Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Những vấn đề pháp lý về trách nhiệm sản phẩm: thực tiễn và khuyến nghị đối với doanh nghiệp Việt Nam
lượt xem 8
download
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về trách nhiệm sản phẩm; nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm sản phẩm và thực trạng giải quyết trách nhiệm sản phẩm. Qua đó, Luận văn tìm ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về trách nhiệm sản phẩm, đồng thời đưa ra những giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức, thúc đẩy nên kinh tế hàng hóa phát triển lành mạnh, ổn định.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Những vấn đề pháp lý về trách nhiệm sản phẩm: thực tiễn và khuyến nghị đối với doanh nghiệp Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG --------o0o-------- LUẬN VĂN THẠC SĨ NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM: THỰC TIỄN VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM N n uật n t Học viên cao học: ĐÀO NGỌC SƠN N ƣờ ƣớng dẫn khoa học PGS, TS Tăn Văn N ĩa Hà Nội, tháng 12 năm 2018
- i ỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tất cả những tham khảo và kế thừa đều được trích dẫn và tham chiếu đầy đủ. Tác ả luận văn Đ o N ọc Sơn
- ii LỜI CẢM ƠN Đề tài ”Những vấn đề pháp lý về trách nhiệm sản phẩm: thực tiễn và khuyến nghị đối với doanh nghiệp Việt Nam” là nội dung tác giả chọn để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp sau hai năm theo học chương trình cao học chuyên ngành Luật Kinh tế tại Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội. Để hoàn thành quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này, lời đầu tiên tác giả xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến PGS, TS Tăng Văn Nghĩa. Thầy đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu để tác giả hoàn thiện luận văn này. Ngoài ra tôi xin cảm ơn tập thể các thầy cô giáo Khoa sau Đại học, Khoa Luật – Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội đã đóng góp những ý kiến quý báu cho luận văn. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn những người thân, bạn bè đã luôn ở bên và động viên trong suốt thời gian qua để tác giả hoàn thành bài luận văn này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm tài liệu, nghiên cứu và tìm hiểu thực tế nhưng do thời gian hạn chế nên Luận văn không thể tránh khỏi những sai sót. Tác giả rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của Quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp. Trân trọng cảm ơn! Tác giả luận văn Đ o N ọc Sơn
- iii MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM ....................... 6 1.1 Khái quát về trách nhiệm sản phẩm ................................................................... 6 1.1.1 Khái niệm sản phẩm........................................................................................... 6 1.1.2. Khái niệm khuyết tật sản phẩm ....................................................................... 7 1.1.3 Khái niệm trách nhiệm sản phẩm ................................................................... 10 1.2. Pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới về trách nhiệm sản phẩm ..... 15 1.2.1. Lịch sử hình thành pháp luật trách nhiệm sản phẩm trong hệ thống luật Anh - Mỹ (Common Law) ................................................................................................. 15 1.2.2 Lịch sử hình thành pháp luật trách nhiệm sản phẩm trong hệ thống luật Châu Âu lục địa (Civil law) ............................................................................................... 21 1.2.3 Quy định về trách nhiệm sản phẩm của một số nước ASEAN .................. 27 CHƢƠNG II THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM Ở VIỆT NAM VÀ TÌNH HÌNH THỰC THI TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP .............................................................................. 37 2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay ......... 37 2.1.1 Các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm sản phẩm .............. 39 2.1.2 Các cơ chế hiện hành giải quyết tranh chấp liên quan đến trách nhiệm sản phẩm ............................................................................................................................... 45 2.2. Tình hình thực thi pháp luật trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ............................................................................................................. 52 2.2.1 Đánh giá mức độ tuân thủ trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ....................................................................................................................... 52
- iv 2.2.2 Mức độ quan tâm của doanh nghiệp đến việc thực thi trách nhiệm sản phẩm ...................................................................................................................................... 54 2.2.3 Ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng liên quan đến trách nhiệm sản phẩm ...... 58 2.2.4 Thực tế giải quyết, khôi phục các quyền lợi của người tiêu dùng bị vi phạm và các vấn đề liên quan đến trách nhiệm sản phẩm.............................................. 61 2.2.5. Nhận xét chung ................................................................................................ 63 CHƢƠNG III HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ...... 66 3.1. Hoàn thiện chế định về trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam ........................... 66 3.1.1 Định hướng hoàn thiện chế định trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam hiện nay ......................................................................................................................................... 66 3.1.2 Hoàn thiện hệ thống quy định về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa ........... 69 3.1.3 Nâng cao năng lực thực thi pháp luật về trách nhiệm sản phẩm ................ 73 3.2. Giải pháp tăng cường trách nhiệm sản phẩm và khuyến nghị đối với doanh nghiệp Việt Nam ........................................................................................................ 75 3.2.1 Nâng cao đạo đức kinh doanh và ý thức thực hiện trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp ................................................................................................................. 76 3.2.2 Nâng cao ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng ........................................... 84 3.2.3 Tăng cường quản lý về chất lượng hàng hóa trên thị trường...................... 87 3.2.4 Tăng cường năng lực của Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng ....................... 88 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 94
- v DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Tên vi t tắt Ti ng Anh (n u có) Ti ng Việt ASEAN Association of South Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á East Asian Nations BLDS Bộ luật Dân sự BVQLNTD Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng BTTH Bồi thường thiệt hại CT&BVNTD Cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng DN Doanh nghiệp EU European Union Liên minh châu Âu FDA Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ FSMA Bộ tiêu chuẩn của luật hiện đại hóa an toàn vệ sinh thực phẩm GlobalG.A.P Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu MRL Giới hạn tối đa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật NTD Người tiêu dùng UCC Bộ luật thương mại thống nhất VietGAP Thực hành nông nghiệp tốt tại Việt Nam TNSP Trách nhiệm sản phẩm TPP Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
- vi TQC Quản lý chất lượng toàn diện TQM Quản lý chất lượng đồng bộ VINASTAS Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam XK Xuất khẩu
- vii DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên bảng, biểu đồ Trang Bảng 2.2 Danh mục các sản phẩm bị thu hồi năm 2017 tại Việt Nam 55 Biểu đồ 2.2 Các vụ việc yêu cầu tư vấn phân chia theo hành vi 59
- 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tín cấp t t của đề t Năm 2010, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thông qua, thay thế Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 được coi là bước tiến mạnh mẽ nhằm giải quyết tranh chấp tiêu dùng. Trong quá trình xây dựng Luật, nhiều nội dung được đưa ra nghiên cứu và phân tích một cách kỹ lưỡng, trong đó, một trong những nội dung trọng tâm được đề cập đến là vấn đề trách nhiệm sản phẩm. Trách nhiệm sản phẩm là một chế định pháp luật quan trọng ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển hiện nay. Quá trình phát triển chế định pháp luật này gắn liền với nhu cầu bảo vệ người tiêu dùng trước những nhà sản xuất về sự an toàn của hàng hoá của họ khi lưu thông trên thị trường. Sự phát triển của chế định này là một bước tiến của pháp luật ở nhiều nước trong việc kiểm soát các nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm vì lợi ích của cộng đồng. Bản chất của chế định này là các nhà sản xuất và những tổ chức, cá nhân tham gia vào việc tiêu thụ sản phẩm phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra cho người sử dụng sản phẩm nếu như việc sử dụng chúng không an toàn hoặc tiềm ẩn những nguy hại nhưng không được cảnh báo trước. Chế định trách nhiệm sản phẩm được áp dụng đầu tiên ở Hoa Kỳ sau đó được tiếp nhận bởi các quốc gia châu Âu, châu Á. Tuy nhiên do điều kiện và hoàn cảnh của từng nước, có nhiều quan niệm khác nhau về phạm vi trách nhiệm, về căn cứ xác định trách nhiệm sản phẩm. Những tranh luận về vấn đề trách nhiệm sản phẩm chính là sự thể hiện một cách rõ rệt nhất mối quan hệ giữa lợi ích của doanh nghiệp, yêu cầu phát triển kinh tế với lợi ích của người tiêu dùng. Là một chế định pháp luật tương đối mới trong pháp luật Việt Nam, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về chế định này là rất cần thiết. Chính vì vậy, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Những vấn đề pháp lý về trách nhiệm sản phẩm: thực tiễn và khuyến nghị đối với doanh nghiệp Việt Nam” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Với việc lựa chọn đề tài này, tác giả hy vọng sẽ có giá trị đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường chế độ trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay.
- 2 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay, trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, trên cơ sở quy định của Hiến pháp, hệ thống pháp luật Việt Nam không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo hướng bảo vệ quyền của người tiêu dùng cũng như giúp các doanh nghiệp giảm thiểu khả năng bị thiệt hại trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước cũng thông qua nhiều chương trình, mục tiêu quốc gia nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách của cả nước. Trong thời gian qua, đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề trách nhiệm sản phẩm được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như: - Báo cáo tổng kết đề tài “Trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp – công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng”, chủ nhiệm đề tài Lê Hồng Hạnh. - Luận văn cử nhân luật học “Trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật cộng đồng Châu Âu và pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Thị Tường Vi. - Luận văn tiến sỹ luật học “Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa” của tác giả Chu Đức Nhuận. - “Các nguyên lý cơ bản của chế định trách nhiệm sản phẩm tại Hoa Kỳ và một số quốc gia trên thế giới” của GS.TS Lê Hồng Hạnh, Trương Hồng Quang. - “Bàn về Luật trách nhiệm sản phẩm trong kinh doanh quốc tế” của PGS. TS Tăng Văn Nghĩa. - “Một số vấn đề về Luật Trách nhiệm sản phẩm cộng đồng châu Âu”. - Bài viêt “The future of products liability in America (Tương lai của pháp Luật trách nhiệm sản phẩm ở Hoa Kỳ)” của ba luật sư của Hoa Kỳ là Gary Wilson, Vincent Moccio và Daniel O. Fallon đăng trên tạp chí William Mitchell Law Review (năm 2000) đã bàn về chế độ trách nhiệm sản phẩm ở Hoa Kỳ hiện tại, những tồn tại, bât cập và đề xuất một số hướng cải cách, đổi mới. - Bài viết “The Japanese Product Liability Law (Pháp luật trách nhiệm sản phẩm của Nhật Bản)” của Jason F. Cohen (Nghiên cứu sinh Ðại học Fordham – Hoa Kỳ) đăng trên tạp chí “Fordham International Law Journal, November 1997” đã làm rõ cơ sở chính sách và những đặc điểm cơ bản của chế độ trách nhiệm sản phẩm ở Nhật Bản. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, vẫn còn nhiều vấn đề về trách nhiệm sản
- 3 phẩm cần khuyến nghị cho doanh nghiệp chưa được nghiên cứu rõ. Xuất phát từ những thực tế đó, việc nghiên cứu sâu hơn bản chất, đặc điểm của chế định trách nhiệm sản phẩm trong tình hình hiện nay, đánh giá tác động kinh tế - xã hội có thể xảy ra khi áp dụng chế định trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp từ đó có các đề xuất hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay là hết sức cần thiết. 3. Mục đíc v n ệm vụ nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về trách nhiệm sản phẩm; nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm sản phẩm và thực trạng giải quyết trách nhiệm sản phẩm. Qua đó, Luận văn tìm ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về trách nhiệm sản phẩm, đồng thời đưa ra những giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức, thúc đẩy nên kinh tế hàng hóa phát triển lành mạnh, ổn định. Từ mục đích trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm sản phẩm và quy định pháp luật về trách nhiệm sản phẩm; - Phân tích và làm rõ những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến trách nhiệm sản phẩm, và phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay; - Đề xuất các giải pháp góp phần tăng cường chế độ trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp tại Việt Nam. 4. Đố tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề trách nhiệm sản phẩm, quy định của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm và việc áp dụng pháp luật trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp trong thực tiễn. 5. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, Luận văn tập trung vào việc làm rõ các vấn đề lý luận chung về trách nhiệm sản phẩm của các nước trên thế giới, pháp luật và thực tiễn chế độ trách
- 4 nhiệm sản phẩm ở Việt Nam. Về không gian, Luận văn nghiên cứu nội dung trách nhiệm sản phẩm của các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Về thời gian, Luận văn sử dụng số liệu thống kê trong giai đoạn 10 năm gần nhất và đề xuất một số định hướng đến năm 2025. 6. P ƣơn p áp n ên cứu Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài Luận văn bao gồm: phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê và tổng hợp... Phương pháp phân tích tổng hợp: được vận dụng trong nghiên cứu đề tài nhằm phân tích từng nội dung thông qua bảng số liệu tổng hợp để đưa ra những nhận định, nhận xét đánh giá các hoạt động, từ đó đưa ra các kết luận phù hợp. Phương pháp so sánh: so sánh chủ yếu trong việc phân tích kết quả đạt được với yêu cầu thực tế, so sánh pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế và so sánh phân tích trong các trường hợp cụ thể khác được thể hiện thông qua bảng biểu số liệu. Phương pháp thống kê mô tả: được áp dụng nhằm mô tả các hoạt động và các chỉ tiêu phản ánh thực trạng vấn đề trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam, thông qua đó đánh giá được mức độ của các hoạt động cần nghiên cứu, từ đó làm căn cứ để phát hiện được xu hướng và nguyên nhân các vấn đề phát sinh cần giải quyết để đạt được mục đích nghiên cứu. 7. Ý n ĩa của đề tài Thông qua việc tiến hành phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm sản phẩm và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong thực tế, Luận văn còn chỉ ra những điểm còn bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành và đưa ra một số các giải pháp cần thiết để góp phần hoàn thiện chính sách, quy định về trách nhiệm sản phẩm; qua đó nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa đối với người tiêu dùng nhưng vẫn bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể này. 8. Bố cục luận văn
- 5 Chương I: Những vấn đề chung về trách nhiệm sản phẩm và quy định của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm Chương II: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam và tình hình thực thi trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp Chương III: Hoàn thiện pháp luật hiện hành về trách nhiệm sản phẩm và khuyến nghị đối với doanh nghiệp Việt Nam
- 6 CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM 1.1 Khái quát về trách nhiệm sản phẩm 1.1.1 K á n ệm sản p ẩm Theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000:2000 thì “sản phẩm” là kết quả của một quá trình tập hợp các hoạt động có liên quan lẫn nhau hoặc tương tác (với nhau) để biến đổi đầu vào (input) và đầu ra (output) . Dưới giác độ Marketing thì sản phẩm là thứ có khả năng thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ và có thể đưa ra chào bán trên thị trường với khả năng thu hút sự chú ý mua sắm và tiêu dùng. Sản phẩm không nhất thiết phải được tạo ra bởi con người, nhưng nó cần phải có lợi ích nào đó với con người. Xét về khía cạnh đó, sản phẩm có thể tồn tại dưới dạng hữu hình (sản phẩm vật chất), hoặc vô hình (dịch vụ). Sản phẩm hữu hình là những sản phẩm tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể, có những đặc tính vật lý, hóa học, sinh học. Có thể cảm nhận các sản phẩm hữu hình dưới các góc độ như nhìn thấy, sờ, cân, đo, đong, đếm và kiểm tra chất lượng bằng phương tiện hóa, lý. Sản phẩm vô hình hay còn gọi là dịch vụ, là kết quả của các quá trình lao động, hoạt động kinh tế hữu ích. Cũng giống như sản phẩm hữu hình, dịch vụ được tạo ra là để đáp ứng nhu cầu của con người, tuy nhiên do không tồn tại dưới hình thái vật chất cụ thể nên dịch vụ chỉ có thể được cảm nhận khi con người sử dụng nó mà thôi. Trong thực tế thì có sản phẩm thiên về sản phẩm hữu hình, có sản phẩm thiên về dịch vụ và rất nhiều sản phẩm là sự kết hợp của cả hai loại trên. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, sản phẩm là kết quả của các hoạt động, các quá trình bao gồm phần mềm, phần cứng và vật liệu để chế biến hoặc đã được chế biến. Khoản 1, Điều 3 Nghị định 179/2004/NĐ-CP ngày 21-10-2004 của Chính phủ về quy định quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, theo đó
- 7 Sản phẩm là kết quả của các hoạt động, các quá trình, bao gồm dịch vụ, phần mềm, phần cứng và vật liệu để chế biến hoặc đã được chế biến. Hàng hoá là sản phẩm được đưa vào tiêu dùng thông qua trao đổi, buôn bán. Theo Chỉ thị 34/1999 về trách nhiệm sản phẩm của Liên minh châu Âu EU thì sản phẩm là mọi động sản kể cả động sản sáp nhập trong động sản hoặc bất động sản khác, sản phẩm bao gồm cả điện1. Trong khi đó, Luật Bồi thường thiệt hại bản sửa đổi lần thứ 3 (Restatements 3rd Torts”) năm 1997 của Hoa Kỳ định nghĩa sản phẩm là những tài sản cá nhân hữu hình, bao gồm cả nguyên liệu chưa qua chế biến. Như vậy, quy định của pháp luật Hoa Kỳ không quan tâm tới quá trình tạo ra sản phẩm mà chỉ xem xét sản phẩm trên khía cạnh hình thái vật chất và chủ thể sở hữu sản phẩm. Dưới giác độ của trách nhiệm sản phẩm thì sản phẩm bao gồm những động sản được sản xuất hoặc chế biến2, nó không phụ thuộc vào việc sản xuất theo dây chuyền công nghiệp với quy mô lớn hay sản xuất thủ công những sản phẩm riêng lẻ, Tăng Văn Nghĩa (2008, tr. 41-49). Cách hiểu này tương đồng với quy định của pháp luật ở nhiều nước về sản phẩm đồng thời mang tính chất đặc thù của pháp luật trách nhiệm sản phẩm. Bên cạnh đó, như đã phân tích, trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của một số quốc gia còn mở rộng khái niệm sản phẩm đối với các dịch vụ. 1.1.2. K á n ệm uy t tật sản p ẩm Về cơ bản, sản phẩm có khuyết tật là sản phẩm không đáp ứng được mục đích sử dụng của người mua hoặc người sử dụng có liên quan. Từ điển Thuật ngữ pháp luật Pháp – Việt định nghĩa sản phẩm có khuyết tật là động sản không bảo đảm sự an toàn mà người ta có thể trông đợi một cách chính đáng. Nếu khiếm khuyết của sản phẩm gây thiệt hại đến người hoặc tài sản khác thì người sản xuất, người phân phối, người bán hoặc người cho thuê sản phẩm đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, Nhà Pháp luật Việt – Pháp (2005,tr.709). Định nghĩa của Luật BVQLNTD về hàng hóa có khuyết tật như sau: 1 Nguyên văn trích Luật trách nhiệm sản phẩm Nhật Bản số 85/1994: “the term “product” means movable property manufactured or processed”. 2 Theo Điều 2 điểm 2 Luật Trách nhiệm sản phẩm của Cộng hòa Liên bang Đức (Produkthaftungsgetz sửa đổi 2002).
- 8 Hàng hóa có khuyết tật là hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả trường hợp hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện hành nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hóa được cung cấp cho người tiêu dùng, bao gồm: a) Hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật; b) Hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ; c) Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho người tiêu dùng. Tại Việt Nam và trên thế giới, khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển và lưu trữ là loại khuyết tật dễ xảy ra. Các dạng khuyết tật này có thể diễn ra đối với mọi loại hàng hóa, từ hàng tiêu dùng cho đến những hàng hóa xa xỉ phẩm như ô tô, điện thoại, xe máy... Nhiều khuyết tật ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng như các lỗi kỹ thuật liên quan đến phanh, dầu động cơ của xe máy, ô tô,.. Một số khuyết tật có thể không trực tiếp ảnh hưởng tới tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng nhưng có thể gây ra những tâm lý lo ngại cho người tiêu dùng, ví dụ như nước trà xanh hương chanh C2 và nước tăng lực Rồng Đỏ hương dâu có hàm lượng chì cao quá mức công bố trong thời gian vừa qua. Như vậy, quan điểm của pháp luật Việt Nam về hàng hóa có khuyết tật đã thể hiện nội dung cơ bản là hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng vì những lỗi như sau: Thứ nhất, khuyết tật do thiết kế (design defects): xảy ra khi sản phẩm được sản xuất theo đúng thiết kế, nhưng bản thân sản phẩm có những dấu hiệu có thể gây ra nguy hiểm bất hợp lý cho người sử dụng theo cách thức thông thường. Những khuyết tật này là do trong quá trình thiết kế, nhà thiết kế, nhà sản xuất đã không lường trước được những nguy hiểm trong quá trình thiết kế hoặc không đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện an toàn thông thường cho một thiết kế của sản phẩm.
- 9 Thứ hai, khuyết tật do sản xuất (manufacturing defects): Khuyết tật trong giai đoạn sản xuất sản phẩm xuất hiện khi mà thành phẩm không tuân theo thiết kế dự kiến hoặc quy cách phẩm chất của nhà sản xuất đề ra. Sự khác nhau cơ bản giữa khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do thiết kế là khuyết tật trong giai đoạn sản xuất sản phẩm xuất hiện khi thành phẩm không tuân theo dự kiến hoặc quy cách chất lượng mà nhà sản xuất đề ra. Ví dụ, khi sản xuất đã sử dụng vật liệu không đúng tiêu chuẩn. Trong khi đó, khuyết tật do thiết kế xảy ra khi sản phẩm được sản xuất theo đúng thiết kế, nhưng tự thân sản phẩm có những dấu hiệu có thể gây ra nguy hiểm bất hợp lý cho người sử dụng theo cách thức thông thường. Ví dụ, các tác dụng phụ của vắc – xin, các loại vải dễ gây cháy, thiết bị điện tử gây cháy nổ... Thứ ba, khuyết tật do không cảnh báo sự nguy hiểm, không cảnh báo sự an toàn (warrant defects): khuyết tật này thường xuất hiện trong giai đoạn chào bán, đưa sản phẩm vào quá trình tiêu dùng. Theo đó người phân phối đã không cảnh báo đầy đủ cho người tiêu dùng về những nguy hiểm có thể xảy ra khi sử dụng sản phẩm. Loại khuyết tật này xảy ra phổ biến ở các loại dược phẩm, mỹ phẩm khi nhà sản xuất, nhà phân phối, người bán lẻ không chỉ dẫn cách sử dụng hoặc những tác động phụ của các loại sản phẩm trên. Hiện nay, trên thị trường, chúng ta có thể thấy rất nhiều cảnh báo và hướng dẫn ghi trên nhãn mác bao bì sản phẩm như: “Không sử dụng đối với phụ nữ đang mang thai và cho con bú”; “Để xa tầm tay trẻ em” hay “Hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi”... Do đó, nếu một sản phẩm có ẩn chứa những nguy cơ gây nguy hiểm mà được cảnh báo một cách thích hợp cho người sử dụng theo cách thức thông thường thì nhà sản xuất không phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do nguồn nguy hiểm đó gây ra cho người tiêu dùng, Tăng Văn Nghĩa (2008). Như vậy, khuyết tật của sản phẩm phải chứa đựng sự thiếu an toàn một cách bất hợp lý khi sử dụng và gây nguy hiểm quá mức với người tiêu dùng. Nên các sản phẩm như: thuốc gây tác dụng phụ, màn hình máy tính gây nhức mắt cho người xem sẽ không được coi là sản phẩm khuyết tật khi đó là những khuyết tật hợp lý trong điều kiện khoa học công nghệ hiện tại. Từ đó có thể thấy, một sản phẩm chứa đựng sự nguy hiểm là bản chất của sản phẩm, nó luôn tồn tại hợp lý trong cấu tạo sản phẩm, trong quá trình sử dụng sẽ không được coi là sản phẩm khuyết tật. Ví dụ,
- 10 các sản phẩm sử dụng nguồn phóng xạ là sản phẩm chứa đựng nguy hiểm, tuy nhiên, bản thân sản phẩm này lại dược sử dụng để mang lại tính hữu ích cho con người, tính không an toàn, gây nên nguy hiểm của các sản phẩm này là do không được sử dịn đúng quy cách, quy trình, không đúng chức năng, mục đích. 1.1.3 K á n ệm trác n ệm sản p ẩm 1.1.3.1 Khái niệm trách nhiệm sản phẩm Trách nhiệm hiểu theo cách thông thường là phần việc được giao hoặc coi như được giao, phải bảo đảm hoàn thành, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu hậu quả. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm trách nhiệm pháp lý hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau. Thứ nhất, là những việc mà chủ thể nhất định phải thực hiện; thứ hai, là những hậu quả mà chủ thể thực hiện những hành vi nhất định phải gánh chịu. Theo pháp luật hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD được đề cập dưới góc độ pháp lý tích cực (trách nhiệm mà mỗi cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa phải bảo đảm cho NTD và xã hội) và trách nhệm pháp lý tiêu cực (hậu quả bất lợi mà mỗi cá nhân, tổ chức phải gánh chịu khi vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa). Ở góc độ khái quát, trách nhiệm sản phẩm (product liability) được giải thích là trách nhiệm của người sản xuất hoặc người bán hàng trong việc bồi thường cho các thiệt hại gây ra bởi khuyết tật của hàng hóa mà họ đã cung cấp cho người tiêu dùng trong quá trình kinh doanh. Trách nhiệm sản phẩm là một chế định pháp luật quan trọng ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển hiện nay. Quá trình phát triển chế định pháp luật này gắn liền với nhu cầu bảo vệ người tiêu dùng trước những nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá sản phẩm. Sự phát triển của chế định này là một bước tiến của pháp luật ở nhiều nước trong việc kiểm soát các nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm vì lợi ích của cộng đồng. Bản chất của chế định này là các nhà sản xuất và những tổ chức, cá nhân tham gia vào việc tiêu thụ sản phẩm phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra cho người sử dụng sản phẩm nếu như việc sử dụng chúng tiềm ẩn những nguy hại nhưng không được cảnh báo trước. Hiện nay, trên thế giới, pháp luật trách nhiệm sản phẩm được xây dựng dựa trên ba nguyên lý cơ bản về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm, sự bất cẩn và trách
- 11 nhiệm nghiêm ngặt. Có thể nhận thấy, đây cũng chính là ba cơ sở khởi kiện của người bị thiệt hại trong các vụ án liên quan đến trách nhiệm. Trong thực tiễn, người tiêu dùng ít sử dụng nghĩa vụ đảm bảo để làm cơ sở khởi kiện vì để áp dụng ta cần phải chứng minh bản chất mối quan hệ giữa người bán, người cung cấp hàng hóa và người mua. Việc này thực sự vô cùng phức tạp. Nếu như sản phẩm mua về có lỗi và gây ra thương tích, người tiêu dùng phải chứng minh rằng hành vi của nhà sản xuất khi thiết kế ra sản phẩm là không đủ tiêu chuẩn hoặc không hợp lí. Đương nhiên, thông tin về việc nhà sản xuất thiết kế sản phẩm như thế nào thì người tiêu dùng không thể nắm rõ được. Trách nhiệm sản phẩm được hiểu là người sản xuất phải chịu trách nhiệm nếu như sản phẩm có khuyết tật và việc sử dụng sản phẩm này trong điều kiện bình thường gây ra những thiệt hại cho người sử dụng. Để khởi kiện theo cơ sở này, người khởi kiện không cần chứng minh có hay không có sự cẩu thả của nhà sản xuất, có hay không có nghĩa vụ đảm bảo. Người khởi kiện chỉ cần chứng minh rằng sản phẩm kém chất lượng và nguy hiểm một cách phi lý và thực tế đã gây thiệt hại. Qua đó có thể thấy rằng, trách nhiệm sản phẩm có những đặc điểm sau: Thứ nhất, trách nhiệm sản phẩm là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, tức là một loại trách nhiệm dân sự đòi hỏi người có trách nhiệm phải bù đắp bằng một cách thức phù hợp đối với thiệt hại mà người khác phải gánh chịu, dựa trên những cơ sở nhất định làm phát sinh trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thứ hai, chủ thể của trách nhiệm là người sản xuất hoặc người bán hàng, tức là phải có một chủ thể nhất định tham gia vào quy trình đưa một sản phẩm hàng hóa đến tay người tiêu dùng. Chủ thể đó có thể có mối liên hệ trực tiếp với người tiêu dùng hoặc không. Căn cứ để xác định một chủ thể phải chịu trách nhiệm phụ thuộc vào việc người đó trực tiếp có mối liên hệ đối với sản phẩm mà người tiêu dùng đã sử dụng thông qua các hình thức: (1) là người sản xuất ra sản phẩm: người sản xuất ra sản phẩm bao gồm cả người sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh hoặc người sản xuất một công đoạn, một bộ phận của sản phẩm đó; (2) là người thực hiện vai trò phân phối trung gian đối với sản phẩm hoặc (3) là người cung cấp sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
- 12 Thứ ba, cơ sở để xác định trách nhiệm phát sinh trên thực tế là việc sản phẩm có khuyết tật và khuyết tật đó gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng. Có thể nói một cách khác là một sản phẩm được coi là có khuyết tật khi sản phẩm đó không bảo đảm an toàn cho người sử dụng. Yêu cầu về tính an toàn đối với sản phẩm không phải là không có giới hạn và thường được xác định ở mức độ mà người tiêu dùng có thể trông đợi một cách hợp lý; sản phẩm không có khả năng gây ra thiệt hại khi được tiêu dùng bởi một người tiêu dùng có nhận thức thông thường, trong điều kiện thông thường. Nếu khả năng nhận biết về tính không an toàn vượt quá mức độ mà sự phát triển khoa học, kỹ thuật tại thời điểm đó cho phép nhận biết thì sự không an toàn vượt quá khả năng nhận biết đó không bị coi là khuyết tật. Thứ tư, trách nhiệm sản phẩm là một dạng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việc xác định trách nhiệm đối với sản phẩm không có bất kỳ đòi hỏi nào về việc giữa người bị thiệt hại và nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm phải tồn tại một quan hệ hợp đồng. 1.1.3.2 Phân biệt trách nhiệm sản phẩm và chất lượng sản phẩm Về bản chất, trách nhiệm sản phẩm chính là sự ràng buộc về mặt pháp luật trách nhiệm của các nhà sản xuất, phân phối cũng như người bán lẻ đối với người tiêu dùng khi cung ứng sản phẩm trên thị trường. Trách nhiệm đó thể hiện ở việc khi một sản phẩm được nhà cung cấp đưa ra thị trường, sản phẩm đó đương nhiên phải được coi là an toàn, không phụ thuộc vào việc người sản xuất hay cung ứng có công bố sản phẩm đó có an toàn hay không. Với sự ràng buộc trách nhiệm này, để tránh những hậu quả pháp lý xảy ra khi có sản phẩm khuyết tật gây thiệt hại cho người tiêu dùng, nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm khi đưa sản phẩm ra thị trường sẽ phải nỗ lực để loại trừ khuyết tật của sản phẩm, từ đó đem lại cho người tiêu dùng những sản phẩm bảo đảm an toàn. Khi an toàn không được bảo đảm và người tiêu dùng phải gánh chịu thiệt hại thì họ sẽ được bồi thường, do vậy lợi ích của người tiêu dùng sẽ được bảo đảm ở mức độ cao nhất. Người tiêu dùng đương nhiên được bảo vệ và không đòi hỏi phải có bất kỳ việc đàm phán thuyết phục nào và không một nhà sản xuất hay cung ứng nào có thể sử dụng ưu thế của mình trong quan hệ với người tiêu dùng để loại trừ trách nhiệm này.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 271 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 108 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 121 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 77 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 89 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 181 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn