Đại học quốc gia Hà Nội Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Khoa xã hội học

Nguyễn Việt Hà

Mức độ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của đối tượng tiền hôn nhân (Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội)

Hà Nội, 2/2009

Đại học quốc gia Hà Nội Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Khoa xã hội học

Nguyễn việt Hà

Mức độ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của đối tượng tiền hôn nhân (Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội)

Chuyên ngành : Xã hội học

Mã số : 60 31 30

luận văn thạc sĩ xã hội học

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYễn Thị Kim Hoa

1

Hà Nội, 2009

Mục lục

Phần I: Mở đầu................................................................................................................ 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................ 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 3

2.1. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 3

3. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................................... 3

4. Đối tượng, khách thể nghiên cứu ................................................................................... 4

4.1. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 4

4.2. Khách thể nghiên cứu ...................................................................................... 4

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 4

6. Sơ đồ tương quan các biến số ........................................................................................ 5

7. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ............................................................................ 6

7.1. ý nghĩa khoa học ............................................................................................. 6

7.2. ý nghĩa thực tiễn .............................................................................................. 6

8. Kết cấu của luận văn ...................................................................................................... 7

Phần II: Nội dung ........................................................................................................... 8

Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài................................................................. 8

1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................................. 8

1.1.1. Lý luận nhận thức Macxit ............................................................................. 8

1.1.2. Các lý thuyết đặt cơ sở cho việc nghiên cứu ................................................. 9

1.1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề hôn nhân - gia đình ............... 16

1.1.4. Hoàn cảnh ra đời và phát triển của Luật Hôn nhân và gia đình .................... 17

1.2. Những vấn đề đang đặt ra trong nghiên cứu về hôn nhân, gia đình

và Luật Hôn nhân và gia đình .......................................................................................... 22

1.3. Địa bàn nghiên cứu và đối tượng khảo sát ................................................................. 24

1.4. Các khái niệm cơ bản................................................................................................ 26

Chương 2: Thực trạng nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên nam nữ

trước kết hôn ................................................................................................................... 33

2.1. Nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình .................................................................. 33

2.2. Nhận thức về các nội dung cụ thể trong Luật Hôn nhân và gia đình .......................... 37

2.2.1. Về các nội dung liên quan đến kết hôn ........................................................ 38

2.2.2. Hiểu biết về những quy định trong quan hệ vợ chồng ................................. 50

2.2.3. Đánh giá nhận thức về các quan hệ khác trong gia đình .............................. 57

2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiểu biết của thanh niên trước kết hôn

3

về Luật Hôn nhân và gia đình .......................................................................................... 65

2.3.1. Tiếp cận qua các phương tiện truyền thông đại chúng

và truyền thông trực tiếp ..........................................................................................

2.3.2. Cách thức nghiên cứu, tìm hiểu Luật và các văn bản dưới luật .......................

Chương 3: Xu hướng biến đổi quan điểm về hôn nhân và gia đình trong thanh niên hiện nay

............................................................................................................................................

3.1. Xu hướng biến đổi quan điểm về giải quyết những vấn đề trong gia đình ..........

3..2. Quan hệ tình dục trước hôn nhân ......................................................................

3.3. Sống thử ............................................................................................................

3.4. Ly hôn ...............................................................................................................

Phần III: Kết luận và một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

Luật Hôn nhân và gia đình của thanh ..............................................................................

4.1. Kết luận ........................................................................................................................

4.2..Một số giải pháp nhằm nâng cao hiểu biết về Luật hôn nhân gia đình trong thanh niên

trước hôn nhân ....................................................................................................................

4.3 Một số khuyến nghị .......................................................................................................

Tài liệu tham khảo .............................................................................................................

Phụ lục

Phiếu trưng cầu ý kiến

Một số kết quả nghiên cứu định tính

Luật Hôn nhân và gia đình

4

Phần I: Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Ngày nay, quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. ở

các nước đang phát triển cũng đang diễn ra quá trình này. Giao lưu và hội nhập

đã tác động tích cực đến sự phát triển chung của nhiều nước. Tuy nhiên quá

trình này cũng mang theo nó những ảnh hưởng trái chiều, tiêu cực đến đời sống

xã hội. Điều có thể nhận thấy trong chiều sâu của sự thay đổi chính là hệ thống

giá trị và chuẩn mực, đặc biệt là giá trị chuẩn mực của gia đình - những cái mà

lâu nay vẫn được nhìn nhận như những thành tố tạo nên nét đặc biệt của văn hoá

ở từng quốc gia, dân tộc.

ở Việt Nam, những năm gần đây, mở cửa đổi mới đã làm cho hệ giá trị,

chuẩn mực xã hội có những biến đổi bước đầu. Trong đó có sự pha trộn các yếu

tố của cả phương Đông và phương Tây. Cái truyền thống và cái hiện đại đã đan

xen và tác động mạnh mẽ đối với thanh niên - nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù về

lứa tuổi với những đặc điểm tâm, sinh lý có nhiều biến động trong quá trình tiếp

cận và học tập những yếu tố văn hoá từ bên ngoài. Thanh niên tuy có sức khoẻ,

hiểu biết, tri thức nhưng lại bồng bột, dễ bị cám dỗ bởi những giá trị ảo. Hiện

tại, quá trình xã hội hoá thanh niên diễn ra khá đa chiều, phức tạp với việc xuất

hiện nhiều quan niệm mới lạ về tình bạn, tình yêu, hôn nhân gia đình và quan hệ

tình dục. Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến đổi về hành vi,

lối sống của thanh niên trong quá trình thiết lập hôn nhân và gia đình.

Một trong những vấn đề đang được dư luận quan tâm là tình trạng quan

hệ tình dục trước hôn nhân và hiện tượng chung sống trước hôn nhân. Một số

khảo sát gần đây cho thấy, quan hệ tình dục và chung sống trước hôn nhân trong

thanh niên đang có xu hướng gia tăng. Điều này vừa do ảnh hưởng của lối sống,

quan niệm sống ngoại lai vừa do tình trạng thiếu tri thức, thiếu thông tin, thiếu

hiểu biết về pháp luật. Tất cả đưa đến những hậu quả xấu về sức khoẻ, đạo đức,

tâm lý, hạnh phúc gia đình cho thanh niên, đặc biệt nữ thanh niên và cho toàn xã

5

hội.

ở một vài thập niên trước, các nhà quản lý lo ngại về hiện tượng thanh

niên quan hệ tình dục trước hôn nhân và quan hệ tình dục sớm thì những năm

gần đây, như một hệ quả tất yếu của quá trình mở cửa, đổi mới, tình trạng quan

hệ tình dục trước hôn nhân, chung sống trước hôn nhân của thanh niên đang có

chiều hướng gia tăng. Hiện tại, ở nước ta, tuy chưa có những số liệu thống kê

chính thức về hiện tượng này nhưng từ những điều tra ít nhiều có liên quan cho

thấy, chung sống trước hôn nhân đang phát triển trong giới trẻ sống xa gia đình,

ít chịu sự kiểm soát của gia đình như học sinh, sinh viên, những người lao động

nhập cư vào các thành phố lớn. Một khảo sát ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy

đã có 12.712 đôi bạn trẻ đã chung sống trước, kết hôn sau và 10.148 đôi chung

sống không kết hôn. [12]

Thực tế, quan hệ tình dục trước hôn nhân và chung sống trước hôn nhân

đã và đang để lại những hậu quả xã hội trên nhiều phương diện như: sức khoẻ,

đạo đức, lối sống và sự bền vững của gia đình. Đây cũng chính là nguyên nhân

dẫn đến hàng chục vạn ca nạo phá thai hàng năm và hàng ngàn gia đình tan vỡ

sau đó. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều, song một phần, do thiếu sự

hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật còn kém của cộng đồng nhất là của thanh

niên.

Hiện nay, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân và chung sống ngoài hôn nhân

giữa những thanh niên có gia đình và thanh niên chưa lập gia đình cũng đang

ngày càng gia tăng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình

trạng ly hôn tăng nhanh qua các năm, đặc biệt là ở các thành phố lớn. [14] Theo

số liệu của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc Hội, số vụ vợ chồng xin ly hôn

đã tăng từ 22.000 vụ năm 1991 lên 44.000 vụ năm 1998. Còn theo thống kê của

Toà án nhân dân tối cao, năm 2000 có 51.361 vụ vợ chồng xin ly hôn, năm 2001

có 54.226 vụ, năm 2002 có 56.487 vụ, năm 2003 có 60.004 vụ và năm 2004 có

tới 63.735 vụ. ở một số thành phố lớn, tỷ lệ ly hôn đã trở thành một vấn đề xã

hội rất đáng được quan tâm. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có tỷ lệ ly

hôn cao nhất trong cả nước, năm 1998, số vụ ly hôn chiếm 20% tổng số các vụ

6

kết hôn. [16]

Hà Nội là thủ đô của cả nước, nơi tập trung bộ phận quan trọng lực lượng

lao động trẻ ở mọi trình độ, số lượng sinh viên, học sinh đông. ảnh hưởng của

lối sống ngoại lai mạnh. Do vậy, các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội kể cả

chuẩn mực luật pháp lẫn những chuẩn mực đạo đức, lối sống... diễn ra ngày

càng nhiều. Trên lĩnh vực hôn nhân gia đình, do những quan niệm thoáng hơn

về tình dục, tình yêu và hôn nhân tự do, nên những hành vi lệch chuẩn ngày

càng nhiều. Điều này tác động cả tích cực và tiêu cực đến đời sống xã hội, đặc

biệt đến sự phát triển bền vững của gia đình. Do vậy, tìm hiểu, đánh giá về nhận

thức luật hôn nhân gia đình ở nam nữ trước khi kết hôn, cũng như những nguyên

nhân ảnh hưởng tới nhận thức của họ về vấn đề này là hết sức cần thiết. Với ý

nghĩa đó, tôi đã chọn đề tài “Mức độ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của

đối tượng tiền hôn nhân” (Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội) làm đề tài

nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.

2. ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn

2.1. ý nghĩa khoa học - Luận văn sẽ góp phần khẳng định hơn nữa những lý thuyết xã hội học như: lý thuyết Hành động xã hội và lý thuyết Xã hội hóa cá nhân trong một lĩnh vực đặc thù - tình yêu, tình dục, hôn nhân và gia đình. - Những kết quả nghiên cứu của luận văn này sẽ giúp gợi mở những hướng nghiên cứu tiếp theo để đẩy mạnh việc tuyên truyền thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình và những văn bản luật pháp khác có liên quan.

2.2. ý nghĩa thực tiễn - Từ chỗ góp phần làm rõ nhận thức, hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân về Luật Hôn nhân và gia đình trên cơ sở này giúp cho các cơ quan truyền thông, tư vấn có định hướng và biện pháp phù hợp hơn trong việc tuyên truyền, giáo dục thanh niên thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình, đặc biệt là với đối tượng tiền hôn nhân. - Luận văn sẽ cung cấp thêm thông tin, dữ liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy xã hội về giới, gia đình cho sinh viên, học sinh và những nhóm xã hội khác có yêu cầu. 3. Mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu

7

3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên nam nữ

trước kết hôn đồng thời lý giải những nhân tố ảnh hưởng tới hiểu biết của họ

nhằm đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao sự hiểu biết của thanh niên

nam, nữ trong thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Thu thập, xử lý và phân tích những thông tin có sẵn gồm: những báo

cáo, luật, sách, bài báo, công trình khảo sát đã hoàn thành có liên quan đến hiểu

biết và thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên.

- Điều tra xã hội học bằng bảng câu hỏi có cấu trúc nhằm thu thập những

thông tin liên quan đến hiểu biết của thanh niên nam nữ trước khi kết hôn về

Luật Hôn nhân và gia đình.

- Xử lý, phân tích, tổng hợp các thông tin thu được qua điều tra định tính

và định lượng để làm rõ mức độ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình ở nam

nữ trước khi kết hôn.

- Phân tích, tổng hợp những kết quả thu được để đưa ra những kết luận và

những giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao trình độ hiểu biết của thanh niên

trong độ tuổi kết hôn về Luật Hôn nhân và gia đình.

4. Giả thuyết nghiên cứu

- Việc tuyên truyền, giáo dục, thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình tuy đã

được quan tâm chú ý nhưng chư a tìm được những hình thức phù hợp cho thanh

niên tiền hôn nhân, do vậy, hiểu biết Luật của họ còn chưa đầy đủ, thiếu chính

xác.

- Nam nữ thanh niên trước khi kết hôn đang còn ít quan tâm tới việc tìm

hiểu văn bản Luật, chính sách liên quan đến vấn đề hôn nhân, gia đình đặc biệt

là Luật Hôn nhân và gia đình nên hiểu biết về luật còn chưa cao.

- Hiểu biết của nam nữ thanh niên trong độ tuổi kết hôn chịu ảnh hưởng

của các yếu tố như giới tính, lứa tuổi, trình độ học vấn, khu vực cư trú và đặc

trưng văn hoá gia đình...

5. Đối tƣợng, khách thể và địa bàn nghiên cứu

8

5.1. Đối tượng nghiên cứu

Mức hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của đối tượng tiền hôn nhân.

5.2. Khách thể nghiên cứu

- Thanh niên nam, nữ trước kết hôn đang sống và làm việc trên địa bàn

thành phố Hà Nội.

- Cán bộ làm công tác thanh niên, công tác lao động, thương binh và xã hội và

cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách và pháp luật ở Hà Nội.

5.3. Địa bàn nghiên cứu

Đối tượng được chọn để tiến hành khảo sát là thanh niên nam, nữ chưa

kết hôn tại phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy và xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông

Anh.. Nhóm đối tượng này được chọn theo nguyên tắc ngẫu nhiên. Số phiếu

phát ra là 400 phiếu, số phiếu thu về 397 phiếu. Tất cả các phiếu đều hợp lệ,

trong đó:

- Cơ cấu tuổi: - Cơ cấu trình độ học vấn:

Độ tuổi: từ 16-17 tuổi: 11,3% Chưa tốt nghiệp PTTH: 26,9%

Độ tuổi 18-22 tuổi: 45,7% Tốt nghiệp PTTH: 39,2%

Độ tuổi 22-30 tuổi: 43% TC, CĐ: 22,5%

ĐH, trên ĐH: 11,4%

- Cơ cấu giới tính : - Cơ cấu nghề nghiệp:

Nam: 53,4% Đang đi học: 51,3%

Nữ: 46,6% Chưa đi làm: 10,2%

Đang đi làm: 38,5%

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như

thống kê, logic-lịch sử điều tra xã hội học. Trong đó, những phương pháp

nghiên cứu cụ thể sau đây được sử dụng:

- Phân tích tài liệu có sẵn:

Trên cơ sở tổng quan các tài liệu đã có gồm sách, tạp chí, thống kê công

9

trình nghiên cứu đã được thực hiện, hồ sơ văn bản lưu trữ và các báo cáo của các

cơ quan chức năng… để có thêm thông tin làm rõ cả cơ sở lý luận lẫn thực tiễn

của vấn đề nghiên cứu.

- Điều tra định lượng:

Tiến hành phỏng vấn theo phiếu trưng cầu ý kiến với 400 thanh niên chưa

kết hôn. Cách thức chọn mẫu: sử dụng phương pháp ngẫu nhiên phân tầng. Cụ

thể, ở nội thành, tác giả chọn quận Cầu Giấy, phường Nghĩa Tân; ở ngoại thành,

chọn huyện Đông Anh, xã Vĩnh Ngọc. Sau khi xác định 2 phường/xã, tác giả lập

danh sách thanh niên từ 16 tuổi trở lên chưa lập gia đình; sau đó chọn ngẫu

nhiên hệ thống cho đủ 400 mẫu theo dự định để tiến hành phát phiếu khảo sát.

- Nghiên cứu định tính:

Ngoài phát phiếu điều tra định lượng, cuộc khảo sát còn tiến hành 2 cuộc

thảo luận nhóm tập trung, mỗi nhóm 10 người và 10 phỏng vấn sâu đối với

những người đại diện cho nhóm thanh niên chưa lập gia đình, nhóm cán bộ và

chủ hộ gia đình có thanh niên chưa lập gia đình.

- Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu điều tra định lượng được làm sạch và xử lý bằng chương trình

SPSS 12.5. Các tương quan cơ bản được xác định và đưa ra với những bảng số

liệu nhằm đáp ứng các mục tiêu mà cuộc khảo sát hướng đến là đánh giá mức độ

hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của đối tượng tiền hôn nhân.

10

7. Sơ đồ tƣơng quan các biến số

Kết quả thực hiện Luật

Nội dung của Luật Hôn nhân & gia đình

Tầm quan trọng của Luật

Phạm vi tác động và đối tượng điều chỉnh

Hiểu biết của thanh niên trước kết hôn về Luật Hôn nhân và gia đình

Đối tượng khác - CBLĐQL (CB tư pháp, CB LĐTBXH...) - Chủ hộ gia đình có TN chưa kết hôn

Nam, Nữ thanh niên chưa kết hôn - Giới - Tuổi - Học vấn - Địa bàn cư trú

Điều kiện kinh tế – xã hội

+ ý nghĩa, tầm quan trọng của luật và các văn bản dưới luật. + Nội dung của luật + Phạm vi tác động và đối tượng điều chỉnh của luật và văn bản dưới luật.

Biến độc lập - Đặc điểm nhân khẩu của thanh niên chưa lập gia đình: Giới tính (nam, nữ), Tuổi (từ 16 đến hết 17 tuổi, từ 18-22 tuổi và trên 22 tuổi), Trình độ học vấn (Tốt nghiệp PTTH trở xuống, trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học), Địa bàn cư trú (nội thành, ngoại thành). - Đặc điểm xã hội nghề nghiệp cán bộ LĐQL (cán bộ tư pháp, cán bộ LĐTBXH, cán bộ văn hoá, thể thao, du lịch) - Chủ hộ gia đình có thanh niên chưa kết hôn (nam/nữ) Biến phụ thuộc - Hiểu biết của đối tượng tiền hôn nhân với Luật Hôn nhân và gia đình theo các vấn đề: - Một số kết quả bước đầu trong thực hiện Luật. Biến điều kiện

11

Các yếu tố kinh tế, xã hội trong đó đặc biệt là sự phát triển của kinh tế thị trường và các yếu tố liên quan đến phong tục tập quán, truyền thống văn hoá và

thông tin truyền thông. Đây là những yếu tố tác động đến cả hiểu biết, thái độ của đối tượng tiền hôn nhân trong việc tìm hiểu và thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình. 8. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

luận văn được chia thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài

Chương 2: Thực trạng nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên

nam nữ trước kết hôn.

Chương 3: Xu hướng biến đổi quan điểm về hôn nhân và gia đình và một số giải

pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình

12

của thanh niên tiền hôn nhân hiện nay

Phần II: nội dung Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của Vấn đề nghiên cứu

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Lý luận nhận thức Macxit

Nhận thức và sự hiểu biết của con người từ đâu mà có? Con người có

nhận thức được chân lý khách quan không và quá trình nhận thức của con người

thế nào đã và đang là vấn đề mà triết học duy vật và duy tâm tranh luận.

Theo quan điểm duy vật, nhận thức của con người là sự phản ánh của thế

giới khách quan - Thế giới khách quan được con người nhận thức từ cảm giác,

tri giác, biểu tượng đến tư duy trừu tượng. Nhờ tư duy trừu tượng mà con người

hiểu biết được bản chất của các sự vật, hiện tượng của thế giới tự nhiên và xã

hội, nắm được các quy luật và tính quy luật chi phối quá trình vận động và phát

triển của nó - tiếp cận được với chân lý. Chủ nghĩa duy vật Macxit cũng chỉ ra

rằng, sở dĩ con người nhận thức được thế giới khách quan, do con người có lao

động. Nhờ lao động mà đầu óc con người được phản ánh những hiện tượng,

những sự kiện, những quá trình của thế giới hiện thực. Con người hiểu biết thế

giới hiện thực. Nhưng sự phản ánh này không chỉ là sự sao chép đơn thuần thế

giới hiện thực mà còn là sự phản ánh bản chất của chúng với những mối liên hệ

bên trong, tất yếu, tự nhiên của nó. Con người, vì vậy, ngày càng khám phá bản

chất của các sự vật, hiện tượng, phát hiện thêm các quy luật, tiến gần hơn đến

chân lý tuyệt đối. Như vậy, nhận thức của con người là một quá trình từ đơn

giản đến phức tạp, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ hiểu biết ít

đến hiểu biết nhiều - đến chân lý.

áp dụng lý luận nhận thức vào việc nghiên cứu quá trình tiếp cận một hiện

tượng, một sự vật của nhóm xã hội - thanh niên tiền hôn nhân là việc không dễ.

Vì vậy, làm rõ hiểu biết của họ về ý nghĩa, tầm quan trọng của luật, nội dung các

điều khoản chính yếu của luật và việc áp dụng luật trên thực tế là những việc cần

làm. ở đây, xuất phát từ những nguyên lý và lý luận nhận thức cần làm rõ thực

trạng, nguyên nhân sự hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của nhóm thanh

13

niên tiền hôn nhân với quan điểm duy vật, biện chứng, phát triển, lịch sử và hệ

thống. Điều này đòi hỏi khi làm rõ hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân về

Luật Hôn nhân và gia đình cần làm rõ những đặc điểm sinh học của nhóm, hoàn

cảnh kinh tế, xã hội của gia đình và cộng đồng mà họ đang sống; trình độ học

vấn, khả năng tiếp cận thông tin, mức độ tham gia các hoạt động xã hội mà

những thành viên trong nhóm hiện có...

Ngoài ra, theo quan điểm lịch sử và phát triển, hiểu biết của thanh niên

tiền hôn nhân về Luật Hôn nhân và gia đình còn được nghiên cứu trong sự so

sánh với thời gian. ở đây, thời gian được tính theo độ tuổi của khách thể nghiên

cứu đồng thời tính theo các giai đoạn phát triển về nhận thức của cộng đồng

trong đổi mới. Điều này sẽ giúp cho việc làm rõ những thay đổi trong nhận thức,

hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân về Luật Hôn nhân và gia đình qua các

giai đoạn phát triển của lịch sử cũng như qua quá trình phát triển sinh học và xã

hội ở mỗi con người.

Hôn nhân và gia đình là lĩnh vực luôn vận động, phát triển và biến đổi.

Theo đó, cơ cấu gia đình, chức năng gia đình, vai trò và vị trí của gia đình cũng

như những quan niệm về giá trị, chuẩn mực trong gia đình đã có nhiều biến đổi

theo thời gian. Nghiên cứu hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân với Luật Hôn

nhân và gia đình phải hết sức căn cứ vào những biến đổi của gia đình và những

biến đổi của cộng đồng xã hội để xem xét những biến đổi trong nhận thức của

nhóm xã hội đặc thù này. Trong điều kiện mở cửa, đổi mới, chuyển sang kinh tế

thị trường, quan niệm thoáng đãng hơn về tình dục, tình yêu và hôn nhân cũng là

những yếu tố phải tính tới khi nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật, biện

chứng và lý luận nhận thức Macxit.

1.1.2. Các lý thuyết xã hội học đặt cơ sở cho việc nghiên cứu

a. Lý thuyết Hành động xã hội

Lý thuyết xã hội học về hành động xã hội đã được các nhà xã hội học như

V.Pareto, M.Weber, F.Znaniecki và một số nhà xã hội học khác đưa ra. Nội

dung chủ yếu của lý thuyết này coi hành động xã hội có cơ sở xuất phát từ nhu

cầu, động cơ của cá nhân xã hội và kết quả của nó là sự thiết lập các quan hệ xã

14

hội.

Các lý thuyết gia khẳng định khi mỗi cá nhân tham gia vào cuộc sống xã

hội, họ tất yếu phải thực hiện các hành động xã hội. Hành động xã hội xuất hiện

ngay từ khi con người được hình thành, nhu cầu hợp tác để tồn tại và phát triển

đã làm xuất hiện quan hệ tương tác giữa các chủ thể hành động; đến lượt mình,

các hành động xã hội lại tạo kết quả là các mối quan hệ cá nhân - cá nhân, cá

nhân - xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà cá nhân thực hiện hành động, ngược

lại, họ hành động nhằm đạt được các mục đích riêng của bản thân và những mục

đích chung.

Mặc dù mỗi nhà xã hội học trên đều tiếp cận hành động xã hội ở các góc độ

khác nhau, song họ đều thống nhất ở một số điểm:

- Hành động xã hội bao giờ cũng có sự tham gia của yếu tố ý thức dù ở

mức độ khác nhau, có nghĩa là chủ thể hành động luôn gắn cho hành động

một ý nghĩa chủ quan nhất định.

- Hành động xã hội có tính định hướng mục đích

- Hành động xã hội là hành động hướng tới người khác

Trên thực tế, không phải hành động xã hội nào cũng có tính xã hội hay

đều là hành động xã hội. Những hành động chỉ nhằm tới các sự vật mà không

tính đến hành vi của người khác như việc hai người đi xe đạp vô tình va quệt

vào nhau trên đường phố không phải là hành động xã hội, hành động giống nhau

của các cá nhân trong một đám đông như khi mọi người cùng mặc áo mưa do

đột nhiên trời đổ mưa cũng không được coi là hành động xã hội. Với những

hành động như thế này, chúng ta thấy hầu như không có sự tham gia của yếu tố

ý thức mà đó chỉ là sự phản ứng một cách tự nhiên trước hoàn cảnh mà thôi.

Thêm nữa, những hành động này thường diễn ra bất chấp ý chí hay mong muốn

chủ quan của chúng ta. Các nhà xã hội học gọi đây là hành động vật lý - bản

năng.

Chúng ta cũng có thể so sánh hành động của loài vật với hành động của

con người. Chẳng hạn, khi một con thú bị đói, nó sẽ ăn một cách ngấu nghiến

những gì mà nó có thể ăn được chỉ để thoả mãn cơn đói. Trong khi đó, ngay cả

15

khi con người bị bỏ đói, họ cũng ăn theo văn hoá, theo thói quen; cách ăn của họ

cũng hướng đến những người xung quanh, nghĩa là làm sao để việc ăn của mình

không gây phản cảm cho người khác và họ lựa chọn thức ăn phù hợp với họ; ví

dụ như một nhà tu hành theo Phật giáo thì khi đói vẫn chỉ lựa chọn thức ăn chay,

hay một người theo ấn Độ giáo sẽ không chọn món thịt bò để ăn khi đói.

So sánh như vậy để thấy sự khác biệt giữa con người và con vật khi

thực hiện hành động. Rõ ràng, hành động ăn của con người trong trường hợp

nêu trên được coi là hành động xã hội, vì nó có tính chất văn hoá, tính chủ

định và sự định hướng đến người người khác của các cá nhân xã hội khi thực

hiện hành động.

Lý thuyết hành động xã hội ra đời nhằm phản ứng lại quan điểm của các

nhà hành vi luận cho rằng chúng ta không thể nghiên cứu được những yếu tố

bên trong qui định hành vi của các cá nhân mà chỉ có thể biết đến những phản

ứng bên ngoài. Theo các nhà xã hội học, chúng ta không đơn thuần chỉ nghiên

cứu phản ứng của các cá nhân trước các kích thích, mà chúng ta hoàn toàn có

thể nghiên cứu những gì đang diễn ra bên trong, những gì tiềm ẩn trong mỗi cá

nhân có tác dụng thôi thúc các nhân hành động để đạt mục đích.

Để minh chứng cho quan điểm của mình, các nhà xã hội học đã đưa ra mô

Hoàn cảnh

Nhu cầu

Động cơ

Chủ thể

Mục đích

Công cụ phương tiện

hình sau:

[11, 137]

Mô hình trên cho thấy cấu trúc của hành động xã hội, những nhân tố của

hành động xã hội được đề cập đến trong mô hình này có mối quan hệ nhân - quả

khăng khít với nhau. Xem xét các nhân tố của hành động xã hội, chúng ta có thể

nhận thấy mỗi hành động xã hội của con người có “điểm gốc” là nhu cầu, động

cơ của chủ thể, và “điểm ngọn” là mục đích cần đạt được của chủ thể đó. Tất

nhiên, chu trình của hành động chịu sự chi phối của yếu tố hoàn cảnh thực hiện

16

hành động của chủ thể. Chúng ta hãy quay lại ví dụ về một cá nhân khi bị đói,

họ có nhu cầu là được ăn. Tuy nhiên nếu anh ta ở nơi mà anh ta chỉ có một

mình, anh ta có thể ăn nhanh hơn để đạt đích "được ăn no" nhanh hơn; ngược

lại, khi anh ta đang ở trong một đám đông, anh ta sẽ lựa chọn cách ăn từ tốn

hơn, vì hành động của anh ta lúc này là định hướng vào đám đông nơi anh ta

đang tham gia. Điều này cho thấy, hành động xã hội mà con người thực hiện

không phải là cách con người phản xạ trực tiếp đối với tác nhân kích thích, mà ở

đây, họ phản ứng qua các biểu trưng có ý nghĩa, có nghĩa là họ phản ứng một

cách gián tiếp. Nói như G.Mead, con người tiếp nhận kích thích, tư duy về tình

huống hành động, đặt mình vào vị trí của đối tượng hành động để dự đoán xu

hướng hành động, từ đó, họ mới đưa ra phản ứng trước kích thích. Những yếu tố

này khiến cho hành động của con người mang tính xã hội cao hơn (hành động

hướng đến người khác), và do đó, tính khách quan của hành động, tính định

hướng về môi trường hành động cũng được nâng lên.

Vận dụng lý thuyết này trong luận văn của mình, tác giả coi hiểu biết Luật

hôn nhân gia đình của thanh niên tiền hôn nhân như là một hành động xã hội.

Hành động này bao giờ cũng kèm ý thức cá nhân. ý thức đó có thể do từng cá

nhân nhận thức sự cần thiết phải tìm hiểu luật khi đang trong giai đoạn tiền hôn

nhân, các cá nhân tự giác tìm hiểu, không tự giác tìm hiểu luật hoặc chỉ tìm hiểu

khi bị một tác động nào đó.

Ngoài ra, việc tìm hiểu luật của đối tượng tiền hôn nhân được xem xét ở cả

tính tích cực của họ. Với nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị khác nhau, đối

tượng tiền hôn nhân có những cách thức, mục đích tìm hiểu khác nhau. Với

những đối tượng có nhu cầu tìm hiểu luật để nâng cao trình độ hiểu biết về luật

pháp thì mục đích là để nắm vững và thực thi nghiêm những quy định của pháp

luật. Những đối tượng này ý thức được sự cần thiết phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ

luật nên họ chủ động tìm hiểu, cập nhật những văn bản pháp luật mới một cách

kịp thời. Cũng có những thanh niên không ý thức được tầm quan trọng của pháp

luật nên thụ động trong việc tìm hiểu những văn bản pháp luật hay thậm chí làm

17

sai luật mà không ý thức được. Điều này tạo nên những cách tiếp cận và tìm

hiểu khác nhau của thanh niên trước hôn nhân với tinh thần và nội dung của

luật.

b. Lý thuyết Xã hội hoá

Con người là một thực thể sinh học song còn là một thực thể xã hội. Để

sống, tồn tại và phát triển con người phải hội nhập vào nhóm, vào một cộng

đồng xã hội xác định. Mà để hội nhập mỗi con người phải tìm hiểu, tiếp cận, học

hỏi, thực hành những hệ thống giá trị và chuẩn mực mà một nhóm, một tầng lớp,

một cộng đồng đang thừa nhận, tuân theo. Đây chính là quá trình mà mỗi cá

nhân thiết lập quan hệ của mình với những cá nhân khác, thông qua đó cá nhân

học hỏi, tiếp nhận các tri thức, kinh nghiệm, quy tắc ứng xử phù hợp với vai trò

mà nhóm, cộng đồng xã hội yêu cầu, chờ đợi.

Với cách nhìn nhận cơ bản như vậy, các nhà xã hội học đã đưa ra những

quan niệm ít nhiều khác nhau về xã hội hoá.

Nhà xã hội học Mỹ Neil Smelser thì cho rằng: "Xã hội hoá là quá trình mà

trong đó cá nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình" [6,

tr.254] để phục vụ tốt cho việc thực hiện các mô hình hành động tương ứng với

hệ thống vai trò mà cá nhân phải đóng trong cuộc đời mình. Theo định nghĩa

này, vai trò của cá nhân trong quá trình xã hội hoá chỉ giới hạn trong việc tiếp

nhận các kinh nghiệm, tri thức, giá trị, chuẩn mực xã hội.

Trong đó, xã hội hoá cá nhân diễn ra dưới tác động của ba nhân tố cơ bản:

sự mong đợi, sự thay đổi hành vi và thói khuôn phép. ở đây, xã hội mong đợi mỗi

cá nhân tuân thủ những giá trị, chuẩn mực văn hoá của một nhóm, một cộng đồng

xã hội xác định mà cá nhân hội nhập vào. Trên cơ sở này mà cá nhân xác định

được vị thế của mình và đóng đúng được những vai trò mà vị thế ấy yêu cầu.

Để làm được những việc này, mỗi cá nhân phải hiểu được những khuôn

mẫu hành vi - những khuôn phép mà một nhóm, một cộng đồng xã hội đã định

dạng tuân theo. Đây chính là những khuôn mẫu xã hội đã được quy chuẩn bởi

các nền văn hoá hay các tiểu văn hoá nhóm.

Còn Fichter xem "Xã hội hoá là một quá trình tương tác giữa người này

18

và người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động và

thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó". [11] Như vậy, Fichter đã chú ý

tới tính thích ứng của cá nhân trong quá trình xã hội hoá. Đây là sự tương tác xã

hội mà các quan hệ cá nhân được chuyển hoá thành những quan hệ xã hội có

tính khuôn mẫu mà mỗi cá nhân khi hoà nhập vào từng nhóm, từng cộng đồng

xã hội phải tuân theo.

Nhà khoa học người Nga G.Andreeva nêu ra hai mặt của quá trình xã hội

hoá. Bà cho rằng: "Xã hội hoá là quá trình hai mặt. Một mặt cá nhân tiếp nhận

kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống

các quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ thống

các quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm

nhập vào các mối quan hệ xã hội đó". [11, tr.255]

Lý thuyết này nhấn mạnh đến không chỉ hoạt động cá nhân trong quá trình

xã hội hoá - đơn thuần thu nhận kinh nghiệm xã hội mà còn chuyển hoá nó thành

những giá trị, tâm thế, xu hướng của cá nhân để tham gia tái sản xuất chúng trong

xã hội. Mặt thứ nhất của quá trình xã hội hoá là sự thu nhận kinh nghiệm xã hội

thể hiện sự tác động của môi trường tới con người. Mặt thứ hai thể hiện sự tác

động của con người trở lại môi trường thông qua hoạt động của mình.

Tony Bilton lại cho rằng Xã hội hoá là “quá trình quá độ mà chúng ta có

thể tiếp nhận được nền văn hoá của xã hội mà trong đó chúng ta đã được sinh ra

- quá trình mà nhờ đó chúng ta đạt những đặc trưng xã hội của bản thân, học

được cách suy nghĩ và ứng xử được coi là thích hợp trong xã hội của chúng ta -

được gọi là quá trình xã hội hoá”. [10]

Tony Bilton nhấn mạnh chủ yếu đến vai trò của xã hội trong việc truyền

đạt những giá trị văn hoá cho cá nhân, giúp cá nhân có đầy đủ những điều kiện

về mọi mặt để hoà nhập vào xã hội. Tuy nhiên, chúng ta thấy tính tích cực, chủ

động, sáng tạo của cá nhân gần như bị mờ nhạt trong quá trình xã hội hoá.

Xã hội hoá của mỗi cá nhân là một quá trình không thể thiếu từ khi còn là

trẻ thơ đến thời kỳ trưởng thành. Theo Tony Bilton môi trường xã hội hoá với

19

mỗi cá nhân rất quan trọng, đó là môi trường gia đình, nhà trường, xã hội.

Gia đình là một trong những môi trường xã hội hoá có tầm quan trọng đặc

biệt. ở đây, con người sinh học bắt đầu hội nhập vào xã hội, lĩnh hội những quy

chuẩn của xã hội thông qua cha, mẹ, người thân. Vì vậy, truyền thống gia đình

thể hiện qua gia đạo, gia giáo, gia phong, gia nghiệp có tác động không nhỏ hình

thành tính cách của mỗi cá nhân. Bầu không khí gia đình, sự hoà hợp hay xung

đột của các thành viên gia đình để lại những dấu ấn quan trọng trong sự phát

triển tính cách của thế hệ trẻ.

Trường học là toàn bộ hệ thống giáo dục được lập ra có chủ định. Theo

Tony Bilton trường học cũng là môi trường xã hội hoá chính yếu, giống như môi

trường gia đình. ở nhà trường, các cá nhân được tiếp thu cả tri thức tự nhiên, xã

hội và cả những hệ thống, những giá trị chuẩn mực được thể hiện qua các quy

chuẩn luật pháp, đạo đức, lối sống. Qua hệ thống chương trình, giáo trình và bài

giảng và qua cả sự tiếp xúc thầy - trò, trò - trò, mỗi cá nhân được xã hội hoá.

Các luật, văn bản dưới luật, quy chuẩn hành vi của con người, trong đó có quy

chuẩn về hôn nhân và gia đình đã được giáo dục, tuyên truyền trong nhà trường.

Xã hội là môi trường thứ ba giúp con người được xã hội hoá. ở đây, thông

qua các phương tiện truyền thông đại chúng và thông qua các hình thức truyền

thông trực tiếp, con người được truyền thông, tư vấn, tiếp thu những giá trị và

chuẩn mực xã hội. Các hệ tư tưởng, hệ thống các quan điểm chính trị, các khuôn

mẫu hành vi có tính chuẩn mực xã hội được truyền bá qua các hệ thống truyền

thông và qua giao tiếp người - người trong xã hội. Nhờ vậy, xã hội hoá cá nhân

được thực hiện. Các quy chuẩn luật pháp, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán

được mỗi cá nhân và cả cộng đồng tôn trọng, tuân theo thực hiện.

Tính chất của quá trình xã hội hoá: Theo Tony Bilton xã hội hóa là "Một

quá trình khó khăn, phức tạp và rộng khắp” [10, tr.29] bởi vì xã hội hoá chính là

việc tạo lập diện mạo của tất cả các quan hệ xã hội, của tất cả các hoạt động của

con người, cho dù con người và nhóm xã hội có thể nhận thức được hay không

nhận thức được trong quá trình hoạt động.

Vận dụng lý thuyết xã hội hoá vào việc phân tích hiểu biết của nhóm xã

20

hội thanh niên chưa kết hôn về Luật Hôn nhân và gia đình, cần phải đi sâu, làm

rõ đặc trưng xã hội của nhóm xã hội này, gồm: hoàn cảnh, điều kiện kinh tế-xã

hội mà họ đang sống và hoạt động; đặc trưng văn hoá tiểu gia đình mà họ đã

sinh ra, lớn lên; hệ thống giáo dục và tri thức tự nhiên, xã hội, nghề nghiệp mà

họ được đào tạo, những chuẩn mực xã hội và khuôn mẫu hành vi tác phong mà

họ được định hướng tới cùng hệ thống truyền thông mà họ có thể tiếp cận;

những hình mẫu tiêu biểu mà họ ngưỡng mộ, định hướng, noi theo. Thậm chí cả

những loại hành vi, sai lệch xã hội mà hệ thống quản lý nhà nước đang điều

khiển, kiểm sát, điều chỉnh trong quá trình thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình

cũng là những yếu tố cần phải điều tra, làm rõ. Trên cơ sở này mà tiến hành

những đo lường cần thiết về nhận thức, thái độ của họ đối với ý nghĩa, tầm quan

trọng, nội dung chính của Luật Hôn nhân và gia đình. Từ đây mà làm rõ mức

hiểu biết thực tế của nhóm xã hội đặc biệt - thanh niên trước kết hôn với luật và

các văn bản pháp lý dưới luật của Luật Hôn nhân và gia đình.

Trong quá trình xã hội hoá, cá nhân nào lĩnh hội được càng nhiều các điều

Luật Hôn nhân và gia đình thì bản thân các cá nhân đó có được ý thức pháp luật

tốt hơn. Đồng thời sẽ là chủ thể có tác động trở lại đối với môi trường xã hội

nhiều hơn. Đầu tiên, chính bản thân họ sẽ là người có nhận thức đầy đủ về Luật

Hôn nhân và gia đình, tìm hiểu một cách sâu sắc về nó và sau đó là truyền đạt nó

đến cho các đối tượng để quán triệt và thực hiện Luật này.

1.1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề

hôn nhân - gia đình

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò của gia đình.

Người nói: “Hạt nhân của xã hội là gia đình, chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa

xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Điều đó có nghĩa rằng cơ sở cho một xã

hội mới cũng như sự đảm bảo cho thắng lợi của chúng ta trong tiến trình xây

dựng xã hội mới cần phải xây dựng một gia đình tốt.

Giữa gia đình và xã hội có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Gia đình là

nền tảng của xã hội. Sự giàu có của các gia đình, cá nhân tạo tiền đề cho một

quốc gia vững mạnh. Người nhấn mạnh: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã

21

hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt; gia đình tốt thì xã hội mới tốt”.

Theo sự hướng dẫn của Người, trong tiến trình phát triển Đảng ta luôn

nhấn mạnh vai trò quan trọng của gia đình. Chính việc củng cố xây dựng gia

đình truyền thống Việt Nam đã tạo cơ sở vững chắc đảm bảo thắng lợi của hai

cuộc trường kỳ kháng chiến bảo vệ đất nước. Trong điều kiện mới tập trung xây

dựng đất nước trên cơ sở phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng

ta càng chú ý và nhấn mạnh vai trò của gia đình. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VI đã xác định: “Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan

trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới”.

Quan điểm trên đã được cụ thể hóa trong các văn bản chính sách về gia

đình và đã thể hiện trong thực tế. Trước yêu cầu mới của công cuộc phát triển

phải đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế, năm 2005 Ban Bí thư đã

ban hành Chỉ thị số 49-CT/TƯ về xây dựng gia đình Việt Nam, trong đó khẳng

định “Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan

trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát

huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân

lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Với việc coi trọng vai trò của gia đình, từ năm 2001 Đảng và Nhà nước đã

quyết định lấy ngày 28-6 hàng năm là “Ngày gia đình Việt Nam”. Bên cạnh đó

đã thể chế hóa thành luật và ban hành các pháp lệnh và nghị định để hỗ trợ và

điều chỉnh các quan hệ gia đình và công tác gia đình. Chẳng hạn như Luật Hôn

nhân và Gia đình (2000), Luật Bảo vệ, Chăm sóc trẻ em (1991), Luật Phòng

chống Bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới; Luật Đất đai, Pháp lệnh người tàn

tật…

Đường lối của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước về gia đình đã

mở ra điều kiện thuận lợi cho củng cố và phát triển gia đình Việt Nam. Trên

thực tế hơn hai mươi năm qua đất nước, xã hội và con người Việt Nam đều đổi

mới. Kinh tế hộ gia đình đã có bước phát triển mạnh, trở thành bộ phận quan

trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần không nhỏ vào quá trình xóa đói

giảm nghèo. Vai trò của phụ nữ trong xã hội và gia đình được đề cao. Các hoạt

22

động cưới xin và lễ hội cũng có nhiều tiến bộ. Cuộc vận động "Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa", các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc

người có công thu hút sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Những

điều đó làm đẹp thêm những giá trị nhân văn của gia đình Việt Nam.

1.1.4. Hoàn cảnh ra đời và phát triển của Luật Hôn nhân và gia đình

Mục tiêu cuối cùng trong quá trình phát triển của mỗi một quốc gia là

nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Chính vì vậy, Nhà nước ta ngay

từ khi thành lập đến nay, đã có nhiều biện pháp nhằm từng bước nâng cao đời

sống của nhân dân, đặc biệt đã ban hành, chỉnh sửa, bổ sung củng cố hoàn thiện

hệ thống luật pháp.

Quan hệ hôn nhân là loại quan hệ tồn tại trong phát triển vận động trong

suốt đời sống con người. Nhà nước ta đã 3 lần ban hành Luật Hôn nhân và Gia

đình (1959, 1986, 2000). Luật Hôn Nhân và Gia Đình đầu tiên đã được Quốc

hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ nhất, kỳ họp thứ 11, thông qua

tại phiên họp ngày 29 tháng 12 năm 1959 (có hiệu lực ngày 13/1/1960) gồm 6

chương, 35 điều. Mục đích của bộ luật này là loại bỏ hệ thống hôn nhân dưới

chế độ phong kiến, khuyến khích và cho mọi người quyền tự do tìm hiểu và kết

hôn với nhau. Luật cũng nêu rõ nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền hạn của chồng

và vợ trong hôn nhân, những mối quan hệ giữa cha mẹ, con cái và ly hôn.

Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, tình yêu trở thành một nền tảng hợp

pháp cho hôn nhân. Các tài liệu của Đảng về bộ luật mới này được xuất bản

trong Nếp Sống Văn hóa đã chỉ ra rằng hôn nhân phải xuất phát từ tình yêu và

được xây dựng trên nền tảng của sự tự nguyện giữa hai con người. Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã xem bộ luật năm 1959 như “một phần không thể thiếu của công

cuộc cách mạng chủ nghĩa xã hội” vì nó “nhằm mục đích giải phóng người phụ

nữ”. Sự ban hành bộ luật năm 1959 về hôn nhân và gia đình là biểu hiện cho

quyết tâm xây dựng một xã hội mới, một gia đình xã hội chủ nghĩa mới, tạo ra

những điều kiện hợp pháp cho phụ nữ (và cả đàn ông) để tham gia các hoạt động

bên ngoài gia đình.

Cần phải nói thêm rằng, do đặc điểm lịch sử của nước ta, Luật Hôn nhân

23

và Gia đình năm 1959 sau khi ban hành, mới chỉ có hiệu lực ở miền Bắc. Ở

miền Nam, thời điểm áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình 1959 là ngày

25/3/1977 (ngày ban hành Nghị quyết 76/CP công bố danh mục văn bản pháp

luật áp dụng trong cả nước, trong đó có luật Hôn nhân và gia đình năm 1959).

Trước năm 1959, ở Việt Nam quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng có đăng

ký giá thú hoặc không có đăng ký giá thú vẫn tồn tại và được xã hội thừa nhận.

Do tồn tại lịch sử, sau năm 1959, ở miền Bắc nhà nước Việt Nam đã không chỉ

thừa nhận những quan hệ hôn nhân có đăng kí là hợp pháp mà cả những quan hệ

hôn nhân thực tế chưa đăng ký song thực tế đã tồn tại từ trước vẫn được coi là

hợp pháp. Tương tự như ở miền Bắc, những quan hệ hôn nhân xác lập trước

ngày 25/3/1977 ở miền Nam tuy không tuân theo nguyên tắc một vợ một chồng

vẫn được công nhận hợp pháp.

Kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, để tiếp tục xây

dựng và củng cố gia đình theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy

những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, xoá bỏ những tục lệ lạc hậu,

những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phòng kiến, chống ảnh hưởng

của chế độ hôn nhân và gia đình tư sản. Ngày 29/12/1986, Quốc Hội nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa khoá VII, kỳ họp thứ 12, thông qua Luật Hôn nhân và gia

đình sửa đổi gồm 10 chương, 57 điều (có hiệu lực vào ngày 3/1/1987).

Để đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy

truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xoá bỏ

những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình trong thêi kú c«ng

nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸; Đồng thời để nâng cao trách nhiệm của công dân,

Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình

Việt Nam, kế thừa và phát triển pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam,

ngày 09 tháng 6 năm 2000 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh gồm 13 chương

và 110 điều (có hiệu lực thi hành vào ngày 1/1/2001).

Để một văn bản luật được thực thi trong cuộc sống, cần có hệ thống

những văn bản dưới luật giải thích, hướng dẫn áp dụng chúng đó. Ví dụ: Để

24

hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 có Thông tư 60 ngày

22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao… Tương tự như vậy, để hưíng dẫn thi

hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày

20-1-1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao…

Đáng lưu ý là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (có hiệu lực từ ngày

1/1/2001) đã có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng và đặc biệt là có nhiều văn

bản pháp luật hướng dẫn áp dụng của Chính phủ. Những văn bản hướng dẫn của

Chính phủ không chỉ bao gồm những quy phạm mang tính chất của luật dân sự

chỉ để cơ quan hành chính thực hiện, áp dụng luật mà còn để Tòa án phải áp

dụng những quy định này khi giải quyết các án kiện về hôn nhân và gia đình. Cụ

thể: Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam về thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình. Nghị quyết

số 35/2000/NQ-QH là văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình

năm 2000 mà nội dung chủ yếu là xử lý đối với hôn nhân không có đăng ký kết

hôn. Các văn bản pháp luật hướng dẫn theo NQ 35/2000 là:

+ Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ (Nghị

định 77/2001)

+ Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày

3-1-2001.

+ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số

02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 hướng dẫn áp dụng một số qui

định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

+ Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành

Luật Hôn nhân và Gia đình.

- Nghị định của Chính phủ số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 về

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.

- Nghị định 68/ 2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết một số điều của

Luật hôn nhân và gia đình.

- Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi

25

hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính

phủ hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân gia đình về quan hệ hôn nhân và gia

đình có yếu tố nước ngoài.

- Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 Hướng dẫn áp dụng pháp

luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.

- Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 Hướng dẫn áp dụng pháp

luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình

- Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 Hướng dẫn áp dụng pháp

luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.

Như vậy là, Luật Hôn nhân và gia đình ra đời đã hơn nửa thế kỷ, trải qua

3 lần sửa đổi, bổ sung, Luật đã được hoàn thiện khá hoàn chỉnh. Dưới luật,

Chính phủ và các cơ quan thuộc chính phủ đã ban hành rất nhiều văn bản hướng

dẫn thi hành Luật. Tuy nhiên trong thực tế việc hiểu biết luật pháp nói chung và

Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng của người dân còn hạn chế. Tỷ lệ người am

hiểu Luật ít, nhiều người vẫn không quan tâm đầy đủ đến Luật hay thậm chí

không biết về Luật nên việc nghiêm túc thi hành Luật không cao.

Trên thực tế, từ khi Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2000) được ban hành

đến nay, tuy các phương tiện truyền thông đại chúng và truyền thông trực tiếp đã

đưa ra nhiều chương trình truyền thông - nhận thức, hiểu biết của cộng đồng với

Luật Hôn nhân và gia đình đã được nâng cao một bước. Việc chấp hành Luật Hôn

nhân và gia đình và xử lý những hành vi vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình đã

được tăng cường, song hiện tại vẫn còn nhiều việc phải làm để nâng cao hiểu biết,

thái độ và hành động thực hiện có hiệu quả Luật Hôn nhân và gia đình. Cụ thể,

hiểu biết về tuổi kết hôn của thanh niên trước hôn nhân tuy đã được đa số nắm

vững song vẫn còn những thanh niên kết hôn trước tuổi - tảo hôn. Ngoài ra, trong

những năm gần đây, số thanh niên có quan hệ tình dục trước hôn nhân, sống thử

có xu hướng gia tăng. Số này, có nhiều trong cả những nhóm thanh niên có học

vấn cao như sinh viên, học sinh, trí thức. Một số trong số này không biết luật có

quy định về vấn đề này không hoặc cho rằng đó là quyền tự do của mọi người.

Một số trường hợp bị bệnh lây truyền qua đường tình dục kể cả

26

HIV/AIDS hoặc bị những bệnh mà việc kết hôn có thể sẽ nguy hiểm cho sức

khỏe (bệnh tim, bệnh tâm thần…) nhưng không thông báo cho người vợ/chồng

tương lai của mình. Ngoài ra, những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của vợ

chồng, quyền sở hữu tài sản và phân chia tài sản khi ly hôn; trách nhiệm nuôi,

dạy con cái, trách nhiệm với cha mẹ, người thân, quyền thừa kế tài sản… nhiều

người nhất là thanh niên trước hôn nhân chưa nắm được. Do vậy, đời sống một

số gia đình trẻ đã có những vấn đề gây bất đồng, rạn nứt thậm chí phải ly hôn

ngay khi mới kết hôn một vài năm, thậm chí một vài tháng. Đây rõ ràng là,

những hiện tượng chứng tỏ Luật Hôn nhân và gia đình tuy đã được cả truyền

thông đại chúng lẫn truyền thông trực tiếp quảng bỏ song luật hóa vào đời sống

cộng đồng còn không ít vấn đề. Tiếp tục tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục

cộng đồng nhất là nhóm thanh niên trước hôn nhân vẫn là việc hết sức cần.

1.2. Những vấn đề đang đặt ra trong nghiên cứu về hôn nhân, gia đình và

Luật Hôn nhân và gia đình

Hôn nhân và gia đình là hình thức chung sống phổ biến của những người

trưởng thành khác giới. Nói như tác giả Phạm Thanh Vân trong bài viết "Một vài

ý kiến về thực trạng hôn nhân và gia đình ở Hà Nội" in trong cuốn Gia đình Việt

Nam ngày nay (Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội, 1996) do Giáo sư Lê

Thi chủ biên thì hôn nhân là hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa đàn ông và

đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và chung sống với nhau.

Hôn nhân là cơ sở của gia đình. Vì vậy, việc lập gia đình của thanh niên

từ xưa đến nay vẫn được xem là việc nghiêm chỉnh và hệ trọng, ở độ tuổi 15 trở

lên có 66% nam và 62% nữ hiện đang có vợ, có chồng. [26]

Theo số liệu điều tra cơ bản về gia đình Việt Nam, phụ nữ trong gia đình

thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá (khu vực miền Bắc) năm 2002 thì tỷ lệ

hôn nhân có đăng ký là 93,2% trong đó ở thành phố là 98%, đồng bằng 92,2%,

trung du miền núi 91,7%. Như vậy, tỷ lệ hôn nhân chưa đăng ký vẫn còn ở mức

6,8%. Điều này cho thấy sự xáo trộn trong định hướng giá trị giữa truyền thống

và hiện đại đã tác động khá mạnh đối với thanh niên, nhóm nhân khẩu xã hội

đặc thù. Quá trình xã hội hoá thanh niên diễn ra khá phức tạp cho thấy ở quan

27

niệm tình bạn, tình yêu, hôn nhân và hạnh phúc gia đình trong thanh niên rất đa

chiều và có nhiều thay đổi. Vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân và hiện

tượng sống chung trước hôn nhân có chiều hướng gia tăng do sự thiếu hiểu biết

về pháp luật của thanh niên đã để lại những hậu quả về sức khoẻ, đạo đức lối

sống, làm băng hoại giá trị chuẩn mực truyền thống của gia đình.

Hôn nhân và gia đình là một mảng đề tài rộng lớn bao gồm nhiều vấn

đề rất cần đƣợc các nhà khoa học nghiên cứu, lý giải. Một trong số đó là

nghiên cứu về cƣỡng bức tình dục trong hôn nhân. Tác giả Nguyễn Thị Kim

Dung trong luận văn tốt nghiệp đã nghiên cứu vấn đề "Cưỡng bức tình dục

trong hôn nhân” - nghiên cứu trường hợp tại xã Gia Vượng, huyện Gia Viễn,

tỉnh Ninh Bình và phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội. Tác giả cho rằng,

cưỡng bức tình dục trong hôn nhân xảy ra không phụ thuộc vào vị trí địa lí, tầng

lớp xã hội, độ tuổi hay trình độ văn hoá. Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân có

mối liên hệ mật thiết với các hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ khác.

Vấn đề bất bình đẳng giới đóng vai trò quan trọng và là cốt lõi của cưỡng

bức tình dục trong hôn nhân. Nó không chỉ ảnh hưởng đến vai trò tình dục của

mỗi giới và còn góp phần vào quá trình hình thành các hành vi bạo lực, cưỡng

ép và lạm dụng tình dục trong hôn nhân. Phụ nữ vẫn là nhóm yếu thế và thường

bị chồng ép buộc. Tuy nhiên, nam giới cũng là người chịu ảnh hưởng bởi hành

động cưỡng bức của mình. Họ có thể thoả mãn về mặt thể xác nhưng tâm lí

không hoàn toàn thoả mãn. Mặc dù vậy họ vẫn không nhận ra rằng đó là do tư

tưởng gia trưởng và sự thiếu hiểu biết về quyền phụ nữ, về sức khoẻ tình dục đã

dẫn họ đến tình trạng này. Đặc biệt là, cộng đồng và xã hội thiếu sự giúp đỡ đối

với các trường hợp cưỡng bức tình dục trong hôn nhân do nhận thức về tình dục

còn hạn chế khiến cho người phụ nữ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ở

lại và nhẫn nhịn chịu đựng sự cưỡng bức của chồng.

Năm 2003, TS. Nguyễn Văn Cừ ở Đại học Luật Hà Nội đã tiến hành đề

tài nghiên cứu về “Giải quyết hôn nhân thực tế theo Luật Hôn nhân và gia đình

năm 2000”. Theo tác giả, hầu hết các cặp vợ chồng trong diện khảo sát biết rất ít

thậm chí là không biết bất kỳ quy định nào trong Luật Hôn nhân và gia đình

28

trước khi kết hôn. Ngay cả lúc ly hôn thì khi ra toà chỉ có khoảng 17,1% có nắm

được một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình như quy định phân chia tài

sản, quy định về quyền nuôi con. Và phụ nữ là người thiệt thòi khi ly hôn vì có

tới gần 1/4 số cặp không có hoặc không giữ được giấy chứng nhận kết hôn. [28]

Có thể thấy, vấn đề gia đình và hôn nhân… đã thu hút được nhiều nhà

khoa học quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu về các văn bản pháp luật

chưa nhiều đặc biệt là nghiên cứu về Luật Hôn nhân và gia đình mới chỉ dừng

lại ở một vài đề tài cấp cơ sở, chưa có đánh giá toàn diện nào về nhận thức của

người dân về Luật Hôn nhân, gia đình và các văn bản pháp luật có liên quan

nhất là với nhóm thanh, thiếu niên.

Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội. Muốn xã hội

phát triển vững mạnh thì gia đình phải là thiết chế bền vững. Vì vậy, việc giáo

dục nhận thức cho thanh niên chưa kết hôn hiểu biết rõ hơn về Luật Hôn nhân

và gia đình là điều cần thiết. Đây là một thiết chế xã hội mang tính bắt buộc

được chuẩn hoá và được xã hội công nhận. Nó buộc các thành viên trong xã hội

phải tuân thủ để xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và định hướng cho thanh

niên phát huy được những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống vừa tiếp nhận

được những giá trị chân chính tốt đẹp của gia đình hiện đại.

1.3. Địa bàn nghiên cứu

1.3.1. Địa bàn nghiên cứu

Thành phố Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giới hạn trong khoảng từ 20o53‟ đến 21o23‟ vĩ độ Bắc, 105o44‟ đến 106o02‟ kinh độ Đông, tiếp giáp với 5 tỉnh:

Thái Nguyên ở phía Bắc, Bắc Ninh, Hưng Yên ở phía đông, Hoà Bình ở phía

nam và Vĩnh Phúc phía tây. Tháng 8/2008 Hà Nội sáp nhập với tỉnh Hà Tây nâng tổng diện tích tự nhiên từ 918,1km2 lên thành 3672,4km2. Hà Nội nằm hai

bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng lâu đời. Hà

Nội có vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế,

văn hoá, khoa học và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.

Theo tổng tra dân số, đến 1/9/2001 Hà Nội có 2.931.400 người trong đó

29

dân số thành thị là 1.659.000 dân số nông thôn là 1.272.400 người. Tỷ lệ tăng

dân số tự nhiên là 1,08%. Hà Nội có mật độ dân số cao nhất khu vực các tỉnh

phía Bắc, đứng thứ hai so với cả nước, sau thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1990, mật độ dân số là 2.223 người/km2, năm 2002 là 3000 người/km2. Mật độ khu vực nội thành có tỷ lệ đặc biệt cao là 18.246 người/km2.

Năm 1990, toàn thành phố chỉ có 220 xã, phường với 4 quận là Ba Đình;

Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng và Đống Đa. Đến năm 2003, Hà Nội thành lập thêm 5

quận mới là Hoàng Mai, Cầu Giấy, Tây Hồ, Long Biên, Thanh Xuân nâng cao tổng

số quận nội thành lên 9 quận và 5 huyện ngoại thành. Tháng 8/2008 khi Hà Nội sáp

nhập với Hà Tây đã mở rộng địa giới hành chính của thủ đô lên gấp 4 lần và nâng

tổng số quận/huyện từ 14 thành 29 quận/huyện với 577 phường/xã, thị trấn.

Hà Nội đang trong quá trình đô thị hoá nhanh cùng với sự phát triển mạnh

về kinh tế - xã hội, do đó sức hút của các luồng di dân từ các tỉnh trong cả nước.

Tốc độ tăng dân số cơ học chiếm tỷ lệ đáng kể. Năm 1995 có 0.8% dân số từ

tỉnh ngoài di cư tới Hà Nội; năm 1997 có 2,1% (gấp 2.6 lần so với năm 1995),

năm 1998 là 1,12%. Như vậy, bình quân mỗi năm có khoảng 1,5% dân số là dân

từ tỉnh ngoài vào Hà Nội.

Trong gần 20 năm qua, từ năm 1990 đến nay, Hà Nội đang tiến vào thời

kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt nhiều thành tựu quan trọng: kinh tế phát

triển, chính trị ổn định, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần nhân dân được nâng

lên và cải thiện rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng GDP liên tục trung bình từ 1990 đến

nay là 16.8%.

Mặc dù trong nhiều năm qua kinh tế Hà Nội tăng trưởng liên tục, đời sống

nhân dân được cải thiện nhưng nhìn chung đại bộ phận dân cư còn gặp nhiều

khó khăn, ảnh hưởng đến các quan hệ trong gia đình. Hệ thống cơ sở hạ tầng

còn thấp, quá tải về giao thông, nhà ở, ô nhiễm môi trường... Nhiều vấn đề xã

hội bức bách tác động xấu đến quan hệ gia đình, tỷ lệ ly hôn tăng.

- Địa bàn khảo sát

Quận Cầu Giấy và phƣờng Nghĩa Tân

Quận Cầu Giấy nằm ở phía Tây thành phố, là một trong 9 quận nội thành

30

cũ của thành phố Hà Nội, đang trong quá trình đô thị hoá nhanh, dân số là

142.800 người. Quận có 7 phường, 398 tổ dân phố, 33.170 hộ, tỷ lệ các gia đình

có độ tuổi từ 18-30 chiếm 1/3.

Phường Nghĩa Tân là một trong 7 phường mới được thành lập của quận

Cầu Giấy thuộc thành phố Hà Nội. Phường có 8 cụm dân cư, 61 tổ dân phố. Dân

số của phường chủ yếu sống trong các khu nhà cao tầng dành cho cán bộ, viên

chức nhà nước. Trên địa bàn phường còn có nhiều cơ quan Trung ương, đơn vị

quân đội đóng. Đời sống vật chất của phường có nhiều cải thiện.

Huyện Đông Anh và xã Vĩnh Ngọc

Huyện Đông Anh nằm phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội, huyện đang trong quá

trình đô thị hoá nhanh. Kinh tế toàn huyện những năm vừa qua tăng ở mức cao.

Giá trị sản xuất các ngành kinh tế trên địa bàn năm 2007 tăng 2,77 lần so với

năm 2002, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 5 năm đạt 22,65%. Cơ cấu kinh tế

chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, tỷ trọng giá trị sản xuất

ngành nông nghiệp ngày càng giảm, xuất hiện ngày càng nhiều khu công

nghiệp. Huyện có 18 xã với gần 35.000 hộ, dân cư chủ yếu làm nông nghiệp.

Xã Vĩnh Ngọc là một xã thuần nông, nằm ven sông Hồng phía tây huyện

Đông Anh. Xã có 8 thôn, năm 2006 dân số của xã là 34.176 người. Nhân dân

trong huyện chủ yếu làm nông nghiệp. Vĩnh Ngọc là một trong những xã nghèo

nhất của huyện Đông Anh. Trong những năm qua, cơ cấu nội ngành nông

nghiệp đang dần chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn

nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, cây hàng hoá có giá trị kinh tế cao. Đời sống của

người dân trong vùng có nhiều cải thiện.

1.4. Các khái niệm cơ bản trong nghiên cứu

1.4.1. Hiểu biết

Hiểu biết là khái niệm chỉ mức nhận thức của con người đối với các sự

vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Hiểu biết được chia thành những cấp

độ: Hiểu biết sâu sắc, hiểu biết chưa sâu sắc, hiểu biết bên trong - bản chất, hiểu

biết bên ngoài - chưa bản chất, hiểu biết đúng, hiểu biết sai, hiểu biết rộng, hiểu

31

biết hẹp. Song dù ở cấp độ nào, hiểu biết của con người cũng xuất phát từ nhận

thức mà con người do sự phản ánh sự vật hiện tượng của thế giới khách quan. Vì

vậy, về cơ bản, hiểu biết của con người được quy về nhận thức của họ.

Theo từ điển Tiếng Việt: "Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh

và tái hiện hiện thực trong quá khứ".[20]

V.I.Lênin định nghĩa: "Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan bởi

con người, nhưng đó không phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn chỉnh

mà là một quá trình, cả một chuỗi sự trừu tượng, sự cấu thành, sự hình thành ra

các khái niệm, quy luật và chính các khái niệm, quy luật này bao quát một cách

có điều kiện, gần đúng quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn vận động

và phát triển".[21]

Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào

trong tư duy, nhận biết và hiểu biết thế giới khách quan, trong quá trình hoạt

động thực tiễn xã hội". [22]

K.K.Platonov định nghĩa: “Nhận thức là một quá trình tiếp nhận những tri

thức chân thực trong thế giới khách quan, trong quá trình hoạt động thực tiễn xã

hội”. [23]

Như vậy, nhận thức có nhiều định nghĩa khác nhau, song các định nghĩa

này đều nhấn mạnh đến sự hiểu biết của con người ở các mức độ khác nhau về

thế giới khách quan. Nhận thức chính là kết quả của quá trình con người tác

động vào tự nhiên, tìm hiểu tự nhiên, hiểu biết các quy luật vận động phát triển

của tự nhiên và xã hội. Nhận thức chính là hoạt động của con người nhằm hiểu

biết các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, và hiểt biết về chính bản

thân mình. “Nhận thức” là sự hiểu biết của con người về sự vật, hiện tượng nào

đó từ hình thức đến bản chất, dưới nhiều mức độ khác nhau. Do vậy, nhận thức

có khi đúng, có khi chưa đúng, khi đầy đủ, khi chưa đầy đủ, khi tốt và khi chưa

tốt.

Hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình chính là đối tượng nhận thức của

thanh niên trước hôn nhân mà luận văn muốn tìm hiểu. ở đây, hiểu biết được

32

xem xét dưới khía cạnh: ý nghĩa, tầm quan trọng của Luật, nội dung các điều

khoản chính quy định của luật; phạm vi và đối tượng điều chỉnh của luật và kết

quả mà luật đã được thực hiện.

1.4.2. Thanh niên: là một khái niệm được sử dụng nhiều trong nghiên cứu cũng

như trong cuộc sống hàng ngày với nhiều cách hiểu khác nhau, tuỳ theo từng

trường hợp. Có trường hợp "thanh niên" được dùng chỉ một con người nào đó cụ

thể, có khi được dùng để chỉ tính cách, trẻ trung của con người, có khi lại dùng

để chỉ một lớp người trẻ tuổi.

Tuỳ theo góc độ tiếp cận của mỗi ngành mà người ta đưa ra các định

nghĩa khác nhau về "thanh niên".

Về mặt sinh học, thanh niên được coi như một giai đoạn phát triển trong

cuộc đời con người mang những đặc điểm sinh học như trẻ khoẻ, đang phát triển

và hoàn thiện các chức năng sinh học, xã hội của con người trong giai đoạn đầu

của người trưởng thành.

Các nhà tâm lý học nhìn nhận thanh niên gắn với lứa tuổi đang phát triển

và định hình về nhân cách. Đây là giai đoạn con người dễ bồng bột, nhiệt tình,

hăng say song rất dễ mắc các sai lầm.

Các nhà kinh tế học nhấn mạnh thanh niên với góc độ là lực lượng lao

động trẻ, khỏe, đầy tiềm năng,là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ lao động trên

các lĩnh vực sản xuất vật chất và tinh thần.

Luật Thanh niên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra ngày

09 tháng 12 năm 2005, xác định thanh niên là nhóm công dân Việt Nam "đủ từ

mười sáu đến ba mươi tuổi".[17]

Nhìn từ góc độ xã hội học thanh niên là một nhóm dân số xã hội lớn được

phân chia theo khoảng tuổi trong đời sống con người (16-30 tuổi). Đây là nhóm

xã hội đang phát triển, trưởng thành về cả sinh học lẫn xã hội để gánh vác những

nhiệm vụ, trọng trách về cả kinh tế, chính trị và xã hội. Vì thế, vai trò của nhóm

xã hội thanh niên đặc biệt quan trọng trong đời sống mỗi con người và trong xã

hội. Thanh niên với việc kết hôn là một trong những mốc quan trọng đánh giá sự

trưởng thành về mặt xã hội cũng như nâng cao vị thế, vai trò của họ trong cả gia

33

đình và cộng đồng.

1.4.3. Hôn nhân: "Hôn nhân" là khái niệm được tiếp cận dưới nhiều góc độ

khác nhau. Ví dụ:

- Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn. [19]

- Hôn nhân là thể chế xã hội kèm theo các nghi thức xác định quan hệ giới

tính giữa hai hay nhiều người thuộc hai giới tính khác nhau (nam, nữ) được coi

nhau là chồng, vợ; Quy định mối quan hệ trách nhiệm giữa họ với nhau và giữa

họ với con cái của họ: Sự xác nhận đó trong quá trình phát triển xã hội dần dần

mang thêm những yếu tố mới…[24]

- Hôn nhân còn được xem xét như là sự cam kết chung sống giữa những

người trưởng thành khác giới được phê chuẩn của luật pháp. Những người kết

hôn có những quyền và nghĩa vụ đối với nhau, cũng như quyền nghĩa vụ đối với

con cái họ được sinh ra. Bất kể những khác biệt về văn hoá hôn nhân là một chế

định xã hội, đòi hỏi những điều kiện và thủ tục cần thiết như: tuổi kết hôn, phạm

vi kết hôn, những nghi thức về pháp lý, phong tục tập quán và nghi lễ tôn giáo

khi kết hôn… Giống như mọi chế định khác của xã hội, hôn nhân chịu sự tác

động của các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hoá trong lịch sử phát triển loài

người. Hôn nhân đã từng tồn tại nhiều hình thức khác nhau như: Chế độ một vợ

một chồng; Chế độ nhiều vợ/đa thê; Chế độ nhiều chồng/đa phu; Chế độ mẫu hệ

và chế độ phụ hệ; Hôn nhân đối ngẫu…[13]

Bàn tới "Hôn nhân" phải bàn tới khái niệm "kết hôn" - Theo ý kiến của

một số nhà nghiên cứu và quản lý xã hội, kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ

vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết

hôn.[19]

Về cơ bản kết hôn là qui trình xác lập trách nhiệm pháp lý của hai người -

nữ (vợ), nam (chồng) trong một nhóm xã hội - gia đình. Kết hôn phải được cơ

quan có chức năng quản lí nhà nước thừa nhận, đồng thời được cộng đồng

chứng kiến. Điều này không chỉ được ghi trong các văn bản luật pháp nhà nước

mà còn được qui định trong những luật tục của cộng đồng, nhiều khi hết sức

34

khắt khe.

1.4.4. Ly hôn: Là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết

định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc của cả hai vợ chồng.[19]. Ly hôn

là hiện tượng xã hội, pháp lý bình thường. Song ly hôn không dễ dàng với

những xã hội mà quyền con người và quyền tự do hôn nhân thiếu được tôn

trọng, các quan niệm về tín ngưỡng, tôn giáo, luật tục khắt khe.

1.4.5. Tiền hôn nhân

Theo quan niệm về "đường đời"; tiền hôn nhân là phần đầu của con

đường phát triển, tồn tại của một gia đình. Lúc này, nam và nữ thanh niên tìm

hiểu nhau trên cơ sở tình yêu để có thể đi đến quyết định chọn lựa người bạn đời

cho mình. Sự lựa chọn này mang tính chủ quan. Thực tế cho thấy, việc hai cá

nhân trong xã hội tìm hiểu nhau và trở thành vợ, chồng đã bị chi phối bởi các

nhân tố xã hội khác nhau. Đây là giai đoạn mà cá nhân chủ định xác lập quan hệ,

họ sớm cảm nhận về người kia và đưa ra những chuẩn mực, giá trị mà họ tin

rằng hợp với người kia.

Dựa trên lý thuyết Bánh xe tình yêu của I.Reiss (nghiên cứu quá trình từ

những kẻ xa lạ trở thành người thân. Ông chia bốn thời kỳ của một mối quan hệ

như sau: thời kỳ thân thiết và tin cậy lẫn nhau (rapport); tự bộc lộ (self-

revelation); Phụ thuộc lẫn nhau (Mutual dependency) và thoả mãn nhu cầu

riêng tư của cá nhân (personality need fulfiment). Theo ông “người ta phải lần

lượt trải qua các thời kỳ theo đúng trật tự trên, giống như quay hết một vòng

của bánh xe"), [27, tr 125] hai tác giả Mỹ D.Karp và W.Yoels phân tích giai

đoạn tiền hôn nhân theo hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ mới làm quen,

các cá nhân nam nữ có xu hướng đưa ra những hình ảnh tốt đẹp về mình, và che

giấu những thông tin mà họ cho rằng có thể sẽ làm hại đến việc xác lập quan

hệ… Đồng thời họ tìm cách khai thác thông tin về người kia và phần lớn chấp

nhận những hình ảnh tốt đẹp mà người khác đưa ra. Thời kỳ thứ hai là thời kỳ

phụ thuộc qua lại và gắn bó lẫn nhau. Quan hệ của cặp này không còn là việc

riêng của họ nữa; họ được công chúng (cha mẹ, bạn bè…) coi là một đôi, họ tiến

hành các hoạt động cho thấy mức độ gắn bó ngày càng tăng… Trong thời kỳ này

35

một số khó khăn có thể nảy sinh như cha mẹ và bạn bè một bên nào đó có thể

đánh giá tiêu cực về người kia và chất vấn chủ thể thấy gì, thích gì ở người

kia… [27, tr 126, 127]

Nhƣ vậy, tiền hôn nhân là khoảng thời gian từ lúc một người bắt đầu trưởng

thành đến khi lập gia đình. Do vậy, không chỉ người lớn mới bước vào thời kỳ

tiền hôn nhân mà có thể cả người ở tuổi vị thành niên - những người chưa phát

triển đầy đủ về mặt tâm lý, xã hội nhưng đã phát triển về bộ máy sinh sản - cũng

được xem như người đã bước vào thời kỳ tiền hôn nhân.

Như vậy, tiền hụn nhõn là một khỏi niệm chỉ khoảng thời gian trong cuộc

sống của con người, từ khi con người phát triển và hoàn thiện bộ máy sinh sản,

phát triển về nhân cách, xã hội trước khi kết hôn - lập gia đình. Thông thường

đây là lứa tuổi bắt đầu từ tuổi dậy thì đến hết tuổi thanh niên.

Trong nghiên cứu này, thanh niên tiền hôn nhân là những người trong độ

tuổi thanh niên theo quy định của luật pháp Việt Nam từ 16 tuổi đến 30 tuổi

nhưng chưa kết hôn.

1.4.6. Gia đình

- Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam định nghĩa: "Gia đình là một tập

hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do

quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các quyền lợi và nghĩa vụ giữa họ với

nhau".[19]

- Gia đình là thiết chế xã hội dựa trên cơ sở kết hợp những thành viên

khác giới thông qua hôn nhân để thực hiện các chức năng sinh học, kinh tế, văn

hoá, xã hội, tín ngưỡng. Khi gia đình đã có con thì các thành viên trong gia đình

được liên kết với nhau vừa bằng quan hệ hôn nhân vừa bằng quan hệ huyết

thống (theo dòng bố hoặc dòng mẹ). Gia đình là một phạm trù lịch sử thay đổi

cùng với sự phát triển xã hội. Ngày nay, nhiều người cho rằng, nếu về phương

diện hôn nhân người ta đi từ quần hôn đến hôn nhân cá thể thì trên lĩnh vực gia

đình, loài người đi từ đại gia đình (đại gia đình mẫu hệ, đại gia đình phụ hệ) đến

tiểu gia đình. Nói chung, người ta quan niệm đại gia đình bao gồm từ ba thế hệ trở

lên là một đơn vị kinh tế, là tế bào của xã hội. Tiểu gia đình cũng là một đơn vị

36

kinh tế, một tế bào xã hội nhưng chỉ bao gồm bố mẹ và con cái".[24]

- Gia đình là một khái niệm được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình

thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân (quan hệ tính giao và quan hệ tình cảm) và

quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ

hàng nội ngoại). Gia đình có thể hiểu như một đơn vị xã hội vi mô, nó chịu sự chi

phối của xã hội, song nó có tính độc lập tương đối. Nó có tính quy luật phát triển

riêng với tư cách là một thiết chế xã hội đặc thù. Những thành viên gia đình được

gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi kinh tế, văn hoá, tình cảm một cách

hợp pháp, được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ.[25]

1.4.7. Luật Hôn nhân và gia đình

Luật Hôn nhân và gia đình được nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khoá X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000. Luật Hôn nhân và gia

đình quy định chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của công dân, Nhà nước

và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam.[19]

Với ý nghĩa là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình là một hệ thống các quy

phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thể chế hoá, điều chỉnh các quan hệ

hôn nhân và gia đình - tức là các quan hệ về nhân thân và về tài sản giữa vợ và

chồng, giữa cha mẹ và các con và giữa những người thân thích ruột thịt khác trong

gia đình.

Luật Hôn nhân và gia đình cũng xác định: "Luật Hôn nhân và gia đình có

nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho các ứng xử của thành viên trong gia

đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam xây

37

dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững".

Chƣơng 2: Thực trạng nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên tiền hôn

nhân

2.1. Nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình

Gia đình là tế bào của xã hội, mỗi thành viên trong gia đình là một phần

tử làm lành mạnh tế bào ấy. Thanh niên - thế hệ trẻ của đất nước, là người chủ

tương lai của gia đình và của quốc gia, vì thế họ phải là những người tiên phong

trong việc học hỏi, tìm hiểu nắm chắc những quy định có tính luật pháp để xây

dựng gia đình trong đó đặc biệt là Luật Hôn nhân và gia đình. Đây chính là hành

lang pháp lý cho tất cả mọi người, đặc biệt với những thanh niên đang chuẩn bị

kết hôn.

Làm rõ về hiểu biết của thanh niên trước hôn nhân với Luật Hôn nhân và

gia đình, trước tiên cần phải xem xét thanh niên đã hiểu như thế nào về ý nghĩa,

tầm quan trọng của luật này. Tổng hợp số liệu từ khảo sát cho thấy hầu hết thanh

niên đều cho rằng hiểu biết Luật Hôn nhân và gia đình là rất cần thiết. Chỉ có

một số rất ít cho sự hiểu biết này là không cần thiết. (Xem số liệu biểu đồ 1)

Biểu đồ 1 cho thấy có tới 77,8% thanh niên, chiếm hơn 3/4 tỷ lệ thanh

niên được hỏi đánh giá cao việc cần thiết phải hiểu biết về Luật Hôn nhân và

gia đình. Đây là một chỉ báo phản ánh nhận thức khá tích cực của thanh niên

38

hiện nay.

Tuy nhiên, nếu so sánh với những chỉ báo về mức chủ động tìm hiểu Luật

Hôn nhân và gia đình của thanh niên thì giữa nhận thức và hành vi của thanh

niên trong tìm hiểu Luật Hôn nhân và gia đình còn một khoảng cách khá xa.

Thực tế, thanh niên hiện nay chưa có sự chuẩn bị tích cực để tự trang bị cho

mình những kiến thức mà họ cho là rất cần thiết. Phải chăng, thanh niên tuy đã ý

thức được tầm quan trọng của Luật Hôn nhân và gia đình nhưng trong cuộc sống

họ bị cuốn hút vào nhiều công việc đời thường mà chưa có thời gian, điều kiện

tìm hiểu một cách sâu sắc về những nội dung của luật? Hơn nữa, việc tuyên

truyền quảng bá luật có thể chưa có nhiều hình thức và biện pháp thích hợp nên

chưa thực sự cuốn hút đối với giới trẻ? Điều này đặt ra với các nhà quản lý

nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến Luật Hôn nhân và gia đình một cách thích hợp

hơn. Trước hết, cần có chiến lược truyền thông cụ thể nhằm đưa những nội dung

của luật tới quần chúng nhân dân, nói chung và tầng lớp thanh niên, nói riêng.

Điều đáng quan tâm là, dù số thanh niên được hỏi có tỷ lệ trả lời cao khi

đánh giá về sự cần thiết phải biết Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng chủ động,

tích cực tìm hiểu thì chưa tốt. Hơn nữa, số trả lời Luật Hôn nhân và gia đình là

tương đối cần thiết, không cần thiết và không biết có cần không cũng còn tới

22,2% (gần 1/4 số người được hỏi). Điều này cho thấy ý thức của một bộ phận

thanh niên với Luật nhất là Luật Hôn nhân và gia đình còn chưa thật cao. Lý do

để cắt nghĩa tình trạng này có nhiều. Nhưng thói quen tìm hiểu luật, nắm luật, thi

hành luật trong cộng đồng dân cư nước ta còn thấp, kể cả với Luật Hôn nhân và

gia đình - luật gắn liền với đời sống của mỗi người, mỗi gia đình. Phỏng vấn sâu

hội mình có mấy ai biết gì về luật pháp đâu. Nhiều người từ già tới trẻ đều chưa nắm vững

luật, vẫn lấy chồng, lấy vợ và sống yên ấm cả đấy chứ? Tôi nghĩ bần cùng bất đắc dĩ khi có

vấn đề giữa vợ và chồng như ly dị hay mẫu thuẫn, tranh chấp thì lúc đó mới cần quan tâm

đến luật. Biết nhiều chỉ thêm mệt đầu ra có khi biết nhiều quá lại hay vận dụng để cãi nhau,

gây mất đoàn kết gia đình không khéo gia đình lại lủng củng ấy”.

một nữ thanh niên, 27 tuổi, làm nông nghiệp cho thấy rõ điều này: “Tôi thấy ở xã

Khi được hỏi về thời điểm mà thanh niên cần hiểu biết về Luật Hôn nhân

và gia đình thì có 46,2% ý kiến cho rằng cần hiểu biết Luật Hôn nhân và gia

39

đình khi bước vào tuổi 16; 34,6% cho là cần thiết phải tìm hiểu luật hôn nhân

khi đủ tuổi kết hôn. Nhìn chung, thanh niên đã ý thức được việc tìm hiểu Luật

Hôn nhân và gia đình khi họ đã là người trưởng thành, đủ tuổi kết hôn, đủ những

tri thức cần thiết để làm chủ gia đình và làm chủ cuộc sống của mình.

Bảng 1: Tương quan giữa thời điểm cần thiết hiểu biết Luật Hôn nhân và gia đình với giới tính (%)

Giới tính Tổng Nội dung Nam Nữ

% 11,9 39,3 31,5 % 3,5 50,7 36,6 % 6,7 46,3 34,6

SL 25 83 67 5 SL 6 94 68 3 SL 27 184 137 8 2,3 1,7 1,9

Dưới 16 tuổi Khi bước vào tuổi 16 Khi đủ tuổi kết hôn Khi có quan hệ với bạn khác giới Khi có người yêu Khi chuẩn bị kết hôn Sau khi kết hôn Sau khi sinh con Tổng 8,6 6,4 0 0 100 18 14 0 0 212 8 4 1 1 185 4,3 2,0 0,6 0,6 100 24 15 1 1 397 6,0 3,7 0,4 0,4 100

So sánh tương quan giới tính trong việc trả lời thời điểm thanh niên cần

thiết phải hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình, thì thấy, rõ ràng, nữ giới đã có

câu trả lời chính xác hơn so với nam giới.

Khi bước vào tuổi 16, tuổi phát triển khá đầy đủ về sinh học của mỗi con

người. Vì thế, ở lứa tuổi này, nhiều thanh niên đã bắt đầu nảy sinh tình cảm khác

giới. Do vậy, họ cần bắt đầu tìm hiểu về Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên,

khi trả lời bước sang tuổi 16 cần có sự hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình

không, thì chỉ có 39,3% nam thanh niên đồng tình. Trong khi đó có tới 50,7%

nữ giới cho là cần thiết phải tìm hiểu vấn đề này. Điều này một lần nữa chứng tỏ

sự phát triển và quan tâm đến hôn nhân, gia đình và Luật Hôn nhân và gia đình,

giới nữ sớm hơn và cao hơn ở giới nam.

Xét tương quan với độ tuổi thì có 39,3% thanh niên trong độ tuổi từ trên

22 đến 30 được hỏi trả lời, thời điểm cần thiết phải hiểu biết về Luật Hôn nhân

và gia đình là khi đủ tuổi kết hôn; 35,7% cho là khi bước vào tuổi 16. Trong khi

40

đó thanh niên trong độ tuổi từ 18 đến 22 lại cho rằng thời điểm phù hợp là khi

có người yêu (35,3%). Chỉ có một tỷ lệ nhỏ trong số này cho là nên tìm hiểu

Luật dưới 16 tuổi (3,6%). Điều đáng chú ý là với thanh niên dưới 18 tuổi thì tỷ

lệ cho thời điểm thích hợp tìm hiểu Luật Hôn nhân và gia đình là lúc chuẩn bị

kết hôn và khi có quan hệ với bạn khác giới lần lượt là 47,9% và 43,2%. Số

đồng ý với đủ tuổi kết hôn cần phải biết về Luật chiếm tỷ lệ không cao chỉ

24,1%; còn với thanh niên trong độ tuổi từ 18-22 là 21,5% và ở độ tuổi trên 22-

30 là 31,7%. Điều này cho thấy, thanh niên trong các độ tuổi khác nhau có sự

khác biệt rõ rệt trong nhận thức về thời điểm cần thiết phải tìm hiểu Luật Hôn

nhân và gia đình. Phần đông thanh niên trong độ tuổi trên 22-30 có hiểu biết và

trình độ nên nhận thức của họ cũng tốt hơn khi cho rằng thời điểm cần thiết phải

biết Luật là khi bước vào tuổi trưởng thành. Ngược lại, với thanh niên dưới 18

tuổi, phông kiến thức chung còn chưa hoàn thiện nên nhận thức về vấn đề này

còn hạn chế khi họ cho là lúc nào kết hôn thì tìm hiểu Luật Hôn nhân và gia

đình là phù hợp.

Cũng tương tự, khi xét tương quan với khu vực sinh sống, thanh niên ở

nội thành đồng ý với phương án: khi đủ tuổi kết hôn là thời điểm thích hợp để

tìm hiểu luật là 51,4% so với 62,2% thanh niên ở ngoại thành cho là khi chuẩn

bị kết hôn. Như vậy, nhận thức của thanh niên ngoại thành có phần tốt hơn thanh

niên nội thành.

Tìm hiểu về nhận thức của thanh niên trước kết hôn với Luật Hôn nhân và

gia đình không thể không làm rõ mức hiểu biết của nhóm xã hội này với vai trò

của các cơ quan liên quan đến việc tổ chức, tuyên truyền, kiểm tra, giám sát việc

thực hiện Luật. Tổng hợp số liệu từ cuộc điều tra cho thấy cơ quan có trách

nhiệm giám sát, thực hiện Luật hôn nhân gia đình là Tòa án nhân dân, Viện

Kiểm sát nhân dân. Còn những cơ quan tuyên truyền chủ yếu là đoàn thể chính

trị, hiệp hội, nhà trường và nơi làm việc.

Tương tự như vậy, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Hội

Phụ nữ, Đoàn Thanh niên được những thanh niên tham gia trả lời phiếu cho là

những cơ quan chịu trách nhiệm chính và tham gia trong việc hướng dẫn thi

41

hành Luật Hôn nhân và gia đình. Đây cũng là một hiểu biết chính xác. Tuy

nhiên, số hiểu biết chính xác về vấn đề này cũng đang chỉ chiếm trên dưới 1/3 số

người được hỏi ý kiến. Điều này cho thấy, nhìn tổng thể, thanh niên trước hôn

nhân hiểu biết về cơ quan, tổ chức hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia

đình cũng còn chưa thật tốt. Đây là điều cần phải chú ý để đẩy mạnh việc tuyên

truyền, quán triệt về sau.

Bảng 2 : Trách nhiệm thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình (%)

Trách nhiệm

Cơ quan Hướng dẫn Giám sát Tuyên truyền

SL % SL % SL %

Chính quyền 148 37,2 128 32,2 92 23,2

Tòa án, viện kiểm sát 52 13,0 287 72,2 47 11,9

Quốc hội, hội đồng nhân dân 135 34,0 158 39,9 87 22,0

Sở Văn hóa, Thể thao, Du lịch 124 31,2 63 15,9 146 36,7

Hội phụ nữ 137 34,6 21 5,2 196 49,5

Đoàn thanh niên 122 30,8 13 3,4 204 51,4

Đoàn thể, hiệp hội khác 73 18,4 46 11,7 265 66,9

Nhà trường, nơi làm việc 100 25,1 41 10,4 238 60,1

Gia đình và cộng đồng 154 38,9 73 18,4 139 35,2

Riêng việc tuyên truyền thực hiện luật, theo trả lời của những thanh niên

được hỏi ý kiến, chủ yếu thuộc trách nhiệm của các tổ chức chính trị, đoàn thể

và nhà trường. Tuy nhiên, nếu đi sâu phân tích, 66,9% ý kiến cho rằng tuyên

truyền thuộc trách nhiệm các đoàn thể, hiệp hội, 60,1% cho là thuộc trách nhiệm

của nhà trường và cơ quan làm việc, 51,4% và 49,5% ý kiến cho đấy là trách

nhiệm thuộc Đoàn thanh niên và Hội Liên hiệp Phụ nữ. Như vậy, trách nhiệm

thực hiện những mặt công tác khác nhau của Luật Hôn nhân và gia đình đã được

thanh niên trước hôn nhân hiểu tùy thuộc vai trò và chức năng của từng cơ quan

ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội. Nhìn chung, đa số thanh niên đã có cái nhìn

thực tế về công tác tuyên truyền thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình. Đây là

42

nhiệm vụ của thế hệ trẻ và những cơ quan có chức năng tổ chức thực hiện việc

vận động quần chúng như các hội, đoàn thể... Còn việc giám sát thì thuộc trách

nhiệm của những cơ quan ban hành luật.

2.2. Nhận thức về các nội dung cụ thể trong Luật Hôn nhân và gia đình

Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định chi tiết những vấn đề cụ thể.

Trong đó, các vấn đề liên quan đến kết hôn, đến quan hệ vợ chồng, đến quan hệ

giữa những người khác trong gia đình, đến những hiện tượng mới về tình dục,

tình yêu, hôn nhân - sống thử. Do vậy, để làm rõ mức hiểu biết của thanh niên

trước hôn nhân về Luật Hôn nhân và gia đình, cần phải xem xét, phân tích từng

nội dung cụ thể của Luật.

2.2.1. Về các nội dung liên quan đến kết hôn

2.2.1.1. Điều kiện kết hôn

Theo kết quả điều tra, chỉ có 32,7% thanh niên chưa kết hôn được hỏi biết

rất rõ và 42,2% biết sơ qua về các điều kiện liên quan đến kết hôn. Trong tương

quan với giới thì tỉ lệ tương ứng là:

Bảng 3: Mức nhận thức về điều kiện kết hôn (%)

Nam Nữ Nhận thức SL % SL %

Biết rất rõ 86 40,7 50 26,9

Biết sơ qua 92 43,3 76 41,3

Chỉ nghe nói 34 16,0 59 31,7

Tổng 212 100 185 100

Như vậy, mức nhận thức về điều kiện kết hôn của nam thanh niên và nữ

thanh niên là khá khác nhau. Trong khi nam biết rõ và biết qua về Luật tới 84%

thì chỉ có 68,2% nữ thanh niên biết về những quy định này. Tuy nhiên, nếu cộng

cả số thanh niên tiền hôn nhân chỉ mới nghe nói đến Luật thì hầu hết thanh niên

được hỏi đã tiếp cận được với Luật Hôn nhân và gia đình ở những mức độ khác

nhau. Tỷ lệ chênh lệch giữa nam và nữ tuy có khác nhau ở mức biết rõ (40,7%

nam so với 26,9% nữ) song số nghe nói và biết qua thì nữ thanh niên lại nhiều

hơn nam thanh niên tương ứng với tỷ lệ 73% so với 69,3%. Có tình trạng trên

43

phải chăng nam thanh niên được khảo sát trong cuộc nghiên cứu này có độ tuổi

và trình độ học vấn cao hơn nên có nhiều điều kiện, thời gian hơn để đọc, nghiên

cứu và tìm hiểu Luật Hôn nhân và gia đình.

Điều đáng quan tâm ở đây là thanh niên chưa kết hôn trong độ tuổi từ 18-

22, độ tuổi được quyền quyết định các vấn đề liên quan đến hôn nhân, chỉ có

14,3% biết rất rõ điều kiện kết hôn, 26,6% biết sơ qua, 12,4 % chỉ mới nghe nói

về nội dung này. Điều này cho thấy, hiện tại ở Hà Nội, số thanh niên nam, nữ

chưa kết hôn ở độ tuổi được phép kết hôn (18 tuổi trở lên với nữ và 20 tuổi trở

lên với nam) nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình còn khá yếu. Chỉ có

14,3% biết rõ điều kiện kết hôn điều mà đáng ra đa số thanh niên nam, nữ phải

nắm chắc. Đây là khoảng trống về nhận thức của thanh niên chưa kết hôn đáng

phải lấp đầy thì đến khi kết hôn, cuộc hôn nhân của họ mới thật sự bền vững.

Trong tương quan với học vấn, chỉ có 24,5% thanh niên từ lớp 12 đến đại

học biết rất rõ về điều kiện kết hôn ở trong luật. Đây là những chỉ báo không

cao. Chứng tỏ phần đông thanh niên nam, nữ trước kết hôn còn chưa hiểu rõ

những quy định về điều kiện kết hôn đã được Luật quy định.

Một vấn đề khác cũng cần phải chú ý khi đánh giá về Luật Hôn nhân và

gia đình, đó là, có những quy định gì được phép và cấm kết hôn. Chỉ xét vấn đề

qua 3 chỉ báo: hôn nhân là tự do? Kết hôn với người nước ngoài? và hôn nhân

giữa những người khác biệt về tôn giáo? Tổng hợp số liệu từ cuộc điều tra cho

thấy như sau:

Bảng 4: Hiểu biết về quan điểm hôn nhân trong Luật (%)

Nội dung Biết rõ Biết sơ qua Mới nghe nói

SL % SL % SL %

366 373 Hợp pháp 94,0 85,4

16 92,3 339 194 0 Vi phạm 0 4,2 4,9

Hôn nhân là tự nguyện giữa hai người 13 39 Không quy định 24 6,0 3,5 9,8

319 340 313 Hợp pháp 78,9 80,4 85,7

58 31 38 Vi phạm 9,5 14,7 7,8 Được kết hôn với người nước ngoà

44

25 47 19 4,8 6,3 11,8 Không quy định

322 287 282 Hợp pháp 81,2 72,3 71,1

19 46 47 Vi phạm 5,0 11,7 12,0

Hôn nhân không phân biệt tôn giáo 64 67 Không quy định 55 13,9 16,1 16,9

Bảng số liệu 4 cho thấy, tuyệt đại đa số thanh niên được hỏi đã biết chính

xác hôn nhân là tự nguyện (94%). Hôn nhân với người nước ngoài cũng là quy

định hợp pháp 85,7%. Số cho đây là hành vi vi phạm chỉ 9,8%. Còn hôn nhân

không được phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng có tính hợp pháp có 81,2% ý kiến

được hỏi đồng tình. Trong khi đó, có 5% cho rằng đây là hành vi vi phạm và

13,9% cho rằng điều này chưa được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình.

Xét tương quan với giới tính thì tỷ lệ thanh niên cho các phương án trên là

hợp pháp và có quy định trong Luật chiếm tỷ lệ khá cao (từ 77,4% đến 93,6%).

Trong đó, không có sự chênh lệch đáng kể trong các phương án trả lời giữa nam

và nữ. Tỷ lệ cho là vi phạm hoặc không quy định trong Luật thấp (dưới 15%).

Đây là những hiểu biết khá tốt.

Bảng 5: Tương quan giữa hiểu biết về quan điểm hôn nhân trong Luật với giới tính (%)

Nam Nữ Nội dung

Hôn nhân là tự nguyện giữa hai người

Được kết hôn với người nước ngoài

Hôn nhân không phân biệt tôn giáo Hợp pháp Vi phạm Không quy định Hợp pháp Vi phạm Không quy định Hợp pháp Vi phạm Không quy định SL 127 9 12 106 13 18 147 2 8 Tỷ lệ 85,8 6,1 8,1 77,4 9,5 13,1 93,6 1,3 5,1 SL 144 7 14 134 12 19 162 6 11 Tỷ lệ 84,7 6,5 8,2 81,2 7,3 11,5 90,5 3,4 6,1

Như vậy, ngay cả những vấn đề mới xuất hiện như: Hôn nhân với người

nước ngoài, cộng đồng thanh niên trước hôn nhân ở Hà Nội đã có hiểu biết tốt.

Đây là điều đáng ghi nhận. Thực tế, Luật Hôn nhân và gia đình đã có những quy

định cụ thể và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những công dân có liên quan. Ví

dụ: Điều 100 Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn

45

nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh đó, nghiêm cấm lợi dụng việc

kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với

phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác (Điều 103).

2.2.1.2 Đăng kí kết hôn

Hôn nhân là mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong cuộc đời mỗi

con người. Trước cách mạng, việc kết hôn thường được tổ chức bằng một đám

cưới nhằm thông báo rộng rãi cho bạn bè, họ hàng và các bên thành hôn biết về

cuộc hôn nhân. Đó không chỉ là nét văn hoá truyền thống vốn có của dân tộc

Việt Nam thể hiện nếp sống, cũng như nếp nghĩ của người Việt từ nhiều đời

nay. Ngoài sự đồng ý của gia đình hai bên nhà trai và nhà gái thì một yếu tố

cũng hết sức quan trọng đó là sự chấp nhận của xã hội - chính quyền nơi cư trú.

Khi được hỏi về vấn đề tổ chức đám cưới nam, nữ có cần đăng ký kết hôn

không? Nhìn chung, những người được hỏi đều chọn phương án cần thiết vì đăng

ký kết hôn là cơ sở để đảm bảo quyền lợi đôi bên với 83,5% số người lựa chọn.

Bên cạnh đó tỷ lệ những người chọn phương án không biết rõ về quy định đăng

ký kết hôn chỉ là 1,3%, chiếm tỷ lệ thấp nhất trong các tiêu chí được đưa ra khảo

sát.

Như vậy số liệu điều tra cho thấy rằng, nhận thức về tầm quan trọng của

việc đăng ký kết hôn của thanh niên trước hôn nhân nhìn chung là tốt. Đây là

dấu hiệu khá lạc quan khi xem xét ý thức chấp hành pháp luật của thanh niên

trong việc đăng ký kết hôn trước khi làm đám cưới.

Tuy nhiên khi đi vào sâu phân tích những lí do khác nhau đưa đến hiểu

biết về việc cần thiết phải đăng ký kết hôn thì còn nhiều vấn đề phải bàn. Trước

hết, có 16,4% thanh niên trước hôn nhân được hỏi phải đăng ký kết hôn vì để

bảo vệ quyền lợi cho riêng phụ nữ. Ngoài ra, còn có 6,5% thanh niên trả lời

không cần thiết phải đăng ký kết hôn vì cái ràng buộc hôn nhân chính là tình yêu

chứ không phải đăng lý pháp lý. Cũng như vậy, còn có 2,5% thanh niên được

hỏi trả lời chỉ cần tổ chức đám cưới là mọi người khắc biết, đăng ký kết hôn

không cần. Bên cạnh đó, cũng còn 3,3% thanh niên được hỏi cho rằng pháp luật

không bắt buộc phải đăng ký kết hôn. Dù cho tỷ lệ những ý kiến trên là ít, chỉ

46

vài ba phần trăm số người được hỏi, song ngay tại thủ đô Hà Nội, thông tin

truyền thông thường xuyên, dân trí cao, hoạt động xã hội cho việc tuyên truyền

luật pháp nhiều mà còn thanh niên chưa biết khi thành lập gia đình phải đăng ký

kết hôn thì đây là khoảng trống về truyền thông cần phải tăng cường. Trách

nhiệm này trước hết thuộc về các cơ quan Đảng, chính quyền, các đoàn thể

chính trị xã hội và cả cộng đồng.

Ngoài yếu tố quyết định có nên hay không đăng ký kết hôn khi tổ chức

đám cưới, thì vấn đề lựa chọn thời điểm đăng kết hôn cũng thể hiện cách nhìn

47

nhận của cả nam và nữ trong việc chấp hành luật có nghiêm túc hay không?

Qua biểu trên ta thấy rằng, phương án lựa chọn thời điểm đăng ký kết hôn

tốt nhất là trước khi cưới với 91% số người lựa chọn chiếm vị trí cao nhất trong

số các phương án được đưa ra. Điều đó cũng chứng tỏ rằng, việc đăng ký kết

hôn đối với những người sắp chuẩn bị tổ chức đám cưới là quan trọng. Đây là

hành vi lựa chọn hoàn toàn tích cực, đúng pháp luật.

Tuy vậy, vẫn còn một số thanh niên được hỏi (9%) cho rằng thời điểm

đăng ký kết hôn không nhất thiết phải là trước khi cưới, mà có thể vẫn chung

sống trước, sau đó mới đăng kí. Hay khi nào có con thì đăng ký để tiện cho việc

làm các thủ tục pháp lý khác cho con như giấy khai sinh, nhập hộ khẩu… Tỷ lệ

này không cao chỉ từ 0,2% đến 3,5% tổng số người được hỏi (xem biểu 3) nhưng

cũng là điều đáng phải suy nghĩ. Riêng về Kết hôn không cần đăng kí, vẫn có

thanh niên cho đó là hợp pháp (8,6% tổng số nam và 7,4% tổng số nữ). Một số lại

quan niệm là luật pháp không quy định (6,1% tổng số nam và 2,7% tổng số nữ).

Mặc dù đại đa số thanh niên được hỏi đều cho rằng việc đăng ký kết hôn

là cần thiết nhưng liệu họ có biết chính xác địa điểm đăng ký kết hôn hay

không? Tổng hợp số liệu điều tra cho thấy, Làm thủ tục kết hôn tại chính quyền

cơ sở nơi có hộ khẩu thường trú tỉ lệ thanh niên được hỏi khẳng định là khá cao

(84,2%). Trong đó, nam thanh niên là 79,2% và nữ thanh niên là 86,8%. Tuy

nhiên, nhận thức về nơi đăng kí kết hôn của không ít thanh niên vẫn còn khá mơ

hồ: 16,6% cho rằng được phép kết hôn ở Toà án, 12,3% khẳng định được phép

kết hôn ở các cơ quan đoàn thể và 14% đồng ý với việc được phép kết hôn ở Tổ

dân phố, trong khi đó Điều 11 của luật đã quy định rõ: Uỷ ban nhân dân xã,

phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên là nơi đăng ký kết hôn. Như

vậy, đa phần thanh niên đều biết chính xác địa điểm đăng ký kết hôn nhưng vẫn

còn một bộ phận không nhỏ - gần 16% số người được hỏi - chưa biết chính xác

địa điểm này.

Một vấn đề khác liên quan đến thủ tục kết hôn thì một bộ phận thanh niên

chưa kết hôn còn lúng túng khi được hỏi trao giấy chứng nhận kết hôn cho ai?

Vẫn còn 13,2% thanh niên nam và 8,8% thanh niên nữ cho rằng Khi trao giấy

48

kết hôn phải có mặt cả hai bên nam nữ kết hôn là điều mà luật không quy định.

Trong đó, điều 14 của luật quy định về việc tổ chức đăng kí kết hôn có ghi: Khi

tổ chức đăng kí kết hôn, phải có mặt hai bên nam nữ kết hôn. Đại diện cơ quan

đăng kí kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên

đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng kí kết hôn trao Giấy chứng nhận kết

hôn cho hai bên.

2.2.1.3. Về tuổi kết hôn

Nhằm xoá bỏ nạn tảo hôn, Luật Hôn nhân và gia đình quy định tuổi kết

hôn của nam và nữ phải từ 20 tuổi trở lên với nam và 18 tuổi trở lên với nữ. Tuy

nhiên, qua khảo sát còn không ít thanh niên chưa nắm chắc quy định này. Do

vậy, khi hỏi về tuổi kết hôn được quy định trong luật bao nhiêu thì có những

khoảng cách khá lớn trong các câu trả lời.

Với nội dung: Kết hôn phải đủ 18 tuổi đã có tới 78,8% cho là hợp pháp,

10,8% khẳng định là vi phạm pháp luật và 10,4% khẳng định là pháp luật không

quy định. Những số liệu trên cho thấy rằng, vẫn còn 21,2% thanh niên trước kết

hôn được hỏi không nắm vững độ tuổi được phép kết hôn được quy định trong

Luật. Đây là con số không nhỏ. Hơn nữa, trả lời đủ 18 tuổi được kết hôn đồng

nghĩa với việc cho rằng chỉ cần đủ 18 tuổi là thanh niên, cả nam và nữ, có thể

đăng kí kết hôn. Trong khi đó, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

đã quy định: Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được đăng ký kết

hôn (xem bảng 6)

Bảng 6: Điều kiện kết hôn trong Luật (%)

Không quy định Nội dung Hợp pháp SL % Vi phạm % SL SL %

313 78,8 43 10,8 41 10,4

83 20,8 261 65,8 53 13,4

Kết hôn phải đủ 18 tuổi đối với nữ và 20 tuổi đối với nam Kết hôn lứa tuổi nào cũng được, miễn là có tình yêu

Bảng số liệu trên cho thấy, đang còn 20,8% thanh niên trước kết hôn cho

rằng kết hôn lứa tuổi nào cũng được miễn là hai người có tình yêu. Đây là một

49

trong những nhận thức sai lầm cần khắc phục. Bởi lẽ, nó sẽ là những yếu tố gây

nên nạn tảo hôn hiện đang còn tồn tại trong cộng đồng xã hội. Ngoài ra, đây

cũng là biểu hiện của lối suy nghĩ còn đơn giản của cộng đồng dân cư khi việc

sống và làm theo luật pháp chưa thành nếp.

Điều này càng khẳng định khi tiến hành thảo luận nhóm ở một xã ngoại

thì tốt quá rồi, nhưng em nghĩ hôn nhân phải dựa trên tình yêu, có tình yêu thì mới có hôn

nhân. Tình yêu bền chặt rồi thì cũng không cần luật làm gì. Luật chỉ để cho những trường hợp

bất trắc để bảo vệ lợi ích của hai bên nhất là nữ. Luật cần thật nhưng để phòng thôi. Hơn nữa

ở xã em, hiểu luật chưa đầy đủ đâu nhưng ai cũng lấy chồng khi đủ 18 tuổi trở lên và ai cũng

lấy vợ khi đủ 20 tuổi trở lên. Tảo hôn chỉ những cặp đang yêu đã vỡ kế hoạch thôi. Số này

cũng chỉ ít thôi”.

thành, một nữ thanh niên sắp kết hôn phát biểu: “Có luật, hiểu biết và làm theo luật

hôn tôi chưa tìm hiểu Luật Hôn nhân và gia đình. Chỉ đến khi đăng ký kết hôn tôi mới được

người ta giới thiệu về Luật. Họ nói nhiều điều nhưng tôi ghi nhớ nhất là tuổi kết hôn của nam

là ngoài 20 tuổi, còn nữ là 18 tuổi trở lên. Tôi cũng được giới thiệu về trách nhiệm, nghĩa vụ

của vợ, chồng, cha mẹ và con cái. Nhưng họ đọc nhanh quá tôi cũng chỉ nhớ mang máng mà

thôi ”.

Một phỏng vấn sâu khác cũng cho những suy nghĩ tương tự: “Trước khi kết

Tương tự như vậy, khi hỏi "Theo bạn thanh niên nên kết hôn ở tuổi nào

thì phù hợp nhất với nam và với nữ?". Câu trả lời được tổng hợp như sau (bảng

7): với nam, tỷ lệ trả lời 24 tuổi là phù hợp có tới 38,9%; 20 tuổi là 23,9% và 22

tuổi là 13,4%; 18 chỉ có 4,2% đồng tình. Số còn lại không trả lời. Như vậy, với

nam thanh niên, có một bộ phận đáng kể cho là 24 tuổi trở lên kết hôn là phù

hợp. Nếu kể cả số đồng tình với tuổi 22 thì lên tới 51,7%.

Bảng 7 : Quan niệm lựa chọn độ tuổi kết hôn phù hợp với cả nam và nữ (%)

Tuổi 18 Tuổi 20 Tuổi 22 Tuổi 24 Không trả lời

Tuổi Giới SL % SL % SL % SL % SL %

Nam 17 4,2 95 23,9 53 13,4 152 38,3 80 20,2

50

Nữ 94 23,6 58 14,6 76 19,1 94 23,7 75 19,0

Còn với nữ thanh niên, có tới 23,6% chiếm gần 1/4 cho rằng kết hôn ở

tuổi 18 là phù hợp. Và cũng có 23,7% số thanh niên được hỏi cho rằng kết hôn ở

tuổi 24 mới phù hợp. Số ý kiến đồng tình kết hôn ở tuổi 22 với nữ là 19,1% và

20 tuổi là 14,6%. Như vậy, với thanh niên nữ, tuổi kết hôn còn sớm hơn. Nhưng

số muốn kết hôn muộn hơn so với quy định của luật pháp cũng khá đông đảo

(57,3%).

Tất cả những số liệu trên cho thấy, nhận thức của thanh niên trước hôn

nhân hiện nay đã có những chuyển biến đáng chú ý. Hiểu biết luật tốt hơn và

mong muốn kết hôn muộn hơn để có cơ hội học hành, đào tạo nghề, tạo vị thế xã

hội để chuẩn bị tốt hơn cho tương lai. Đây là điều đáng khích lệ.

Tuy nhiên, cũng có tới 23,6% số người được hỏi lại cho rằng nữ kết hôn ở

tuổi 18 là phù hợp. Hầu hết những người lựa chọn phương án này đều ở nông

thôn ngoại thành (huyện Đông Anh). Do điều kiện kinh tế - xã hội ở nông thôn

chưa phát triển, nữ thanh niên nông thôn đủ tuổi 18 là tính chuyện lập gia đình,

yên phận. Do vậy, nhiều thanh niên được hỏi đã đồng ý với phương án đã được

ghi trong luật - 18 tuổi nữ thanh niên lập gia đình. Đây cũng là điều cho thấy,

yếu tố nghề nghiệp, yếu tố học vấn, khả năng cơ động xã hội của con người tác

động thế nào tới quyết định lập gia đình

2.2.1.4. Về trường hợp cấm kết hôn

Kết hôn cùng giới tính và Kết hôn giữa những người đang có vợ hoặc

chồng là bị cấm như Điều 10 trong Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định. Tỉ lệ

những thanh niên được hỏi cho hai nội dung này là không vi phạm vẫn còn khá

cao - 38,6% ý kiến cho rằng kết hôn đồng tính là hợp pháp hoặc không quy định

trong luật. Tương tự, kết hôn với người đã có vợ hoặc chồng cũng là hành vi

hợp pháp hoặc không vi phạm là 18,3% (xem bảng 8). Rõ ràng, nhận thức của

một bộ phận thanh niên trước kết hôn còn khá lệch lạc. Xét ở khía cạnh đạo đức

điều này là trái với hệ chuẩn mực truyền thống của Việt Nam. Trên thực tế hiện

nay, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân ngày càng gia tăng, đặc biệt là giữa thanh

51

niên chưa kết hôn với những người đã có gia đình. Chính điều này khiến cho

một bộ phận thanh niên có cái nhìn thoáng đãng hơn, dễ dãi hơn trong quan hệ

tình dục, tình yêu và hôn nhân.

Bảng 8 : Nhận thức về vi phạm quan hệ hôn nhân trong Luật (%)

Nội dung

Hợp pháp % SL 11,7 46 Vi phạm Không quy định SL SL 106 243 % 61,4 % 26,9

38 9,7 324 81,7 34 8,6 Được kết hôn cùng giới tính Được kết hôn với người đang có vợ hoặc chồng

Trong thực tế ở xã hội Việt Nam hiện nay, những trường hợp có quan hệ

tình dục đồng tính hoặc sống chung với người đã có vợ hoặc có chồng đang có

xu hướng gia tăng. Giải quyết vấn đề này đang có những quan điểm trái ngược

nhau. Đây là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và tìm hướng giải quyết phù hợp.

Một vấn đề nữa mà tác giả muốn tìm hiểu, làm rõ là có cần kiểm tra sức

khoẻ trước khi kết hôn không? Nội dung này chưa được quy định cụ thể rõ trong

luật, mà mới chỉ cấm những người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn (Điều

10). Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới chỉ ra rằng việc kiểm tra y tế

trước khi kết hôn mang lại ý nghĩa hết sức thiết thực trong việc phòng tránh các

căn bệnh nguy hiểm có thể lây truyền qua đường tình dục, ngoài ra còn đảm bảo

một số vấn đề mang tính xã hội khác như quyền được hiểu rõ đối tượng kết hôn,

hay như việc đảm bảo công bằng trong hôn nhân… Kết quả khảo sát cho thấy có

51,8% thanh niên cho nội dung này là hợp pháp, 10,8% cho là vi phạm; 37,4%

cho rằng điều này không được quy định trong luật. Như vậy, tỷ lệ thanh niên biết

vấn đề này chưa được quy định trong luật còn thấp.

Tiếp tục đi sâu tìm hiểu vấn đề này, khi được hỏi có nên tiến hành các

biện pháp kiểm tra y tế trước khi kết hôn hay không thì nhìn chung số người

được hỏi đều chọn phương án nên kiểm tra sức khoẻ toàn bộ (bao gồm cả thử

máu) với tỷ lệ cao nhất là 63%, tiếp đó là phương án thử máu để kiểm tra HIV,

viêm gan A, viêm gan B và nghiện ma tuý (58,2%) và kiểm tra sức khoẻ sinh

sản được 42,9% thanh niên được hỏi cho là cần thiết. Bên cạnh đó, còn không ít

thanh niên đặt niềm tin tuyệt đối vào tình yêu khi lựa chọn phương án không cần

52

thiết vì tình yêu là quan trọng với tỷ lệ là 10,5% và 9,9% là tỷ lệ những người

cho rằng không cần thiết vì đó là hành vi thiếu tin tưởng và tôn trọng. Đây là

một quan niệm sai lầm.

Cũng phải thấy rằng việc có kiểm tra y tế hay không không hề ảnh hưởng

tới đạo đức mà quan trọng hơn đó là ý thức tôn trọng và chân thành giữa những

người chuẩn bị xác định về sống với nhau trong cùng một gia đình, hiểu rõ về

nhau là cần thiết để đảm bảo cuộc sống hạnh phúc của cả gia đình. Việc còn tồn

tại những suy nghĩ cho rằng tình yêu là quan trọng nhất, hay như việc coi kiểm

tra y tế là hành vi thiếu tin tưởng và tôn trọng là một dấu hiệu khiến chúng ta

cần quan tâm đưa ra cách khắc phục tư tưởng này. Xét tương quan giữa yếu tố

không cần thiết khám y tế vì tình yêu là quan trọng với giới tính cho thấy tỷ lệ

thanh niên lựa chọn phương án này là nam cao hơn nữ so với cùng một phương

án trả lời với 13,4% so với 9,2%. Và thanh niên có trình độ đại học và trên đại

học có nhận thức về vấn đề này tốt hơn với tỷ lệ 54,7% so với 31,5% thanh niên

ở trình độ trung cấp, cao đẳng. Thanh niên ở nội thành đồng ý với phương án

nên tiến hành kiểm tra sức khoẻ trước kết hôn cũng cao hơn thanh niên ngoại

thành (67,9% và 32,1%). Có thể khẳng định trình độ học vấn và khu vực cư trú

là hai yếu tố quyết định trong nhận thức của thanh niên về việc kiểm tra sức

khoẻ trước khi lập gia đình.

- Về quan hệ tình dục trước hôn nhân và „sống thử‟

35.8

27.9

20.5

15.8

40 35 30 25 20 15 10 5 0

Biết rất rõ

Biết sơ qua

Mới nghe nói

Không biết

53

Biểu 4: Hiểu biết của thanh niên về quy định quan hệ tình dục trước hôn nhân và sống thử

Cũng theo số liệu điều tra đã có 35,8% thanh niên được hỏi cho rằng mình

biết rất rõ quan hệ tình dục trước hôn nhân hoặc „sống thử‟ là không có quy định

trong Luật Hôn nhân và gia đình. 27,9% cho rằng chỉ biết sơ qua là không có

quy định như thế và 20,5% mới chỉ nghe nói về điều này mà chưa tiếp xúc trực

tiếp với Luật. Như vậy, về cơ bản, phần lớn thanh niên trước kết hôn đã biết việc

quan hệ tình dục trước hôn nhân và „sống thử‟ là những hành vi chưa được luật

quy định và cho phép. Song trên thực tế, đã có không ít thanh niên nam, nữ có

quan hệ tình dục trước hôn nhân hoặc „sống thử‟. Một số đã công khai ý kiến khi

được hỏi về thái độ với hiện tượng này. Cụ thể, một bộ phận thanh niên trước

kết hôn cho rằng, khi nam và nữ tự nguyện chung sống với nhau và có quan hệ

tình dục thì pháp luật không có quyền can thiệp. Tỷ lệ có quan điểm này ở thanh

niên có học thức - đại học và trên đại học là 38,9%. Điều này cho thấy, ở Hà Nội

nói riêng và ở Việt Nam nói chung, quan niệm về tình dục, tình yêu ngày càng

thoáng. Điều này đặc biệt ở các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp dịch

vụ. Hiện tượng này diễn ra khá nhiều trong nhóm thanh niên sinh viên sống xa

nhà, công nhân từ các vùng nông thôn ra các thành phố lớn kiếm việc làm.

Không ít người trong số này quan niệm điều đó là không vi phạm luật, miễn là

thoả mãn nhu cầu của cả hai, trong khi thái độ và phán xét của những người

xung quanh vốn rất nặng nề về đạo đức.

Xét tương quan với giới tính thì tỷ lệ nữ cho rằng Luật không quy định

vấn đề này thấp hơn nam, 23,6% so với 47,1%. Và thanh niên trong độ tuổi từ

trên 22-30 có nhận thức tốt hơn thanh niên dưới 18 tuổi khi cho rằng vấn đề này

chưa được quy định trong Luật (39,3% và 21,1%). Khi chạy tương quan với khu

vực, thì thanh niên ở nội thành cho là điều này vẫn nằm ngoài quy định của Luật

Hôn nhân và gia đình cao hơn thanh niên ngoại thành, tương ứng với tỷ lệ

61,3% so với 56,7%.

Thực tế, liệu những thanh niên “sống thử” đã trang bị đủ kiến thức và

sống có trách nhiệm đối với bản thân, với người mình yêu, thậm chí là với con

cái mà họ sinh ra hay không? Trên khía cạnh luật pháp, nam nữ không đăng kí

54

kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công

nhận là vợ chồng. Điều này đồng nghĩa với việc, họ sẽ gặp khó khăn trong nhiều

vấn đề liên quan đến hôn nhân, gia đình như quyền lợi giữa người nam và người

nữ, phân chia tài sản khi có tranh chấp xảy ra, khai sinh cho con cái và việc học

hành của con. Xét trên phương diện "tích cực" của việc chung sống trước hôn

nhân mà một số đài báo cũng như thanh niên đang “sống thử” chia sẻ là giúp

hiểu nhau kĩ hơn để thích ứng hơn trong cuộc sống hôn nhân sau này; giảm bớt

gánh nặng về kinh tế, san sẻ về tình cảm... Nhưng mặt khác, nhiều hậu quả đáng

tiếc mà việc chung sống trước hôn nhân để lại như tỉ lệ nạo phá thai tăng, ảnh

hưởng đến cả tâm lí và thể chất, nhận thức lệch lạc về gia đình... đã và đang đặt

xã hội trước những thách thức không nhỏ cần quan tâm giải quyết. Điều này có

thể thấy qua những ý kiến sau đây đã được đăng trong cuốn “Trò chuyện về giới

„Khi yêu thì anh nào cũng muốn có quan hệ tình dục với bạn gái mình, nhưng dù thế nào đi

nữa, bọn con trai tụi em cũng chỉ lấy một cô gái trinh trắng con nhà lành về làm vợ thôi.

(Nam, 21 tuổi)‟.

„Chuyện tình dục trước hôn nhân thì xã hội người ta phản đối rất nhiều. Nhưng mà sự phát

triển của xã hội tất yếu đưa đến chuyện đó. Mình nghĩ cũng có lý thôi, vì ngày xưa người ta

lập gia đình sớm, lúc mười mấy tuổi, nên cái nhu cầu ấy nó cũng ít, bây giờ thì mọi người

học, làm ăn, lấy chồng lấy vợ cũng muộn hơn. Tôi nghĩ nếu thực sự yêu và muốn cưới thì

cũng chả có vấn đề gì. (Nam, 25)‟

tính, tình yêu và sức khoẻ, NXB Trẻ, 2000”

Một tâm sự của một nữ thanh niên 20 tuổi rất thoáng đãng song cũng rất

nhiều điều phải suy nghĩ để xác định hướng giải quyết cho hiện tượng quan hệ

„Khi người phụ nữ không còn trinh trắng nữa thì bị coi là người bỏ đi, nếu giấu được thì tốt,

nhưng rất là khó giấu. Nếu mà mọi người biết được thì chúng ta không được ai thông cảm, đa

số sẽ nghĩ ta là người hư hỏng. Sống trong một xã hội như thế thì người ta không thể thoát ra

được. Em thích những xã hội tự do, tôn trọng con người, tôn trọng những quyết định riêng

của họ. Em hiểu rằng việc đó không có gì là xấu xa nhưng xã hội đã vây kín chúng ta bằng

những lời đàm tiếu, khinh rẻ, chúng ta sẽ không thể sống nổi trong đó. Phụ nữ là người mang

niềm vui đến cho toàn nhân loại nhưng họ luôn phải chịu những đắng cay. (Nữ, 20 tuổi)‟.

„Em thấy chán nhất là khi chúng ta phải cầu xin sự tha thứ của một người chồng mà chúng ta

không biết gì về sự trong trắng của họ trước khi đến với chúng ta. Thật là buồn cười nếu anh

55

tình dục, sống thử trước hôn nhân ngày nay:

ta là một kẻ hư hỏng mà lại có quyền khinh rẻ chúng ta. Tất cả chỉ vì anh ta là đàn ông, còn

chúng ta là đàn bà. (Nữ, 23 tuổi)

Tất cả những tâm sự trên đang là một thực tế khá nhức nhối trong một xã

hội đang chuyển đổi. Cái cũ, quan điểm sống cũ có tính truyền thống đang còn

tồn tại, chi phối suy nghĩ và hành động của không ít người. Trong khi đó thị

trường, mở cửa, quan niệm thoáng về tình dục, tình yêu, hôn nhân tự do đang

phát triển. Chính những yếu tố này đang mở ra một hướng mới cho một sự „thay

đổi lớn‟ về quan niệm tình dục đang bắt đầu ở nước ta. Đây chính là cơ sở để

nhìn nhận lại và có quy định phù hợp hơn trong những văn bản có tính luật pháp

về hôn nhân và gia đình.

2.2.2. Hiểu biết về những quy định trong quan hệ vợ chồng

2.2.2.1 Về tình nghĩa vợ chồng

Hầu hết những thanh niên được hỏi đều coi quy định một vợ một chồng và

vợ chồng phải chung thuỷ, yêu thương lẫn nhau là nguyên tắc quan trọng đã

được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình. Cụ thể, về quy định một vợ một

chồng có 94% thanh niên được hỏi đồng ý là Luật đã ghi rõ và vợ chồng phải

chung thuỷ, yêu thương lẫn nhau có 86% đồng tình là đã có trong Luật. Đây là

tỷ lệ thể hiện sự hiểu biết chính xác cao của thanh niên được hỏi. Điều này

chứng tỏ thanh niên hiện nay đang khá quan tâm đến quy định có tính then chốt

này của Luật Hôn nhân và gia đình. Điều này cũng thể hiện sự tôn trọng, giữ gìn

những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và bảo vệ sự bền vững của gia

đình trong thanh niên hiện nay.

Xét tương quan với giới, trong hàng loạt các vấn đề liên quan đến mối

quan hệ vợ chồng, thì chỉ có quy định một vợ một chồng là hợp pháp đang có ít

sự chênh lệch nhất. Cụ thể, tỉ lệ thanh niên nam trong tổng số thanh niên đồng ý

là 94,5% và tỉ lệ thanh niên nữ đồng ý là 93,6%.

Xét trong tương quan với số thế hệ cùng chung sống, 96,2% thanh niên

sống một mình, 93,7 thanh niên sống cùng cha mẹ, 95,4 thanh niên sống cùng

cha mẹ và ông bà và 100% thanh niên sống trong gia đình bốn thế hệ đều khẳng

56

định biết là có quy định này trong Luật Hôn nhân và gia đình. Xét tương quan

với yếu tố học vấn cũng có sự đồng thuận khá cao với 97,9% thanh niên đang

học lớp 12 và 96,7% thanh niên đã và đang học đại học cũng khẳng định biết và

đồng tình với quy định này trong Luật.

Những số liệu tổng hợp trên cho thấy, hiện tại ở Hà Nội cũng như ở Việt

Nam, chế độ hôn nhân một vợ một chồng vẫn đang là quy chuẩn được tôn trọng

bởi cộng đồng kể cả thanh niên nam nữ chưa kết hôn. Đây là điều cần được củng

cố, phát huy. Tuy nhiên, đây đang là điều khẳng định về lý thuyết. Thực tế trong

một số năm qua, tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân và sống thử như đã

phân tích ở trên đang thách thức những quy chuẩn này. Rõ ràng, cần có những

nghiên cứu đầy đủ, toàn diện hơn thì mới có thể có kết luận chính xác về xu

hướng của hiện trạng này. Trên cơ sở đó mới có định hướng giải quyết phù hợp.

Điều này cũng phù hợp khi xét đến tiêu chuẩn chọn bạn đời. Cụ thể, có tới

74,5% thanh niên được hỏi chọn yếu tố Chung thủy trong khi nhiều tiêu chí khác

thường được đánh giá là mô hình của giới trẻ hiện đại, sự lựa chọn không cao

bằng. Ví dụ : Hình thức hấp dẫn (26,3%), Dịu dàng tinh tế (46,6%), Giàu có và

có địa vị xã hội (11,8%), Nghề nghiệp ổn định (63,9%)

Điều này càng có cơ sở để khẳng định rằng, phần lớn thanh niên Việt

Nam hiện nay đang sống với hệ giá trị chuẩn mực truyền thống về hôn nhân và

gia đình. Nhiều giá trị chuẩn mực của đời sống hôn nhân và gia đình hiện đại

tuy đang xâm nhập vào nhưng tác động mới bước đầu. Tuy vậy, đây vẫn là điều

cần chú ý để xây dựng những quan hệ lành mạnh trong xã hội hiện đại.

2.2.2.2. Về bình đẳng giới trong gia đình

Xã hội càng tiên tiến hiện đại thì nhiều luật tục khắt khe ràng buộc, kìm

kẹp người phụ nữ càng được xoá bỏ, nhiều chuẩn mới phù hợp hơn dần được

hình thành. Xã hội Việt Nam xưa chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên

người phụ nữ trong các gia đình thường chịu nhiều thiệt thòi. Họ không có

quyền trong gia đình và phải tuân thủ người đàn ông theo quy chuẩn “Xuất giá

tòng phu, phu tử tòng tử”. Nhưng trong xã hội hiện nay đã có nhiều thay đổi

trong mối quan hệ giữa nam và nữ. Điều này không chỉ bó hẹp trong phạm vi

57

gia đình mà trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Phụ nữ đã dần khẳng định

được vị thế của mình và bình đẳng hơn với nam giới trong nhiều lĩnh vực. Đây

chính là những thay đổi có tính cách mạng về nhận thức, tư tưởng trong một xã

hội vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của lễ giáo phong kiến “Trọng nam khinh nữ”.

Cùng với sự tiến bộ xã hội, vấn đề bình đẳng giới đã được đưa vào các

văn bản pháp luật và không chỉ trong Luật Bình đẳng giới mà Điều 18 Luật Hôn

nhân và gia đình đã quy định rất cụ thể: Vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý

trọng nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình

đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Đi sâu tìm hiểu vấn đề này ở những thanh

niên chưa kết hôn, kết quả thu được như sau:

Nam

Nữ

Nội dung (hợp pháp)

SL

%

SL

%

Vợ chồng tôn trọng sở thích và công việc của nhau

302

76,1

347

87,6

Vợ chồng phải bình đẳng trong mọi quyết định của gia đình

304

76,8

337

84,9

Vợ chồng giúp đỡ nhau cùng phát triển

279

70,4

346

87,3

Vợ chồng không được gây hấn, mắng chửi nhau

199

50,3

236

59,6

Vợ chồng không được đánh nhau

312

78,6

359

90,5

Vợ chồng phải cùng chia sẻ việc nhà và xã hội

179

45,3

217

54,7

Vợ chồng phải kiếm tiền như nhau

236

59,5

160

40,5

Bảng 9 : Nhận thức về bình đẳng trong quan hệ vợ chồng hợp pháp trong Luật

Đa số thanh niên được hỏi đều hiểu khá rõ những quy định trong Luật

Hôn nhân và gia đình về việc thực hiện bình đẳng giới. Tỉ lệ này là khá cao.

Trong đó thanh niên nữ có hiểu biết về các quy định trong Luật từ 40% đến

90,5%. Còn thanh niên nam hiểu biết từ 45,3% đến 78,6%. Như vậy, nam có

nhận thức về bình đẳng giới thấp hơn nữ. Phải chăng, đây là lĩnh vực mà phụ nữ

thường chịu nhiều thiệt thòi, do vậy, nữ thanh niên quan tâm, tìm hiểu những

quy định trong luật nhiều hơn?

Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là với tiêu chí Vợ chồng phải cùng chia sẻ

việc nhà và xã hội thì tỷ lệ nam chọn thấp hơn nữ (45,3% so với 54,7%). Phải

chăng, với nhiều người thì việc nhà vẫn luôn là công việc của phụ nữ không phải

việc của nam giới? Điều này không chỉ tồn tại trong suy nghĩ của nam giới mà

58

còn cả ở nữ giới, do vậy tỷ lệ nam và nữ chọn thấp và không chênh lệch nhiều.

Ngược lại, phương án Vợ chồng phải kiếm tiền như nhau thì lại có tới 60,5%

nam thanh niên đồng ý và chỉ có 41,5% nữ đồng ý. Như vậy là hiện nay, nam

giới mong muốn nữ giới chia sẻ gánh nặng trong việc kiếm tiền, tăng thu nhập

cho gia đình. Họ cho rằng bình đẳng giới cần phải được thể hiện trên tất cả các

mặt của đời sống. Suy nghĩ này phần nào đã loại bỏ tư tưởng “nam là người

kiếm tiền chính, là trụ cột trong gia đình” đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt

Nam.

Đi sâu hơn nữa vào việc xem xét những vấn đề cụ thể trong việc thực hiện

bình đẳng giới trong gia đình, cuộc khảo sát đã hướng tới việc làm rõ hiểu biết

của nam thanh niên và nữ thanh niên chưa kết hôn với các hành vi: bắt người

khác phải tuân thủ hoặc vợ chồng có thể uỷ thác hay không trong việc giải quyết

các vấn đề pháp lý. Tổng hợp số liệu từ khảo sát cho thấy có 35,8% thanh niên

nam và 46,7% thanh niên nữ cho rằng việc bắt vợ nghe theo và tuân thủ quyết

định của chồng là phạm pháp. Và có tới 67,8% nam và 63,8% nữ được hỏi

khẳng định vợ và chồng có thể uỷ quyền cho nhau giải quyết các vấn đề pháp lí.

Đây là những hiểu biết đúng.

Tuy nhiên, tỷ lệ hiểu biết những quy định này ở trong luật còn thấp.

Mới có hơn 1/3 thanh niên nam và gần một nửa thanh niên nữ cho rằng bắt vợ

nghe theo và tuân thủ quyết định của chồng là phạm pháp. Đây là điều cần

truyền thông, giáo dục để tăng hiểu biết của thanh niên nam, nữ về vấn đề

này. Chỉ có như vậy mới có thể tạo được cơ sở vững chắc cho bình đẳng giới

trong gia đình.

2.2.2.3. Về quan hệ tình dục giữa vợ và chồng

Quan hệ tình dục là vấn đề khá tế nhị song cũng đã được ghi nhận trong

Luật Hôn nhân và gia đình, vì vậy, để làm rõ hiểu biết của thanh niên trước hôn

nhân về những điều quy định này, cuộc khảo sát đã đưa ra hai chỉ báo quan

trọng để hỏi: - Vợ chồng phải chiều nhau bất cứ khi nào một người muốn làm

chuyện ấy? và Vợ chồng phải có trách nhiệm sử dụng các biện pháp tránh thai?

Tập hợp số liệu thu được cho thấy, có 18,7% nam và 14,3% nữ cho rằng vợ

59

chồng phải chiều nhau bất cứ khi nào một người muốn làm chuyện ấy. Đây là

một nhận thức sai. Còn vợ/chồng phải có trách nhiệm sử dụng biện pháp tránh

thai thì có 51,4% nam và 44,4% nữ đồng tình. Và vợ chồng phải có trách nhiệm

phòng chống HIV/AIDS thì có 45% nam và 55% nữ đồng tình. Đây là nhận thức

đúng song tỷ lệ không cao. Đây cũng là vấn đề cần phải quan tâm truyền thông

để nâng cao hiểu biết đúng cho thanh niên trước khi kết hôn.

Bảng 10 : Nhận thức về quan hệ tình dục giữa vợ chồng (%)

Nam Nữ Nội dung (hợp pháp)

SL % SL %

74 18,7 56 14,3

Vợ chồng phải chiều nhau bất cứ khi nào một người muốn làm chuyện ấy Vợ chồng phải có trách nhiệm sử dụng

204 51,4 176 44,4 BPTT

Vợ chồng phải có trách nhiệm phòng chống

178 45,0 218 55,0 HIV/AIDS

2.2.2.4. Về kinh tế và tài sản trong gia đình

Gia đình có chức năng kinh tế. Tuy nhiên, quy định thế nào về mối quan

hệ kinh tế trong gia đình thì lại là chuyện phải xác định rõ ràng trong Luật Hôn

nhân và gia đình. Để đánh giá hiểu biết của thanh niên chưa kết hôn đối với quy

định này, cuộc khảo sát đã hướng tới việc làm rõ tài sản cá nhân của vợ chồng

thuộc về ai? ai làm ra cái gì được quyền sở hữu cái đó? tài sản thừa kế thuộc về

ai và tài sản có trước khi kết hôn tính thế nào?

Tập hợp số liệu từ cuộc điều tra cho thấy có 59,2% nam và 69,7% nữ

khẳng định tài sản của hai vợ chồng phải là tài sản chung trong khi chỉ có

11,7% thanh niên nam và thanh niên nữ đồng ý với việc ai làm ra tài sản nào thì

sở hữu tài sản đó. Trong khi điểm 1 điều 27 trong Luật khẳng định “Tài sản

chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,

hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được

tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ

60

chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được

thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Tài sản chung

của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.

Nam

Nữ

Nội dung

1. Mọi tài sản do vợ chồng tạo ra là tài sản chung 2. Tài sản do người nào làm ra thuộc về người đó trong gia đình 3. Tài sản do vợ chồng thừa kế chung được coi là tài sản chung 4. Tài sản mà vợ chồng có trước khi cưới là tài sản riêng

Hợp pháp Vi phạm Không quy định Hợp pháp Vi phạm Không quy định Hợp pháp Vi phạm Không quy định Hợp pháp Vi phạm Không quy định

SL 235 42 120 46 139 210 179 78 139 217 79 99

% 59,2 10,5 30,3 11,7 35,2 53,1 45,1 19,7 35,2 54,9 20,1 25,0

SL 276 45 75 46 184 166 209 89 98 256 27 112

% 69,7 11,4 18,8 11,7 46,4 41,9 52,7 22,5 24,8 64,6 7,0 28,4

Những số liệu trong bảng trên cho thấy, trong bốn chỉ báo có ba chỉ báo là

Bảng 11 : Nhận thức về quyền sở hữu tài sản được quy định trong Luật (%)

nội dung đúng được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình. Ba chỉ báo này

thì tỷ lệ ý kiến được hỏi cho là phù hợp (chỉ báo 1) 59,2% với nam và 69,7% với

nữ. Còn chỉ báo 3 ý kiến trả lời đồng tình là 45,1% với nam và 52,7% với nữ.

Chỉ báo 4, cũng có 54,9% nam và 64,6% nữ trả lời đúng. Tỷ lệ ý kiến trả lời này

tuy không thật cao nhưng cũng cho thấy phần đông thanh niên nam nữ đã nắm

chắc được những quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình về tài sản. Riêng chỉ

báo 2, tài sản do người nào làm ra thì thuộc người đó trong gia đình là chỉ báo

sai - số ý kiến cho là đúng (hợp pháp) ở cả nam và nữ là như nhau với cùng tỷ lệ

11,7%. Số ý kiến cho là không quy định là 53,1% với nam và 41,9% với nữ.

Điều này càng chứng tỏ nam, nữ thanh niên đã nắm khá tốt nội dung quy định

về tài sản đã được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình.

Bên cạnh quy định về tài sản như trên Luật Hôn nhân và gia đình có

những quy định về tài sản riêng rất cụ thể, chẳng hạn điều 32 của Luật chỉ rõ:

Vợ chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà

mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong

thời kì hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản

61

1 Điều 29 và Điều 30 của Luật. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra số thanh niên

được hỏi khẳng định: Tài sản do vợ chồng thừa kế được coi là tài sản riêng và

Tài sản mà vợ chồng có trước khi cưới là tài sản riêng là hợp pháp chiếm tỷ lệ

xấp xỉ 50%. Rõ ràng, những thanh niên này chưa hiểu một cách thấu đáo, cặn kẽ

điều này, họ hiểu rất chung chung, đại khái thậm chí là hiểu sai về luật.

Qua các ý kiến điều tra về hiểu biết của thanh niên về mối Quan hệ vợ

chồng, có thể thấy rằng, cả nam và nữ đều có chung mong muốn về một gia đình

mà ở đó vợ và chồng luôn có sự chia sẻ, thống nhất trong mọi công việc, sống

có trách nhiệm với nhau. Cùng với sự tiến bộ của xã hội, kiến thức của thanh

niên về các vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình đặc biệt là hiểu biết về

các quy định trong pháp luật chắc chắn sẽ được nâng lên. Trong khuôn khổ cuộc

điều tra này, tác giả mới chỉ đánh giá nhận thức của thanh niên về Luật Hôn

nhân và gia đình trên một số vấn đề cơ bản mà chưa có điều kiện đi sâu vào

phân tích vấn đề trong mối tương quan với các đặc trưng nhân khẩu xã hội của

thanh niên cũng như đặc điểm hoàn cảnh mà họ đang sống liên quan đến gia

đình, nhà trường và đoàn thể. Hầu hết các vấn đề mà tác giả đưa ra được dựa

trên nội dung của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 do Nhà nước ban hành.

Tính đến nay đã qua 8 năm kể từ khi luật đi vào cuộc sống, nhưng mới có một

bộ phận không nhiều thanh niên nắm chắc các quy định của Luật. Đây chính là

biểu hiện của việc thanh niên chưa tích cực tìm hiểu Luật. Điều này một phần

phản ánh tình trạng nhiều người trong xã hội hiện nay vẫn còn hành động theo

cảm tính, thói quen hơn là xem xét dưới khía cạnh của pháp luật. Đây là điều

cần chú ý trong truyền thông giáo dục cho thanh niên cả trước mắt và lâu dài, để

xây dựng thói quen nếp sống theo pháp luật ở thế hệ trẻ.

2.2.3. Đánh giá nhận thức về các quan hệ khác trong gia đình

2.2.3.1 Nghĩa vụ và trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái

Điều 34, Chương IV của luật đã quy định: Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền

thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể

62

chất, trí tuệ và đạo đức.

Để làm rõ nhận thức của thanh niên trước hôn nhân với những quy định

này, cuộc điều tra đã đưa ra những phương án hỏi ứng với những nghĩa vụ chủ

yếu sau đây của cha, mẹ. Tổng hợp số liệu từ cuộc điều tra cho thấy như sau:

Bảng 12 : Nhận thức về nghĩa vụ cha mẹ với con cái trong Luật (%)

Nội dung Hợp pháp Vi phạm Không quy định

334 84,2 33 8,5 29 7,4

280 70,7 40 10,1 76 19,2

101 25,5 194 49,0 101 25,5

42 10,6 275 69,5 79 20,0

262 66,2 75 18,9 59 14,9 Bố mẹ phải có trách nhiệm giáo dục con cái Bố mẹ cấp dưỡng cho con trong tuổi vị thành niên Bố mẹ được quyền đánh khi con cái không vâng lời Bố mẹ được quyền mắng chửi nặng nề khi con cái không vâng lời Bố mẹ có quyền giám hộ cho con

Số liệu điều tra cho thấy, hầu hết thanh niên nam và nữ được hỏi đều nhất

trí cao khi cho rằng cha mẹ phải có nghĩa vụ với con và điều này có được quy

định trong Luật. Hầu hết các phương án được chọn đều có trên 60% ý kiến đồng

tình. Tuy đã có những quy định rõ ràng trong Luật, song theo số liệu điều tra, việc

cha mẹ dùng bạo lực xâm phạm đến nhân phẩm của con cái, vẫn còn một bộ phận

không nhỏ thanh niên cho đó là hợp pháp và không quy định trong Luật cùng với

tỷ lệ 25,5%. Nhiều người biện minh cho hành vi bạo lực là “Thương cho roi cho

vọt, ghét cho ngọt cho bùi” nhưng thực tế đây là hành vi vi phạm pháp luật. Vì

những hành động này đã gây những tổn thương về thể chất và tinh thần cho trẻ.

Đó cũng là hậu quả của một quan điểm cũ chú trọng nhiều đến việc tuân thủ hệ

giá trị, chuẩn mực đã định hình chứ ít chú trọng đến việc bảo vệ quyền con người,

phát huy tính độc lập của mỗi cá nhân, xuất phát từ chính gia đình.

Xét trong tương quan với giới, tỉ lệ hiểu biết về các nội dung liên quan

đến nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái cũng có những khác biệt (xem bảng

13).

Bảng 13 : Nhận thức về trách nhiệm cha mẹ với con cái trong Luật (%)

63

Nội dung (hợp pháp) Nam Nữ

173 43,7 223 56,3

179 45,1 217 54,9

154 38,9 242 61,1

190 47,9 206 52,1

226 57,1 170 42,9

232 58,5 164 41,5 Bố mẹ phải có trách nhiệm giáo dục con cái Bố mẹ cấp dưỡng cho con trong tuổi vị thành niên Bố mẹ có quyền giám hộ cho con Bố mẹ được quyền đánh khi con cái không vâng lời Bố mẹ được quyền mắng chửi nặng nề khi con cái không vâng lời Cần phải phân biệt con trai, con gái trong chăm sóc, giáo dục

Bảng số liệu tổng hợp trên cho thấy, trên phần lớn các chỉ báo đánh giá về

hiểu biết, về trách nhiệm của cha mẹ với con cái, thanh niên nam có tỉ lệ hiểu

biết đúng ít hơn thanh niên nữ. Mức chênh lệch thường trên 10% tổng số người

trả lời. Riêng hai chỉ báo, bố mẹ được quyền mắng chửi con khi con không vâng

lời và cần phân biệt trong chăm sóc, giáo dục con theo giới tính trai khác gái thì

tỷ lệ nam thanh niên được hỏi đồng tình cao hơn nữ thanh niên từ 15% đến 17%.

Phải chăng đây là sự khác biệt mà yếu tố giới đã ảnh hưởng đến quan điểm giáo

dục và nuôi dạy con. Nam vẫn có quan điểm cứng rắn và mạnh mẽ hơn nữ. Điều

này cũng cắt nghĩa một phần cho tình trạng bạo lực vẫn còn tồn tại trong các gia

đình Việt Nam hiện nay và điều này đang còn diễn ra ở cả cộng đồng cư dân

thành phố. Đây cũng là vấn đề cần chú ý trong việc truyền thông giáo dục cho

cộng đồng nhất là cho thanh niên nam, nữ trước khi kết hôn.

2.2.3.2. Về nghĩa vụ và trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ và ông bà

Luật Hôn nhân và gia đình 2000 đã quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ

giữa con cháu đối với ông bà, cha mẹ, điều 35, chương IV nêu rõ: Con có bổn

phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời

khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia

đình. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Nghiêm cấm con

có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ.

Điều 47, Chương V trong Luật quy định: Ông bà nội, ông bà ngoại có

64

nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu

gương tốt cho cháu. Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông

bà nội, ông bà ngoại.

Số liệu khảo sát cho thấy, hiện tại chỉ có 40,9% thanh niên Biết rất rõ quy

định về quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, 37,9% biết sơ qua và còn

21,2% mới nghe nói về nội dung này. Số còn lại không biết có nội dung này

trong Luật Hôn nhân và gia đình hay không. Tương tự nhiều phân tích ở trên, tỉ

lệ thanh niên cho rằng vấn đề này Không quy định trong luật còn khá lớn.

82.3

81.2

55.2

35.7 33.8

32.5

30.6

14.1

12.8

12.3

6

3.7

Con cháu phải có

90 80 70 60 50 40 30 20 10 0 Con cái có quyền giám hộ cho bố

trách nhiệm kính trọng ông bà

Con cái cấp dưỡng khi bố mẹ mất sức lao động

¤ng bµ vµ con cháu có thể thực hiện giám hộ cho nhau

Hợp pháp Vi phạm Không quy Không quy ®Þnh

Biểu 5 : Quan hệ con cái đối với cha mẹ trong Luật

Đối với các nội dung con cái phải chăm sóc, kính trọng ông bà và cha mẹ,

tỉ lệ thanh niên có hiểu biết rõ về vấn đề này trong Luật Hôn nhân và gia đình là

cao trên 80%. Duy chỉ có vấn đề giám hộ là vẫn có sự khác biệt. Có thể thanh

niên vẫn chưa hiểu rõ về khái niệm “giám hộ” hoặc là vẫn chưa chắc chắn về nội

dung này có trong luật hay không nên nhiều ý kiến nghiêng về khả năng: mọi

quyết định trong gia đình do người lớn thực hiện. Trong khi đó, Chương IX đã

quy định cụ thể về Giám hộ giữa các thành viên trong gia đình cha mẹ giám hộ

cho con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, vì lợi ích của con; trong

trường hợp cháu cần được giám hộ thì ông bà nội/ngoại có đủ điều kiện làm

người giám hộ; Cháu có đủ điều kiện làm người giám hộ thì phải giám hộ cho

65

ông bà nội/ngoại, nếu ông bà không có con phụng dưỡng.

ở đây, quyền giám hộ và quyền được nhận giám hộ là những quy chuẩn

chưa được định hình trong suy nghĩ và hành động của nhiều người, kể cả thanh

niên. Vì vậy, dù Luật đã ghi rõ nhưng hiểu rõ còn ít. Hiểu biết sơ qua và mới

nghe nói chiếm tỷ lệ nhiều. Do vậy, truyền thông, giáo dục vấn đề này cho cộng

đồng, kể cả thanh niên trước hôn nhân là điều đang rất cần đẩy mạnh, nhất là

những vấn đề mà nhận thức, quan niệm và hành vi có tính truyền thống của mỗi

người trong cộng đồng chưa đầy đủ.

2.2.3.3. Về con nuôi

Con nuôi cũng là một nội dung mà cuộc khảo sát hướng tới nhằm tìm hiểu

kiến thức toàn diện của thanh niên về các mối quan hệ trong gia đình. Kết quả

điều tra cho thấy có 19,3% thanh niên được hỏi trả lời là biết rõ những quy định

về nhận con nuôi và nuôi con nuôi; 45,7% chỉ biết sơ qua và 35% chỉ mới nghe

nói. Như vậy, số thanh niên chưa kết hôn được hỏi có hiểu biết rõ ràng về những

quy định về nhận và nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình còn khá

thấp (gần 1/5 số được hỏi). Còn lại là biết sơ qua, biết không đầy đủ.

Còn nếu xét vấn đề theo tương quan giới, tỷ lệ nam biết rõ các quy định v

con nuôi trong luật nhiều hơn nữ (22,4% so với 16,8%). Chênh lệch về hiểu biết

là có nhưng không nhiều (chỉ hơn 5%). Nếu xét vấn đề theo tương quan với học

vấn thì thanh niên chưa kết hôn có học vấn cao hiểu rõ vấn đề được quy định

trong luật về con nuôi hơn thanh niên có học vấn thấp. Tỷ lệ này là 4,7% thanh

niên học lớp 12 và 17,3% thanh niên học đại học. Những số liệu này cho thấy,

ngay cả với vấn đề không liên quan nhiều đến người chưa kết hôn nhưng cũng

đã được thanh niên quan tâm tìm hiểu. Số quan tâm nhiều, hiểu rõ gần 20%, số

nắm sơ qua và nghe ở mức nhất định chiếm đa số.

Đây là những chỉ báo cho thấy, với Luật Hôn nhân và gia đình, thanh niên

đã khá quan tâm, tìm hiểu. Đó là yếu tố thuận lợi để tiếp tục tuyên truyền, giáo

dục, đưa Luật vào thực hiện trong cuộc sống.

Với những quy định cụ thể về nhận, nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân

66

và gia đình, điều tra cũng hướng đến làm rõ một số vấn đề sau (xem bảng 14).

Nội dung (hợp pháp)

Bảng 14 : Hiểu biết của thanh niên chưa kết hôn về một số quy định cụ

Biết rất rõ %

SL

Mới nghe nói SL

%

61

15,4

50

12,6

38

9,7

84

21,4

94

23,8

104

26,4

96

24,4

93

23,6

73

18,6

141

35,6

112

28,4

83

21,1

314

79,2

43

11,0

38

9,7

299

75,5

22

5,7

42

10,8

44

11,2

99

25,0

106

26,8

Vợ chồng được nhận con nuôi không cần quy định gì Vợ chồng chỉ được nhận một con nuôi Vợ chồng được nhận con nuôi nhưng phải hơn con nuôi 20 tuổi Người được nhận làm con nuôi phải là người dưới 15 tuổi Nghĩa vụ và trách nhiệm của cha mẹ đối với con nuôi phải như con đẻ Nghĩa vụ và trách nhiệm của con nuôi đối với cha mẹ nuôi phải như cha mẹ ruột Bố mẹ, con nuôi có quyền chấm dứt quan hệ này bất cứ thời điểm nào

thể trong nhận và nuôi con nuôi (%) Biết sơ qua % SL

Theo luật quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, muốn nhận con nuôi,

người nhận con nuôi phải đảm bảo các điều kiện. Trong đó phải có năng lực và

hành vi dân sự đầy đủ, hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, có tư cách đạo đức tốt,

có điều kiện thực tế đảm bảo việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục

con nuôi... (Điều 69, Chương VIII). Trên thực tế, tỉ lệ trẻ được nhận làm con

nuôi hầu hết là trẻ mồ côi, các em có hoàn cảnh đặc biệt bất hạnh, bị bố mẹ bỏ

rơi đang sống trong các mái ấm tình thương. Vì vậy, Nhà nước ta đã có những

quy định cụ thể và nhân đạo, nhằm tránh gây tổn thương cho trẻ sau này.

Kết quả trong bảng 14 cho thấy, một bộ phận thanh niên đã nhận thức

đúng về việc vợ chồng muốn nhận con nuôi thì phải đảm bảo các quy định của

Luật Hôn nhân và gia đình. Cụ thể có một tỷ lệ khá cao thanh niên cho rằng con

nuôi và cha mẹ nuôi phải có nghĩa vụ và trách nhiệm như cha mẹ và con cái có

quan hệ huyết thống: Có 79,2% cho rằng Nghĩa vụ và trách nhiệm của con nuôi

đối với cha mẹ nuôi phải như cha mẹ ruột và 75,5% đồng ý Nghĩa vụ và trách

67

nhiệm của cha mẹ đối với con nuôi phải như con đẻ. Tuy nhiên, khi đi vào một

vấn đề cụ thể như độ tuổi của cha mẹ và con nuôi thì thanh niên được hỏi biết rõ

còn khá khiêm tốn, chỉ 24,4% biết đúng về tuổi cha mẹ nuôi và 35,6% biết đúng

về tuổi con nuôi. Số cho rằng điều này không được quy định trong văn bản Luật

tới 52%. Đây là chỉ báo đánh giá mức nhận thức chưa đúng về quy định của

Luật là khá cao.

Ngoài ra, với hai chỉ báo sai - Vợ chồng được nhận con nuôi không cần

kèm theo điều kiện gì và vợ chồng chỉ được nhận một con nuôi đã nhận được câu

trả lời khẳng định là trong Luật Hôn nhân và gia đình có ghi rõ quy định này là

15,4% và 21,4%. Nếu kể cả số người khẳng định là có biết sơ qua và mới nghe

nói thì tỷ lệ này tới 22,3% và 50,2%. Rõ ràng, thanh niên trước hôn nhân tuy có

quan tâm và đã tiếp cận được với Luật Hôn nhân và gia đình nhưng mức độ tiếp

cận về quy định con nuôi còn thấp. Hiểu biết chưa nhiều. Cần có những hình

thức và biện pháp tuyên truyền, quán triệt Luật có hiệu quả hơn.

2.2.3.4 Ly hôn

Ly hôn là vấn đề khá phức tạp và có liên quan đến tất cả các thành viên

trong gia đình, ảnh hưởng đến đời sống tình cảm của mỗi cá nhân. Gắn liền với

nó là việc vợ chồng quan hệ với nhau như thế nào sau ly hôn? Con cái ở với bố

hay mẹ ? Phân chia tài sản ra sao ? Hiện tại, hiện tượng này ngày càng gia tăng

ở nước ta, đặc biệt là ở các thành phố lớn như thủ đô Hà Nội. Giải quyết tình

trạng này không dễ. Để làm rõ, cuộc điều tra đã đưa nội dung này vào bảng hỏi

nhằm đánh giá nhận thức của thanh niên chưa kết hôn về vấn đề này.

Bảng 15 : Quan niệm về ly hôn trong Luật (%)

Hợp pháp Vi phạm

Không quy định Nội dung (hợp pháp)

SL % SL % SL %

362 91,4 20 5,1 13 3,5

240 60,5 104 26,3 52 13,2

163 41,1 163 41,1 70 17,7

68

295 74,5 52 13,3 48 12,2 Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền xin ly hôn khi chung sống không phù hợp Không thể ly hôn nếu một trong hai vợ chồng không đồng ý Chồng có quyền đơn phương xin ly hôn bất kì lúc nào Vợ chồng có quyền sống ly thân nếu không hoà hợp

Đa phần thanh niên trong mẫu điều tra cho rằng vợ chồng có thể ly hôn

nếu trong quá trình chung sống thấy không phù hợp. Đây là hiểu biết đúng và đã

được quy định trong luật. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến (hơn 40%) cho rằng,

chồng có quyền đơn phương ly hôn bất cứ lúc nào nếu không thấy phù hợp. Đây

là hiểu biết sai, bởi lẽ Luật Hôn nhân và gia đình, điều 85, điểm 2 quy định:

"Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng

không có quyền yêu cầu xin ly hôn". Hoặc quy định, vợ chồng có quyền sống ly

thân nếu không hòa hợp là quy định không có trong luật, thế nhưng đã có tới

74,5% thanh niên được hỏi ý kiến khẳng định là đúng. Đây là một trong những

chỉ báo cho thấy hiểu biết của thanh niên về Luật Hôn nhân và gia đình còn

những điểm chưa tốt.

Hiện tại tình trạng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân đang có chiều hướng gia

tăng. Do vậy, việc đưa ra phương án hỏi vợ chồng có quyền chung sống như vợ

chồng với người khác hay không trong thời gian ly thân? Tỉ lệ thanh niên trả lời

cho đây là hành vi vi phạm pháp luật là 65,8%, hợp pháp là 20,1% và không có quy

định là 14,1%. Như vậy, phần đông thanh niên được hỏi có hiểu biết đúng rằng,

hành vi quan hệ tình dục với người khác khi quan hệ vợ chồng chưa được giải

quyết dứt điểm cũng là hành động vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình. Chỉ khi nào

hai vợ chồng được cơ quan có thẩm quyền trao quyết định ly hôn thì họ mới thực

sự hết nghĩa vụ vợ chồng với nhau. Sau đó, mỗi người mới có quyền tìm hạnh phúc

cho riêng mình, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc: Một vợ một chồng.

Về nghĩa vụ và trách nhiệm của cha mẹ sau khi ly hôn đối với con cái,

Điều 92, 93, 94 trong luật đã có quy định cụ thể. Chúng ta hãy xem xét hiểu biết

của thanh niên nam nữ về vấn đề này (xem bảng 16.).

Bảng 16 : Quan hệ con cái đối với cha mẹ ly hôn trong Luật (%)

Hợp pháp Vi phạm Nội dung (hợp pháp)

SL % SL % Không quy định SL %

267 67,3 48 12,2 80 20,4

69

63 16,0 152 38,3 181 45,7 Nếu vợ chồng ly hôn thì con cái được quyền chọn ở với bố hoặc mẹ Nếu vợ chồng ly hôn thì con cái phải ở với mẹ

265 66,8 57 14,4 74 18,8

309 78,0 38 9,7 49 12,4

317 80,1 30 7,6 48 12,3 Nếu vợ chồng ly hôn thì con cái được vợ chồng bàn bạc cho ở với bố hoặc mẹ Sau ly hôn, người không nuôi con phải gửi tiền chu cấp cho con Sau ly hôn, có thể thay đổi người nuôi con theo toà án quyết định

Hầu hết thanh niên trong mẫu điều tra khẳng định việc cha mẹ thoả thuận

về trách nhiệm và nghĩa vụ đối với con sau ly hôn, trừ một số trường hợp đặc

biệt như con còn quá nhỏ (dưới 3 tuổi) hay hai bên có các thoả thuận khác hoặc

yêu cầu từ cơ quan có thẩm quyền. Đây là nhận thức đúng. Tuy nhiên, vẫn còn

một số ý kiến cho rằng nội dung này là không quy định trong luật (23,5% thanh

niên nam và 13,5% thanh niên nữ). Như vậy, vãn còn một bộ phận không nhỏ

(xấp xỉ 20%) có hiểu biết sai khi cho rằng những điều khoản như vậy không có

trong luật. Tuyên truyền phổ biến Luật vẫn là điều rất cần. Phỏng vấn sâu một

tivi và đài. Thỉnh thoảng có đọc vài câu chuyện trên báo. Tôi nghĩ nếu vợ chồng ly hôn đã có

con thì con phải ở với mẹ. Mẹ mới có điều kiện chăm con cái chứ bố thì làm sao chăm con tốt

được. Chuyện chăm sóc con phải do người mẹ đảm nhận. Các ông chồng mà ly hôn thì phải

chu cấp tiền nuôi con. Đây là trách nhiệm của người đàn ông. Nên ghi vào luật những quy

định này". (Nam, 27 tuổi, cán bộ)

nam thanh niên ở ngoại thành cho thấy rõ điều này. "Tôi chỉ nghe nói đến luật qua

Việc phân chia tài sản sau ly hôn đã được quy định khá chặt chẽ trong

Luật Hôn nhân và gia đình (từ Điều 95 đến Điều 99). Trong đó, việc phân chia

là do các bên tự thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu toà án giải

quyết; tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó với điều kiện

đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên, nhất là những người nằm trong nhóm

dễ bị tổn thương như người tàn tật, vị thành niên. ý kiến của thanh niên về vấn

đề này là khá khác nhau: Với các tài sản chung thì đa phần hiểu rằng, luật đã

quy định phân chia đều. Đây là điều đã được luật quy định. Nhận thức như vậy

là đúng. Tuy vậy, cũng còn một bộ phận hiểu rằng, Luật Hôn nhân và gia đình

70

quy định ly hôn thì tài sản chung và riêng đều phải chia đều. Đây là nhận thức

không đúng, cần tuyên truyền giải thích để thanh niên chưa kết hôn hiểu đúng và

rõ ràng hơn. (xem bảng 17)

Bảng 17: Phân chia tài sản khi ly hôn trong Luật (%)

Hợp pháp Vi phạm Không quy

định Nội dung (hợp pháp)

SL % % SL % SL

304 76,8 9,4 54 13,7 37

159 40,2 114 28,9 154 38,9

Nếu vợ chồng ly hôn, tài sản và nhà cửa chung phải chia đều Nếu vợ chồng ly hôn, tài sản và nhà cửa chung cũng như riêng phải chia đều

Xử lý vi phạm luật là quy định mà bất cứ luật nào khi hoạch định cũng

cần phải có. Vấn đề là xử lý thế nào, theo cách thức và mức độ nào? Đây là vấn

đề trả lời không dễ vì đây là lĩnh vực mà các quan hệ tình cảm đan xen với các

quan hệ tài chính, vật chất khác. Tổng hợp số liệu điều tra cho thấy, nhận thức

của thanh niên về cách thức xử phạt các hành vi vi phạm trong Luật Hôn nhân

và gia đình như sau (xem bảng 18)

Bảng 18 : Xử lý vi phạm trong Luật (%)

Không quy định Nội dung (hợp pháp) Hợp pháp % SL Vi phạm % SL SL %

93 23,5 189 47,7 114 28,8

295 65,3 89 22,6 48 12,1

120 30,4 157 39,6 119 30,0

267 67,3 70 17,8 59 14,9

Phải xử lí hình sự các vi phạm Luật HN&GĐ Phải xử lí dân sự các vi phạm Luật HN&GĐ Phải xử lí hành chính các vi phạm luật HN&GĐ Tuỳ mức độ vi phạm Luật HN&GĐ mà có thể xử lí dân sự hoặc hình sự

Theo kết quả bảng 18, có thể thấy rằng phần nhiều thanh niên khẳng định

việc xử lí dân sự hay hình sự hành vi vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình là tuỳ

vào mức độ vi phạm. Điều này hoàn toàn phù hợp với những nội dung quy định

trong Chương I của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tiếp tục với nội dung

này, có khá nhiều thanh niên được hỏi ủng hộ việc xử lí dân sự (65,3%) hơn là

71

xử lí hình sự (23,5%). Phải chăng đây thuộc lĩnh vực tình cảm?

2.3 Những yếu tố ảnh hƣởng đến hiểu biết của thanh niên về Luật

Hôn nhân và gia đình.

Bên cạnh việc làm rõ thực trạng hiểu biết của thanh niên chưa kết hôn với

Luật Hôn nhân và gia đình, luận văn còn tìm hiểu những yếu tố tác động đến

hiểu biết của nhóm xã hội này với Luật. Những yếu tố tác động này được xem

xét dưới nhiều góc độ, từ việc tiếp cận thông tin truyền thông đến những yếu tố

sinh học xã hội như: giới, tuổi, học vấn nơi sinh sống của thanh niên.

2.3.1. Tiếp cận qua các phương tiện truyền thông đại chúng và truyền

thông trực tiếp

Trong thời đại ngày nay thông tin đang được truyền mạnh mẽ qua cả hệ

thống truyền thông đại chúng và truyền thông trực tiếp. Cả hai kênh truyền

thông này đều có vai trò rất quan trọng với cộng đồng dân cư trên tất cả các lĩnh

vực kinh tế - xã hội.

Với truyền thông đại chúng, hiện có truyền hình, phát thanh, sách báo, tạp

chí và internet. Đây là những phương tiện truyền thông đa năng, đem đến thông

tin nhanh nhất, rộng rãi nhất cho mọi nhóm xã hội trong cộng đồng. Những

thông tin mà chúng đem lại thường cập nhật, đầy đủ và chính xác. Tuy nhiên,

thông tin trên những phương tiện truyền thông này, khó chuyên sâu.

Bên cạnh truyền thông đại chúng, hiện còn có truyền thông trực tiếp. Đây

là kênh thông tin đưa được nhiều thông điệp có chiều sâu cho từng nhóm xã hội

theo những yêu cầu riêng. Hình thức thực hiện việc truyền thông hiện nay rất đa

dạng - từ tuyên truyền trực tiếp, cá nhân - cá nhân, hội họp, các câu lạc bộ, tư

vấn cá nhân, tư vấn cộng đồng và nêu gương thực tế.

Với Luật Hôn nhân và gia đình, để xem xét ảnh hưởng của các phương tiện

truyền thông với nhận thức của thanh niên chưa kết hôn, tác giả đã nêu ra một số

câu hỏi để khảo sát. Kết quả tổng hợp được từ cuộc khảo sát cho thấy như sau:

Với các phương tiện truyền thông đại chúng, cuộc khảo sát đã hướng tới

việc làm rõ tiếp cận của thanh niên chưa kết hôn với tivi, đài, báo chí và internet.

Kết quả tổng hợp cho thấy 50,2% thanh niên được hỏi đã tiếp cận Luật Hôn

72

nhân và gia đình qua những phương tiện truyền thông này. Trong đó, nhiều nhất

là xem qua truyền hình, sau đó là đài phát thanh, truyền thanh và cuối cùng là

báo chí và các ấn phẩm viết. Ngoài ra, internet cũng được thanh niên ngày nay

truy cập. 13,3% thanh niên được hỏi đã khẳng định tiếp cận Luật Hôn nhân và

gia đình qua internet.

Tuy nhiên, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, chưa có một

chương trình chuyên sâu nào tuyên truyền về Luật Hôn nhân và gia đình cho

từng nhóm đối tượng riêng rẽ. Phần lớn các thông điệp truyền thông đều chỉ đưa

lồng ghép trong các chương trình khác như: Dân số phát triển, bình đẳng giới,

chăm sóc sức khỏe sinh sản, phụ nữ, gia đình… Đây chính là điều cắt nghĩa vì

sao thanh niên chưa kết hôn hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình còn khá

thấp. Phần đông mới chỉ biết sơ qua hoặc mới nghe nói qua về Luật Hôn nhân

và gia đình. Số biết rõ về luật còn khá khiêm tốn. Đây là điều cần chú ý để có

những chương trình truyền thông chuyên sâu về từng nội dung, cho từng đối

tượng trong hiện đại và tương lai.

60

50.2

50

40

30

20.3

20

17.4

13.3

11.8

9.9

10

3.6

0

cập

Chỉ nghe mọi người xung quanh nãi

Được biết qua trung tâm tư vấn

Nghe bè Được biết qua truy mẹ nói internet

Chỉ nge nói đến trong nhà trường

Chỉ được tiếp cận qua tivi, đài báo

chỉ được nghe c¸n bộ nói chuyện

Biểu đồ 6: Mức tiếp cận các phương tiện truyền thông đại chúng của thanh niên chưa kết hôn với Luật Hôn nhân và gia đình

Bên cạnh truyền thông đại chúng, thanh niên tiền hôn nhân còn tiếp cận

với Luật Hôn nhân và gia đình qua truyền thông trực tiếp. Đây là kênh truyền

thông rất quan trọng cho thanh niên tiền hôn nhân về những điều khoản trong

Luật Hôn nhân và gia đình. Tổng hợp số liệu từ cuộc điều tra cho thấy, thanh

73

niên tiền hôn nhân đã tiếp cận với Luật Hôn nhân và gia đình qua nhiều kênh

truyền thông trực tiếp khác nhau. Nhiều nhất là tỷ lệ thanh niên tiền hôn nhân

tiếp cận qua các chương trình giảng dạy và truyền thông trong các nhà trường.

20,3% thanh niên được hỏi khảng định mình đã biết được các nội dung cơ bản

của Luật Hôn nhân và gia đình qua các chương trình giáo dục và tư vấn của các

thày cô giáo và các đoàn thể xã hội trong nhà trường. Phỏng vấn sâu một thanh

đình trước hết do thày cô trường em nói trong một chuyên đề môn giáo dục công dân lớp 12.

Tuy nhiên, thày chỉ nói nội dung lồng ghép quyền kết hôn, ly hôn, khám sức khỏe trong

chương trình giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông trung học. Do vậy em biết có Luật

Hôn nhân và gia đình song cũng chỉ một số điều" (Nữ, 23 tuổi, cán bộ đoàn).

niên tiền hôn nhân tại phường Nghĩa Tân cho thấy: "Em biết Luật Hôn nhân và gia

Kênh truyền thông trực tiếp thứ hai được nhiều thanh niên tiền hôn nhân

tiếp cận đó là nghe nói qua những người xung quanh. 17,4% thanh niên tiền hôn

nhân được hỏi đã khẳng định tiếp cận với Luật Hôn nhân và gia đình qua kênh

này. Những người này thường là bạn bè, là đồng nghiệp, là người trong tổ dân

phố, xóm làng, cộng đồng hay người trong các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội.

Nhiều người trao đổi cá nhân với nhau khi có vấn đề phát sinh hoặc trao đổi

nhân những chuyện có liên quan khác trong đời sống mà họ gặp phải. Một thanh

đầy đủ toàn bộ Luật Hôn nhân và gia đình nhưng tôi biết có Luật Hôn nhân và gia đình vì ở

cơ quan tôi có một chị chuẩn bị ly hôn. Việc nuôi con của họ gây ra những tranh luận giữa

nhiều người trong phòng. Do vậy mà có người đi tìm luật, đọc và nói cho chúng tôi biết, nhờ

đó mà tôi biết có Luật Hôn nhân và gia đình và tham gia góp ý cho những người xung quanh

một cách phù hợp " (PVS, nữ, 28 tuổi, cán bộ).

niên tiền hôn nhân được phỏng vấn sâu đã nói: "Tôi chưa bao giờ được cầm và đọc

Tuy vậy, cũng cần thấy rằng những thông tin mà thanh niên tiền hôn nhân

biết được qua nói chuyện với những người xung quanh thường có độ chính xác

thấp. Sự kiện làm cho họ nhớ về luật có thể lâu, nhưng những điều khoản quy

định trong luật thường họ ít nhớ cụ thể, đầy đủ. Do vậy, nghe người khác nói

qua giao tiếp thường ngày chỉ bổ sung hiểu biết về sự tồn tại của luật chứ dùng

những thông tin này mà truyền thông, tư vấn, giúp giải quyết những tình huống

74

cụ thể, phức tạp là khó khăn.

Ngoài những kênh truyền thông trực tiếp trên, Luật Hôn nhân và gia

đình còn được tuyên truyền qua cán bộ các cơ quan đảng, chính quyền và các

đoàn thể xã hội đến nói chuyện. 11,8% số ý kiến được hỏi khẳng định đã tiếp

cận Luật Hôn nhân và gia đình qua kênh truyền thông này. Thông thường ở các

xã/phường hoặc một số cơ quan nhà nước vào các dịp 8/3 (Ngày quốc tế phụ

nữ), 28/6 (Ngày gia đình Việt Nam), 1/12 (Ngày phòng chống HIV/AIDS)…

một số địa phương, đơn vị thường mời các chuyên gia đến nói chuyện chuyên

đề. Nhiều cuộc đã nói về hôn nhân và gia đình và Luật Hôn nhân và gia đình.

Đây cũng là hình thức truyền thông thích hợp, mang lại những thông tin bổ ích

cho cộng đồng nhất là cho thanh niên tiền hôn nhân. Thảo luận nhóm, không ít

ý kiến đã đánh giá khá tốt về những thông tin mà kênh truyền thông này mang

tổ dân phố của tôi, Hội phụ nữ đã hai lần mời cán bộ ở trên về nói chuyện cho phụ nữ về

bảo vệ sức khỏe sinh sản, bảo vệ quyền phụ nữ, thực hiện một số điều trong Luật Hôn nhân

và gia đình và thực hiện bình đẳng giới. Tôi thấy những buổi nói chuyện như vậy rất thú vị,

tôi tiếp nhận được nhiều thông tin bổ ích". ý kiến một nữ thanh niên khác: "tôi cũng

thấy vậy, đồng ý như vậy".

lại. Thảo luận nhóm ở phường Nghĩa Tân đã có ý kiến khẳng định như sau: "ở

Trong đời sống mỗi người không ít hiểu biết được tiếp nhận từ chính cha

mẹ, người thân trong gia đình mình. Luật Hôn nhân và gia đình cũng vậy. Để

đánh giá vai trò của gia đình, người thân và hiểu biết của thanh niên tiền hôn

nhân về Luật Hôn nhân và gia đình, khảo sát đã đưa ra câu hỏi: "bạn có nghe bố

mẹ người thân nói về Luật Hôn nhân và gia đình không?". Tổng hợp kết quả

khảo sát cho thấy, có xấp xỉ 10% thanh niên được hỏi khẳng định đã nhận được

thông tin về luật từ cha mẹ. Tỷ lệ tuy không nhiều nhưng cũng đã thể hiện sự

quan tâm của các bậc cha mẹ trong việc tuyên truyền, phổ biến Luật Hôn nhân

và gia đình cho thanh niên tiền hôn nhân. Đặc biệt khi nhóm xã hội này đang

trong quá trình tìm hiểu, yêu và chuẩn bị lập gia đình. Nhiều ý kiến được hỏi từ

phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung đều cho rằng, thanh niên tiền hôn

nhân hỏi nhiều nhất cha mẹ người thân mình về những quy định liên quan đến

tuổi kết hôn, cách thức đăng ký kết hôn, trao, nhận giấy kết hôn, đăng ký hộ

75

khẩu sau kết hôn và những thủ tục cần thiết như kết hôn và tổ chức cưới.

ở Hà Nội, tuy có không ít những trung tâm tư vấn về luật pháp và về hôn

nhân và gia đình song việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức về Luật Hôn nhân

và gia đình vẫn không nhiều. Do vậy, tỷ lệ thanh niên tiền hôn nhân khẳng định

được tiếp cận với các thông tin về Luật Hôn nhân và gia đình qua các trung tâm

tư vấn là rất khiêm tốn. Tỷ lệ này chỉ 3,6% tổng số thanh niên được hỏi. Điều

tôi có khá nhiều trung tâm tư vấn và câu lạc bộ được tổ chức như trung tâm tư vấn sức khỏe

gia đình, câu lạc bộ người không sinh con thứ ba, câu lạc bộ tiền hôn nhân, câu lạc bộ gia

đình, ông bà, cha mẹ gương mẫu, con cháu thảo hiền… song những trung tâm tư vấn và câu

lạc bộ này chỉ chú ý nhiều đến những vấn đề nổi cộm như: bệnh lây truyền qua đường tình

dục, sức khỏe sinh sản, sức khỏe vị thành niên, kế hoạch hóa gia đình… Phổ biến luật, nhất là

Luật Hôn nhân và gia đình chúng tôi giao cho tư pháp xã, họ có nhiệm vụ giải thích luật khi

tổ chức đăng ký kết hôn cho thanh niên nam nữ " (Nam, 45 tuổi, cán bộ xã)

này có thể được cắt nghĩa bởi giải thích sau đây của một cán bộ lãnh đạo xã: "Xã

Tóm lại, ở địa bàn Hà Nội, Luật Hôn nhân và gia đình đã được thanh niên

tiền hôn nhân tiếp cận qua nhiều kênh khác nhau, từ các phương tiện truyền

thông đại chúng đến truyền thông trực tiếp. Trong đó, số tiếp cận qua truyền

thông đại chúng chiếm tỷ lệ cao nhất trên 50%. Tuy nhiên, những kênh truyền

thông này không thể truyền tải đầy đủ, toàn diện, sâu sắc các thông tin về từng

điều khoản cụ thể của luật cho từng đối tượng truyền thông. Còn các kênh

truyền thông trực tiếp tuy truyền tải được nhiều nội dung thông tin có chiều sâu

cho từng đối tượng cụ thể, nhưng thanh niên tiền hôn nhân lại tiếp cận với tỷ lệ

không nhiều. Kênh truyền thông trực tiếp có tỷ lệ thanh niên tiếp cận cao nhất là

- nhà trường. Song cũng chỉ 20% thanh niên được nghe phổ biến về luật tại đây.

Kênh truyền thông có tỷ lệ thanh niên tiếp cận ít nhất là phòng tư vấn ở cơ sở

(3,6%). Tất cả là những điều đang cắt nghĩa cho sự hiểu biết chưa đầy đủ, sâu

sắc về Luật Hôn nhân và gia đình của nhóm thanh niên tiền hôn nhân.

2.3.2 Cách thức nghiên cứu, tìm hiểu Luật và các văn bản dưới luật

Hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân về Luật Hôn nhân và gia đình còn

phụ thuộc vào cách thức nghiên cứu, tìm hiểu về luật. Theo hướng này, cuộc

điều tra đã đưa ra những câu hỏi và phương án trả lời nhằm làm rõ cách thức

76

tiếp cận và nghiên cứu luật của thanh niên tiền hôn nhân. Tổng hợp số liệu điều

tra cho thấy, mới chỉ có 4,5% thanh niên được hỏi trả lời đã nghiên cứu kỹ luật.

95,5% số còn lại nghiên cứu chưa kỹ hoặc chưa tiếp cận được đầy đủ với các

điều khoản của luật. (xem biểu 6)

25

22.8

20

15

10

6.4

4.5

5

0

S1

Đã nghiên cứu cẩn thận

Đã được đọc toàn bộ

Chỉ xem lướt qua vài phần

Biểu 6: Mức nghiên cứu, tìm hiểu luật của thanh niên chưa kết hôn

Biểu số liệu trên cho thấy, mới chỉ có 6,5% thanh niên được hỏi trả lời đã

đọc toàn bộ Luật. 4,5% khẳng định đã nghiên cứu cẩn thận Luật. Còn 22,8%

khác thì khẳng định chỉ xem lướt qua một vài phần. Những số liệu tổng hợp trên

một lần nữa khẳng định, ngoài việc nghe qua tivi, đài, nói chuyện, trao đổi,

thanh niên tiền hôn nhân hiện rất ít tiếp cận với văn bản Luật, đọc các điều

khoản của Luật, nghiên cứu tìm hiểu kỹ về luật. Điều này cắt nghĩa cho mức

hiểu biết còn khá hạn chế của thanh niên tiền hôn nhân với những nội dung, điều

khoản cụ thể trong Luật Hôn nhân và gia đình.

Hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân còn hạn chế với Luật Hôn nhân và

gia đình còn vì thanh niên chưa được tiếp cận nhiều với các nghị định, những

văn bản hướng dẫn, thi hành luật. Tổng hợp số liệu từ cuộc khảo sát cho thấy:

Bảng 19: Mức tiếp cận của thanh niên tiền hôn nhân với các nghị định,

văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình

Nguồn tiếp cận

Văn bản, nghị định liên quan

Được đọc Nghe ti vi

SL %

SL %

Nghe mọi người nói SL % Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định thi hành 125 31,6 200 50,6 70 17,8

77

78 19,7 215 54,4 102 25,9

124 31,3 185 46,8 86 21,9

87 22,1 189 47,7 115 29,1

72 18,3 199 50,3 124 31,4

Luật HN&GĐ Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn áp dụng quy định của Luật HN&GĐ Nghị định số 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực HN&GĐ Nghị định số 68/2002/NĐ-CP về quan hệ HN có yếu tố nước ngoài Thông tư 07/2002/TT-BTP về quan hệ HN có yếu tố nước ngoài

Bảng số liệu trên cho thấy, mới chỉ có 31,6% là đã từng đọc Nghị định

70/2001/NĐ-CP quy định thi hành Luật Hôn nhân và gia đình. Chỉ có 18,3% là

đã từng đọc về Thông tư 07/2002/TT-BTP về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước

ngoài. Ngoài ra, còn một số bạn trẻ khác cũng được nghe mọi người xung quanh

nói đến những văn bản, nghị định liên quan đến Luật Hôn nhân và gia đình. Có

29,1% là được nghe mọi người nói đến Nghị định số 68/2002/NĐ-CP về quan

hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, 31,4% được nghe mọi người nói đến Thông

tư 07/2002/TT-BTP về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Hai con số này

cho ta thấy thanh niên hiện nay nghe mọi người xung quanh nói về những vấn

đề hôn nhân có liên quan đến yếu tố nước ngoài nhiều hơn các nội dung khác.

Phải chăng, đây là vấn đề đang nổi cộm với một bộ phận nữ thanh niên nhất là

nữ thanh niên có hoàn cảnh gia đình khó khăn hiện nay.

Cũng cần khẳng định thêm rằng, tuy hiện nay thông tin liên quan đến Luật

Hôn nhân và gia đình được phổ biến qua các kênh, song mức tiếp cận được giữa

thanh niên nam và nữ, thanh niên sống ở nông thôn, đô thị khá khác nhau:

Bảng 20 : Mức tiếp cận thông tin về các nghị định, văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình phân theo với giới tính và khu vực sinh sống của thanh niên tiền hôn nhân

Giới tính

Văn bản, nghị định liên quan đến Luật Hôn nhân và gia đình

Nam SL %

Nữ SL %

Khu vực Đông Anh Cầu Giấy SL % SL %

161 40,5 236 59,5 220 55,5 177 44,6

146 36,8 251 63,2 246 61,9 151 38,1

Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định thi hành Luật HN&GĐ Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn áp dụng quy định của Luật

78

152 38,2 245 61,8 232 58,4 165 41,7

150 37,7 247 62,3 233 58,8 164 41,3

145 36,6 252 63,4 242 61,0 155 39,0

HN&GĐ Nghị định số 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực HN&GĐ Nghị định số 68/2002/NĐ-CP về quan hệ HN có yếu tố nước ngoài Thông tư 07/2002/TT-BTP về quan hệ HN có yếu tố nước ngoài

Bảng số liệu trên cho thấy, tiếp cận với các luật, văn bản dưới luật của

Luật Hôn nhân và gia đình và nhiều luật khác nữ thanh niên có tỷ lệ cao hơn hẳn

nam thanh niên. ở phần lớn các chỉ báo, tỷ lệ nữ tiếp cận cao hơn tỷ lệ nam từ

1,5 lần đến gần 2 lần. Hiện tượng này do nữ thanh niên thường kết hôn sớm hơn

nam thanh niên. Mặt khác, nếu hôn nhân và gia đình không thuận thì hậu quả

phần nhiều phụ nữ phải gánh chịu. Do vậy, nữ quan tâm, tiếp cận nhiều hơn nam

đến Luật Hôn nhân và gia đình là điều dễ hiểu.

Phỏng vấn sâu càng cho thấy rõ tình hình này cụ thể khi phỏng vấn sâu

lập gia đình, người yêu tôi làm ở một doanh nghiệp ở Vĩnh Phúc. Sáng sớm đã phải đi, tối

muộn mới về. Hôm nào trực không về được phải ở lại cơ quan. Cuộc sống của chúng tôi

trước mắt sẽ khó khăn nhưng tôi tin rằng, chúng tôi sẽ vượt qua khó khăn. Nhưng để tiến tới

hôn nhân vững chắc, tôi phải tìm hiểu luật để biết chúng tôi phải làm gì để bảo vệ hạnh phúc

của mình” (PVS, nữ sắp kết hôn, 26 tuổi, cán bộ)

một nữ thanh niên ở phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy cho thấy: “Tôi sắp thành

Xét kết quả nghiên cứu theo địa bàn khảo sát cho thấy, thanh niên được

hỏi ở huyện Đông Anh - thuộc ngoại thành Hà Nội lại có mức tiếp cận và tìm

hiểu về những vấn đề liên quan đến Luật Hôn nhân và gia đình cao hơn khá

nhiều so với thanh niên ở Quận Cầu Giấy - thuộc nội thành Hà Nội. Đây là một

điều cần phải chú ý, bởi lẽ, thanh niên ở nội thành thường có điều kiện, khả

năng để được tiếp cận thông tin nhiều hơn so với thanh niên ở ngoại thành. Vậy

mà cuộc điều tra lại cho kết quả ngược lại.

Có từ 55,1% đến 61,9% thanh niên chưa kết hôn được hỏi ở huyện Đông

Anh trả lời đã tiếp cận được với các văn bản nghị định có liên quan đến Luật

Hôn nhân và gia đình trong khi đó, chỉ có từ 38,1% đến 44,9% thanh niên chưa

79

kết hôn ở quận Cầu Giấy trả lời các câu hỏi tương tự như vậy. Điều gì đã tạo nên

sự khác biệt này? Tìm hiểu sâu, tác giả được biết, tiếp cận với các văn bản

hướng dẫn của Luật Hôn nhân và gia đình, thanh niên chủ yếu thông qua tivi và

một số phương tiện truyền thông đại chúng khác. Nhưng hiệu quả của các kênh

truyền thông đại chúng hiện nay thì nội và ngoại thành Hà Nội không khác nhau

nhiều. Song ngược lại, ở các vùng nông thôn ngoại thành, yếu tố cộng đồng còn

cao. Truyền thông trực tiếp qua các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội và qua

cộng đồng đạt hiệu quả tốt (truyền thông nhóm nhỏ, các câu lạc bộ tiền hôn

nhân, triển khai các mô hình chăm sóc sức khoẻ lồng ghép với tuyên truyền kiến

thức hôn nhân và gia đình tại cộng đồng…). Nhiều thanh niên ở ngoại thành đã

tiếp nhận thông tin về Luật Hôn nhân và gia đình qua những kênh này. Do vậy,

nhận thức của họ về luật và các văn bản dưới luật cao hơn thanh niên ở nội

thành là điều có thể giải thích được.

Xét tương quan với trình độ học vấn, đáng chú ý là thanh niên có trình độ

học vấn trung cấp, cao đẳng biết về các văn bản có liên quan đến Luật Hôn nhân

và gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất 47,8%. Tỷ lệ thanh niên có trình độ đại học và

trên đại học chỉ chiếm hơn 35,9%. Thấp nhất là thanh niên tốt nghiệp PTTH trở

xuống biết về các văn bản luật chỉ 16,3%. Phải chăng, những thanh niên có trình

độ học vấn trên PTTH thì khả năng và điều kiện tiếp cận với luật và các văn bản

liên quan đến Luật Hôn nhân và gia đình tốt hơn?

Như vậy là, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức nhận thức của thanh niên

tiền hôn nhân với Luật Hôn nhân và gia đình. Trong đó, phải kể đầu tiên đến các

phương tiện truyền thông đại chúng mà truyền hình là kênh được thanh niên tiền

hôn nhân đánh giá hàng đầu. Sau đó, đến đài phát thanh, truyền thanh, báo chí

và cuối cùng là internet. Tuy nhiên, những phương tiện truyền thông đại chúng

này chỉ giúp thanh niên tiền hôn nhân có được những nhận thức chung nhất, phổ

quát nhất về Luật Hôn nhân và gia đình. Những thông tin chuyên sâu, đầy đủ

dành cho từng loại đối tượng thanh niên còn rất ít. Do vậy, dù được đánh giá cao

song các phương tiện truyền thông đại chúng cũng mới chỉ đem lại cho thanh

niên tiền hôn nhân những thông tin và hiểu biết phổ quát đầu tiên về Luật Hôn

80

nhân và gia đình… Để nâng cao hơn nữa vai trò của các phương tiện truyền

thông đại chúng, cần tổ chức những chương trình tuyên truyền chuyên sâu, cụ

thể hơn cho từng loại đối tượng.

Còn truyền thông trực tiếp tuy đã được thanh niên tiền hôn nhân đánh giá

là đã mang lại nhiều nguồn thông tin bổ ích, sâu sắc cho họ, song mức tiếp cận

chưa nhiều. Kênh tuyên truyền trực tiếp được nhiều thanh niên tiếp cận, nghiên

cứu, tìm hiểu nhất mới chỉ có 20,3% ý kiến của thanh niên được hỏi khẳng định.

Kênh có mức tiếp cận thấp nhất - qua trung tâm tư vấn mới chỉ có 3,6% thanh

niên có ý kiến đồng ý. Đây cũng là điều cần chú ý để mở rộng và tăng cường

hơn nữa các kênh truyền thông trực tiếp giúp thanh niên nhất là thanh niên tiền

hôn nhân hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản

hướng dẫn luật.

Ngoài ra, ảnh hưởng đến hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân về Luật

Hôn nhân và gia đình còn liên quan đến cách thức tiếp cận, nghiên cứu, tìm hiểu

về Luật. Những số liệu khảo sát đã được phân tích ở trên cho thấy rằng, đọc,

nghiên cứu, tìm hiểu trực tiếp từng điều khoản của Luật là cách thức tốt nhất để

thanh niên hiểu rõ và thực hành luật. Nhưng số thanh niên được hỏi tìm, đọc,

nghiên cứu kỹ về luật lại rất ít. Số đọc qua, đọc một vài điều hoặc nghe nói qua

những người khác hoặc qua các phương tiện truyền thông đại chúng lại chiếm số

đông. Đây là một trong những nguyên nhân căn bản, chính yếu làm cho hiểu biết

của thanh niên tiền hôn nhân về Luật Hôn nhân và gia đình còn chưa đầy đủ,

thiếu sâu sắc.

Ngoài ra, yếu tố giới và địa bàn cư trú thành thị, nông thôn cũng ảnh

hưởng tới hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân. ở đây, nhu cầu tìm hiểu thông

tin của nữ thanh niên cao do tuổi kết hôn sớm và do sự yếu thế về xã hội của

nhóm này khiến hiểu biết của họ trên hầu hết các chỉ báo đều cao hơn nam giới.

Song ngược lại, thanh niên nông thôn lại có nhận thức về luật và các văn bản

hướng dẫn luật cao hơn khá nhiều so với thành thị, do ở vùng nông thôn yếu tố

cộng đồng còn cao, nhiều thiết chế, tổ chức xã hội như làng xã, dòng họ, hội và

81

đoàn thể xã hội còn có vai trò khá lớn trong truyền thông, giáo dục, quảng bá

Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản có liên quan. Do vậy, nhận thức của

thanh niên tiền hôn nhân ở nông thôn cao hơn ở thành thị.

Trên đây là những yếu tố ảnh hưởng quan trọng nhất đến mức hiểu biết

của thanh niên tiền hôn nhân về Luật Hôn nhân và gia đình mà cuộc khảo sát có

82

thể rút ra.

Chƣơng 3: Xu hƣớng biến đổi quan điểm về hôn nhân và gia đình trong thanh niên hiện

nay

3.1. Xu hướng biến đổi quan điểm về giải quyết những vấn đề trong gia đình

Từ khi mở cửa, đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế phát triển,

đời sống nhân dân được cải thiện. Song kinh tế thị trường, mở cửa cũng làm

thay đổi nhiều hệ giá trị và chuẩn mực xã hội. Một số giá trị, chuẩn mực truyền

thống đã bị mai một. Văn hoá và lối sống ngoại lai xâm nhập nhiều, nhất là với

những quan niệm tiếp cận, giải quyết vấn đề hôn nhân và gia đình. Chính lý do

này, khiến tác giả muốn đi sâu tìm hiểu những biến đổi quan điểm về hôn nhân

và gia đình từ khi đổi mới đến nay nhằm góp phần tìm kiếm những giải pháp

phù hợp, nâng cao hiểu biết cho thanh niên tiền hôn nhân, thực hiện có hiệu quả

Luật Hôn nhân và gia đình.

Theo hướng này, cuộc điều tra đã đưa ra một số quan điểm tiếp cận về

hôn nhân gia đình trên các mặt: quan niệm về số con, giới tính của con, giáo

dục, nuôi dạy con, quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa bố mẹ và con cháu và tài sản

83

riêng… Tổng hợp số liệu từ cuộc điều tra cho thấy như sau:

Bảng 21 : Tần suất ý kiến với những tình huống trong gia đình (%)

Tình huống Rất tán Thành Tán thành Bình thường Phản đối Rất phản đối

75,2 5,8 10,8 4,1 4,1

19,2 5,2 14,2 17,6 43,8

10,4 4,5 12,2 10,4 62,4

21,1 5,8 12,9 9,0 51,3

16,8 10,6 22,6 17,6 32,5

21,2 16,4 26,8 19,5 16,2

7,8 4,8 5,4 4,8 77,1

theo 19,4 7,1 15,9 9,2 48,4

17,0 9,5 24,5 22,5 26,4

1. Mỗi gia đình nên chỉ có từ một đến hai con 2. Mỗi gia đình nên có con trai để nối dõi 3. Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô 4. Gia đình nuôi dưỡng trẻ em, giáo dục là việc của nhà trường 5. Người mẹ lo chăm sóc con còn người cha lo việc giáo dục 6. Con cái có quyền phản đối ý kiến cha mẹ 7. Trai năm thê bảy thiếp, gái đoan chính một chồng 8. Thuyền theo lái, gái chồng (Phu xướng phụ tuỳ) 9. Người vợ nội trợ, quản lý gia đình, chồng làm việc xã hội 10. Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó 11. Vợ chồng nên có tài sản riêng 4,4 17,5 5,0 7,7 9,3 32,6 10,9 16,7 70,4 25,5

Những số liệu từ bảng trên cho thấy, tuyệt đại đa số thanh niên tiền hôn

nhân được hỏi (91,8%) đồng ý với tiêu chí mỗi gia đình nên chỉ có một đến hai

con. Số phản đối và rất phản đối tiêu chí này chỉ 8,2%. Còn giới tính nam của

con thì có 61,4% thanh niên được hỏi cho là không cần thiết. Số quan niệm cần

và rất cần là 24,4% (chiếm 1/4 số được hỏi). Còn quan niệm "Nhất nam viết

hữu, thập nữ viết vô" thì số phản đối là 72,8%. Số tán thành chỉ hơn 1/4.

Còn quan niệm về giáo dục, nuôi dạy con trong gia đình thì có 60,3%

thanh niên được hỏi ý kiến cho rằng đây là nhiệm vụ của cả nhà trường, gia đình

và xã hội. Thậm chí, quan niệm "cha lo việc giáo dục, mẹ lo việc nuôi dưỡng"

cũng bị quá nửa thanh niên được hỏi phê phán. Số ủng hộ và rất ủng hộ quan

điểm này chỉ 27,4%.

Quan niệm cũ: "trai năm thê bảy thiếp, gái đoan chính chỉ có một chồng"

84

cũng bị thanh niên tiền hôn nhân phản đối tới 81,9% ý kiến được hỏi. Tương tự

như vậy, quy việc nội trợ cho phụ nữ trong gia đình còn nam giới tham gia hoạt

động xã hội cũng có 48,9% phản đối và rất phản đối. Số tán thành chỉ 26,5%.

Tất cả những số liệu trên cho thấy rằng, hiện tại ở Việt Nam trong những

tiêu chí xây dựng gia đình theo chuẩn mới về cơ bản đã được cộng đồng, nhất là

thanh niên nam, nữ quan tâm, chấp nhận thực hiện. Đa số thanh niên đã chấp

nhận những quy chuẩn mới, tiến bộ về số con, về giới tính của con, về cách thức

nuôi dưỡng giáo dục con, về quan hệ vợ chồng, người thân và quan hệ bố mẹ,

con cái… Đây là sự thay đổi theo hướng tiến bộ rất đáng trân trọng cần khuyến

khích phát triển.

3.2. Quan hệ tình dục trước hôn nhân

Quan hệ tình dục trước hôn nhân trong thanh niên hiện nay không phải là

hiện tượng mới ở nước ta. Tuy nhiên đây là hành vi ảnh hưởng nghiêm trọng tới

lối sống, quan niệm về tình yêu, hôn nhân, gia đình của giới trẻ. Đây là một vấn

đề xã hội cấp bách, vượt ra khỏi phạm vi gia đình. Xung quanh vấn đề này đang

có rất nhiều ý kiến khác nhau, song tỷ lệ thanh niên chưa kết hôn phản đối các

phương án không cao, đa số đều dưới 50% (xem biểu 7). Có thể thấy quan điểm

85

này đồng nhất với nhận thức như đã phân tích ở phần thực trạng.

Cụ thể, biểu 7 cho thấy, số người lựa chọn phương án quan hệ tình dục

trước hôn nhân đem lại hậu quả không tốt cho bạn gái chiếm tỷ lệ cao nhất với

49,2% ý kiến đồng tình. Trong tương quan với giới tính, có 56,2% số thanh niên

nữ lựa chọn phương án này trong khi nam chỉ có 38,2%. Quan niệm về hành vi

quan hệ tình dục trước hôn nhân có thể đem lại hậu quả không tốt cho bạn gái

vẫn chủ yếu xuất phát từ nữ giới. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng đã có

một tỷ lệ không nhỏ nam thanh niên ý thức được hậu quả của hành động này.

Đây là điều đáng mừng. Trong tương lai, cần phải có những biện pháp tuyên

truyền giúp nâng cao nhận thức này ngày càng hơn từ phía nam giới.

Tuy nhiên, quan điểm về quan hệ tình dục trước hôn nhân của thanh niên

tiền hôn nhân cũng đang có những biến đổi đáng chú ý. Ví dụ quan niệm yêu

nhau thì không tiếc nhau điều gì hay quan hệ tình dục là hành động khẳng định

sự tin tưởng lẫn nhau là những lý do mà 20,8% thanh niên được hỏi biện hộ cho

hành động của mình. Đây là quan niệm hết sức sai lầm, cần phải lên án.

Với lý do là sẽ cưới nhau nên quan hệ tình dục trước hay sau cũng không

quan trọng có 38,3% số người lựa chọn. Tuy nhiên, xét trong mối tương quan

với giới tính, nam chọn phương án này nhiều hơn nữ với 42,7% so với 35,3%.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, quan điểm về tình dục trước hôn nhân hiện

nay đã thoáng đãng, cởi mở hơn so với trước đây khá nhiều. Đây là một trong

những yếu tố ảnh hưởng đến những biến đổi cả trong hôn nhân và gia đình ở

nước ta.

Để làm rõ hơn nữa quan điểm của thanh niên tiền hôn nhân với hiện

tượng quan hệ tình dục trước hôn nhân và quan niệm về hạnh phúc gia đình, tác

giả đưa ra câu hỏi: "Anh/Chị nghĩ thế nào nếu người yêu của anh/chị đã từng

86

quan hệ tình dục với người khác?". Kết quả thu được như sau:

Biểu 8: Tương quan giới tính với cách ứng xử khi người yêu đã từng có quan hệ tình dục với người khác (%)

Đa số những người được hỏi chọn phương án còn tuỳ vào thái độ hiện tại,

nếu vẫn duy trì điều đó thì tôi sẽ chia tay với 41% ý kiến lựa chọn; 26,5% cho

rằng không thể chấp nhận được và khẳng định sẽ chia tay. Trong tương quan với

giới tính, nữ không chấp nhận chuyện này cao hơn nam là 28,1% so với 23,1%.

Điều này thể hiện thái độ không đồng tình của một bộ phận thanh niên với quan

hệ tình dục trước hôn nhân.

Như vậy là, dù quan niệm về tình dục, tình yêu và hôn nhân thoáng đãng

hơn rất nhiều. Nhưng thực tế, quan hệ tình dục trước hôn nhân vẫn là yếu tố làm

cho nhiều cuộc hôn nhân và gia đình kém bền vững. Nhiều quyết định hôn nhân

phải xem xét lại. Độ bền vững của gia đình bị thách thức. Đây chính là yếu tố sẽ

còn gia tăng trong tương lai. ảnh hưởng của nó tới hôn nhân và gia đình là điều

cần tiếp tục nghiên cứu để hạn chế nhưng hậu quả mà hiện tượng quan hệ tình

dục ngoài hôn nhân và trước hôn nhân gây ra.

3.3. Sống thử

87

Bên cạnh hiện tượng quan hệ tình dục trước hôn nhân, hiện nay có không ít các bạn trẻ sống với nhau như vợ chồng, hay còn gọi là “sống thử”. Đây là lối sống ảnh hưởng nhiều từ phim ảnh và từ các xã hội phương tây. Trong một số năm gần đây, cách sống này đang có xu hướng phát triển. Hậu quả xã hội của nó đối

với cả hai giới đặc biệt là với nữ giới rất nặng nề. Tổng hợp ý kiến từ cuộc khảo sát cho thấy 'sống thử' có những mặt tích cực và hạn chế như sau:

Bảng 22 : Tỷ lệ quan niệm về việc “sống thử” (%)

SL 59 Tỷ lệ 15,1

61 15,5

67 16,9

125 31,6

47 11,9

53 13,6

148 37,3

131 33,0

29 197 178 7,5 49,8 45,0

138 34,9

Quan niệm 1. Giúp họ tập sống có trách nhiệm 2. Giúp hiểu nhau hơn, có kinh nghiệm cho cuộc sống vợ chồng sau này 3. Giúp trải nghiệm, nếu không hợp nhau thì khỏi kết hôn 4. Làm mất thời gian trong khi đang còn trẻ, cần học tập và làm việc 5. Phải thử mới biết được là gia đình có khuyết tật hay không 6. Giúp giải quyết vấn đề sinh lí vì tình dục là nhu cầu bản năng lành mạnh của con người 7. Là vi phạm pháp luật 8. Sống thử không có sự ràng buộc về mặt luật pháp nên dễ dàng bỏ nhau 9. Giúp tiết kiệm, khi cùng chi tiêu chung 10. Thiệt thòi cho người phụ nữ vì họ dễ bị lợi dụng, bỏ rơi 11. Sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình sau này 12. Pháp luật chưa công nhận nên bị mọi người bàn tán và không thông cảm 13. Không phù hợp với lối sống của người Việt nam 14. Sống thử là biểu hiện của văn hoá hiện đại 15. Sống thử là lối sống ích kỉ và vô trách nhiệm 16. Chỉ là học đòi lối sống phương tây 17.Khác 174 53 135 161 5 43,9 13,4 34,2 40,6 1,2

Nhìn chung quan niệm của những người được hỏi với tác động của việc

sống thử là khá tích cực. Quan niệm cho rằng, phụ nữ sẽ là người thiệt thòi vì họ

dễ bị lợi dụng, bị bỏ rơi chiếm tỷ lệ cao nhất với 49,8% số người lựa chọn. Bên

cạnh đó, số người cho rằng việc “sống thử” sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc gia

đình sau này cũng khá cao với 45% số người lựa chọn. Gần một nửa số thanh

niên được hỏi cho là sống thử không phù hợp với lối sống của người Việt Nam

(43,9%) hay là học đòi lối sống phương Tây (40,6%). Một yếu tố nữa cũng hết

sức đáng chú ý với tỷ lệ 37,3% số người lựa chọn phương án sống thử là vi

phạm pháp luật hay pháp luật chưa công nhận nên bị mọi người bàn tán và

88

không thông cảm (34,9%).

Bên cạnh những quan niệm tích cực, cũng còn tồn tại quan niệm tiêu cực

như sống thử không có sự ràng buộc về mặt luật pháp nên dễ dàng bỏ nhau với

33% số người lựa chọn. Sống thử giúp tập sống có trách nhiệm, hiểu nhau hơn

để có kinh nghiệm cho cuộc sống vợ chồng sau này.

Tất cả những đánh giá về được, mất trong sống thử dù có khác nhau song

đều cho thấy, quan niệm của xã hội về tình dục, tình yêu hôn nhân đã thoáng

hơn rất nhiều. Trong cả hiện tại và tương lai, với quan niệm thoáng như vậy,

sống thử sẽ còn phát triển, vì vậy, những được, mất sẽ được nhân lên. Do vậy,

cần sửa luật hay quản lý xã hội theo như luật đã quy định đang là vấn đề cần suy

nghĩ, tìm hiểu nghiêm túc để tìm hướng giải quyết thích hợp.

3.4. Ly hôn

Đồng hành với việc kết hôn sớm, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân cộng

với những khó khăn khác dễ dẫn đến hậu quả là ly hôn. Có nhiều lý do được đưa

ra như không hiểu rõ về nhau, có sự khác biệt trong tính cách, mâu thuẫn giữa

vợ và chồng trong việc giáo dục con cái… Trên thực tế ly hôn là giải pháp cuối

cùng cho cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Khi được hỏi về vấn đề này, hầu hết

thanh niên đều ủng hộ việc ly hôn khi hai vợ chồng không còn muốn sống với

nhau nữa. Theo họ, ly hôn là giải pháp tốt nhất giúp giải toả mâu thuẫn giữa vợ

và chồng. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều, nhưng theo ý kiến của đa số

thanh niên trong diện khảo sát, vấn đề tập trung ở 3 nguyên nhân sau: không có

sự chuẩn bị kĩ về mọi mặt trước khi kết hôn (70,2% đồng tình); hai vợ chồng

không có sự đồng cảm và chia sẻ (56% ý kiến đồng ý). Và ly hôn do không thoả

mãn về quan hệ tình dục có tới 27% ý kiến được hỏi lựa chọn. Những số liệu

này cho thấy, cùng với sự thoáng đãng trong quan niệm về tình dục, tình yêu,

tình trạng ly hôn sẽ ngày càng có chiều hướng gia tăng. Những vấn đề liên quan

đến con cái, tài sản, các quan hệ tình cảm khác sẽ đặt ra ngày một nhiều trước

các cơ quan luật pháp. Đây cũng là điều cần chú ý để tuyên truyền, giáo dục

thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình cả trước mắt lẫn lâu dài.

Theo những chuẩn mực, giá trị, truyền thống, tình yêu tất yếu phải đưa

89

đến hôn nhân. Thậm chí có nhiều cuộc hôn nhân do sự sắp đặt của người thân,

cha mẹ, tình yêu lúc đầu là không có. Nhưng ngày nay, do những thay đổi trong

quan niệm về tình dục, tình yêu và hôn nhân nên tình yêu trong một số trường

hợp không đưa đến hôn nhân. Đây cũng là một xu hướng biến đổi trong hôn

nhân và gia đình thời hiện đại. Vì vậy, để xem xét xu hướng này, tác giả đã đưa

ra câu hỏi khảo sát nhằm đánh giá triển vọng hôn nhân của thanh niên tiền hôn

nhân hiện nay. Mục đích là so sánh giữa nhận thức với hành vi thực hiện Luật

Hôn nhân và gia đình của thanh niên chưa kết hôn.

Số liệu điều tra cho thấy, tỷ lệ thanh niên trả lời đã từng yêu là khá cao

(56,2%). Trong đó, có 36,4% thanh niên hiện đang có người yêu. Số trước đây

có nhưng đã chia tay là 19,8%. Tỷ lệ thanh niên chưa yêu bao giờ là 43,8%. Độ

tuổi để các bạn trẻ bắt đầu yêu thường là từ năm 18 tuổi là phổ biến (xem biểu

đồ 9)

Điều đáng quan tâm là trong số những thanh niên đang yêu thì tỷ lệ khẳng

định chắc chắn sẽ kết hôn với người yêu 47,2%. Số cho là còn tuỳ vào hoàn

cảnh là 43,6% và số trả lời không đi tới hôn nhân là 9,2%. Những số liệu trên

cho thấy rằng, hiện tại, tình yêu và hôn nhân đang là hai lĩnh vực có những

khoảng cách không nhỏ. Chỉ có gần 1/2 thanh niên đang yêu khẳng định sẽ tiến

tới hôn nhân; còn lại là không chắc chắn. Số không thể đi đến hôn nhân gần 1/10

số đang yêu. Rõ ràng, tình yêu và hôn nhân thời mở cửa đang có những thay đổi

đáng chú ý. Bởi lẽ, hiện tại, tình yêu và hôn nhân hiện đang được Luật Hôn nhân

và gia đình ghi nhận là tự do. Mọi ép buộc của người khác trong hôn nhân và gia

90

đình là hành vi phạm pháp. Do vậy, tỷ lệ khẳng định từ tình yêu sẽ đến hôn nhân

thấp là điều đáng phải quan tâm nghiên cứu như là một trong những lĩnh vực

đang có nhiều biến động hiện nay.

Về độ tuổi dự định kết hôn, số chọn phương án 25 tuổi phù hợp với cả

nam và nữ chiếm tỷ lệ cao nhất với 20% số người lựa chọn. Tỷ lệ cho rằng tuổi

kết hôn phù hợp nhất ở nam giới là 30 tuổi có 39,3% đồng ý. Với nữ, tuổi phù

hợp để kết hôn là 24 tuổi với 43%, thanh niên được hỏi đồng ý. Trong số những

người được điều tra, không có ai chọn kết hôn dưới 18 tuổi. Tỷ lệ chọn kết hôn

ở độ tuổi từ 18-20 cũng không đáng kể - chỉ khoảng 2% tổng số người được hỏi.

Tất cả những điều này cho thấy, hiện nay, xu hướng kết hôn ở độ tuổi muộn hơn

khá nhiều so với quy định của luật đang là một thực tế. Yêu cầu của việc học

tập, lao động, vươn lên về chuyên môn, kỹ thuật… là những yếu tố đang chi

phối khá mạnh mẽ xu thế này.

Khi được hỏi về tiêu chí lựa chọn bạn đời của thanh niên hiện nay thì sự

chú ý tập trung ở ba tiêu chí: chung thuỷ, có ý chí phấn đấu tốt, nghề nghiệp ổn

định và thu nhập tốt với tỷ lệ 76,4%, 74,5% và 70,3%. Có thể thấy rằng, đây là

những tiêu chí rất quan trọng đặt nền tảng cho một gia đình hạnh phúc. Điều này

cho thấy, quan niệm về hạnh phúc gia đình của thanh niên hiện nay cũng chưa

thay đổi nhiều. Tuy nhiên, nếu xét theo mối tương quan giữa giới tính thì nữ giới

yêu cầu này cao hơn so với nam trong cùng một tiêu chí được đặt ra. Cụ thể với

tiêu chí có lý tưởng, ý chí phấn đấu, tỷ lệ nam lựa chọn phương án này chỉ có

51,2%; trong khi đó nữ lại có tỷ lệ lựa chọn tới 70,1%. Ngoài ra, với tiêu chí

nghề nghiệp ổn định, thu nhập tốt, tỷ lệ nữ lựa chọn là 72,1%, trong khi đó, tỷ lệ

lựa chọn này ở nam là 49,8%. Phải chăng với nữ giới, việc tìm cho mình một

người chồng "hơn mình cái đầu" luôn vẫn là vấn đề quan trọng, có tính truyền

thống từ xưa tới nay.

Một vấn đề quan trọng khác không thể không tìm hiểu đó là quan niệm và

xu hướng quan hệ tình dục trước hôn nhân của nhóm thanh niên tham gia khảo

sát. Đây là vấn đề tế nhị và nhạy cảm đối với mọi cuộc nghiên cứu song với

những thanh niên được hỏi có câu trả lời đã khá cởi mở với tỷ lệ khẳng định

91

chưa bao giờ có quan hệ tình dục là 69,3%; quan hệ tình dục một vài lần có

11,1%; quan hệ nhiều lần có 9,6%, quan hệ tình dục một lần có 10%. Như vậy,

hiện nay đã có một tỷ lệ không nhỏ thanh niên chưa kết hôn (30,7%) đã có quan

hệ tình dục. Điều này cho thấy rằng, hiện tại quan hệ tình dục trước hôn nhân

đang là một thực tế. Xu thế này đang gia tăng. Đây cũng là điều cần chú ý để

truyền thông, giáo dục, thực hiện tốt Luật Hôn nhân và gia đình, đảm bảo hôn

nhân và gia đình phát triển bền vững.

Như vậy là, cùng với những biến đổi về kinh tế, chính trị, từ khi đổi mới,

mở cửa, chuyển sang kinh tế thị trường đến nay, nhiều vấn đề liên quan đến hôn

nhân và gia đình cũng có những thay đổi trong quan niệm giá trị về hạnh phúc

gia đình, về số con, về con trai, con gái, về quan hệ vợ chồng, cha mẹ - con cái,

ông bà - cháu chắt, người thân. Tính gia trưởng trong gia đình giảm, sự bình

đẳng, dân chủ trong gia đình ngày càng được tăng cường.

Bên cạnh đó, quan niệm về tình dục, tình yêu, hôn nhân đang có xu hướng

ngày càng thoáng đãng hơn. Xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng quan hệ tình

dục trước hôn nhân, sống thử. Đây được coi là một xu hướng trong lối sống hiện

thực của thanh niên thời mở cửa.

Từ tình yêu đến hôn nhân thật sự hiện đang còn là một khoảng cách. Tuy

những ảnh hưởng có tính truyền thống từ gia đình, cha mẹ, người thân không

nặng nề như trước đây. Thêm vào đó là xu hướng kết hôn muộn và có những

quan điểm khá cởi mở về tình dục ngoài hôn nhân. Tất cả là những thay đổi

đáng chú ý, cần phải tính đến trong quá trình tuyên truyền, vận động nâng cao

nhận thức, thái độ của cộng đồng nhằm thực hiện có hiệu quả nhất Luật Hôn

92

nhân và gia đình trong cả trước mắt lẫn lâu dài.

Phần III: Kết luận và một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên tiền hôn nhân hiện nay

1. Kết luận

Từ những phân tích đã đưa ra ở trên có thể đi đến một số kết luận như

sau:

Thứ nhất, Hiện tại, hầu hết thanh niên tiền hôn nhân được hỏi đã khẳng

định sự cần thiết phải có Luật Hôn nhân và gia đình. Chính vì vậy, nhiều thanh

niên đã cố gắng tiếp cận, tìm hiểu Luật, mong muốn được hiểu rõ luật. Số thấy

không cần có luật hoặc không biết có luật trong số thanh niên được hỏi là rất ít

(dưới 3%).

Thời điểm tốt nhất mà thanh niên muốn tiếp cận, tìm hiểu Luật Hôn nhân

và gia đình là khoảng tuổi bắt đầu trưởng thành (16 tuổi) đặc biệt là thời gian

trước khi thanh niên bước vào tuổi kết hôn (nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi

trở lên).

Do nhiều yếu tố sinh học và xã hội, tỷ lệ nữ có mong muốn tiếp cận và

tìm hiểu Luật Hôn nhân và gia đình cao hơn nhiều so với nam. Thực tế, trên

nhiều chỉ báo mức hiểu biết của nữ thanh niên cũng cao hơn so với nam thanh

niên. Đây là điều cần chú ý để có giải pháp tuyên truyền, giáo dục thích hợp cho

cả nam và nữ thanh niên cả trước mắt lẫn lâu dài.

Thứ hai, Về hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân về những quy định liên

quan đến kết hôn.

Đa số thanh niên tiền hôn nhân được hỏi đã hiểu rõ và hiểu được hôn

nhân quy định trong luật là hôn nhân tự nguyện, không phân biệt tôn giáo, dân

tộc. Không ai được ép buộc hôn nhân.

Tuổi kết hôn theo luật - nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên, một

bộ phận thanh niên đã biết, nhưng biết rõ còn khá khiêm tốn chỉ 14,7%. Số biết

chưa chính xác còn nhiều, thậm chí một số cho rằng đủ 18 tuổi trở lên là được

phép kết hôn cho cả nam và nữ. Thậm chí có tới 20% ý kiến cho rằng kết hôn

93

khi nào cũng được miễn là có tình yêu.

Tuyệt đại đa số thanh niên tiền hôn nhân (83,5%) đã biết đăng ký kết hôn

là một trong những việc cần thiết cho mọi cuộc hôn nhân. Quy định này nhằm

đảm bảo quyền lợi cho cả nam và nữ song bảo vệ nhất là cho giới nữ. Tuy nhiên,

vẫn còn một bộ phận (16,5%) không biết có quy định này trong luật hoặc không

thấy cần phải đăng ký kết hôn, chỉ cần tổ chức đám cưới là đủ. Đây là hiểu biết

sai, cần tuyên truyền, giáo dục loại bỏ.

Phần đông thanh niên tiền hôn nhân (91%) đã biết cần phải đăng ký kết

hôn trước khi cưới. Đây là thời điểm thích hợp nhất. Nhưng cũng còn khoảng

9% thanh niên tiền hôn nhân được hỏi cho rằng có thể chung sống trước, thậm

chí có con trước rồi mới đăng ký cũng được hay luật không quy định rõ điều

này. Đây là hiểu biết sai.

Địa điểm kết hôn là UBND xã, phường, thị trấn mà người kết hôn đang

đăng ký hộ khẩu thường trú. Phần đông (84%) thanh niên được hỏi khẳng định

đúng điều này. Song cũng còn 16% thanh niên được hỏi cho rằng địa điểm đăng

ký là toà án hoặc tổ dân phố. Đây cũng là hiểu biết sai cần tuyên truyền, giáo

dục để khắc phục.

Trao giấy kết hôn ở đâu và cho ai cũng là vấn đề mà cuộc khảo sát đã đề

cập. Phần đông cho rằng trao tại nơi đăng ký kết hôn. Song số cho rằng trao

không cần có đủ cả hai người còn chiếm tới 13% nam và 8% nữ được hỏi. Đây

cũng là hiểu biết chưa chính xác về Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên

tiền hôn nhân.

Luật cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính và kết hôn với những

người đã có vợ, chồng đã được thanh niên tiền hôn nhân hiểu biết khá tốt với

61,4% thanh niên biết có cấm hôn nhân đồng tính và 81,7% có biết cấm kết

hôn với người đang có vợ, có chồng. Tuy nhiên, vẫn còn 2/5 ý kiến cho rằng,

kết hôn đồng tính là hợp pháp và không biết có quy định này trong luật hay

không. Tương tự, còn 1/5 số thanh niên được hỏi cho kết hôn với người có vợ,

chồng là hợp pháp hoặc không biết có quy định trong luật không. Đây là những

hiểu biết sai lệch đang phải gạt bỏ nếu muốn xây dựng gia đình Việt Nam phát

94

triển bền vững.

Kiểm tra sức khoẻ trước hôn nhân là một việc cần và đáng phải ghi vào

trong luật nhưng đáng tiếc là luật chưa có quy định song lại có tới hơn 1/2 thanh

niên tiền hôn nhân cho đấy là điều có trong luật và hợp pháp. Đây cũng chính là

một trong những hiểu biết chưa chính xác của thanh niên tiền hôn nhân với Luật

Hôn nhân và gia đình.

Với quan hệ tình dục ngoài hôn nhân và sống thử, đa số thanh niên tiền

hôn nhân được hỏi biết rõ trong luật không có điều khoản nào quy định cho

những hành vi này. Tuy nhiên, tình trạng quan hệ tình dục và sống thử đang có

chiều hướng gia tăng nhất là trong nhóm sinh viên và lao động tự do sống xa

nhà. Một số cho đây là quyền tự do của mỗi cá nhân cần được luật hoá sớm.

Song cũng không ít thanh niên tiền hôn nhân được hỏi phản đối cách sống này.

Họ cho rằng hậu quả của việc sống thử rất nan giải cho cả giới nam và nữ, cho

con cái, người thân và gia đình họ. Muốn sống với nhau có tình yêu cần phải

tiến đến hôn nhân. Tuy nhiên, đây là một hiện tượng xã hội mới, cần nghiên

cứu, điều tra, đánh giá nghiêm túc tìm hướng giải quyết thích hợp.

Thứ ba, Về quan hệ vợ chồng

Đa số thanh niên tiền hôn nhân được hỏi đồng tình với chế độ một vợ một

chồng và khẳng định rằng đây là điều đã được Luật Hôn nhân và gia đình ghi

nhận. Khi chung sống, vợ chồng phải yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau, thực

hiện bình đẳng giới trong gia đình. Trong đó, chồng phải chia sẻ việc gia đình

với vợ và vợ phải tham gia lao động kiếm tiền cùng chồng. Tuy nhiên, mức

đồng tình theo giới tính trên hai phần việc này khá khác nhau. Tham gia việc gia

đình tỷ lệ đồng ý của thanh niên nữ cao hơn còn kiếm tiền thì ngược lại, nam lại

có tỷ lệ đồng ý cao hơn. Phải chăng, trên thực tế, tư tưởng bình đẳng giới còn

chi phối nhiều đến suy nghĩ và hành động của mỗi người nên còn có mức chênh

lệch về giới trong phân công lao động như vậy.

Quan hệ tình dục giữa vợ và chồng được thanh niên tiền hôn nhân nhận

thức khá chính xác theo những quy định và chuẩn văn hoá tình dục được cộng

đồng chấp nhận. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những chuẩn mới được du nhập

95

từ sau mở cửa, chuyển sang kinh tế thị trường nên đã có một bộ phận có quan

điểm tình dục thoáng đãng hơn và cho rằng luật cũng đã có những điều khoản

quy định như vậy (14% nữ và 19% nam - cho rằng vợ chồng phải chiều nhau bất

cứ khi nào một trong hai người muốn có chuyện ấy).

Về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, có 1/2 thanh niên tiền hôn nhân biết

đúng những quy định đã được ghi trong luật. Tuy nhiên, còn một bộ phận không

nhỏ chưa biết rõ và nắm được những quy định về việc sở hữu và phân chia tài

sản trước, trong và sau hôn nhân khi ly hôn. Đây là điều cần truyền thông, giáo

dục, quảng bá luật nhiều hơn nữa.

Ngoài ra, nhận thức của thanh niên tiền hôn nhân về những quy định

thuộc về trách nhiệm của vợ, chồng trong phòng chống HIV/AIDS và kế hoạch

hoá gia đình cũng đang còn khá hạn chế. Mới có trên dưới 1/2 thanh niên tiền

hôn nhân hiểu biết đúng về những quy định này. Đây cũng là điều cần phải

truyền thông, giáo dục tiếp tục.

Thứ tư, Các quan hệ khác trong gia đình

Tuyệt đại đa số thanh niên tiền hôn nhân hiểu được quy định của Luật

Hôn nhân và gia đình về trách nhiệm của bố me với con cái (80%) và con cái

với bố mẹ. Tuy nhiên, vẫn còn 1/4 thanh niên được hỏi cho là bố mẹ có quyền

đánh con. Điều này, nam đồng tình nhiều hơn nữ.

Riêng quyền được giám hộ giữa bố mẹ với con và ông bà với cháu chắt,

số biết sai và không biết còn cao (30%). Đây là điều đang ngăn cản quyền và

trách nhiệm của các thế hệ trong gia đình. Cần tăng cường công tác truyền

thông, giáo dục nhằm nâng cao hiểu biết và thực thi tốt những điều đã được

Luật pháp quy định.

Quy định về con nuôi, nhận con nuôi và trách nhiệm của bố, mẹ nuôi và

con nuôi đã được quy định khá rõ trong luật. Nhưng số thanh niên tiền hôn nhân

biết những điều kiện nhận con nuôi thấp (chỉ gần 1/3). Song biết về nghĩa vụ và

trách nhiệm của cả con nuôi và bố mẹ nuôi thì thanh niên có mức nhận thức cao.

Số có học vấn cao thì hiểu biết về điều này càng cao.

Thanh niên tiền hôn nhân cũng đã có nhận thức khá tốt về quyền được ly

hôn và những điều kiện ly hôn khi hai vợ chồng không thể chung sống với nhau.

Nhưng số hiểu sai về quyền được ly hôn của nam giới đang còn cao tới 1/2 số

96

người được hỏi, nhất là khi vợ đang có mang và con dưới 12 tháng tuổi. Ngoài

ra, luật không có điều khoản nào quy định về việc ly thân, song cũng có một số

thanh niên tiền hôn nhân khẳng định là có. Đây là một nhận thức chưa đúng.

Phân chia tài sản và phân chia con cũng là điều được luật ghi nhận nhưng

còn tới 1/3 số thanh niên tiền hôn nhân được hỏi chưa biết rõ quy định này.

Ngoài ra, còn một bộ phận từ 1/5 đến 1/2 số thanh niên được hỏi chưa hiểu rõ

những quy định đã được Luật Hôn nhân và gia đình ghi nhận khi phân chia tài

sản trong gia đình.

Thứ năm, Xử lý vi phạm

Nhìn chung, thanh niên tiền hôn nhân được hỏi hiểu chính xác về những

quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về loại vi phạm, mức vi phạm và cách

thức xử lý. Song hầu hết khi được hỏi về áp dụng luật thì thanh niên được hỏi

muốn xử lý theo quan hệ của luật Dân sự hơn và Hình sự. Có 1/3 số thanh niên

trả lời sai hoặc cho rằng luật chưa quy định. Đây là nhận thức còn chưa đúng. Khả năng và tâm thế sẵn sàng cho cuộc hôn nhân trong tương lai gần phần nào

đã được bộc lộ rõ trong nhóm thanh niên tham gia khảo sát.

Thứ sáu, khả năng và tâm thế sẵn sàng cho một cuộc hôn nhân trong

tương lai gần không được bộc lộ rõ trong nhóm thanh niên tham gia khảo sát.

Xu hướng kết hôn muộn so với quy định của Luật hôn nhân và gia đình là một

thực tế. Đa số khẳng định sẽ chấp hành những quy định của Luật Hôn nhân và

gia đình khi tiến hành kết hôn như đăng ký kết hôn trước khi cưới, tuân thủ chế

độ “một vợ một chồng” cũng như chỉ sinh từ 1 đến 2 con…

2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiểu biết về Luật Hôn nhân gia đình

trong thanh niên trƣớc hôn nhân.

2.1 Cần đẩy mạnh công tác truyền thông, cả truyền thông đại chúng và

truyền thông trực tiếp nhằm nâng cao hơn nữa hiểu biết của thanh niên tiền hôn

nhân với Luật Hôn nhân và gia đình; từ đây mà giúp họ có thái độ và hành động

đúng trong thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình. Để làm tốt hơn điều này cần:

Thứ nhất, mở các chuyên mục tuyên truyền có tính chuyên sâu về Luật

Hôn nhân và gia đình cho từng nhóm đối tượng như thanh niên tiền hôn nhân,

người thân, gia đình có thanh niên tiền hôn nhân, cán bộ có chức năng, nhiệm vụ

97

giải quyết những vấn đề xã hội của thanh niên tiền hôn nhân. Thông qua những

chuyên mục này mà cung cấp đầy đủ, chi tiết những điều khoản của luật cùng

những văn bản hướng dẫn thi hành luật cũng như kinh nghiệm tuyên truyền,

quảng bá và thực hiện luật cho từng nhóm đối tượng cụ thể.

Riêng với nam, nữ trong tiếp cận, hiểu biết và thực hiện Luật Hôn nhân và

gia đình còn đang có nhiều khác biệt. Thông thường, nữ giới có tỷ lệ quan tâm,

hiểu biết và đòi hỏi thực hiện đúng luật cao hơn nam giới. Do vậy, trong truyền

thông, giáo dục, thuyết phục thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình, cần đặc biệt

chú ý đến nam giới, giúp họ nâng cao nhận thức, thái độ và có hành vi thực hiện

luật Hôn nhân và gia đình ngày một đầy đủ, đúng đắn hơn. Đây là điều cần chú

ý thực hiện cả trước mắt lẫn lâu dài.

Thứ hai, Lồng ghép việc tuyên truyền về Luật Hôn nhân và gia đình cùng

những văn bản hướng dẫn thi hành luật vào các chương trình tuyên truyền khác

như chương trình dân số phát triển/sức khoẻ sinh sản, chương trình giáo dục giới

tính, chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình phòng chống HIV/AIDS,

chương trình xây dựng nông thôn mới hoặc lồng ghép vào chương trình của các

sân chơi trên truyền hình... làm cho thanh niên tiền hôn nhân hiểu biết đầy đủ,

đúng đắn về luật.

Thứ ba, các kênh truyền thông trực tiếp có vai trò quan trọng cung cấp

thông tin có chiều sâu, cụ thể, phù hợp cho thanh niên tiền hôn nhân và những

người khác về Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản dưới luật có liên quan.

Do vậy, cần đặc biệt chú ý phát huy vai trò của các kênh truyền thông này với

việc truyền thông phải thay đổi hành vi cho thanh niên tiền hôn nhân. Cụ thể,

phải:

- Tiếp tục quảng bá luật thông qua việc in và phát hành các tờ rơi, tờ bướm,

sách bỏ túi nhằm gửi các thông điệp cần thiết về Luật Hôn nhân và gia đình đến

cho thanh niên tiền hôn nhân và các đối tượng khác có liên quan nhằm giúp họ

tiếp xúc trực tiếp với luật, đọc và nghiên cứu luật, hiểu biết luật đầy đủ, chính

xác - điều mà nhiều người mới chỉ nghe nói hoặc tiếp cận từ xa.

- Thông qua các cuộc họp cộng đồng ở các làng, xóm, tổ dân phố hoặc ở các

98

tổ chức chính trị và đoàn thể xã hội mà lồng ghép việc tuyên truyền, phổ biến

Luật Hôn nhân và gia đình đến cho từng thành viên của cộng đồng và thành viên

của các tổ chức chính trị xã hội và đoàn thể, giúp họ có hiểu biết đúng, đầy đủ

về Luật Hôn nhân và gia đình.

- ở nhiều địa phương, cơ sở, hiện đang có nhiều phòng tư vấn và câu lạc bộ

khác nhau giúp cộng đồng tăng cường hiểu biết về luật pháp và thực thi đúng

luật pháp. Cần lồng ghép Luật Hôn nhân và gia đình vào các nội dung tư vấn,

sinh hoạt, trao đổi về những vấn đề xã hội có liên quan. Trên cơ sở này mà tăng

cường hiểu biết chính xác, đầy đủ về luật cho từng nhóm đối tượng nhất là thanh

niên tiền hôn nhân.

- Nhà trường, ở các cấp học đều là môi trường truyền bá, phổ biến kiến thức

về luật pháp. Với Luật Hôn nhân và gia đình, nhà trường nhất là từ cấp học phổ

thông trung học trở lên là nơi có thể cung cấp, truyền bá Luật Hôn nhân và gia

đình một cách có hiệu quả. Do vậy, việc đưa Luật Hôn nhân và gia đình vào

chương trình giảng dạy, sinh hoạt đoàn thể, sinh hoạt câu lạc bộ, nói chuyện

ngoại khoá, tư vấn cộng đồng... là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ này thuộc cả giáo

viên và các nhà quản lý giáo dục.

- Đăng ký kết hôn là một trong những thời điểm mà thanh niên tiền hôn nhân

cần hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình chính xác và đầy đủ nhất. Do vậy,

đây cũng là thời điểm thích hợp để tuyên truyền, giới thiệu về luật. Phải chăng,

vào thời điểm này, phòng đăng ký kết hôn nên trao cho đôi nam nữ muốn kết

hôn một cuốn Luật Hôn nhân và gia đình dưới hình thức tặng có trả phí để họ có

điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện.

- Với thanh niên, các nhóm xã hội đồng môn, đồng khoá, đồng sở thích là

những nhóm xã hội gắn kết họ khá nhiều. Do vậy, cần thông qua những nhóm

xã hội này mà tuyên truyền, quảng bá Luật Hôn nhân và gia đình. Để làm tốt,

cần bồi dưỡng cả kiến thức và kỹ năng truyền thông lẫn kiến thức về luật để

thanh niên tiền hôn nhân biết cách truyền thông, quảng bá cho nhau.

Thứ tư, Gia đình là thiết chế xã hội đặc biệt có thể tuyên truyền và thực

hiện có hiệu quả luật nhưng đáng tiếc thời gian qua thiết chế xã hội này vẫn

99

chưa phát huy hết vai trò của nó. Truyền thông về luật Hôn nhân và gia đình

giữa các thành viên còn ít. Nhiều bậc cha mẹ, ông bà, người thân chưa tích cực

tuyên truyền luật Hôn nhân và gia đình cho con, cháu mình. Do vậy, bồi dưỡng

kiến thức về luật cho lớp cha, anh trong gia đình để họ có đủ tri thức và kỹ năng

tuyên truyền giáo dục con, cháu mình là việc rất cần làm hiện nay.

Đồng thời, thông qua những hoạt động truyền thông này giúp các thế hệ

cha mẹ gương mẫu thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản của luật. Đây là cách

tốt nhất để giáo dục, thuyết phục thế hệ trẻ thực hiện nghiêm luật Hôn nhân và

gia đình.

Thứ năm, Nhà trường là một bộ phận quan trọng của thiết chế giáo dục. ở

nhà trường thanh niên nam, nữ được tiếp nhận các tri thức và chuẩn mực giá trị

xã hội thông qua các chương trình giảng dạy cả chính khoá và ngoại khoá. Do

vậy, cần tăng cường vai trò của nhà trường trong việc nâng cao hiểu biết của

thanh niên tiền hôn nhân về luật Hôn nhân và gia đình. ở đây, ngoài những

chương trình giáo dục trực tiếp cần có những hình thức tổ chức phù hợp thông

qua các phòng tư vấn, câu lạc bộ... để quảng bá về luật và việc thi hành nghiêm

túc Luật Hôn nhân và gia đình.

Thứ sáu, các tổ chức và đoàn thể xã hội cũng có vai trò rất quan trọng

trong tuyên truyền giáo dục luật Hôn nhân và gia đình. Do vậy, cần phát huy vai

trò của các tổ chức và đoàn thể xã hội này đặc biệt là tổ chức Đoàn thanh niên

cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên, Hội Phụ nữ... Hình thức tuyên truyền

giáo dục có nhiều song phải đặc biệt chú ý sử dụng các hình thức tuyên truyền

giáo dục phù hợp với lớp thanh niên tiền hôn nhân như: tổ chức các sân chơi, tổ

chức các câu lạc bộ, hội diễn văn hoá nghệ thuật trong đó lồng ghép nội dung

Luật Hôn nhân và gia đình.

2.2 Xét hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân với Luật Hôn nhân và gia

đình thấy, tuy về cơ bản Luật đã được thanh niên tiền hôn nhân quan tâm, tìm

hiểu, nắm vững nhưng còn một số lĩnh vực hiểu biết của thanh niên còn thấp,

một số hiểu biết sai. Do vậy, truyền thông giáo dục cần đặc biệt chú ý đến một

số lĩnh vực mà hiểu biết của họ còn thấp như: tuổi kết hôn; địa điểm đăng ký kết

100

hôn; địa điểm và thành phần để trao giấy kết hôn; trường hợp cấm kết hôn; kiểm

tra sức khoẻ trước hôn nhân; quy định về sống thử và tình dục trước hôn nhân;

bình đẳng giới; bạo lực gia đình; quan hệ tình dục giữa vợ và chồng; giám hộ

giữa các thành viên gia đình; quyền và điều kiện ly hôn của nam/nữ; quyền sở

hữu tài sản và phân chia tài sản khi ly hôn...

2.3. Song song với công tác truyền thông, để nâng cao hiểu biết và tăng

cường có hiệu quả việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình, cần tiếp tục nghiên

cứu, bổ sung, sửa đổi Luật làm cho các điều khoản trong Luật phù hợp hơn với

những biến đổi của đời sống thực tiễn. Đồng thời tăng cường vai trò của các cơ

quan quản lý nhà nước, cơ quan thi hành pháp luật đảm bảo việc thực hiện

nghiêm những điều khoản đã được quy định trong luật Hôn nhân và gia đình. Cụ

thể, phải chú ý làm tốt những việc sau:

Thứ nhất, bổ sung hoàn thiện Luật hôn nhân và gia đình ở một số điều

khoản mà luật đang lạc hậu trước những thay đổi của thời đại. Ví dụ, với vấn đề

hôn nhân giữa những người cùng giới tính, hiện tượng sống thử, quyền của trẻ

em là con của những cặp sống thử sinh ra...

Thứ hai, đồng thời với việc tuyên truyền, giáo dục về luật phải tăng cường

việc xử lý nghiêm những hành vi vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình. Trong đó,

phải đặc biệt xử lý nghiêm những trường hợp lợi dụng hôn nhân và gia đình để

lừa ép phụ nữ vào con đường mại dâm hoặc buôn bán người ra nước ngoài.

Thứ ba, Phụ nữ là nhóm yếu thế, vì vậy, cần chú ý bảo vệ quyền lợi của

nhóm xã hội này nhất là khi họ buộc phải ly hôn. ở đây, việc phân chia con cái,

tài sản và những lợi ích khác phải được quan tâm chú ý đặc biệt do tính chất yếu

thế của nhóm xã hội này tạo ra.

Thứ tư, Hiện nay ở Việt Nam, bạo lực gia đình đang còn là một vấn nạn.

Trong đó đặc biệt là bạo lực giữa chồng và vợ. Bảo vệ quyền của phụ nữ phải

quan tâm thật sự vấn đề này trong việc phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm

Luật.

Trên đây là một số giải pháp mà tác giả mạnh dạn đưa ra nhằm nâng cao

101

hiểu biết và hiệu quả của việc thực hiện Luật hôn nhân và gia đình cho thanh

niên tiền hôn nhân, góp phần xây dựng gia đình Việt Nam mạnh khoẻ, hạnh

phúc, tiến bộ và phát triển bền vững.

3. Một số khuyến nghị

3.1. Với cơ quan lập pháp:

Luật Hôn nhân và gia đình được ban hành đến nay đã qua 8 năm. Thời

gian tuy chưa nhiều nhưng cuộc sống đã có nhiều biến đổi. Một số điều trong

luật đã bắt đầu lạc hậu so với sự thay đổi của cuộc sống. Do vậy, cần có những

nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn nữa nhằm xác định chính xác các điều khoản đã

lạc hậu, trên cơ sở này mà sửa đổi, bổ sung luật. Hướng bổ sung, sửa đổi là

những điều khoản thuộc những vấn đề liên quan đến các quy định về tình dục,

sống thử và hôn nhân đồng tính...Nhiệm vụ này thuộc trách nhiệm của các cơ

quan lập pháp.

3.2. Với cơ quan hành pháp:

Tổ chức, thực hiện đưa Luật hôn nhân và gia đình vào cuộc sống là chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành pháp. Dù đã làm được nhiều việc, song

trước mắt vẫn cần đẩy mạnh hoạt động này trên nhiều phương diện như: truyền

thông, giáo dục, tư vấn, triển khai thực hiện ở tất cả các cấp nhất là ở cấp cơ sở.

ở đây, chính quyền các cấp phải coi nhiệm vụ thực thi Luật hôn nhân và gia đình

như một nhiệm vụ quan trọng để xem xét, kiểm điểm trong các giao ban thường

kỳ nhất là trong các cuộc giáo ban gần với dịp kỷ niệm ngày Gia đình Việt Nam

và ngày chính thức ban hành Luật.

Ngành Văn hoá, thể thao và du lịch, được coi là cơ quan quản lý nhà nước

về gia đình, ngành phải tham gia trực tiếp và quá trình đưa Luật Hôn nhân và

Gia đình tới thanh niên. Bao gồm việc xây dựng chương trình kế hoạch, thiết kế

nội dung, hỗ trợ chuyên môn, cung cấp kinh phí cho các tổ chức và đoàn thể

nhằm phổ biến sâu rộng Luật Hôn nhân và Gia đình tới thanh niên, nói riêng và

cộng đồng xã hội nói chung.

3.3. Với các cơ quan tư pháp:

Nghiên cứu, điều tra, xử lý các hành vi vi phạm luật Hôn nhân và gia đình

102

là trách nhiệm của cơ quan tư pháp các cấp. Trong thời gian qua, cơ bản, các cơ

quan này đã hoàn thành tốt trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, để thực thi tốt hơn

nữa Luật Hôn nhân và gia đình, cần xử lý nghiêm khắc một số hành vi vi phạm

luật, nhất là các vi phạm liên quan đến quyền, lợi ích của phụ nữ, trẻ em. ngoài

ra cần loại trừ triệt để hiện tượng "quan" xử theo "lễ" ,"dân" xử theo "luật".

3.4. Với các tổ chức xã hội, chính trị

Các tổ chức xã hội, chính trị là những chủ thể đã tham gia khá tích cực

vào việc tuyên truyền, quảng bá, thực hiện luật Hôn nhân và gia đình cho cộng

đồng nói chung và cho từng đối tượng cụ thể là thành viên của các tổ chức này

nói riêng. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác truyền thông, giáo

dục thực hiện luật Hôn nhân và gia đình, cần hết sức căn cứ vào chức năng,

nhiệm vụ của từng tổ chức mà đưa ra kế hoạch thực hiện phù hợp. Đồng thời

phải tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan đoàn thể xã hội trong tuyên

truyền, giáo dục và thực hiện Luật hôn nhân và gia đình. Chủ thể của các hoạt

động gắn kết này chính là cơ quan chức năng thuộc UBND các cấp.

Riêng với tổ chức Đoàn thanh niên, hiện nay tại một số địa bàn dân cư ở

Hà Nội và nhiều tỉnh thành khác, các tổ chức đoàn cơ sở đã xây dựng và duy trì

hình thức câu lạc bộ tiền hôn nhân, tập hợp các nam nữ thanh niên trong độ tuổi

kết hôn vào những hoạt động tuyên truyền, giáo dục thực hiện Luật hôn nhân và

gia đình lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, thể thao. Đây chính là điều kiện

rất tốt để tiến hành triển khai các hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức

pháp luật nói chung và Luật Hôn nhân và Gia đình cho thanh niên. Ngoài ra, các

tổ chức Đoàn cơ sở có thể tổ chức những hội thi, chương trình văn hóa văn nghệ

trong đó có lồng ghép các nội dung truyền thông về Luật Hôn nhân và gia đình

cho thanh niên.

3.5. Với cộng đồng xã hội:

Cộng đồng xã hội vừa là chủ thể vừa là khách thể của các hoạt động

truyền thông, thực hiện luật pháp. Do vậy, cộng đồng xã hội phải là chủ thể

tham gia vào việc tuyên truyền vận động thực thi luật Hôn nhân và gia đình.

Đồng thời cồng đồng xã hội phải tham gia vào quá trình kiểm tra, giám sát các

103

cơ quan tổ chức, đào tạo, thực hiện Luật hôn nhân và gia đình. Đồng thời, cộng

đồng cũng là nơi phát hiện những hành vi vi phạm để xử lý kịp thời, nghiêm túc.

Do vậy, cần phát huy tối đa vai trò của cộng đồng trong mọi hoạt động nhằm

thực hiện có hiệu quả Luật Hôn nhân và gia đình.

* *

*

Xuất phát từ lý luận nhận thức, từ những lý thuyết xã hội học về hành

động xã hội, về xã hội hoá và từ những quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà

nước Việt Nam về hôn nhân, gia đình tác giả đã đi sâu nghiên cứu làm rõ thực

trạng, những yếu tố ảnh hưởng, xu hướng thay đổi quan điểm về hôn nhân và

gia đình để đưa ra những giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao hiểu biết và

hiệu quả thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình của đối tượng tiền hôn nhân.

Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, hiện tại, hiểu biết của thanh niên tiền hôn

nhân về Luật hôn nhân và gia đình chưa đầy đủ, chưa toàn diện. Lý do có nhiều

song một phần do công tác tuyên truyền, giáo dục, thực hiện Luật hôn nhân và

gia đình chưa tìm được nhiều hình thức phù hợp cho thanh niên tiền hôn nhân,

Ngoài ra, còn do một bộ phận nam nữ thanh niên chưa có ý thức đầy đủ trong

việc tìm hiểu luật cũng như thực thi luật. Hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân

về vai trò, ý nghĩa của luật đối với đời sống gia đình còn chưa cao. Bên cạnh đó,

những yếu tố như giới tính, lứa tuổi, trình độ học vấn, khu vực cư trú và đặc

trưng văn hoá gia đình cũng phần nào đó tác động tới hiểu biết của thanh niên

tiền hôn nhân về Luật Hôn nhân và gia đình. Tất cả những kết quả của nghiên

cứu này xác định tính đúng đắn của những giả thuyết nghiên cứu đã được xác

định khi bắt đầu cuộc điều tra, khảo sát để thực hiện luận văn.

Từ những phân tích, kết luận và phát hiện đã được nêu ra ở trên, tác giả đã

đưa ra những giải pháp và khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao hiểu biết và

hiệu quả việc thực hiện luật Hôn nhân và gia đình ở thanh niên tiền hôn nhân.

Hy vọng rằng, những giải pháp và khuyến nghị này góp phần nào đó giúp các cơ

104

quan chức năng, các chủ thể xã hội và cả cộng đồng làm tốt hơn nữa công tác

truyền thông giáo dục và thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình; xây dựng gia

105

đình Việt Nam no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững.

Tài liệu tham khảo

1. Charles L.Jones Tepperman, Tương lai của gia đình, NXB Đại học quốc

gia Hà Nội, 2002. Tr 35-37.

2. Guter Endrweit (chủ biên) và các đồng nghiệp, Các lý thuyết xã hội học

hiện đại, 1999, NXB Thế giới (Dịch giả Nguyễn Hữu Tâm);

3. Guter Endrweit và G. Trommsdorff, Từ điển Xã hội học, 2001, NXB Thế

giới;

4. K.K. Platonov, Tâm lý học, quyển M, 1972;

5. Tony Bilton, Nhập môn xã hội, 1993, NXB Khoa học xã hội, Hà

Nội;Đặng Cảnh Khanh, Các nhân tố phi kinh tế - Xã hội học về sự phát

triển. NXB KHXH, HN 1999.

6. V.I. Lênin, Bút ký triết học, tập 29, NXB Tiến bộ, 1981, tr 192;

7. Mai Huy Bích, Xã hội học gia đình, Viện Xã hội học, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội, 2003;

8. Đỗ Thị Bình, Nguyễn Linh Khiếu, Lê Ngọc Văn đồng chủ biên “Gia đình

Việt Nam và người phụ nữ trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước”, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002;

9. Nguyễn Văn Cừ, “Giải quyết hôn nhân thực tế theo Luật Hôn nhân và gia

đình năm 2000”, ĐH Luật Hà Nội, 2003.

10. Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng, Xã hội học, 1997, NXB Đại học quốc

gia Hà Nội;

11. TS. Vũ Quang Hà, THs Vũ Hồng Xoan, Xã hội học đại cương, NXB Đại

học quốc gia Hà Nội, 2002, tr 252;

12. Đặng Cảnh Khanh (2001), Gia đình và cộng đồng trong việc giữ gìn văn

hoá truyền thống trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá.

Thuộc đề tài: “Vị trí vai trò của gia đình và cộng đồng trong sự nghiệp

Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em”.

13. Vũ Mạnh Lợi và các đồng nghiệp, Bạo lực trên cơ sở giới, tài liệu của

106

Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam;

14. Luật Hôn nhân và gia đình nước CHXHCN Việt Nam khoá X ra ngày

09/06/2000. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;

15. Luật Thanh niên nước CHXHCN Việt Nam ra ngày 09/12/2005. Theo

công báo số 9,10-06-01-2006. Tr 4-16;

16. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay,

phân tích tài liệu nghiên cứu và điều tra về gia đình Việt Nam được tiến

hành 15 năm gần đây từ năm 1990 đến năm 2004, do Uỷ ban Dân số, gia

đình và trẻ em phát hành, tác giả Lê Ngọc Văn chủ biên, 2004;

17. GS. Lê Thi, Sự biến đổi của gia đình trong bối cảnh đất nước đổi mới,

2002, NXB Khoa học xã hội.

18. GS. Lê Thi, Bạo lực trong gia đình, nguyên nhân và hạn chế sự phát triển

của phụ nữ và phá vỡ hạnh phúc gia đình, 2002, NXB Khoa học xã hội;

19. Thống kê của Toà án nhân dân Tối cao, 2003;

20. Mai Đặng Huyền Quân, Tâm trạng xã hội thanh niên - động thái của thời

kỳ đổi mới. Tạp chí Xã hội học, số 3, năm1995, tr 75-83;

21. Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2005;

22. Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2002;

23. Theo Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam, 1999 của Nhà xuất bản

Thế giới năm 2000, tr.39);

24. Mai Nguyên Vũ, Hôn nhân thử, hậu quả thật, Báo Giáo dục và thời đại,

Số 102, ngày 22/12/1998;

25. Nguyễn Khắc Viện, Từ điển Tâm lý học, NXB Ngoại văn, Hà Nội;

26. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em, 2002. Tài liệu nâng cao kiến thức dân

107

số, tập 2, tr 32, 2002;

Phiếu trƣng cầu ý kiến

Anh chị thân mến !

Nhằm tìm hiểu những suy nghĩ, đánh giá của anh chị về Luật Hôn nhân và gia đình trong thanh niên hiện nay, chúng tôi mong muốn nhận được sự tham gia cộng tác nhiệt tình của anh/chị trong nghiên cứu này. Anh/chị hãy điền những câu trả lời thích hợp của các bạn vào các ô trống  và bỏ trống những ô không phù hợp với câu trả lời của anh/chị . Tất cả những ý kiến của anh/chị là những đóng góp quan trọng cho chương trình nghiên cứu của chúng tôi. Chúng tôi cam kết giữ bí mật tất cả những thông tin mà anh/ chị cung cấp và chỉ sử dụng chúng cho mục đích nghiên cứu khoa học. Anh / chị không cần thiết phải ghi tên và địa chỉ của mình vào phiếu điều tra.

Xin chân thành cảm ơn về thời gian quý báu mà anh/ chị đã dành để tham gia chương trình này! Phần a

A1. Anh / chị cho biết năm sinh của anh / chị ( ghi cụ thể) : 19………………………… A2. Giới tính của anh/chị:

Nam 1

Nữ 2

A3. Trình độ học vấn (ghi cụ thể lớp học cao nhất mà anh/chị đã tốt nghiệp )

Lớp: ……………………………………………/12 Đại học Trung cấp Trên Đại học Cao đẳng

 13  14

 15  16

A4. Gia đình anh/chị có bao nhiêu thế hệ cùng chung sống dƣới một mái nhà?  1  2

1 thế hệ 2 thế hệ

3 thế hệ 4 thế hệ

 3  4

A5 Nghề nghiệp hiện nay của anh/chị là gì?

Nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp Sinh viên Học sinh Công nhân

 1  2  3  4

Kinh doanh, buôn bán, dịch vụ cá thể Làm trong các doanh nghiệp tư nhân Cán bộ, công chức nhà nước Chưa đi làm

 5  6  7  8

Phần b

B1. Anh chị nghe nói đến Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 chƣa ?  1 Chỉ được tiếp cận qua ti vi, đài báo Đã nghiên cứu cẩn thận  2 Chỉ nghe mọi người xung quanh nói Đã được đọc toàn bộ  3 Được biết qua các trung tâm tư vấn Chỉ xem lướt qua một vài phần Chỉ được nghe cán bộ nói chuyện  4 Được biết qua truy cập internet Chỉ nghe nói đến trong nhà trường  5 Nghe bố mẹ nói

 6  7  8  9  10

B2. Anh chị nghe nói đến những văn bản luật, nghị định nào dƣới đây liên quan đến Luật Hôn nhân và gia đình? ( Anh chị để trống nếu không biết )

Cơ quan

Nghe ti vi, đài báo

Đƣợc đọc  1

Nghe mọi ngƣời nói  3

 2

 1

 2

 3

 2

 1

 3

 1

 2

 3

 1

 2

 3

1. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định thi hành Luật HN và GĐ 2. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn áp dụng quy định của luật HN và GĐ 3. Nghị định số 87/2001/ NĐ - CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực HN và GĐ 4. Nghị định số 68/2002/ NĐ - CP quy định chi tiết quan hệ HN và GĐ có yếu tố nước ngoài 5. Thông tư số 07/2002/TT-BTP của Bộ tư pháp quy định chi tiết quan hệ HN và GĐ có yếu tố nước ngoài B3. Anh chị đánh giá hiểu biết của mình về Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 nhƣ thế nào ?

Hiểu biết chưa đầy đủ Hiểu biết rất thiếu Hoàn toàn không biết

 1  2  3

 4  5  8

Hiểu biết rất đầy đủ Hiểu biết tương đối đầy đủ Hiểu biết ở mức độ trung bình ý kiến của anh / chị ( Xin ghi cụ thể)…………………………………………………..... ……………………………………………………………………………………………..

B4. Theo anh chị thanh niên có cần hiểu biết về Luật hôn nhân gia đình không?

Rất cần thiết Tương đối cần thiết

 1  2

Không cần thiết Không biết

 3  4

* Theo anh chị thời điểm nào thanh niên cần hiểu biết về Luật hôn nhân gia đình ? Dưới 16 tuổi Khi bước vào tuổi 16

 1 Khi có người yêu  2 Khi chuẩn bị kết hôn

 5  6

108

 3 Sau khi kết hôn  4 Sau khi sinh con

 7  8

Khi đủ tuổi kết hôn Khi có quan hệ với bạn khác giới B5. Theo anh chị, cơ quan nào có trách nhiệm hƣóng dẫn, giám sát thực hiện và tuyên truyền về Luật Hôn nhân và gia đình? (Anh chị bỏ trống nếu không biết)

Cơ quan

Hƣớng dẫn Giám sát Tuyên truyền  2  2  2  2  2  2  2  2  2

 3  3  3  3  3  3  3  3  3

 1 Chính quyền  1 Toà án nhân dân  1 Viện Kiểm sát nhân dân  1 Quốc hội, hội đồng nhân dân  1 Hội phụ nữ  1 Đoàn thanh niên  1 Đoàn thể hiệp hội khác  1 Nhà trường, nơi làm việc  1 Gia đình và cộng đồng Khác (ghi rõ)…………….............................................................................

Phần c

C1. Anh chị biết đến những chƣơng nội dung cụ thể nào trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000? ( Anh chị bỏ trống nếu không biết )

Nội dung

Biết sơ qua Chỉ nghe nói

 2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2

 3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3

Biết rất rõ  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1

1.Những quy định chung của Luật Hôn nhân và gia đình 2. Kết hôn và điều kiện kết hôn 3. Quan hệ giữa vợ chồng 4. Quan hệ giữa cha mẹ và con 5. Quan hệ giữa các thành viên gia đình 6. Nghĩa vụ cấp dưỡng 7. Xác định cha mẹ, con 7. Vấn đề con nuôi 7. Xác định cha mẹ, con 8. Giám hộ giữa các thành viên trong gia đình 9. Ly hôn và các thủ tục ly hôn 10. Quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài 11. Quy định về xử lý vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình 12. Các điều khoản thi hành Luật Hôn nhân và gia đình C2. Theo anh/chị, những yếu tố nào trong vấn đề kết hôn là hợp pháp và yếu tố nào là vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000? ( Anh chị bỏ trống nếu không biết )

Vi phạm Không

TT

Nội dung

Hợp pháp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

 1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1

 2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2

quy định  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3

21

 1

 2

22

Hôn nhân là tự nguyện giữa hai người Hôn nhân là tự do Được kết hôn với người nước ngoài Kết hôn không phân biệt dân tộc, tôn giáo Kết hôn không cần đăng ký Kết hôn có thể đăng ký sau tổ chức hôn nhân khi nào thích hợp Quan hệ tình dục, chung sống như vợ chồng trước, kết hôn nhân sau Quan hệ tình dục với gái mại dâm Kết hôn phải đủ 18 tuổi Kết hôn phải trên 20 tuổi Kết hôn phải đủ 18 tuổi với nữ và 20 tuổi với nam Được kết hôn cùng giới tính Được kết hôn với người đang có vợ hoặc chồng Được kết hôn với người đã ly dị vợ, hoặc chồng Kết hôn lứa tuổi nào cũng được miễn là có tình yêu Làm thủ tục kết hôn tại chính quyền cơ sở nơi có hộ khẩu thường trú Làm thủ tục kết hôn tại chính quyền cơ sở nơi nào cũng được Làm thủ tục kết hôn tại toà án Làm thủ tục kết hôn tại cơ quan đoàn thể Làm thủ tục kết hôn tại tổ dân phố Trước khi kết hôn phải kiểm tra sức khoẻ, không bị các bệnh truyền nhiễm mới được làm thủ tục kết hôn Trao giấy kết hôn phải có mặt cả hai vợ chồng

 1

 3

 2

109

23

Đang có vợ/ chồng vẫn có quyền kết hôn

 1

 2

 3

C3. Theo anh/chị, những yếu tố nào trong vấn đề quan hệ vợ chồng là hợp pháp và yếu tố nào là vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000? ( Anh chị bỏ trống nếu không biết)

Vi phạm Không quy

Hợp pháp

TT

Nội dung

1. Nguyên tắc một vợ, một chồng 2. Vợ chồng tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo của nhau 3. Vợ chồng tôn trọng sở thích, công việc của nhau 4. Vợ chồng phải chung thuỷ, thương yêu lẫn nhau 5. Vợ chồng phải bình đẳng trong mọi quyết định của gia đình 6. Vợ chồng phải giúp đỡ nhau cùng phát triển 7. Vợ chồng phải cùng chia sẻ việc nhà và xã hội 8. Vợ chồng phải kiếm tiền như nhau 9. Mọi tài sản cá nhân của vợ chồng thuộc về tài sản chung 10. Tài sản do người nào làm ra thuộc về người đó trong gia đình 11. Tài sản do vợ chồng thừa kế chung được coi là tài sản chung 12. Tài sản mà vợ chồng có trước khi cưới là tài sản riêng 13. Vợ chồng không được gây hấn, mắng chửi nhau 14. Vợ chồng không được đánh nhau

 1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1

 2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2

định  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3

 1

 2

15.

Vợ chồng phải chiều nhau bất cứ khi nào khi một người muốn làm chuyện ấy

 3  3  3  3  3  3

 2  2  2  2  2  2

 1  1  1  1  1  1

16. Vợ chồng phải có trách nhiệm sử dụng biện pháp tránh thai 17. Vợ chồng phải có trách nhiệm phòng chống HIV/AIDS 18. Vợ phải nghe lời chồng và tuân thủ quyết định của chồng 19. Vợ chồng uỷ quyền đại diện cho nhau giải quyết các vấn đề pháp lý 20. Vợ chồng có trách nhiệm liên đới về pháp lý 21. Vợ chồng uỷ quyền đại diện cho nhau giải quyết các vấn đề pháp lý C4. Theo anh/chị, những yếu tố nào trong vấn đề quan hệ gia đình ngoài vợ chồng là hợp pháp và yếu tố nào là vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000? ( Anh chị bỏ trống nếu không biết )

TT

Nội dung

Vợ chồng phải có trách nhiệm nuôi và chăm sóc con đến trưởng thành Vợ chồng phải có trách nhiệm chăm sóc bố mẹ già Con cháu phải có trách nhiệm kính trọng ông bà Vợ chồng phải có trách nhiệm giáo dục con cái Vợ chồng được quyền đánh khi con cái không vâng lời Vợ chồng được mắng chửi nặng nề nếu con cái không vâng lời Cần phải phân biệt khi con trai, con gái trong chăm sóc, giáo dục Phải đẻ bằng đựoc con trai để nối dõi Vợ chồng được nhận con nuôi không cần quy định gì

Không quy định  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3  3

Vi phạm  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2  2

Hợp pháp  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1  1

1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. Vợ chồng chỉ được nhận 1 con nuôi 11. Vợ chồng được nhận con nuôi nhưng phải hơn con nuôi 20 tuổi 12. Người được nhận làm con nuôi phải là người dưới 15 tuổi 13. Nghĩa vụ, trách nhiệm cha mẹ và con nuôi phải như con đẻ 14. Bố mẹ, con nuôi có quyền chấm dứt quan hệ này bất cứ thời điểm nào 15. Bố mẹ có quyền giám hộ cho con 16. Con cái có quyền giám hộ cho bố mẹ 17. Có thể giám hộ trong quan hệ ông bà với con cháu 18. Có thể giám hộ trong quan hệ anh chị em C5. Theo anh/chị, những yếu tố nào trong vấn đề LY HÔN là hợp pháp và yếu tố nào là vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000? ( Anh chị bỏ trống nếu không biết )

Nội dung

TT

Hợp pháp  1  1  1  1

Vi phạm  2  2  2  2

1. 2. 3. 4.

Không quy định  3  3  3  3  3

 1

 2

5.

Vợ hoặc chồng có quyền xin ly hôn khi chung sống không hoà hợp Không thể ly hôn nếu một trong hai người vợ chồng không đồng ý Chồng có quyền đơn phương xin giải quyết ly hôn bất kỳ khi nào Vợ có quyền đơn phương xin giải quyết ly hôn bất kỳ khi nào Nếu vợ chồng ly hôn con cái phải trên 9 tuổi mới được xem xét nguyện vọng ở với ai Nếu vợ chồng ly hôn con cái phải ở với mẹ Nếu vợ chồng ly hôn người không nuôi con phải gửi tiền chu cấp cho con

 1  1

 2  2

 3  3

6. 7.

110

8.

Nếu ly hôn có thể thay đổi người nuôi con theo toà án quyết định

 1

 2

 3

C6. Theo anh/chị, hình thức xử lý vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000? ( Anh chị bỏ trống nếu không biết )

Nội dung

TT 1. 2. 3. 4.

Vi phạm Luật hôn nhân gia đình phải xử lý hình sự Vi phạm Luật hôn nhân gia đình phải xử lý dân sự Vi phạm Luật hôn nhân gia đình chỉ xử lý hành chính Tuỳ mức độ vi phạm Luật hôn nhân gia đình mà có thể xử lý dân sự hoặc hình sự

 1  1  1  1

Phần D

 1 Gia đình chỉ tồn tại với chế độ một vợ một

8

chồng

D1. Anh chị hiểu nhƣ thế nào về gia đình? Gia đình chỉ có được trên cơ sở hôn nhân tự nguyện Gia đình trên cơ sở hiểu biết và tôn trọng

 2 Gia đình là nơi người chồng tham gia xã hội

9

và người vợ ở nhà nội trợ

 4 Gia đình hạnh phúc là nơi vợ chồng bình đẳng 11

 5 Gia đình gắn liền với tình yêu và kinh tế ổn

12

định

14

 7 Gia đình là nơi dạy bảo cho con trẻ ý thức trách nhiệm về dòng họ và truyền thống

 1

 2  3  4

Gia đình là một đơn vị sản xuất kinh tế cho xã hội Gia đình là nơi chỉ hai người yêu nhau chung sống Gia đình là nơi dạy bảo cho con trẻ ý thức trách nhiệm về gia đình và xã hội D2. Theo anh/chị, khi cƣới nam nữ có cần đăng ký kết hôn không? Không cần thiết vì cái ràng buộc hôn nhân là tình yêu và sự cảm thông không phải là ràng buộc về pháp lý Cần thiết vì đăng ký kết hôn là cơ sở để bảo vệ quyền lợi đôi bên Luật pháp không bắt buộc phải đăng ký kết hôn Không biết rõ về quy định đăng ký kết hôn Đ3. Theo anh/chị, đăng ký kết hôn vào thời điểm nào là tốt nhất?

Trước khi cưới Ngay sau khi cuới Sau khi cưới, lúc nào thích thì đi đăng ký Khi nào có con thì đi đăng ký Sống với nhau một thời gian nếu thấy hợp nhau thì đi đăng ký Không cần đăng ký kết hôn Khác (ghi rõ).........................................................................................

 1  2  3  4  5  6

D4. Theo anh chị tuổi kết hôn với nam và nữ phù hợp là bao nhiêu ?  21  21

 17  17

 19  19

 20  20

 18  18

 22  22

 23  23

 24  24

Nam  16  16 Nữ

D5. Theo anh/chị, trƣớc khi kết hôn mọi ngƣời có nên...?

1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8.

 1 Thử máu để kiểm tra HIV, viêm gan A, B và nghiện ma tuý  2 Kiểm tra sức khỏe toàn bộ (Bao gồm cả thử máu)  3 Kiểm tra sức khỏe tình dục (Khả năng sinh sản)  4 Có thể kiểm tra sức khỏe nhưng tìm thời gian thích hợp  5 Không cần thiết vì tình yêu là quan trọng  5 Không cần thiết vì đó là thiếu tin tưởng và tôn trọng  6 Không biết Khác (ghi rõ).........................................................................................  7

D6. Anh chị đánh giá nhƣ thế nào về những tình huống dƣới đây theo thứ tự từ mức 1 là hoàn toàn tán thành tới mức 5 là hoàn toàn phản đối?

Tình huống

-------------

Hoàn toàn tán thành  1  1  1  1  1  1

Hoàn toàn phản đối  5  5  5  5  5  5

 2  3  4  2  3  4  2  3  4  2  3  4  2  3  4  2  3  4

 1

 5

 2  3  4

1. Gia đình nuôi dưỡng trẻ em, giáo dục là của nhà trường 2. Vấn đề của gia đình chỉ giải quyết trong phạm vi gia đình 3. Nhất thiết mỗi gia đình chỉ có từ một đến hai con 4. Nhất thiết Vợ chồng phải có con trai 5. Quan hệ tình dục trước hôn nhân để có kinh nghiệm 6. Có thể sống thử như vợ chồng vì thế nào cũng cưới 7. Sống thử như vợ chồng trước khi cưới để quyết định có cưới hay không 8. Trai năm thê bảy thiếp, gái đoan chính một chồng 9. Thuyền theo lái, gái theo chồng (phu xướng phụ tuỳ)

 1  1

 5  5

 2  3  4  2  3  4

111

 2  3  4

 1

 5

 2  3  4  2  3  4

 1  1

10. Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô (một con trai coi như có, mười con gái vẫn như không)  5 11. Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó  5 12. Vợ chồng nên có tài sản riêng D7. Anh/chị đánh giá thế nào về việc một số thanh niên quan hệ tình dục trƣớc hôn nhân (QHTDTHN)?

 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10

Họ sẽ cưới nhau nên quan hệ tình dục trước hay sau cũng không quan trọng Khẳng định sự tin tưởng vào nhau Giúp giải quyết vấn đề sinh lí của cả nam và nữ Nếu có kiến thức về SKSS thì sẽ không để lại hậu quả đáng tiếc Mang lại kinh nghiệm trong sinh hoạt vợ chồng sau này QHTDTHN với người yêu còn an toàn hơn là đến dịch vụ mãi dâm Thể hiện sự không tôn trọng lẫn nhau do không giữ gìn cho nhau Có thể mang lại bệnh tật cho cả hai Đem lại hậu quả không tốt cho bạn gái QHTDTHN là không coi trọng đạo lí của dân tộc Khác (ghi rõ)…………………………………………………………………………

D9. Theo anh chị, việc một số bạn trẻ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng hoặc “sống thử” hiện nay đƣợc quan niệm thế nào?

 4

 12

 5

 13

 6

 14

 15

 7  8

Không phù hợp với lối sống của người Việt Nam Sống thử là biểu hiện của văn hoá hiện đại Sống thử là lối sống ích kỉ và vô trách nhiệm Chỉ là học đòi lối sống phương Tây Khác..................................................................

Phải thử mới biết được là gia đình có khuyết tật hay không Sống thử như thế thì sống thật không còn ý nghĩa nữa, không cần kết hôn thật Giúp giải quyết vấn đề sinh lí vì tình dục là nhu cầu bản năng lành mạnh của con người Là vi phạm pháp luật Sống thử không có sự ràng buộc về mặt luật pháp nên dễ dàng bỏ nhau

D10. Theo anh/chị, hiện tƣợng ly hôn trong thanh niên hiện nay do những nguyên nhân nào sau đây?

 1  2  4  5  7  9  10  12

Do không có sự chuẩn bị kĩ về mọi mặt trước khi kết hôn Hai vợ chồng không có sự đồng cảm và chia sẻ Do bất đồng về quan điểm giữa hai người Do vấn đề kinh tế Do không thoả mãn về quan hệ tình dục Do vợ/chồng ngoại tình Do mâu thuẫn giữa các thế hệ trong gia đình Pháp luật tạo điều kiện thoả mãn nhu cầu ly hôn của cá nhân Khác (ghi rõ)

D11. Theo anh/chị, điều gì là kết quả do việc ly hôn mang lại?

 2  3  4  5  6  7

Mang lại hạnh phúc mới cho hai bên Các cá nhân phải mất nhiều thời gian để bắt đầu lại cuộc sống của mình Khẳng định sự độc lập và bình đẳng của cả nam và nữ Ly hôn quá dễ dàng sẽ làm cho nhận thức về gia đình trở nên sai lệch Tạo nên sự rạn nứt tình cảm giữa cha mẹ và con cái Gây nên những hậu quả khó lường về mặt xã hội do con cái ít nhận được sự chăm sóc của cả bố và mẹ Các mối quan hệ trong gia đình ngày càng lỏng lẻo Tăng số lượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn/phạm pháp Không có gì nghiêm trọng

 8  9  10

D13. Anh/chị sẽ làm gì nếu ngƣời yêu của mình đã từng có quan hệ tình dục với ngƣời khác? Tôi không thể chấp nhận được, sẽ chia tay với người đó

 1

Còn tuỳ vào thái độ hiện tại, nếu vẫn duy trì điều đó thì tôi sẽ chia tay

 2

Tôi đề nghị người đó đi xét nghiệm máu để kiểm tra sức khoẻ trước khi quyết định kết hôn

 3

Tôi thấy chuyện đó là bình thường, miễn là hiện tại không có chuyện đó

 4

Tôi không để ý điều đó, miễn là chúng tôi thật sự yêu nhau và mong muốn đi đến hôn nhân

 5

D16. Theo anh/chị, 3 yếu tố nào sau đây quyết định sự bền vững của gia đình trẻ

Chọn 3 yếu tố quan trọng nhất, 3 yếu tố quan trọng thứ hai và 3 yếu tố quan trọng thứ ba

Cuộc hôn nhân xuất phát từ tình yêu

Quan trọng nhất  1

Quan trọng thứ hai  2

Quan trọng thứ 3  3

112

 1

 2  2

 3  3

 1

 1  1  1  1  1  1  1

 2  2  2  2  2  2  2  2

 3  3  3  3  3  3  3  3

 1

Chồng kiếm tiền là chủ yếu, vợ ở nhà nuôi dạy con cái Cả hai vợ chồng cùng đi làm kiếm tiền và cùng chia sẻ việc nhà Hai người hòa hợp nhau về tình dục Luôn tôn trọng nhau và cùng chia sẻ mọi chuyện Kinh tế gia đình phải đây đủ Vợ chồng phải có con Có việc làm ổn định Có nơi ở ổn định Chung thủy (một vợ, một chồng) Cả vợ và chồng phải biết quan tâm chăm sóc đến bố mẹ hai bên Cả vợ và chồng phải biết làm mới tình yêu Không khí gia đình luôn đầm ấm Khác (ghi rõ): ………………………

 1  1

 2  2

 3  3

Phần E

E1. Lần đầu tiên anh chị bắt đầu “biết yêu” từ khi nào ?

 dưới 16  25

 16  17  18  19  20  21  22  23  24  26  27  28  29  30

Chưa bao giờ

 3

E2. Anh chị hiện nay có ngƣời yêu không? Hiện đang có Trước đây có nhưng đã chia tay

 1  2

E2a. Nếu đang có người yêu anh chị có dự định kết hôn với người đó không ?

Không

 3

Chắc chắn có Chưa biết, còn tuỳ hoàn cảnh

 1  2

E2b. Nếu không định kết hôn xin anh chị cho biết lý do tại sao ? ( Xin ghi cụ thể) ……………………………………………………………………………………………… Anh chị dự định kết hôn năm bao nhiêu tuổi ? ( Xin ghi cụ thể)…………..tuổi * Lý do tại sao anh / chị lại chọn tuổi kết hôn đó (xin ghi cụ thể).......................................... E3. Anh chị có dự định đăng ký kết hôn không?

Không

 3

Chắc chắn có Chưa biết, còn tuỳ hoàn cảnh

 1  2

E4. Anh/chị mong muốn có mấy con? (ghi rõ số con).....................................con E5. Anh/chị đã quan hệ tình dục chƣa ( Thông tin sẽ chúng tôi tuyệt đối giữ bí mật)

Quan hệ một lần Chưa bao giờ

 1  2

 3  4

Quan hệ nhiều lần Quan hệ một vài lần ý kiến khác…………………………………………………………………………………………

* Nếu đã quan hệ tình dục thì lần đầu tiên anh chị quan hệ năm bao nhiêu tuổi……… * Anh/chị đã sử dụng những biện pháp tránh thai nào trong những lần quan hệ đó ?

 4  5

Bao cao su Thuốc uống Thuôc tiêm

 1  2  3

Phương pháp truyền thống Không sử dụng ý kiến khác………………………………………

E6. Anh/chị đã bao giờ chung sống với ai nhƣ vợ chồng chƣa ?

Chung sống với nhiều người Chưa bao giờ

 1  2

 3  4

Có, nhưng đã chia tay Hiện vẫn đang chung sống ý kiến khác…………………………………………………………………………………………

E7. Anh/chị có mong muốn hoặc đề xuất thêm gì không?

.................................................................................................................................................................... Xin cảm ơn anh/chị đã dành thời gian cho chúng tôi !

113

Một số kết quả nghiên cứu định tính Hiểu biết của thanh niên về Luật Hôn nhân và gia đình

Document 'Nam chua ket hon', 1 passages, 338 characters. Section 0, Paragraphs 109-110, 338 characters. Q: Anh có biết với các gia đình trẻ ở địa phương mình có những khó khăn vấn đề bức xúc, xung đột xảy ra? A: Có trường hợp hai vợ chồng trẻ, cả hai đều chưa có công ăn việc làm, kinh tế chưa có, lại sinh con trong khi vẫn phải sống dựa vào gia đình. Có những xích mích, giữa mẹ chồng nàng dâu chẳng hạn. Nhiều khi kinh tế quyết định nhiều. Document 'Nu sap ket hon', 1 passages, 170 characters. Section 0, Paragraphs 29-30, 170 characters. Q: Chị nhận xét những bức xúc mà các vợ chồng trẻ hay mắc phải? A: Các vợ chồng trẻ thường hay cãi nhau chẳng hạn. Có thể chồng còn mải chơi chưa có thức chăm lo vợ con. Document 'PVS nu chua ket hon 1', 2 passages, 420 characters. Section 0, Paragraphs 30-31, 292 characters. H: khi tiếp xúc với bạn bè thì theo bạn thanh niên gặp phải vấn đề gì? TL: Cả tình yêu và hôn nhân. Có những trường hợp cả hai yêu nhau nhưng gia đình ép phải kết hôn tuy nhiên điều kiện của cô gái chưa được gia đình cho phép. Thế là đã chia tay. Anh ta đi kết hôn với một người mà không yêu. Section 0, Paragraphs 42-43, 128 characters. H: khó khăn thường gặp với đôi vợ chồng trẻ TL: trong cách ứng xử còn hạn chế với gia đình. Thường bị nhà chồng chê. Cách ăn mặc. Document 'PVS phu huynh 2', 1 passages, 790 characters. Section 1, Paragraphs 19-20, 790 characters. H: trong hai năm lập gia đình thì con gái cô có bao giờ về chia sẻ những vấn đề va vấp không? TL: những vấp váp lớn thì không có nhưng vấn đề về ăn uống thì cũng có. Cô cũng có nói chuyện và dậy bảo con làm sao để làm phù hợp ý những người trong nhà. Đừng chờ mọi người vì mình trước mà mình phải hy sinh trước để tạo ra sự hài hoà. Người mẹ với con gái thì dễ hơn còn con dâu thì khó hơn. Con gái về nhà chồng phải có dậy bảo như thế, mình phải tìm hiểu người ta trước. Cô cũng làm dâu lâu rồi mà lại ở trong gia đình nông nghiệp, rất may khi mà gia đình cô đi di tán thì cô cũng đã biết làm hết các việc nhà chồng: cắt cỏ, gặt…Cũng may cô cũng từng chải nên mới dậy được con. Vốn sống thì rất quý. Cô chịu khó học các bà các cụ ngày xưa, trên ti vi báo đài cô cũng học sau đó dậy lại con. Document 'PVS phu nu chua ket hon', 1 passages, 316 characters. Section 0, Paragraphs 57-61, 316 characters. H : theo thanh niên những gia đình trẻ sẽ gặp những vấn đề gì trong cuộc sống ? _ trước tiên là về kinh tế , và kinh nghiệm sống còn chưa nhiều dẫn đến mâu thuẫn nhỏ nhặt sẽ ngày càng lớn . _Từ thiếu kinh nghiệm sống thì dẫn đến nhiều khúc mắc trong cuộc sống , nhưng nếu 2 vợ chồng biết chia sẻ thì sẽ vượt qua Document 'TLN Nu chua KH 2', 1 passages, 776 characters. Section 0, Paragraphs 50-52, 776 characters. H: Theo thanh niên, gia đình trẻ có thể gặp những vấn đề gì trong cuộc sống? Số 1: Rất nhiều vấn đề. Thứ nhất là về kinh tế. Thứ hai là kinh nghiệm sống của bản thân là còn chưa nhiều, thành ra là việc giải quyết các khúc mắc là còn chưa hợp lí. Mâu thuẫn nó tồn tại từ việc nhỏ nhặt, sau đó nhặt dần nhặt dần lên thành việc lớn. Các vấn đề về gia đình như bố mẹ chồng, bố mẹ vợ thì yêu cầu cả ý thức của cặp vợ chồng trẻ phải rất tốt về cuộc sống sắp tới. Số 2: Hương thì hoàn toàn đồng nhất với ý kiến của Thanh. Tất nhiên là gia đình trẻ thì bao giờ kinh nghiệm sống cũng thiếu hơn những gia đình lập từ lâu năm. Từ những kinh nghiệm đó thì dẫn đến những khúc mắc giữa hai vợ chồng. Hương nghĩ là có sự đồng cảm và chia sẻ, hiểu và tin tưởng thì sẽ giải quyết hết khúc mắc đó. Document 'Nam chua ket hon', 2 passages, 456 characters.

114

Anh đã từng tiếp xúc với một hình thức tư vấn kiến thức cho thanh niên chưa? Tư vấn sâu thì chưa, chỉ có các buổi tham gia CLB tiền hôn nhân của xã CLB đó đã có lâu chưa? Năm sáu năm rồi Bản thân anh tham gia những hình thức gì trong CLB đó? Nói về giới tính, sức khỏe sinh sản, tuyên truyền sử dụng bao cao su

Sau lớp đó thì anh thấy mình tiếp thu được bao nhiêu? Khoảng 70% - 80%, vì các nội dung cũng rất dễ hiểu, gần gũi.

Vậy còn các nội dung sức khỏe sinh sản, hôn nhân gia đình anh có tiếp thu từ các nguồn thông tin khác

Có, từ đài báo ti vi người ta vẫn hay nói, Đoàn Thanh niên của xã cũng có những lớp tuyên truyền.

Có lớp của xã? Vâng, phối hợp với bên trung tâm y tế huyện

Anh đã nắm được như thế nào các thủ tục và cách thức kết hôn? Anh cần những gì sau khi kết hôn? Thứ nhất là hai người phải có công ăn việc làm ổn định, phải có nhà cửa không thì cũng phải có phòng

Section 0, Paragraphs 27-32, 334 characters. Q: A: Q: A: Q: A: Section 0, Paragraphs 53-54, 122 characters. Q: A: Document 'Nam chua ket hon', 3 passages, 530 characters. Section 0, Paragraphs 47-48, 214 characters. Q: không? A: Section 0, Paragraphs 49-50, 66 characters. Q: A: Section 0, Paragraphs 85-88, 250 characters. Q: Những kiến thức đó anh biết từ nguồn nào? A: Từ khi ngồi ghế nhà trường, qua sách, khi rỗi mình hay đọc các văn bản luật. Q: Tự mình mua hay từ đâu? A: Từ thư viện hay bưu điện văn hóa xã, có thể đi qua các hàng sách báo cũ. Tự mình tìm hiểu thôi. Document 'Nu sap ket hon', 1 passages, 180 characters. Section 0, Paragraphs 25-26, 180 characters. Q: Ngoài các lớp tập huấn những thông tin về luật hôn nhân gia đình chị còn được nghe ở đâu? A: Trên sách báo, ti vi, trước khi vào độ tuổi kết hôn thì mẹ cũng nói cho một số điều. Document 'Nam chua ket hon', 2 passages, 555 characters. Section 0, Paragraphs 75-76, 278 characters. Q: A: riêng. Phải có kinh tế để lo những vật dụng cần thiết, giường tủ, đồ đạc. Section 0, Paragraphs 83-84, 277 characters. Q: Về mặt luật pháp, anh hiểu thế nào về những điều kiện, thủ tục cần có để kết hôn? A: Về mặt luật pháp thì độ tuổi được pháp luật cho phép nữ từ 18 tuổi, nam từ 20. Trong luật hôn nhân gia đình đã quy định. Muốn kết hôn hai người phải đến ủy ban nhân dân xã phường để đăng ký. Document 'Nu sap ket hon', 1 passages, 325 characters. Section 0, Paragraphs 5-12, 325 characters. Q: Trước khi kết hôn chị có tìm hiểu về luật hôn nhân gia đình không? A: Chỉ sơ sơ qua, nhưng khi đăng ký ở phường chắc họ cũng sẽ nói qua. Q: Trước đấy thì chưa biết? A: Biết những điều cơ bản thôi, như kết hôn ở độ tuổi nào. Q: Kết hôn ở độ tuổi bao nhiêu? A: Nữ thì 18, nam 20 tuổi. Q: Còn có gì nữa không? A: Sống một vợ một chồng. Document 'TLN Nu chua KH 1', 1 passages, 270 characters. Section 0, Paragraphs 67-69, 270 characters. H: Bạn biết gì về Luật Hôn nhân và gia đình nhỉ? Số 5: Nói chung, em cũng không biết rõ lắm. Chỉ biết qua TV, sách báo hay các buổi nói chuyện. Mẹ em là giáo viên nhưng cũng không tâm sự về cái này. Số 3: Mình cũng biết sơ sơ để áp dụng vào cuộc sống và cho mai sau. Document 'Nam chua ket hon', 1 passages, 566 characters. Section 0, Paragraphs 33-38, 566 characters. Q:

Anh khó khó khăn gì trong việc lĩnh hội thông tin?

115

Đoàn viên mình có nhiều người ít tuổi nên khi tham gia nhiều khi cảm thấy ngại, nói chung các CLB tổ

Vậy chỉ có khó khăn khi các Đoàn viên không cùng lứa tuổi? Đúng vậy, có những Đoàn viên 15,16 tuổi, có người 50 tuổi, lứa tuổi và nhận thức không đồng đều Sự phong phú và mức đáp ứng nội dung thông tin của các CLB đó anh thấy thế nào? Nội dung phong phú, mức đáp ứng vừa phải. Người có kiến thức rồi sẽ hiểu rất nhanh, còn người mới

Bản thân anh đã tham gia nhiều buổi học của xã, vậy anh còn có nhu cầu thêm về những nội dung nào

Muốn bố trí thêm kiến thức liên quan đến sức khỏe sinh sản, các bệnh lây qua đường tình dục. Thực tế những kiến thức đó anh nắm được nhiều không? Những kiến thức đó mới chỉ tiếp cận qua sách báo chưa thực sự được nhiều. Mình nghĩ thanh niên như

Vậy ngoài nội dung đó, các nội dung khác như hôn nhân gia đình, quan hệ vợ chồng, chăm sóc bà mẹ

A: chức các buổi đó là rất bổ ích. Q: A: Q: A: thì dần dần cũng hiểu Document 'Nam chua ket hon', 1 passages, 317 characters. Section 0, Paragraphs 55-56, 317 characters. Theo anh có nên thay đổi gì để hình thức lớp đạt hiệu quả hơn? Q: A: Theo mình trước khi vào lớp nên trao cho mọi người tờ gấp thăm để trước khi tham gia thảo luận để mọi người tự trả lời trước một lần, sau khi xong trả lời lại bộ test đó để đánh giá hiệu quả. Nhận thức trước và sau buổi học thay đổi như thế nào. Document 'TLN Nu chua KH 2', 2 passages, 1039 characters. Section 0, Paragraphs 89-90, 451 characters. H: Theo bạn, nên mở lớp đấy như thế nào? Số 1: Em nghĩ là sử dụng trò chơi, câu hỏi thì mọi người dễ tiếp cận, chứ không phải là bắt mọi người đứng lên đọc nghị quyết bao nhiêu thì người ta không nhớ được. Có thể tóm gọn lại, tức là tóm tắt lại tất cả các ý chính, vì ta không phải là luật sư thì không nên đi sâu vào vấn đề này mà chỉ cần biết là các quyền lợi của ta, các việc cần phải làm trước hôn nhân và sau hôn nhân, nếu vi phạm thì bị làm sao… Section 0, Paragraphs 91-92, 588 characters. H: Hương có bổ sung gì thêm? Số 2: Thanh đã nói khá chính xác rồi. Hương cũng như tất cả thanh niên trẻ thì đều muốn có lớp về Luật Hôn nhân và gia đình vì đó là quyền lợi của mình. Nhưng cái cách để mà đưa đến thanh niên trẻ thế nào thì cần phải xem xét. Thanh niên là những người năng động nên không thể ngồi hàng giờ để nghe nghị quyết hay gì đó… Nhưng trong các trò chơi thì thanh niên trẻ rất hứng thú và nhiệt tình, nên có thể đưa ra trong trò chơi thì nêu là bạn nào thua thì đưa ra nội dung nào đó trong luật chẳng hạn. Xen kẽ các tình huống trong trò chơi là những nội dung của pháp luật. Document 'Nam chua ket hon', 2 passages, 996 characters. Section 0, Paragraphs 57-62, 625 characters. Q: không? A: Q: A: bọn mình cần thêm kiến thức về những vấn đề đó. Anh hiểu rõ hay chỉ biết tên thôi? Q: Nói chung chỉ biết qua các bệnh, cơ chế như thế nào chứ chưa nắm rõ. Các bệnh lây truyền qua đường A: tình dục như HIV, lậu thì biết qua nguyên nhân, kỹ hơn thì chưa biết. Section 0, Paragraphs 63-64, 371 characters. Q: trẻ em cái gì anh nghĩ cần biết và nên biết? A: Hướng dẫn mọi người sau các buổi hướng dẫn sức khỏe sinh sản thì có thông tin làm mẹ an toàn, kiến thức nuôi con cho cha mẹ trẻ. Xã mình là một trong những xã kết hôn sớm, nữ18 tuổi trở lên là đã lập gia đình, nam 20, 23. Document 'Nu sap ket hon', 2 passages, 814 characters. Section 0, Paragraphs 101-108, 565 characters. Q: Nếu mở một lớp về hôn nhân gia đình thì chị có tham gia đựợc không? A: Về vấn đề đấy thì mình cũng chưa biết được như thế nào. Q: Ví dụ chị sắp kết hôn và địa phương mở một lớp giáo dục tiền hôn nhân và luật hôn nhân gia đình chị có sẵn sàng tham gia không? A: Mình nghĩ tham gia được thì rất là tốt. Q: Nếu tham gia thì chị mong muốn nhận được thông tin gì từ lớp đó? A: Thứ nhất là để mình hiểu được luật đó để mình có thể bảo vệ mình trước. Q: Nên tổ chức các lớp tiền hôn nhân thế nào để đạt hiệu quả cao? A: Mình nghĩ nó nên diễn ra như một cuộc trò chuyện.

116

Section 0, Paragraphs 143-144, 249 characters. Q: Chị mong hình thức lớp nên tổ chức thế nào để đạt được hiệu quả? A: Mình nghĩ nên sôi nổi thân mật, có nhiều đóng góp hai chiều từ người tổ chức và người tham gia. Người không hiều có thể đặt câu hỏi cho ban tổ chức hay đưa ra những ví dụ cụ thể. Document 'TLN Nu chua KH 1', 3 passages, 2996 characters. Section 0, Paragraphs 196-203, 1182 characters. H: Hiện nay thì thanh niên mới tiếp cận Luật Hôn nhân và gia đình rất ít. Vậy theo bạn, Luật Hôn nhân và gia đình nên tập trung vào những nội dung nào? Số 4: Đầu tiên là về sức khoẻ sinh sản vị thành niên, sau đó là luật về hôn nhân và gia đình. H: Cụ thể là gì? Số 4: Ví dụ là như thế nào để đủ điều kiện kết hôn, kết hôn như thế nào là không trái pháp luật, quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ bạn bè. Có nhiều cái mà mình phải học hỏi. H: Có nên chia nhỏ luật ra thành các vấn đề cụ thể không? Số 3: Nói chung thì nên chia nhỏ ra, hay hơn mà dễ tham khảo hơn. H: vậy thì làm thế nào để mọi người có thể tiếp cận nó dễ dàng nhất? Làm sao để nó hấp dẫn và thu hút sự quan tâm của mọi người? Số 2: Chi đoàn em thường tổ chức các buổi sinh hoạt tiền hôn nhân rồi là sức khoẻ sinh sản, giới tính. Em nghĩ như thế là chưa đủ vì nếu cứ đưa một quyển luật, bảo là: đây, học luật này đi, thì nghe chừng nó sách vở quá. Mỗi người có sự hiểu biết khác nhau, chứ không thể nào mà người này hiểu thế này, người kia hiểu thế kia được. Nếu có trò chơi để mình tham gia và cho ý kiến thì nó vừa phù hợp với sự hiểu biết của mọi người mà mọi người dễ dàng tiếp thu. Section 0, Paragraphs 204-208, 632 characters. H: Bạn mong muốn Luật Hôn nhân và gia đình sẽ tập trung vào những vấn đề nào? Số 2: Thứ nhất là lứa tuổi kết hôn, hai là sự chuẩn bị về sức khoẻ, kiểm tra. Thứ ba là khi đã kết hôn thì sống phải có trách nhiệm với nhau, bố mẹ phải có trách nhiệm với con cái và ngược lại. Tức là các mối quan hệ sau khi kết hôn. H: Lan mong muốn gì? Số 1: Em mong muốn là Luật Hôn nhân và gia đình, trước khi hôn nhân thì phải kiểm tra về sức khoẻ. Còn các vấn đề phải sử dụng đến luật pháp. Số 3: ở khu phố thì hay có các ban hoà giải. Mình thì chưa có vì ở nông thôn. Khi mà vợ chồng có sự xô xát thì có sự chia sẻ của cộng đồng thì nó hạn chế đi. Section 0, Paragraphs 211-215, 1182 characters. H: Theo Hạnh thì các nội dung trong Luật Hôn nhân và gia đình nên thế nào? Số 5: Em cũng như các chị ở đây thôi, chỉ thêm một nội dung là vấn đề tài sản trước khi lấy nhau và sau khi kết hôn. Tài sản riêng thì của ai là của riêng người đấy. Số 1: Có gì thì các chị đã nói hết rồi. Em chỉ muốn là các luật này thì nên phổ biến rộng hơn, vì đến ngay như bọn em mà còn không biết hết. Bọn em nói chung là chỉ biết sơ sơ, hay là nghe nói đến thôi, còn thực tế thì vẫn chưa biết nhiều. Em muốn là, nếu đưa nó vào sách vở, như một môn học thì hay hơn. Số 3: Chỉ là ngoại khóa thôi. Còn mỗi một khía cạnh, một góc riêng thì mình nên lồng ghép các sự kiện trong gia đình, trong xã hội vào các hoạt động nghệ thuật như phim ảnh, chương trình về xoá đói giảm nghèo hay đời sống mới thì nó thực tế hơn. Hoặc là cũng có thể đưa nó vào các tờ báo, lồng ghép những mẩu chuyện thực tế thì nó thu hút hơn là chỉ nói lí thuyết. Số 5: Em nghĩ là đưa vào một môn học thì vẫn được. Nếu sinh hoạt ngoại khóa thì có người vẫn nói chuyện và không thể nghe, và cũng không thể tìm đọc được. Cũng có thể lồng vào phim truyện như chị Linh nói thì cũng thu hút được mọi người nhưng là một môn học thì hay hơn. Document 'TLN Nu chua KH 2', 1 passages, 1008 characters. Section 0, Paragraphs 128-132, 1008 characters. H: Trong nội dung tập huấn thì có nói về kĩ năng trong gia đình: quản lí chi tiêu, chăm sóc con cái, người già… thì mình có cần biết hay không? Số 1: Cái đó là cần thiết vì nếu phụ nữ mà không biết vun vén, đàn ông xây nhà đàn bà xây tổ ấm, trong xã hội Việt Nam thì người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong gia đình. họ là người chăm sóc, vun vén cuộc sống trong gia đình. Nếu người đàn ông làm ra bao nhiêu của đi chăng nữa mà không biết giữ thì không thể… Còn về chăm sóc người già thì người phụ nữ cũng phải học trước để biết cách, chứ không thể nào trở thành người vợ đoảng được. Số 4: Thành lập một CLB về vấn đề này để mọi người cùng đến, cùng nghe, giao lưu, bàn bạc. Ví dụ như là lớp này hết thì vẫn có lớp sau nghe tiếp chứ. Số 1: nói chung là các hoạt động này được duy trì hàng tháng.

117

Số 2: Theo Hương biết là đây là hoạt động của một tổ chức vô danh, tổ chức vô danh này cung cấp kinh phí, nhưng hình như là kết thúc vào tháng 11 gì đấy, nhưng ở trên quận vẫn tiếp tục phát triển mô hình này. Document 'Nam chua ket hon', 1 passages, 189 characters. Section 0, Paragraphs 133-134, 189 characters. Q: Nếu có các lớp không chỉ về sức khỏe sinh sản mà còn nhiều nội dung khác anh có sẵn sàng tham gia không? A: Tất cả các thông tin trên mà lớp tổ chức được thì mình sẵn sàng tham gia ngay. Document 'Nu sap ket hon', 1 passages, 303 characters. Section 0, Paragraphs 101-104, 303 characters. Q: Nếu mở một lớp về hôn nhân gia đình thì chị có tham gia đựợc không? A: Về vấn đề đấy thì mình cũng chưa biết được như thế nào. Q: Ví dụ chị sắp kết hôn và địa phương mở một lớp giáo dục tiền hôn nhân và luật hôn nhân gia đình chị có sẵn sàng tham gia không? A: Mình nghĩ tham gia được thì rất là tốt. Document 'TLN Nu chua KH 2', 2 passages, 732 characters. Section 0, Paragraphs 83-86, 487 characters. H: Thanh đã tham gia lớp này rất lâu thì có thể cho biết, ngoài sức khoẻ sinh sản thì Luật Hôn nhân và gia đình được tuyên truyền thế nào? Số 1: Thỉnh thoảng thì có thấy mẹ mang về tờ rơi gấp lại nói tóm gọn về luật, còn nghe trên ti vi, sách báo, không đề cập sâu đến còn đọc hẳn quyển luật này thì chưa. H: Trong nội dung mình học thì có học về luật không? Số 1: Thời gian em tham gia thì mới chỉ phổ biến về các bệnh, phòng chống. Còn Luật Hôn nhân và gia đình thì thực sự là chưa có. Section 0, Paragraphs 87-88, 245 characters. H: Nếu có lớp riêng về Luật Hôn nhân và gia đình thì thanh niên sẵn sàng tham gia chứ? Số 1: Mọi người đều sẵn sàng vì nó đảm bảo quyền lợi của mình và của người khác. Luật pháp cần được thiết thực trong cuộc sống, luật pháp là để bảo vệ con người. Document 'Nam chua ket hon', 1 passages, 431 characters. Section 0, Paragraphs 113-116, 431 characters. Q: ở địa phương mình có những trường hợp ly hôn không? L do tại sao? A: Cũng có đấy. Nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế. L do thứ hai có những gia đình ngoài hôn nhân được pháp luật công nhận, chồng hay vợ còn có quan hệ ngoài hôn nhân, gây nên chia tay. Q:Anh thấy thế nào về những nguyên nhân đấy? A: Theo mình hai vợ chồng nên ngồi lại trao đổi thẳng thắn với nhau tìm cách tháo gỡ, chia sẻ. Cái gì tha thứ được cũng nên tha thứ. Document 'Nam chua ket hon', 1 passages, 580 characters. Section 0, Paragraphs 93-98, 580 characters. Q: Anh có nghe hay có biết chuyện sống thử trước hôn nhân không? A: Cái đấy mình có nghe. Q: Anh nghĩ thế nào? A: Sống thử theo mình nghĩ không nên. Sống thử sống gấp không nên. Sống với nhau như vợ chồng mà không được pháp luật chấp nhận, kiểu gì cũng xảy ra to tiếng dẫn đến chia tay, trong những trường hợp đấy người phụ nữ rất là thiệt thòi. Q: Theo quan điểm khác cho rằng sống thử để tìm hiểu nhau kỹ càng hơn trước khi kết hôn, anh thấy kiến đó thế nào? A: Mình cũng không đồng với ý kiến đó. Xác định như thế là thời gian tìm hiểu nhau chứ không phải thời gian sống thử. Document 'Nu sap ket hon', 1 passages, 198 characters. Section 0, Paragraphs 71-72, 198 characters. Q: Hiện nay vấn đề sống thử, nạo phá thai, thậm chí quan hệ tình dục ngoài hôn nhân xảy ra, chị quan niệm như thế nào? A: Mình nghĩ là cũng không tốt, có nhiều thứ trong đấy mình cảm thấy không ổn. Document 'PVS phu nu chua ket hon', 2 passages, 853 characters.

118

Thời gian rỗi của anh cũng khá nhiều phải không? Vậy trong những lúc đó anh làm gì? Vâng, thời gian rỗi mình tham gia vào Đoàn Thanh niên, chiều thì đá bóng, đánh cầu cùng Đoàn viên

Anh có hay đi thăm bạn bè không? Thỉnh thoảng, chỉ bạn bè thân thôi.

Section 0, Paragraphs 127-129, 293 characters. H : thanh niên quan niệm thế nào về việc sống thử(về khía cạnh luật pháp và đạo đức) ? _ Nước mình thì dị ứng với việc đó ,sống thử như thế thì hơi vô trách nhiệm với bản thân mình , tránh được việc đó là tốt nhất, về phía luật pháp thì không nên có sự bảo vệ vì nó sẽ để lại hậu quả về sau Section 0, Paragraphs 131-139, 560 characters. H: nếu trường hợp những người ấy có đầy đủ kiến thức về SKSS gia đình ? Mình sẽ hỏi trực tiếp hai bạn là hai bạn có muốn lấy nhau không ,hay là chỉ là vì nhu cầu sinh lý Đ: sống thử chưa được chấp nhận ở Việt Nam, cái việc sống thử khá phổ biến trong lớp công nhân, sinh viên cũng chưa nhiều bằng Đ: việc sống thử là không nên , mình là con gái phải biết giữ cho mình cố gắng tự chủ đó là nhân cách của mình. Thanh : giới nữ nước mình chưa độc lập bằng nước ngoài , sống thử thì bị xã hội soi xét , gia đình soi xét dù sao là không nên Document 'TLN Nu chua KH 1', 1 passages, 612 characters. Section 0, Paragraphs 106-112, 612 characters. H: hiện tại bây giờ đang nói rất nhiều về Quan hệ và Sống thử trước hôn nhân. Thanh niên ở đây đều có trình độ học vấn khá cao thì có thể cho biết quan niệm về vấn đề này? Số 5: Em không chấp nhận việc đấy. Em không thích thế. Số 4: Chắc chắn cũng không đồng ý, vì con gái, bao giờ cũng chịu ảnh hưởng về hậu quả. Cái danh dự của mình bị chà đạp lên. Số 2: Theo em là nó vi phạm đạo lí, hoặc là mắc bệnh trước hôn nhân hoặc là sau đó thì phụ nữ hay bị bỏ rơi. H: Trong trường hợp người ta có đầy đủ kiến thức thì sao? Số 3: phương tây thì bao giờ nó cũng áp dụng rộng rãi hơn. Số 2: Mọi người thường không thông cảm Document 'TLN Nu chua KH 2', 2 passages, 1078 characters. Section 0, Paragraphs 110-113, 763 characters. H: Thanh niên quan niệm thế nào về sống thử trước hôn nhân về khía cạnh đạo đức và pháp luật của nó? Số 2: nó không hợp với phong cách phương đông, vì là phương đông rất dị ứng với kiểu quan hệ thế. Người ta sẽ tôn trọng người phụ nữ biết giữ mình trước hôn nhân hơn là một người phụ nữ để nó thoải mái. Thứ hai, sống thử như thế thì hơi vô trách nhiệm với bản thân, là không được tốt. Nếu tránh được là tốt. H: Về khía cạnh luật pháp thì sao? Số 2: Không nên có sự ủng hộ hay bảo vệ sống thử trước hôn nhân, vì nó không hợp. Nếu bảo vệ như thế thì sẽ để lại hậu quả về sau. Nếu hai bạn sống thử mà có thai thì giải quyết vấn đề ấy ra sao? Hai bạn định phá thai thì có ảnh hưởng gì đến đứa trẻ và người mẹ? Theo mình thì nó để lại hậu quả có thể lường trước về sau. Section 0, Paragraphs 116-117, 1315 characters. Số 1: Như chị Hương nói thì sống thử trước hôn nhân chưa được chấp nhận ở xã hội Việt Nam. Nếu hai người thực sự yêu nhau và cảm thấy muốn chung sống với nhau thì kết hôn luôn rồi. Nếu họ ngại li dị thì đó là vấn đề không tốt. Sống thử trước hôn nhân hiện nay thì khá phổ biến trong giới công nhân đi làm xa, sinh viên cũng tương đối thôi. Công nhân đi làm các khu công nghiệp ấy thì con cái của họ sinh ra không được làm giấy khai sinh, không thể đi học được, chỉ được chơi luẩn quẩn trong xóm trọ thì bị trẻ bên ngoài nó coi thường. Giống như Vợ Nhặt của Nam Cao, chỉ là dân ngụ cư thôi thì tạo ra tầng lớp khác trong xã hội mà không được coi trọng. Bên cạnh đó thì còn quyền lợi của người phụ nữ. Nam giới thường nắm chủ yếu về kinh tế, khả năng chủ động rất cao, đi xin việc thì dễ. Nhưng người con gái thì đứng trước bao nhiêu vấn đề của cuộc sống, như đến tuổi sinh đẻ này, sinh nở này. Nếu chẳng may mang thai… Nếu đi phá thai thì em thấy là người con gái chịu ảnh hưởng trực tiếp về vấn đề đấy còn người con trai thì không có gì. Số 4: em nghĩ là thực sự là không nên. Xã hội chắc chắn là không chấp nhận về đạo đức, kể cả pháp luật cũng thế. Em nghĩ mình là con gái, cố gắng tự chủ và giữ cho mình. Đấy chính là cái nhân cách của mình, để sau này… em nghĩ là đã sống thử rồi thì khi kết hôn thì chẳng còn… Document 'Nam chua ket hon', 1 passages, 294 characters. Section 0, Paragraphs 23-26, 294 characters. Q: A: thanh niên trong khu dân cư Q: A: Document 'PVS phu nu chua ket hon', 1 passages, 333 characters. Section 0, Paragraphs 9-15, 333 characters.

119

H : trong thời gian rỗi thanh niên làm gì ? _Hương : trong thời gian rỗi xem tivi , đọc báo , tâm sự với thanh niên gái về nhiều vấn đề (trong lớp , về bạn trai ) _Vân em thì xem ca nhạc , đi chơi , học tập là chính _ Thanh : em thì thường xem tivi nhiều hơn , giành thời gian cho sở thích riêng , thỉnh thoảng mới nói chuyện với bạn Document 'TLN Nu chua KH 1', 3 passages, 511 characters. Section 0, Paragraphs 13-16, 306 characters. H: Trong thời gian rỗi thì thanh niên thường làm gì? Số 5: Ngoài thời gian đi học và đi làm thì em xem TV, phim, có thể là đọc báo, sinh hoạt chi đoàn, nói chung là các hoạt động văn thể. H: Thu thì sao? Số 6: thời gian rỗi thường là đi chơi với bạn, đọc báo, xem TV, tham gia các hoạt động đoàn ở nhà trường. Section 0, Paragraphs 29-30, 123 characters. H: Thời gian rỗi thì Lan thường làm gì? Số 1: Em thường ở nhà, có đi chơi cùng thanh niên và tham gia hoạt động đoàn thể thôi. Section 0, Paragraphs 35-36, 82 characters. H: Còn Thi? Số 2: Em thường nghe nhạc và xem phim, thỉnh thoảng thì đi buôn dưa lê Document 'TLN Nu chua KH 2', 2 passages, 75 characters. Section 0, Paragraphs 11-14, 518 characters. Trong thời gian rỗi thì thanh niên thường làm gì? Số 2: thường thường là xem TV, đọc truyện đọc báo hoặc là uống cà phê, buôn bán với bạn bè, tâm sự với thanh niên gái. H: Thường thì thanh niên tâm sự về chuyện gì? Số 2: Con gái có rất nhiều chuyện để tâm sự, ví dụ như bạn này thế nọ thế kia, có thể tâm sự về bạn trai của mình chẳng hạn. Ví dụ như Hương thì tâm sự với bạn gái về người yêu của mình như thế nào, chỉ là đơn thuần tâm sự chứ không phải hỏi ý kiến gì cả. Ví dụ kể ra bạn trai của mình tốt với mình thế nào thôi. Section 0, Paragraphs 17-20, 507 characters. H: Còn Vân thì sao? Số 4: Thường lúc rỗi thì em nghe ca nhạc, xem TV, đi chơi, nói chuyện với bạn bè nhưng ít nói về chủ đề tình yêu vì bạn em chưa có nhiều người có người yêu lắm nên chủ yếu là các vấn đề vui chơi và học thôi. H: Còn Thanh thì sao nhỉ? Số 1: Bình thường thì em đọc nhiều, thỉnh thoảng thì xem TV. Thường thì em dành thời gian ở nhà cho sở thích riêng của mình như đan hay là làm mấy thứ linh tinh… Bạn bè thì thỉnh thoảng em mới gặp, buôn chuyện với đứa bạn thân rồi kể chuyện về bạn trai. Document 'Nam chua ket hon', 1 passages, 217 characters. Section 0, Paragraphs 101-102, 217 characters. Q: Anh có tiêu chí gì trong lựa chọn bạn gái? A: Ai cũng có nhiều tiêu chí để đặt ra. Theo mình một người bạn gái và người vợ sau này tính tình phải thùy mỵ, quan trọng nhất là thương chồng thương con và biết chia sẻ. Document 'Nu sap ket hon', 1 passages, 272 characters. Section 0, Paragraphs 47-48, 272 characters. Q: Từ tình bạn đến tình yêu rồi kết hôn quan niệm của chị như thế nào. Tiêu chí lựa chọn bạn đời của chị? A: Không cần phải đẹp trai, nhà giàu. Mình nghĩ thứ nhất cả hai người yêu nhau, anh ấy có chí tiến thủ, có trách nhiệm vơi mình, với gia đình mình và gia đình anh ấy. Document 'PVS phu nu chua ket hon', 1 passages, 72 characters. Section 0, Paragraphs 29-31, 72 characters. H : thế em có đặt tiêu chí về bạn trai ? Đ : em ko đặt tiêu chí gì cả Document 'TLN Nu chua KH 1', 1 passages, 523 characters. Section 0, Paragraphs 80-84, 523 characters. H: Đối với bản thân chị thì chị có tiêu chí nào về người bạn đời không?

120

Số 3: Trước tiên thì cũng phải cân xứng với mình. Hai người cũng phải am hiểu, tương đương cả về vấn đề xã hội, hiểu biết cũng như là học thức. Người bạn phải hiểu mình nhiều, biết chia sẻ, đồng cảm với mình. Số 2: Hôn nhân phải xuất phát từ tình yêu, hai người có sự chia sẻ và hoà hợp về tâm lí, tình yêu thì sẽ hạnh phúc. H: Lan thì sao? Số 1: Em nghĩ là cái đấy xuất phát từ 2 người yêu nhau thực sự. Cũng phải tương đương nhau về nhiều cái khác. Document 'TLN Nu chua KH 2', 1 passages, 276 characters. Section 0, Paragraphs 30-32, 276 characters. H: Mình có đặt ra tiêu chí nào để chọn bạn trai không? Số 4: Nếu em gặp một người nào đấy mà em cảm thấy không tốt em chắc là không bao giờ. Còn thật sự mà tốt và mình thích thì lúc đấy thì thích thôi. H: Còn trường hợp của Linh thì sao? Em đã bao giờ có chuyện tình cảm chưa? Document 'Nam chua ket hon', 1 passages, 530 characters. Section 0, Paragraphs 129-132, 530 characters. Q: Như anh có điều kiện tiếp cận nội dung thông tin luật qua sách báo, nhưng nhiều bạn trẻ không có điều kiện như vậy. Theo anh nên dung hình thức nào để mọi người có thể có được những thông tin như vậy nhiều hơn? A: Nên triển khai qua các CLB Đoàn sinh hoạt một tháng một lần tại các địa phương, các đơn vị khác. Không nên nói nhiều quá, mỗi lần một chút thì sẽ hiệu quả hơn. Q: Nếu đưa lên loa truyền thanh xã có hiệu quả không? A: Hơi khó, có vẻ hơi chính trị. Hoặc nhiều khi có người ở nhà có người đi làm không nghe được hết. Document 'PVS nu chua ket hon 1', 1 passages, 128 characters. Section 0, Paragraphs 98-99, 128 characters. H: theo bạn thì làm gì để thu hút được thanh niên tham gia? TL: tổ chức văn nghệ, trò chơi, có cái gì sôi động và vui là thích. Document 'Nam chua ket hon', 1 passages, 338 characters. Section 0, Paragraphs 109-110, 338 characters. Q: Anh có biết với các gia đình trẻ ở địa phương mình có những khó khăn vấn đề bức xúc, xung đột xảy ra? A: Có trường hợp hai vợ chồng trẻ, cả hai đều chưa có công ăn việc làm, kinh tế chưa có, lại sinh con trong khi vẫn phải sống dựa vào gia đình. Có những xích mích, giữa mẹ chồng nàng dâu chẳng hạn. Nhiều khi kinh tế quyết định nhiều. Document 'Nu sap ket hon', 1 passages, 170 characters. Section 0, Paragraphs 29-30, 170 characters. Q: Chị nhận xét những bức xúc mà các vợ chồng trẻ hay mắc phải? A: Các vợ chồng trẻ thường hay cãi nhau chẳng hạn. Có thể chồng còn mải chơi chưa có thức chăm lo vợ con. Document 'PVS nu chua ket hon 1', 2 passages, 420 characters. Section 0, Paragraphs 30-31, 292 characters. H: khi tiếp xúc với bạn bè thì theo bạn thanh niên gặp phải vấn đề gì? TL: Cả tình yêu và hôn nhân. Có những trường hợp cả hai yêu nhau nhưng gia đình ép phải kết hôn tuy nhiên điều kiện của cô gái chưa được gia đình cho phép. Thế là đã chia tay. Anh ta đi kết hôn với một người mà không yêu. Section 0, Paragraphs 42-43, 128 characters. H: khó khăn thường gặp với đôi vợ chồng trẻ TL: trongcách ứng xử còn hạn chế với gia đình. Thường bị nhà chồng chê. Cách ăn mặc. Document 'PVS phu huynh 2', 1 passages, 790 characters. Section 1, Paragraphs 19-20, 790 characters. H: trong hai năm lập gia đình thì con gái cô có bao giờ về chia sẻ những vấn đề va vấp không? TL: những vấp váp lớn thì không có nhưng vấn đề về ăn uống thì cũng có. Cô cũng có nói chuyện và dậy bảo con làm sao để làm phù hợp ý những người trong nhà. Đừng chờ mọi người vì mình trước mà mình phải hy sinh trước để tạo ra sự hài hoà. Người mẹ với con gái thì dễ hơn còn con dâu thì khó hơn. Con gái về nhà chồng phải có dậy bảo như thế, mình phải tìm hiểu người ta trước. Cô cũng làm dâu lâu rồi mà lại ở trong gia đình nông nghiệp, rất may khi mà gia đình cô đi di tán thì cô cũng đã biết làm hết các việc nhà chồng: cắt cỏ, gặt…Cũng may cô cũng từng chải nên mới dậy được con. Vốn sống thì rất quý. Cô chịu khó học các bà các cụ ngày xưa, trên ti vi báo đài cô cũng học sau đó dậy lại con. Document 'PVS phu nu chua ket hon', 1 passages, 316 characters. Section 0, Paragraphs 57-61, 316 characters.

121

H : theo thanh niên những gia đình trẻ sẽ gặp những vấn đề gì trong cuộc sống ? _ trước tiên là về kinh tế , và kinh nghiệm sống còn chưa nhiều dẫn đến mâu thuẫn nhỏ nhătk sẽ ngày càng lớn . _Từ thiếu kinh nghiệm sống thì dẫn đến nhiều khúc mắc trong cuộc sống , nhưng nếu 2 vợ chồng biết chia sẻ thì sẽ vượt qua Document 'TLN Nu chua KH 2', 1 passages, 776 characters. Section 0, Paragraphs 50-52, 776 characters. H: Theo thanh niên, gia đình trẻ có thể gặp những vấn đề gì trong cuộc sống? Số 1: Rất nhiều vấn đề. Thứ nhất là về kinh tế. Thứ hai là kinh nghiệm sống của bản thân là còn chưa nhiều, thành ra là việc giải quyết các khúc mắc là còn chưa hợp lí. Mâu thuẫn nó tồn tại từ việc nhỏ nhặt, sau đó nhặt dần nhặt dần lên thành việc lớn. Các vấn đề về gia đình như bố mẹ chồng, bố mẹ vợ thì yêu cầu cả ý thức của cặp vợ chồng trẻ phải rất tốt về cuộc sống sắp tới. Số 2: Hương thì hoàn toàn đồng nhất với ý kiến của Thanh. Tất nhiên là gia đình trẻ thì bao giờ kinh nghiệm sống cũng thiếu hơn những gia đình lập từ lâu năm. Từ những kinh nghiệm đó thì dẫn đến những khúc mắc giữa hai vợ chồng. Hương nghĩ là có sự đồng cảm và chia sẻ, hiểu và tin tưởng thì sẽ giải quyết hết khúc mắc đó. Document 'Nu sap ket hon', 1 passages, 117 characters. Section 0, Paragraphs 17-18, 117 characters. Q: ở phường mình hay có các lớp tập huấn, giáo dục về giới tính hay luật hôn nhân không? A: Chỉ về sức khỏe sinh sản. Document 'PVS nu chua ket hon 1', 1 passages, 530 characters. Section 0, Paragraphs 76-83, 530 characters. H: nơi bạn làm có tổ chức tìm hiểu về hôn nhân không? TL: không, chỉ có ở địa phương có câu lạc bộ tiền hôn nhân và em đã tham gia được mấy năm rồi, và họ thường tổ chức theo quý. H: họ cung cấp cho mình cái gì? TL: về độ tuổi hôn nhân, cách phòng tránh thai…, chưa hoàn chỉnh lắm nhưng cũng có cái khác. ở trường thì vấn đề này như kiểu bị tránh né. H: Do cán bộ đoàn tư vấn hay ai khác? TL: cán bộ đoàn, có những đợt có chuyên gia tham gia H: kiến thức có mới không TL: cũng không phải mới nhưng có nhiều cái không em không biết Document 'TLN Nu chua KH 1', 1 passages, 700 characters. Section 0, Paragraphs 70-75, 700 characters. H: Trong hoạt động đoàn ở xã mình thì đã bao giờ có hoạt động tuyên truyền để phổ biến Luật này chưa? Số 3: Đoàn mình chỉ biết như mình, như về độ tuổi kết hôn. Hầu hết là mọi người đi học, thì có kiến thức cơ bản ở trường dạy cho là có đủ điều kiện như thế nào thì xây dựng gia đình. Cũng không có trường hợp nào là tảo hôn. H: Thi thì sao? Số 2: Về Luật này thì chưa bao giờ được cầm hẳn cái quyển luật như thế để đọc, mà cũng chỉ là nghe qua mọi người nói và sách báo, thì cũng biết là độ tuổi nào thì được phép kết hôn hoặc con cái có nghĩa vụ như thế nào đối với bố mẹ… Chỉ là kiến thức sơ đẳng chứ nói về chi tiết thì em cũng không biết. H: Chị Lanh ạ? Số 4: Mình cũng như mọi người ở đây thôi. Document 'Nam chua ket hon', 3 passages, 530 characters. Section 0, Paragraphs 47-48, 214 characters.

122

LUẬT HễN NHÂN VÀ GIA ĐèNH NĂM 2000

LỜI NÓI ĐẦU

Gia đỡnh là tế bào của xó hội, là cỏi nụi nuụi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hỡnh thành và giỏo dục nhõn cỏch, gúp phần vào sự nghiệp xõy dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đỡnh tốt thỡ xó hội mới tốt, xó hội tốt thỡ gia đỡnh càng tốt. Để đề cao vai trũ của gia đỡnh trong đời sống xó hội, giữ gỡn và phỏt huy truyền thống và những phong tục, tập quỏn tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xoá bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đỡnh; Để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xó hội trong việc xõy dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đỡnh Việt Nam; Kế thừa và phát triển pháp luật về hôn nhân và gia đỡnh Việt Nam; Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992; Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đỡnh.

CHƢƠNG I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình Luật hôn nhân và gia đình có nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Luật hôn nhân và gia đình quy định chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam. Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình 1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. 2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 3. Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. 4. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. 5. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú.

123

2. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết

3. Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện

4. Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định

5. Cưỡng ép kết hôn là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ; 6. Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn; 7. Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến

8. Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ

6. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ. Điều 3. Trách nhiệm của Nhà nƣớc và xã hội đối với hôn nhân và gia đình 1. Nhà nước có chính sách, biện pháp tạo điều kiện để các công dân nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ và gia đình thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ. 2. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giáo dục, vận động cán bộ, công chức, các thành viên của mình và mọi công dân xây dựng gia đình văn hoá; thực hiện tư vấn về hôn nhân và gia đình; kịp thời hoà giải mâu thuẫn trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình. 3. Nhà trường phối hợp với gia đình trong việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình cho thế hệ trẻ. Điều 4. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình 1. Quan hệ hôn nhân và gia đình thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo; cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi. Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Cấm ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em và các thành viên khác trong gia đình. 3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Điều 5. áp dụng quy định của Bộ luật dân sự Các quy định của Bộ luật dân sự liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình trong trường hợp pháp luật về hôn nhân và gia đình không có quy định. Điều 6. áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc quy định tại Luật này thì được tôn trọng và phát huy. Điều 7. áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài. 1. Các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. 2. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của Luật này, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế. Điều 8. Giải thích từ ngữ Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: 1. Chế độ hôn nhân và gia đình là toàn bộ những quy định của pháp luật về kết hôn, ly hôn, nghĩa vụ và quyền giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình, cấp dưỡng, xác định cha, mẹ, con, con nuôi, giám hộ, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và những vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình; hôn và đăng ký kết hôn; kết hôn do pháp luật quy định; của pháp luật; ngày chấm dứt hôn nhân; hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng;

9. Cưỡng ép ly hôn là hành vi buộc người khác phải ly hôn trái với nguyện vọng của họ;

124

10. Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan

12. Những người cùng dòng máu về trực hệ là cha, mẹ đối với con; ông, bà đối với cháu nội và cháu

14. Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:

hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này; 11. Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này; ngoại; 13. Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ ba; a) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; b) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; c) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.

CHƢƠNG II KẾT HÔN

Điều 9. Điều kiện kết hôn Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: 1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên; 2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở; 3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này. Điều 10. Những trƣờng hợp cấm kết hôn Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây: 1. Người đang có vợ hoặc có chồng; 2. Người mất năng lực hành vi dân sự; 3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; 4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; 5. Giữa những người cùng giới tính. Điều 11. Đăng ký kết hôn 1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn. 2. Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa. Điều 12. Thẩm quyền đăng ký kết hôn Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài. Điều 13. Giải quyết việc đăng ký kết hôn 1. Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan đăng ký kết hôn kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tổ chức đăng ký kết hôn. 2. Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn từ chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu người bị từ chối không đồng ý thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật. Điều 14. Tổ chức đăng ký kết hôn Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên. Điều 15. Ngƣời có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật 1. Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này. 2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này.

125

3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này: a) Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn; b) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; c) Hội liên hiệp phụ nữ. 4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Điều 16. Hủy việc kết hôn trái pháp luật Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 15 của Luật này, Toà án xem xét và quyết định việc hủy kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Toà án, cơ quan đăng ký kết hôn xoá đăng ký kết hôn trong Sổ đăng ký kết hôn. Điều 17. Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật 1. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. 2. Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn. 3. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.

CHƢƠNG III QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG

1. Vợ, chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.

Điều 18. Tình nghĩa vợ chồng Vợ chồng chung thuỷ, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Điều 19. Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Điều 20. Lựa chọn nơi cƣ trú của vợ, chồng Nơi cư trú của vợ, chồng do vợ chồng lựa chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính. Điều 21. Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng 2. Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau. Điều 22. Tôn trọng quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của vợ, chồng Vợ, chồng tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Điều 23. Giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt Vợ, chồng cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mỗi người. Điều 24. Đại diện cho nhau giữa vợ, chồng 1. Vợ chồng có thể uỷ quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản. 2. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Toà án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó. Điều 25. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Điều 26. Quan hệ hôn nhân khi một bên bị tuyên bố là đã chết mà trở về Khi Toà án ra quyết định huỷ bỏ tuyên bố một người là đã chết theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật dân sự mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục; trong trường hợp vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật. Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng 1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.

126

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. 2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. 3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung. Điều 28. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung 1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. 2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. 3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này. Điều 29. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. 2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận. Điều 30. Hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Điều 31. Quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng 1. Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế. 2. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thoả thuận cử người khác quản lý di sản. 3. Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế. Điều 32. Tài sản riêng của vợ, chồng 1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. 2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Điều 33. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng 1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này. 2. Vợ, chồng tự quản lý tài sản riêng; trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không uỷ quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. 3. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. 4. Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng. 5. Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thoả thuận của cả vợ chồng.

CHƢƠNG IV QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON

Điều 34. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ

127

1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. 2. Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Điều 35. Nghĩa vụ và quyền của con Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết n, hiếu thoả với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ. Điều 36. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dƣỡng 1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. 2. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Điều 37. Nghĩa vụ và quyền giáo dục con 1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hoà thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con. 2. Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động xã hội của con. 3. Khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con. Điều 38. Nghĩa vụ và quyền của bố dƣợng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng 1. Bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng sống chung với mình theo quy định tại các điều 34, 36 và 37 của Luật này. 2. Con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình theo quy định tại Điều 35 và Điều 36 của Luật này. 3. Bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau. Điều 39. Đại diện cho con Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật. Điều 40. Bồi thƣờng thiệt hại do con gây ra Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định tại Điều 611 của Bộ luật dân sự. Điều 41. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chƣa thành niên Khi cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; phá tán tài sản của con; có lối sống đồi truỵ, xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì tuỳ từng trường hợp cụ thể Toà án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 42 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ một năm đến năm năm. Toà án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này. Điều 42. Ngƣời có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chƣa thành niên 1. Cha, mẹ, người thân thích của con chưa thành niên theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. 2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. 3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: a) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; b) Hội liên hiệp phụ nữ. 4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

128

Điều 43. Hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chƣa thành niên 1. Trong trường hợp một trong hai người là cha hoặc mẹ bị Toà án hạn chế một số quyền đối với con chưa thành niên thì người kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con. 2. Trong trường hợp cha mẹ đều bị Toà án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật này. 3. Cha, mẹ đã bị Toà án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Điều 44. Quyền có tài sản riêng của con 1. Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và các thu nhập hợp pháp khác. 2. Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Điều 45. Quản lý tài sản riêng của con 1. Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý. 2. Tài sản riêng của con dưới mười lăm tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự thì do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể uỷ quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con. 3. Cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con trong trường hợp người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó hoặc những trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Điều 46. Định đoạt tài sản riêng của con chƣa thành niên 1. Trong trường hợp cha mẹ quản lý tài sản riêng của con dưới mười lăm tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, có tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên. 2. Con từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng; nếu định đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý của cha mẹ.

CHƢƠNG V QUAN HỆ GIỮA ÔNG BÀ NỘI, ÔNG BÀ NGOẠI VÀ CHÁU; GIỮA ANH, CHỊ, EM VÀ GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH

Điều 47. Nghĩa vụ và quyền của ông bà nội, ông bà ngoại và cháu 1. Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu. Trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 48 của Luật này thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu. 2. Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại. Điều 48. Nghĩa vụ và quyền của anh, chị, em Anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Điều 49. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình 1. Các thành viên cùng sống chung trong gia đình đều có nghĩa vụ quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chăm lo đời sống chung của gia đình, đóng góp công sức, tiền và tài sản khác để duy trì đời sống chung phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mình. Các thành viên trong gia đình có quyền được hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau. Quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.

CHƢƠNG VI CẤP DƢỠNG

Điều 50. Nghĩa vụ cấp dƣỡng 1. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác. 2. Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Luật này.

129

Điều 51. Một ngƣời cấp dƣỡng cho nhiều ngƣời Trong trường hợp một người cấp dưỡng cho nhiều người thì người cấp dưỡng và những người được cấp dưỡng thoả thuận với nhau về phương thức và mức cấp dưỡng phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của những người được cấp dưỡng; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Điều 52. Nhiều ngƣời cùng cấp dƣỡng cho một ngƣời hoặc cho nhiều ngƣời Trong trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người hoặc cho nhiều người thì những người này thỏa thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mỗi người và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Điều 53. Mức cấp dƣỡng 1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. 2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Điều 54. Phƣơng thức thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Các bên có thể thoả thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Điều 55. Ngƣời có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng 1. Người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. 2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. 3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó: a) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; b) Hội liên hiệp phụ nữ. 4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Điều 56. Nghĩa vụ cấp dƣỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn Khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Điều 57. Nghĩa vụ cấp dƣỡng của con đối với cha mẹ Con đã thành niên không sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Điều 58. Nghĩa vụ cấp dƣỡng giữa anh, chị, em 1. Trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên không sống chung với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. 2. Em đã thành niên không sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Điều 59. Nghĩa vụ cấp dƣỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu 1. Ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 58 của Luật này. 2. Cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại trong trường hợp ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.

130

Điều 60. Nghĩa vụ cấp dƣỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn Khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Điều 61. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dƣỡng Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây: 1. Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động; 2. Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình; 3. Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi; 4. Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng; 5. Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết; 6. Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác; 7. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Điều 62. Khuyến khích việc trợ giúp của tổ chức, cá nhân Nhà nước và xã hội khuyến khích các tổ chức, cá nhân trợ giúp bằng tiền hoặc tài sản khác cho các gia đình, cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, túng thiếu.

CHƢƠNG VII XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON

Điều 63. Xác định cha, mẹ 1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng. 2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Toà án xác định. Việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy định. Điều 64. Xác định con Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Toà án xác định người đó là con mình. Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Toà án xác định người đó không phải là con mình. Điều 65. Quyền nhận cha, mẹ 1. Con có quyền xin nhận cha, mẹ của mình, kể c trong trường hợp cha, mẹ đã chết. 2. Con đã thành niên xin nhận cha, không đòi hỏi phải có sự đồng ý của mẹ; xin nhận mẹ, không đòi hỏi phải có sự đồng ý của cha. Điều 66. Ngƣời có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chƣa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự 1. Mẹ, cha hoặc người giám hộ theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự. 2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự. 3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự: a) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; b) Hội liên hiệp phụ nữ. 4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.

CHƢƠNG VIII CON NUÔI

Điều 67. Nuôi con nuôi 1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Một người có thể nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi. Giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của Luật này.

131

2. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ ri, trẻ bị tàn tật làm con nuôi. 3. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác. Điều 68. Ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi 1. Người được nhận làm con nuôi phải là người từ mười lăm tuổi trở xuống. Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn. 2. Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng. Điều 69. Điều kiện đối với ngƣời nhận nuôi con nuôi Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: 1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; 2. Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên; 3. Có tư cách đạo đức tốt; 4. Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; 5. Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Điều 70. Vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi Trong trường hợp vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi thì vợ chồng đều phải có đủ các điều kiện quy định tại Điều 69 của Luật này. Điều 71. Sự đồng ý của cha mẹ đẻ, ngƣời giám hộ và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi 1. Việc nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ của người đó; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ. 2. Việc nhận trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Điều 72. Đăng ký việc nuôi con nuôi Việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và ghi vào Sổ hộ tịch. Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi, giao nhận con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Điều 73. Từ chối việc đăng ký nuôi con nuôi Trong trường hợp một bên hoặc các bên không có đủ các điều kiện nhận nuôi con nuôi hoặc làm con nuôi thì cơ quan đăng ký việc nuôi con nuôi từ chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu cha mẹ đẻ, người giám hộ và người nhận nuôi con nuôi không đồng ý thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật. Điều 74. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này, kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi. Con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng được người khác nhận làm con nuôi vẫn được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng. Điều 75. Thay đổi họ, tên; xác định dân tộc của con nuôi 1. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ chín tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch. 2. Việc xác định dân tộc của con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Bộ luật dân sự. Điều 76. Chấm dứt việc nuôi con nuôi Theo yêu cầu của những người quy định tại Điều 77 của Luật này, Toà án có thể quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp sau đây: 1. Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi; 2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha, mẹ nuôi; 3. Cha mẹ nuôi đã có các hành vi quy định tại khoản 3 Điều 67 hoặc khoản 5 Điều 69 của Luật này. Điều 77. Ngƣời có quyền yêu cầu Toà án chấm dứt việc nuôi con nuôi 1. Con nuôi đã thành niên, cha, mẹ đẻ, người giám hộ của con nuôi, cha, mẹ nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại Điều 76 của Luật này. 2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại điểm 2 và điểm 3 Điều 76 của Luật này. 3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại điểm 2 và điểm 3 Điều 76 của Luật này:

132

a) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; b) Hội liên hiệp phụ nữ. 4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại điểm 2 và điểm 3 Điều 76 của Luật này. Điều 78. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi 1. Khi chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của Toà án, các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi cũng chấm dứt; nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì Toà án ra quyết định giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá nhân, tổ chức trông nom, nuôi dưỡng. 2. Trong trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công sức đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình cha mẹ nuôi thì được trích một phần từ khối tài sản chung đó theo thoả thuận giữa con nuôi và cha mẹ nuôi; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. 3. Khi việc nuôi con nuôi chấm dứt, theo yêu cầu của cha mẹ đẻ hoặc của người đã làm con nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc người đã làm con nuôi được lấy lại họ, tên mà cha mẹ đẻ đã đặt.

CHƢƠNG IX GIÁM HỘ GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH

Điều 79. áp dụng pháp luật về giám hộ trong quan hệ gia đình Khi trong gia đình có người cần được giám hộ thì việc giám hộ được thực hiện theo các quy định về giám hộ của Bộ luật dân sự và Luật này. Điều 80. Cha mẹ giám hộ cho con Trong trường hợp cha mẹ cùng giám hộ cho con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì họ đều phải thực hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ. Cha, mẹ thoả thuận với nhau về việc đại diện theo pháp luật cho con trong các giao dịch dân sự vì lợi ích của con. Điều 81. Cha mẹ cử ngƣời giám hộ cho con Trong trường hợp cha mẹ còn sống nhưng không có điều kiện trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì cha mẹ có thể cử người khác giám hộ cho con; cha mẹ và người giám hộ thoả thuận về việc người giám hộ thực hiện một phần hoặc toàn bộ việc giám hộ. Điều 82. Con riêng giám hộ cho bố dƣợng, mẹ kế Trong trường hợp bố dượng, mẹ kế không có người giám hộ theo quy định tại Điều 72 của Bộ luật dân sự thì con riêng đang sống chung với bố dượng, mẹ kế làm người giám hộ, nếu có đủ điều kiện làm người giám hộ. Điều 83. Giám hộ giữa anh, chị, em 1. Trong trường hợp anh, chị, em ruột cần được giám hộ thì anh, chị, em đã thành niên có năng lực hành vi dân sự thoả thuận cử một người trong số họ có đủ điều kiện làm người giám hộ. 2. Khi quyết định các vấn đề liên quan đến nhân thân, tài sản của em chưa thành niên thì anh, chị là người giám hộ của em phải tham kho ý kiến của những người thân thích và ý kiến của em, nếu em từ đủ chín tuổi trở lên. Điều 84. Giám hộ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu 1. Trong trường hợp cháu cần được giám hộ mà ông bà nội, ông bà ngoại có đủ điều kiện làm người giám hộ thì những người này thoả thuận cử một bên làm người giám hộ. 2. Cháu có đủ điều kiện làm người giám hộ thì phải giám hộ cho ông bà nội, ông bà ngoại, nếu ông bà không có con phụng dưỡng.

CHƢƠNG X LY HÔN

Điều 85. Quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn 1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn. 2. Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn. Điều 86. Khuyến khích hoà giải ở cơ sở Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hoà giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hoà giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hoà giải ở cơ sở. Điều 87. Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn Toà án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật này. Điều 88. Hoà giải tại Toà án Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Toà án tiến hành hoà giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Điều 89. Căn cứ cho ly hôn

133

1. Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly hôn. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn. Điều 90. Thuận tình ly hôn Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định. Điều 91. Ly hôn theo yêu cầu của một bên Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành thì Toà án xem xét, giải quyết việc ly hôn. Điều 92. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dƣỡng con sau khi ly hôn 1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. 2. Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác. Điều 93. Thay đổi ngƣời trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên. Điều 94. Quyền thăm nom con sau khi ly hôn Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Điều 95. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn 1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. 2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây: a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch. 3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Điều 96. Chia tài sản trong trƣờng hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn 1. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thoả thuận với gia đình; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. 2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia. Điều 97. Chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn 1. Quyền sử dụng đất riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó. 2. Việc chia quyền sử dụng đất chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:

134

a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thoả thuận của hai bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định tại Điều 95 của Luật này. Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng; b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này; c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 95 của Luật này; d) Việc chia quyền sử dụng đối với các loại đất khác được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật dân sự. 3. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 96 của Luật này. Điều 98. Chia nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng có thể chia để sử dụng thì khi ly hôn được chia theo quy định tại Điều 95 của Luật này; nếu không thể chia được thì bên được tiếp tục sử dụng nhà ở phải thanh toán cho bên kia phần giá trị mà họ được hưởng. Điều 99. Giải quyết quyền lợi của vợ, chồng khi ly hôn trong trƣờng hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên đã được đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn, nhà ở đó vẫn thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà, nhưng phải thanh toán cho bên kia một phần giá trị nhà, căn cứ vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà.

CHƢƠNG XI QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI

Điều 100. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài 1. ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia. 2. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác. 3. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế. 4. Các quy định của Chương này cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. Điều 101. áp dụng pháp luật nƣớc ngoài đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài Trong trường hợp Luật này, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam có quy định hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia viện dẫn thì pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc quy định trong Luật này. Trong trường hợp pháp luật nước ngoài dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam. Điều 102. Thẩm quyền giải quyết các việc về hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài 1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam. Việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam do Chính phủ quy định. 2. Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện việc đăng ký kết hôn, giải quyết các việc về nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật này, các quy định khác có liên quan của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia, nếu việc đăng ký, giải quyết đó không trái với pháp luật của nướcơ sở tại; có trách nhiệm thực hiện việc bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. 3. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương huỷ việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố nước ngoài, xem xét việc công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.

135

Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam huỷ việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam. Điều 103. Kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài 1. Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn. 2. Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác. Điều 104. Ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài 1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật này. 2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam. 3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó. 4. Bản án, quyết định ly hôn của Toà án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài được công nhận tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 105. Nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài 1. Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của Luật này và quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi. Việc công dân Việt Nam nhận trẻ em là người nước ngoài làm con nuôi đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được công nhận tại Việt Nam. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác. 2. Trong trường hợp việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo quy định của Luật này. Trong trường hợp việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của con nuôi. Điều 106. Giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài 1. Việc giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam, việc giám hộ được đăng ký tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác cu pháp luật Việt Nam. 2. Trong trường hợp việc giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa người giám hộ và người được giám hộ được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của người giám hộ.

CHƢƠNG XII XỬ LÝ VI PHẠM

Điều 107. Xử lý vi phạm pháp luật trong quan hệ hôn nhân và gia đình Người nào vi phạm các điều kiện kết hôn; cản trở việc kết hôn đúng pháp luật; giả mạo giấy tờ để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi; hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh dự, nhân phẩm ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con và các thành viên khác trong gia đình; lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi; không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ giám hộ hoặc có các hành vi khác vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Điều 108. Xử lý vi phạm pháp luật của ngƣời có chức vụ, quyền hạn Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi, xác định cha, mẹ, con trái pháp luật; vi phạm thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi; không thực hiện yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình hoặc có các hành vi khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

136

CHƢƠNG XIII ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 109. Hiệu lực thi hành Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001. Luật này thay thế Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày 02 tháng 12 năm 1993 hết hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001. Điều 110. Hƣớng dẫn thi hành Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình hướng dẫn thi hành Luật này. Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000.

137