Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
lượt xem 13
download
Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục xét xử sơ thẩm TAND từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội theo pháp luật đất đai (Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành từ 1/7/2014) đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai của TAND. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHUẤT THỊ MỸ DUNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội - 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHUẤT THỊ MỸ DUNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGA Hà Nội – 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan: Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiệndưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy PGS.TS. Nguyễn Thị Nga. Mọi tham khảo dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng, và trung thực, tên tác giả, tên công trình, thời gian, địa điểm công bố. Mọi vi phạm quy chế đào tạo, hay gian trá,tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Tác giả luận văn Khuất Thị Mỹ Dung
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TÒA ÁN ................................................ 7 1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai............................................................ 7 1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại Tòa án .......................................................................................... 17 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TOÀ ÁN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ -THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............ 25 2.1. Nội dung các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án ..................................................................................... 25 2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội .............................. 34 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN ............... 52 3.1.Định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án ......................... 52 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án .... 54 3.3. Một số giải pháp khác ........................................................................ 61 KẾT LUẬN .................................................................................................... 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TAND Tòa án nhân dân TCĐĐ Tranh chấp đất đai TTDS Tố tụng dân sự XHCN Xã hội chủ nghĩa
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh tế ngày càng phát triển thì quan hệ đất đai cũng ngày càng phức tạp, các quan hệ đất đai không còn thuần túy là quan hệ dân sự về một tài sản thuộc sở hữu đại diện của nhà nước mà quan hệ đó mang nhiều sắc thái mới, gắn chặt với yếu tố thương mại. Theo đó, các tranh chấp đất đai (TCĐĐ) xảy ra cũng không chỉ những tranh chấp dân sự đơn lẻ về tài sản là quyền sử dụng đất giữa các cá nhân, hộ gia đình với nhau, mà chúng còn biểu hiện đa dạng hơn, phức tạp hơn, đan xen nhiều mối quan hệ hơn: tranh chấp dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình… liên quan đến quyền sử dụng đất, với phạm vi chủ thể không chỉ là hộ gia đình, cá nhân mà cả các doanh nghiệp, cả chủ thể trong nước và chủ thể có yếu tố nước ngoài. Khi tranh chấp xảy ra, việc hòa giải TCĐĐ ở cơ sở không đạt được như ý muốn sẽ khởi kiện đến TAND như một công cụ để đảm bảo công lý. Những năm qua, để hoạt động của các Cơ quan tư pháp đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết như: Nghị quyết số 08/NQ-TƯ về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó đề ra các nhiệm vụ cụ thể nhằm cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Hoạt động tìm hiểu để kiện toàn và tổ chức tạo lập ra hệ thống pháp luật mang tính chất đồng bộ Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã tìm hiểu và đưa ra Nghị quyết số 48-NQ/TW về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Chiến lược cải cách tư pháp với mong muốn xây dựng nền tư pháp Việt Nam trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp đổi mới của Nhà nước mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. 1
- Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân, hoạt động then chốt của TAND các cấp đó là giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể nói hoạt động trọng tâm của ngành Toà án là một hoạt động để áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án và được tiến hành theo một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Theo lý luận về công tác tư pháp thì các giai đoạn của áp dụng pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, kết quả của giai đoạn này làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo với mục đích là giải quyết một vụ án được chính xác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Vì vậy, sự hạn chế, sai sót trong bất cứ giai đoạn áp dụng pháp luật nào cũng sẽ góp phần ảnh hưởng tới kết quả chung của việc giải quyết vụ án. Giai đoạn hiện nay, hoạt động áp dụng pháp luật của Toà án trong quá trình giải quyết các vụ án nói chung luôn là vấn đề phức tạp, sự phức tạp được thể hiện rõ nhất trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự mà đặc trưng của nó là các vụ án liên quan đến lĩnh vực đất đai. Trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các TCĐĐ ở thành phố Hà Nội nói chung và ở huyện Phúc Thọ nói riêng ngày càng gia tăng. Mỗi năm, Tòa án nhân dân (TAND) huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội thụ lý giải quyết hàng chục vụ TCĐĐ. Trong những năm vừa qua TAND các cấp đã giải quyết có hiệu quả một số lượng lớn các vụ án TCĐĐ, kết quả xét xử ngày càng được nâng cao, phần nào bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức xã hội và công dân. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng công tác này nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động còn chưa thực sự đem lại những kết quả như mong đợi trong đó bao gồm cả các yếu tố khách quan và chủ quan. Theo đó, có các hạn chế thuộc yếu tố bên ngoài như: nhiều quy định pháp luật không còn phù hợp với đời sống xã hội nhưng chậm được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung; pháp luật chưa thực sự đồng bộ,...; Bên cạnh đó còn một vài yếu tố bên trong có ảnh hưởng đến hoạt động giải quyết tranh chấp 2
- đất đai của Tòa án nhân dân các cấp đó là: hoạt động của đội ngũ cán bộ tòa án các cấp còn nhiều hạn chế bất cập, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật và đời sống, cũng như giải quyết tranh chấp, chuyên môn, trình độ tác nghiệp, yếu tố khó khăn còn nhiều, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong giải quyết tranh chấp đất đai còn chưa đáp ứng được yêu cầu; nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác giải quyết tranh chấp đất đai còn nhiều hạn chế, chưa thực sự quan tâm và sâu sát,... Theo đó, với tính chất của luận văn thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu, chỉ rõ những bất cập, xác định nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân các cấp là một yêu cầu đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu đề tài: Giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu luận văn Việc nghiên cứu về vấn đề tranh chấp và giải quyết TCĐĐ đã được nhiều tác giả đề cập có thể kể đến như: “TCĐĐ và thẩm quyền giải quyết của Tòa án” Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Châu Huế (2003), Khoa luật, đại học quốc gia Hà Nội; “Giải quyết TCĐĐ theo Luật đất đai 2003”, Luận văn thạc sỹ luật học của Phạm Thị Hương Lan (2009), Viện Nhà nước và pháp luật; “Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bằng tòa án tại Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học của Lý Thị Ngọc Hiệp (2006), Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại TAND”; “TCĐĐ và giải quyết TCĐĐ bằng tòa án ở nước ta”, Luận án tiến sỹ luật học của Mai Thị Tú Oanh (năm 2013); đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2001 của TAND tối cao do Nguyễn Văn Luật làm chủ nhiệm đề tài; Báo cáo tham luận “TCĐĐ và khiếu kiện kéo dài: Những nguyên nhân có tính lịch sử” của 3
- Nguyễn Quang Tuyến tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp” ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuật – Đắc Lắc; bài viết “Giải quyết TCĐĐ bằng tòa án qua thực tiễn tại một địa phương” của Mai Thị Tú Oanh đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 08/2009;... Các công trình nghiên cứu trên đã cho thấy tính chất nhất định về vấn đề nghiên cứu, tuy nhiên trên thực tế kết quả nghiên cứu còn chưa đáp ứng thực sự được yêu cầu dưới góc độ đổi mới luật pháp hiện nay. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài của học viên trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành công của các công trình nghiên cứu trước đó để nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về TCĐĐ và giải quyết TCĐĐ nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng của công tác giải quyết tranh chấp bằng Tòa án ở Việt Nam hiện nay và trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm TAND từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội theo pháp luật đất đai (Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành từ 1/7/2014) đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả giải quyết TCĐĐ của TAND. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn được viết với phương thức xác định các yêu cầu nhiệm vụ quan trọng sau đây: - Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân các cấp, từ đó xác định pháp luật của Việt nam và thế giới về giải quyết tranh chấp đất đai. 4
- - Trên cơ sở kế thừa các thành tựu của khoa học pháp lý, Luận văn tiếp tục đi sâu tìm hiểu nhằm chỉ ra hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác lập thẩm quyền của TAND theo thủ tục xét xử sơ thẩm trong giải quyết TCĐĐ; - Tìm hiểu, phân tích pháp luật về giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm thông qua TAND và đề xuất các giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện mảng pháp luật về lĩnh vực này; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại Tòa án từ thực tiễn tại huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội để từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại Tòa án hiện nay. - Đề xuất các phương hướng và nghiên cứu trình bày những giải pháp mang tính đột phá cụ thể, cho việc áp dụng pháp luật trong giải quyết TCĐĐ ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND tại huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội theo quy định của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản pháp luật có liên quan. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Giải quyết TCĐĐ tại Toà án nhân dân là một vấn đề lớn, có nhiều nội dung khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ luật học việc nghiên cứu chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu về giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các 5
- quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật đặc biệt là cải cách tư pháp. Trên cơ sở các phương pháp luận nêu trên, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành luật học như: phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp để từ đó xác định các nội hàm nghiên cứu của đề tài. 6. Những điểm mới, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn đóng góp vào việc phân tích làm sáng tỏ các đặc điểm của giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội; Đánh giá thực trạng giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội; Đưa ra những luận chứng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu thực tiễn và nâng cao hiệu quả giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND ở huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội và Tòa án nói chung. Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và đào tạo tại các trường đào tạo luật học. 7. Kết cấu của luận văn Phần mở đầu, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo là 3 yếu tố bắt buộc của luận văn, ngoài ra luận văn còn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về TCĐĐ và pháp luật về giải quyết TCĐĐ theo thủ tục tố tụng tại Tòa án Chương 2. Thực trạng giải quyết TCĐĐ theo thủ tục tố tụng sơ thẩm từ thực tiễn TAND huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội Chương 3. Định hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại Tòa án 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TÒA ÁN 1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai 1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai Đầu tiên chúng ta cần xác định khái niệm tranh chấp đất đai,hiện nay có nhiều quan điểm, nhiều quy định nhiều các xác định về tranh chấp đất đai. Vậy TCĐĐ là gì? Trong tiếng Việt từ điển thì định nghĩa tranh chấp đất đai được hiểu là “tranh chấp là đấu tranh, giằng co khi có ý kiến bất đồng thường là trong vấn đề quyền lợi giữa 2 bên”. [44, tr.983]. Theo cuốn Thuật ngữ Pháp lý thông dụngmà chúng tôi nghiên cứu được thì: “TCĐĐ: Tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai.” [1, tr.332]. Thực tiễn cuộc sống tồn tại nhiều loại tranh chấp khác nhau, tùy theo lĩnh vực phát sinh mà nó có thể được gọi là tranh chấp dân sự, tranh chấp thương mại hay tranh chấp hành chính… Trong quan hệ quản lý nhà nước về đất đai có thể phát sinh TCĐĐ, đó có thể là tranh chấp giữa cơ quan quản lý nhà nước về đất đai với người sử dụng đất hoặc có thể là tranh chấp giữa những người sử dụng đất với nhau. Trước khi Luật Đất đai 2003 ra đời, khái niệm “TCĐĐ” chưa được chính thức giải thích, mà chủ yếu là được hiểu thông qua các quy định của pháp luật về giải quyết TCĐĐ, quy định về giải quyết các tranh chấp khác có liên quan đến quyền sử dụng đất. Thuật ngữ TCĐĐ đã được sử dụng theo Luật Đất đai năm 1987 (tại các điều luật là Điều 9, Điều 21, Điều 22), Luật Đất đai năm 1993 (Điều 38, Điều 40) nhưng chưa được giải thích chính thức, mà chủ yếu là chỉ được hiểu ngầm 7
- qua các quy định của pháp luật về giải quyết TCĐĐ và các tranh chấp khác có liên quan đến quyền sử dụng đất [36, tr.3-6]. Như vậy, chủ thể tranh chấp vốn được gọi là “hai hay nhiều bên” cũng không được định danh về loại chủthể: Chỉ là người sử dụng đất hay tất cả các chủ thể có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong quan hệ TCĐĐ? [36, tr.3-6]. Theo giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: TCĐĐ là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai… các chủ thể TCĐĐ chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất, không có quyền sở hữu đối với đất đai. [41, tr.445]. Một quan điểm khác cho rằng: TCĐĐ là sự bất đồng, mâu thuẫn giữa các chủ thể (sử dụng đất) trong việc xác định ai là người có quyền sử dụng đối với một (hoặc những) thửa đất nhất định…TCĐĐ có thể bao hàm cả các tranh chấp về địa giới giữa các đơn vị hành chính [43, tr.357-358]. Dưới góc độ là TCĐĐ theo quy định của Luật đất đai cũ thìTCĐĐ là mọi tranh chấp phát sinh trong quan hệ đất đai bao gồm tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh chấp liên quan đến địa giới hành chính… Quan điểm này được nhiều cơ quan có thẩm quyền giải quyết chấp nhận trong giải quyết TCĐĐ [25, tr.112]. Tuy định nghĩa TCĐĐ theo Luật Đất đai năm 2003 gây ra nhiều rối rắm trong cách hiểu và áp dụng pháp luật trên thực tế nhưng khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 lại tiếp tục giữ nguyên cách quy định như trên, chỉ có sự thay đổi về cách sử dụng thuật ngữ: “TCĐĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.” Có thể nói, cách định nghĩa này không mang tính khoa học vì dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về chủ thể, đối tượng và mục đích giải quyết tranh chấp. 8
- Bên cạnh đó, Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 có một số quy định khác liên quan đến nội hàm của khái niệm TCĐĐ như Khoản 14, Điều 22 quy định một trong những nội dung quản lý nhà nước về đất đai là “Giải quyết tranh chấp về đất đai; Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai”; Điều 203 quy định Thẩm quyền giải quyết TCĐĐ (có thể thuộc về TAND hoặc Ủy ban nhân dân…). Theo các quy định này, có thể khẳng định, các chủ thể tham gia TCĐĐ chỉ bao gồm những người sử dụng đất và như vậy, chúng tôi cho rằng, TCĐĐ liên quan đến địa giới hành chính không phải là loại TCĐĐ được đề cập tại Khoản 26, Điều 4, Luật Đất đai năm 2003 cũng như Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 vì những lý do sau đây: Thứ nhất, chủ thể TCĐĐ theo Khoản 24, Điều 3 và Điều 203, Luật Đất đai năm 2013 phải là người sử dụng đất nhưng các chủ thể tranh chấp địa giới hành chính không phải là người sử dụng đất; Thứ hai, đây không phải là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất mà là tranh chấp về phân định địa giới hành chính giữa các địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai; Thứ ba, Luật Đất đai năm 2013 không sử dụng thuật ngữ “TCĐĐ liên quan đến địa giới hành chính” như Luật Đất đai năm 2003 mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp địa giới hành chính”, việc sử dụng thuật ngữ này là hợp lý hơn. Vì vậy, luật mới không quy định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp địa giới hành chính trong Chương 13 về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai mà quy định ở Chương Địa giới hành chính và điều tra cơ bản về đất đai (Chương 3, Khoản 4, Điều 29). Như vậy, TCĐĐ là tranh chấp về quyền sử dụng đất nhưng không phải là tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Khoa học pháp lý nói chung không có định nghĩa về quyền sử dụng đất mà chỉ thừa nhận quyền sử dụng đất là quyền của người sử dụng đất được Nhà nước trao quyền thực hiện các quyền 9
- sử dụng, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ đất và thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất đó phù hợp với các hình thức sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Về thực tế, quyền sử dụng đất hợp pháp của bất kỳ một chủ thể nào được Nhà nước ghi nhận thông qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ thể đó, nó là chứng thư pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước với người sử dụng đất trong việc sử dụng đất. BLDS năm 2005 thừa nhận quyền sử dụng đất là một quyền tài sản, vì vậy nó là một loại tài sản nhưng nó không phải là “tài sản gắn liền với đất.” Điều này có nghĩa, “tranh chấp về quyền sử dụng đất” và “tranh chấp về tài sản gắn liền với đất” là hai khái niệm không giống nhau về nội hàm vì mục đích giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là xác định quyền sử dụng đất thuộc về ai còn mục đích giải quyết tranh chấp tài sản gắn liền với đất là xác định tài sản tranh chấp thuộc về ai. Bất động sản bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; Tài sản khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời, theo quy định của Luật đất đai năm 2013 thì: “Tài sản gắn liền với đất” khoản 1 Điều 203 gồm các tài sản sau đây: nhà ở, vật kiến trúc khác gắn liền với đất đó như: Nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho hàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác.... Và như vậy, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất có đối tượng tranh chấp là các tài sản nói trên mà không phải là quyền sử dụng đất, chỉ có điều các tài sản này tồn tại gắn liền với đất còn “tranh chấp về quyền sử dụng đất” có thể là tranh chấp không có các tài sản gắn liền với đất. 10
- Tóm lại, TCĐĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của những người sử dụng đất trong việc xác định chủ thể nào có quyền sử dụng đối với diện tích đất tranh chấp. 1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai TCĐĐ thể hiện dấu ấn mạnh mẽ trong các thời kỳ lịch sử khác nhau của quan hệ pháp luật đất đai. Chẳng hạn trước đây, nhà nước chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu trong quan hệ đất đai: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Bước sang nền kinh tế thị trường, nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất-kinh doanh mà thực hiện quản lý thông qua hệ thống pháp luật, chính sách thuế, đất đai được thừa nhận có giá trị, QSDĐ được tham gia các giao dịch trên thị trường làm quan hệ đất đai ngày càng đa dạng và phức tạp, xuất hiện nhiều quan hệ mới liên quan đến chuyển nhượng, thừa kế, góp vốn… là gia tăng tranh chấp, mâu thuẫn đất đai. Thứ nhất, về chủ thể: chủ thể trong quan hệ TCĐĐ phải là người sử dụng đất (được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất) hoặc người khác có quyền, nghĩa vụ liên quan đến thửa đất. Trường hợp tranh chấp không phát sinh giữa những chủ thể này với nhau liên quan đến thửa đất thì đó là quan hệ tranh chấp khác. Ví dụ: tranh chấp phát sinh giữa người sử dụng đất với Cơ quan có thẩm quyền trong việc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất thì đó là tranh chấp về khiếu kiện hành chính. Thứ hai, về khách thể: khách thể trong quan hệ TCĐĐ là quyền quản lý, sử dụng, tài sản gắn liền với đất hoặc cả hai. Đối với quyền sử dụng đất thì đây là loại tài sản đặc biệt vì pháp luật đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước sẽ trao lại quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua các hình thức do pháp luật quy định. Đồng thời quyền sử dụng đất cũng là tài sản (quyền tài sản) theo quy định của BLDS, vì vậy quyền sử dụng đất có thể là đối tượng tham gia các giao dịch dân sự. 11
- Thứ ba, về nội dung: thực tế nội dung của TCĐĐ rất đa dạng và phức tạp. Đất đai đã trở thành loại hàng hóa đặc biệt có giá trị kinh tế và giá trị của nó được biến động theo nền kinh tế thị trường, từ đó việc quản lý và sử dụng đất đai không chỉ đơn thuần là việc khai thác giá trị sử dụng mà bao gồm cả giá trị sinh lời của đất. Khi nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và phức tạp thì phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh việc này cũng trở nên căng thẳng và trầm trọng hơn. Thứ tư, khi TCĐĐ đã phát sinh thì sẽ phát sinh nhiều hậu quả không mong muốn như: gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ các mối quan hệ trong xã hội, làm mất tình đoàn kết trong nội bộ quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự quản lý đất đai, đến sản xuất, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên tranh chấp và gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội. Thứ năm, Đất đai có những mục đích sử dụng không giống nhau mà nhà làm luật gọi đó là mục đích sử dụng đất và loại đất.Như thế dẫn đến việc tranh chấp về đất đai sẽ bao gồm các bên khác nhau tham gia vào tranh chấp đó. Điều này dẫn đến một điều là tranh chấp đất đai cần phải nhanh chóng, tích cực chủ động giải quyết để bảo đảm quyền lợi của các bên, tránh tình trạng kéo dài, có tổ chức và đông người tham gia. Hơn nữa, do tính chất phức tạp của nguồn gốc sử dụng đất cũng như sự xáo trộn của quan hệ đất đai qua các thời kỳ nên TCĐĐ là một trong những loại tranh chấp có tính chất gay gắt, phức tạp nhất. Thứ sáu, quan hệ đất đai có liên quan đến những quan hệ xã hội khác thuộc phạm vi điều chỉnh của một số đạo luật như BLDS, Luật xây dựng, Luật nhà ở, Luật bảo vệ môi trường, Luật kinh doanh bất động sản, Luật bảo vệ và phát triển rừng v.v... Trên thực tế TCĐĐ xảy ra liên quan đến nhà ở, công trình xây dựng, cây cối và vật kiến trúc khác v.v... Nên khi giải quyết TCĐĐ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền không chỉ áp dụng Luật đất đai mà còn áp dụng các đạo luật khác có liên quan để xem xét, giải quyết. 12
- 1.1.3. Các dạng tranh chấp đất đai Trên thực tế, TCĐĐ không chỉ là hiện tượng phổ biến mà trong đó còn hết sức đa dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, về cơ bản TCĐĐ được chia thành những dạng như sau: Căn cứ vào chủ thể TCĐĐ thì TCĐĐ được phân chia thành thành các dạng chủ yếu sau đây: - TCĐĐ giữa cá nhân với cá nhân. Loại tranh chấp này bao gồm các tranh chấp cụ thể sau đây: (i) Tranh chấp về đất hương hỏa được thừa kế trong nhiều đời; (ii) Tranh chấp trong đồng bào dân tộc thiểu số trong vấn đề khai hoang và kinh tế mới thường diễn ra ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. (iii) Tranh chấp cá nhân về đất đai khi ly hôn, thừa kế đất đai, ranh giới mốc giới đất đai, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp. Đây là loại tranh chấp có số lượng nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay. - TCĐĐ giữa hộ gia đình, cá nhân với tổ chức. Loại tranh chấp này bao gồm các dạng tranh chấp cụ thể sau đây: (i) Tranh chấp giữa gia đình và cá nhân với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, hữu quan của nhà nước. (ii) TCĐĐ giữa các cá nhân, gia đình với hợp tác xã sau khi có góp tài sản vào hợp tác xã. - TCĐĐ giữa tổ chức với tổ chức: Dạng tranh chấp này bao gồm TCĐĐ giữa các tổ chức, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế với nhau hoặc giữa các tổ chức này với các tổ chức khác như tổ chức tôn giáo, tổ chức quần chúng nhân dân ở địa phương … - TCĐĐ liên quan đến địa giới hành chính giữa các đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã. - Nhóm tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Các TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về ranh giới sử dụng đất (SDĐ); (ii) Tranh 13
- chấp về ngõ đi. Đây là những tranh chấp giữa các bên với nhau về việc ai có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó. Trong dạng tranh chấp này chúng ta thường gặp các loại tranh chấp về ranh giới đất; tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong các quan hệ ly hôn, thừa kế; tranh chấp để đòi lại đất (đất đã cho người khác mượn sử dụng mà không trả lại, hoặc tranh chấp giữa người dân tộc thiểu số với người đi xây dựng vùng kinh tế mới…) Căn cứ vào đối tượng tranh chấp, TCĐĐ được phân chia thành các dạng tranh chấp cơ bản sau đây: - Nhóm tranh chấp liên quan đến chuyển quyền sử dụng đất. Các TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về thừa kế quyền SDĐ; (ii) Tranh chấp về tặng cho quyền SDĐ; (iii) Tranh chấp về chuyển nhượng quyền SDĐ; (iv) Tranh chấp về cho thuê quyền SDĐ; (v) Tranh chấp về thế chấp quyền SDĐ. - Nhóm tranh chấp liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Các TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về việc thu hồi đất sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế; (ii) Tranh chấp về việc thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. - Nhóm tranh chấp liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ; (ii) Tranh chấp về đối tượng được cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ; (iii) Tranh chấp về nghĩa vụ tài chính khi cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ; (iv) Tranh chấp về diện tích đất ghi trong giấy chứng nhận quyền SDĐ so với diện tích đất thực tế người dân đang sử dụng. - Nhóm tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Các TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về chia tài sản chung là nhà, đất của vợ, chồng khi ly hôn; (ii) Tranh chấp về chia thừa kế nhà ở gắn liền với đất. Các TCĐĐ trên đây phát sinh giữa những chủ thể sau: 14
- Thứ nhất,TCĐĐ phát sinh giữa những người SDĐ với nhau (bao gồm giữa hộ gia đình, cá nhân với nhau; giữa hộ gia đình, cá nhân với tổ chức; giữa tổ chức với tổ chức) liên quan đến quyền và nghĩa vụ SDĐ. Các TCĐĐ này mang tính phổ biến và tồn tại ở cả khu vực nông thôn và khu vực thành thị. Đặc biệt đối với khu vực ven đô thị nơi có tốc độ đô thị hóa hoặc công nghiệp hóa tăng nhanh làm cho đất đai ngày càng có giá thì loại TCĐĐ này gia tăng cả về số lượng vụ việc cũng như tính chất gay gắt, phức tạp. Thứ hai, tranh chấp giữa người SDĐ với cơ quan nhà nước (cơ quan công quyền) liên quan đến việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai bao gồm: (i) Tranh chấp liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; (ii) Tranh chấp liên quan đến việc cấp, đổi, sửa chữa và thu hồi giấy chứng nhận quyền SDĐ. Loại tranh chấp này xuất hiện ở cả khu vực nông thôn và khu vực đô thị. Nếu không giải quyết dứt điểm, kịp thời các TCĐĐ này dễ dẫn đến việc phát sinh thành “điểm nóng” tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị. 1.1.4. Nguyên nhân của tranh chấp đất đai 1.1.4.1. Nguyên nhân khách quan (i) Thực tế giao dịch đời sống hiện nay thì đất đai có giá trị rất cao, là tài sản lớn của nhiều gia đình. Hiện nay, khi nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, Nhà nước thực hiện việc cải cách về đất đai và giao quyền sử dụng đất cho các cá nhân cơ quan tổ chức. Trong trường hợp đó, giữa người sử dụng đất và người khác có tranh chấp đất đai về giao dịch chuyển nhượng, thế chấp, tăng cho… (ii) Chính sách, pháp Luật Đất đai và những chính sách có liên quan đến đất đai của chúng ta trong thời gian qua chưa nhất quán, đồng bộ. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với sự tác động mặt trái của cơ chế thị trường đã làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong xã hội, trong khi đó 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 271 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 108 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 121 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 77 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 89 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 181 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn