Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật Tố tụng dân sự từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân tại tỉnh Thái Nguyên
lượt xem 15
download
Bố cục của luận văn gồm phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba chương: Chương 1 - Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự; Chương 2 - Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam; Chương 3 - Thực tiễn, phương hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao khả năng thực hiện các quy định pháp luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật Tố tụng dân sự từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân tại tỉnh Thái Nguyên
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO NGỌC HÀI QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA AN NHÂN DÂN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội - 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO NGỌC HÀI QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN Ngành:Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. DƯƠNG QUỲNH HOA Hà Nội - 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực. Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào. TÁC GIẢ LUẬN VĂN
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ................... 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và thành phần của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự ............................................................................ 6 1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự .............................................................................................. 16 1.3. Ý nghĩa của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự................................................................................. 20 1.4. Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự ... 21 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ........................................................................ 26 2.1. Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự .......................................................................................... 26 2.2. Về kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự....................... 58 2.3. Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trong xét sử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tình Thái Nguyên ............................................................................................. 59 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN ......... 69 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong Tố tụng dân sự Việt Nam .............................................. 69
- 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của đương sự trong Tố tụng dân sự Việt Nam và nâng cao khả năng thực hiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên ......................................................... 71 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BPKCTT : Biện pháp khẩn cấp tạm thời CNXH : Chủ nghĩa xã hội HĐTP : Hội đồng thẩm phán HĐXX : Hội đồng xét xử QHPL : Quan hệ pháp luật TA: Tòa án TAND : Toà án nhân dân TTDS : Tố tụng dân sự VADS : Vụ án dân sự VDS : Việc dân sự VVDS: Vụ việc dân sự VKS : Viện kiểm sát
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đương sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đương sự là một chủ thể đặc biệt quan trong trong TTDS và có mối quan hệ chặt chẽ với TA, là trung tâm của hoạt động tố tụng. Có thể khẳng định rằng không có đương sự thì không có vụ án, việc dân sự. Việc ghi nhận cũng như thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình tố tụng sẽ giúp xác định những mối quan hệ cơ bản trong quá trình tố tụng, địa vị pháp lý của từng đương sự, đảm bảo cho việc giải quyết VVDS được tiến hành đúng theo trình tự và giải quyết đúng đắn vụ việc. Mục đích của việc thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự là để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Các quyền, lợi ích hợp pháp đương sự được bảo vệ trong tố tụng dân sự là các quyền, lợi ích đã được Nhà nước thừa nhận. Để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, trong thời gian qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về tố tụng dân sự như: Bộ luật TTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại TA cấp sơ thẩm” của Bộ luật TTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTDS… Kế thừa, phát triển và pháp điển hóa những quy định của văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước đây, Bộ luật TTDS năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015. Bộ luật TTDS năm 2015 quy định về đương sự và các quyền, nghĩa vụ của đương sự tại Mục 1 Chương VI (từ điều 68 đến Điều 74). Các quy định trong Bộ luật này đã khắc phục hầu hết những hạn chế, bất cập của các quy định về đương sự trong VVDS và các văn bản pháp luật trước đó. Tuy nhiên, một số các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong Bộ luật TTDS năm 2015 vẫn còn chưa đầy đủ, thiếu cụ thể... cần được nghiên cứu nhằm góp phần hoàn thiện, tạo điều kiện cho việc giải quyết các VVDS của TA được nhanh chóng và chính xác. Tỉnh Thái nguyên là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng, của trung du miền núi đông bắc nói chung, là cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong thời gian qua, số lượng vụ, việc dân sự mà các TA trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thụ lý và giải quyết tương cao và không ngừng tăng lên qua các năm. Trong giai đoạn 2016 – 2018 tổng số VVDS mà TA thụ lý là 1
- 12065 vụ, trong đó TA đã giải quyết được 10620 vụ, chiếm 88,02% [xem Phụ lục 1]. Quá trình giải quyết các VVDS, về cơ bản TA đã đảm bảo cho mọi công dân thực hiện đầy đủ các quyền mà pháp luật quy định, như đảm bảo sự có mặt tại phiên tòa, quyền cung cấp chứng cứ, quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền tranh luận tại phiên tòa... Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các VVDS của TAND tỉnh Thái Nguyên vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót như: Tóa án xác định không đúng thành phần đương sự dẫn đến ảnh hưởng tới việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự; vẫn còn tình trạng TA không thụ lý và trả lại đơn khởi kiện không đúng, xâm phạm tới quyền khởi kiện vụ án, quyền yêu cầu giải quyết VDS của đương sự… Kết quả giải quyết các VVDS của TA vẫn còn nhiều trường hợp bản án, quyết định của TA cấp dưới bị cấp trên sửa án, hủy án do vi phạm tố tụng. Các VVDS phải giải quyết lại nhiều lần làm lãng phí về thời gian, tiền bạc, gây khó khăn cho đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Do đó, để góp phần làm rõ các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về quyền và nghĩa vụ của đương sự, tìm ra những điểm còn hạn chế, thiếu sót nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện và đồng thời đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS tại TAND tỉnh Thái Nguyên, tác giả lựa chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật Tố tụng dân sự từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của TA nhân dân tại tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Những năm gần đây, khoa học về luật TTDS đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Liên quan tới đề tài luận văn thạc sĩ “Quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật TTDS từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của TA nhân dân tỉnh Thái Nguyên” có một số công trình tiêu biểu mà tác giả luận văn tiếp cận được như sau: - Về sách: + Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam. + Tưởng Duy Lượng (2009), Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội. + TS.Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học một số vấn đề pháp luật TTDS và thực tiễn áp dụng, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam. - Về bài báo khoa học: Trần Anh Tuấn (2008), Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng, bài báo khoa học, Tạp chí TA nhân dân số 23 (tháng 12 năm 2008); Nguyễn Việt Cường (2005), Người tham gia TTDS, bài báo khoa học, Tạp chí TA nhân dân số 8 (tháng 4 2
- năm 2005); Nguyễn Thái Phúc (2005), Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong Bộ luật TTDS 2004, bài báo khoa học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10 năm 2005; Từ Văn Thiết (2006), Người mù không có người đại diện có quyền khởi kiện dân sự?, bài báo khoa học, Tạp chí TA nhân dân số 18 (tháng 9 năm 2006); Tưởng Duy Lượng (2007), Những khó khăn và vướng mắc trong việc xác định người tham gia TTDS và kiến nghị, bài báo khoa học, Tạp chí Kiểm sát số 13 (tháng 7 năm 2007); Nguyễn Thị Hạnh (2011), Một số vấn đề về người đại diện theo pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự, bài báo khoa học, Tạp chí TA nhân dân số số 3 (tháng 2 năm 2011). - Về luận văn thạc sĩ: + Nguyễn Phương Hạnh (2004), Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của bộ luật TTDS việt nam năm 2004, luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. + Đinh Quốc Trí (2012), Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS, luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. + Hoàn Thị Tuyết (2015), Đương sự theo pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành, luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Các công trình nghiên cứu trên đề cập tới các vấn đề về đương sự và một số khía cạnh về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS. Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu, mỗi bài viết lại nhìn nhận ở một góc độ khác nhau, mang tính riêng lẻ trong vấn đề nghiên cứu về đương sự trong tố tụng dân sự. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS nói chung, trong thực tiễn xét xử sơ thẩm và của TA nhân dân tỉnh Thái Nguyên nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn là nhằm đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS tại TAND tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa và thống nhất nhận thức những vấn đề lý luận về về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS Việt Nam như làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của đương sự trong TTDS; pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS 3
- - Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật TTDS hiện hành về quyền và nghĩa vụ của đương sự. - Đánh giá thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự qua thực tiễn xét xử sơ thẩm của TAND tỉnh Thái Nguyên, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót. - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS Việt Nam hiện nay 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về quyền và nghĩa vụ của đương sự và thực tiễn đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong xét xử sơ thẩm tại tỉnh Thái Nguyên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật TTDS hiện hành. - Thực tiễn đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong xét xử sơ thẩm của TAND tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2016 - 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứudựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp; cơ sở lý luận của khoa học luật Tố tụng dân sự Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: - Phương pháp phân tích tài liệu: + Sử dụng để nghiên cứu, đánh giá các công trình, tài liệu nhằm thống nhất nhận thức những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS Việt Nam. + Sử dụng để nghiên cứu, đánh giá, xử lý hệ thống các văn bản pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS. - Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và so sánh số liệu thống kê: Sử dụng để điều tra, khảo sát thực tế; thống kê, nghiên cứu, đánh giá và xử lý các số liệu phản ánh về việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong xét xử sơ thẩm các VVDS của TAND tỉnh Thái Nguyên. 4
- - Phương pháp tổng kết thực tiễn: Sử dụng để khảo sát và nghiên cứu, đánh giá những kết quả, tài liệu thu thập từ thực tiễn đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong xét xử sơ thẩm các VVDS của TAND tỉnh Thái Nguyên. - Phương pháp điều tra điển hình: Sử dụng để thu thập thông tin và đánh giá một số VVDS cụ thể, điển hình, đánh giá kết quả đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong xét xử sơ thẩm các VVDS của TAND tỉnh Thái Nguyên. - Phương pháp chuyên gia: Sử dụng để tham khảo ý kiến của các cán bộ thực tiễn, các chuyên gia nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Ý nghĩa lý luận: góp phần làm rõ cơ sở lý luận và các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về Quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật Tố tụng dân sự Ý nghĩa thực tiễn: Là tài liệu có giá trị tham khảo đối với các bạn học viên nghiên cứu về vấn đề này, đồng thời cũng là tài liệu có giá trị tham khảo đối với các cơ quan lập pháp, thi hành pháp luật. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự Chương 2. Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam Chương 3. Thực tiễn, phương hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao khả năng thực hiện các quy định pháp luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và thành phần của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm đương sự trong tố tụng dân sự Theo Từ điển tiếng Việt thì: “Đương sự là người, là đối tượng trong một vụ việc nào đó được đưa ra giải quyết ” [93, tr.346]. Như vậy, theo nghĩa này đương sự là con người cụ thể, là đối tượng của bất kỳ một vụ việc nào đó được cơ quan có thẩm quyền đưa ra giải quyết căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật. Và có thể thấy chủ thể là cá nhân, là con người cụ thể đóng vai trò quan trọng để hình thành khái niệm đương sự. Tuy nhiên, định nghĩa trên chưa thể hiện rõ nhóm chủ thể trong thực tế có thể được công nhận có tư cách đương sự, đó là pháp nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác. Cũng tương tự như Từ điển tiếng Việt, Từ điển Luật học đã đưa ra khái niệm về đương sự như sau: “Đương sự là người có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong một việc khiếu nại, hoặc một vụ án. Trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động thì đương sự bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền, nghĩa vụ có liên quan” [58, tr.165]. Trong từ điển Luật học nước ngoàiBlack’s Law Dictionnary, “đương sự” được định nghĩa là “người đưa ra hoặc chống lại người đưa ra việc kiện” [94, tr.515]. Các định nghĩa này một lần nữa cho rằng đương sự là con người cụ thể, là cá nhân mà không có chủ thể là pháp nhân, tổ chức. Một quan điểm khác cho rằng: Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến VVDS. Từ các quan điểm trên thấy rằng, mặc dù chưa xác định rõ nhóm chủ thể trong thực tế có thể được công nhận có tư cách đương sự trong TTDS nhưng về cơ bản đều xác định đương sự trong TTDS phải là những “người” tham gia vào quá trình giải quyết vụ án, việc dân sự vì có quyền, nghĩa vụ được giải quyết. Theo cuốn Từ điển Luật học của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thì đương sự được giải thích như sau: “Cá nhân, pháp nhân tham gia TTDS với 6
- tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn, hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là một trong các nhóm người tham gia TTDS tại TAND trong các vụ kiện về dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động. Những người tham gia TTDS đó bao gồm đương sự, người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, VKS, người làm chứng, người phiên dịch” [86, tr.278]. Ở khái niệm này, đã làm rõ hơn một bước về thành phần đương sự trong TTDS. Theo đó, đương sự được xác định là một trong các nhóm người tham gia TTDS tại TAND trong các vụ kiện về dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động và bao gồm nguyên đơn hoặc bị đơn, hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, quan niệm này lại chỉ xác định đương sự trong phạm vi gắn với vụ kiện về dân sự, tức là đương sự trong vụ án dân sự. Cũng có quan điểm khác lại cho rằng: Đương sự chỉ bao gồm nguyên đơn, bị đơn trong vụ án dân sự, còn người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - chủ thể đặc biệt trong TTDS không phải là đương sự, không nằm trong khái niệm đương sự. Qua nghiên cứu cho thấy khái niệm đương sự phản ánh mối quan hệ giữa họ với các chủ thể khác trong TTDS. Họ vừa là chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS vừa là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung được TA xem xét, giải quyết trong VVDS. Nếu quan niệm thành phần đương sự chỉ bao gồm nguyên đơn, bị đơn trong vụ án dân sự thì một số người có quyền, lợi ích liên quan đến VVDS, được xem xét trong VVDS như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, người yêu cầu, người bị yêu cầu và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự sẽ không được coi là đương sự và không bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Do đó đương sự trong một vụ việc phải bao gồm tất cả những người có quyền, nghĩa vụ được xem xét trong vụ việc đó. Vì vậy, thành phần đương sự cần phải được hiểu rộng hơn không chỉ nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự mà còn bao gồm cả những người khác có quyền, lợi ích được TA xem xét trong việc dân sự. Các văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước Bộ luật TTDS năm 2015 không có quy định về đương sự trong việc dân sự mà chỉ quy định đương sự trong vụ án dân sự. Cụ thể tại Khoản 1 Điều 56 BLTTDS năm 2004 quy định: “Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, 7
- nghĩa vụ liên quan”. Mặc dù tại Điều 311 BLTTDS năm 2004 có quy định: “Toà án áp dụng những quy đinh của Chương này, đồng thời áp dụng những quy đinh khác của Bộ luật này không trái với những quy đinh của Chương này để giải quyết những việc dân sự quy đinh tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7 và 8 Điều 26, các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 7 Điều 28, khoản 1 và 4 Điều 30, khoản 3 Điều 32 của Bộ luật này”. Tuy nhiên, do quy định về đương sự trong việc dân sự chưa được luật hoá, vì vậy, từ thực tiễn xét xử, giải quyết đã tồn tại những quan điểm khác nhau về đương sự trong việc dân sự, gây lúng túng cho quá trình giải quyết vụ việc. Khắc phục những hạn chế, tồn tại trong các quy định pháp luật TTDS và trong thực tiễn giải quyết các VVDS, Bộ luật TTDS năm 2015 đã luật hóa toàn bộ quy định đương sự trong vụ án dân sự và đương sự trong VVDS tại Khoản 1 Điều 68. Cụ thể, Khoản 1 Điều 68 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.” Như vậy, tuy không đưa ra khái niệm như thế nào là đương sự nhưng tại Khoản 1 Điều 68 Bộ luật TTDS đã chỉ rõ những chủ thể được xác định là đương sự. Và những chủ thể này lại tiếp tục được định nghĩa rõ hơn tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 của Điều 68 Bộ luật TTDS. Từ những sự phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm đương sự trong tố tụng dân sự như sau: Đương sự trong tố tụng dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến VVDS. 1.1.2. Đặc điểm của đương sự trong tố tụng dân sự Đương sự trong TTDS là người tham gia TTDS. Do vậy, đương sự có đầy đủ các đặc điểm của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, mục đích đương sự tham gia tố tụng là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, những người tham gia tố tụng khác tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc để hỗ trợ cho hoạt động tố tụng. Vì vậy, so với những người tham gia tố tụng khác, đương sự còn có những đặc điểm khác biệt sau đây: 8
- - Đương sự là chủ thể của QHPL nội dung có quyền, lợi ích tranh chấp bị xâm phạm hoặc cần được xác định trong VVDS. Trước khi trở thành đương sự trong TTDS, các chủ thể đã tham gia vào một QHPL nội dung như quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình, quan hệ kinh doanh thương mại, quan hệ lao động, họ đều có quyền, lợi ích gắn liền với các quan hệ đó. Lợi ích của các chủ thể có thể là lợi ích vật chất phát sinh từ tài sản hoặc là các lợi ích tinh thần phát sinh từ các giá trị nhân thân như danh dự, uy tín, nhân phẩm... Khi có tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ các quan hệ nội dung, các chủ thể tham gia vì để bảo vệ quyền, lợi ích của mình đã đưa ra các yêu cầu thông qua việc khởi kiện hoặc nộp đơn yêu cầu TA giải quyết. Đương sự muốn khởi kiện hoặc yêu cầu thì trước hết họ phải chứng minh rằng họ có quyền, lợi ích cần được giải quyết trong vụ việc đó. Vì vậy, về nguyên tắc, cá nhân, tổ chức để trở thành đương sự của vụ, việc dân sự thì phải có quyền và lợi ích liên quan đến giải quyết vụ, việc dân sự. - Đương sự là chủ thể được TA chấp nhận tham gia vào quá trình giải quyết vụ, việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đương sự có thể mong muốn tham gia hoặc buộc phải tham gia vào hoạt động tố tụng do việc “khởi động” vụ việc của nguyên đơn hoặc người yêu cầu và được TA thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, các đương sự khi tham gia vào quá trình tố tụng trước hết là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì để bảo vệ lợi ích của mình đương sự đưa ra yêu cầu, nêu ra các ý kiến đồng thời cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình là hợp pháp và có căn cứ với mong muốn để TA giải quyết bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết các VVDS. Các lợi ích mà đương sự hướng tới trong quá trình giải quyết có thể là lợi ích cá nhân, cũng có thể là lợi ích của pháp nhân hoặc lợi ích của những chủ thể đặc biệt không có tư cách pháp nhân như của hộ gia đình, tổ hợp tác hay doanh nghiệp tư nhân. Đối với các cá nhân, tổ chức hay các chủ thể khác mà khởi kiện hoặc yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì người khởi kiện, người yêu cầu tham gia với tư cách là đại diện của đương sự, còn đương sự là chủ thể được bảo vệ quyền lợi. Trong một số trường hợp đặc biệt, các chủ thể là cơ quan Nhà nước, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng thì các chủ thể này có thể tham gia tố tụng và có các quyền, nghĩa vụ như của đương sự nhưng không phải là 9
- đương sự. Bởi vì, các cơ quan, tổ chức này khởi kiện nhưng không phải là chủ thể có quyền lợi bị tranh chấp hoặc vi phạm mà về nguyên tắc chỉ những chủ thể có quyền lợi mới có thể tự định đoạt về quyền lợi của mình thông qua hoà giải. - Các đương sự bình đẳng với nhau trong tố tụng, có thể tham gia tố tụng độc lập hoặc thông qua người đại diện trong TTDS. Trong quá trình giải quyết, các đương sự bình đẳng với nhau về các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Pháp luật TTDS quy định các quyền, nghĩa vụ chung của đương sự, nhưng các đương sự ở các tư cách tố tụng khác nhau có một số quyền, nghĩa vụ khác nhau. Ngoài ra, đương sự có thể tham gia độc lập trong TTDS khi họ có đủ điều kiện về năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng. Tuy nhiên, trong trường hợp đương sự là người chưa thành niên hoặc đương sự là tổ chức có tư cách pháp nhân thì người đại diện của đương sự có thể thay mặt đương sự để tham gia vào quá trình giải quyết để thực hiện những quyền và nghĩa vụ của đương sự. Đặc biệt, trong trường hợp vì lý do nào đó đương sự không trực tiếp tham gia tố tụng, họ có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng, trừ một số trường hợp pháp luật quy định không được uỷ quyền. Đây chính là đặc điểm để phân biệt giữa đương sự trong TTDS với những người tham gia tố tụng khác như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.... - Đương sự là chủ thể có quyền tự định đoạt, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình là cơ sở để phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quá trình giải quyết các VVDS. Đương sự là chủ thể có vai trò quan trọng đối với quá trình giải quyết các VVDS. Khác với các chủ thể tố tụng khác chỉ đương sự mới có quyền tự định đoạt trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về dân sự và tố tụng. Các chủ thể tố tụng khác có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng có thể làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hoạt động tố tụng. TA giải quyết thực chất là TA giải quyết các yêu cầu của đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Vì vậy, chỉ khi các chủ thể này có đưa ra yêu cầu thì TA mới giải quyết nhưng khi các chủ thể đó thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu hay đưa ra ý kiến của mình thì hoạt động tố tụng có thể bị thay đổi hoặc chấm dứt. Như vậy, trong phát sinh tại TA do cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nộp đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của 10
- người khác hoặc để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước đang bị tranh chấp hoặc có liên quan đến sự kiện pháp lý mà TA có thẩm quyền xác định. Trong các VVDS, có những chủ thể tham gia có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết các VVDS và tham gia vào quá trình giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, đó chính là đương sự trong TTDS. 1.1.3. Vai trò của đương sự trong tố tụng dân sự Bộ luật TTDS Việt Nam điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc giải quyết VVDS. Các quan hệ pháp luật này rất phong phú và đa dạng, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau, giữa cơ quan tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng và người liên quan, giữa đương sự với nhau và với người liên quan. Sự phong phú và đa dạng của các quan hệ xã hội mà Bộ luật TTDS điều chỉnh đã dẫn đến tính đa dạng về mặt chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS. Các chủ thể này tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS với những vai trò và mục đích khác nhau, tuy nhiên hành vi của họ lại liên quan mật thiết với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất và được các quy phạm pháp luật TTDS điều chỉnh. Các chủ thể này là các chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS. Các quan hệ pháp luật TTDS phát sinh và tồn tại trong một thể thống nhất. Tuy trong tố tụng địa vị pháp lý của các chủ thể là khác nhau, nhưng hoạt động tố tụng của các chủ thể đều liên quan đến việc thực hiện mục đích của TTDS là bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, mỗi hành vi tố tụng của một chủ thể đều liên quan đến nhau, dẫn đến những hậu quả pháp lý đối với nhiều chủ thể khác và góp phần tạo nên sự vận động và phát triển của quá trình tố tụng. Tuy nhiên, đương sự là thành phần không thể thiếu trong hoạt động TTDS, là thành phần chính phát động mọi hoạt động TTDS. Đương sự đóng vai trò đặt biệt quan trọng trong TTDS. Có thể nói không có đương sự thì cũng không có VVDS vì việc TA giải quyết VVDS thực chất là việc giải quyết các quan hệ pháp luật nội dung giữa các đương sự, xác định quyền và nghĩa vụ trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự là các bên trong quan hệ pháp luật nội dung. Nếu không có đương sự thì không có chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung và quan hệ pháp luật tố tụng dân sự tức là không tồn tại quá trình tố tụng. 11
- Đương sự là thành phần chính trong các quan hệ pháp luật TTDS. Các đương sự làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật TTDS. Có các đương sự mới có các quá trình TTDS diễn ra. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật TTDS, đương sự mặc dù ở các vị trí tố tụng khác nhau nhưng đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụng. Khi đương sự thực hiện các quyền chủ quan, thể hiện ý chí của một bên chủ thể sẽ làm phát sinh các hệ quả là quyền và nghĩa vụ của các bên khác hoặc thiết lập một quá trình tố tụng như là: quyền khởi kiện, quyền yêu cầu,quyền rút đơn khởi kiện, rút yêu cầu, quyền kháng cáo, quyền rút đơn kháng cáo… 1.1.4. Tư cách của đương sự trong tố tụng dân sự Về tư cách của đương sự, tư cách của đương sự không phải do bản chất của quyền lợi viện dẫn quyết định mà do vị trí của họ khi khởi kiện [1, tr.66]. Tư cách đương sự phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể trong TTDS. Bởi vậy, việc xác định tư cách tố tụng của đương sự giúp cho quá trình giải quyết các VVDS được chính xác, khách quan, đồng thời bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Hiện tại cũng có những quan niệm rất khác nhau trong pháp luật tố tụng của mỗi quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới. Bộ luật TTDS của nước Cộng hoà Pháp không đưa ra định nghĩa đương sự, nhưng qua quy định tại Điều 1 và Điều 323 thì có thể hiểu đương sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn. Bộ luật TTDS Liên bang Nga tại Điều 43 quy định: người tham gia TTDS gồm các bên (nguyên đơn và bị đơn), người thứ ba (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), Kiểm sát viên, người yêu cầu TA bảo vệ. TTDS của Hoa Kỳ do ảnh hưởng của yếu tố đối tụng (adversary) thì xác định thành phần đương sự bao gồm hai bên nguyên đơn và bị đơn [46, tr.136]. Có thể thấy rằng pháp luật TTDS của đa số các nước trên thế giới quy định về tư cách đương sự trong một VADS (trong đó TA giải quyết cả các việc có tranh chấp và không có tranh chấp). Theo đó, đương sự trong tố tụng tham gia với tư cách nguyên đơn, bị đơn. Tuy nhiên, Luật TTDS của Việt Nam hiện hành quy định không chỉ là thủ tục giải quyết các VADS (các bên có tranh chấp) mà quy định cả thủ tục giải quyết các VDS (các bên không có tranh chấp) [39]. Do đó, đương sự được quan niệm bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong VADS, người yêu cầu, người liên quan trong VDS. - Nguyên đơn trong vụ án dân sự: 12
- Nguyên đơn trong vụ án dân sựlà người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu TA giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu TA bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn (Khoản 2 Bộ luật TTDS 2015). Nguyên đơn là một trong những đương sự quan trọng của vụ án dân sự. Việc nguyên đơn khởi kiện hoặc các chủ thể theo quy định của pháp luật tố tụng khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn là một trong những điều kiện tiên quyết để có vụ án dân sự phát sinh tại TA, đồng thời là cơ sở để bắt đầu quá trình giải quyết vụ án dân sự. Trong vụ án dân sự để trở thành nguyên đơn thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải đáp ứng đầy đủ hai điều kiện sau: Thứ nhất, Các chủ thể này cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thực chất trên cơ sở bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa quyền, lợi ích của các chủ thể này có bị xâm phạm hay không thì phải được phải được khẳng định trong các bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật. Khi chưa có bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật khẳng định vấn đề đó, thì quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn mới chỉ dừng lại là giả thiết bị xâm phạm. Về nguyên tắc, quyền lợi chỉ có thể có được hoặc bị xâm phạm khi các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nội dung (quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động) mà nguyên đơn là một bên chủ thể. Thứ hai, Ngoài điều kiện nêu trên thì cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ trở thành nguyên đơn khi có việc khởi kiện yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc cơ quan, tổ chức thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự và được TA thụ lý vụ án thì cá nhân, cơ quan, tổ chức đó được xác định là nguyên đơn. Trong trường hợp cá nhân là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự mà được người đại diện, cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của người này thì người được bảo vệ quyền lợi cũng được xác định là nguyên đơn.Bên cạnh đó, cơ quan, tổ chức do Bộ luật TTDS quy định khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích 13
- của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng được xác định là nguyên đơn.Trong trường hợp cả hai bên chủ thể của một quan hệ pháp luật nội dung đang tranh chấp mà cùng khởi kiện để yêu cầu TA giải quyết quan hệ nội dung tranh chấp đó thì TA thụ lý đơn khởi kiện bên nào trước thì bên đó được xác định là nguyên đơn. - Bị đơn trong vụ án dân sự: Bị đơn trong vụ án dân sựlà người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu TAgiải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm (Khoản 2 Bộ luật TTDS 2015). Cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ bị xác định là bị đơn trong vụ án dân sự khi có những dấu hiệu sau: Thứ nhất, Là người bị nguyên đơn, hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật TTDS khởi kiện. Thứ hai,Đối với nguyên đơn là người giả thiết cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, bị tranh chấp. Vì vậy, bị đơn cũng chỉ là người được giả thiết là có tranh chấp hay vi phạm đến quyền lợi của nguyên đơn. Trong đa số các trường hợp thì bị đơn chính là chủ thể trực tiếp phía bên kia trong mối quan hệ pháp luật nội dung với nguyên đơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp thì để xác định bị đơn cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật nội dung để xác định trong mỗi trường hợp cụ thể ai mới là chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung với nguyên đơn. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quantrong vụ án dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được TA chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì TA phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Khoản 4 Bộ luật TTDS 2015). 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 271 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 108 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 121 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 77 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 90 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 181 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn