Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam hiện nay
lượt xem 4
download
Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích tìm hiểu các quy định pháp luật của Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển cũng như phát hiện những vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, từ đó có những giải pháp hoàn thiện hiệu quả hoạt động vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển của các doanh nghiệp. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam hiện nay
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH NGỌC YẾN HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8.38.01.07 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN CẢNH Hà Nội - 2020 i
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam kết luận văn này được thực hiện dựa vào hiểu biết và quá trình tìm tòi, cố gắng và là công trình nghiên cứu thực sự của bản thân tôi. Luận văn này chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này hoàn toàn là trung thực, các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. HỌC VIÊN Huỳnh Ngọc Yến ii
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1 Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật quốc tế 1.2 Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam 1.3 Khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam 1.4 Phân loại hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam 1.5 Chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam 1.6 Hình thức giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam 1.7 Đối tượng của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam 1.8 Nội dung của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam 1.9 Thời hiệu khởi kiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam Chương hai: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI VIỆT NAM 2.1 Giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển 2.2 Chủ thể hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển 2.3 Hình thức hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển iii
- 2.4 Nội dung hợp đồng vận chuyển hàng hóa theo chứng từ vận chuyển 2.5 Giải quyết tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN 3.1 Một số định hướng hoàn thiện và bảo đảm thực thi pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển 3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển 3.3 Các giải pháp đẩy mạnh và đảm bảo thực thi pháp luật hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO iv
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù thuộc hệ thống kinh tế xã hội nào có thể tồn tại độc lập và phát triển bền vững mà không thiết lập mối quan hệ nào với các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế [3, 27]. Mỗi một quốc gia lại có các đặc điểm về địa hình, địa lý, khí hậu, lịch sử, văn hóa, xã hội khác nhau dẫn đến sự khác nhau về lợi thế tài nguyên cũng như vị trí địa lý. Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.200 km, trải dọc theo chiều dài của đất nước, có vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền rộng gấp ba lần diện tích đất liền, nằm bên cạnh đường hàng hải quốc tế quan trọng gắn liền với lục địa châu Á, tiếp giáp với các nước Đông Nam Á, nằm gần tuyến đường biển Malacca từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương để lên các nước Bắc Á. Như vậy, Việt Nam có tiềm năng thiên nhiên ưu đãi để phát triển kinh tế vận tải biển [37, 25]. Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế vận tải biển đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tại hội nghị lần thứ XII, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của kinh tế vận tải biển thông qua việc ban hành Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 28 tháng 10 năm 2018 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển. Thật vậy, trong những năm vừa qua, để trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, Việt Nam đã đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong lĩnh vực hàng hải nhằm thúc đẩy kinh tế vận tải biển cũng như tạo ra hành lang pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động trong lĩnh vực kinh tế vận tải biển, vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Quá trình tham gia vào hoạt động vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển góp phần tạo điều kiện để các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức của Việt Nam thu 1
- hút được nguồn ngoại tệ không nhỏ cho đất nước chúng ta. Tuy nhiên, quá trình tham gia vào hoạt động vận chuyển hàng hóa bằng đường biển còn đặt ra rất nhiều khó khăn, thử thách mà các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức này phải trả giá khá đắt mới rút ra được bài học kinh nghiệm cho chính mình. Và một trong những khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức của Việt Nam gặp phải chính là việc giao kết và thực thi hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Do vậy, việc tìm hiểu các quy định của pháp luật hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển có ý nghĩa không chỉ trong việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển kinh tế biển, pháp luật hàng hải, pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển mà còn có ý nghĩa quyết định cho sự tham gia tích cực và hiệu quả của các doanh nghiệp của Việt Nam vào thị trường vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Đó cũng là lý do học viên chọn đề tài “Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn của mình. 2. Mục đích của luận văn Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích tìm hiểu các quy định pháp luật của Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển cũng như phát hiện những vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, từ đó có những giải pháp hoàn thiện hiệu quả hoạt động vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển của các doanh nghiệp Nhiệm vụ nghiên cứu sẽ tập trung vào các vấn đề sau: Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển và cơ sở pháp lý của nó. Tìm hiểu các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi các doanh nghiệp giao kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại Việt Nam. Phân tích những vấn đề phát sinh trong hoạt động giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, làm rõ những vấn đề còn tồn tại khi áp dụng các 2
- quy định pháp luật hiện hành trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Trình bày các kiến nghị nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của các quy định pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, đảm bảo tính khả thi của các quy định pháp luật Việt Nam trong thực tiễn. 3. Phương pháp nghiên cứu Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ yếu là mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa thực tiễn hoạt động kinh tế và pháp luật làm nền tảng là phương pháp luận chủ yếu cùng với các quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế. Luận văn cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và đối chiếu, kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với thực tiễn nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính là các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Phạm vi nghiên cứu bao gồm các quy định của pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, những vấn đề phát sinh, hay tồn tại mà các doanh nghiệp gặp phải khi giao kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ở Việt Nam. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Việc nghiên cứu góp phần có cái nhìn toàn diện hơn các quy định pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ở nước ta được áp dụng trong thực tiễn, phân tích, đánh giá tính hiệu quả của pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, tìm ra các vấn đề còn tồn tại, đưa ra các giải pháp nâng 3
- cao hiệu quả pháp luật của các quy định về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Luận văn còn có thể làm nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan, cá nhân làm chính sách, xây dựng pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng hải, vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, phục vụ cho việc nghiên cứu của sinh viên, học sinh ngành luật và không chuyên luật liên quan đến hoạt động vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, cho các nhà nghiên cứu, những nhà hoạch định chính sách và những ai quan tâm đến pháp luật về hàng hải, vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm có ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam hiện nay Chương 2: Thực trạng hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực thi pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển 4
- CHƯƠNG 1: HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển 1.1 Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển trên thế giới Từ thời xa xưa, các doanh nhân trên thế giới đã nhận thức được tầm quan trọng của việc mua bán, trao đổi hàng hóa với các quốc gia bên ngoài. Theo quan điểm của họ, nếu tất cả hàng hóa được sản xuất ra mà chỉ được trao đổi, tiêu dùng trong thị trường nội địa thì đến một lúc nào đó thị trường nội địa sẽ bão hòa và hàng hóa không còn khả năng tiêu thụ thêm nữa. Tuy nhiên, nếu hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa với các quốc gia trên thế giới được mở rộng thì hoạt động này sẽ mang lại cho doanh nghiệp nguồn lợi nhuận rất lớn. Do vậy, xu thế hiện nay của các quốc gia trên thế giới chính là hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế quốc tế nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia đã thúc đẩy quá trình lưu thông, chu chuyển các luồng hàng hóa khổng lồ từ quốc gia này sang quốc gia khác ngày càng gia tăng, phát triển và vấn đề vận chuyển hàng hóa cũng vì thế mà ra đời. Vận chuyển hàng hóa quốc tế phát triển cũng kéo theo sự ra đời của các văn kiện pháp lý quốc tế liên quan đến vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Có bốn văn kiện pháp lý quốc tế liên quan đến vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Các văn kiện pháp lý quốc tế này chính là: Thứ nhất: Công ước Brussels về thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển, còn gọi là Quy tắc Hague. Quy tắc Hague được ký vào ngày 25 tháng 08 năm 1924 và có hiệu lực từ ngày 02 tháng 06 năm 1931. Thứ hai: Nghị định thư Visby sửa đổi Công ước Brussels về thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển, còn gọi là Quy tắc Hague – Visby. Quy tắc Hague - 5
- Visby được ký vào ngày 23 tháng 02 năm 1968 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 06 năm 1977. Thứ ba: Công ước của Liên Hiệp Quốc về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, còn gọi là Quy tắc Hamburg. Quy tắc Hamburg được ký vào ngày 30 tháng 03 năm 1978 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 11 năm 1992. Thứ tư: Công ước của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng vận chuyển hàng hóa một phần hoặc toàn bộ bằng đường biển năm 2009, còn gọi là Quy tắc Rotterdam. Quy tắc Rotterdam được ký vào ngày 23 tháng 09 năm 2009 và chưa có hiệu lực thi hành. Trong số bốn văn kiện pháp lý quốc tế liên quan đến vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, thì chỉ có Công ước của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng vận chuyển hàng hóa một phần hoặc toàn bộ bằng đường biển năm 2009, còn gọi là Quy tắc Rotterdam là chưa có hiệu lực do vẫn chưa đủ số lượng quốc gia phê chuẩn. Việt Nam chưa là thành viên của bốn văn kiện pháp lý quốc tế này nhưng khá nhiều quy định của các văn kiện pháp lý quốc tế này đã được đưa vào Bộ luật hàng hải của Việt Nam chúng ta. 1.2 Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo quy định của pháp luật Việt Nam Tính đến nay, trong lịch sử Hàng hải của nước ta cũng như quy định pháp luật về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, có tổng cộng ba Bộ luật Hàng hải được Quốc Hội Việt Nam ban hành, đó là: Bộ luật Hàng hải 1990, Bộ luật Hàng hải 2005 và Bộ luật Hàng hải 2015. Bộ luật Hàng hải đầu tiên của Việt Nam được Quốc hội khóa VIII thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 30 tháng 06 năm 1990, được Chủ tịch Hội đồng nhà nước công bố ngày 12 tháng 07 năm 1990 theo Lệnh số 42 –LCTN/HĐNN8 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1991. Bộ luật Hàng hải đầu tiên của Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoạt động hàng hải, góp phần thúc đẩy ngành Hàng 6
- hải Việt Nam phát triển nhanh và đạt được mức độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, Bộ luật Hàng hải đầu tiên của Việt Nam được thông qua trong bối cảnh đất nước đang ở thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, hệ thống pháp luật của Việt Nam còn đang từng bước được xây dựng và hoàn thiện, hoạt động của ngành Hàng hải đang trong quá trình phát triển nên còn hạn chế về nhiều mặt, hiệu lực quản lý nhà nước chuyên ngành về hàng hải chưa được phát huy đầy đủ và toàn diện. Hơn nữa, việc vận dụng luật pháp và tập quán hàng hải quốc tế vào thực tiễn Việt Nam chưa được áp dụng rộng rãi. Ngoài ra, thực tiễn áp dụng Bộ luật Hàng hải 1990 qua mười ba năm cho thấy rằng hoạt động Hàng hải luôn có mối liên hệ chặt chẽ với các hoạt động khác của nền kinh tế quốc dân, nhất là việc lưu thông hàng hóa và hành khách trong nước cũng như ngoài nước. Do đó, việc sửa đổi Bộ luật Hàng hải 1990 không chỉ có tác động đối với sự phát triển của ngành Hàng hải mà còn có tác động đến tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế đất nước [1, 8]. Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 14 tháng 06 năm 2005 và Chủ tịch nước công bố theo Lệnh số 13/2005/L- CTN ngày 27 tháng 06 năm 2005 có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình phát triển, hội nhập của nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành hàng hải nói riêng. Đây là sự kiện đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật hàng hải của Việt Nam, đặc biệt là trước xu thế toàn cầu hóa hoạt động hàng hải thế giới đang ngày càng gia tăng và vai trò vừa là “đầu mối”, vừa là “cầu nối” của kinh tế hàng hải đối với nền kinh tế quốc dân cũng như kinh tế biển nói riêng đang đòi hỏi được phát huy. Hiệu lực áp dụng của Bộ luật Hàng hải 2005 đã tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hàng hải Việt Nam phát triển nhanh, toàn diện và đạt được mức tăng trưởng rất cao so với các thời kỳ trước đây. Kết cấu hạ tầng hàng hải và hệ thống cảng biển Việt Nam nói riêng ngày càng được phát triển mạnh cả về số lượng, quy mô, chuyên dụng hóa theo khu vực, vùng, miền và hệ thống các đài thông tin duyên hải, trạm vệ tinh mặt đất, báo hiệu hàng hải ngày càng được đầu tư phát triển theo hướng công nghệ hóa, hiện đại hóa. Các bến cảng và khu 7
- chuyển tải thuộc hệ thống cảng biển ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu lưu thông hàng hóa, hành khách trong nước và quốc tế, đặc biệt hiện tại có một số cảng, bến cảng đủ điều kiện tiếp nhận tàu biển có trọng tải lớn với thiết bị bốc dỡ hiện đại đạt chuẩn mực quốc tế. Hàng năm đội tàu biển Việt Nam đều được đầu tư phát triển bổ sung thêm cả về số lượng, tổng trọng tải theo hướng trẻ hóa, hiện đại hóa và chuyên dụng hóa nên đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu lưu thông hàng hóa, hành khách trong nước và tham gia vận tải quốc tế so với thời kỳ trước đây. Đến cuối năm 2013, đội tàu biển Việt Nam có 1.793 tàu với tổng dung tích hơn 4,38 triệu GT và tổng trọng tải 6,98 triệu DWT. Riêng về tổng trọng tải tăng hơn 60% so với năm 2005. Đội ngũ thuyền viên Việt Nam cũng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Mặc dù Bộ luật Hàng hải 2005 đã được soạn thảo công phu nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện Bộ luật Hàng hải 2005 vẫn còn nhiều điều, khoản mang tính chất khung và cần phải có các văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể, chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị khi xác định hạn chế việc sử dụng các văn bản dưới Luật để triển khai Luật vào thực tiễn. Hơn nữa, có nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành có quy định mới liên quan đến quản lý hoạt động hàng hải nên cần xây dựng một Bộ luật Hàng hải mới thay thế cho Bộ luật Hàng hải 2005 nhằm tạo sự phù hợp, thống nhất, đáp ứng yêu cầu quản lý thực tiễn và hội nhập quốc tế [1, 9]. Ngày 25 tháng 11 năm 2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật hàng hải Việt Nam số 95/2015/QH13, có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2015. Bộ luật hàng hải 2015 được xây dựng và ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích phát triển kinh tế nói chung và ngành giao thông vận tải, ngành Hàng hải nói riêng phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay và những năm tới cũng như nhằm tăng cường quản lý nhà nước, thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và thực hiện cam kết của Chính phủ với cộng đồng quốc tế. Do vậy, Bộ luật Hàng hải 2015 là cơ sở pháp lý quan trọng quy định về hoạt động hàng hải, bao gồm các quy định về tàu biển, thuyền viên, cảng biển, luồng hàng hải, cảng cạn, 8
- vận tải biển, an toàn hàng hải, an ninh hàng hải, bảo vệ môi trường, quản lý nhà nước về hàng hải và các hoạt động khác liên quan đến việc sử dụng tàu biển vào mục đích kinh tế, văn hóa, xã hội, thể thao, công vụ và nghiên cứu khoa học .... [1, 23]. Đây cũng chính là Bộ luật Hàng hải đang có hiệu lực thi hành và luận văn cũng được thực hiện trên cơ sở Bộ luật Hàng hải 2015 này. 1.3 Khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển 1.3.1 Khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo điều ước quốc tế Như đề cập tại mục 1.1 thì hiện nay có bốn văn kiện quốc tế về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Trong bốn văn kiện quốc tế về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển thì Quy tắc Hague và Quy tắc Hague – Visby không đưa ra định nghĩa hay cách hiểu về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển mà chỉ đưa ra cái gọi là hợp đồng chuyên chở nhưng ám chỉ đến việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Theo điểm b Điều 1 Quy tắc Hague và Quy tắc Hague – Visby thì hợp đồng chuyên chở chỉ dùng cho những hợp đồng chuyên chở được thể hiện bằng một vận đơn hoặc một chứng từ tương tự trong chừng mực chứng từ đó liên quan đến chuyên chở hàng hóa bằng đường biển; nó cũng dùng cho vận đơn hay chứng từ tương tự như đã nói trên được cấp phát chiếu theo một hợp đồng thuê tàu kể từ khi vận đơn ấy điều chỉnh quan hệ giữa người chuyên chở và người mang vận đơn. Như vậy, có thể hiểu rằng Quy tắc Hague và Quy tắc Hague – Visby chỉ điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển dưới dạng vận đơn hay chứng từ tương tự liên quan đến chuyên chở hàng hóa bằng đường biển. Sang đến Quy tắc Hamburg thì hợp đồng chuyên chở bằng đường biển được quy định tại khoản 6 Điều 1 của Quy tắc Hamburg. Theo đó, hợp đồng chuyên chở bằng đường biển là bất kỳ hợp đồng nào mà theo đó người chuyên chở đảm nhận chuyên chở hàng hóa bằng đường biển từ một cảng này đến một cảng khác để thu tiền cước. Tuy nhiên, một hợp đồng được coi là hợp đồng chuyên chở bằng đường biển theo 9
- nghĩa trong Công ước này nếu nó liên quan đến vận tải đường biển. Như vậy, nếu so với Quy tắc Hague và Quy tắc Hague – Visby thì định nghĩa về hợp đồng vận chuyển bằng đường biển Quy tắc Hamburg có vẻ rộng hơn khi Quy tắc Hamburg xem mọi hợp đồng liên quan đến việc chuyên chở bằng đường biển đều là hợp đồng vận chuyển bằng đường biển. Quy tắc Rotterdam không có quy định về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển mà chỉ có hợp đồng vận chuyển mà thôi. Tuy nhiên, quy định về hợp đồng vận chuyển tại Điều 1 Chương 1 của Quy tắc Rotterdam dường như là quy định có phạm vi điều chỉnh rộng nhất về hợp đồng vận chuyển hàng hóa trong bốn văn kiện quốc tế nói trên nhằm phù hợp với yêu cầu và xu thế hiện nay về vận chuyển hàng hóa theo hướng kết hợp các phương thức vận tải thay vì chỉ bằng phương thức vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Điều 1 Chương 1 Quy tắc Rotterdam quy định như sau “hợp đồng vận chuyển là hợp đồng mà trong hợp đồng đó người vận chuyển, bằng việc nhận thanh toán cước phí vận chuyển, cam kết vận chuyển hàng hóa từ nơi này đến nơi khác. Hợp đồng sẽ được thực hiện bằng phương thức vận chuyển hàng hóa bằng đường biển và có thể kết hợp với phương thức vận chuyển hàng hóa khác kết hợp với phương thức vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.” 1.3.2 Khái niệm về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo quy định của pháp luật Việt Nam Theo quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể là quy định tại Điều 385 Bộ luật dân sự 2015 thì hợp đồng chính là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự [180, 21]. Ngoài ra, pháp luật dân sự Việt Nam, cụ thể là Điều 530 Bộ luật dân sự 2015 cũng có quy định về hợp đồng vận chuyển tài sản nói chung. Theo đó, hợp đồng vận chuyển tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên vận chuyển có nghĩa vụ chuyển tài sản đến địa điểm đã định theo thỏa thuận và giao tài sản đó cho người có quyền nhận, còn bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cước phí vận chuyển [242, 21]. 10
- Bên cạnh các quy định về vận chuyển tài sản nói cung, Việt Nam còn có quy định cụ thể về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Bởi vì hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển cũng là một dạng hợp đồng nên hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển cũng phải là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự trong việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Thật vậy, theo quy định tại khoản 1, Điều 145 Bộ luật hàng hải 2015 thì nhà làm luật có định nghĩa về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Theo đó, hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là thỏa thuận được giao kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển thu giá dịch vụ vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển hàng hóa từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng [114, 22]. Căn cứ vào nội dung quy định tại Điều 145 Bộ luật hàng hải 2015, chúng ta có thể rút ra được: Thứ nhất: Có sự thỏa thuận, cam kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển. Mặc dù nhà làm luật không chỉ rõ thỏa thuận giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển trong trường hợp này là thỏa thuận gì, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng thỏa thuận giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển trong trường hợp này chính là thỏa thuận giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Thứ hai: Người vận chuyển thu giá dịch vụ vận chuyển do người thuê vận chuyển trả. Điều đó có nghĩa là người thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả hay thanh toán giá dịch vụ vận chuyển cho người vận chuyển và người vận chuyển sẽ thu giá dịch vụ vận chuyển từ người thuê vận chuyển. Như vậy, hợp đồng vận chuyển bằng đường biển được xem là hợp đồng song vụ có đền bù bởi hai bên trong hợp đồng vận chuyển bằng đường biển đều có quyền và nghĩa vụ tương ứng nhau. Thứ ba: Người vận chuyển dùng tàu biển để vận chuyển hàng hóa từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng. Như vậy, tiêu chí để phân biệt phương thức vận chuyển hàng 11
- hóa bằng đường biển với các phương thức vận chuyển hàng hóa khác chính là việc tàu biển được người vận chuyển sử dụng để chuyên chở hàng hóa. Như vậy, bốn văn kiện pháp lý quốc tế liên quan đến vận chuyển hàng hóa bằng đường biển cũng như Điều 145 Bộ luật hàng hải 2015 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển mà tính quốc tế của hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển được hiểu và xác định rất khác nhau. Thông thường, theo pháp luật quốc tế, một trong những cách xác định tính quốc tế của hợp đồng là dựa trên dấu hiệu trụ sở thương mại, tức xác định quốc tịch của pháp nhân hoặc kết hợp dấu hiệu trụ sở thương mại, tức xác định quốc tịch của pháp nhân với một hoặc một vài điều kiện khác. Ví dụ như trong Công ước Luật thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế 1964. Theo quy định tại Điều 1 Công ước Luật thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế 1964 thì một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi trụ sở thương mại của các bên ký kết hợp đồng phải nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau và phải thỏa mãn một trong ba điều kiện bổ sung như sau sau: Điều kiện thứ nhất: Hợp đồng liên quan đến vật mà trong thời gian ký kết hợp đồng, vật đó được chuyên chở hoặc phải được chuyên chở từ lãnh thổ của một quốc gia này đến lãnh thổ của quốc gia khác. Điều kiện thứ hai: Khi mà những hành vi thể hiện sự chào hàng và chấp nhận chào hàng được thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Điều kiện thứ ba: Khi việc giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia khác không phải là nơi thực hiện những hành vi chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng. Tuy nhiên, pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam không có quy định về quốc tịch của pháp nhân mà tính quốc tế hay có yếu tố nước ngoài của hợp đồng được quy định tại Điều 663 Bộ luật dân sự 2015. Theo đó, tính quốc tế hay có yếu tố nước ngoài của hợp đồng được xác định khi thỏa mãn một trong ba điều kiện dưới đây: 12
- Điều kiện thứ nhất: Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài. Điều kiện thứ hai: Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài. Điều kiện thứ ba: Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài. Như vậy, hợp đồng được xem là hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển khi thỏa mãn hai điều kiện: Điều kiện thứ nhất: hợp đồng đó là thỏa thuận được giao kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển thu giá dịch vụ vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển hàng hóa từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng. Điều kiện thứ hai: Người vận chuyển, người thuê vận chuyển là cá nhân, pháp nhân nước ngoài hoặc việc xác lập, thay đổi thực hiện hay chấm dứt quan hệ vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đó xảy ra tại nước ngoài nếu người vận chuyển, người thuê vận chuyển đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam hoặc đối tượng của quan hệ vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đó ở nước ngoài nếu người vận chuyển, người thuê vận chuyển đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam. 1.2.4 Phân loại hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển theo pháp luật Việt Nam Theo quy định tại Điều 146 Bộ luật hàng hải 2015, hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển được chia làm hai loại chính: Một là hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển. Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển là hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển được giao kết với điều kiện người vận chuyển không phải dành cho người thuê vận chuyển 13
- nguyên tàu hoặc một phần tàu cụ thể mà chỉ căn cứ vào chủng loại, số lượng, kích thước hoặc trọng lượng của hàng hóa để vận chuyển [115, 22]. Hai là hợp đồng vận chuyển theo chuyến. Hợp đồng vận chuyển theo chuyến là là hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển được giao kết với điều kiện người vận chuyển dành cho người thuê vận chuyển nguyên tàu hoặc một phần tàu cụ thể để vận chuyển hàng hóa theo chuyến [115, 22]. Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển thường gắn liền với phương thức thuê tàu chuyến. 1.2.5 Chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển Theo nội dung định nghĩa tại Điều 145 Bộ luật hàng hải 2015 thì chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là người thuê vận chuyển và người vận chuyển. Bộ luật hàng hải 2015 của Việt Nam cũng có quy định về người thuê vận chuyển và người vận chuyển tại khoản 1 và 2 Điều 147 Bộ luật hàng hải 2015. Theo đó, người thuê vận chuyển là người tự mình hoặc ủy quyền cho người khác giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển với người vận chuyển (Khoản 1 Điều 147 Bộ luật hàng hải 2015) và người vận chuyển là người tự mình hoặc ủy quyền cho người khác giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển với người thuê vận chuyển (Khoản 2 Điều 147 Bộ luật hàng hải 2015) [115, 22]. Tuy chủ thể thể hiện trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển chỉ có người thuê vận chuyển và người vận chuyển, nhưng trong quy trình vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển trên thực tế còn có thể xuất hiện một vài chủ thể khác có liên quan. Các chủ thể này chính là người vận chuyển thực tế, người giao hàng và người nhận hàng. Pháp luật hàng hải Việt Nam có quy định về người vận chuyển thực tế tại khoản 3 Điều 147 Bộ luật hàng hải 2015. Theo đó, người vận chuyển thực tế là người được người vận chuyển ủy thác thực hiện toàn bộ hoặc một phần việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển [116, 22]. 14
- Cách hiểu về người giao hàng và người nhận hàng cũng được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 147 Bộ luật hàng hải 2015. Theo đó, người giao hàng là người tự mình hoặc được người khác ủy thác giao hàng cho người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển [116, 22] và người nhận hàng là người có quyền nhận hàng theo vận đơn hoặc theo chỉ thị của người thuê vận chuyển. Theo quan điểm của người viết, cách quy định về các chủ thể khác có liên quan đến quy trình vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển phản ánh được thực tế của quy trình vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới. 1.6 Hình thức giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển Hình thức hợp đồng là phương tiện thể hiện ý chí của các chủ thể của hợp đồng. Thông qua đó các chủ thể của hợp đồng thiết lập quyền và nghĩa vụ của mình cũng như biểu đạt những thỏa thuận của mình. Theo quy định tại Điều 119 Bộ luật dân sự 2015 thì giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể [66, 21]. Ngoài ra, giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản [67, 21]. Như vậy, giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Như nêu tại mục 1.4 nói trên thì hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển được chia làm hai loại là hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển và hợp đồng vận chuyển theo chuyến. Trong hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển nhà làm luật không đưa ra hình thức giao kết hợp đồng bắt buộc đối với các chủ thể của hợp đồng mà nhà làm luật để các bên trong hợp đồng tự do thỏa thuận hình thức giao kết hợp đồng vận chuyển phù hợp cho mình. Trong khi đó, trong hợp đồng vận chuyển theo chuyến, nhà làm luật có quy định bắt buộc về hình thức giao kết hợp đồng vận chuyển theo chuyến. 15
- Theo đó, hình thức giao kết hợp đồng vận chuyển theo chuyến chính là bằng văn bản [115, 22]. Trên thực tế, bằng chứng của việc giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển là chứng từ vận chuyển. Nhà làm luật không đưa ra một định nghĩa về cách hiểu chứng từ vận chuyển là gì mà nhà làm luật liệt kê ra một loạt các văn bản, tài liệu được hiểu là chứng từ vận chuyển. Theo đó, chứng từ vận chuyển bao gồm bốn loại như sau: Một là vận đơn. Vận đơn là một chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển do người vận chuyển hoặc đại diện của họ cấp cho người gửi hàng sau khi đã xếp hàng lên tàu hoặc sau khi đã nhận hàng để xếp [116, 22]. Hai là vận đơn suốt đường biển. Vận đơn suốt đường biển là vận đơn ghi rõ việc vận chuyển hàng hóa được ít nhất hai người vận chuyển bằng đường biển thực hiện [116, 22]. Ba là giấy gửi hàng đường biển. Giấy gửi hàng đường biển là bằng chứng về việc hàng hóa được nhận như được ghi trong giấy gửi hàng đường biển [116, 22]. Bốn là chứng từ vận chuyển khác. Chứng từ vận chuyển khác là chứng từ do người vận chuyển và người thuê vận chuyển thỏa thuận về nội dung, giá trị [117, 22]. Trong số bốn loại văn bản, tài liệu được hiểu là chứng từ vận chuyển thì vận đơn là chứng từ vận chuyển được sử dụng phổ biến nhất. 1.6.1 Khái niệm vận đơn Vận đơn là một chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển do người vận chuyển hoặc đại diện của họ cấp cho người gửi hàng sau khi đã xếp hàng lên tàu hoặc sau khi đã nhận hàng để xếp [116, 22]. Trên thực tế, người vận chuyển sẽ ký phát một bộ vận đơn bao gồm ba bản chính vận đơn. Khi một bản chính vận đơn được sử dụng để nhận hàng rồi thì các bản chính vận đơn còn lại không còn giá trị để nhận hàng nữa. Trong thực tiễn vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, rất nhiều người hiểu chưa đúng khi cho rằng vận đơn chỉ được ký phát theo hợp đồng vận chuyển theo 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 266 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 103 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 120 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 76 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 89 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 181 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 105 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn