gia đình, người sử dụng đất bị thu hồi phải di chuyển đi nơi khác, di chuyển chỗ ở vì đất ở bị thu hồi hay phần diện tích còn lại sau thu hồi ít hơn hạn mức giao đất ở mới tại địa phương, ngoại trừ người sử dụng đất bị thu hồi, hộ gia đình, cá nhân không có nhu cầu tái định cư sau khi bị thu hồi. 1.2. Sự cần thiết và các yêu cầu của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất 1.2.1 Sự cần thiết của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Việc thu hồi đất luôn đi liền với yêu cầu bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Có thể kể đến các trường hợp: Bồi thường kinh phí đầu tư vào đất còn lại khi nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của cá nhân, hộ gia đình, nhà nước khi thu hồi đất bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại; Bồi thường về đất, kinh phí dành cho đầu tư vào đất còn lại khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của tổ chức kinh tế, cộng đồng dân cư, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, cơ sở tôn giáo; Nhà nước khi thu hồi đất nhà ở buộc bồi thường cho người bị thu hồi đất; Đất nông nghiệp không phải là đất ở của hộ gia đình, cá nhân khi bị nhà nước thu hồi; Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của tổ chức không phải là tổ chức kinh tế, sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng, cộng đồng dân cư. Bản chất các quy định của những văn bản quy phạm pháp luật có nét đặc thù, bao gồm cả sự tự do thực hiện xen lẫn sự bắt buộc nhất định, có tính cưỡng chế thực hiện và thích nghi phù hợp trong đời sống. Nhờ vào đặc trưng ấy, xã hội được nhà nước quản lý hiệu quả thông qua áp dụng pháp luật, tạo luật chơi cho xã hội. Khi nhà nước thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất là vấn đề nhạy cảm, chạm đến lợi ích cá nhân của mỗi người, ấn dấu các rủi ro có thể xảy ra như khiếu nại, tranh chấp, …. 13
  16. Để bảo đảm cho việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất diễn ra trong trật tự, ổn định, bảo đảm quyền và lợi ích của người có đất bị thu hồi thì các quan hệ phát sinh trong quá trình này phải được được điều chỉnh bằng pháp luật. Việc điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ, hành vi trong chu trình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nhằm: - Xác định được quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; - Xác định được các nguyên tắc của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; - Xác định được các trường hợp, các điều kiện mà người có đất bị thu hồi được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; - Xác định được trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; bảo đảm tính công khai, minh bạch của trình tự, thủ tục này; - Xác định được cách tính giá tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; - Xác định việc giải quyết các tranh chấp và xử lý vi phạm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất 1.2.2. Các yêu cầu của pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Là nguồn tài nguyên quý giá của quốc gia, quản lý đất đai hiệu quả là điều vô cùng quan trọng và phải tuân theo các yêu cầu nhất định nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của các chủ thể, hạn chế các trường hợp khiếu kiện, tố cáo về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Các yêu cầu gồm: Một là: yêu cầu toàn diện, đồng bộ: Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đảm bảo nguyên tắc toàn diện, đồng bộ. Nó được thể hiện qua sự thống nhất, có sự phối hợp đồng nhất, không mâu thuẫn hay trùng lặp, chồng chéo giữa các văn bản hướng dẫn áp dụng thực hiện việc 14
  17. bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người bị thu hồi đất khi nhà nước thu hồi đất. Hai là: yêu cầu về tính thống nhất: Sự phù hợp, nhất trí, không mâu thuẫn của pháp luật ở nhiều góc độ không giống nhau, giữa tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội gần gũi, cùng tính chất pháp luật, các quy phạm pháp luật trong một chế định pháp luật cũng phải thống nhất. Quy định pháp luật đất đai khi được ban hành không được trùng lặp, chồng chéo chức năng, không chỉ đảm bảo sự thống nhất mà còn đảm bảo tính thứ tự. Ba là: yêu cầu các quy định pháp luật phải được ban hành phù hợp: Các quy định của pháp luật phải gắn liền với tình hình thực tiễn thì khi đó các văn bản quy phạm pháp luật được ra đời mới giải quyết được các vấn đề thực tại. Sự phù hợp là yếu tố cực kì quan trọng nhằm đảm bảo tính thực thi, hiệu quả của quy định pháp luật thông qua các văn bản luật với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội. Pháp luật sẽ dễ dàng thực hiện, áp dụng vào đời sống thực tiễn khi nó đáp ứng được các yêu cầu thực tế và phù hợp với quy luật phát triển và điều kiện kinh tế - xã hội sẽ làm cho pháp luật dễ dàng được thực hiện và ngược lại. Bốn là: yêu cầu các quy định của pháp luật phải có khả năng thực hiện được. Không một văn bản nào ban hành ra mà chủ thể ban hành mong muốn văn bản ấy không thực hiện được, do đó, nhà ban hành các quy định pháp luật phải xác định thời điểm sao cho ban hành đúng lúc và kịp thời đáp ứng những nhu cầu mà cuộc sống đang đặt ra. Không những vậy mà nó còn phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Năm là: yêu cầu về cơ chế quản lý. Pháp luật về đất đai sẽ có những ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế thị trường. Do đó, thuộc phạm vi, cơ chế quản lý phải chặt chẽ, có tầm nhìn xa và lường trước được một số rủi ro khi tình hình kinh tế nước Việt Nam chuyển snag nền kinh tế thị trường, phát triển đa dạng thành phần kinh tế. 15
  18. 1.3. Cơ cấu về nội dung pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho khi Nhà nước thu hồi đất Pháp luật được hiệu chỉnh và thay đổi theo thời gian nhằm đáp ứng được yêu cầu, chuyển biến của xã hội. Qua từng giai đoạn, mục tiêu hướng đến giải quyết vấn đề của pháp luật khác nhau, căn cứ dựa trên mục tiêu kinh tế toàn quốc gia. Mỗi thời kỳ sẽ có sự thay đổi nhất định, tuy nhiên vẫn tồn tại điểm chung cần giải quyết. Pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho khi Nhà nước thu hồi đất cần có các nhóm quy phạm sau đây: Một là: nguyên tắc và điều kiện bồi thường thu hồi đất của nhà nước. Nó là nền tảng, mang tính định hướng và là cơ sở cho việc thực thi các quy định pháp luật đất đai về bồi thường sau khi nhà nước thu hồi đất. Các điều kiện bồi thường là căn cứ để nhà nước xác định chủ thể bị thu hồi đất đó có được hưởng các chế độ về bồi thường sau khi bị nhà nước thu hồi đất hay không. Nguyên tắc và điều kiện bồi thường này được xây dựng trên phương hướng lợi ích hợp pháp cho người sử dụng rất, rõ ràng, minh bạch, cụ thể với từng địa phương khác nhau. Hai là: trình tự và thủ tục bồi thường. Nó là phương thức, quy trình mà theo đó nhà nước và người dân bị thu hồi đất buộc thực hiện để tìm ra phương án giải quyết cho việc bồi thường sau khi nhà nước thu hồi đất. Dựa trên nền tảng các văn bản quy định chi tiết về cách lập hồ sơ, bổ sung hồ sơ, thẩm định nội dung, thực hiện kế hoạch bồi thường và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong bồi thường thiệt hại cho người bị thu hồi đất. Những trình tự và thủ tục hành chính này được đảm bảo công bằng, rõ ràng, dễ áp dụng và thực hiện nhanh chóng. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, giá trị đất tăng cao, nhà nước không tránh khỏi những bất bình, thắc mắc, khiếu nại, khiếu kiện của người dân bị nhà nước thu hồi đất. Ba là: nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người bị nhà nước thu hồi đất. Nội dung là các quy định pháp luật để nhà nước làm căn cứ 16
  19. xác định chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất gồm có các cơ chế quy định về phạm vi bồi thường thiệt hại. Đó là bồi thường về đất, các khoản đầu tư vào đất và bồi thường thiệt hại về tài sản có trên đất, trong những trường hợp nhất định Nhà nước có thể hỗ trợ nhằm ổn định đời sống sản xuất; Về giá đất, nhà nước tính theo giá đất được định giá vào khoảng thời gian thu hồi đất để chi trả phần bồi thường cho người bị thu hồi đất; nhà nước có thể bồi thường bằng cách bồi thường tiền mặt tương đương với tổng giá trị quyền sử dụng đất nhà nước thu hồi hoặc bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng tương ứng với đất bị thu hồi. Bốn là: các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khiếu nại, tố cáo là cách mà người bị thu hồi đất yêu cầu nhằm đòi hỏi quyền lợi của mình. Giải quyết khiếu nại, tố cáo là việc nhà nước giải đáp thắc mắc, kiểm tra, giám sát kịp thời để tránh các hành vi sai sót, vi phạm pháp luật trong bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Luật Khiếu nại năm 2011; Luật Tố tụng Hành chính năm 2015; Khoản 2, Điều 204 và Khoản 2, Điều 205 trong Luật Đất đai năm 2013; Luật Tố cáo số 25/2018/QH14 năm 2018, ..... là một số quy định pháp luật quy định về vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Dựa trên tình hình thực tế, việc bồi thường được áp dụng thực thi qua các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Người sử dụng đất bị nhà nước thu hồi được quyền khiếu nại, tố cáo khi họ nhận thấy quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm, điều này được pháp luật cho phép thực hiện thông qua các quy định pháp luật. Từ những khiếu nại, tố cáo của người dân, nhà nước có căn cứ để đánh giá năng lực, trình độ, các thức làm việc, ý thức tuân thủ của cơ quan nhà nước khi được giao nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy, công tác bồi thường có nhiều khó khăn, bất cập xảy ra trong quá trình giải quyết và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng không phải là ngoại lệ. Bên cạnh khó khăn về sự chồng chéo, chưa rõ ràng của các quy định còn có sự khó khăn trong việc tìm ra ý chí chung của hai bên (chính quyền và người dân) trong việc xác định mức bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2