Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá theo pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh
lượt xem 6
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá theo pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TẠ THU THỦY KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC KHAI THÁC ĐÁ THEO PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, NĂM 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TẠ THU THỦY KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC KHAI THÁC ĐÁ THEO PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH Ngành: Luật Kinh Tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH HÀ NỘI, NĂM 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn “Kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá theo pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Tạ Thu Thủy
- LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn Thạc sĩ, tác giả đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các Thầy cô giáo, các nhà khoa học, các cơ quan, tổ chức cá nhân. Đề tài nghiên cứu cũng được hoàn thành dựa trên sự tham khảo, học tập kinh nghiệm từ các công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả. Đặc biệt đề tài còn nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi từ gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp. Tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh, người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã dành nhiều thời gian, công sức hướng dẫn tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. Tác giả xin được trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các thầy cô giáo, các bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ tác giả hoàn thiện công trình nghiên cứu. Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả kính mong các quý Thầy cô, các nhà khoa học những người quan tâm đến đề tài đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả Tạ Thu Thủy
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC KHAI THÁC ĐÁ.................................................................................. 8 1.1 Khái niệm ô nhiễm môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá ............................................................................................. 8 1.2 Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong khai thác đá ................. 17 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC KHAI THÁC ĐÁ Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH QUẢNG NINH ..................................... 25 2.1 Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá ở Việt Nam hiện nay ...................................................................... 25 2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá của tỉnh Quảng Ninh ............................................................... 33 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC KHAI THÁC ĐÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................. 61 3.1 Một số thực trạng và Phương hướng hoàn thiện .......................................... 61 3.2 Giải pháp hoàn thiện ..................................................................................... 63 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 78
- DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1 Lượng khí thải trung bình do khai thác 300.000 m3 đá xây dựng ............. 22 Bảng 1.2 Lượng khí thải trung bình do vận tải 300.000 m3 đá xây dựng ................ 22 Bảng 1.3. Lượng bụi thải trung bình do khai thác 300.000 m3 đá xây dựng ............ 23 Bảng 2.1. Quy hoạch các mỏ khai thác đá xây dựng tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025.... 36 Bảng 2.2. Hàm lượng bụi phát tán khi nổ mìn (lượng thuốc nổ 90 kg) .................... 44 Bảng 2.3. Độc tính của CO2 .................................................................................... 46
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây Quảng Ninh là Tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh. Với mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững, Quảng Ninh đang phải đối mặt nhiều thách thức, đặc biệt là thách thức giữa việc khai thác than, phát triển công nghiệp nặng với phát triển du lịch, dịch vụ trên cùng một địa bàn; Thách thức giữa phát triển công nghiệp hoá và đô thị hoá nhanh với giải quyết vấn đề môi trường sống; Thách thức giữa phát triển bền vững trước những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao. Tỉnh Quảng Ninh đã chủ động và có nhiều giải pháp nhằm hạn chế ô nhiễm và kiểm soát tốt chất lượng môi trường trên địa bàn nói chung xuất phát từ nhận thức: bảo vệ môi trường có ý nghĩa cấp thiết với việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn tồn tại nhiều thách thức đặt ra cho tỉnh Quảng Ninh trong việc bảo vệ môi trường, cụ thể là trong hoạt động khai thác đá trên địa bàn tỉnh. Trong công cuộc bảo vệ môi trường, pháp luật rõ ràng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường đã được hình thành và thực hiện trên thực tế đang thể hiện những tồn tại cụ thể trong lĩnh vực khai thác đá. Hiện nay, chưa có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu vấn đề pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá. Mặc dù đề tài này đã được đề cập trong một số bài viết nhưng chưa được tập trung nghiên cứu chuyên sâu, bao quát toàn bộ và hầu hết các bài viết đều không nghiên cứu vấn đề dưới góc độ pháp luật, không có sự cập nhật thông tin tương ứng với quá trình thay đổi từ thực tiễn và quy định của pháp luật. Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá qua thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” cho Luận văn thạc sĩ của mình. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này, luận văn nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động khai thác đá trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường bằng pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh; từ đó bước đầu có những lý giải về thực trạng môi trường tỉnh Quảng Ninh những năm gần đây và đưa ra một số giải pháp nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá tại tỉnh Quảng Ninh, hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường trong tương lai. 1
- 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đê tài Ô nhiễm môi trường từ lâu luôn là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ: chính trị, pháp luật, kinh tế, môi trường, xã hội học… với quy mô rộng, hẹp khác nhau. Riêng xét dưới góc độ pháp luật, vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường đã được đề cập trong nhiều đề tài khoa học, tuy nhiên đối với vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường cụ thể trong hoạt động khai thác đá đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Sự phát triển của kinh tế phải đi đôi với sự bền vững của môi trường nếu không quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa một cách vội vàng sẽ dẫn đến những hậu quả lâu dài. Nền kinh tế trước mắt có thể tiến nhanh vượt bậc nhưng qua giai đoạn đỉnh cao sẽ suy thoái khi mà sự phát triển đó vượt ngưỡng chịu đựng của môi trường. Tác giả Trần Thị Thùy Dương (2008) có nghiên cứu: “Bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” [13]. Đề tài khoa học trên tập trung nghiên cứu hệ thống tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá tới môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam dưới góc độ của Khoa học Kinh tế chính trị. Để làm tốt mục đích trên tác giả đã làm rõ mối quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường sinh thái; phân tích kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phân tích thực trạng môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam; từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Luận văn thạc sỹ “Trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Văn Việt (2010) [14] đã khái quát rõ nét về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, nêu thực trạng vi phạm hành chính và truy cứu trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay, đề xuất các giải pháp dựa trên yêu cầu hoàn thiện pháp luật trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay từ việc học tập kinh nghiệm từ các nước trên thế giới. Trước thực tế chất lượng môi trường đang xuống cấp nghiêm trọng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con người và các loài sinh vật, vấn đề ô nhiễm 2
- môi trường trở thành một chủ đề nóng mà bất kì tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực nào đều quan tâm, nghiên cứu trong các đề tài khoa học. Nguyễn Đình Đức (2011) đã có đề tài: “Những vấn đề pháp lý về bảo vệ môi trường trong quy hoạch kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay” [27]. Trong nghiên cứu này, tác giả đã chỉ ra mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quy hoạch bảo vệ môi trường với việc phát triển kinh tế bền vững và phân tích nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ này. Đồng thời tác giả nêu ra những thiếu sót, bất cập của pháp luật về bảo vệ môi trường trong quy hoạch kinh tế - xã hội như: Chưa điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh giữa cơ quan quản lý nhà nước về môi trường với các cơ quan, tổ chức tư vấn thẩm định kế hoạch quy hoạch bảo vệ môi trường và vai trò của cộng đồng dân cư trong việc quy hoạch bảo vệ môi trường trong sự phát triển bền vững, chưa quan tâm đến việc kiểm tra, giám sát chủ đầu tư thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường sau khi đề án quy hoạch bảo vệ môi trường được thẩm định và đi vào hoạt động. Từ những nhận định xuất phát từ hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường trong quy hoạch kinh tế - xã hội ở Việt Nam thời gian tới. Luận án Tiến sĩ Luật học “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường” của tác giả Dương Thanh An năm 2011 [1] đã tập trung phân tích và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về tội phạm môi trường, tác giả đã đưa ra những số liệu mới nhất về tội phạm môi trường trong thời gian đó... Luận án được đánh giá là có nhiều đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt đã đề xuất được các hướng để hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam đối với loại tội phạm về môi trường. Nguyễn Thị Xuân Trang (2012) với đề tài nghiên cứu: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm môi trường theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005” [29] đã có những đóng góp nhất định vào lý luận trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng các khái niệm môi trường theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, khái niệm trách nhiệm dân sự do xâm phạm môi trường… Luận văn đưa ra những nguyên nhân, điều kiện của các vụ xâm phạm môi trường, dự báo tình hình xâm phạm môi trường trong những năm tới. Đồng thời, luận văn góp phần giải quyết một cách có hệ thống những vướng mắc xung quanh chế định bồi thường thiệt hại do xâm phạm môi trường. 3
- Năm 2013, tác giả Nguyễn Thị Tố Uyên đã có đề tài nghiên cứu với tựa đề: “Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường” [30]. Luận án đã nêu khái niệm “trách nhiệm pháp lý” trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở hai khía cạnh “tích cực” và “tiêu cực”. Bản thân thuật ngữ “trách nhiệm pháp lý” cũng thường mang ý nghĩa tiêu cực, điều này cũng được thể hiện rõ trong luận án. Thuật ngữ được làm rõ hơn khi tác giả khái quát những đặc trưng cơ bản của trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, hình thức thể hiện, phạm vi tác động và đối tượng tác động của pháp luật trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tác giả đưa ra những tiêu chí cần thiết khi hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường: đảm bảo tính ổn định của pháp luật, tính chuẩn mực, tính nhất quán, tính minh bạch, việc hoàn thiện các quy định trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải đảm bảo được tính răn đe và trừng phạt, trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải đảm bảo tính kịp thời, khi hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thì phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong việc quy định các biện pháp xử phạt giữa các thành phần môi trường, việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực này phải đảm bảo tính thực thi trên thực tế, pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải đảm bảo tính công bằng giữa cá nhân và tổ chức. Công trình khoa học của tác giả Bùi Ngọc Hà (2013): “Nghiên cứu những tác động chính của dự án khai thác đá núi Ông Voi và đề xuất các giải pháp cải tạo, phục hồi môi trường” [31] đã tập trung khảo sát, nghiên cứu hiện trạng môi trường khu vực mỏ và nghiên cứu các tác động của việc khai thác đá núi Ông Voi cùng một số mỏ đá đang khai thác và đã khai thác xong trong khu vực. Đồng thời, cũng nghiên cứu các phương pháp cải tạo phục hồi môi trường của một số mỏ ở Việt Nam và trên thế giới. Từ đó đưa ra những giải pháp khả thi nhằm đưa khu vực đã khai thác thành khu vực có mục đích sử dụng mới phù hợp với điều kiện sau khai thác; các điều kiện môi trường, tự nhiên được tái tạo lại gần giống như điều kiện trước khi khai thác. Bài viết của Thạc sĩ Nguyễn Thị Nga trên tạp chí Cộng sản (2015): “Bảo vệ môi trường tự nhiên ở Việt Nam – Yêu cầu cấp thiết” [32] đã đưa ra hai mâu thuẫn đó là: Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải bảo vệ môi trường tự nhiên trong quá trình công 4
- nghiệp hóa, hiện đại hóa với nhận thức, ý thức trách nhiệm của các chủ thể và người dân; Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải bảo vệ môi trường tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với cơ sở vật chất - kỹ thuật, tiềm lực khoa học - công nghệ và nhân lực cho bảo vệ môi trường. Cả hai vấn đề trên đã thể hiện nhiều hạn chế chưa được khắc phục trên thực tế. Bên cạnh đó là những bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật và công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tự nhiên chưa được khắc phục. Các bài viết và đề tài nghiên cứu trên đây đã nghiên cứu vấn đề bảo vệ môi trường dưới nhiều góc độ, vấn đề trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực môi trường, đã chỉ ra những hạn chế trong công tác bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay, trên cơ sở những nghiên cứu khoa học kết hợp bài học từ thực tiễn các nước trên thế giới đã đề xuất những giải pháp hiệu quả nhằm hoàn thiện pháp luật về môi trường cũng như hoạt động bảo vệ môi trường của nước ta trong giai đoạn tới. Hoạt động khai thác khoáng sản luôn có những tác động rất lớn tới môi trường, tuy nhiên hiện nay các đề tài khoa học đa số nghiên cứu vấn đề này ở tầm vĩ mô, có rất ít các nghiên cứu trên địa bàn cụ thể dưới góc độ pháp luật. Đặc biệt trong phạm vi tỉnh Quảng Ninh, trong hoạt động khai thác đá thì chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường đối với hoạt động này. Vì vậy khi lựa chọn đề tài “Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá qua thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” tác giả mong muốn sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường, có sự tổng hợp, chuyên sâu về vấn đề khai thác đá trên địa bàn tỉnh, đưa ra những đề xuất từng bước nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá, đồng thời nâng cao ý thức pháp luật, ý thức bảo vệ môi trường trong nhân nhân, các cơ sở khai thác đá, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về lĩnh vực môi trường. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; để từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện 5
- pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài Đề thực hiện mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá ở Việt Nam hiện nay; - Phân tích, đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; - Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài “Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá qua thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là một đề tài có nội dung nghiên cứu khá rộng, cần xem xét trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn, tác giả giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu ở những nội dung cơ bản sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ô nhiễm môi trường; tầm quan trọng của việc kiểm soát ô nhiễm môi trường; quyền của con người được sống trong môi trường trong lành, mối liên hệ giữa kiểm soát ô nhiễm môi trường và bảo vệ quyền con người. - Nghiên cứu, tìm hiểu thực tế hoạt động khai thác đá tại tỉnh Quảng Ninh, cụ thể tại ba đơn vị điển hình: Huyện Hoành Bồ, thành phố Uông Bí và thành phố Cẩm Phả trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2018 (10 năm). - Nghiên cứu, đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường; các quy định cụ thể nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. - Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về kiểm soát nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 6
- 5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu pháp luật về pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá tại Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã kết hợp, sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: tổng hợp, phân tích, phương pháp so sánh, thống kê,….để giải quyết nội dung từng mục, chương trong luận văn. Cụ thể: - Chương 1, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp chủ yếu như: lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp… để làm rõ các nội dung - Chương 2, tác giả sử dụng các phương pháp chủ yếu như: phân tích, tổng hợp, thống kế, so sánh… để giải quyết các nội dung đặt ra. - Chương 3, tác giả sử dụng các phương pháp chủ yếu như tổng hợp, phân tích,.. để đạt mục tiêu đề ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ cung cấp các nội dung quan trọng, đáng tin cậy, có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá qua thực tiễn cho tỉnh Quảng Ninh. Luận văn có giá trị tham khảo, phục vụ cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn học Luật môi trường, chính sách môi trường. Trong khuôn khổ Luận văn đề xuất giải pháp để hoàn thiện và tiếp tục xây dựng các quy định pháp luật môi trường nhằm thực hiện có hiệu quả để kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá của tỉnh Quảng Ninh. 7. Kết cấu của luận văn Bố cục của luận văn gồm 03 chương với nhằm trình bày, giải quyết những vấn đề cụ thể sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về ô nhiễm môi trường và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá. Chương 2: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá ở Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Quảng Ninh. Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá ở Việt Nam hiện nay 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC KHAI THÁC ĐÁ 1.1 Khái niệm ô nhiễm môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực khai thác đá 1.1.1 Khái niệm môi trường và ô nhiễm môi trường trong khai thác đá a) Khái niệm Môi trường Khái niệm môi trường được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu. Thông thường, ta hay dùng các khái niệm như môi trường xã hội, môi trường giáo dục, môi trường làm việc, môi trường văn hóa, môi trường nước, môi trường đất, môi trường không khí… Với cách hiểu như trên, môi trường được chia thành hai loại cơ bản: môi trường vật chất tự nhiên và môi trường nhân tạo có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại, phát triển của con người. Dưới góc độ pháp lý, môi trường được định nghĩa tại khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2015 quy định: “1. Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. 2. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác.” [21]. Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại: Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi, sông, biển cả, không khí, động vật, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần thiết cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, thiên nhiên tạo ra cảnh quan tự nhiên đẹp phục vụ cho mục đích tham quan, giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. Môi trường xã hội là tổng hợp tất cả các yếu tố về xã hội có liên quan và tác động tới đời sống con người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước 8
- định... ở các cấp khác nhau như: Liên hợp quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể... Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác. Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo... Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội... Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên, mà chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống con người. Ví dụ: môi trường của học sinh gồm nhà trường với thầy giáo, bạn bè, nội quy của trường, lớp học, sân chơi, phòng thí nghiệm, vườn trường, tổ chức xã hội như Ðoàn, Ðội với các điều lệ hay gia đình, họ tộc, làng xóm với những quy định không thành văn, chỉ truyền miệng nhưng vẫn được công nhận, thi hành và các cơ quan hành chính các cấp với luật pháp, nghị định, thông tư, quy định. b) Ô nhiễm môi trường Ô nhiễm môi trường là một khái niệm được nhiều ngành khoa học định nghĩa. Dưới góc độ sinh thái, khái niệm này chỉ tình trạng của môi trường trong đó có những chỉ số hóa học, lý học của nó bị thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Dưới góc độ kinh tế học, ô nhiễm môi trường là sự thay đổi không có lợi cho môi trường sống về các tính chất vật lý, hóa học, sinh học, mà qua đó có thể gây tác hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khỏe con người, các loài động vật và các điều kiện sống khác. Dưới góc độ pháp lý được quy định tại Khoản 8 Điều 3 của Luật Bảo vệ môi trường như sau: “ Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.” [21]. Trên thế giới: Ô nhiễm môi trường được hiểu là tình trạng môi trường bị ô nhiễm bởi các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học... gây ảnh hưởng đến sức khỏe con 9
- người, các cơ thể sống khác. Ô nhiễm môi trường xảy ra là do con người và cách quản lý của con người. Các dạng ô nhiễm chính Dưới đây là các hình thức ô nhiễm và các chất ô nhiễm liên quan: - Ô nhiễm không khí, việc xả khói chứa bụi và các chất hóa học vào bầu không khí. Ví dụ về các khí độc là cacbon mônôxít, điôxít lưu huỳnh, các chất cloroflorocacbon (CFCs), và ôxít nitơ là chất thải của công nghiệp và xe cộ. Ôzôn quang hóa và khói lẫn sương(smog) được tạo ra khi các ôxít nitơ phản ứng với nước trong không khí (chính là sương) xúc tác là ánh sáng mặt trời. - Ô nhiễm nước xảy ra khi nước bề mặt chảy qua rác thải sinh hoạt, nước rác công nghiệp, các chất ô nhiễm trên mặt đất, rồi thấm xuống nước ngầm. - Ô nhiễm đất xảy ra khi đất bị nhiễm các chất hóa học độc hại (hàm lượng vượt quá giới hạn thông thường) do các hoạt động chủ động của con người như khai thác khoáng sản, sản xuất công nghiệp, sử dụng phân bón hóa học hoặc thuốc trừ sâu quá nhiều,... hoặc do bị rò rỉ từ các thùng chứa ngầm. Phổ biến nhất trong các loại chất ô nhiễm đất là hydrocacbon, kim loại nặng, MTBE, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, và các hydrocacbon clo hóa. - Ô nhiễm phóng xạ. - Ô nhiễm tiếng ồn, bao gồm tiếng ồn do xe cộ, máy bay, tiếng ồn công nghiệp - Ô nhiễm sóng, do các loại sóng như sóng điện thoại, truyền hình... tồn tại với mật độ lớn. - Ô nhiễm ánh sáng,hiện nay con người đã sử dụng các thiết bị chiếu sáng một cách lãng phí ảnh hưởng lớn tới môi trường như ảnh hưởng tới quá trình phát triển của động thực vật c) Ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá Ô nhiễm môi trường từ các hoạt động khai thác đá thường tồn tại ở hai dạng sau: - Ô nhiễm hóa học - Ô nhiễm vật lý. Trong trường hợp ô nhiễm hóa học, đặc tính hóa học của các chất ô nhiễm có thể gây nguy hiểm qua sự ô nhiễm của đất, nước và/hoặc không khí. Ô nhiễm vật lý liên quan đến các quá trình vật lý như sự phát sinh bụi, chất rắn lơ lửng trong 10
- nước và thoái hóa đất như xói mòn đất, các khoảng đất trống bị bỏ hoang và các bãi chôn lấp chất thải. * Ô nhiễm hóa học: Ô nhiễm hóa học là một trong những dạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nguy hiểm và lâu dài. Sự ô nhiễm này có thể xảy ra trong nước mặt từ hệ thống thoát nước của khu vực mỏ, trong nước ngầm do quá trình thấm, trong không khí do sự phát thải khí thải và do đất đã bị ô nhiễm. Khi sự ô nhiễm hóa học có thể xuất phát từ các hóa chất được xử lý không hợp lý được sử dụng trong quá trình tuyển quặng thì hầu hết các chất ô nhiễm hóa học xuất phát từ quá trình oxy hóa của các quặng khóang được khai thác. Trước khi được khai thác, các khoáng chất này thường ở trong trạng thái yếm khí, bị ngập nước hoặc bị bao phủ bởi các lớp đất đá dày, do đó các khoáng chất được duy trì trong điều kiện không hoạt động (trạng thái trơ) hầu như không xảy ra quá trình oxy hóa. Tuy nhiên, việc khai thác và nghiền quặng đã làm cho bề mặt của các khoáng chất này tiếp xúc với oxy và nước dẫn đến quá trình oxy hóa các khoáng chất và kết quả là dẫn đến những biến đổi nhanh về bản chất hóa học của chúng. Nhiều kim loại có giá trị được khai thác có chứa sunphit mà khi tiếp xúc với oxy và nước sẽ tạo ra axit sunphuric. Hậu quả đối với môi trường nước do ô nhiễm bởi dòng thải axit hoặc các nguyên tố vết độc hại có thể cực kỳ tai hại. Các kim loại nặng, có thể chỉ một hàm lượng nhỏ cũng có thể gây ra những nguy hiểm đối với sức khỏe con người và đời sống thủy sinh. Vì lý do này mà các tiêu chuẩn phát thải nước thường được dựa trên tiêu chuẩn về sức khỏe hơn là khả năng tiếp nhận của các cá thể đơn lẻ sống dưới nước để đồng hóa các chất thải. Sự ô nhiễm nước ngầm hoặc nước mặt có thể dẫn đến mất đi những giá trị sử dụng hữu ích như cung cấp nước uống, thủy sản, tưới tiêu, tài nguyên hoang dã và giải trí. Các vực nước ngầm có thể thông thủy với nguồn nước mặt hay nước ngầm ở gần đó và do đó sự ô nhiễm cuối cùng lại có thể xuất hiện ở các vùng này. Ô nhiễm không khí có thể phát sinh từ quá trình nung chảy quặng và đốt cháy nhiên liệu hóa thạch để sản xuất điện năng. Ở những nơi mức lưu huỳnh cao đáng kể, khi SO2 và SO3 phát thải vào khí quyển có thể kết hợp với hơi nước tạo thành mưa axit. Sự ô nhiễm này cũng có thể xảy ra do sự hóa hơi của các hóa chất như thủy ngân và cyanua. 11
- * Ô nhiễm vật lý: Dạng ô nhiễm môi trường này có thể xuất phát từ cả hai quá trình khai thác và tuyển khoáng. Các ảnh hưởng bất lợi của nó có thể do các chất rắn lơ lửng trong nước, bao phủ hệ sinh thái thủy vực bằng các lớp bùn phù sa, đất xói mòn, bụi trong không khí hay sự thoái hóa đất do thải các chất thải rắn trong mỏ không đúng quy cách. Một lượng lớn các chất rắn lơ lửng trong nước mặt sinh ra từ hoạt động khai thác mỏ cho thấy công tác quản lý nước yếu kém, các biện pháp kiểm soát xói mòn không hợp lý và cũng có thể đi kèm theo sự ô nhiễm về hóa học. Một lượng lớn bụi bay trong không khí có thể dẫn đến giảm tầm nhìn và có thể gây ra các ảnh hưởng bất lợi cho sức khỏe con người như các bệnh về hô hấp và sự khó chịu. Nồng độ lớn các vật liệu dạng hạt trong không khí có khả năng ăn mòn các công trình xây dựng và phá hủy máy móc, thiết bị. Công tác thải bỏ chất thải được lập kế hoạch một cách qua loa có thể gây cằn cỗi một diện tích lớn đất đai, gây khó khăn cho việc cải tạo trong tương lai và có thể dẫn đến những tác động rất bất lợi về mặt cảnh quan. d. Nguyễn tắc bảo vệ môi trường Theo quy định tại điều 4 Luật bảo vệ môi trường quy định Điều 4. Nguyên tắc bảo vệ môi trường 1. Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. 2. Bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu để bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành. 3. Bảo vệ môi trường phải dựa trên cơ sở sử dụng hợp lý tài nguyên, giảm thiểu chất thải. 4. Bảo vệ môi trường quốc gia gắn liền với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu; bảo vệ môi trường bảo đảm không phương hại chủ quyền, an ninh quốc gia. 5. Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 12
- 6. Hoạt động bảo vệ môi trường phải được tiến hành thường xuyên và ưu tiên phòng ngừa ô nhiễm, sự cố, suy thoái môi trường. 7. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng thành phần môi trường, được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho bảo vệ môi trường. 8. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải khắc phục, bồi thường thiệt hại và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. 1.1.2 Một số khái niệm của kiểm soát ô nhiễm môi trường trong khai thác đá - Khái niệm Khai thác đá là một hình thức khai thác khoáng sản, “khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có liên quan” ” [18, Điều 2, Khoản 7]. Thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm được giải thích tại Khoản 18 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014 là quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm. Như vậy, có thể hiểu kiểm soát ô nhiễm môi trường là tổng hợp các hoạt động của nhà nước, của các tổ chức cá nhân với mục đích chủ động ngăn chặn các tác động xấu đến môi trường từ các hoạt động kinh tế - xã hội; là hoạt động xử lý, khắc phục hậu quả, phục hồi lại tình trạng môi trường như trước khi bị ô nhiễm [21]. Kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá được thực hiện với mục đích kiểm tra, xem xét mọi hoạt động của các chủ thể khi họ tiến hành hoạt động khai thác, chế biến đá nhằm ngăn ngừa, hạn chế những hậu quả xảy ra đối với môi trường và tài nguyên môi trường; xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo môi trường sau quá trình khai thác đá. Việc kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá được tiến hành ở diện rộng, với quy mô lớn và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, bởi nhiều chủ thể khác nhau. - Chủ thể tham gia hoạt động hoạt động kiểm soát Kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá do nhiều chủ thể thực hiện gồm: Nhà nước; các tổ chức, đoàn thể, quần chúng, cộng đồng dân cư; các cá nhân trong xã hội. Nhà nước thực hiện việc kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá thông qua hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Nhà nước thực hiện việc kiểm soát của mình bằng cách: ban 13
- hành các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường và đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước, thiết lập hệ thống các cơ quan quản lý. Đây là hệ thống cơ quan được tổ chức từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan có thẩm quyền chung cho đến các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn. Hệ thống các cơ quan này chịu trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện các hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khai thác đá. Cùng với Nhà nước, kiểm soát ô nhiễm môi trong hoạt động khai thác đá còn được thực hiện bởi chính các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động này. Đó là các chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ liên quan đến hoạt động khai thác đá. Nhóm chủ thể này thực hiện việc kiểm soát nhiễm môi trường thông qua việc áp dụng các biện pháp để giảm thiểu đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực của hoạt động khai thác, chế biến, sử dụng đá đến môi trường… Trường hợp này được hiểu là chủ thể hoạt động sản suất, kinh doanh, dịch vụ liên quan đến hoạt động khai thác đá tự kiểm soát hành động của chính mình để không gây ô nhiễm môi trường. Chủ thể của hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá còn có thể bao gồm các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể quần chúng hoặc nhân dân, cộng đồng dân cư. Nhóm chủ thể này thực hiện nghĩa vụ giám sát việc tuân thủ pháp luật, giám sát mức độ xả thải, khả năng thực hiện an toàn lao động hay mức độ phòng chống cháy nổ và phòng ngừa ô nhiễm môi trường của các chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ liên quan đến hoạt động khai thác đá. Trên thực tế, tinh thần đấu tranh, phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật từ nhóm chủ thể này có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá. - Việc kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác đá được tiến hành ở các giai đoạn như sau: Thứ nhất, việc kiểm soát phải bắt đầu từ khi dự án khai thác đá chưa được tiến hành khai thác trên thực tế. Việc kiểm soát ngay từ trong giai đoạn rất sớm nhằm đảm bảo cho dự án khai thác đá được thực hiện với lộ trình khai thác hợp lý, những trang thiết bị tốt, cách thức khai thác đá khoa học… giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực của hoạt động khai thác đá tới môi trường. Một dự án khai thác đá 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 282 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 339 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 111 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 106 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 220 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 123 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 78 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 96 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 32 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 183 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 108 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 35 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 74 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 58 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 65 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 17 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 83 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 19 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn