Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
lượt xem 8
download
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế "Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau" gồm các nội dung chính sau: Một số vấn đề lý luận về CĐHT và pháp luật về CĐHT ở Việt Nam hiện nay; Thực tiễn thực hiện CĐHT theo pháp luật BHXH bắt buộc tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện CĐHT theo pháp luật BHXH bắt buộc tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- HUỲNH HẢNH CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- HUỲNH HẢNH CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ Hà Nội, năm 2021
- 1
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH. BHXH là trụ cột chính trong hệ thống ASXH ở mỗi quốc gia. BHXH là sự cần thiết khách quan và là tất yếu, phản ánh nhu cầu khách quan của đời sống xã hội hiện đại. Người Đức có câu phương ngôn: “Cuộc sống không có bảo hiểm thì chẳng khác nào trèo lên chiếc thang chỉ có một chân”. Theo Luật BHXH Việt Nam năm 2014 thì BHXH gồm 02 loại hình: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. BHXH bắt buộc gồm các chế độ: ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN, hưu trí và tử tuất. BHXH tự nguyện gồm các chế độ: hưu trí và tử tuất. Trong các chế độ BHXH thì CĐHT có vai trò đặc biệt quan trọng, là hạt nhân của hệ thống BHXH, là mục tiêu đảm bảo ASXH và là động lực để NLĐ yên tâm làm việc. CĐHT là một trong những chế độ quan trọng nhất của hệ thống ASXH, góp phần quan trọng làm cho xã hội được ổn định. Qua thời gian dài tổ chức thực hiện, CĐHT luôn có vị trí đặc biệt quan trọng đối với người tham gia BHXH. CĐHT cùng với các chế độ BHXH khác đã góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho NLĐ, tạo điều kiện cho họ yên tâm công tác, lao động, sản xuất và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị xã hội của đất nước. Nhờ có CĐHT mà NLĐ sau khi hết tuổi lao động hoặc sau một thời gian công tác nhất định sẽ được nghỉ hưu và được nhận tiền hưu để ổn định cuộc sống. Thời gian qua, tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, việc thực hiện các quy định về BHXH, nhất là việc thực hiện CĐHT đã có nhiều chuyển biến tích cực và đã thu được những kết quả rất quan trọng. 1
- Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được về tình hình tham gia, công tác thu, chi và giải quyết CĐHT, vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc cần được xem xét, nghiên cứu và giải quyết một cách kỹ lưỡng như: điều kiện hưởng, thời hạn nghỉ hưu, mức hưởng, thời gian tham gia,… Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau” để nghiên cứu, đưa ra những giải pháp tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật về CĐHT, nhằm duy trì và thực hiện tốt chính sách ASXH, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ và người thụ hưởng. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài CĐHT là một trong những chế độ quan trọng nhất trong Luật BHXH của bất kỳ quốc gia nào. Nó xuất hiện từ giai đoạn đầu hình thành các chính sách BHXH của các quốc gia. Ở Việt Nam, nghiên cứu về CĐHT đã được quan tâm từ rất lâu. Vấn đề này được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau, có thể kể đến một số công trình của các tác giả như: - Tác giả Nguyễn Lệ Huyền với Luận văn thạc sĩ: Bảo hiểm hưu trí – thực trạng và kiến nghị, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2015. - Tác giả Lý Hoàng Minh với Luận văn thạc sĩ: Thực hiện chính sách hưu trí ở nước ta hiện nay, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2016. - Tác giả Dương Thị Thùy Trang với Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội tự nguyện, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016. - Tác giả Hà Thị Hiền với Luận văn thạc sĩ: Chế độ hưu trí theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 ở Việt Nam hiện nay, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2018. Ngoài ra, có thể kể đến một số bài viết tiêu biểu của các tác giả đăng trên các tạp chí như: 2
- - “Bảo hiểm hưu trí ở Việt Nam: thực trạng và thách thức” của tác giả Điều Bá Được đăng trên Tạp chí Tài chính, năm 2013. - “Cải cách Luật Bảo hiểm xã hội để mở rộng Bảo hiểm hưu trí đối với người cao tuổi” của tác giả Đặng Như Lợi đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 12 năm 2014. Tất cả những công trình, bài viết trên đều tập trung nghiên cứu về vấn đề CĐHT trong Luật BHXH các thời kỳ. Tuy nhiên, ở góc độ nào đó, chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về pháp luật CĐHT từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Chính vì lý do đó, đề tài: “Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau” sẽ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về pháp luật CĐHT và thực tiễn thực hiện tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về CĐHT, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về CĐHT ở nước ta và thực tiễn thực hiện ở thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH về CĐHT tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ những mục đích nêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề: - Một số vấn đề lý luận về CĐHT. - Thực tiễn thực hiện pháp luật hiện hành về CĐHT tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; qua đó phân tích, đánh giá thực trạng quá trình tổ chức thực hiện. 3
- - Đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật hiện hành và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH về CĐHT ở thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật BHXH Việt Nam hiện hành về CĐHT và thực trạng thực hiện CĐHT tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu CĐHT của đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau giai đoạn 2017 - 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và duy vật biện chứng để nghiên cứu các nội dung của vấn đề. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể của ngành Luật học như: phương pháp nghiên cứu hệ thống; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu, kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm rõ và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động BHXH nói chung và CĐHT nói riêng. Làm rõ thực trạng thực hiện CĐHT trên địa bàn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau trong những năm qua. Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về CĐHT và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện CĐHT ở Việt Nam hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài có thể làm tài liệu cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học; đồng thời cũng có thể làm tài liệu cho các ngành, đoàn thể tham 4
- khảo. Ngoài ra đề tài còn có thể tham khảo trong quá trình xây dựng chính sách về CĐHT và nâng cao hiệu quả thực hiện CĐHT tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. 7. Kết cấu của luận văn Đề tài gồm có 03 chương, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về CĐHT và pháp luật về CĐHT ở Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực tiễn thực hiện CĐHT theo pháp luật BHXH bắt buộc tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện CĐHT theo pháp luật BHXH bắt buộc tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. 5
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Một số vấn đề lý luận về chế độ hưu trí 1.1.1. Khái niệm chế độ hưu trí Con người muốn tồn tại và phát triển thì phải lao động để tạo ra của cải, vật chất. Nhưng cùng với thời gian, con người sẽ bị già đi, sức khoẻ của họ bị giảm sút không còn khả năng lao động, không còn khả năng tự đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống. Lúc đó khoản thu nhập của họ có được phần lớn là do người thân chu cấp nhưng không thường xuyên, số ít được tích luỹ trong quá trình lao động. Để đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ khi họ hết tuổi lao động và giúp họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định đời sống, do đó Nhà nước đã thực hiện CĐHT. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về CĐHT trong hệ thống các chính sách BHXH. Có quan điểm cho rằng, “CĐHT được hiểu là việc cung cấp khoản trợ cấp nhằm thay thế thu nhập và lợi ích khác cho người sống lâu hơn một độ tuổi được quy định khi họ tham gia BHXH và đủ điều kiện để hưởng trợ cấp và lợi ích theo quy định về BHXH” [13, tr.11]. Ngoài cách hiểu trên, còn một số cách hiểu khác về CĐHT trong BHXH như: “CĐHT là chế độ BHXH đảm bảo thu nhập cho người tham gia BHXH khi hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động nữa” [10, tr.9]. Hay “CĐHT là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các điều kiện và mức hưởng cho những người đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động” [10, tr.9]. 6
- Qua nghiên cứu các quan điểm khác nhau về CĐHT ta thấy, các quan điểm đều cho rằng CĐHT là chế độ áp dụng cho NLĐ khi họ đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động nữa. Ngoài ra, bản chất của CĐHT là sự đảm bảo thu nhập bằng việc trợ cấp của quỹ BHHT dành cho người tham gia sau khi họ hết tuổi lao động hoặc không tham gia quan hệ lao động nữa. Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm CĐHT: Là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các đối tượng, điều kiện, mức đóng và mức trợ cấp cho những người tham gia BHXH khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động. CĐHT có sự tách biệt giữa đóng và hưởng, đồng thời là chế độ nằm ngoài quá trình lao động. Do đó, NLĐ muốn được hưởng CĐHT thì trong quá trình lao động phải tham gia đóng BHXH. Số tiền mà NLĐ đóng BHXH sẽ được tích luỹ vào quỹ hưu trí và sau khi nghỉ việc, NLĐ sẽ được chi trả lương hưu; ngoài ra, những người thuộc thế hệ trước đang hưởng lương hưu cũng được trích từ quỹ hưu trí này. Như vậy có sự kế thừa giữa các thế hệ lao động trong việc hình thành quỹ hưu trí. Đây là đặc trưng thể hiện nguyên tắc số đông bù số ít, đoàn kết, tương trợ của CĐHT. Thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa NLĐ và NSDLĐ. NSDLĐ muốn có sự phát triển sản xuất, kinh doanh thì ngoài việc tập trung thiết bị máy móc, họ cũng phải quan tâm đến cuộc sống của NLĐ. Phải tạo cho NLĐ việc làm và cũng phải đảm bảo cuộc sống cho họ khi họ hết tuổi lao động. 1.1.2. Ý nghĩa của chế độ hưu trí CĐHT có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống của mỗi NLĐ. CĐHT đảm bảo đời sống cho NLĐ khi họ về hưu, vì vậy làm cho xã hội ổn định. CĐHT là hạt nhân của hệ thống BHXH, giúp NLĐ yên tâm làm việc trong quá trình lao động, tích luỹ khi còn trẻ để khi nghỉ hưu NLĐ có cuộc 7
- sống thoải mái hơn và an nhàn hơn vì có được sự đảm bảo chắc chắn về phần thu nhập. CĐHT giúp NLĐ tiết kiệm trong quá trình lao động khi còn trẻ để khi về già cuộc sống được đảm bảo hơn, giảm bớt gánh nặng cho người thân, gia đình và xã hội. CĐHT có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống xã hội. Kết quả thực hiện CĐHT, phản ánh được trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và đánh giá được mức độ ASXH đạt được ở mỗi quốc gia. 1.1.3. Vai trò của chế độ hưu trí CĐHT có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh thuận lợi vẫn còn phải đối mặt với nhiều vấn đề như: ốm đau, TNLĐ – BNN, mất việc làm, tỷ lệ già hóa dân số ngày càng tăng,… Những điều này sẽ đặt ra cho các chế độ BHXH, trong đó có CĐHT cần phải được thực hiện hiệu quả, phát huy đúng vai trò của mình. Những vai trò chủ yếu của CĐHT: - Đối với NLĐ, CĐHT sẽ tạo cho họ tâm lý yên tâm và tích cực lao động khi còn trẻ, đảm bảo đời sống khi về hưu để giảm gánh nặng cho người thân, gia đình và xã hội. CĐHT đảm bảo được việc thực hiện quyền và lợi ích chính đáng của NLĐ sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội. Tiền lương mà họ nhận được là kết quả tích luỹ trong suốt quá trình làm việc đóng góp vào quỹ BHXH. Đây là khoản thu nhập chính đáng và là nguồn thu nhập chủ yếu để đảm bảo cuộc sống cho NLĐ trong quãng đời còn lại sau quá trình lao động. - Đối với NSDLĐ, CĐHT sẽ phân phối một cách hợp lý các chi phí cho NLĐ, qua đó giúp các tổ chức SDLĐ ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh. - Đối với xã hội, CĐHT phản ánh tính nhân văn sâu sắc, là một trong những nội dung trọng tâm của chính sách đảm bảo ASXH. CĐHT thể hiện 8
- trách nhiệm của Nhà nước đối với những người đã có quá trình lao động, đóng góp vào quỹ BHXH, nay hết tuổi lao động. Một vấn đề đặt ra hiện nay là xu hướng dân số ngày càng già hóa, dẫn đến số lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng. Điều này cho thấy rõ CĐHT ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. 1.1.4. Các hình thức của chế độ hưu trí CĐHT được thực hiện dưới 03 hình thức: - BHHT bắt buộc là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà NLĐ và NSDLĐ bắt buộc phải tham gia. Khi đảm bảo về thời gian đóng BHXH và đủ điều kiện về tuổi hoặc trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật thì NLĐ được nghỉ hưu. Ngoài ra, khi bị suy giảm KNLĐ ở mức độ nhất định theo quy định của pháp luật thì NLĐ cũng có quyền được nghỉ hưu sớm hơn so với tuổi quy định. - BHHT tự nguyện là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia căn cứ vào mức thu nhập của mình để lựa chọn phương thức đóng, mức đóng cho phù hợp; đồng thời, Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để người tham gia hưởng CĐHT và tử tuất. Cũng như hình thức BHHT bắt buộc, NLĐ được nghỉ hưu khi đảm bảo thời gian đóng BHXH và đủ điều kiện về tuổi đời. Với hình thức BHHT tự nguyện, NLĐ không được nghỉ hưu sớm hơn tuổi quy định do điều kiện lao động, tính chất công việc hoặc bị suy giảm KNLĐ. - BHHT bổ sung là chính sách BHXH mang tính chất tự nguyện nhằm mục tiêu bổ sung thu nhập cho người tham gia quỹ khi đến tuổi về hưu dưới hình thức tài khoản hưu trí cá nhân, được đầu tư và tích lũy theo quy định của pháp luật. 9
- 1.1.5. Các nguyên tắc cơ bản của chế độ hưu trí CĐHT cũng tuân theo các nguyên tắc chung của BHXH, cụ thể: - Một là, mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẽ giữa những người tham gia BHXH. Nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt: có đóng BHXH thì được hưởng chế độ; thời gian tham gia đóng BHXH nhiều, mức đóng góp cao thì mức trợ cấp lương hưu, trợ cấp tử tuất được hưởng với mức cao và ngược lại. Tuy nhiên, với đặc tính của bảo hiểm thì chia sẽ giữa những người tham gia là không thể thiếu, nguyên tắc chia sẽ của BHXH được thể hiện ở tất cả các chế độ. - Hai là, mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của NLĐ, mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng do NLĐ lựa chọn. Nguyên tắc này quy định người tham gia BHXH bắt buộc đóng BHXH theo tỷ lệ xác định trên cơ sở tiền lương, tiền công mà không đóng BHXH trên mức thu nhập thực tế như: tiền lương tăng thêm, các khoản phụ cấp khác (trừ phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề), thu nhập do lương tăng thêm, do thực hiện chế độ khoán sản phẩm đem lại. Việc quy định nguyên tắc này vừa đảm bảo cho việc sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp được ổn định, vừa đảm bảo cho thực hiện quản lý thu BHXH trong điều kiện thực tế hiện nay. Đối với BHXH tự nguyện, mức đóng BHXH được quy định trên cơ sở mức thu nhập do người tham gia lựa chọn tùy vào khả năng kinh tế của họ nhưng không thấp hơn mức tiền lương tối thiểu, đây là quy định hợp lý nhằm thu hút và tạo điều kiện để đông đảo NLĐ trong xã hội có thể tham gia đóng BHXH. - Ba là, NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện để được hưởng CĐHT và chế độ tử tuất trên cơ sở 10
- thời gian đã đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã được tính hưởng BHXH một lần thì không tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ BHXH. Với nguyên tắc này, giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện có sự liên thông, đảm bảo cho người tham gia BHXH khi hết tuổi lao động có nhiều cơ hội được hưởng CĐHT do thời gian đóng BHXH được tính bằng tổng thời gian đóng BHXH của 2 loại hình. Tuy nhiên, theo quy định của Luật BHXH thì trong cùng một thời điểm, NLĐ chỉ được tham gia đóng BHXH bắt buộc hoặc BHXH tự nguyện. - Bốn là, Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần, các nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định. Nguyên tắc này quy định quỹ BHXH được quản lý thống nhất và hạch toán theo các quỹ thành phần trên cơ sở công khai, minh bạch, sử dụng đúng mục đích, nhằm đảm bảo cho việc quản lý, đầu tư quỹ có hiệu quả và phục vụ cho công tác hạch toán, đánh giá tình hình cân đối quỹ để có điều chỉnh về chính sách cho phù hợp, đảm bảo cân đối thu – chi, điều chỉnh kịp thời khi các quỹ thành phần tạm thời bị mất cân đối, không ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia BHXH. - Năm là, việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH. Nguyên tắc này, việc thực hiện BHXH đối với NLĐ phải được nghiên cứu để quy định cụ thể về hồ sơ, quy trình, thời hạn giải quyết sao cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NLĐ, NSDLĐ khi tham gia BHXH và khi giải quyết hưởng các chế độ BHXH. Ngoài các nguyên tắc chung, CĐHT cũng có những nguyên tắc riêng, bao gồm: 11
- - Một là, đảm bảo mọi thành viên trong xã hội có quyền tham gia và hưởng quyền lợi về BHXH. - Hai là, có sự phân biệt hợp lý hưởng CĐHT giữa lao động nam và lao động nữ. Mức đóng và phương thức đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất là như nhau giữa lao động nam và lao động nữ. Tuy nhiên, có sự khác nhau về độ tuổi được hưởng. Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH để tính hưởng lương hưu là như nhau, nhưng mức hưởng cũng có sự khác nhau về công thức tính. - Ba là, đảm bảo cho NLĐ về mức thu nhập để có thể duy trì được cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời hay khi tuổi già không còn KNLĐ. - Bốn là, bảo đảm sự thống nhất và liên tục của BHXH nói chung và BHHT nói riêng. CĐHT là chế độ mang tính chất hoàn trả và ít nhiều có sự tách biệt giữa đóng và hưởng vì người tham gia bảo hiểm đóng suốt thời kỳ lao động để được hưởng trợ cấp khi về hưu. Điều này thể hiện tính kế thừa liên tục giữa những NLĐ để hình thành quỹ hưu trí. Thời gian đóng và hưởng có thể chênh lệch nhau nhiều hay ít phụ thuộc vào tuổi thọ và số năm tham gia công tác của từng NLĐ. - Năm là, giảm độ tuổi nghỉ hưu đối với NLĐ làm việc trong một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định. Nguyên tắc này quy định NLĐ làm những công việc nặng nhọc, độc hại, làm việc ở những nơi vùng sâu, vùng xa hoặc trong lực lượng vũ trang sẽ được nghỉ hưu sớm hơn nhưng không phải trừ tỷ lệ lương hưu. Tại Khoản 3, Điều 169, Bộ Luật Lao động Việt Nam năm 2019 quy định: NLĐ làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện 12
- kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định tại Khoản 2, Điều này tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. - Sáu là, đảm bảo sự công bằng cho các đối tượng tham gia BHXH và đảm bảo ổn định về kinh tế - xã hội. CĐHT có vai trò rất quan trọng trong chính sách BHXH của mỗi quốc gia. Đa phần NLĐ đều tham gia CĐHT, CĐHT tác động đến đời sống của NLĐ, gia đình họ và cho xã hội. Để đời sống của NLĐ nói riêng và nền kinh tế - xã hội nói chung không bị tác động, cần thực hiện tốt CĐHT, đồng thời đảm bảo sự công bằng của người tham gia BHXH. - Bảy là, tuổi hưởng CĐHT nâng lên khi tuổi thọ của NLĐ tăng. Khi nền kinh tế phát triển thì mức sống và tuổi thọ của NLĐ cũng không ngừng được nâng lên. Do đó, có thể kéo dài tuổi nghỉ hưu của NLĐ để họ tiếp tục cống hiến khi còn sức khoẻ tốt; đồng thời sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực xã hội. Tuy nhiên, tuổi thọ NLĐ được nâng lên thì số người cao tuổi ngày càng tăng, đồng nghĩa với NLĐ sẽ có thời gian dài để hưởng lương hưu, trong khi đó tỷ lệ người tham gia BHXH chưa cao. Số người về hưu ngày càng tăng sẽ ảnh hưởng lớn đến việc đảm bảo cân đối thu, chi quỹ BHXH. Do đó, phải có sự điều chỉnh về mặt chính sách, cụ thể là tăng tuổi nghỉ hưu. Nhưng việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu cần phải thận trọng, được tính toán, nghiên cứu kỹ lưỡng. Đồng thời, phải thực hiện trên cơ sở điều tiết các chính sách chung về lao động, tiền lương, BHXH, nhiều chính sách xã hội khác và phải có lộ trình thực hiện. Theo quy định tại Bộ Luật Lao động năm 2019 thì tuổi nghỉ hưu của NLĐ trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. 13
- 1.2. Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về chế độ hưu trí 1.2.1. Chế độ hưu trí bắt buộc 1.2.1.1. Đối tượng tham gia - Theo quy định của Luật BHXH Việt Nam năm 2014, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thuộc các trường hợp NLĐ là công dân Việt Nam, bao gồm: + Người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả HĐLĐ được ký kết giữa NSDLĐ với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; + Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; + Cán bộ, công chức, viên chức; + Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu; + Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; + Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí; + Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật, NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; + Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương; + Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn. 14
- - NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của Chính phủ. - NSDLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, SDLĐ theo hợp HĐLĐ. 1.2.1.2. Chế độ hưởng a) Chế độ hưu trí hằng tháng đầy đủ CĐHT là chế độ bảo hiểm dành cho những NLĐ khi hết tuổi lao động, không còn tham gia quan hệ lao động nữa. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia mà độ tuổi nghỉ hưu của NLĐ được quy định khác nhau ở từng nước. Thậm chí, ngay tại mỗi quốc gia do có sự thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội ở các giai đoạn khác nhau, cũng có những quy định về độ tuổi nghỉ hưu của NLĐ không giống nhau. Ở nước ta, theo Nghị định số: 135/2020/NĐ-CP ngày 18/11/2020 của Chính phủ quy định về tuổi nghỉ hưu, cụ thể như sau: - Theo Điều 4, tuổi nghỉ hưu của NLĐ trong điều kiện lao động bình thường được quy định cụ thể như sau: + Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, tuổi nghỉ hưu của NLĐ trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam cho đến khi đủ 62 tuổi và cứ mỗi năm tăng thêm 04 tháng đối với lao động nữ cho đến khi đủ 60 tuổi. 15
- - Theo Điều 5, nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường của NLĐ được quy định cụ thể như sau: NLĐ thuộc các trường hợp dưới đây có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Điều 4 của Nghị định 135 ngày 18/11/2020 của Chính phủ tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác: + NLĐ làm công việc nguy hiểm, độc hại, nặng nhọc hoặc đặc biệt nguy hiểm, độc hại, nặng nhọc mà có thời gian làm việc từ đủ 15 năm trở lên. + NLĐ làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà thời gian làm việc từ đủ 15 năm trở lên. Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH ban hành danh mục vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. + NLĐ bị suy giảm KNLĐ từ 61% trở lên. + NLĐ có tổng thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐTB&XH ban hành và thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021 từ đủ 15 năm trở lên. * Điều kiện hưởng lương hưu Điều kiện quan trọng để NLĐ hưởng CĐHT được quy định dựa trên các yếu tố về giới tính; ngành nghề, môi trường làm việc hay mức suy giảm KNLĐ. Tuy nhiên, để NLĐ được hưởng CĐHT thì điều kiện cơ bản và quan trọng là phải thoã 2 yếu tố: độ tuổi và thời gian tham gia đóng BHXH. Theo quy định của Bộ Luật Lao động Việt Nam năm 2019, điều kiện chung để được hưởng CĐHT hằng tháng đầy đủ là: - Thứ nhất, khi nghỉ việc NLĐ có đủ 20 năm trở lên đóng BHXH nếu đáp ứng một trong các trường hợp sau đây: 16
- + Trong điều kiện lao động bình thường, năm 2021 lao động nam đủ 60 tuổi 03 tháng và lao động nữ đủ 55 tuổi 04 tháng. Kể từ năm 2022, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ. Theo lộ trình điều chỉnh tuổi nghỉ hưu thì lao động nam đủ 62 tuổi vào năm 2028 và lao động nữ đủ 60 tuổi vào năm 2035. + NLĐ bị suy giảm KNLĐ; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định tuổi nghỉ hưu của Bộ Luật Lao động Việt Nam năm 2019 tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác và có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn trước ngày 01 tháng 01 năm 2021; + NLĐ có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của NLĐ quy định tại Khoản 2, Điều 169 của Bộ Luật Lao động Việt Nam năm 2019; + Trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao, NLĐ bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp. - NLĐ là những người làm việc trong lực lượng vũ trang có đủ 20 năm trở lên tham gia đóng BHXH được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: + So với tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ Luật Lao động Việt Nam năm 2019, NLĐ có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi. Trừ trường hợp có quy định khác; + So với tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ Luật Lao động Việt nam năm 2019, NLĐ có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề, 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 282 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 339 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 111 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 107 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 220 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 123 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 79 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 96 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 32 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 183 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 108 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 35 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 74 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 58 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 65 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 17 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 20 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn