Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Nâng cao năng lực các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu là tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật về trách nhiệm sản phẩm là một vấn đề có phạm vi nghiên cứu chuyên sâu. Để thực hiện đề tài này, trước hết cần phải đánh giá được về thực trạng thực thi pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của các thiết chế tại Việt Nam. Ở đây, cần lưu ý, đó là các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan tài phán và các tổ chức xã hội về bảo vệ người tiêu dùng. Sau đó, đề tài sẽ tiến hành tìm hiểu nguyên nhân và nghiên cứu những giải pháp đề xuất đề nâng cao năng lực thực thi pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của các thiết chế này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Nâng cao năng lực các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NÂNG CAO NĂNG LỰC CÁC THIẾT CHẾ THỰC THI PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Kinh tế PHẠM THỊ DIỄM NƯƠNG Hà Nội - 2019
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NÂNG CAO NĂNG LỰC CÁC THIẾT CHẾ THỰC THI PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380107 Họ và tên học viên: Phạm Thị Diễm Nương Người hướng dẫn: TS Nguyễn Minh Thư Hà Nội - 2019
- i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu sử dụng, phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một các trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Học viên Phạm Thị Diễm Nương
- ii LỜI CẢM ƠN Trân trọng cám ơn các thầy cô giáo trong Khoa Luật, Khoa Sau Đại học – Trường Đại học Ngoại thương đã tạo điều kiện tốt nhất để tác giả thực hiện luận văn của mình. Đặc biệt, xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đến TS. Nguyễn Minh Thư đã hướng dẫn, giúp đỡ tận tình để tác giả có được công trình nghiên cứu này. Học viên Phạm Thị Diễm Nương
- iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii TÓM TẮT LUẬN VĂN ........................................................................................... v MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM VÀ CÁC THIẾT CHẾ THỰC THI PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM............................................................................................................... 5 1.1. Tổng quan về trách nhiệm sản phẩm và pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm .................................................................................................... 5 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm sản phẩm và pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm ................................................................................................. 5 1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm ............................................................................................................... 15 1.2. Tổng quan về các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm.............................................................................................................. 17 1.2.1. Khái niệm và vai trò của các thiết chế thực thi pháp luật .................. 17 1.2.2. Khái quát chung về Các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm ................................................................................................ 18 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CÁC THIẾT CHẾ THỰC THI PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................................... 29 2.1. Tổng quan về pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay ...................................................................................................... 29 2.2. Thực tiễn năng lực các thiết thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm .................................................................................................. 33 2.2.1. Thực tiễn năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước ...................... 33 2.2.2. Thực tiễn năng lực của hệ thống toà án............................................... 45 2.2.3. Thực tiễn năng lực của trọng tài .......................................................... 49 2.2.4. Thực tiễn năng lực của Hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .. 51
- iv 2.3. Đánh giá thực trạng năng lực các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm .................................................................................... 57 2.3.1. Những thành tựu đạt được ....................................................................... 57 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân .............................................................. 60 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CÁC THIẾT CHẾ THỰC THI PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................... 69 3.1. Định hướng hoạt động của các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam trong giai đoạn tới .................................. 69 3.2. Kiến nghị nhằm nâng cao năng lực các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam ................................................ 70 3.2.1. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước ................................ 70 3.2.2. Kiến nghị đối với hệ thống toà án ......................................................... 71 3.2.3. Kiến nghị đối với tổ chức trọng tài ....................................................... 72 3.2.4. Kiến nghị đối với các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng........................ 73 3.2.5. Các kiến nghị khác ................................................................................ 76 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 80
- v TÓM TẮT LUẬN VĂN Trên cơ sở các mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, luận văn đã đạt được những kết quả như sau: - Nghiên cứu tổng quan về trách nhiệm sản phẩm và pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm và các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm; - Nghiên cứu về thực trạng năng lực của các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay; từ đó rút ra những đánh giá, nhận xét về hệ thống các thiết chế này. - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực của các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay, bao gồm nhóm đề xuất dành cho các cơ quan quản lý nhà nước, đề xuất dành cho hệ thống toà án, tổ chức trọng tài và các kiến nghị dành cho các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng.
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình hoàn thiện các công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng, chế định trách nhiệm sản phẩm đã ra đời như một sự tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng một cách đầy đủ và hữu hiệu hơn. Chế định pháp luật này được áp dụng đầu tiên ở Hoa Kỳ và sau đó được tiếp nhận bởi các quốc gia ở Châu Âu (ở cấp độ Liên minh Châu Âu và quốc gia thuộc Liên minh), ở Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, các quốc gia ASEAN). Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm đã được phát triển để thúc đẩy sự an toàn và bồi thường thích đáng trong các trường hợp một bên bị thương tích hoặc tổn thất từ việc sử dụng sản phẩm. Các nguyên tắc được áp dụng để đạt được mục tiêu này được sử dụng khá linh hoạt, được phát triển để cân bằng lợi ích của người sản xuất và người cung ứng với việc bảo vệ quyền lợi cho những người có thể bị ảnh hưởng từ việc sử dụng sản phẩm của họ. Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người tiêu dùng trong vấn đề trách nhiệm sản phẩm. Thông qua đạo luật này, cácthiết chế thực thi trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò của mình hơn trong việc thực thi và áp dụng pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm, bảo vệ người tiêu dùng. Các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm là một nội dung hết sức quan trọng, đảm bảo tính khả thi của toàn bộ nội dung khác được đề cập trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010 và các văn bản liên quan về bảo vệ người tiêu dùng dưới góc độ trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan tài phán và các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam đã tham gia khá tích cực vào công tác thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm, tuy nhiên, trên thực tế, trong quá trình thực thi, các cơ quan này thể hiện nhiều điểm bất cập trong tổ chức cũng như vận hành. Vì vậy, để hiệu quả hoạt động của các thiết chế thực thi pháp luật về trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam được nâng cao, tác giả lựa chọn vấn đề “Nâng cao năng lực các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
- 2 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề nâng cao năng lực các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay là một nghiên cứu còn khá mới mẻ. Tuy nhiên, đã có một số nghiên cứu trước đó liên quan đến nội dung về thiết chế bảo vệ người tiêu dùng và các nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm sản phẩm. Các công trình nghiên cứu về nội dung thiết chế bảo vệ người tiêu dùng tiêu biểu có thể kể đến như: - Nghiên cứu của Cục Quản lý Cạnh tranh (Nay là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng) – Bộ Công thương với sự giúp đỡ của tổ chức CUTS International tại Việt Nam: Thiết chế bảo vệ người tiêu dùng: Thực trạng Việt Nam, kinh nghiệm quốc tế và định hướng hoàn thiện. - Hội thảo “Tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam và kinh nghiệm của Đức” được kết hợp tổ chức bởi Trường Đại học Luật Hà Nội với Trung tâm Pháp luật Đức và Viện Friedrich-Ebert-Stiftung Hà Nội tổ chức tháng 3/2015. Hội thảo có các bài viết đề cập đến Thực trạng pháp luật Việt Nam về các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt là các bài viết đánh giá về thực trạng năng lực của các thiết chế cụ thể (Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, hệ thống toà án, Tổ chức xã hội) trong thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam. Các nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm sản phẩm mặc dù mới được quan tâm khoảng 10 năm gần đây, nhưng nội dung này cũng được các nhà khoa học quan tâm và tìm hiểu: - Tiêu biểu trong số này phải kể đến tác giả Trương Hồng Quang với nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm sản phẩm: Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam; Pháp luật trách nhiệm sản phẩm của Canada; Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của Liên minh Châu Âu; Kinh nghiệm xây dựng pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của một số nước Asean (viết cùng tác giả Trần Thị Quang Hồng).
- 3 - Tác giả Tăng Văn Nghĩa với bài viết Bàn về luật trách nhiệm sản phẩm trong kinh doanh quốc tế đã nghiên cứu một cách khái quát về vấn đề trách nhiệm sản phẩm và khả năng áp dụng vấn đề trách nhiệm sản phẩm trong kinh doanh quốc tế. - Bên cạnh đó, một số khoá luận tốt nghiệp cũng lựa chọn vấn đề trách nhiệm sản phẩm đề nghiên cứu: Tác giả Nguyễn Hương Giang với khoá luận Trách nhiệm sản phẩm (Product liability) và những vấn đề đặt ra khi xuất khẩu vào thị trường nước phát triển; Tác giả Nguyễn Thị Hải Hà với khoá luận Trách nhiệm sản phẩm – Những vấn đề đặt ra trong thương mại quốc tế. Từ tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể nhận thấy, các công trình nghiên cứu về năng lực các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm còn chưa được quan tâm, tuy nhiên, đây lại là một vấn đề mang tính cấp bách, vì vậy, tác giả lựa chọn nội dung này làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật về trách nhiệm sản phẩm là một vấn đề có phạm vi nghiên cứu chuyên sâu. Để thực hiện đề tài này, trước hết cần phải đánh giá được về thực trạng thực thi pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của các thiết chế tại Việt Nam. Ở đây, cần lưu ý, đó là các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan tài phán và các tổ chức xã hội về bảo vệ người tiêu dùng. Sau đó, đề tài sẽ tiến hành tìm hiểu nguyên nhân và nghiên cứu những giải pháp đề xuất đề nâng cao năng lực thực thi pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của các thiết chế này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Nghiên cứu tổng quan về trách nhiệm sản phẩm và pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm và các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm; - Nghiên cứu về thực trạng năng lực của các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay;
- 4 - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực của các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng những phương pháp cơ bản sau đây: - Phương pháp luận nghiên cứu hoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin - Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử được sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu về lịch sử hình thành của chế định trách nhiệm sản phẩm. - Phương pháp so sánh luật học, phương pháp điều tra, thống kê xã hội học, phương pháp trao đổi, toạ đàm. - Phương pháp phân tích, tổng hợp 5. Kết cấu của luận văn Ngoài nội dung mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1. Lý luận chung về trách nhiệm sản phẩm và các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm Chương 2. Thực trạng năng lực các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao năng lực các thiết chế thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay
- 5 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM VÀ CÁC THIẾT CHẾ THỰC THI PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM 1.1. Tổng quan về trách nhiệm sản phẩm và pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm sản phẩm và pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm 1.1.1.1. Khái niệm về trách nhiệm sản phẩm Trách nhiệm sản phẩm là một chế định pháp luật quan trọng ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển hiện nay. Quá trình phát triển chế định pháp luật này gắn liền với nhu cầu bảo vệ người tiêu dùng trước những nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá sản phẩm. Sự phát triển của chế định này là một bước tiến của pháp luật ở nhiều nước trong việc kiểm soát các nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm trước hành vi vi phạm vì lợi ích của cộng đồng. Bản chất của chế định này là các nhà sản xuất và những tổ chức, cá nhân tham gia vào việc phân phốisản phẩm phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra cho người sử dụng sản phẩm nếu như việc sử dụng chúng tiềm ẩn những nguy hại nhưng không được cảnh báo trước. Khái niệm sản phẩm: Theo Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000 thì sản phẩm là kết quả của một quá trình, trong đó “quá trình” là tập hợp các hoạt động có liên quan lẫn nhau hoặc tương tác với nhau để biến đổi đầu vào (input) thành đầu ra (output). Các chủng loại sản phẩm phổ biến nhất gồm: hàng hóa (gồm cả phần mềm - software, phần cứng – hardware, vật liệu chế biến - processed meterial) và dịch vụ. Khái niệm này không dựa trên tính chất trao đổi (mua bán), chức năng hay dạng vật chất của sản phẩm để định nghĩa mà dựa trên chu trình sống của sản phẩm. Sản phẩm chỉ trở thành hàng hoá ở giai đoạn lưu thông sản phẩm trên thị trường. Dưới giác độ Marketing thì sản phẩm là thứ có khả năng thoả mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ và có thể đưa ra chào bán trên thị trường với khả năng thu hút sự chú ý mua sắm và tiêu dùng. Theo đó,
- 6 một sản phẩm được cấu tạo và hình thành từ hai yếu tố cơ bản vật chất và phi vật chất. Như vậy, theo quan điểm của cả Marketing và Tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO, sản phẩm gồm 2 bộ phận: hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì: “sản phẩm là kết quả của các hoạt động, các quá trình bao gồm phần mềm, phần cứng và vật liệu để chế biến hoặc đã được chế biến”. 1 Khái niệm này tương đồng với khái niệm hàng hóa của tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000. Khi xem xét trên góc độ pháp luật, theo khái niệm của Luật Trách nhiệm sản phẩm Nhật Bản (Luật số 85, 1994) thì thuật ngữ “Sản phẩm” có nghĩa là tài sản được sản xuất hoặc chế biến có thể di chuyển được2. Như vậy, đối tượng điều chỉnh của luật này là “sản phẩm” chỉ hạn hẹp trong hàng hóa và hàng hóa đó phải là tài sản hữu hình. Chỉ những sản phẩm đã qua chế biến mới là đối tượng điều chỉnh của luật này, Những sản phẩm là kết quả của quá trình lao động nhưng không qua chế biến như: khoáng sản, sản phẩm nông lâm ngư nghiệp chưa chế biến hoặc đóng gói, các tài sản vô hình như phát minh, sáng chế, nhãn hiệu thương mại…đều không được điều chỉnh bởi pháp luật trách nhiệm sản phẩm. Theo chỉ thị 34/1999 về trách nhiệm sản phẩm của Liên minh châu Âu EU thì sản phẩm là mọi động sản kể cả động sản sáp nhập trong động sản hoặc bất động sản khác, sản phẩm bao gồm cả điện3. Như vậy, sản phẩm với tư cách là đối tượng điều chỉnh của luật này mở rộng hơn quan điểm của Luật TNSP Nhật Bản, xem xét sản phẩm trên góc độ đặc tính của chúng. Động sản ở đây có thể bao gồm cả những nông lâm ngư sản chưa qua chế biến. Điện năng cũng được coi như một loại nhiên liệu, một bộ phận cấu thành của sản phẩm. Trong khi đó, “Restatements 3rd Torts” (luật bồi thường thiệt hại, bản sửa đổi lần thứ 3) 1997 của Hoa Kỳ định nghĩa sản phẩm là những tài sản cá nhân hữu hình, bao gồm cả nguyên liệu chưa qua chế 1 Khoản 1, điều 3, nghị định 179/2004/NĐ-CP của chính phủ ban hành ngày 21/10/2004 về quy định quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. 2 Nguyên văn trích Luật trách nhiệm sản phẩm Nhật Bản số 85/1994: “the term “product “means movable property manufactured or processed “ 3 Nguyên văn trích chỉ thị 34/1999 về trách nhiệm sản phẩm của Liên minh châu Âu EU : ‘product’ means all movables even if incorporated into another movable or into an immovable. ‘Product’ includes electricity
- 7 biến. Quy định của pháp luật Hoa Kỳ không quan tâm tới quá trình tạo ra sản phẩm chỉ xem xét sản phẩm trên khía cạnh hình thái vật chất và chủ thể sở hữu sản phẩm. Tóm lại dưới giác độ của TNSP, sản phẩm bao gồm những động sản được sản xuất hoặc chế biến1, nó không phụ thuộc vào việc sản xuất theo dây chuyền công nghiệp với quy mô lớn hay sản xuất thủ công những sản phẩm riêng lẻ2. Cách hiểu này tương đồng với quy định của pháp luật ở nhiều nước về sản phẩm đồng thời mang tính chất đặc thù của pháp luật trách nhiệm sản phẩm. Khái niệm về trách nhiệm sản phẩm Nhìn chung pháp luật các nước đều có quan điểm thống nhất về trách nhiệm sản phẩm. Khi người tiêu dùng, người sử dụng sản phẩm hay bất cứ người thứ ba nào bị tổn hại về vật chất, sức khoẻ, tính mạng, tinh thần do những khiếm khuyết của sản phẩm thì họ có quyền được đòi bồi thường. Ngược lại, các nhà sản xuất, phân phối, nhà bản lẻ sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường khi sản phẩm của họ có khuyết tật, gây tổn thất cho người tiêu dùng, sử dụng sản phẩm. Theo Điều 102(2), Đạo luật Thống nhất về Trách nhiệm sản phẩm của Hoa Kỳ, trách nhiệm sản phẩm bao gồm “tất cả các khiếu nại và khiếu kiện đòi bồi thường về các mất mát về con người, bao gồm cả trường hợp tử vong, và của cải, do việc sản xuất, thiết kế, công thức chế tạo, công tác chuẩn bị, lắp ráp, lắp đặt, thử nghiệm sản phẩm, các cảnh báo, hướng dẫn, việc chào hàng, đóng gói hay dán nhãn của bất kỳ hàng hóa, dịch vụ nào gây ra.” Các vấn đề về trách nhiệm sản phẩm trên thế giới đang ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà sản xuất và quản lý hàng hóa, do sự lan truyền của học thuyết về “trách nhiệm nghiêm ngặt” (strict liability) và sự xuất hiện của các học thuyết mới cho phép đòi bồi thường cả trong cáctrường hợp “thông báo chậm trễ” (delayed manifestation). 1 Theo điều 2 điểm 2 luật TNSP CHLB Đức (produkthaftungsgetz sửa đổi 2002) 2 TS. Tăng Văn Nghĩa (2008), “Bàn về Luật trách nhiệm sản phẩm trong kinh doanh quốc tế “, tạp chí Nhà nước và pháp luật, (2), trang 41-49
- 8 Điều 1 Chỉ thị về Trách nhiệm sản phẩm của Liên minh Châu Âu ban hành vào năm 1985 đã quy định: Người sản xuất phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại gây ra bởi những khuyết tật trong sản phẩm của họ. Tóm lại, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm sản phẩm như sau: Trách nhiệm sản phẩm là chế định pháp luật trong đó nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà cung cấp, nhà bán lẻ hay bất cứ người nào đưa sản phẩm vào lưu thông phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại, thương tích của người tiêu dùng, người sử dụng sản phẩm hoặc người thứ ba do khuyết tật của sản phẩm đó gây ra. 1.1.1.2. Pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm (i) Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm Trong quá trình hoàn thiện các công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng, chế định trách nhiệm sản phẩm đã ra đời như một sự tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng một cách đầy đủ và hữu hiệu hơn. Chế định pháp luật này được áp dụng đầu tiên ở Hoa Kỳ và sau đó được tiếp nhận bởi các quốc gia ở Châu Âu (ở cấp độ Liên minh Châu Âu và quốc gia thuộc Liên minh), ở Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, các quốc gia ASEAN). Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm đã được phát triển để thúc đẩy sự an toàn và bồi thường thích đáng trong các trường hợp một bên bị thương tích hoặc tổn thất từ việc sử dụng sản phẩm. Chế định TNSP lần đầu tiên xuất hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1916 khi toà án bang New York xét xử vụ Mac Pherson kiện công ty Buick Motor Co3 vì nguyên đơn bị thương do bánh xe của nhà sản xuất này phát nổ. Toà án đã ra phán quyết buộc nhà sản xuất phải bồi thường cho MacPherson vì những khuyết tật ẩn chứa trong sản phẩm có thể gây nguy hiểm cho người sử dụng đã không được cảnh báo trước. Phán quyết này đã trở thành tiền lệ cho trách nhiệm sản phẩm dựa trên lỗi vô ý của nhà sản xuất, nhà phân phối đối với sản phẩm của họ. Vào những năm 30 tại Hoa Kỳ thường có những vụ kiện liên quan tới thời hạn bảo hành của sản phẩm, theo đó trong thời hạn bảo hành của một sản phẩm, nếu sản phẩm bị hỏng do khuyết 3 Mac Pherson v Buick Motor Cohttp://omnilearn.net/PDL/resources/MacPherson-v-Buick-Motor-Co- opinions.pdf truy cập ngày 01/10/2018
- 9 tật gây tổn hại về vật chất cho khách hàng thì nhà sản xuất, nhà phân phối sẽ phải bồi thường. Tuy nhiên, vấn đề trách nhiệm bồi thường theo thời hạn bảo hành của sản phẩm chỉ được áp dụng giữa người trực tiếp mua sản phẩm và nhà sản xuất. Có một thực tế là, đôi khi người sử dụng sản phẩm không phải là người trực tiếp mua sản phẩm, do đó, một số phán quyết của toà án trong thời gian này đã tạo cơ sở cho việc yêu cầu bồi thường của những người trực tiếp sử dụng sản phẩm4. Giai đoạn từ năm 1930 – 1960, các luật sư Hoa Kỳ đưa ra quản điểm trách nhiệm sản phẩm nghiêm ngặt, có nghĩa là trách nhiệm sản phẩm mà không dựa trên lỗi của nhà sản xuất. Năm 1965, điều khoản trách nhiệm sản phẩm nghiêm ngặt chính thức được Viện nghiên cứu Luật Hoa Kỳ đưa vào điều 402A của Bản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quy định về trách nhiệm đặc biệt của người sản xuất, nhà phân phối đối với những thiệt hại vật chất của người tiêu dùng hay người sử dụng sản phẩm. Trách nhiệm này áp dụng đối với cả nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ hay người xuất khẩu sản phẩm. Tại Châu Âu, trong những năm 1970, một số nước đã đưa ra sáng kiến về việc đưa ra một công ước chung điều chỉnh các vấn đề liên quan đến trách nhiệm sản phẩm và giải quyết xung đột giữa pháp luật của các nước thành viên trong vấn đề này. Những sáng kiến đó là tiền đề cho sự ra đời của Công ước Hague vào ngày 02/10/1973, có hiệu lực từ ngày 01/10/1977 về luật áp dụng cho trách nhiệm sản phẩm. Công ước này đã giải quyết khá triệt để vấn đề xung đột pháp luật. Vào năm 1975, bản Dự thảo của Công ước Châu Âu về trách nhiệm sản phẩm được đưa ra theo đề xuất của Hội đồng Châu Âu. Sau khi bản dự thảo cuối cùng được phê chuẩn và trở thành công ước Strabourg 1977. Và đây là tiền đề cho bản Chỉ thị 85/374/EEC về trách nhiệm sản phẩm sau này. Công ước này quy định các vấn đề TNSP nghiêm ngặt, không quan tâm đến lỗi của nhà sản xuất. Vào ngày 14/4/1975, tại Hội nghị thượng đỉnh Paris, Hội đồng Châu Âu đã ban hành nghị quyết về chương trình ban đầu của cộng đồng trong chính sách bảo vệ người tiêu dùng, và năm 1981 thì bản Nghị quyết thứ hai cũng được ban hành, theo đó, người tiêu dùng 4 Baxter kiện công ty Forrd Motor do kính chắn gió của mô tô do Ford sản xuất, được bảo hành là chịu lực tốt, không vỡ, nhưng trong quá trình sử dụng lại vỡ, gây thương tích cho Baxter và người bạn đi cùng. Toà yêu cầu công ty Ford phải bồi thường thiệt hại cho cả Baxter và người bạn đi cùng theo điều kiện bảo hành.
- 10 phải được bảo vệ trước những thiệt hại vất chất gây ra do sản phẩm có khuyết tật. Trong hai năm 1974, 1975, hai bản dự thảo của bản Chỉ thị về trách nhiệm sản phẩm ra đời, nhưng phải đến 10 năm sau, chỉ thị này mới chính thức được ban hành vào ngày 25/7/1985. Bản Chỉ thị quy định trách nhiệm nghiêm ngặt của nhà sản xuất, người phân phối với sản phẩm của mình, tuy nhiên cũng có những điều khoản cho phép các nước thành viên có thể lựa chọn áp dụng hoặc không áp dụng, hoặc tăng mức phạt khi đưa vào luật của nước mình. Chỉ thị 85/374/EEC có hiệu lực từ ngày 01/8/1988 với sự chấp thuận rộng rãi trong nội bộ các nước thành viên và từ đó đến nay đã thể hiện tốt vai trò thống nhất pháp luật điều chỉnh giữa các nước thành viên. Năm 1999, Chỉ thị số 1999/34/EC ra đời nhằm bổ sung, sửa đổi một số điều khoản của Chỉ thị 85/374/EEC. Ngoài ra còn có các văn bản như Chỉ thị 97/27/EC ban hành ngày 19/5/1998 quy định về việc khởi kiện để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Chỉ thị 2001/95/EC ban hành ngày 03/12/2001 về những quy định chung về an toàn sản phẩm; Nghị định số 864/2007 của Liên Minh Châu Âu về luật áp dụng đối với nghĩa vụ ngoài hợp đồng5. Ở khu vực Đông Á và các nước ASEAN, tình hình tiếp nhận quy tắc về trách nhiệm sản phẩm có vẻ chậm trễ hơn. Nhật Bản là quốc gia đi tiên phong trong vấn đề này nhưng cũng phải mất hàng chục năm tranh cãi với sự nỗ lực vận động hành lang lớn của các Hội bảo vệ người tiêu dùng, Luật về Trách nhiệm sản phẩm năm 1994 mới được ban hành. Luật Trách nhiệm sản phẩm của Nhật Bản có hiệu lực từ năm 1995 quy định chi tiết hơn về vấn đề trách nhiệm sản phẩm: bất kỳ nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà nhập khẩu nào cung cấp sản phẩm có khuyết tật gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của người tiêu dùng thì phải bồi thường cho những thiệt hại đó. Trước khi có Luật Trách nhiệm sản phẩm năm 1994, pháp luật Nhật Bản đã có chế định về trách nhiệm sản phẩm (tuy trong pháp luật Nhật Bản lúc đó không hề tồn tại khái niệm “trách nhiệm sản phẩm“)6. Tuy cũng bị ảnh hưởng nhiều 5 Nguyễn Thị Hải Hà, Trách nhiệm sản phẩm – Những vấn đề đặt ra trong thương mại quốc tế, Khoá luật tốt nghiệp Đại học Ngoại thương, 2010, tr.22-23 6 Andrew Marcuse, Why Japan‘s New Products Liability Law Isn’t, 5 Pac. Rim. L. & Pol’y J. 365, 388 (1996) (arguing “the new [law] changes the Japanese products liability regime very little.”); Anita Bernstein & Paul Fanning, Weightier Than A Mountain: Duty, Hierarchy, and the Consumer in Japan, 29 Vand. J. Transnat’l L. 45, 67 (1996) (claiming “the [PL Law] is not likely to disrupt Japanese society or the function of law in Japan, despite optimistic expressions heard from American consumer advocates.”)
- 11 bởi chế định trách nhiệm sản phẩm trong Chỉ thị năm 1985 của Ủy ban Châu Âu về trách nhiệm sản phẩm7, Luật Trách nhiệm sản phẩm của Nhật Bản năm 1994 chỉ gồm có 7 Điều luật8. So sánh với các quy định về trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật của EU hoặc Hoa Kỳ, có thể thấy rằng, mức độ chi tiết trong các quy định về trách nhiệm sản phẩm ở Nhật Bản còn thiếu và chưa chi tiết trong việc qui định về các dạng khuyết tật việc phân chia trách nhiệm chứng minh và các trường hợp được miễn, giảm trách nhiệm đối với nhà sản xuất9. Tại Hàn Quốc, trước thời điểm ban hành Luật Trách nhiệm sản phẩm của Hàn Quốc (năm 2000), vấn đề bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra được áp dụng theo các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định trong Bộ luật dân sự Hàn Quốc. Theo quy định của Bộ luật này, chế định bồi thường theo lỗi bất cẩn (negligence) được áp dụng10. Khi có vụ kiện tụng về trách nhiệm sản phẩm, nguyên đơn phải chứng minh sự tồn tại của khuyết tật, mối quan hệ giữa khuyết tật và thiệt hại, lỗi bất cẩn (hoặc lỗi cố ý) của nhà sản xuất. Trong thực tiễn, vấn đề chứng minh lỗi bất cẩn của nhà sản xuất là rất khó. Chính vì thế, không phải trường hợp nào nguyên đơn cũng thành công trong việc chứng minh sự tồn tại của lỗi của nhà sản xuất mặc dù có thể chứng minh được sự tồn tại của khuyết tật và mối quan hệ nhân quả giữa khuyết tật và thiệt hại xảy ra. Để tăng cường mức độ bảo vệ người tiêu dùng mà Bộ luật dân sự đã có những quy định bước đầu, Luật Trách nhiệm sản phẩm của Hàn Quốc đã được ban hành năm 2000 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2002). Theo quy định của Luật này, chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt được áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm khuyết tật. Nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn được giảm xuống vì nguyên đơn không còn phải chứng minh nhà sản xuất có lỗi trong việc sản xuất ra sản phẩm có khuyết tật. Như vậy, có thể nhận thấy là tại Hàn Quốc đã có sự phát triển chế định trách nhiệm sản phẩm đi từ nguyên lý về sự bất cẩn đến nguyên lý về trách nhiệm nghiêm ngặt. Tại Trung Quốc, chế định trách nhiệm sản phẩm trước kia 7 Tsuneo Matsumoto, “Recent developments in the Law of Product Liability in Japan”, Hitotsubashi Journal of Politics and Law 25 (1997) 15-28 p.25 8 Nguyễn Văn Cương (Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp), Giới thiệu về chế định trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, 2009, tr. 4 9 Nguyễn Văn Cương (Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp), Giới thiệu về chế định Trách nhiệm sản phẩm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, 2009, trang 6 10 Xem thêm: Nguyễn Văn Cương (Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp), Giới thiệu về chế định Trách nhiệm sản phẩm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, 2009, trang 7
- 12 được đánh giá là khá sơ khai. Hiện nay, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Luật chất lượng sản phẩm của Trung Quốc11 (cùng ban hành năm 1993) và các văn bản pháp luật có liên quan đã có những quy định về quyền của người tiêu dùng khởi kiện nhà sản xuất hoặc người phân phối khi sản phẩm của họ có khuyết tật. Nhìn chung, pháp luật quốc gia này đã có sự chấp nhận đối với nguyên lý về trách nhiệm nghiêm ngặt. Cụ thể, theo quy định tại Điều 112 Luật về các nguyên tắc của Luật Dân sự (năm 1987), nhà sản xuất hoặc người bán sản phẩm không đảm bảo chất lượng sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với các thương tổn thân thể hoặc thiệt hại về tài sản. Bên bị thiệt hại có quyền tự do lựa chọn việc khởi kiện đối với nhà sản xuất hoặc người bán hàng12. Quan điểm chung của giới khoa học pháp lý ở Trung Quốc là quy định này cần được áp dụng theo hướng không cần phải chứng minh lỗi của nhà sản xuất hoặc người bán trong việc tạo ra sản phẩm không đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, trường hợp thiệt hại gây ra cũng có lỗi của phía nạn nhân thì nhà sản xuất hoặc người bán cũng được miễn giảm một phần trách nhiệm pháp lý. Ở Đông Nam Á, việc đưa các quy tắc về trách nhiệm sản phẩm còn muộn hơn (ngoại trừ trường hợp tiên phong là Philippines đã có quy định từ năm 1992). Mức độ tiếp nhận các vấn đề về trách nhiệm sản phẩm cũng không đồng đều giữa các quốc gia và thể hiện quan điểm còn có những khác biệt nhất định giữa các quốc gia trong khối về vấn đề trách nhiệm sản phẩm. Philippines thông qua Luật về người tiêu dùng năm 1992. Đây là một đạo luật toàn diện, điều chỉnh không chỉ vấn đề trách nhiệm sản phẩm mà cả vấn đề an toàn và chất lượng sản phẩm, hành vi lừa dối và hành vi thiếu công bằng, bảo hành, dán nhãn và đóng gói. Đạo luật này cũng quy định việc thành lập Hội đồng Quốc gia về các vấn đề của người tiêu dùng. Quan trọng hơn, Luật người tiêu dùng cũng đã thiết lập một cơ chế mở rộng của trách nhiệm nghiêm ngặt đối với các nhà sản xuất và nhập khẩu dựa vào Chỉ thị của Cộng đồng Châu Âu. Không giống như Chỉ thị của Cộng đồng Châu Âu, Luật Người tiêu dùng của Philippines đặt trách nhiệm chứng minh lên nhà sản xuất. Nhà sản xuất phải chứng minh rằng sản phẩm họ đưa vào thị trường là không có khuyết 11 Luật này được sửa đổi vào năm 2000 và hiện nay đây là căn cứ chủ yếu để giải quyết các vụ việc liên quan tới sản phẩm có khuyết tật 12 Nguyễn Văn Cương 2009, tlđd, tr. 12
- 13 tật. Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Malaysia có hiệu lực vào ngày 15 tháng 11 năm 1999 sau 10 năm xây dựng. Trước khi đạo luật này được ban hành, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng được quy định trong nhiều văn bản, bao gồm Luật Diễn giải thương mại năm 1972 (Trade Descriptions Act), Luật về bán hàng năm 1957 (Sale of Goods Act) và các quy định điều chỉnh một số loại thực phẩm và dược phẩm. Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Malaysia được xem là một bước tiến quan trọng trong việc mở rộng mức độ bảo vệ tới cá nhân người tiêu dùng, người thường là ở vị thế yếu hơn so với nhà sản xuất, cung ứng là đối tượng bị người tiêu dùng khiếu nại. Các quy định trong đạo luật này bao gồm cả các hành vi gây nhầm lẫn và lừa đảo, các tiêu chuẩn an toàn tối thiểu mà hàng hoá và dịch vụ phải đảm bảo, quyền yêu cầu nhà sản xuất và cung ứng phải khôi phục quyền lợi, thành lập Hội đồng Tư vấn Quốc gia về người tiêu dùng và Uỷ ban giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng. Luật Trách nhiệm đối với Sản phẩm không an toàn của Thái Lan được ban hành ngày 13 tháng 2 năm 2008 và có hiệu lực vào ngày 23 tháng 12 năm 2009. Đây có thể coi là đạo luật được ban hành mới nhất về trách nhiệm sản phẩm của khu vực ASEAN. Luật áp dụng trách nhiệm phát sinh từ sản phẩm không an toàn đối với nhà sản xuất, người bán hàng, nhà nhập khẩu và những người khác trong chuỗi phân phối.13 (ii) Pháp luật liên quan đến trách nhiệm sản phẩm Để có cơ sở pháp lý cho việc quy kết trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với nhà sản xuất, nhiều nước đã ban hành Luật về trách nhiệm sản phẩm (Prodact liability law). Luật TNSP liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm bồi thường, khắc phụ hậu quả, thậm chí thu hồi sản phẩm của nhà sản xuất do sản phẩm có khuyết tật và không an toàn khi sử dụng. Trước kia, do được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự, TNSP chỉ phát sinh trong khuôn khổ của những hợp đồng cụ thể, nói cách khác, chỉ có những bên liên quan trong hợp đồng mới có thể kiện đòi bồi thường thiệt hại. Ngày nay, Luật TNSP đã phát triển tới một quan điểm cho phép bất cứ ai bị thiệt hại bởi một sản phẩm khuyết tật (được định nghĩa như một sản 13 Trần Thị Quang Hồng, Trương Hồng Quang, Chế định trách nhiệm sản phẩm của một số quốc gia Asean, Tạp chí Luật học, số 7/2010
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 282 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 339 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 111 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 106 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 220 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 123 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 78 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 96 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 32 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 182 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 108 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 35 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 74 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 58 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 65 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 17 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 83 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 18 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn