ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ

ĐOÀN THỊ MAI

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA

NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 5.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà nội, 2005

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ

ĐOÀN THỊ MAI

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA

NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 5.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THƯ

Hà nội, 2005

MỤC LỤC

Trang

1

Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Phần mở đầu Một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh

Chương 1

và kinh nghiệm quốc tế

1.1 Một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh 1.2 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng nông sản 1.3 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông

7 7 18 26

sản xuất khẩu ở các nước đang phát triển và các nước nghèo

1.4 Kinh nghiệm thực tế của một số nước trong việc nâng cao

29

Chương

45 47

năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Kết luận chương 1 Thực trạng năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam 2

2.1 Đặc điểm tự nhiên- kinh tế xã hội của Việt Nam 2.2 Tổng quan những thành tựu và hạn chế trong sản xuất và

xuất khẩu nông sản trong những năm Đổi mới

2.3 Thực trạng năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu

47 51 60

Việt Nam

2.4 Phân loại nông sản Việt Nam theo năng lực cạnh tranh

89 91 94

Chương 3

Kết luận chương 2 Những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam 3.1 Một số quan điểm nâng cao năng lực cạnh tranh của nông

sản xuất khẩu Việt Nam

3.2 Triển vọng xuất khẩu nông sản và những phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2005-2010 3.3 Những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh

94 100

105 126 127

của nông sản xuất khẩu Việt Nam Kết luận chương 3 Kết luận

129 134

Tài liệu tham khảo Phần phụ lục

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp tư nhân Hệ số nguồn lực nội địa Đồng bằng sông Cửu Long Đồng bằng sông Hồng Đơn vị tính Liên minh châu Âu Giá trị xuất khẩu Viện Nghiên cứu Chính sách lương thực Quốc tế Khoa học kỹ thuật Khoa học công nghệ Hợp tác xã Nông lâm nghiệp

ASEAN: AFTA: CEPT: CIEM: DNNN: DNTN: DRC: ĐBSCL: ĐBSH: ĐVT: EU: GTXK: IFPRI: KHKT: KHCN: HTX: NLN: NN&PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn NXB: NLCT: NSXK: SNG: TCTK: XKNS: XHCN: WB: WEF:

Nhà xuất bản Năng lực cạnh tranh Nông sản xuất khẩu Cộng động các quốc gia độc lập Tổng cục Thống kê Xuất khẩu nông sản Xã hội chủ nghĩa Ngân hàng Thế giới Diễn đàn kinh tế thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1: Giá trị sản lượng nông nghiệp

51

Bảng 2.2: Giá trị sản xuất nông nghiệp

52

Bảng 2.3: Kết quả sản xuất lúa giai đoạn từ 1995-2004

53

Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lượng một số nông sản xuất khẩu

54

Bảng 2.5: Giá trị xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 1995 - 2004

55

Bảng 2.6: Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực

62

Bảng 2.7: Một số chỉ tiêu so sánh về sản xuất lúa

62

Bảng 2.8: Năng suất cà phê của Việt Nam và thế giới

63

Bảng 2.9: Năng xuất cao su tự nhiên ở một số nước

64

Bảng 2.10: Chỉ số năng lực canh tranh về giá của nông sản xuất

84

khẩu Việt Nam trong giai đoạn 1995-2000

Bảng 2.11: Chỉ số DRC nông sản xuất khẩu Việt Nam từ 1995 - 2000

87

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cần thiết của đề tài

Nông nghiệp Việt Nam có vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát

triển kinh tế của đất nước. Đây là khu vực thu hút trên 70% lực lượng lao

động xã hội và đóng góp khoảng 22% GDP của đất nước. Sau hơn 15

năm thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp (từ khi

có nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 5 tháng 4 năm 1988), sản xuất

nông nghiệp và chế biến nông sản của Việt Nam đã đạt được những

thành tựu đáng khích lệ. Sản xuất nông nghiệp từ chỗ không đáp ứng

được nhu cầu trong nước, buộc Nhà nước phải nhập khẩu lương thực và

một số nông sản thiết yếu đến chỗ vươn lên dành vị trí cao trong xuất

khẩu gạo, cà phê, cao su và các mặt hàng nông sản khác trên thị trường

quốc tế.

Sự tăng nhanh về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu hàng nông

sản cũng như mở rộng thị trường xuất khẩu ra nhiều khu vực trên thế

giới chứng tỏ Việt Nam ngày càng tham gia rộng và sâu hơn vào thị

trường quốc tế. Là thành viên chính thức của ASEAN từ 28/7/1995, Việt

Nam đã tham gia các chương trình hợp tác về kinh tế với các nước trong

khối, trong đó có việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN

(AFTA), cam kết thực hiện đầy đủ việc cắt giảm thuế quan theo chương

trình CEPT/AFTA. Đây vừa là cơ hội to lớn cho Việt Nam để đẩy mạnh

xuất khẩu hàng hoá nhưng đồng thời cũng là những thách thức không

nhỏ đối với nước ta trong vấn đề đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ các

nước sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông sản tương tự như Việt

Nam và những đòi hỏi khắt khe của thị trường cả về giá cả, chất lượng,

mẫu mã và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong 10 nước

ASEAN có tới 5 nước (Thái Lan, Philippin, Inđônêxia, Malaixia và Việt

2

Nam) có điều kiện tự nhiên gần giống nhau, sản xuất nông nghiệp vẫn

đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có những mặt hàng nông sản

xuất khẩu gần giống nhau và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng xuất

khẩu trên thế giới như 45% lượng gạo xuất khẩu, 80% cao su tự nhiên

xuất khẩu, chiếm thị phần lớn trong xuất khẩu cà phê. Do vậy, đối với

những mặt hàng được coi là xuất khẩu chủ lực của mình, Việt Nam

không những khó có thể xuất khẩu sang các nước này mà còn phải cạnh

trạnh tranh gay gắt với chính một số nước ASEAN trong xuất khẩu gạo,

cà phê, cao su, hạt tiêu, thuỷ sản v.v...Vấn đề càng trở nên gay gắt một

khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại

quốc tế (có nhiều khả năng vào cuối năm 2005).

Hiện nay khi hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh chóng

và là xu hướng không thể đảo ngược, để đẩy nhanh được quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững của đất nước, chúng ta

không còn con đường nào khác ngoài việc phải nâng cao sức cạnh tranh

của nền kinh tế nói chung, của các mặt hàng nông sản nói riêng. Tuy

nhiên, làm thế nào để nâng cao được năng lực cạnh tranh cho hàng nông

sản xuất khẩu trong bối cảnh thị trường nông sản thế giới có nhiều biến

động, các nguồn lực sản xuất trong nước có hạn như đất đai bình quân

đầu người thấp, kỹ thuật sản xuất, chế biến lạc hậu, mức độ cơ giới hoá

sản xuất thấp, công nghệ sinh học chưa phát triển, một số yếu tố đầu vào

cho sản xuất lại lệ thuộc vào thị trường thế giới (phân bón, xăng dầu,

thuốc trừ sâu và một số sản phẩm để sản xuất thức ăn gia súc và thuốc

phòng bệnh gia súc v.v...) đang trở thành vấn đề có tính cấp bách trong

giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy mà đề tài nghiên cứu "Năng lực cạnh

tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam: Thực trạng và giải pháp" là

rất cần thiết và có tính thời sự.

3

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Liên quan đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm đặc biệt là

hàng nông sản ở Việt nam đã có những công trình nghiên cứu của các tác

giả trong và ngoài nước như:

1. TS. Đinh Văn Ân, (2003), "Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia",

NXB Giao thông vận tải, Hà Nội.

2. TS. Bùi Quốc Bảo, (11/2001), "Giá cả với vấn đề hội nhập của Việt Nam

trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,

Ban vật giá Chính phủ.

3. IFPRI (1996), “Giám sát thị trường gạo và nghiên cứu các lựa chọn chính

sách”.

4. TS. Nguyễn Đình Long,`(2000), "Phân tích sơ bộ Khả năng cạnh tranh

của ngành nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh ASEAN và AFTA",

Bộ NN và PTNN.

5. N. Minot, “Khả năng cạnh tranh của ngành chế biến lương thực của Việt

Nam’, IFPRI, 4/1998.

6. TS. Chu Tiến Quang, (2002), "Cơ sở khoa học của điều chỉnh cơ cấu sản

xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do

ASEAN- AFTA", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu

Quản lý kinh tế Trung ương.

7. Nguyễn Ngọc Quế, (2000), “Khả năng cạnh tranh của gạo Việt nam”, Bộ

NN và PTNN.

8. Lê Viết Thái, (2000), "Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng

chính sách cạnh tranh ở Việt Nam", NXB Lao động, Hà Nội.

4

9. Hội thảo quốc tế về Hội nhập kinh tế toàn cầu và tác động của nó tới

ngành nông nghiệp Việt Nam do Bộ NN&PTNT tổ chức vào tháng

3/2001.

Một số công trình khoa học nêu trên đã đưa ra các tiêu thức chuẩn

mực để đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia, còn vấn đề năng

lực cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam, mỗi công trình đánh giá

ở một góc độ khác nhau như chi phí sản xuất, chế biến, cơ sở hạ tầng,

marketing xuất khẩu v.v... và vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Có

một số ý kiến tại cuộc Hội thảo quốc tế về "Hội nhập kinh tế toàn cầu và

tác động của nó tới ngành nông nghiệp Việt Nam" do Bộ Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn tổ chức vào tháng 3 năm 2001, cho rằng điều

kiện sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt của Việt Nam thuận lợi,

giá nhân công rẻ, chi phí sản xuất thấp do vậy những nông sản xuất khẩu

của nước ta hoàn toàn có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới;

một số ý kiến khác (của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương,

Viện Nghiên cứu Khoa học Thị trường Giá cả, Trung tâm Khoa học Xã

hội và Nhân văn quốc gia) lại cho rằng điều kiện tự nhiên thuận lợi, giá

nhân công rẻ chỉ là những lợi thế tạm thời, trong khi đó cơ sở hạ tầng

của Việt Nam kém phát triển, chi phí dịch vụ cao, một số vật tư quan

trọng cho sản xuất nông nghiệp lại phụ thuộc vào thị trường thế giới,

kinh nghiệm buôn bán trên thị trường quốc tế kém làm cho nông sản

hàng hoá của Việt Nam khó có khả năng cạnh tranh một cách bền vững.

Tác giả luận văn hoàn toàn ủng hộ quan điểm thứ hai này và cho rằng

phải nhìn nhận năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất

phát từ khâu sản xuất, chế biến, kinh doanh và xuất khẩu, đặt năng lực

cạnh tranh của từng mặt hàng nông sản trong mối tương quan với năng

lực cạnh tranh của toàn nền kinh tế, của các mặt hàng khác trên quan

5

điểm tiếp cận nguồn lực sản xuất nông nghiệp là có hạn để từ đó đưa ra

các giải pháp nâng cao năng lực canh tranh cho hàng nông sản Việt Nam

một cách thích hợp.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

- Mục đích:

Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh, phân tích những nhân tố

thuận lợi và những nhân tố cản trở năng lực cạnh tranh để có căn cứ đề

xuất những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản xuất

khẩu của Việt Nam.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về lợi thế so sánh và năng lực

cạnh tranh của nông sản hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.

+ Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của

nông sản xuất khẩu Việt Nam, phát hiện những yếu tố có thể nâng cao

được năng lực cạnh tranh của các hàng hoá đó trong thời gian tới để phát

huy.

+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho

hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu

vực và quốc tế.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh và những nhân tố

ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt

Nam.

- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu một số mặt hàng nông sản xuất

khẩu tiêu biểu của Việt Nam (gạo, cà phê, cao su, chè, điều) trong phạm

vi cả nước từ năm 1990 lại đây; các giải pháp đề xuất cho đến năm 2010.

6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương

pháp nghiên cứu sau đây:

- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,

- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp và thống kê.

Đặc biệt luận văn có tham khảo và kế thừa những công trình khoa

học có liên quan, các báo cáo tổng kết của các bộ liên quan như Bộ Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,...

6. Những đóng góp của luận văn

Luận văn được thực hiện với mong muốn có những đóng góp chủ

yếu sau:

- Trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các tài liệu có liên quan, tác giả

muốn đóng góp vào việc hệ thống hóa và hoàn thiện các luận cứ khoa

học về năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam trong điều

kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập về kinh tế.

- Từ những số liệu thực tế, luận văn sẽ đi sâu phân tích, đánh giá

thực trạng năng lực cạnh tranh của một số hàng nông sản, rút ra những

kết luận về thành công, hạn chế và nguyên nhân đã ảnh hưởng tích cực

và tiêu cực tới năng lực cạnh tranh của những nông sản hàng hóa này.

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản, có tính khả thi

nhằm không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa nông sản

xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham

khảo, nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương:

Chương 1: Lý luận về cạnh tranh và kinh nghiệm của quốc tế

7

Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu

Việt Nam

Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh

của nông sản xuất khẩu Việt Nam.

8

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC

CẠNH TRANH

1.1.1 Cạnh tranh

Cạnh tranh là là một thuật ngữ với nghĩa chủ yếu là phản ánh sự

đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng loại, đồng giá trị

nhằm đạt được những ưu thế, những lợi ích theo mục tiêu xác định.

Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh

đua giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất

hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường {24,

tr.11]

Cạnh tranh sẽ đem lại lợi ích cho người này và sự thiệt hại cho

người khác, song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có

tác động tích cực (chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn...).

Trong quan hệ kinh tế cạnh tranh là sự đấu tranh giữa những chủ

thể trong việc thực hiện sản phẩm, dịch vụ nhằm chiếm lĩnh thị trường ở

mức cao nhất, giành điều kiện tiêu thụ có lợi nhất và tối đa hoá lợi

nhuận.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, khái niệm cạnh tranh

được hình dung như một cuộc ganh đua giữa hai hay nhiều cá nhân hoặc

tổ chức để giành thị phần trên thị trường (kể cả thị trường bán lẫn thị

trường mua).

Cạnh tranh là một xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Hiện

tượng cạnh tranh xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền

sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.

9

Trong nền sản xuất hàng hoá, qui luật giá trị là qui luật kinh tế cơ bản và

cạnh tranh lấy qui luật giá trị làm tiền đề. Tác động của qui luật giá trị

trong việc kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, đào thải cái lạc

hậu dựa trên cơ sở công bằng - đó là sự trao đổi ngang giá. Trong điều

kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các chủ thể kinh tế phải đua nhau đổi

mới khâu tổ chức quản lý (sản xuất, lưu thông phân phối), đua nhau cải

tiến kỹ thuật, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản

xuất để nâng cao năng suất lao động, giảm hao phí lao động cá biệt nhằm

thu lợi nhuận cao hơn các chủ thể kinh tế khác.

Có thể nói, để thắng được trong cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị

phần buộc các quốc gia, các doanh nghiệp, các ngành sản xuất sản phẩm

phải nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình

1.1.2 Năng lực cạnh tranh

Trong môi trường cạnh tranh, từng chủ thể kinh tế thể hiện vị thế

của mình so với các chủ thể khác. Vị thế đó, dựa trên những ưu thế nhất

định về các điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Sức cạnh tranh, khả

năng cạnh tranh, năng lực cạnh tranh đều phản ánh vị thế cạnh tranh của

các chủ thể kinh tế. Vị thế đó là những điều kiện để các chủ thể kinh tế

tham gia vào hoạt động cạnh tranh. Một chủ thể có sức cạnh tranh cao là

chủ thể có lợi thế, biết tạo ra những lợi thế để thu được lợi nhuận cao

hơn so với các chủ thể khác. Chủ thể đó cũng được coi là có khả năng

cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh cao. Vì vậy, có thể hiểu sức cạnh

tranh, năng lực cạnh tranh, khả năng cạnh tranh là những khái niệm đồng

nghĩa. Để xác định năng lực cạnh tranh hoặc khả năng cạnh tranh hay

sức cạnh tranh của một ngành kinh tế, của một đơn vị kinh doanh hoặc

của một sản phẩm người ta thường chọn ra một số tiêu thức như: thị

phần, tỷ lệ lợi nhuận trong một đơn vị sản phẩm. Những tiêu thức này

10

chỉ đánh giá trạng thái “tĩnh” vị trí của ngành (doanh nghiệp hoặc sản

phẩm) trong một thời điểm, trong khi đó cạnh tranh là một quá trình

mang tính “động”, vì vậy khi phân tích cạnh tranh, người ta thường bổ

sung vào một số yếu tố “động” khác như mức độ ứng dụng tiến bộ khoa

học công nghệ vào sản xuất, vòng đời của sản phẩm v.v... Trên cơ sở

phân tích này, các nhà kinh doanh có thể đưa ra những chiến lược kinh

doanh phù hợp với thị trường để duy trì và phát huy vị thế của mình trên

thị trường hoặc đưa ra những biện pháp phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra.

Năng lực cạnh tranh được phân biệt ở ba cấp độ, bao gồm năng lực

cạnh tranh quốc gia; năng lực cạnh tranh doanh nghiệp; năng lực cạnh

tranh của sản phẩm, dịch vụ.

- Năng lực cạnh tranh quốc gia là một khái niệm phức hợp, được

định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền

vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời

sống của người dân, chủ yếu nhờ khả năng nâng cấp công nghệ hoặc

bằng cách tự sáng tạo hoặc tiếp thu nhanh chóng và tích cực công nghệ

từ nước khác. [2,tr. 13-14]

Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) cho rằng, tính cạnh tranh của một

quốc gia là “năng lực của nền kinh tế nhằm đạt và duy trì được mức tăng

trưởng cao" trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và

các đặc trưng kinh tế khác. Theo WEF, khuôn khổ nội dung xác định

tính cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế bao gồm tám nhóm nhân tố: độ

mở cửa; chính phủ; tài chính; kết cầu hạ tầng; công nghệ; quản trị; lao

động; và thể chế. [2,tr.13-14]

Chỉ số chung đánh giá thứ hạng cạnh tranh của các quốc gia được

tính theo tỷ trọng của tám nhóm nhân tố trên. Mỗi nhóm nhân tố lại được

xem xét dựa trên các tiểu nhóm nhân tố. Tất cả có khoảng 250 chỉ số

11

định tính và định lượng được sử dụng để đánh giá tính cạnh tranh cấp

quốc gia. Tuy không được nhìn nhận riêng và thật đầy đủ trong quan

niệm của WEF, song sự ổn định kinh tế vĩ mô cũng là một nhóm nhân tố

quan trọng đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Các chỉ số quan

trọng nhất được dùng để đánh giá sự ổn định kinh tế vĩ mô là lạm phát,

lãi suất, tỉ giá hối đoái, thâm hụt tài chính và thâm hụt cán cân thanh toán

quốc tế.

Kể từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng về công nghệ thông

tin (IT) và những bước đột phá trong một loạt lĩnh vực như công nghệ

gen, y học, năng lượng, vật liệu mới,...đang đẩy nhanh quá trình chuyển

đổi từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên của kinh tế tri thức.

Ngày nay, lợi thế cạnh tranh truyền thống dựa trên tài nguyên thiên

nhiên và chi phí lao động thấp, tuy còn có giá trị, song mới chỉ là điểm

khởi đầu. Tri thức và kỹ năng đang trở thành một nhân tố then chốt đảm

bảo tính cạnh tranh cao.

- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các

đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. Thông

thường, người ta đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố nội tại của

doanh nghiệp như: qui mô; khả năng tham gia cạnh tranh và rút khỏi thị

trường; sản phẩm; năng lực quản lý; năng suất lao động; trình độ công

nghệ và lao động. Tuy nhiên, những khả năng này lại lại bị tác động

đồng thời bởi nhiều yếu tố bên ngoài như Nhà nước và các thể chế trung

gian.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy

trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi

trường cạnh tranh trong và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh

doanh một hay nhiều sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ, vì vậy người ta

12

còn phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh

tranh của sản phẩm, dịch vụ.

- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ được đo bằng thị phần

của sản phẩm hay dịch vụ đó trên thị trường. Một sản phẩm, dịch vụ

được coi là có năng lực cạnh tranh cao khi giá thành sản xuất thấp, qui

mô cung ứng, tính độc đáo của sản phẩm và dịch vụ được người tiêu

dùng chấp nhận thể hiện ở thị phần của sản phẩm đó trên thị trường vượt

trội so với các sản phẩm tương tự của các đối thủ cạnh tranh. Đối với

hàng hoá nông sản thực phẩm, để đánh giá năng lực cạnh tranh ngoài các

chỉ tiêu trên người ta còn phải quan tâm đến các yếu tố như độ an toàn về

thực phẩm, xuất xứ, hương vị đặc trưng của sản phẩm.

Năng lực cạnh tranh của một sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi

thế so sánh của nó. Lợi thế so sánh lại được đánh giá theo nhiều tiêu thức

khác nhau. Quan niệm cổ điển đều xuất phát từ việc so sánh các yếu tố

cấu thành nên sản phẩm (vốn, lao động, nguyên liệu và vì vậy là chi phí,

giá thành và giá cả). Tuy nhiên, quan niệm về lợi thế so sánh hiện nay đã

có nhiều thay đổi.

Năng lực cạnh tranh ở ba cấp độ đó có mối quan hệ qua lại mật

thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau.

Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh

nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh

nghiệp có năng lực cạnh tranh, các điều kiện, tiền đề kinh doanh của nền

kinh tế phải thuận lợi để các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Năng

lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua chiến lược kinh doanh của

doanh nghiệp, đồng thời thể hiện thông qua năng lực cạnh tranh của các

sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh. Ngược

13

lại, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ phụ thuộc vào năng lực

cạnh tranh quốc gia và năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp.

Nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm là khắc phục những

trở ngại làm giảm sức cạnh tranh và hoàn thiện những nhân tố làm tăng

tính trội của nó làm cho thị phần của nó tăng lên so với thị phần của đối

thủ của nó.

Để nâng cao được năng lực cạnh tranh mỗi quốc gia, doanh nghiệp

và ngành sản xuất sản phẩm thường dựa vào lợi thế tuyệt đối, lợi thế so

sánh và lợi thế cạnh tranh.

Trong khuôn khổ của luận văn này tác giả xin chỉ đi sâu nghiên cứu

năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nền tảng để phân tích năng lực cạnh

tranh sản phẩm của một nước đối với các nước khác dựa trên lý thuyết

lợi thế tuyệt đối, lợi thế tương đối và lợi thế cạnh tranh

1.1.3 Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của hàng hoá

Mỗi đất nước chỉ có những nguồn lực nhất định, nguồn lực luôn

luôn gắn liền với sự khan hiếm. Để sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch

vụ nào đó với số lượng bao nhiêu, nhiều hay ít mỗi quốc gia phải có sự

lựa chọn sử dụng và phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý dựa trên cơ

sở lý thuyết đường giới hạn khả năng sản xuất. Xét dưới góc độ hiệu quả

kinh tế, đương nhiên các quốc gia sẽ lựa chọn sản xuất những sản phẩm

lợi thế so sánh cao nhất, thông qua trao đổi thương mại quốc tế họ sẽ tận

dụng và phát huy được các lợi thế sẵn có và tiết kiệm được nguồn lực,

nâng cao hiệu quả kinh tế.

Từ thế kỷ 18 các nhà kinh tế học người Anh là Adam Smith và

David Ricardo đã đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh.

Đến nay, lý thuyết này vẫn được coi là lý thuyết nền tảng của thương

mại quốc tế. Trong khi đó, lợi thế cạnh tranh được xem như là những

14

vấn đề có tính chiến lược và sách lược của từng quốc gia, để phát huy

các yếu tố về lợi thế tuyệt đối và so sánh trong việc nâng cao năng lực

cạnh tranh của quốc gia cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất

khẩu trong mỗi quốc gia.

Lợi thế tuyệt đối là khái niệm chỉ sự trội hơn về lượng tuyệt đối của

1.1.3.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa vào lợi thế tuyệt đối

nước này so với nước khác về một loại sản phẩm nào đó dựa trên chất

lượng của các nhân tố đầu vào của sản xuất tốt hơn. Các nhà kinh tế học

cổ điển đã cho rằng lợi thế tuyệt đối là cơ sở để các nước phát triển các

ngành sản xuất chuyên môn hoá. Theo quan điểm này, quốc gia nào nào

có đất tốt thì chuyên môn hoá vào ngành trồng trọt và mua hàng công

nghiệp của các quốc gia khác. Ngược lại, nước nào có nhiều tài nguyên

khoáng sản thì nên phát triển công nghiệp và mua nông sản của các nước

khác [10, tr.358].

Adam Smith cho rằng, ở mỗi một quốc gia đều có những nguồn lực

và tài nguyên sẵn có như: đội ngũ lao động, nguồn vốn, đất đai, công

nghệ và truyền thống sản xuất kinh doanh. Theo Ông, "Những lợi thế tự

nhiên mà một nước có được đối với một nước khác trong việc sản xuất

các mặt hàng nào đó đôi khi lớn tới mức mà mọi người trên thế giới đều

công nhận là phí công vô ích khi cạnh tranh với họ về mặt hàng này [23,

tr. 652-653].

Như vậy, sự chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi sản phẩm dựa vào

lợi thế tuyệt đối sẽ đem lại lợi ích cho hai nước, do đó việc xác định

đúng những ngành, sản phẩm mà quốc gia có lợi thế tuyệt đối để khai

thác, sản xuất và xuất khẩu cũng góp phần quan trọng trong việc nâng

cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu và cuối cùng là thúc đẩy

kinh tế phát triển.

15

Tuy nhiên, lợi dụng lợi thế tuyệt đối cũng chỉ là một trong những

vấn đề cần quan tâm để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá và

thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá. Bởi vì lợi thế tuyệt đối chỉ mang tính tạm

thời. Lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần của thương mại quốc

tế. Điều đó ngày càng được thể hiện rõ trong thực tế, có nhiều quốc gia

không có những thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên hay các nguồn lực

khác nhưng sản phẩm cùng loại của họ làm ra vẫn có sức cạnh tranh trên

thị trường thế giới nhờ những tiến bộ vượt bậc về khoa học công nghệ

làm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm... Chính vì vậy mà

thương mại quốc tế trong các nước phát triển không thể được giải thích

chỉ bằng lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Do sự hạn chế của lý thuyết về lợi

thế tuyệt đối và sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế nên lý

thuyết lợi thế tương đối hay còn gọi lợi thế so sánh đã ra đời.

1.1.3.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa vào lợi thế so sánh

Khác với lợi thế tuyệt đối nảy sinh từ sự khác biệt của giá thành và

chi phí sản xuất thực tế, lợi thế so sánh có được từ sự khác biệt về chi phí

cơ hội. Sự khác biệt về chi phí cơ hội là do các nước có sự khác nhau về

kỹ thuật công nghệ hoặc năng suất lao động trong việc sản xuất cùng

một loại sản phẩm.

Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng những mặt hàng khác

mà người ta phải từ bỏ để làm ra thêm một đơn vị mặt hàng đó

[5,tr.326]. Chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối để làm ra các mặt

hàng là khác nhau ở những nước khác nhau. Theo nhà kinh tế học David

Ricardo, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác

trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể

tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích. Trong quá trình tham

gia thương mại quốc tế, quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất

16

khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương đối thấp hơn so với

các nước khác [5,tr.327].

Song sự hạn chế ở mô hình David Ricardo là ông đã dựa trên hàng

loạt các giả thiết, đơn giản hoá lý thuyết về giá trị lao động, để chứng

minh cho qui luật này. Trên thực tế lao động không phải là đồng nhất,

những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau, với mức lương

khác nhau. Hơn nữa hàng hoá làm ra không chỉ do lao động mà còn

nhiều yếu tố khác như đất, vốn, khoa học, công nghệ... chính là sự khác

biệt về nguồn lực giữa các nước, đồng thời mô hình Ricardo cũng bỏ qua

vai trò lợi thế về qui mô. Chính vì vậy lý thuyết này đã được nhiều nhà

kinh tế học nghiên cứu và phát triển trên nhiều mô hình về các yếu tố

chuyên biệt như quan điểm của G.Haberler và Heckscher- Ohlin ...về lợi

thế so sánh.

Tuy còn những hạn chế về lý luận trước thực tiễn phát triển phức

tạp của hoạt động thương mại quốc tế ngày nay, nhưng lý thuyết về lợi

thế tuyệt đối và tương đối vẫn đang chi phối động thái phát triển của

thương mại quốc tế. Các quốc gia đang mở rộng các mối quan hệ buôn

bán và trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nhau, nhằm phát huy lợi thế về các

nguồn lực sản xuất như vốn, khoa học công nghệ, lao động để sản xuất,

xuất khẩu các loại hàng hoá, dịch vụ có lợi thế nhất, nhằm thu được lợi

ích thương mại cao nhất, góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế.

Như vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá, cần phải

khai thác theo cả hai hướng. Hướng thứ nhất là, dựa vào lợi thế sẵn có

như lao động, tài nguyên, vị trí địa lý... Hướng thứ hai là, dựa vào các lợi

thế có được nhờ nâng cao năng lực trong việc tăng năng suất lao động,

cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh, hợp lý hoá qui trình sản xuất.

Hướng thứ nhất có tính thụ động hơn và chỉ có tác dụng trong ngắn hạn,

17

còn hướng thứ hai chủ động hơn và có tác dụng lâu dài hơn. Vì vậy,

muốn nâng cao năng lực cạnh tranh một cách bền vững cho hàng nông

sản xuất khẩu cần chú trọng nhiều hơn tới hướng thứ hai bằng cách tạo

môi trường thuận lợi để thúc đẩy các chủ thể sản xuất kinh doanh áp

dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm tăng năng suất

lao động, tăng chất lượng hàng hoá và giảm giá thành sản phẩm.

1.1.3.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên lợi thế cạnh tranh

Hội nhập và tự do hoá thương mại vừa tạo tiền đề cho sự phát triển

kinh tế, vừa là những thách thức trước sự cạnh tranh của các nền kinh tế.

Để đảm bảo sự hội nhập có hiệu quả, các quốc gia cần phải xác định rõ

được các yếu tố thuận lợi và bất lợi trong quá trình phát triển như: vị trí

địa lý; sự ổn định chính trị; nguồn lao động (số lượng, chất lượng và tiền

lương); tài nguyên thiên nhiên; khoa học và công nghệ... Đây là những

yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế của một quốc gia nó i chung,

trong phát triển nông nghiệp nói riêng. Trên cơ sở xác định chính xác các

lợi thế, cần phối hợp, phát huy và sử dụng các lợi thế này một cách đầy

đủ nhằm tạo ra “lợi thế mới có sức tổng hợp cao”.

Trong kinh tế thị trường, khai thác lợi thế tuyệt đối và lợi thế so

sánh đã khó, nhưng khai thác lợi thế cạnh tranh càng khó hơn. Đương

nhiên, những yếu tố về lợi thế chi phí thấp là rất quan trọng và có tính

quyết định, song cũng chỉ mới là tiền đề của lợi thế cạnh tranh. Các

doanh nghiệp có thể có được lợi thế cạnh tranh nếu họ sử dụng các nhân

tố đầu vào cho sản xuất có chi phí thấp. Tuy nhiên, có những trường hợp

sự dồi dào về nhân tố sản xuất lại làm giảm lợi thế cạnh tranh nếu như

chúng không được phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Chẳng hạn,

sự dồi dào về tài nguyên thiên nhiên hay nguồn lao động lại có thể giảm

động lực phát minh, sáng chế công nghệ sử dụng tiết kiệm các nguồn tài

18

nguyên này. Lợi thế cạnh tranh có được là do tác động của con người tạo

ra và nó có tính bền vững hơn.

Như vậy, không phải lợi thế so sánh nào cũng trở thành lợi thế

cạnh tranh và cũng không có nghĩa lợi thế cạnh tranh nào cũng là lợi thế

so sánh. Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh không bao hàm lẫn nhau,

nhưng không đối lập nhau, mà có sự tác động qua lại, vừa là tiền đề vừa

là điều kiện cho nhau trong phát triển.

Ở cấp doanh nghiệp, lợi thế cạnh tranh được thể hiện ở chi phí thấp

hoặc ở tính chất độc đáo, phân biệt với các sản phẩm khác (bằng chất

lượng, tính năng sản phẩm, các dịch vụ sau bán hàng). Lợi thế cạnh tranh

của doanh nghiệp có thể xuất hiện ở bất kỳ khâu nào trong quá trình sản

xuất, kinh doanh bao gồm các hoạt động cơ bản (hoạt động cung ứng

đầu vào của sản xuất, hoạt động sản xuất, cung ứng đầu ra, tiếp thị, dịch

vụ sau bán hàng) và các hoạt động phụ trợ (cơ sở hạ tầng của doanh

nghiệp, quản lý nguồn nhân lực, phát triển công nghệ). Doanh nghiệp

phối hợp các hoạt động trên để tạo ra lợi thế về chi phí sản xuất hoặc tính

chất độc đáo của sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các

sản phẩm của mình.

1.1.4 Các nhân tố hình thành năng lực cạnh tranh của hàng

nông sản

Tính cạnh tranh của một sản phẩm trên thị trường phụ thuộc vào

hai nhóm nhân tố cơ bản đó là nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố

khách quan.

Nhóm nhân tố chủ quan bao gồm tất cả những nhân tố tạo ra sự

hấp dẫn của sản phẩm đối với khách hàng như chất lượng, mẫu mã, giá

cả và sự thuận tiện trong tiêu dùng .v.v.

19

Nhóm nhân tố khách quan bao gồm những nhân tố làm thay đổi

quan hệ cung - cầu trên thị trường tại các thời điểm khác nhau, trong

nhóm này có cả những tác nhân ngẫu nhiên trong quá trình sản xuất như

thiên tai, mất mùa, sự khủng hoảng, khan hiếm về các nguồn đầu vào

cho sản xuất nào đó, sự thay đổi đột biến của công nghệ sản xuất và các

tác nhân dẫn đến thay đổi trong tiêu dùng (nhu cầu) của khách hàng về

một loại sản phẩm hàng hoá nào đó.

Việc nghiên cứu kỹ các nhân tố trong hai nhóm này trước khi đầu

tư sản xuất sẽ quyết định việc nhà sản xuất đưa ra thị trường sản phẩm

có năng lực cạnh tranh cao hay thấp. Điều đó có nghĩa là năng lực cạnh

tranh của từng sản phẩm cụ thể tuỳ thuộc vào mức độ hiểu biết và dự

đoán của nhà sản xuất về thị trường sản phẩm đó. Đây chính là thách

thức đối với mỗi nhà sản xuất trong kinh tế thị trường, nếu sản xuất mà

không nghiên cứu thị trường thì có thể coi là hành vi sản xuất “liều lĩnh”

mang nhiều rủi ro, thiếu sự đảm bảo thành công.

1.2 CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA

HÀNG NÔNG SẢN

Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ

nào đó trên thị trường trong nước và quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt

hay tính hơn hẳn của nó cả về định tính và định lượng với các chỉ tiêu

như: chất lượng sản phẩm, mức độ vệ sinh công nghiệp hay vệ sinh thực

phẩm; khối lượng; kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm; thương hiệu sản phẩm;

môi trường kinh tế vĩ mô, các chính sách thương mại, thuế, tỷ giá, tín

dụng, đầu tư, mức độ bảo hộ... và cuối cùng là chỉ tiêu về giá thành và

giá cả sản xuất.

Về mặt lý thuyết, để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm

người ta thường căn cứ trên các chỉ tiêu định tính và định lượng.

20

1.2.1 Nhóm chỉ tiêu định tính

Nhóm chỉ tiêu này bao gồm qui mô cung ứng và khả năng cung ứng

sản phẩm, chất lượng sản phẩm, kiểu dáng mẫu mã, thương hiệu, xúc

tiến thương mại và môi trường kinh doanh.

1.2.1.1 Qui mô, khối lượng và khả năng cung ứng sản phẩm

Qui mô cung ứng của sản phẩm là khả năng cung ứng sản phẩm về

khối lượng, tính ổn định trong cung ứng, thời gian cung ứng. Hiện nay,

năng lực về qui mô cung ứng cũng được các đối thủ cạnh tranh rất coi

trọng. Với khối lượng cung ứng lớn, khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng

của khách hàng trong mọi thời gian, mọi địa điểm là một ưu thế lớn để

mặc cả trong giao dịch thương mại. Một nước thậm chí hàng hoá nông

sản có chất lượng cao, giá rẻ hơn nhiều so với các nước khác nhưng khối

lượng cung cấp quá nhỏ thì quốc gia này cũng không thể có năng lực

cạnh tranh về mặt hàng đó.

Khả năng đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường về số lượng,

chất lượng và thời gian cung ứng cũng là yếu tố quan trọng nâng cao

năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đối với nông sản, để đảm bảo khả

năng này cần phải có cơ sở hạ tầng tốt để bảo quản, chế biến và vận

chuyển kịp thời nhằm giữ được chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và giảm

tỷ lệ hao hụt trong các công đoạn trên và phải có hệ thống phân phối hợp

lý đáp ứng được yêu cầu của người mua cả về thời gian và địa điểm.

1.2.1.2 Chất lượng sản phẩm

Chất lượng sản phẩm là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thoả

mãn nhu cầu đối với người tiêu dùng. Những yếu tố cấu thành chất

lượng hàng hoá ảnh hưởng mạnh mẽ đến quyết định của người mua là sự

tiện lợi trong tiêu dùng và an toàn cho người sử dụng, vẻ đẹp của hàng

hoá, phù hợp thị hiếu và văn hoá của mỗi dân tộc, thậm chí mỗi tôn giáo.

21

Do đó, chất lượng hàng hoá được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu biểu

hiện năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Ngày nay, người mua có xu

hướng lựa chọn hàng hoá có chất lượng cao hơn là hàng hoá có giá rẻ. Vì

vậy, chất lượng hàng hoá được các doanh nghiệp sử dụng như là công cụ

đầu tiên và quan trọng nhất để thắng các đối thủ cạnh tranh.

1.2.1.3 Kiểu dáng và mẫu mã sản phẩm

Kiểu cách, mẫu mã của hàng hoá đóng vai trò rất quan trọng trong

việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá trên thị trường. Kiểu

cách, mẫu mã của hàng hoá phải phù hợp với từng thị trường tức là phù

hợp với tâm lý, tập quán tiêu dùng của mỗi khu vực, mỗi quốc gia, vùng

lãnh thổ, mỗi dân tộc, mỗi bộ phận khách hàng khác nhau. Ngoài ra mẫu

mã, kiểu cách của hàng hoá còn phải phù hợp với sở thích mỗi lứa tuổi

khác nhau của khách hàng.

Việc nghiên cứu kỹ lưỡng để có mẫu mã hàng hoá phù hợp với tâm

lý, sở thích, thị hiếu của khách hàng đóng vai trò quan trọng trong việc

nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

1.2.1.4 Thương hiệu của sản phẩm và xúc tiến thương mại

Thương hiệu, theo định nghĩa của Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ là

"một cái tên, từ ngữ, ký hiệu, biểu tượng hoặc hình vẽ kiểu thiết

kế,...hoặc tập hợp các yếu tố trên nhằm xác định và phân biệt hàng hoá

hoặc dịch vụ của một người bán hoặc nhóm người bán với hàng hoá và

dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh"[9, tr17].

Thương hiệu của sản phẩm được coi là tài sản vô hình có giá trị của

doanh nghiệp hay một quốc gia trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và

hội nhập. Thương hiệu thể hiện uy tín, đặc trưng hàng hoá, biểu tượng

hay hình ảnh của doanh nghiệp. Do vậy, sản phẩm hàng hoá khi đã có

thương hiệu và được người tiêu dùng tín nhiệm thì doanh nghiệp kinh

22

doanh những sản phẩm đó sẽ có cơ hội mở rộng thị phần và có lợi thế tốt

hơn trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để mở rộng qui mô

sản xuất.

Xúc tiến thương mại là hoạt động của doanh nghiệp tác động trực

tiếp hoặc gián tiếp đến tốc độ lưu thông hàng hoá, thu hút sự quan tâm

của người tiêu dùng, tăng thị phần cho hàng hoá nhằm hỗ trợ cho việc

nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Các hoạt động xúc tiến

thương mại bao gồm:

- Các hoạt động thu thập và phân tích thông tin của các cơ quan đại

diện chính phủ ở nước ngoài, các cơ quan nghiên cứu tầm cỡ quốc gia.

- Xây dựng chiến lược phối hợp quốc gia, chính sách thương mại

trong việc tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ như

chính sách thuế, chương trình tín dụng, hỗ trợ thông tin cho doanh

nghiệp trong việc tìm kiếm khách hàng, khuyến khích và ưu đãi đầu tư ra

nước ngoài...

- Các hoạt động thu thập và phân tích thông tin của các doanh

nghiệp.

- Lựa chọn chiến lược, kỹ thuật phù hợp với từng loại hàng hoá để

áp dụng vào công tác tiếp thị như quảng cáo, phân phối tài liệu, hội chợ,

khuyến mãi...nhằm tăng thị phần của hàng hoá.

1.2.1.5 Môi trường kinh doanh

Môi trường kinh doanh có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nói đến

môi trường kinh doanh của một nước là phải nói đến hệ thống pháp luật

và chính sách của nước đó. Sự gia nhập và rút lui dễ dàng khỏi thị

trường của doanh nghiệp là một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá

sự thông thoáng của môi trường kinh doanh. Các yếu tố xã hội như: an

23

ninh trật tự cũng có ảnh hưởng mạnh đến môi trường kinh doanh. Ngoài

ra các yếu tố về văn hoá, phong tục tập quán...cũng là những yếu tố

không thể thiếu được khi xem xét môi trường kinh doanh của một nước.

Thực tế cho thấy, năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu

ra thị trường thế giới không chỉ đơn thuần do doanh nghiệp tạo ra. Để

chiếm lĩnh được thị trường thế giới cần có môi trường kinh doanh thông

thoáng do Nhà nước tạo ra, hỗ trợ cho doanh nghiệp nâng cao năng lực

cạnh tranh của hàng hoá. Để tạo ra môi trường kinh doanh, Nhà nước

thường sử dụng các luật và chính sách về thương mại, thuế, lãi suất, tỷ

giá nhằm mục tiêu giảm chi phí sản xuất, sử dụng việc chi ngân sách cho

đầu tư nghiên cứu khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, xây

dựng kết cấu hạ tầng, bằng sử dụng hệ thống luật pháp, chính sách, cơ

chế điều chỉnh quan hệ kinh doanh và điều chỉnh việc gia nhập cũng như

rút lui khỏi thị trưòng.

Trong quá trình tự do hoá thương mại, các quốc gia thường sử dụng

các công cụ bảo hộ khác nhau để đảm bảo cho hàng hoá của mình có đủ

năng lực cạnh tranh không chỉ trong nước mà cả ngoài nước, trong đó

chính sách tài chính, tiền tệ có vai trò đặc biệt quan trọng. Các công cụ

thường được các nước sử dụng là thuế xuất- nhập khẩu hàng hoá, chính

sách tỷ giá hối đoái.

Việc sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái để điều chỉnh hoạt động xuất

nhập khẩu là vô cùng quan trọng. Duy trì tỷ giá theo hướng đề cao giá trị

đồng nội tệ sẽ có tác dụng khuyến khích nhập khẩu. Ngược lại, thực hiện

tỷ giá theo hướng hạ thấp giá trị đồng nội tệ sẽ khuyến khích việc xuất

khẩu, tăng năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường thế

giới.

24

Đối với hàng hoá nông sản ngoài những yếu tố kể trên còn có tác

động của yếu tố tự nhiên khiến cho chính bản thân hàng hoá tạo nên sức

cạnh tranh của nó, đó là những sản phẩm được nuôi trồng trong điều kiện

tự nhiên, thích hợp với đất đai thổ nhưỡng. Bởi vì, sản xuất nông nghiệp

chịu ảnh hưởng rất nhiều vào yếu tố tự nhiên như đất đai, khí hậu, nhiệt

độ, ánh sáng v.v...Chính những điều kiện tự nhiên này là một trong

những yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất, chất lượng cũng như

tính đặc trưng của sản phẩm.

Đối với nông sản xuất khẩu, ngoài yêu cầu chất lượng, hình thức,

bao bì....có tính vượt trội so với hàng hoá khác cùng loại trên thị trường,

và phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng, còn có thêm yếu tố sạch do

người tiêu dùng yêu cầu.

1.2.2 Nhóm chỉ tiêu định lƣợng

Nhóm chỉ tiêu này gồm hệ số chi phí nguồn tài nguyên nội địa

(DRC), hệ số đo sức cạnh tranh về giá (Ci) và so sánh chi phí sản xuất và

giá thành. Hệ số DRC do tác giả Golexbi thuộc Viện Chính sách lương

thực thế giới đưa ra để tính toán chi phí tài nguyên nội địa và lượng hoá

năng lực cạnh tranh của hàng hoá. Hệ số Ci được tác giả J. Quiroz và A.

Valdes - Viện Chính sách lương thực thế giới đưa ra năm 1993 để đo

lường năng lực cạnh tranh về giá của các sản phẩm nông nghiệp. Các hệ

số này cũng được các nhà nghiên cứu kinh tế của Viện kinh tế nông

nghiệp và Viện Kinh tế, Trung tâm khoa học và nhân văn quốc gia Việt

Nam sử dụng để tính năng lực cạnh tranh của sản phẩm.

1.2.2.1 Hệ số chi phí tài nguyên nội địa (DRC)

n

j=k+1 aij pj

Hệ số này được tính theo công thức sau:

25

k

DRC =

i -

j=1 aij pb

j

pb

Trong đó:

- j = 1,2..., k là đầu vào khả thương

- j = k+1, ..., n là nguồn lực nội địa và các đầu vào trung gian

- aij là hệ số chi phí đầu vào j đối với sản phẩm thứ i

i là giá biên giới của sản phẩm khả thương tính theo tỷ giá hối

- pj là giá kinh tế của nguồn lực nội địa và đầu vào trung gian - pb

đoái kinh tế

j là giá biên giới của của các đầu vào khả thương tính theo tỷ

- pb

giá hối đoái kinh tế

j=k+1 aij pj] chỉ ra tổng các nguồn lực nội địa (kể cả khả

Tử số [ n

thương và bất khả thương) được huy động để sản xuất ra và xuất khẩu 1

k

i -

j=1 aij pb

đơn vị hàng hoá của một nước.

j] là giá trị ròng thu được qua xuất khẩu

Mẫu số[pb

(nguồn lợi ròng mang lại khi xuất khẩu) 1 đơn vị hàng hoá (qui ra nội

tệ).

Hệ số DRC cho biết hiệu quả sử dụng các nguồn lực nội địa để tạo

ra giá trị xuất khẩu ròng. Nói cách khác, DRC cho phép xác định hiệu

quả sử dụng nguồn tài nguyên nội địa để sản xuất hàng xuất khẩu. Dựa

vào hệ số này người ta sẽ lựa chọn và quyết định sản xuất loại hàng hoá

nào để xuất khẩu sẽ có lợi hơn, qua việc tính toán chi phí sản xuất ra

hàng hoá đó thấp hơn chi phí sản xuất loại hàng hoá khác (để xuất khẩu)

nhưng thu về cùng một lượng ngoại tệ qui đổi.

Nếu DRC = 1 có nghĩa là chi phí trong nước quy đổi ra ngoại tệ và

giá trị sản phẩm tính bằng ngoại tệ bằng 0, có nghĩa sản xuất đó không

26

đem về ngoại tệ, không có hiệu quả thương mại (chi phí nguồn lực trong

nước quá lớn).

Nếu DRC < 1 thì sản xuất đó có hiệu quả, thu được ngoại tệ, sản

xuất với mức chi phí tài nguyên nội địa nhỏ hơn. DRC càng tiến về 0 thì

sản xuất và xuất khẩu loại hàng hoá đó càng có hiệu quả.

Trong sản xuất nông nghiệp, hệ số DRC cho phép so sánh hiệu quả

sản xuất nông sản xuất khẩu trên cùng một đơn vị diện tích.

1.2.2.2 Hệ số đo sức cạnh tranh về giá Ci:

Hệ số đo sức cạnh tranh về giá Ci là chỉ số biểu hiện năng lực cạnh

tranh về giá của sản phẩm được biểu thị qua công thức sau:

hay Ci = (EP*

iTiMi)/ (EP*

fTfMf)w

Ci = Pi/(Pf)w

Trong đó:

- Pi và Pf là giá cánh kéo của sản phẩm đầu ra i và của đầu vào

trung gian f (đối với ngành trồng trọt lấy phân bón làm đại diện) của một

quốc gia,

- w là tỉ lệ chi phí của đầu vào trung gian trong tổng giá trị sản

phẩm đầu ra,

- P*i và P*f là giá cánh kéo quốc tế của sản phẩm đầu ra i và của

đầu vào trung gian f,

- E là tỉ giá hối đoái thực,

- T và M là hệ số bảo hộ danh nghĩa và hệ số chi phí thương mại.

Hệ số đo sức cạnh tranh về giá thường được biểu hiện dưới dạng

chỉ số như sau: Ci,t = Ci,t-1(1 + Pi,t - w Pf,t)

Trong đó: là tỉ lệ tăng/giảm từ năm t-1 đến năm t

Các yếu tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh về giá của một mặt hàng

(như tỉ giá hối đoái, giá cả quốc tế và các chính sách thương mại) có thể

được xác định dựa trên công thức sau:

27

Ci = (1-w) E + ( Pi*- w Pf*) + [( Ti - w Tf) + ( Mi -

w Mf)]

1.2.2.3 So sánh chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cùng

loại giữa các nhà sản xuất

Giá thành sản phẩm biểu hiện những chi phí của các yếu tố đầu vào,

trong điều kiện cụ thể của một nước so với thế giới, để xác định các lợi

thế so sánh trong sản xuất.

Giá cả thường được thể hiện trong hoạt động lưu thông và trao đổi,

nhằm so sánh giá trị quốc tế về hàng hoá của quốc gia so với thế giới,

tuy nhiên nó phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ tỷ giá hối đoái, quan hệ

giữa hàng ngoại thương, phi ngoại thương và hệ thống chính sách thuế,

đầu tư của từng quốc gia. Giá cả nông sản của một quốc gia càng rẻ (các

điều kiện khác tương tự), quốc gia đó càng có năng lực cạnh tranh.

Do những điều kiện khác nhau về điều kiện tự nhiên mà sản xuất

nông nghiệp ở các nước trên thế giới có các mức chi phí rất khác nhau.

Ngoài ra, giá cả các vật tư, dịch vụ đầu vào cũng rất khác nhau do khả

năng tự sản xuất hay phải nhập khẩu. Tất cả những yếu tố này đã tạo ra

mức giá sản xuất cá biệt của các sản phẩm trồng trọt hay chăn nuôi của

một quốc gia so với các sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác trên

thế giới.

Như vậy, việc so sánh giá thành sản xuất (chi phí) để làm ra sản

phẩm giữa các nước cùng sản xuất trong điều kiện tự do hoá thương mại,

loại trừ các rào cản xuất nhập khẩu sẽ giúp xác định năng lực cạnh tranh

của sản phẩm nước này với nước khác. Quy luật chung là giá thành sản

xuất càng thấp (các điều kiện khác tương tự) thì năng lực cạnh tranh của

sản phẩm càng cao và ngược lại, nếu chi phí sản xuất cao sẽ làm giảm

28

năng lực cạnh tranh của sản phẩm do nhu cầu có khả năng thanh toán đối

với hàng hoá đó giảm.

1.3 SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH

CHO HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU Ở CÁC NƢỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

VÀ CÁC NƢỚC NGHÈO

Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành một xu thế tất yếu

đối với mọi quốc gia. Cơ sở hình thành xu thế này không chỉ dựa trên ý

muốn chủ quan của chính phủ mỗi nước mà đó còn là hệ quả của quá

trình phát triển khoa học, công nghệ, sự bành trướng của các công ty, sự

liên kết và hợp tác giữa các quốc gia trên cơ sở lợi thế so sánh của họ.

Cạnh tranh cũng vì thế mà diễn ra gay gắt hơn giữa các nước trong việc

bảo hộ thị trường trong nước và chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Do đó,

các quốc gia muốn chiến thắng trong cạnh tranh, mở rộng được thị phần

cho hàng hoá của mình trên thị trường quốc tế buộc phải chú trọng tới

việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá do họ sản xuất và xuất

khẩu.

Trong xu thế này các nước đang phát triển và các nước nghèo càng

cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu

bởi lẽ:

Một là, sản lượng nông sản hiện nay trên thế giới chủ yếu được

cung cấp bởi những nước đang phát triển và những nước kém phát triển.

Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp nói chung, xuất khẩu nông sản nói riêng

đang chiếm vị trí quan trọng trong thu nhập quốc dân, là nguồn thu ngoại

tệ quan trọng của nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Nông nghiệp, nông thôn là nơi thu hút được lực lượng lao động đông đảo

của các nước đang phát triển, nhưng chủ yếu là lao động giản đơn ít qua

29

đào tạo. Năng suất lao động trong nông nghiệp của các nước này thua

kém xa so với các nước phát triển.

Hai là, xuất khẩu nông sản trước đây của các nước đang phát triển

chủ yếu chỉ mới dựa trên lợi thế so sánh về nguồn lao động rẻ và điều

kiện tự nhiên về đất đai, khí hậu mà thiên nhiên ban tặng (lợi thế có được

mà không cần phải có những đầu tư lớn về vốn và tri thức) nhưng hiện

nay nhờ tiến bộ vượt bậc về công nghệ sinh học, khoa học kỹ thuật

những lợi thế đó đang dần bị thu hẹp lại.

Ba là, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự

nhiên, chính điều kiện tự nhiên tác động rất lớn đến sản lượng, chủng

loại và chất lượng hàng nông sản. Nhưng các nước nghèo bị hạn chế rất

nhiều trong phòng chống rủi ro do thiên tai gây ra do thiếu vốn, công

nghệ và kinh nghiệm. Hơn nữa, sản xuất nông sản mang tính thời vụ

nhưng tiêu dùng lại diễn ra quanh năm, do vậy nếu thiếu năng lực trong

bảo quản, chế biến và xuất khẩu nông sản thì khó có thể thắng trong

cạnh tranh xuất khẩu. Những phương tiện này ở những nước nghèo rất

lạc hậu và thiếu thốn.

Bốn là, dân số thế giới tăng nhanh nên nhu cầu về hàng nông sản

càng lớn, trong khi đó, tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá ở các nước

trên thế giới diễn ra nhanh chóng càng làm cho diện tích đất nông nghiệp

bị thu hẹp. Đời sống của người dân càng được cải thiện thì yêu cầu về

chất lượng cao, tính an toàn cho sức khoẻ lại được đặt lên hàng đầu đối

với hàng nông sản. Để đảm bảo cung cấp đủ lương thực, thực phẩm với

chất lượng cao cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu buộc các

nước phải áp dụng những công nghệ sản xuất tiên tiến nhằm tăng năng

suất, tăng sản lượng nông sản làm cho cạnh tranh có xu hướng chuyển

sang cạnh tranh thông qua kỹ thuật và công nghệ. Hơn nữa, để bảo vệ

30

sản xuất nông nghiệp trong nước, nhiều quốc gia phát triển đã và đang

áp dụng nhiều hình thức bảo hộ sản xuất nông nghiệp như hỗ trợ trực

tiếp cho nông dân, đặt ra các hàng rào thuế quan và phi quan thuế, đặt ra

những yêu cầu quá nghiêm ngặt về điều kiện nhập khẩu (đôi khi mang

yếu tố chính trị nhiều hơn) nhằm chống lại sự thâm nhập của hàng nông

sản của các nước đang phát triển. Như vậy, hàng nông sản của các nước

đang phát triển nếu không đủ sức cạnh tranh về giá cả, chất lượng, đa

dạng về mẫu mã và đặc biệt đảm bảo được tiêu chuẩn về vệ sinh và an

toàn thực phẩm cũng như điều kiện về thời gian cung ứng sản phẩm thì

khó có khả năng thâm nhập được vào thị trường của các nước phát triển.

Ngoài ra, có một lý do nữa mà các nước đang và chậm phát triển

cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá nói chung và hàng

nông sản nói riêng đó là vấn đề luật pháp trong kinh tế và thương mại

quốc tế cả trong quan hệ song phương và đa phương. Trong thực tế, có

nhiều lý do kiến cho những nước nghèo thường thua khi tham gia các vụ

kiện về tranh chấp thương mại, trong đó có lý do về luật pháp; Việt Nam

thì cả không có đủ và không biết hết các luật pháp, luật lệ này.

Để hội nhập tốt hơn với kinh tế thế giới, đẩy mạnh được xuất khẩu,

nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện nhiều biện pháp nâng cao năng

lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu và họ đã đạt được những

thành công nhất định trong lĩnh vực này. Tác giả luận văn cho rằng,

nghiên cứu những kinh nghiệm của các nước trong việc nâng cao năng

lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu để từ đó rút ra những bài

học quí báu cho Việt Nam là việc làm thiết thực.

1.4 KINH NGHIỆM THỰC TẾ CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG VIỆC

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN XUẤT KHẨU

1.4.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc

31

Trung Quốc là nước có đất tự nhiên rộng, người đông, nhưng đất

canh tác so với diện tích tự nhiên nhỏ (10,8%), đất canh tác bình quân

đầu người rất thấp (0,11 ha/người). Tuy vậy, nông nghiệp của Trung

Quốc trong những thập kỷ gần đây đã đạt được những thành tựu rất to

lớn. Hiện nay, Trung Quốc là nước có sản lượng nông sản lớn so với

châu Á và thế giới. Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX trở lại đây, xuất khẩu

nông sản của Trung Quốc không ngừng gia tăng với tốc độ nhanh và

ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Năm 1998, Trung

quốc xuất khẩu được trên 2 triệu tấn gạo. Năm 2000, kim nghạch xuất

khẩu nông sản của Trung Quốc đạt trị giá 13,54 tỷ USD. Chỉ tính riêng

xuất khẩu rau các loại cũng đạt 1,19 tỷ USD. [9, tr.88]. Năm 2002, lượng

rau xuất khẩu đạt 3,146 triệu tấn với trị giá 2,034 tỷ USD.

Sở dĩ năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Trung

Quốc ngày càng tăng là do Chính phủ Trung Quốc thực hiện việc đầu tư

có hiệu quả và áp dụng hàng loạt các chính sách trên lĩnh vực nông

nghiệp như:

(1). Giải quyết tốt vấn đề ruộng đất - một vấn đề hết sức nhạy cảm

đối với nông dân. Trong đó, khuyến kích phát triển kinh tế hộ nông dân

với các mô hình phong phú dựa trên quyền tự chủ sản xuất của nông hộ.

Chính điều này đã tạo động lực phát triển vượt bậc cho nông nghiệp

Trung Quốc.

(2). Điều chỉnh các hình thức tổ chức sản xuất như hình thành các

tổ chức dịch vụ phục vụ nông nghiệp như hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã

mua bán, công ty cổ phẩn làm dịch vụ cung cấp vật tư, kỹ thuật cho nông

dân.

(3). Thực hiện tốt chính sách công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn. Mặc dù dân số đông, nhưng Trung Quốc vẫn đẩy

32

mạnh cơ giới hoá nông nghiệp và coi đó là chiến lược phát triển nông

thôn theo hướng công nghiệp hoá với khẩu hiệu: “ly nông, bất ly

hương”. Trung Quốc đã xây dựng hàng loạt khu công nghiệp mới ở các

vùng nông thôn như công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp sản

xuất vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát triển tiểu thủ công nghiệp

và dịch vụ để thu hút lao động nông nghiệp.

(4). Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi các giống lai, góp

phần đưa sản lượng nông nghiệp tăng nhanh và giảm giá thành sản

phẩm.

(5). Huy động mọi nguồn lực để phát triển cơ sở hạ tầng cho nông

nghiệp, nông thôn bằng các chiến dịch xây dựng thuỷ lợi, giao thông

nông thôn nhằm phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp và lưu thông hàng

hoá. Nguồn vốn để thực hiện việc này được huy động một phần từ ngân

sách nhà nước, phần còn lại huy động từ sự đóng góp của ngưòi dân.

(6). Áp dụng chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp theo

hướng xuất khẩu. Trung Quốc đã tập trung đầu tư sản xuất các sản phẩm

có thế mạnh như ngũ cốc, cây chè, chăn nuôi đại gia súc và chăn nuôi

lợn, tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Đặc

biệt chính phủ đã có chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng đối với những

sản phẩm có hàm lượng chất xám cao như các loại giống lai (lúa lai, ngô

lai).

(7). Thực hiện các chính sách ưu tiên cho xuất khẩu nông sản như

chính sách hạ thấp thuế xuất khẩu, đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu,

kể cả hình thức xuất khẩu phi mậu dịch.

(8). Tiến hành hàng loạt biện pháp cải cánh mở cửa thị trường,

giảm dần các rào cản thương mại, giảm các loại hỗ trợ và trợ cấp ảnh

hưởng tới cạnh tranh bình đẳng, làm cho luật lệ minh bạch và dễ dự đoán

33

hơn, điều chỉnh các luật lệ quốc gia cho phù hợp với thông lệ WTO. Quá

trình này vẫn tiếp diễn sau khi Trung Quốc gia nhập WTO theo lộ trình

đã cam kết.

(9). Tiến hành tái cơ cấu về mặt chiến lược đối với ngành nông

nghiệp nhằm đối phó với hiện trạng giá nông sản sụt giảm ảnh hưởng

tiêu cực đến thu nhập của nông dân, đồng thời phát huy hết tiềm năng để

tận dụng các lợi thế về tiếp cận thị trường sau khi gia nhập WTO và

giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đối với nông nghiệp nông thôn. Trung

Quốc cũng xem xét đánh giá các hạn chế cả về nguồn lực lẫn hạn chế

trong việc tăng cầu nông sản để thông qua đó điều tiết thị trường nhiều

hơn nữa và coi đây là giải pháp quan trọng để hướng sản xuất ngày càng

đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trưòng. Tuy nhiên, các nhà hoạch định

chính sách Trung Quốc cũng nhận định rằng giảm giá nông sản luôn gắn

liền với chu kỳ kinh tế cả ở trong nước và quốc tế. Do đó, để giành thế

chủ động Trung Quốc phải cải thiện tình hình kinh tế trong nước và hội

nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới nhằm tạo ra thị trường rộng lớn

hơn cho nông sản.

Quá trình tái cơ cấu lại nông nghiệp và nông thôn được tiến hành

từ cuối kế hoạch năm năm lần thứ chín gồm năm định hướng chính:

(i) Tích cực chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm tạo giá trị

gia tăng cao hơn;

(ii) Đẩy mạnh chế biến nông sản, đồng thời khuyến khích tiêu dùng

các sản phẩm chất lượng cao;

(iii) Phát huy lợi thế cạnh tranh tương đối trong nông nghiệp ở từng

địa phương, tiến tới tạo ra cơ cấu nông nghiệp theo vùng hợp lý để tăng

khả năng cạnh tranh của hàng nông sản và thúc đẩy nông nghiệp Trung

Quốc phát triển;

34

(iv) Tiếp tục hỗ trợ phát triển doanh nghiệp hương trấn, đồng thời

thúc đẩy thành thị hoá nông thôn nhằm chuyển dịch lao động ra khỏi khu

vực nông nghiệp tạo thu nhập cao hơn cho người dân;

(v) Thúc đẩy việc xây dựng môi trường sinh thái và phát triển bền

vững ở các khu rừng đầu nguồn, vùng đất khô cằn cỗi.

1.4.2 Kinh nghiệm của Đài Loan

Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá ở Đài Loan, nông nghiệp vẫn

còn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong thu nhập quốc dân. Để đẩy mạnh

xuất khẩu nông sản, Đài Loan tập trung phát triển công nghiệp chế biến

thực phẩm đặc biệt là ngành thực phẩm dự trữ và đóng hộp.

Kinh nghiệm năng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu

của đài Loan thể hiện ở những điểm sau:

(1). Đài Loan rất quan tâm đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu.

Vào cuối những năm 50, xuất khẩu chủ yếu của ngành chế biến thực

phẩm Đài Loan là thực phẩm đồ hộp gồm dứa hộp, nước uống hộp, thịt

hộp với giá trị xuất khẩu chiếm tới 90% toàn ngành. Để đảm bảo uy tín

cho ngành công nghệ chế biến đồ hộp, tránh tình trạng hỗn loạn trong

sản xuất và xuất khẩu, Chính phủ Đài Loan đã đặt ra những tiêu chuẩn

chất lượng đối với các cơ sở đóng hộp và các sản phẩm nông sản đóng

hộp xuất khẩu. Hiện nay, ngành chế biến thực phẩm đồ hộp phát triển rất

mạnh với một hệ thống và mạng lưới hữu hiệu, công nghệ chế biến tiên

tiến đáp ứng tốt các yêu cầu nhập khẩu của các thị trưòng khó tính trên

thế giới.

Để nâng cao được chất lượng đồ hộp, Chính phủ đài Loan đặc biệt

quan tâm đến chất lượng nguyên liệu đưa vào chế biến. Trước đây, ở Đài

Loan cây dứa thường được trồng xen trong các vườn cây ăn quả như một

thứ cây trồng phụ, do vậy chất lượng quả rất kém và hay bị sâu bệnh. Để

35

giữ uy tín cho sản phẩm dứa đóng hộp xuất khẩu, Chính phủ đã có chính

sách hỗ trợ người sản xuất thông qua việc trợ giúp kỹ thuật trồng trọt và

chăm bón, trợ giúp về vốn, khuyến khích trồng chuyên canh, thâm canh

dứa với những qui trình kỹ thuật cẩn thận được sự quản lý giám sát của

các cơ quan chuyên môn. Ngoài ra, Chính phủ còn trợ giá cho những

nông trường dứa lớn, thưởng những người trồng dứa có chất lượng cao.

Để khắc phục tình trạng các nhà máy đóng hộp cạnh tranh trong

việc mua nguyên liệu có thể làm cho có một số quả không đủ tiêu chuẩn

xuất khẩu lọt vào hộp làm giảm chất lượng của sản phẩm chế biến,

Chính phủ đã giao hạn ngạch sản xuất cho các nhà máy dựa trên ước tính

về thu hoạch quả và số liệu xuất khẩu của các nhà máy đóng hộp đó. Chỉ

có những nhà máy nào có cơ sở cung cấp nguyên liệu của chính mình

mới được tham gia vào hoạt động xuất khẩu.

Để quản lý chất lượng sản phẩm, Chính phủ ban hành lệnh nâng

tiêu chuẩn của các nhà máy chế biến. Theo đó, tất cả các nhà máy đồ hộp

phải thoả mãn một hệ tiêu chuẩn qui định mới được tham gia xuất khẩu.

(2). Thiết lập hệ thông thu mua nguyên liệu thông suốt từ vùng

trồng nguyên liệu đến các cơ sỏ chế biến để đối phó với tình trạng khan

hiếm nguyên liệu vào thời điểm giáp vụ dễ gây ra tình trạng đầu cơ tích

trữ hàng. Các công ty (cà phê, cao su, hoa quả) của Đài Loan đã thành

lập “Văn phòng nông trại trung tâm”. Văn phòng này có nhiệm vụ theo

dõi và báo cáo về tình hình mùa màng. Hệ thống này đã chứng minh

được tính hiệu quả trong việc thu mua nguyên liệu và sự nhạy cảm trong

giải quyết các biến động của sản xuất và thị trường.

(3). Thành lập các “Hiệp hội ngành” để thực hiện việc ký kết hợp

đồng thu mua nguyên liệu giữa các nhà máy đóng hộp xuất khẩu và các

cơ sở phân phối nguyên liệu nhằm khắc phục hiện tượng các nhà mua

36

nguyên liệu trung gian vì mục tiêu kiếm lời nên mua “non” ngay cả khi

hoa quả (dứa) còn xanh hoặc mới khi vào mùa, gây ảnh hưởng tới chất

lượng và giá cả sản phẩm. Tổ chức này hoạt động trên nguyên tắc không

lợi nhuận mà chủ yếu đóng góp cho công nghiệp thực phẩm.

(4). Chính phủ cũng như các công ty kinh doanh rất chú trọng đến

công tác nghiên cứu khoa học. Các kết quả nghiên cứu được phổ biến

cho các nhà sản xuất, công chúng qua các tạp chí cũng như các cuộc

trình diễn thực nghiệm.

Kinh nghiệm thành công trong ngành chế biến cho thấy Chính phủ

có vai trò rất quan trọng trong phát triển công nghiệp. Chính phủ ban

hành những luật lệ cơ bản, tiêu chuẩn kỹ thuật, những yêu cầu cần thiết

về xuất khẩu... nhằm giúp các nhà sản xuất đi đúng hướng. Sự hỗ trợ của

Chính phủ còn thể hiện ở việc đầu tư cho những nghiên cứu cơ bản

nhằm tạo dựng lợi thế cạnh tranh lâu dài. Hiện nay Đài Loan có nền kinh

tế nông nghiệp tương đối phát triển ở khu vực châu Á.

1.4.3 Kinh nghiệm của Malaysia

Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu,

Chính phủ Malaysia đã thực hiện những vấn đề sau:

(1). Tập trung nguồn lực vào việc sản xuất những mặt hàng có lợi

thế cạnh tranh cao. Chẳng hạn, Malaysia có thế mạnh và tiềm năng về

sản xuất chế biến cao su, chính vì vậy Chính phủ đưa ra nhiều chương

trình hỗ trợ cho phát triển ngành cao su như: hỗ trợ tài chính, công nghệ,

kỹ thuật. Các vườn cây cao su được tổ chức theo nhóm có thể được trợ

giúp dưới hình thức tín dụng, cung ứng các yếu tố đầu vào và các điều

kiện tiếp thị.

(2). Xây dựng mối liên kết giữa khu vực nhà nước và tư nhân như

thành lập Hội đồng ngành cây cao su. Thành viên của Hội đồng gồm đại

37

diện của các Bộ, Cục, các công ty, các trường đại học và các đơn vị tư

nhân có liên quan tới sự phát triển của ngành cao su, tạo nên liên kết có

trách nhiệm trong sản xuất - nghiên cứu và xuất khẩu.

(3). Thực hiện những chính sách khuyến khích về tài chính nhằm

phát triển việc trồng, chế biến, xuất khẩu các loại nông sản có lợi thế trên

qui mô lớn. Các doanh nghiệp (bao gồm các hợp tác xã, các tổ hợp nông

nghiệp, các nông hội, các công ty cổ phần) muốn tham gia vào việc trồng

cây để bán đều có quyền được hưởng các khuyến khích về thuế (ví dụ,

các đơn vị mới tham gia kinh doanh được khuyến khích miễn giảm thuế

trong 5 năm kể từ khi bắt đầu thực hiện).

Để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ đã đưa ra những khuyến khích

trợ giúp xuất khẩu như: trợ giúp phí tổn khi xúc tiến xuất khẩu nông sản;

trợ giúp các nhà xuất khẩu thâm nhập vào các thị trường mới; trợ giúp

trong việc xây dựng các kho chứa, bảo quản; và trợ giúp tín dụng để đổi

mới công nghệ. Đối với lĩnh vực chế biến áp dụng những hình thức

khuyến khích như sự giảm thuế trong 5 năm đầu, kể từ ngày bắt đầu sản

xuất cho các công ty chế biến nông sản mới thành lập.

Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản chế biến được hưởng chính

sách trợ cấp xuất khẩu, được cấp vốn tín dụng xuất khẩu, cung cấp các

khoản tín dụng với lãi suất ưu đãi giúp cho doanh nghiệp có thể cạnh

tranh tốt hơn trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, Chính phủ còn miễn thuế

nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho công nghiệp chế biến xuất

khẩu. Chính những chính sách trợ giúp đó đã tạo cho ngành nông nghiệp

và chế biến nông sản Malaixia phát triển nhanh, có điều kiện đổi mới

công nghệ cũng như tiếp thị mở rộng thị trường.

1.4.4 Kinh nghiệm của Thái Lan

38

Thái Lan là một quốc gia nằm trong khu vực Đông nam Á, có diện

tích canh tác 19,62 tr. ha [28], gấp 2,62 lần Việt Nam. Trong khi đó dân

số có 58,5 triệu người, bình quân đất canh tác trên đầu người gấp 4 lần

so với Việt Nam. Cách đây 25 năm Thái Lan là một nước nông nghiệp

lạc hậu, nhưng hiện nay đã vươn lên thành một nước đứng đầu về xuất

khẩu lúa gạo và thuỷ sản trên thị trường thế giới.

Để khai thác lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, từ những năm 80

của thế kỷ XX, Chính phủ Thái Lan đã đề ra chính sách phát triển kinh tế

với nội dung chủ yếu "Coi nông nghiệp, nông thôn là xương sống của

đất nước". Để thực thi chính sách này, Chính phủ Thái Lan đã áp dụng

những biện pháp đặc biệt nhằm giải quyết tình hình tụt hậu của đất nước.

Chính phủ khuyến khích thực hiện chiến lược công nghiệp hoá nông

nghiệp, nông thôn, thực hiện chủ trương đa dạng hoá nền kinh tế hướng

vào sản xuất sản phẩm cho xuất khẩu. Chỉ sau 25 năm (từ năm1970-

1995), GDP nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế của Thái Lan giảm tới

gần 50%, cơ cấu ngành công nghiệp chế biến tăng nhanh từ 14% lên

26,3% GDP cả nước. Ở Thái Lan đã hình thành nhiều khu công nghiệp

chế biến nông sản được trang bị hiện đại nhằm gia tăng giá trị cho nông

sản. Như vậy, vừa khuyến khích nông dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế

vừa nâng cao được giá trị nông sản, hàng hoá có sức cạnh tranh cao trên

thị trường thế giới. Do đó, tiềm năng trong nông nghiệp được khai thác

và phát huy triệt để, sản xuất phát triển nhanh chóng. Kết quả là, từ

những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, Thái Lan đã là một nước

xuất khẩu gạo, sắn, cao su, mía đường thuộc vào những nước hàng đầu

thế giới. Hiện nay, nông sản Thái Lan đã có uy tín và được tiêu thụ trên

100 quốc gia ở khắp các châu lục, đặc biệt là có sức cạnh tranh cao tại

các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật bản. Đạt được những thành

39

công đó chính là nhờ Thái Lan đã áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp để

nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu.

Kinh nghiêm nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất

khẩu của Thái Lan là:

(1). Thái Lan rất chú trọng đến việc nghiên cứu và áp công nghệ

sinh học, khoa học kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông sản xuất khẩu

nhằm nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu để đáp ứng

tốt hơn nhu cầu của các thị trường nhập khẩu. Ví dụ, Thái Lan đã thực

hiện chương trình cấp quốc gia về thay thế các vườn cây cao su già cỗi

cho năng suất thấp bằng giống cây cao su lai cho sản lượng cao hơn gấp

5-6 lần. Nhờ đó Thái Lan vươn lên thành nước xuất khẩu cao su thiên

nhiên lớn nhất thế giới.

Thái Lan là nước có tiềm năng sản xuất lúa tương đương với Việt

Nam, song kim ngạch xuất khẩu gạo của Thái Lan vượt xa so với nước

ta (kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ bằng 50-60% kim ngạch

xuất khẩu gạo của Thái Lan). Một trong những nguyên nhân dẫn tới

thành công trong lĩnh vực xuất khẩu gạo là Thái Lan đã chú trọng đầu tư

cho công tác nghiên cứu cải tiến và nâng cấp giống gạo Jasmine (hương

nhài) lên thành gạo đặc sản hạt dài có hương thơm tự nhiên, lượng

protein cao. Chính vì thế mà gạo xuất khẩu của Thái Lan có giá rất cao.

Ví dụ, trong năm 2003, gạo hương nhài của Thái Lan luôn bán được giá

cao kỷ lục khoảng 560-565 USD/tấn, giao hàng theo điều kiện FOB.

Thái Lan còn đang phấn đấu năm 2005 đưa tỷ lệ gạo Jasmine lên 50%

trong tổng lượng gạo xuất khẩu [48,tr.10]. Bên cạnh đó, Thái Lan luôn

quan tâm giữ vững chất lượng của giống gạo Khao Đawk Mali đã có

thương hiệu hàng hoá trên 50 năm nhằm đáp ứng thị hiếu tiêu dùng của

những thị trường cao cấp.

40

(2). Chính phủ Thái Lan chú trọng vào việc nâng cao chất lượng

sản phẩm đáp ứng triệt để các qui định đối với nông sản nhập khẩu vào

từng thị trường nhập khẩu. Ví dụ, khi EU đưa ra tiêu chuẩn về lượng hoá

chất đối với nông sản xuất khẩu của Thái Lan vào EU, ngay lập tức Bộ

Nông nghiệp và hợp tác xã Thái Lan đã tiến hành làm mọi thủ tục để Hội

đồng châu Âu thấy rõ chiến lược hiện tại và những kế hoạch trong tương

lai của mình nhằm đáp ứng yêu cầu của EU. Ngoài ra, Thái Lan còn đề

nghị EU hợp tác để thực hiện tiêu chuẩn duy nhất kiểm định hàng nhập

từ Thái Lan, đồng thời giúp đỡ Thái Lan phát triển công nghệ sinh học

và những kiến thức về sản phẩm hữu cơ.

Thái Lan đặc biệt quan tâm đầu tư trang thiết bị dây chuyền công

nghệ chế biến tiên tiến, đảm bảo điều kiện vận tải thuận tiện, nhanh

chóng, kỹ thuật đóng gói hiện đại thoả mãn được các yêu cầu về tiêu

chuẩn chất lượng của EU, Mỹ, Nhật.

(3). Thái Lan rất chú trọng tới việc nghiên cứu thị trường cũng như

nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của các nước nhập khẩu sản phẩm của họ để

từ đó có chiến lược điều chỉnh sản xuất sao cho ngày càng đáp ứng tốt

hơn nhu cầu của khách hàng.

(4). Chính phủ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu nông sản thông qua

các biện pháp quản lý vĩ mô. Mặc dù Chính phủ đã có chủ trương thực

hiện cơ chế thị trường đối với mọi loại sản phẩm hàng hoá, song vẫn chú

trọng đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp thông qua việc giữ ổn định giá vật

tư cho sản xuất nông nghiệp, cho vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp. Ví dụ,

năm 1990, chính phủ cho nông dân vay 1,3 tỷ USD để phát triển sản

xuất. Chính phủ Thái Lan còn áp dụng biện pháp can thiệp thị trường,

trợ giá cho nông sản xuất khẩu khi giá nông sản xuống thấp nhằm ổn

định thu nhập cho người sản xuất. Năm 2001, giá cao su xuất khẩu giảm

41

mạnh, ngoài việc tham gia vào chương trình dự trữ cao su, Chính phủ

Thái lan còn thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng đỡ giá. Cuối năm

2002, Chính phủ đã cấp 3,4 tỷ Baht hỗ trợ chương trình hạn chế bán cao

su tồn kho và nâng giá sàn đối với loại cao su hun khói lên 30 Baht/kg.

Ngoài ra, để khuyến khích xuất khẩu nông sản, Chính Phủ Thái Lan

còn thực hiện một số biện pháp như bỏ chế độ hạn ngạch (quota), không

thu thuế xuất khẩu, tạo tín dụng thuận tiện và cho vay với lãi suất ưu đãi

đối với các nhà kinh doanh xuất khẩu nông sản. Khi cần thiết, Chính Phủ

Thái Lan còn hỗ trợ việc xuất khẩu, can thiệp để ký những hợp đồng

xuất khẩu với số lượng lớn. Với những chính sách và biện pháp đồng bộ

nêu trên, nông sản xuất khẩu của Thái Lan chẳng những duy trì mà còn

nâng cao được năng lực cạnh tranh và vị thế trên thị quốc tế. [31, tr.23]

Những vấn đề nêu trên, cho thấy vai trò của chính sách rất quan

trọng đối với việc tạo lập những ngành hàng và sản phẩm mũi nhọn để

tăng sức cạnh tranh trên thương trường.

1.4.5 Kinh nghiệm của Mỹ

Nước Mỹ là nước có nhiều tiềm năng và thuận lợi về sản xuất nông

nghiệp, như Mỹ có điều kiện thiên nhiên ưu đãi, khí hậu ôn hoà, đất đai

rộng, phì nhiêu với khoảng 75 -90% diện tích có điều kiện canh tác thích

hợp là những lợi thế vô cùng quan trọng. Mỹ đã tận dụng được những lợi

thế đó tổ chức khai thác sử dụng và phát huy nó một cách có hiệu quả

cao nhất nhằm không ngừng nâng cao sức cạnh tranh cho hàng nông sản

xuất khẩu của mình. Mỹ đã căn cứ vào điều kiện tự nhiên (ruộng đất,

tổng lượng nhiệt, lượng mưa...), các yếu tố kỹ thuật và các yếu tố kinh tế

(gần thị trường tiêu thụ, có nguồn nhân lực với trình độ cao, mạng lưới

vận tải, công nghiệp chế biến tiên tiến) để bố trí sản xuất các loại cây

trồng, vật nuôi có lợi thế. Ví dụ, điều kiện tự nhiên của Mỹ rất thuận lợi

42

cho sản xuất ngô, Mỹ đã tập trung mọi điều kiện để phát triển sản xuất

ngô, vì vậy năng suất ngô của Mỹ đạt 8,685 tấn/ha vào năm 1994 cao

nhất thế giới, gấp 2 lần năng suất ngô bình quân của thế giới.

Nông nghiệp Mỹ phát triển trên cơ sở kinh tế thị trường ở trình độ

cao. Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản của

Mỹ là:

(1). Mọi hoạt động kinh doanh sản xuất nông nghiệp đều vận hành

theo quy luật của nền kinh tế thị trường. Các yếu tố "đầu vào" và "đầu

ra" của sản xuất nông nghiệp từ đất đai, sức lao động đến khoa học công

nghệ, vật tư, kỹ thuật, tổ chức sản xuất, chế biến, lưu thông nông sản đều

là hàng hoá và chịu sự chi phối của các tập đoàn công nghiệp, tài chính,

xuất nhập khẩu. Nông nghiệp Mỹ đã hình thành một hệ thống tổ chức

sản xuất kinh doanh gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp sản xuất

vật tư, thiết bị kỹ thuật nông nghiệp và công nghiệp chế biến với dịch vụ

lưu thông, cung ứng vật tư nông nghiệp và dịch vụ lưu thông tiêu thụ

nông sản tạo thành một màng lưới gọi là AGRIBUSINESS (Nông nghiệp

- Thương mại). Mối quan hệ trong mạng lưới này không dựa trên cơ sở

tổ chức hành chính, mà dựa trên mối quan hệ đảm bảo lợi ích cho các

ngành hữu quan theo qui luật kinh tế. Đây là nhân tố quan trọng giúp

nông sản của Mỹ có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới.

(2). Phát triển các vùng sản xuất tập trung cho xuất khẩu, hay nói

cách khác là xúc tiến việc sản xuất trên qui mô lớn, tạo lợi thế về qui mô.

(3). Phát triển kinh tế trang trại bao gồm các trang trại nhỏ, vừa,

lớn và trang trại cực lớn thuộc các công ty và tập đoàn nông công

nghiệp dưới hình thức các doanh nghiệp tư bản tư nhân. Trên cơ sở phát

triển của kinh tế trang trại, các hợp tác xã được phát triển ở các hình thức

và quy mô khác nhau.

43

Sự phát triển của nền kinh tế hợp tác đã hỗ trợ kinh tế trang trại và

góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển, tạo nên ưu thế trong cạnh

tranh của nông sản.

(4). Hỗ trợ sản xuất nông nghiệp mà cụ thể là các trang trại dưới

nhiều hình thức như: Chính phủ trợ cấp cho các trang trại cất trữ nông

sản; trợ cấp theo giá chuẩn; trợ cấp thiệt hại mùa màng do ảnh hưởng

của thiên tai; trợ cấp cho trang trại cắt giảm diện tích gieo trồng khi cung

vượt cầu, giá cả có nguy cơ giảm; trợ cấp cho trang trại bảo vệ tài

nguyên thiên nhiên. Đặc biệt, Chính phủ Mỹ đã ban hành các chính sách

tài trợ cho xuất khẩu nông sản, đào tạo và nghiên cứu khoa học trong

lĩnh vực nông nghiệp. Ví dụ, năm 1994, Chính phủ Mỹ chi từ ngân sách

số tiền lên tới 1,15 tỷ USD để hỗ trợ cho xuất khẩu nông sản. Những hỗ

trợ đó, một mặt, tạo điều kiện cho nông nghiệp khai thác các tiềm năng

để tăng sản lượng, nâng cao thu nhập cho nông dân, mặt khác tạo nên

những lợi thế cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu nông sản.

Tuy nhiên, nền nông nghiệp Mỹ có những lợi thế và sức cạnh tranh

cao, song cũng có những hạn chế sau:

Công nghiệp hoá chất đưa vào nông nghiệp khối lượng lớn thuốc

trừ sâu, trừ cỏ, phân bón hoá học làm ô nhiềm đất đai và nguồn nước,

gây tác hại đối với người, gia súc, thú hoang dã, các côn trùng và vi sinh

vật có ích, để lại dư lượng chất độc hại trong nông sản thực phẩm.

Thuỷ lợi hoá nông nghiệp Mỹ với các kỹ thuật và công nghệ hiện

đại dùng nguồn nước mát và nước ngầm tưới cho các cây trồng cạn, lúa

nước ở các địa hình khác nhau đã có những biểu hiện tiêu cực như: xói

mòn đất, nhiễm mặn đất, sụt mạnh nước ngầm.

44

Ngoài lợi ích mang lại, đã có nghiên cứu cho rằng cơ giới hoá làm

hỏng kết cấu của đất, gây xói mòn đất màu, đưa các chất dầu mỡ vào đất

làm giảm chất lượng đất.

Những hậu quả trên của sự phát triển cao của nông nghiệp hoá và

hiện đại hoá nông nghiệp là biểu hiện tính 2 mặt của khoa học và công

nghệ, là sự cảnh tỉnh đối với những nước đi sau trong việc lựa chọn

phương hướng phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp nông thôn.

Ngoài kinh nghiệm của 5 nước nêu trên, một số nước khác, ví dụ

Nhật Bản cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc nâng cao sức cạnh tranh

cho hàng nông sản chế biến. Họ rất chú trọng đầu tư công nghệ chế biến

nông sản hiện đại đảm bảo được tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm

đáp ứng được yêu cầu rất cao về chất lượng của các thị trường nhập khẩu

khó tính như Mỹ, EU.

Ở Nhật Bản, có một thời ngành sản xuất nông nghiệp bị coi như

một yếu điểm của nền kinh tế. Nhưng khi Chính phủ Nhật Bản chủ

trương cải tạo nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá nông nghiệp đã

đẩy ngành này phát triển ngang tầm với các ngành sản xuất khác trong

nước. Từ con số "0' vào những năm 50 của Thế kỷ trước, ngành sản xuất

lúa gạo đã được cơ khí hoá đồng bộ vào cuối những năm 70. Đưa những

tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong ngành trồng trọt và chăn nuôi để

điều tiết độ sinh trưởng của cây trồng vật nuôi một cách tối ưu. Nhật Bản

đã trở thành "nhà máy" sản xuất rau sạch, và là một trong những nước có

diện tích nhà kính trồng rau lớn nhất thế giới. Công nghệ đã cho phép

giảm chi phí lao động xuống từ 2-4 lần. Người ta đã tính rằng sản xuất

nông nghiệp theo công nghệ tiên tiến cho phép tăng khối lượng sản

phẩm gấp 20 lần so với canh tác thông thường. Trong điều kiện môi

45

trường kinh doanh như vậy, các doanh nghiệp không thể thờ ơ với việc

ứng dụng công nghệ tiên tiến để tạo ra lợi thế so sánh động.

1.4.6 Một số vấn đề có tính chất bài học kinh nghiệm

Kinh nghiệm của 5 nước nêu trên, cho thấy sự tăng trưởng của nền

nông nghiệp nói chung, của các ngành nông sản xuất khẩu nói riêng, các

nước đều xuất phát từ các lợi thế vốn có của từng nước. Tuy vậy, để phát

triển nhanh hơn, Chính phủ các nước đã biết tạo ra các lợi thế mới trên

cơ sở đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách khoa học và công

nghệ, chính sách phát triển và mở rộng thị trường. Trong đó, chính sách

vĩ mô và khoa học và công nghệ có ý nghĩa quyết định, tạo nên những

động lực cho sự phát triển. Từ kinh nghiệm của các nước có thể rút ra

một số vấn đề có tính chất bài học kinh nghiệm như sau:

Một là, thành công của các nước, trước hết là ở chỗ chính phủ các

nước đã xác định đúng vị trí đặc biệt quan trọng của nông nghiệp, lấy

nông nghiệp làm điểm khởi đầu để phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc

dân, kiên trì theo đuổi chiến lược đó bằng cách tập trung nỗ lực cho phát

triển nông nghiệp để tạo đà và đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực

hiện chiến lược CNH và HĐH, phát triển một nền nông nghiệp hướng

vào xuất khẩu là chủ yếu.

Thực hiện đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở phát huy

các lợi lợi thế so sánh phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu là con đường chủ

yếu để nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, trong đó chú trọng

tới việc phát huy lợi thế về qui mô tạo thành những vùng chuyên canh

tập trung với qui mô lớn, có tỷ suất hàng hoá cao.

Đầu tư kịp thời và đồng bộ công nghệ bảo quản, chế biến, nâng cao

chất lượng sản phẩm. Chính phủ các nước có các chính sách khuyến

khích các thương nhân đầu tư công nghệ, các phương tiện chế biến và

46

tiếp thị cho các chủ trang trại nhỏ để nắm nguồn hàng, hình thành mạng

lưới lưu thông thông suốt và có sự gắn kết chặt chẽ từ sản xuất, chế biến

đến xuất khẩu.

Hai là, phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp để đạt mục

tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ nhất định. Đặc biệt, để khuyến khích

xuất khẩu nông sản, bước đầu các nước đều có chính sách bảo hộ thông

qua các chương trình hỗ trợ đặc biệt để tạo dựng ngành hàng xuất khẩu,

như chương trình trợ giúp khoa học công nghệ, vốn, thị trường.

Ba là, sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián tiếp

và điều tiết sản xuất nông nghiệp có hiệu quả.

Bốn là, chú trọng phát huy các lợi thế so sánh thực hiện chiến lược

sản phẩm, qui hoạch và đầu tư đồng bộ cho các vùng sản xuất chuyên

canh. Đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá

thành; phản ứng nhanh nhẹn trước yêu cầu và thị hiếu của thị trường về

hình thức, chất lượng của hàng hoá.

Năm là, chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp và

nghiên cứu triển khai, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất.

Sáu là, tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị và xúc tiến thương mại,

xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, coi trọng chữ tín để củng cố và mở

rộng thị trường mới. Đồng thời, các nước cũng rất chú ý đến công tác

đào tạo nguồn nhân lực có tay ngề và kỹ thuật cao, coi đó là một trong

những nhân tố quyết định thành công trong cạnh tranh trong nền kinh tế

tri thức.

Tác giả luận văn cho rằng những kinh nghiệm của các nước nói trên

về phát triển sản xuất- chế biến và xuất khẩu nông sản Việt Nam cần

nghiên cứu kỹ và vận dụng chúng một cách linh hoạt nhằm từng bước

nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu.

47

Kết luận chƣơng 1

Cạnh tranh là một xu hướng tất yếu trong cơ chế kinh tế thị trường.

Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cho các quốc gia có cơ hội mở rộng thị

trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng.

Tuy nhiên, hội nhập kinh tế cũng làm cho cạnh tranh để chiếm lĩnh thị

trường diễn ra khốc liệt hơn buộc các quốc gia muốn chiến thắng trong

cạnh tranh phải có những đối sách, những chiến lược nâng cao năng lực

cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu của mình.

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã tập trung giải quyết một số

nội dung chính sau đây:

- Trình bày một số vấn đề có tính lý luận về cạnh tranh và năng lực

cạnh tranh như đưa ra khái niệm cạnh tranh được sử dụng trong luận văn

này là "một cuộc ganh đua giữa hai hay nhiều cá nhân hoặc tổ chức để

giàng thị phần trên thị trường"; trình bày khái niệm năng lực cạnh tranh

ở 3 cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ và nêu rõ năng

lực cạnh tranh ở 3 cấp độ này có quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo

điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau; trình bày vấn đề

nâng cao năng lực cạnh tranh dựa vào lợi thế tuyệt đối, lợi thế tương đối,

lợi thế cạnh tranh và chỉ rõ không phải lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương

đối nào cũng trở thành lợi thế cạnh tranh, cũng không phải lợi thế cạnh

tranh nào cũng là lợi thế so sánh; và trình bày rõ hai nhóm nhân tố chủ

quan và khách quan hình thành năng lực cạnh tranh của hàng nông sản

và nêu rõ việc nghiên cứu kỹ và chính xác 2 nhóm nhân tố này trước khi

đầu tư sản xuất sẽ quyết định năng lực cạnh tranh của hàng hoá nông sản

trên thị trường.

- Trình bày 2 nhóm chỉ tiêu định tính và định lượng để đánh giá

năng lực cạnh tranh của hàng nông sản. Nhóm định tính gồm 5 chỉ tiêu

48

và nhóm định lượng gồm 3 chỉ tiêu. Tác giả luận văn cho rằng việc xem

xét kỹ lưỡng 8 loại chỉ tiêu này sẽ cho thấy rõ năng lực cạnh tranh của

hàng nông sản là thấp hay cao.

- Trình bày 4 nội dung cụ thể làm rõ sự cần thiết phải nâng cao

năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu ở các nước đang và

kém phát triển. Tác giả cho rằng trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh

gay gắt hiện nay nếu các nước nói trên không nâng cao được năng lực

cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu thì khó có thể phát triển nhanh,

sẽ càng ngày càng tụt hậu xa hơn so với các nước đi trước vì nông

nghiệp ở các nước này là ngành kinh tế rất quan trọng (với một số nước

nó là ngành quan trọng số 1). Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng

nông sản sẽ tạo điều kiện cho ngành kinh tế quan trọng này phát triển

mạnh, qua đó góp phần phát triển kinh tê, xã hội của đất nước.

- Trình bày kinh nghiệm của 5 nước và vùng lãnh thổ là Trung

Quốc, Đài Loan, Malaixia, Thái Lan và Mỹ trong việc nâng cao năng lực

cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu. Từ kinh nghiệm của các nước

và vùng lãnh thổ này, tác giả luận văn đã rút ra 6 vấn đề có tính chất bài

học kinh nghiệm và cho rằng những kinh nghiệm này có thể và cần được

tiếp tục nghiên cứu sâu thêm và vận dụng linh hoạt vào điều kiện của

nước ta để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu

Việt Nam.

49

Chương 2

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN

XUẤT KHẨU VIỆT NAM

2.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN- KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM

Việt Nam hội tụ được 4 yếu tố rất cơ bản về lợi thế trong hoạt động

xuất khẩu nông sản, bao gồm: vị trí địa lý, nguồn lực lao động, tài

nguyên thiên nhiên, chính sách đổi mới và sự ổn định nền kinh tế vĩ mô.

2.1.1 Vị trí địa lý

Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông

Nam Á - khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh kế cao và năng động nhất

thế giới hiện nay. Hơn nữa Việt Nam nằm trên các tuyến giao thông

quốc tế quan trọng, cầu nối Đông Bắc Á và Đông Nam Á và có hệ thống

cảng biển rất thuận tiện trong việc giao thương với nhiều quốc gia trên

thế giới. Với lợi thế đó, nếu biết tận dụng và phát huy Việt Nam sẽ tạo

được nhiều cơ hội để phát triển kinh tế.

2.1.2 Điều kiện tự nhiên khí hậu và sinh thái

Việt nam nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa, có điều kiện khí hậu và

sinh thái khá phong phú và đa dạng. Với sự hình thành 7 vùng sinh thái

khác nhau, mỗi vùng có những nét đặc thù và những lợi thế riêng trong

phát triển sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, Việt Nam có nhiều tiểu vùng

"sinh thái - khí hậu đặc thù" cho phép phát triển một số cây đặc sản có

năng suất sinh học cao và những đặc trưng về "hương vị - chất lượng" tự

nhiên khác biệt mà ít nơi trên thế giới có được. Chính điều đó đã tạo cho

nông sản Việt Nam có những lợi thế trong cạnh tranh về tính độc đáo

của nông sản, được thế giới ưa thích. Tận dụng những điều kiện tự nhiên

mà thiên nhiên ban tặng, Việt Nam đã hình thành được một số vùng sản

xuất nông sản có giá trị xuất khẩu lớn:

50

Vùng cà phê Tây nguyên: cà phê Robusta của Việt Nam trên nền

đất đỏ Bazan vùng Tây nguyên, với độ cao từ 400 - 700 mét, cho năng

xuất bình quân đạt 1,3 tấn/ha, gấp 2,3 lần năng xuất bình quân thế giới

(bảng 2.8), có hương vị đậm đà nổi tiếng.

Vùng ĐBSCL và ĐBSH được đánh giá vào loại phì nhiêu trên thế

giới. Độ màu mỡ và những đặc điểm thời tiết khí hậu - mùa vụ cho phép

ĐBSCL và ĐBSH sản xuất lúa quanh năm và thích nghi với nhiều giống

lúa cao sản, lúa đặc chủng cho năng suất cao cũng như thuận lợi cho

trồng các loại rau quả xuất khẩu.

Vùng Đông Nam Bộ hiện nay được đánh giá là vùng có kinh tế

nông nghiệp giàu có của cả nước, nằm trong khu vực kinh tế công

nghiệp - dịch vụ và đô thị lớn nhất của cả nước, với điều kiện tự nhiên

phong phú, đa dạng cho phép bố trí sản xuất nhiều cây trồng vật nuôi có

hiệu quả, nhất là một số cây như: cao su, cà phê, điều, lúa, ngô, sắn, đậu

đỗ các loại.

Vùng trung du miền núi phía Bắc là vùng có điều kiện tự nhiên,

sinh thái khá đặc thù, địa hình phức tạp bị chia cắt nhiều. Đây là một

vùng có tiềm năng kinh tế đa dạng cho phép bố trí sản xuất nhiều cây

trồng vật nuôi có hiệu quả, nhất là một số cây như: chè, cà phê arabica,

Với những đặc điểm trên, sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã có lợi

ngô, sắn, đậu đỗ các loại.

thế và tiềm năng để phát triển. Đó là những lợi thế về năng suất, chất

lượng và chi phí sản xuất thấp do điều kiện tự nhiên đem lại. Nhờ những

lợi thế đó mà trong nhiều năm qua tuy Việt Nam mới chủ yếu xuất khẩu

nông sản dạng nguyên liệu thô hoặc qua sơ chế nhưng vẫn thu được lợi

nhuận. Song những lợi thế này cũng chỉ có ý nghĩa trong ngắn hạn, vấn

đề là phải biết phát huy tốt các lợi thế đó để không ngừng nâng cao hiệu

51

quả và năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu trong thời gian tới

thông qua việc áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến

tạo sự biến đổi thực sự trong chất lượng và năng suất lao động xã hội.

Trong thời đại ngày nay cần thiết phải thay đổi mục tiêu chiến lược

chuyển từ cạnh tranh dựa vào lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn tài

nguyên thiên nhiên dồi dào và giá nhân công rẻ sang lợi thế cạnh tranh

dựa trên tiềm lực khoa học, năng suất lao động cao, chi phí thấp, tính

đang dạng của sản phẩm cung ứng.

2.1.3 Nguồn lao động

Về nguồn nhân lực, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, với quy

mô dân số trên 82 triệu người trong đó 73,7% dân số sống ở vùng nông

thôn, lực lượng lao động trong nông thôn chiếm tới trên 35 triệu người.

Khoảng 71% số lao động nông thôn được thu hút vào sản xuất nông

nghiệp [26-29]. Chất lượng lao động trong nông thôn của Việt Nam đang

ngày càng được nâng lên với tỷ lệ người biết chữ rất cao (96%) [29].

Bên cạnh đó lao động Việt Nam có đức tính cần cù, chịu khó, ham học

hỏi, dễ tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đang làm quen

dần với tư duy sản xuất hàng hoá. Đây là những điểm mạnh có thể tận

dụng để phát triển nông nghiệp và thực hiện chiến lược CNH và HĐH

nông nghiệp và nông thôn. Giá công lao động của Việt Nam rẻ, thấp hơn

nhiều lần so với các nước trong khu vực, chỉ bằng khoảng 1/3 của Thái

Lan, 1/30 của Đài Loan, 1/26 của Singapore [42, tr. 58]. Mặt khác, sản

xuất nông nghiệp chủ yếu là do lực lượng nông dân đảm nhiệm, do vậy

chi phí đầu vào về lao động lại càng thấp. Đây cũng là lợi thế để thu hút

nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trong nhiều năm qua.

Tuy nhiên, lao động Việt nam còn một số hạn chế như năng suất

lao động và trình độ kỹ thuật còn thấp, ý thức tổ chức kỷ luật còn yếu,

52

thiếu tính phối hợp trong công việc, đòi hỏi cần có giải pháp khắc phục

mới đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông

nghiệp và nông thôn.

2.1.4 Chính sách đổi mới và sự ổn định kinh tế vĩ mô

Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986, Đảng và Nhà nước

Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế nói chung và đổi mới

quản lý kinh tế nông nghiệp nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng

các nguồn lực trong nước về đất đai, lao động, đầu tư v.v. Thành tựu của

đổi mới cơ chế kinh tế đã góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ

cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng

hoá, phát huy lợi thế so sánh của địa phương, khu vực góp phần nâng

cao thu nhập, cải thiện đời sống và tạo thêm việc làm cho người lao động

ở nông thôn. Trong nông nghiệp, việc giao đất cho hộ gia đình nông dân

sử dụng ổn định lâu dài đã làm cho người nông dân yên tâm đầu tư thâm

canh và gắn bó với đồng ruộng hơn so với trước đây.

Kinh tế đối ngoại được tăng cường và phát triển trên tất cả các lĩnh

vực: hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, hợp tác và tham gia vào các tổ

chức quốc tế. Việt Nam đã ký kết và cam kết thực hiện nhiều Hiệp định

thương mại song phương và đa phương như tham gia AFTA, Hiệp định

thương mại Việt - Mỹ, đang tích cực đàm phán để gia nhập WTO v.v.

Nói cách khác, Việt Nam đang mở cửa ngày một sâu rộng hơn với thị

trường khu vực và quốc tế, hàng hoá của Việt Nam nói chung và hàng

nông sản nói riêng sẽ có được thị trường rộng lớn hơn, điều kiện buôn

bán bình đẳng hơn.

Mặc dù còn thiếu kinh nghiệm và bề dày trong công tác xuất khẩu,

nhưng những năm gần đây sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản

53

ngày càng tăng, uy tín của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế

giới cũng không ngừng được nâng lên.

Chính sự ổn định về chính trị và đổi mới các chính sách đã có tác

dụng nâng cao năng suất và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp và nông

thôn.

Mặc dù, Việt Nam có các lợi thế về điều kiện tự nhiên - kinh tế, xã

hội như trên nhưng để nâng cao năng lực cạnh tranh một cách bền vững

vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Đó là nước ta mới chỉ có những lợi thế so

sánh tĩnh (tài nguyên nhiên nhiên ở dạng thô, lao động thiếu kỹ năng,...).

Để khai thác tốt lợi thế so sánh tĩnh cần phải phát huy lợi thế so sánh

động như lao động có kỹ năng, phát triển khoa học công nghệ...Những

lợi thế so sánh động này ở nước ta còn rất thiếu. Chính điều đó làm cho

việc sử dụng các nguồn lực chưa hợp lý, lãng phí không hiệu quả.

2.2 TỔNG QUAN NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG SẢN

XUẤT VÀ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN TRONG NHỮNG NĂM ĐỔI M ỚI

2.2.1 Những thành tựu

Trong quá trình đổi mới về kinh tế, nông nghiệp là lĩnh vực đạt

được những thành tựu hết sức to lớn. Kể từ năm 1989 đến nay, sản xuất

nông nghiệp tăng nhanh và khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực với tốc

độ tăng trưởng bình quân 4 - 4,5 %/ năm.

Thứ nhất, giá trị sản lượng tăng nhanh và tương đối ổn định (bảng

2.1 và 2.2).

Bảng 2.1: Giá trị sản lƣợng nông nghiệp

(Giá cố định 1994 ; Năm trước = 100%)

Chỉ tiêu

1995

1997

1998

1999

2000

2001

2000

2003

2004

GTSLNN (tỷ đồng)

82307 92530 92530 102932

108356

111858 123383

132193

136819

Chỉ số PT NN (%)

106,80 106,90 106,90

107,10

104,05

102,06

104,13

102,82

103,50

% trong GDP

26,20

24,20

24,20

23,80

24,53

23,24

23,03

21,83

21,76

Nguồn: [27-29]

54

Qua bảng 2.1 ta thấy giá trị sản lượng ngành nông nghiệp năm 2004

so năm 2003 tăng 3,5% và so năm 1995 tăng 66%.

Bảng 2.2: Giá trị sản xuất nông nghiệp

(Giá cố định 1994; Năm trước = 100%). Đơn vị tính: Tỷ đồng

Trong đó

Năm

Tổng số

Trồng trọt

Chăn nuôi

Dịch vụ

Giá trị

(% )

Giá trị

(% ) Giá trị

(% ) Giá trị

(% )

1990

61817

100,0

49604

80,2

10238

16,6

1930

3,2

1991

63512

100,0

51247

80,7

10294

16,2

1970

3,1

1992

58820

100,0

55132

81,7

11651

16,9

2036

3,0

1993

73380

100,0

58906

80,2

12309

16,8

2165

3,0

1994

76998

100,0

61660

80,1

12999

16,9

2339

3,0

1995

82307

100,0

66183

80,4

13629

16,6

2494

3,0

1996

86489

100,0

69620

80,5

14347

16,6

2521

2,9

1997

92530

100,0

74492

80,5

15465

16,7

2572

2,8

1998

96102

100,0

77298

80,4

16204

16,9

2600

2,7

1999

106967

100,0

6782

79.2

17337

18,5

2650

2,7

2000

112112

100,0

90858

78,2

18505

19,3

2748

2,5

2001

114989

100,0

92707

77,9

19282

19,6

2800

2,5

2002

122150

100,0

98060

76,7

21200

21,1

2890

2,2

2003

127111

100,0

101210

75,4

22944

22,4

2956

2,2

2004

136819

100,0

103298

75,5

29006

21,2

4926

3,6

BQ.(90-

69472

4,8

57122

4,9

11853

4,8

2155

4,3

1995)

BQ. (95-

97034

4,4

78117

4,3

16294

4,7

2621

1,8

2000)

BQ. (90-

82000

5,0

66665

5,0

13872

5,3

2367

3,3

2000)

BQ. (2000-

122636

4,4

97227

3,0

22187

5,1

16320

1,9

2004*ước

Nguồn: [27-29]

55

56

Thứ hai, sản xuất lương thực có bước tiến đáng kể. Từ khi có Nghị

quyết 10 của Bộ chính trị (tháng 4 năm 1988), nông nghiệp nói chung và

ngành sản xuất lương thực nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng

kể. Sản xuất lương thực, rau quả và cây công nghiệp, chăn nuôi đều có

những bước phát triển mạnh mẽ. Trong đó, sản xuất lúa gạo đã đạt được

những thành tựu đáng khích lệ. Sản xuất lúa tăng nhanh trên cả 3 phương

diện: diện tích, năng xuất và sản lượng, tốc độ tăng sản lượng bình quân

(1990 - 2000) đạt 4,5% cao hơn tốc độ tăng dân số (2,2%), do vậy lương

thực không chỉ đảm bảo yêu cầu trong nước, mà xuất khẩu ngày càng

tăng. Từ chỗ phải nhập khẩu bình quân hàng năm khoảng 0,5 triệu tấn

gạo, từ năm 1989 đến nay đã sản xuất đủ lương thực tiêu dùng trong

nước và có khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng (xuất khẩu gạo năm

1999 đạt 4,6 tr. tấn, năm 2005 dự kiến xuất khẩu 4 triệu tấn). Sản lượng

lương thực giai đoạn 1995-2004 tăng khoảng 5,2%/năm (bảng 2.3).

Bảng 2.3: Kết quả sản xuất lúa giai đoạn từ 1995-2004

Năm

Diện tích

Năng xuất

Sản lượng

1000 ha % tăng

Tạ /ha % tăng

1000 tấn

% tăng

36,8

3,23

24.630,0

4,68

1995

6765,6

2,53

37,6

2,17

26.397,0

7,17

1996

7020,7

3,77

41,2

0,40

32.530,0

10,40

2000

7666,3

-0,30

42,4

2,90

32.100,0

-0,60

2001

7496,7

-0,22

45,9

8,30

34.450,0

8,00

2002

7504,3

0,01

46,3

0,87

34.500,0

0,60

2003

7449,3

-0,10

48,1

3,89

35.700,0

3,50

2004

7420,0

-0,40

BQ. (1996 -

2000)

7352,7

1,70

39,9

2,38

35.700,0

3,50

BQ. (1995 -

2004)* ước

7339,9

1,39

41,8

3,11

30.849,3

5,20

Nguồn: [8, tr.8-9, 27-29]

57

Thứ ba, diện tích, năng suất và sản lượng các loại cây công nghiệp,

rau đậu và các nông sản khác cũng tăng lên đáng kể.

Cùng với cây lương thực, diện tích, năng xuất, sản lượng nhiều cây

trồng khác cũng có bước phát triển mạnh như: cà phê, cao su, điều và các

loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu. Đã hình thành

nhiều vùng sản xuất tập trung lớn, cơ cấu chủng loại nông sản phẩm và

hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ngày càng

phong phú, đa dạng hơn (bảng 2.4).

Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lƣợng một số

nông sản xuất khẩu

Năm Cà phê cao su chè

Diện Năng Sản Diện Năng Sản Diện Năng Sản

tích xuất lƣợng tích xuất lƣợng tích xuất lƣợng

(1000

(1000 ha)

(Tạ /ha)

(1000 tấn)

(Tạ /ha)

(1000 tấn)

(1000 ha

(Tạ /ha)

(1000 tấn)

ha)

1995 186,4 21,8 218,0 278,4 4,48 124,7 66,7 6,04 40,2

1996 254,2 20,3 316,9 254,2 5,60 142,5 74,8 6,26 46,8

1997 340,3 24,7 402,5 347,5 5,37 186,5 78,6 6,64 52,2

1998 370,6 19,9 409,3 382,0 5,06 193,5 77,4 7,31 56,6

1999 408,0 14,7 509,8 394,9 6,30 248,7 84,8 8,29 70,3

2000 561,3 19,2 802,5 406,9 7,17 291,9 87,7 7,97 69,9

2001 591,3 17,8 840,6 415,8 7,52 312,6 98,3 7,70 75,7

2002 522,2 15,8 699,5 428,8 6,95 298,2 109,3 8,62 94,2

2003 513,7 15,0 771,2 436,5 7,19 313,9 116,2 8,13 94,5

Nguồn: [8, tr.8-9, 27-29]

2004 503,2 834,6 400,1 145,5

58

Thứ tư, ngành chăn nuôi cũng đã có tốc độ tăng trưởng khá cao và

ổn định. Năm 2002 tăng 9,9%, năm 2003 tăng 8,2% và năm 2004 tăng

2,2% [8,tr.8]. Năm 2004 tốc độ tăng chậm lại là do ảnh hưởng bởi dịch

cúm gia cầm. Nét nổi bật trong ngành chăn nuôi là đang dần chuyển sang

sản xuất hàng hoá, sản xuất theo mô hình trang trại với qui mô lớn và áp

dụng phương pháp chăn nuôi công nghiệp. Cùng với việc phát triển đàn

gia súc truyền thống, trong vài năm gần đây ngành chăn nuôi Việt Nam

đang chú ý phát triển các hàng hoá mới như chăn nuôi cừu, đà điểu, bò

lai sind, bò sữa nhập ngoại, lợn hướng nạc, lợn sữa xuất khẩu, ngan

Pháp, vịt Thượng Hải... do đó sản phẩm chăn nuôi đã đáp ứng tốt hơn

nhu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia xuất khẩu.

Thứ năm, xuất khẩu có những bước tiến vượt bậc. Trong giai đoạn

1990 - 2000, giá trị xuất khẩu chung tăng 20,35%/năm, trong đó giá trị

kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng bình quân 17,30%/năm. Thị trường

xuất khẩu hàng hoá nói chung, thị trường nông sản nói riêng cũng có

những thay đổi tích cực theo hướng cố gắng giữ ổn định những thị

trường truyền thống đồng thời nhanh chóng mở rộng thị trường xuất

khẩu mới. Đến nay hàng hoá nông sản Việt Nam đã thâm nhập được hầu

hết các thị trường trên thế giới, ví dụ gạo Việt Nam từ năm 1990-1992

chỉ xuất sang được 15 nước và phải nhờ qua trung gian thì nay đã có mặt

trên trên 50 nước, cà phê trên 40 nước, chè 42 nước.

Đơn vị tính: Triệu USD

Bảng 2.5: Giá trị xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 1995 - 2004

Tổng GT-XK

5.448,9

11.540 14.428,7 15.029,2

26.504,2

Giá trị hàng NLN

2.521,1 3.600,0

4.100,0 5.066,9

6.951,0

-Trong đó: nông sản

1.745,8 2.350,6

2.563,3 2.421,3

4.550,0

Chỉ tiêu 1995 1999 2000 2001 2004

% GTXK nông sản/

tổng GTXK

32,0

20,4

17,7

16,1

17,2

Nguồn: [8, tr.8-9, 27-29]

59

60

Qua bảng 2.5 ta thấy giá trị xuất khẩu nông sản ngày một tăng, năm

2004 so với năm 1995 tăng gấp 2,76 lần. Thể hiện sự phát triển nhanh

chóng của sản xuất nông nghiệp hướng ra xuất khẩu. Kim ngạch nông

sản xuất khẩu tăng bình quân gần 20%/năm. Trong khi đó tỷ trọng xuất

khẩu nông sản trong tổng giá trị xuất khẩu giảm từ 30,2% năm 1995

xuống 17,7% năm 2000 và 17,2% năm 2004. Điều này thể hiện sự thay

đổi theo chiều hướng tiến bộ trong cơ cấu của nền kinh tế, phù hợp với

yêu cầu phát triển của đất nước theo hướng CNH, HĐH. Đồng thời xuất

khẩu nông sản vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo

sự ổn định phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy tiến trình CNH.

Đổi mới cơ chế kinh tế đã thực sự tạo điều kiện cho ngành nông

nghiệp phát huy các lợi thế để tăng năng lực sản xuất và xuất khẩu, nhiều

mặt hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam đã tăng được thị phần và có sức

cạnh tranh cao trên thị trường thế giới như: gạo chiếm tới 20%; cà phê

chiếm 10%; điều chiếm 15% thị phần thế giới. Ngoài ra chè, cao su, hoa

quả,...cũng đã có những bước phát triển khá.

Kết quả đạt được trong hoạt động xuất khẩu của nước ta thời gian

qua là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà.

Song một vấn đề quan trọng và có tính quyết định là tích cực cải thiện

môi trường kinh tế vĩ mô, và môi trường thương mại cho hoạt động xuất

khẩu, không ngừng đổi mới chính sách nhằm khơi dậy và phát huy tốt

những lợi thế đó để phát triển.

Xu hướng phát triển về sản xuất nông sản trong thời gian qua thể

hiện rõ những nét nỗi bật sau:

- Sản xuất nông sản đã đi vào thế ổn định và phát triển theo hướng

thâm canh, áp dụng các tiến bộ KHKT. Nhờ thế đã nâng cao được năng

suất, chất lượng và tỷ suất hàng hoá.

61

- Nhiều tiến bộ KHKT được ứng dụng như đã đưa vào sản xuất đại

trà nhiều giống lúa có năng suất và chất lượng cao như CR 203; OM 80 -

81, IR 58; IR 64; các giống lai Trung Quốc và một số giống đặc sản có

chất lượng và phẩm cấp cao. Từ đó đã có những thay đổi sâu sắc trong

chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, nâng cao hệ số sử dụng đất, hạn chế và tránh

né được nhiều thiệt hại do thời tiết gây ra.

2.2.2 Những hạn chế

Kết quả sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam nói trên

trong những năm qua rất đáng kích lệ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tiềm

năng và lợi thế chưa được khai và phát huy một cách triệt để nhằm tăng

năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu. Các mặt hàng xuất

khẩu còn đơn điệu, xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô là chính, do vậy

không chỉ hạn chế về hiệu quả kinh tế mà còn giảm các lợi ích xã hội

(lao động, việc làm, thu nhập). Thực tế cho thấy, giá trị sản phẩm thô,

nguyên liệu trong giá trị quốc tế của hàng hoá xuất khẩu thường chiếm tỷ

lệ rất nhỏ so với phần giá trị chế biến. Tỷ lệ xuất khẩu dạng nguyên liệu

thô và sơ chế trong tổng khối lượng hàng xuất khẩu còn lớn phản ánh sự

yếu kém trong chế biến nông sản.

Những yếu kém của nông nghiệp Việt Nam thể hiện ở những điểm

sau:

Thứ nhất, cơ cấu sản xuất tuy đã có sự chuyển dịch tích cực song

còn chậm, chưa phát huy hết tiềm năng lợi thế của địa phương, lao động

nông thôn thiếu việc làm còn lớn, thu nhập của nông dân tuy có tăng

nhưng vẫn còn ở mức thấp và chưa vững chắc. Việc chuyển dịch cơ cấu

sản xuất nông sản chưa bám sát tín hiệu thị trường thế giới nên nhiều sản

phẩm làm ra khó và “không” tiêu thụ được (ví dụ, sản xuất quả vải năm

2003, sản xuất dưa hấu năm 2005, sản xuất hạt tiêu năm 2005).

62

Thứ hai, so với nhiều nước trong khu vực, cơ sở hạ tầng phục vụ

cho sản xuất nông nghiệp của Việt Nam còn nhiều yếu kém, công nghệ

lạc hậu nhất là công nghệ sinh học, công nghệ chế biến nông sản do đó

sản phẩm làm ra giá thành cao, chất lượng thấp, mẫu mã không phù hợp

với thị hiếu người tiêu dùng dẫn đến khó tiêu thụ.

Thứ ba, trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng sản xuất nông

nghiệp có xu hướng giảm sút, bên cạnh đó thị trường hàng nông sản

quốc tế có nhiều biến động không thuận, giá một số hàng nông sản biến

động thất thường và có xu hướng giảm mạnh (giá cà phê, chè) làm giảm

sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu của Việt Nam (do chi phí sản

xuất nội địa cao). Hơn nữa giá những vật tư "đầu vào" cho sản xuất nông

nghiệp như phân bón, xăng dầu, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc và thuốc

phòng bệnh gia súc, gia cầm Việt Nam còn bị lệ thuộc rất lớn vào thị

trường thế giới nên đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất và thu

nhập của nông dân khi có biến động tăng giá vật tư trên thế giới.

Thứ tư, xuất khẩu nông sản trong thời gian qua có sự tăng trưởng,

nhưng xét về qui mô vẫn còn nhỏ bé so với các nước trong khu vực cả về

tổng kim ngạch và kim ngạch tính trên đầu người.

Mặt khác, số lượng và chủng loại sản phẩm xuất khẩu còn đơn điệu

và một số sản phẩm có chiều hướng giảm sút như: lạc, đậu tương, ngô.

Đáng lẽ ra, những sản phẩm này Việt Nam có rất nhiều lợi thế về điều

kiện tự nhiên để phát triển.

Một số nông sản tuy bước đầu đã tạo được chổ đứng trên thị

trường, nhưng khả năng cạnh tranh vẫn còn thấp. Tài liệu nghiên cứu của

Tổ chức phát triển Liên Hiệp quốc (UNIDO) gần đây cho rằng “hiện nay

ở Việt Nam đang tồn tại xu hướng cạnh tranh dựa trên mức lương thấp

và nguồn tài nguyên thiên nhiên”. Đây là nhận xét chính xác. Nhưng ưu

63

thế này sẽ giảm dần cùng với quá trình phát triển và hội nhập kinh tế

quốc tế. Công tác thâm nhập, mở rộng và ổn định thị trường tiêu thụ,

cũng như thu mua, chế biến, vận chuyển, bảo quản nông sản còn nhiều

bất cập với yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá hướng vào

xuất khẩu.

Công tác quản lý của Nhà nước về thương mại tuy có nhiều sự cải

tiến nhưng nhìn chung còn khá thụ động. Sự phối hợp giữa các bộ,

ngành, địa phương chưa tạo được sức mạnh tổng hợp và còn thiếu nhiều

cán bộ quản lý có trình độ. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ nội địa đặc biệt

thị trường nông thôn chưa quan tâm đúng mức.

Thứ năm, cùng với mở cửa và hội nhập, hàng Việt Nam có được thị

trường rộng lớn hơn, nhưng đồng thời hàng hoá của nước ngoài cũng

thâm nhập thị trường nội địa nên hàng hoá của Việt Nam không chỉ phải

cạnh tranh với hàng của các nước khác trên thị trường khu vực và quốc

tế mà phải cạnh tranh ngay cả trên thị trường nội địa (ví dụ, gạo chất

lượng cao của Thái Lan vừa qua đang tràn ngập ở thị trường Việt Nam).

Tuy vậy, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất và chế biến nông sản chưa

xây dựng được cho mình chiến lược cạnh tranh trong khi thời hạn thực

hiện đầy đủ các nghĩa vụ khi hội nhập đang đến gần. Hiện đang có tình

trạng nhiều ngành sản xuất và doanh nghiệp đang theo đuổi một chiến

lược cạnh tranh thụ động dựa vào các “lợi thế trời cho” là chính. Các yếu

tố như lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí độc quyền, trợ cấp, lãi

suất ưu đãi, khung thuế... được các doanh nghiệp coi như cơ sở tồn tại và

phát triển. Rất ít doanh nghiệp dám theo đuổi một chiến lược chủ động

mà điểm cốt lõi là tạo ra một vị thế cạnh tranh khác biệt, tạo ra sản phẩm

độc đáo hơn cũng như qui trình sản xuất hợp lý hơn.

64

Thứ sáu, tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế

trong khi nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển ở trình độ thấp, lại

đang trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường nên một số thị

trường đang trong quá trình hình thành, hoạt động không hoàn chỉnh,

chịu sự chi phối của nhiều chính sách khác nhau. Trong lĩnh vực sản

xuất, sự yếu kém về công nghệ, cơ sở hạ tầng, quản lý làm giá thành sản

xuất cao, hiệu quả thấp. Về tiêu dùng, thu nhập dân cư thấp, sức mua hạn

chế làm thị trường trong nước chưa phát huy được khả năng. Trong kinh

doanh, nhiều DNNN đang trong quá trình sắp xếp lại tổ chức, vốn ít,

trình độ quản lý hạn chế, nên hiệu quả kinh doanh thấp, khả năng tiếp

cận thị trường kém, các doanh nghiệp tư nhân nhỏ bé, non trẻ và chưa

được hỗ trợ đầy đủ để tham gia cạnh tranh quốc tế.

Tham gia vào AFTA, nhưng cơ cấu sản phẩm nông nghiệp của Việt

Nam về cơ bản tương đối giống với cơ cấu nông nghiệp của các nước

ASEAN, trong khi nông sản xuất khẩu của ta chủ yếu lại dưới dạng chưa

chế biến hoặc mới sơ chế, nên dù đưa vào thực hiện CEPT/AFTA sớm

nhưng tác dụng tăng cường xuất khẩu chưa thể hiện mạnh và rõ rệt.

2.3 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG

SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM

2.3.1 Qui mô, khối lƣợng và khả năng cung ứng sản phẩm

2.3.1.1 Qui mô cung ứng sản phẩm

Những năm gần đây ở Việt Nam đã hình thành các vùng sản xuất

nông sản xuất khẩu tập trung như vùng trồng lúa xuất khẩu ĐBSCL, sản

lượng lúa tăng bình quân 7%/năm, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn từ 6,5

- 7,0 triệu tấn thóc và ĐBSH sản lượng bình quân tăng 3,5%/năm, có

khối lượng hàng hoá khoảng 1 triệu tấn thóc; vùng sản xuất cao su Đông

Nam Bộ và Tây Nguyên (diện tích của 2 vùng Đông Nam Bộ và Tây

65

Nguyên chiếm tới 76% diện tích của cả nước); vùng trồng cà phê Tây

Nguyên (chiếm tới 80 -90% diện tích và từ 85 - 98 % sản lượng cà phê

của cả nước); vùng trồng chè miền núi phía Bắc và Bảo Lộc, Lâm Đồng

(chiếm tới 75% diện tích chè cả nước); vùng sản xuất điều Đông Nam

Bộ, Duyên Hải miền Trung và Tây Nguyên (diện tích 237 ngàn ha chiếm

95% sản lượng điều cả nước) v.v...Sản lượng nông sản ở những vùng qui

hoạch tập trung này cũng ngày càng tăng đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong

nước và xuất khẩu.

Tuy nhiên, việc qui hoạch các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh

sản xuất nông sản hàng hoá nhưng còn thiếu sự gắn kết chặt chẽ với việc

cung ứng các dịch vụ đầu vào cho sản xuất dẫn tới nhiều vùng sản xuất

nông sản vượt quá khả năng cung cấp các dịch vụ như: tưới tiêu nước,

thu mua, chế biến, vốn tín dụng, thị trường. Ví dụ, vùng Tây Nguyên

việc mở rộng diện tích cà phê có nguy cơ vượt quá khả năng cung cấp

nước tưới làm ảnh hưởng xấu tới sản lượng và chất lượng cà phê. Chẳng

hạn, niên vụ cà phê năm 1997-1998, niên vụ 2004/2005, nắng hạn gay

gắt và thời gian khô hạn khéo dài trên diện rộng, dẫn tới thiếu nước tưới

nghiêm trọng làm hàng ngàn ha cà phê vùng Tây Nguyên bị chết.

Chính sự thiếu đồng bộ giữa qui hoạch sản xuất và khả năng cung

cấp dịch vụ đã dẫn đến hạn chế khả năng khai thác và phát huy các tiềm

năng và lợi thế so sánh, đặc biệt là chưa khai thác được lợi thế về qui

mô.

2.3.1.2 Khối lượng cung ứng sản phẩm

Sau hơn 15 năm đổi mới cơ chế kinh tế, khối lượng xuất khẩu của

hầu hết các loại nông sản của Việt Nam đều tăng nhanh ví dụ như xuất

khẩu hạt tiêu tăng 5,8 lần, xuất khẩu điều tăng 5,0 lần, chè tăng 4,8 lần,

cà phê tăng 3,4 lần và gạo tăng gần 2 lần so 1995 (bảng 2.6).

66

Khối lượng lúa gạo của Việt Nam so với tổng sản lượng gạo toàn

cầu tuy chỉ chiếm trên 7% nhưng thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam

trên thị trường thế giới chiếm tới 14,9%. Do vậy, sản lượng gạo xuất

khẩu của Việt Nam có ảnh hưởng đến lượng cung và giá gạo trên thế

giới.

Bảng 2.6: Sản lƣợng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam

Đơn vị tính

1995

1999

2000

2001

2002

2003

2004

Gạo

1000 tấn

1.998

4.508

3.476

3.729

3.241

3.812

3900

Cà phê

1000 tấn

248

482

733

931

711

749

850

Cao su

1000 tấn

138,1

263,0

273,4

308,1

444,0

433,3

385,0

Hạt điều

1000 tấn

19,8

18,4

34,3

43,7

62,8

84,0

100,0

Hạt tiêu

1000 tấn

17,9

34,8

37,0

57,0

77,0

74,1

104,0

Chè

1000 tấn

18,8

36,0

55,6

68,2

75,0

59,8

90,0

Lạc

1000 tấn

11,5

56,0

76,1

78,2

107,0

56,1

Rau quả

Triệu USD

106,5

213,5

344,3

221,2

151,5

Nguồn: [26-29]

So với Thái Lan - nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và cũng là

đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu gạo trước mắt cũng như lâu dài của

Việt Nam, diện tích canh tác lúa của Việt Nam chỉ bằng 45,65% nhưng

do hệ số quay vòng đất gấp 1,33 lần Thái Lan nên thực tế diện tích gieo

trồng lúa đạt gần 67% Thái Lan. Năng suất lúa bình quân của Việt Nam

cao hơn Thái Lan 1,62 lần. Đây cũng là một thế mạnh của nước ta trong

việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho gạo xuất khẩu (bảng 2.7)

Bảng 2.7: Một số chỉ tiêu so sánh về sản xuất lúa

% So sánh

I. Một số chỉ tiêu về sản xuất

- diện tích canh tác lúa (Tr. ha)

9,2

4,2

45,65

Chỉ tiêu Thái Lan Việt Nam (Vn/Thái )

- diện tích gieo trồng lúa

9,9

7,0

66,93

- hệ số qua vòng đất ( lần)

1,1

1,6

133,33

2. Tỷ lệ (%) diện tích được tưới

15,0

30,3

202,00

3,50

59,85

3.

Lượng

phân

hoá

học

2,09

(tr.tấn/năm)

4. Phân bón (kg /1 ha )

250

310

120,33

5. Năng suất BQ lúa (tạ/ha)

25,0

40,0

162,06

Nguồn [ 40, tr. 62]

67

Hiện nay, Việt Nam là một trong 3 nước sản xuất cà phê lớn nhất

thế giới. Sản lượng cà phê của Việt Nam chiếm tới 8% tổng khối lượng

cà phê toàn cầu. Sản xuất cà phê đã vượt Colombia, đứng vị trí thứ nhì

trên thế giới sau Braxin. Hiện nay, Việt Nam trở thành nước sản xuất và

xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất trên thế giới.

Sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh là do những

năm qua diện tích và năng suất cà phê tăng mạnh. Tốc độ tăng năng suất

cao hơn tốc độ tăng diện tích. Năng suất cà phê Robusta của Việt Nam

cao vào loại nhất nhì thế giới, có hàng ngàn ha năng suất đạt tới 30 tạ/ha.

Năng xuất cao hơn Indonexia khoảng 1,5 -1,7 lần (bảng 2.8).

Do vậy, những biến động về sản lượng cà phê của Việt Nam có ảnh

hưởng lớn đến cung cầu và giá cả đặc biệt là giá cà phê robusta của thế

giới.

Đơn vị tính:kg/ha

Bảng 2.8: Năng suất cà phê của Việt Nam và thế giới

Việt Nam

Thế giới

VN/TG (lần)

Năm

Indonexia Châu Á

561

421

469

1,70

800

1991

559

770

552

2,35

1300

1996

847

775

600

2,85

1710

1997

927

767

650

2,80

1830

1998

930

780

680

2,9

1900

1999

Nguồn [ 40,Tr. 65]

68

Sản lượng cao su Việt Nam chỉ chiếm gần 3% tổng sản lượng cao

su thế giới do diện tích và năng suất cao su của của Việt Nam thấp hơn

rất nhiều so với các đối thủ cạnh tranh (bảng2.9).

Trong khu vực châu Á, 3 nước sản xuất cao su tự nhiên lớn nhất là

Malaysia, Indonexia, Thái Lan, sản lượng của 3 nước này khoảng 3,7-3,8

tr. tấn gấp 25 lần sản lượng cao su Việt Nam. Năm 2004, Việt Nam xuất

khẩu 385 nghìn tấn mủ chiếm khoảng 5,6% tổng khối lượng xuất khẩu

toàn thế giới [8,tr.8]. Do đó qui mô cung ứng cao su của Việt Nam ảnh

hưởng rất nhỏ đến cung cầu và giá cao su tự nhiên trên thị trường thế

giới. Năng suất và sản lượng cao su tự nhiên của Việt Nam thấp nên Việt

Nam gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh trên thị trường thế

giới.

Bảng 2.9: Năng xuất cao su tự nhiên ở một số nƣớc

Đơn vị tính kg/ha

Tên nƣớc Năm 1999 Năm 2000 Năm 2000 so

năm 1999 (%)

108,7 Inđônêxia 683,6 743,5

71,18 Malaixia 800,2 569,6

96,9 Philippines 708,9 686,7

145,2 Thái Lan 1012,9 1470,8

131,9 Việt Nam 261,3 344,8

Nguồn: [51, tr.30]

116,1 Toàn thế giới 784,3 910,3

Tốc độ tăng sản lượng cao su của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây

đạt bình quân khoảng 15-17%/năm lớn hơn tốc độ tăng bình quân của

toàn thế giới (khoảng 4,5-5%/năm), do đó tỷ trọng về khối lượng sản

69

phẩm cao su của Việt Nam so với sản lượng toàn cầu sẽ tăng lên trong

những năm tới.

Theo tài liệu của tổ chức Nông lương Liên Hiệp quốc (FAO) đánh giá

đến năm 2004, Việt nam là nước đứng thứ 10 trên thế giới về sản xuất và

xuất khẩu chè. Việt nam có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất và

xuất khẩu chè nên trong những năm qua sản xuất chè Việt Nam cũng

phát triển mạnh cả về diện tích và sản lượng. Tuy nhiên, so với tổng sản

lượng chè thế giới, sản lượng chè của Việt Nam còn rất khiêm tốn chỉ

chiếm khoảng 2%, trong khi đó Ấn Độ chiếm 27,3%, Trung Quốc 24,6%

và Xrilanca 9,75% [35].

Năm 2004, Việt nam xuất khẩu được 97 ngàn tấn với kim nghạch

đạt 93 triệu USD, tăng 60,8% về lượng và 55% về giá trị so với năm

2003 [41, 49]. Nếu so với khối lượng chè buôn bán trên thế giới (khoảng

1,2-1,5tr. tấn/năm) thì khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam còn quá

nhỏ bé chỉ chiếm dưới 3% thị phần. Đây cũng là hạn chế cho ngành chè

Việt Nam tiếp cận buôn bán mậu dịch với các bạn hàng lớn và ổn định.

Ngược lại với tình hình sản xuất cao su và chè, những năm gần đây

cây điều đang nổi lên thành cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, nhiều nơi

còn gọi là "cây xoá nghèo". Bởi vì, điều là cây trồng thuộc vùng đất cát

ven biển, có thể chịu hạn rất cao, trồng trên các vùng đất khó khăn như

vùng Duyên Hải miền Trung Nam Bộ, Đông Nam Bộ. Trong vòng 20

năm diện tích điều tăng gấp 8,3 lần; sản lượng tăng gấp 9 lần. Đến nay

sản lượng điều Việt Nam đã vượt qua Indonesia, dẫn đầu châu Á và

đứng thứ 3 thế giới, chỉ sau Ấn Độ và Brazin, do vậy sản xuất điều của

Việt Nam có ảnh hưởng lớn đến diễn biến thị trường điều thế giới.

Xuất khẩu điều những năm gần đây đạt được những bước tiến vượt

bậc, từ chỗ Việt Nam chỉ xuất khẩu hạt điều thô là chủ yếu nay đã tăng

70

cường được các cơ sở chế biến nên hoàn toàn chuyển sang xuất điều

nhân. Ngoài ra hàng năm nước ta còn nhập một khối lượng lớn điều thô

về chế biến và tái xuất, đưa sản lượng điều nhân xuất khẩu năm 2004 lên

100 ngàn tấn, tăng gấp 12 lần so với năm 1990. Kim ngạch xuất khẩu

tăng lên một cách đáng kể từ 14 triệu USD năm 1990 lên 400 triêu USD

vào năm 2004, tăng 28,57 lần [29,41,49]. Điều nhanh chóng trở thành

một trong những nông sản xuất khẩu chủ lực có kim ngạch xuất khẩu

đứng vào hàng thứ 4 trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt

Nam.

Ngoài lương thực và cây công nghiệp dài ngày, ngành trồng rau,

hoa quả của Việt Nam trong 2 thập kỷ vừa qua cũng đạt được mức tăng

trưởng cao. Diện tích rau quả năm 2003 đạt 1,3 triệu ha, tăng 40% so với

năm 1996, sản lượng đạt 13,8 triệu tấn. Trong đó, diện tích rau quả ôn

đới phục vụ cho nhu cầu cao cấp và xuất khẩu được trồng ở Tây Nguyên

và Đà Lạt với diện tích 41,8 ha và sản lượng 816 ngàn tấn [8, tr.8,29].

Xuất khẩu rau qua năm 2003 tăng so với năm 1995 khoảng 2,7 lần

(bảng 2.6). Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam còn

quá nhỏ so với nhu cầu của thị trường thế giới và không tương xứng với

tiềm năng và lợi thế về điều kiên thiên nhiên của Việt Nam.

2.3.1.3 Thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam

Thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam ngày càng được mở

rộng nhưng vẫn thiếu tính bền vững.

Việt Nam đã xuất khẩu gạo sang 59 nước trên thế giới, trong đó

châu Á và châu Phi là những thị trường xuất khẩu chính, chiếm khoảng

70%-85% tổng lượng gạo xuất khẩu hàng năm.

Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã mở rộng ra trên 50

nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có 2 thị trường lớn là

71

Singapore và Hồng Kông. Cà phê Việt Nam đã từng bước chiếm lĩnh

một số thị trường khó tính như EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản với số lượng ngày

càng tăng.

Thị trường xuất khẩu của cao su Việt Nam cũng biến đổi cơ bản

trong thập kỷ vừa qua. Trước năm 1990, các nước XHCN Đông Âu cũ

và Singapore là thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam. Sau khi các

nước XHCN Đông Âu tan rã, Việt Nam chuyển hướng xuất khẩu sang

các nước như Trung Quốc và Mỹ, ngoài ra vẫn giữ khách hàng truyền

thống Singapore. Trong khoảng 5-7 năm trở lại đây cao su của Việt Nam

được xuất khẩu đi tới khoảng 40 nước trên thế giới bao gồm thêm các

nước Đông Bắc Á và châu Âu. Trung Quốc hiện là thị trường có sức tiêu

thụ cao su mạnh nhất của Việt Nam. Thị trường châu Âu từ chỗ chỉ

chiếm trên dưới 7% tổng thị phần vào năm 1995-1996 đã lên tới 27-29%

trong những năm 2000-2001. Thị trường Bắc Mỹ là một thị trường khá

quan trọng của các nước xuất khẩu cao su. Tỷ trọng của thị trường này

đối với Việt Nam có tăng lên song về mặt qui mô còn hạn chế.

Đối với mặt hàng chè xuất khẩu, cho đến nay Việt Nam chưa có

bạn hàng nào nhập khẩu chính. Chè của Việt Nam được tiêu thụ rải rác

từ Irắc, Libi, Angiêri đến Anh, Pháp, Ba Lan, Nga, Nhật Bản, Hồng

Kông, Đài Loan, Mỹ. Với thị phần xuất khẩu quá nhỏ bé, Việt Nam

không có khả năng chi phối được giá chè trên thị trường thế giới.

Riêng đối với mặt hàng rau quả xuất khẩu, trong 2 năm gần đây kim

nghạch giảm đáng kể. Nguyên nhân do thiếu thị trường tiêu thụ, thị

trường tiêu thụ rau quả của Việt Nam còn lệ thuộc rất lớn vào nhu cầu

nhập khẩu của Trung Quốc (vải, chuối, dưa hấu), các đơn vị kinh doanh

xuất khẩu thiếu tính nhạy bén và năng động trong việc chủ động tìm

kiếm thị trường tiêu thụ.

72

2.3.1.4 Khả năng sẵn sàng cung ứng sản phẩm

Khả năng sẵn sàng cung ứng sản phẩm cho xuất khẩu của Việt Nam

kém do qui mô sản xuất của các hộ gia đình nhỏ lẻ, khâu thu mua, bảo

quản và chế biến,vận chuyển còn nhiều bất cập.

Do hạn chế về mức hạn điền nên khó mở rộng qui mô sản xuất của

hộ gia đình và trang trại. Qui mô ruộng đất của hộ nông dân quá nhỏ,

bình quân đất canh tác cho 1 hộ nông nghiệp là 7.800m2. Một số vùng

như ĐBSH, Bắc Trung Bộ diện tích còn ít hơn. Việt Nam là nước có

diện tích đất canh tác bình quân đầu người thấp nhất trong các nước

ASEAN. Do đó, rất khó khăn trong việc cơ giới hoá nông nghiệp để tăng

năng suất lao động cũng như tổ chức thu mua, chế biến nông sản. Ví dụ,

qui mô sản xuất cây ăn quả của nước ta còn quá nhỏ chỉ từ 0,5- 2

ha/trang trại. Những năm gần đây, nhờ chính sách khuyến khích phát

triển trang trại, đã hình thành nhiều vườn cây có diện tích lớn hơn ở các

tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và vùng ĐBSCL. Chính

qui mô sản xuất nhỏ này là một nguyên nhân cản trở viêc áp dụng công

nghệ chế biến, bảo quản và xuất khẩu rau quả làm giảm sức cạnh tranh

của mặt hàng rau quả xuất khẩu của Việt Nam.

Có thể nói, yếu điểm nhất trong khâu sản xuất nông sản là chúng ta

thiếu qui hoạch và kế hoạch, qui mô sản xuất nhỏ lẻ. Nhiều loại nông sản

còn sản xuất theo kiểu phong trào thiếu sự định hướng của Nhà nước nên

sản phẩm làm ra khó tiêu thụ. Tình trạng tự phát, manh mún không gắn

với thị trường diễn ra phổ biến. Trong nhiều thời điểm sản xuất vượt quá

nhu cầu tiêu dùng trong nước và năng lực xuất khẩu dẫn tới giá nông sản

giảm mạnh làm giảm thu nhập của người sản xuất. Tình trạng sản xuất

nông sản theo hướng quảng canh, đốt nương làm rãy còn diễn ra tràn lan

73

làm tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá, đất đai bị xói mòn, giảm nguồn

nước (ví dụ, đối với cây cà phê, cao su và cây chè).

Hàng nông sản xuất khẩu phần lớn được sản xuất từ các vùng qui

hoạch tập trung, nhưng trình độ sản xuất ở các vùng rất khác nhau, trình

độ canh tác, thâm canh của các hộ cũng không đồng đều, các cơ sở chế

biến, kinh doanh xuất khẩu thiếu phương tiện bảo quản nên khi ký được

hợp đồng xuất khẩu mới mua gom từ các hộ sản xuất làm chất lượng

hàng xuất khẩu thấp, tính ổn định kém, thời gian giao hàng không đảm

bảo dúng tiến độ hợp đồng.

Cơ sở hạ tầng yếu kém, đặc biệt là giao thông vận tải, bến cảng, kho

bãi còn nhiều bất cập so với yêu cầu CNH &HĐH nông nghiệp và nông

thôn, làm chi phí sản xuất, xuất khẩu tăng do thời gian bốc dỡ tại cảng

kéo dài, chi phí vận tải chênh lệch với các đối thủ cạnh tranh quá lớn dẫn

tới giảm sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu.

Khả năng cung ứng sản phẩm cho xuất khẩu kém không đáp ứng

được yêu cầu của khách hàng về thời gian, số lượng, độ đồng đều về chất

lượng...làm giảm sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam.

2.3.2 Chất lƣợng hàng nông sản xuất khẩu

Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong những

năm gần đây đã có một số chuyển biến như tăng tỷ lệ xuất khẩu nông sản

đã qua chế biến sâu, bước đầu đã tạo được năng lực cạnh tranh của hàng

nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới do các nhà sản xuất trong

nước đã chú trọng hơn tới việc đầu tư đổi mới công nghệ chế biến, nâng

cao chất lượng sản phẩm.

Hiện nay, mặt hàng gạo, thuỷ hải sản, cà phê, nhân điều, hạt tiêu

của Việt Nam đã được nhiều nước ưa chuộng và đánh giá tốt về chất

74

lượng. Chẳng hạn mặt hàng cà phê Việt Nam đã sớm có tiếng nói trên thị

trường EU bởi chất lượng thơm ngon, có hương vị riêng. Vì thế, xuất

khẩu sang thị trường EU chiếm tới 50% tổng lượng cà phê xuất khẩu của

Việt Nam. Theo đánh giá của Hiệp hội cà phê ca cao thế giới, cà phê

Việt Nam có chất lượng cao hơn cà phê của Ấn Độ và Inđônêxia, tương

đương với cà phê của Braxin và Achentina.

Cơ cấu xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng đã có một số chuyển biến

tích cực, giảm tỷ trọng gạo 25-35% tấm, tăng tỷ lệ gạo có chất lượng cao

loại 5-10% tấm. Nếu so với chất lượng và uy tín gạo Thái Lan thì chất

lượng và chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn thua kém rất nhiều.

Gạo Thái Lan phù hợp với thị trường có thu nhập cao như Nhật, EU,

Trung Đông...Trong cùng thời gian Thái Lan xuất khẩu gạo có phẩm cấp

cao thường chiếm tới 60-62%, trong khi đó Việt Nam mới đạt 35-40% so

với tổng lượng gạo xuất khẩu.

Có thể nói, chất lượng nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu vẫn thua

kém các đối thủ cạnh tranh. Ví dụ, độ đồng đều về kích cơ và trọng

lượng, tính ổn định về chất lượng của các lô hàng xuất khẩu trái cây của

Việt Nam kém so với Thái Lan.

Nguyên nhân dẫn tới chất lượng hàng nông sản xuất khẩu chưa cao

là do chúng ta chưa quan tâm đầu tư đúng mức cho công tác nghiên cứu

lai tạo giống, phương pháp canh tác, thu hoạch, bảo quản, chế biến và

vận chuyển nông sản.

Công nghệ sinh học chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, đặc biệt

trong khâu nghiên cứu lai tạo giống để tạo ra những loại nông sản có

chất lượng vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh.

75

Công tác kiểm định giống cây trồng vật nuôi nhập ngoại thực hiện

không tốt làm cho người sản xuất bị thua thiệt rất nhiều (ví dụ, giống ngô

nhập của Trung Quốc về trồng ở Việt Nam không cho hạt, lúa lai nhập

khẩu về trồng cho hạt lép...).

Mặc dù, công nghệ chế biến nông sản trong 15 năm qua (1990 -

2005) đã được cải thiện, giá trị sản lượng công nghiệp chế biến so với

giá trị sản lượng nông nghiệp tăng từ 33,8% vào năm 1990 lên 42% năm

1998 và đến năm 2003 lên 45% [26-29] nhưng vẫn chưa đáp ứng được

yêu cầu phát triển ngành nông nghiệp hướng vào xuất khẩu.

Đầu tư cho công nghiệp chế biến chưa tương xứng với tốc độ phát

triển của sản xuất nông nghiệp. Theo đánh giá chung “hệ số đổi mới”

thiết bị chỉ đạt 7% năm (bằng 1/2 -1/3 mức tối thiểu của các nước khác).

Tuy đã có nhiều doanh nghiệp tích cực đổi mới công nghệ, song nguồn

vốn hạn hẹp nên đã sử dụng công nghệ chắp vá, thiếu đồng bộ. Kèm theo

đó là tổ chức sản xuất và bộ máy quản lí cồng kềnh. Hai vấn đề này tạo

nên sự lệch pha và bấp cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập.

Nhìn tổng thể, hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam phần lớn vẫn

ở dạng thô và sơ chế là chính, tỷ trọng chế biến sâu mới đạt 25%. Mặt

khác do nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thu gom là chính, qui mô

sản xuất nhỏ nên chất lượng nguyên liệu thấp và không đồng đều làm

ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Các cơ sở, kho tàng, bến bãi không

đảm bảo chất lượng, máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, thiếu đồng bộ, công

suất sử dụng các nhà máy chế biến thấp, bình quân đạt 50 -60%, lãng

phí và hao tốn nguyên nhiên vật liệu lớn cũng là những nguyên nhân lớn

dẫn tới chất lượng sản phẩm chế biến thấp, giá cả nông sản chế biến cao

làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu.

76

Những khâu xử lý sau thu hoạch gồm bảo quản, chế biến, đóng gói

nông sản hiện nay ở nước ta cũng còn thiếu sự đầu tư thoả đáng và

không tương xứng với tiềm năng về sản xuất và xuất khẩu. Công nghiệp

chế biến nông sản đã thiếu về số lượng nhưng lại chưa hợp lý về qui

hoạch, chưa có sự kết hợp chặt chẽ với vùng nguyên liệu dẫn đến tình

trạng nhà máy chế biến đói nguyên liệu buộc phải đi mua nguyên liệu ở

những vùng quá xa làm tăng chi phí đầu vào, giảm năng lực cạnh tranh

cho nông sản chế biến, hoặc có những vùng trồng nhiều nguyên liệu

nhưng lại thiếu cơ sở chế biến gây tổn thất sau thu hoạch lớn do nông

sản làm ra chưa được chế biến ngay.

2.3.3 Chủng loại, mẫu mã nông sản xuất khẩu

Hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây

đã có nhiều cải tiến theo hướng đa dạng hơn về chủng loại, nhưng chủ

yếu vẫn chỉ tập trung vào một số mặt hàng như gạo, cà phê, cao su, tiêu,

điều và rau quả.

Cơ cấu sản xuất chưa hợp lý, chưa quan tâm đến nhu cầu thay đổi

của thị trường thế giới. Ví dụ, trong sản xuất gạo Việt Nam cũng chỉ mới

đẩy mạnh sản xuất loại gạo tẻ thường mà chưa chú trọng sản xuất những

loại gạo đặc sản có giá trị xuất khẩu cao, sản xuất những loại gạo sạch để

xuất khẩu cho những thị trường cao cấp. Trong sản xuất cà phê, chúng ta

còn tập trung quá lớn vào sản xuất cà phê Robusta trong khi đó chưa

quan tâm mở rộng sản xuất cà phê Arabica là loại cà phê đang được thị

trường ưa chuộng, giá cao.

Ngành chế biến cao su vẫn chậm đổi mới so với yêu cầu đa dạng về

các loại sản phẩm cao su của thị trường thế giới. Hiện nay, Việt Nam

mới có 4 chủng loại cao su được chế biến để xuất khẩu là cao su khối

(SVR) chiếm tỷ lệ cao trên 95% chủ yếu xuất khẩu sang thị trường trung

77

Quốc, loại mủ cô đặc (mủ kem, mủ ly tâm) chiếm 3%, loại cao su xông

khói (RSS hoặc ICR) chỉ chiếm 1,5% và cao su Crếp chiếm 0,5%.

Những số liệu trên cho thấy chế biến cao su chủ yếu vấn là sơ chế, chế

biến thô, nên hạn chế lớn đến khả năng cạnh tranh, bị thua thiệt nhiều về

giá và khả năng thâm nhập vào thị trường thế giới. Mặt khác sản lượng

thấp và mẫu mã sản phẩm chế biến đơn điệu làm hạn chế khả năng tiếp

thị và xâm nhập vào các thị trường có sức mua cao và ổn định, như: Mỹ,

Nhật Bản. Trong khi đó, để xâm nhập thị trường EU, Bắc Mỹ, Chính phủ

Thái Lan đang áp dụng chương trình hỗ trợ kỹ thuật công nghệ để nâng

cao tỷ trọng cao su SR xuất khẩu lên 20% (khoảng 200- 250 ngàn

tấn/năm, chỉ tính riêng cao su loại SR đã lớn hơn cả tổng sản lượng cao

su của Việt Nam). Đây thực sự là thách thức lớn đối với Việt Nam trong

việc thâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu cao su sang các thị

trường này.

Có thể nói, chủng loại, mẫu mã nông sản xuất khẩu đơn điệu, chủ

yếu mới xuất khẩu những gì Việt Nam "có" chứ chưa hướng tới xuất

khẩu những gì "thị trường cần". Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh

cho hàng nông sản xuất khẩu dưới giác độ tăng khả năng mặc cả về giá,

tăng khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu cần phải đa dạng hoá các

chủng loại, mẫu mã sản phẩm.

2.3.4 Thƣơng hiệu sản phẩm và xúc tiến thƣơng mại

2.3.4.1 Thương hiệu sản phẩm

Trong thời gian vừa qua Việt Nam chưa quan tâm đúng mức đến

xây dựng thương hiệu làm giảm năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản

kể cả thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu. Mặc dù, hàng nông

sản của Việt Nam xuất khẩu tới nhiều nước trên thế giới nhưng phần lớn

không có thương hiệu nên ít người biết đến. Chẳng hạn, Việt Nam là

78

nước xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất thế giới nhưng cho đến nay chưa có

thương hiệu cho sản phẩm này. Gạo, chè, cao su xuất khẩu cũng không

có thương hiệu sản phẩm. Nhiều mặt hàng có tiếng nhưng do không

quan tâm đến thương hiệu nên đã bị đánh cắp nhãn hiệu. Ví dụ, trường

hợp mất thương hiệu cà phê Trung Nguyên, bánh phồng tôm Sa Giang,

kẹo dừa Bến Tre, nước mắm Phú Quốc, nhãn hiệu Rồng Vàng của

Vinatea. Do Việt Nam không chú ý đến đăng ký nhãn hiệu Rồng Vàng

trên thị trường Nga nên một số công ty ở Nga đã đăng ký mất nhãn hiệu

này và hậu quả là Vinatea đã mất cả nhãn hiệu và thị trường. Để mua lại

nhãn hiệu của chính mình, Vinatea đã phải chi mất 250 ngàn USD. Hãng

cà phê Trung Nguyên cũng phải chi ra gần 250 triệu USD để mua lại

chính thương hiệu của mình. Đây là những bài học đắt giá cho Việt Nam

trong việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu hàng hoá.

Cho đến nay phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa có những

chiến lược xây dựng thương hiệu cho hàng nông sản xuất khẩu. Điều này

đã làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp

trên thương trường. Ông Lê Hoàng Minh, Phó Chủ tịch thường trực Hội

Nông dân Việt Nam trong bài phát biểu tại Hội thảo "Kinh tế nông thôn

trên đường hội nhâp"tổ chức ngày 19/4/2005 tại Long An, cho biết trong

số 173 doanh nghiệp của ngành nông nghiệp chỉ có 36 doanh nghiệp có

đăng ký thương hiệu trong nước và trong đó chỉ có 5 doanh nghiệp đăng

ký thương hiệu ở nước ngoài [49]. Đây thực sự là một trở ngại lớn cho

việc mở rộng thị trường xuất khẩu đặc biệt xuất khẩu vào những thị

trường cao cấp.

2.3.4.2 Xúc tiến thương mại và phát triển thị trường

Trong những năm gần đây, thực hiện chính sách mở cửa, thị trường

nông sản được hội nhập và phát triển theo hướng đa phương hoá, đa

79

dạng hoá. Chính vì vậy, bên cạnh thị trường truyền thống, nhiều thị mới

được thiết lập, hứa hẹn nhiều tiềm năng cho lĩnh vực xuất khẩu nông

sản.

Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách phát triển thị trường nhằm

khuyến khích mở rộng thị trường nông sản đặc biệt là thị trường xuất

khẩu, nhiều chương trình xúc tiến thương mại đã được thực hiện. Chẳng

hạn, ngày 22/10/2004, Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định "Danh

mục hàng hoá trọng điểm và danh mục thị trường trọng điểm xúc tiến

thương mại năm 2004". Trong đó, Bộ Thương Mại ưu tiên hỗ trợ xúc

tiến thương mại đối với một số ngành hàng nông sản xuất khẩu. Ví dụ,

đối với mặt hàng rau quả chế biến nếu xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ,

EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga và các nước Đông Âu sẽ

được ưu tiên trong chương trình xúc tiến thương mại.

Tuy nhiên, chương trình xúc tiến thương mại cho đến nay vẫn chưa

chú trọng đến việc phát triển thị trường phi truyền thống, trong khi chính

những thị trường này mới cần được hỗ trợ xúc tiến thương mại từ phía

Nhà nước. Đây là một điểm yếu trong công tác xúc tiến thương mại.

Công tác tổ chức dự báo thị trường, thu thập xử lý thông tin tuy có

tiến bộ nhưng còn rời rạc, thiếu tính hệ thống từ cơ sở vật chất đến

phương thức tổ chức, nghèo nàn về nội dung, độ tin cậy không cao,

chậm về thời gian nên chưa trở thành công cụ có sức mạnh trong chỉ đạo,

hướng dẫn sản xuất - tiêu dùng.

Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản chưa làm tốt

công tác thu thập và nghiên cứu thông tin thị trường, chưa có những

phản ứng nhanh nhạy với diễn biến cung - cầu trên thị trường dẫn đến

trong nhiều thời điểm xuất khẩu nông sản của Việt Nam bị thua thiệt rất

nhiều so với các đối thủ cạnh tranh. Ví dụ, do thiếu thông tin hoặc thông

80

tin không chính xác, các doanh nghiệp ký kết hợp đồng kỳ hạn bán sản

phẩm với giá thấp nhưng đến thời điểm giao hàng, giá thế giới lại tăng

nên doanh nghiệp bị thiệt hại nặng (trường hợp ký hợp đồng bán gạo

năm 2003).

Ở tầm vĩ mô, hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong

việc xây dựng và phát triển thị trường, xúc tiến thưng mại, xây dựng các

quan hệ song phương, tạo điều kiện cho xuất khẩu nông sản còn rất hạn

chế, thiếu chủ động. Hoạt động nghiên cứu thị trường ở các cơ sở nghiên

cứu của các bộ, ngành còn bị xem nhẹ, thiếu đầu tư về cơ sở vật chất,

yếu về năng lực nghiên cứu nên chưa làm tốt được chức năng tư vấn,

hướng dẫn thị trường, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển nông

nghiệp nói chung và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản nói riêng. Sự yếu

kém trong việc tạo lập và ổn định thị trường xuất khẩu là một trong

những nguyên nhân hạn chế khả năng phát huy các lợi thế so sánh và

thực hiện các chiến lược cạnh tranh.

Tóm lại, trong những năm qua công tác xúc tiến thương mại và phát

triển thị trường vẫn chưa tương xứng với tiềm năng xuất khẩu nông sản.

2.3.5 Môi trƣờng kinh doanh

Từ khi thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Nhà nước đã ban

hành, bổ sung và sửa đổi nhiều luật như luật đầu tư khuyến khích trong

nước, luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, luật cạnh tranh, luật đất

đai,...nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích mọi

thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế. Song song với việc ban hành

hệ thống luật pháp, Chính phủ cũng ban hành nhiều chính sách nhằm

thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước trong đó có lĩnh vực nông nghiệp và

nông thôn như chính sách đầu tư, chính sách thương mại, chính sách

thuế, chính sách tỷ giá v.v....

81

Chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn tiếp tục được điều

chỉnh theo hướng đầu tư tập trung, cắt giảm các khoản đầu tư kém hiệu

quả. Tuy nhiên, đầu tư cho nông nghiệp cho nông nghiệp của Việt Nam

còn quá thấp chỉ đáp ứng được 40-45% nhu cầu phát triển, không tương

xứng với sự đóng góp của ngành vào GDP, chưa nói đây là một ngành

cần phải được quan tâm như là mặt trận hàng đầu. Trong đó, đầu tư xây

dựng cơ sở hạ tầng (thuỷ lợi, giao thông, điện, thông tin, kho bãi,...) ở

các vùng sản xuất chuyên canh, vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và

xuất khẩu nông sản còn nhiều yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu phát

triển một nền nông nghiệp hàng hoá lớn. Đầu tư cho công nghiệp chế

biến chỉ chiếm 17,3% vốn đầu tư cho nông nghiệp [28].

Chính sách tự do lưu thông hàng hoá đã khuyến khích mở rộng lưu

thông hàng hoá giữa các vùng, các miền, trong nước và nước ngoài, tạo

môi trường thương mại thông thoáng khuyến khích mọi thành phần kinh

tế tham gia vào sản xuất - lưu thông tiêu thụ hàng hoá. Việc mọi thành

phần kinh tế được tham gia xuất khẩu đã tạo môi trường cạnh tranh trong

việc xuất khẩu nông sản. Trước đây chỉ có DNNN được phép xuất khẩu,

thậm chí qui định vào một số đầu mối nhất định, tạo nên sự độc quyền,

đặc lợi lớn trong hoạt động xuất nhập khẩu.

Chính sách khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu cũng có nhiều thay

đổi theo hướng tích cực như: Chính phủ bỏ hầu hết việc cấp quota xuất

khẩu đối với các nông sản và nới rộng hạn ngạch xuất khẩu gạo; sửa đổi

luật thuế xuất nhập khẩu theo hướng hoàn thiện những qui định về mặt

pháp lý tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và bảo hộ

có điều kiện sản xuất trong nước, xoá bỏ dần những thủ tục hành chính

trong quản lý xuất nhập khẩu từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế.

82

Để giải quyết tình trạng thiếu vốn, Nhà nước cho vay lãi suất ưu đãi

(lãi suất thấp 0.2%/ tháng) và đang xúc tiến thành lập Quĩ tín dụng xuất

khẩu. Tuy nhiên, việc thành lập Quĩ tín dụng xuất khẩu còn chậm nên

chưa góp phần hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu.

Nhà nước khuyến khích tạo lập và phát triển thị trường các yếu sản

xuất như: thị trường quyền sử dụng đất, thị trường vốn, thị trường lao

động, thị trường vật tư và thông tin. Từ đó đã khuyến kích sản xuất, giao

thương hàng hoá thông suốt ở các vùng trong cả nước trên cơ sở phát

huy tốt hơn lợi thế so sánh và sử dụng hiệu quả hơn tiềm năng của các

vùng, địa phương, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, hình thành

các vùng chuyên canh, vùng sản xuất nguyên liệu, nâng cao năng lực chế

biến, làm tăng hiệu quả kinh tế và giảm giá thành sản phẩm.

Bên cạnh đó, các hoạt động hội nhập với các tổ chức quốc tế -

thương mại được xúc tiến mạnh mẽ. Tháng 11 năm 1998, Việt Nam đã

gia nhập APEC, đồng thời đang tích cực đàm phán gia nhập WTO vào

tháng 12 năm 2005. Chính những hoạt động trên nhằm tạo ra một môi

trường thương mại bình đẳng, thuận lợi cho phát triển và mở rộng thị

trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và nông sản nói riêng.

Một trong những chính sách vĩ mô ảnh hưởng lớn đến ngành nông

nghiệp là chính sách tỷ gía hối đoái. Trong những năm gần đây, chính

sấch tỷ giá đã có sự điều chỉnh tích cực theo hướng thị trường. Tuy

nhiên, sự can thiệp của Nhà nước vẫn còn đáng kể. Do đó trong nhiều

thời điểm tỷ giá VND/USD bị đánh giá cao hơn giá trị thực làm suy yếu

đáng kể khả năng cạnh tranh, ví dụ, thời kỳ 1995-2000 do đồng nội tệ

được đánh quá cao đã làm giảm sức cạnh tranh về giá của gạo xuất khẩu

1,65% (bảng 2.10).

83

Có thể nói, môi trường kinh doanh đã có nhiều thay đổi thuận lợi

nhưng chưa thực sự thông thoáng được thể hiện ở những điểm sau:

+ Các thủ tục hành chính của Việt Nam còn rườm rà làm tốn thời

gian của doanh nghiệp. Ví dụ, số thủ tục thành lập doanh nghiệp mới ở

Việt Nam cần 11, trong khi ở các nước thuộc khu vực Đông Á và Thái

Bình Dương chỉ cần 8. Thời gian cần thiết để tuân thủ các qui định về

thuế ở Việt Nam là 1.050 giờ/năm, trong khi ở các nước thuộc khu vực

Đông Á và Thái Bình Dương chỉ cần 251 giờ/năm [33, tr. 22 - 32].

+ Cơ sở hạ tầng kém làm tăng chi phí (vận chuyển, lưu kho bãi,...)

kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Tình trạng độc quyền trong sản xuất và cung ứng dịch vụ đầu vào

như điện, nước, bưu chính, viễn thông dẫn tới giá dịch vụ đầu vào cao do

đó làm tăng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Thị trường các yếu tố sản xuất, đặc biệt là thị trường quyền sử

dụng đất chậm ra đời, giá đất đai chưa phản ánh đúng giá trị thực của nó

dẫn tới khó tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh, đất đai bị sử dụng

lãng phí.

+ Còn thiếu bình đẳng giữa DNNN và DNTN trong việc tiếp cận

các nguồn vốn vay cũng như thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh.

+ Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu chưa có tác động tích cực đến

hình thành hệ thống lưu thông trong nước, không có sự gắn kết chặt chẽ

từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.

Tất cả những điểm trên nếu không tìm cách khắc phục sẽ làm giảm

năng lực cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nói chung và

nông sản nói riêng.

2.3.6 So sánh về chi phí sản xuất

84

Chi phí sản xuất nhiều loại nông sản của Việt Nam thấp so với các

đối thủ cạnh tranh nhưng xuất khẩu vẫn kém hiệu quả do tổn thất sau thu

hoạch cao, chi phí vận chuyển, bốc xếp, lưu kho bãi cao, thời gian giao

hàng chậm trễ.

Chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam thuộc loại thấp nhất trong khu vực

Đông Nam Á. Riêng ở ĐBSCL, chi phí sản xuất thuộc loại thấp nhất trên

thế giới. Ví dụ, vào năm 1996, chi phí sản xuất một tấn lúa là 106,7 USD

ở ĐBSH, 88,9 USD ở ĐBSCL, trong khi đó ở Thái Lan, chi phí là 163,9

USD [7].

Việc tính toán chi phí sản xuất lúa của hai nước là rất khó, nhưng so

sánh về điều kiện sản xuất: đất đai, tỷ lệ diện tích được tưới tiêu, giá vật

tư của các yếu tố đầu vào (xăng, dầu, phân bón, điện...) và năng suất cho

thấy chi phí sản xuất lúa của Việt Nam rẻ hơn, chỉ bằng khoảng 65-85%

so với chi phí của Thái Lan. Ví dụ, giá xăng của Việt Nam chỉ bằng 87%

giá xăng của Thái lan, tương tự giá dầu DO, giá điện của Việt Nam lần

lượt bằng 86% và 50% giá của Thái Lan. Kết quả điều tra của Ban vật

Giá chính phủ (nay là Cục Quản lý giá thuộc Bộ Tài chính) cho thấy giá

thành sản xuất lúa ở ĐBSCL năm 2000 vào khoảng 950 - 1.050 đồng/kg;

ở ĐBSH vào khoảng 1.300-1.350 đồng/kg, bình quân chung tương

đương vào khoảng 85-105 USD/tấn [40, tr.65]. Giá thành sản xuất lúa

của Thái Lan 165-175 USD/tấn với tỷ giá 25 Bath/USD, hiện nay do

trượt giá 1USD = 35 Bath thì giá thành lúa 120-125 USD [40, tr.66] .

Như vậy, giá thành lúa của Việt Nam trước những năm 1996 khi chưa

có cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ khu vực, thấp hơn Thái Lan

khoảng 32-35%, sau năm 1997 thấp hơn 12-15%. Điều này dẫn tới giá

thành gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng thấp hơn so với Thái Lan. Ảnh

85

hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ đã làm giảm lợi thế cạnh

tranh gạo của Việt Nam so với Thái Lan một cách tương đối.

Giá thành bình quân sản xuất gạo xuất khẩu của một số nước:

- Nhật: 1.910 USD/tấn - Thái Lan: 225-280 USD/tấn

- Mỹ: 314 USD/tấn - Việt Nam: 215-220 USD/tấn [37, 40]

Một số so sánh về chi phí trong dịch vụ xuất khẩu gạo

- Chi phí cảng: chi phí bốc dỡ, xếp hàng và các chi phí khác liên

quan tại cảng Sài Gòn khoảng 40.000USD/ tàu công suất 10.000 tấn, tức

là vào khoảng 4 -5 USD/tấn, chiếm tới 1,6% giá xuất khẩu gạo. Trong

khi đó chi phí này tại Băng Cốc chỉ bằng một nửa so với Việt Nam [7].

- Ngoài chi phí cảng, tốc độ bốc dỡ hàng ở cảng Việt Nam chậm

hơn so với Băng Cốc 6 lần (nghĩa là tại Sài Gòn bốc được 1.000

tấn/ngày, thì ở Băng Cốc đã bốc được 6.000 tấn/ngày). Sự chậm trễ này

đã làm tốn thêm thời gian tầu phải nằm chờ ở cảng. Do vậy, dù chi phí

sản xuất lúa thấp, nhưng những chi phí vận chuyển, bốc xếp, các khoản

phí khác đã làm cho giá thành gạo xuất khẩu tăng lên, giảm năng lực

cạnh tranh của gạo xuất khẩu của Việt Nam.

Nhiều chuyên gia cho rằng, chi phí sản xuất ra hạt lúa (trước thu

hoạch) của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước sản xuất lúa trên

thế giới, nhưng chi phí sau thu hoạch như chế biến, bảo quản, tỷ lệ hao

hụt, vận chuyển lại thuộc loại cao nhất thế giới đã làm cho xuất khẩu gạo

kém hiệu quả và giảm sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, chất lượng của một

số dịch vụ có liên quan như kiểm phẩm, xông trùng, bảo quản ở kho

ngoại quan v.v...thực hiện không tốt cũng làm giảm năng lực cạnh tranh

của nông sản xuất khẩu. Độ tin cậy trong cung ứng hàng, năng lực vận

tải hàng hải hạn chế nên xuất khẩu nông sản chủ yếu vẫn theo điều kiện

FOB .

86

Một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm năng lực cạnh

tranh của nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua là tổn

thất ở các khâu sau thu hoạch còn chiếm tỷ lệ khá lớn. Kết quả điều tra

của Viện công nghệ sau thu hoạch (Bộ NN&PTNT) và Tổng cục Thống

kê năm 1995 cho thấy tổn thất trong các công đoan sau thu hoạch lúa

như sau:

- Khâu thu hoạch : 1,3-1,7%

- Khâu vận chuyển : 1,2-1,5%

- Khâu đập (tuốt) : 1,4-1,8%

- Khâu phơi (sấy) : 1,9-2,1%

- Khâu bảo quản : 3,0-3,4%

- Khâu xay sát chế biến : 4,1-4,5%

Tổng số (trong tất cả các khâu): 12,0-15,0% tương đương với

khoảng 3,5- 4 triệu tấn thóc mỗi năm bằng sản lượng lúa của 5/9 tỉnh

ĐBSH. Trong khi đó, tổn thất sau thu hoạch của Thái Lan 7,5-8,0%;

Philippin 8,5-10,5%; Trung Quốc 6,0–7,5%; Mỹ 5,5-6,5% [6]. Điều đó

cũng có nghĩa là giá thành lúa phải tăng lên một cách không cần thiết 12-

15%. Nếu mức tổn thất sau thu hoạch lúa khoảng 5-7% được coi là hợp

lý, thì đây vẫn còn dư địa để nâng cao hiệu quả sản xuất lúa. Sự thiếu

đồng bộ về khả năng giải quyết các vấn đề trên đang là những hạn chế về

hiệu quả và năng lực cạnh tranh sản xuất “lúa, gạo” của Việt Nam trên

thị trường thế giới.

Theo đánh giá sơ bộ của Bộ NNPTNT, tổn thất sau thu hoạch của

ngành sản xuất rau quả còn cao hơn rất nhiều lên đến trên 20% [6]

Những hạn chế nói trên đã làm mất cơ hội về giá và đương nhiên

người nông dân trồng lúa phải chịu dưới hình thức giá FOB thấp hơn.

Những lãng phí và sự yếu kém nói trên đã làm tăng chi phí và giá thành

87

xuất khẩu lên cao. Hiện nay so với Thái Lan, một số khoản chi phí cho

quá trình xuất khẩu gạo như bến bãi, thủ tục hải quan, năng lực điều

hành ở Việt Nam còn quá cao, có những khâu gấp tới 3-5 lần. Đây cũng

là vấn đề Việt Nam cần cải tiến để giảm chi phí đến mức tối đa nhằm

tăng sức cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu.

Nhìn tổng thể, chi phí sản xuất nhiều mặt hàng nông sản của Việt

Nam thấp so với các đối thủ cạnh tranh nhưng xuất khẩu vẫn kém hiệu

quả do tổn thất sau thu hoạch cao, chi phí vận chuyển, bốc xếp, lưu kho

bãi cao, thời gian giao hàng chậm trễ.

2.3.7 Hệ số cạnh tranh về giá (Ci)

Giá xuất khẩu các nông sản của Việt Nam nói chung còn thấp hơn

so với mặt bằng giá thế giới (10-20%), nhưng không phải Việt Nam chủ

động hạ giá để cạnh tranh, mà phải chấp nhận mức giá này. Có những

thời điểm gạo Việt Nam và Thái Lan cùng phẩm cấp, cùng thị trường

nhưng giá gạo Thái Lan vẫn thường cao hơn gạo Việt Nam từ 35-50

USD/ tấn. Cà phê robusta cùng loại của Việt Nam cũng thấp hơn so với

Inđônêxia khoảng 20-25 USD/tấn; nếu so với mức giá xuất khẩu của một

vài nước khác có những lúc lên tới hàng ngàn USD/tấn, thì giá xuất khẩu

của Việt Nam thấp hơn tới 30-35%. Một phần do Việt Nam thường xuất

khẩu theo điều kiện giá FOB, không có điều kiện thuê tàu và kinh

nghiệm trong thương mại quốc tế để xuất khẩu theo giá CIF. Mặt khác

do trình độ tiếp thị và khâu bảo quản chế biến sau thu hoạch còn nhiều

yếu kém. Giá xuất khẩu cao su của Việt Nam trong mọi thời điểm đều

thấp hơn giá thế giới từ 10-15%, cho tất cả các loại sản phẩm, thậm chí

có những thời điểm tới 20% (1996) [41]. Đây chính là sự mất mát vô ích,

vấn đề nâng cao giá xuất khẩu là nội dung có ý nghĩa quyết định tới hiệu

quả sản xuất kinh doanh nông sản.

88

Trong giai đoạn từ 1995-2005, giá xuất khẩu tuy đã được cải thiện

hơn theo hướng thu hẹp dần khoảng cách với giá xuất khẩu hàng hoá

cùng loại của các nước do nhu cầu nhập khẩu của thế giới gia tăng, trong

khi nguồn cung cấp từ các nước sản xuất gạo hạn chế, do Chính phủ

Thái Lan thực hiện chính sách can thiệp vào thị trường gạo làm giá chào

bán gạo của Thái Lan tăng, nên giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng có

sức hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, sự cải thiện này không mang tính chủ động,

nó chỉ tồn tại trong điều kiện cầu vượt cung, người mua có ít cơ hội lựa

chọn.

Để nông sản xuất khẩu của Việt Nam giảm bớt thua thiệt so với các

đối thủ cạnh tranh cần các giải pháp chiến lược như nâng cao chất lượng

sản phẩm, tạo thương hiệu cho hàng hoá, nâng cao uy tín trong xuất khẩu

như đáp ứng được thời gian giao hàng, chất lượng ổn định trong các lô

hàng xuất khẩu v.v...

Theo tính toán của Viện kinh tế Nông nghiệp, Bộ NN&PTNT và

IFPRI, chỉ số năng lực canh tranh về giá của một số nông sản xuất khẩu

của Việt Nam trong giai đoạn 1995-2000 được thể hiện ở bảng 2.10.

Việc tính hệ số cạnh tranh về giá dựa trên các chỉ tiêu như biến

động giá thế giới về các mặt nông sản và giá các yếu tố đầu vào cho sản

xuất nông nghiệp; diễn biến của tỷ giá hối đoái; tác động của các yếu tố

chính sách và môi trường thương mại.

Bảng 2.10 cho thấy chỉ số năng lực canh tranh về giá của mặt hàng

gạo xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn 1995–2000 giảm (Ci = -1,45%),

trong đó tác động của các yếu tố sau ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh

của gạo xuất khẩu: yếu tố giá quốc tế tác động làm tăng chỉ số cạnh tranh

lên 2,25%; tỷ giá hối đoái doanh nghĩa làm giảm sức cạnh tranh 1,65%

và yếu tố chính sách, môi trường thương mại giảm 2.05%.

89

Bảng 2.10: Chỉ số năng lực canh tranh về giá của nông sản

xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn 1995-2000

Đơn vị tính: %

Các chỉ tiêu Gạo Cà phê Cao su Chè Điều

Tác động giá thế giới 2,25 -0,06 -7,87 2,40 13,88

Tác động của tỷ giá hối

đoái danh nghĩa -1,65 -1,55 -1,75 -1,62 -1,21

Tác động của Chính sách

và môi trường thương mại -2.05 -6,26 2,36 -2,53 3,22

Chỉ số năng lực cạnh

Nguồn: [6, 14]

-1,45 -7,88 -7,25 -1,49 15,89 tranh về giá (Ci)

Từ cuối năm 2002 đến nay, giá gạo thế giới có xu hướng tăng, sẽ là

nhân tố quan trọng làm tăng năng lực cạnh tranh về giá của lúa gạo cũng

như tăng hiệu quả xuất khẩu gạo.

Đối với mặt hàng cao su, diễn biến giá cả của thị trường cao su thế

giới phụ thuộc vào tình hình sản xuất của ngành công nghiệp chế tạo ô tô

của các nước phát triển. Giá thế giới (1995-2000) giảm liên tục đã làm

giảm năng lực cạnh tranh của ngành cao su. Điều đó thể hiện rõ qua chỉ

số Ci năng lực canh tranh về giá của Việt Nam giảm 7,25%. Trong đó:

do tỷ giá hối đoái doanh nghĩa làm giảm sức cạnh tranh -1,75%, do tác

động của giá thế giới làm giảm năng lực cạnh tranh 7,87% và yếu tố

chính sách, môi trường thương mại đã có nhiều tiến bộ, có sự thuận tiện

và thông thoáng hơn, nên đã tăng được năng lực trong cạnh tranh 2,36%.

Từ năm năm 2003 đến nay, nền kinh tế thế giới có mức tăng trưởng cao

hơn những năm trước, ngành công nghiệp sản xuất ô tô của Trung Quốc

và Nhật Bản phát triển mạnh mẽ làm nhu cầu tiêu thụ cao su cho sản

90

xuất săm lốp ô tô tăng cao dẫn tới giá cao su trên thị trường thế giới tăng

mạnh. Việt Nam là nước xuất khẩu cao su thiên nhiên nên vì thế cũng

được lợi từ biến động tăng giá của thị trường thế giới. Giá xuất khẩu cao

su của Việt Nam đạt mức 1500 USD/tấn tăng lên khoảng 1,7 lần so với

thời điểm trước năm 2000. Điều đó có tác động rất lớn đến năng lực

cạnh tranh về giá của sản phẩm cao su xuất khẩu Việt Nam.

Giá cả cà phê thế giới (1995-2000) có biến động lớn, đặc biệt từ

cuối năm 1998 - 2000, giá giảm liên tục đã làm giảm năng lực cạnh tranh

của cà phê. Chỉ số năng lực canh tranh về giá (Ci) đối với sản phẩm cao

su Việt Nam giảm 7.88%, trong đó do tỷ giá hối đoái danh nghĩa làm

giảm sức cạnh tranh 1,55%, yếu tố chính sách, môi trường thương mại

giảm 6.26 %, và giá cả quốc tế - 0.06%. Từ đầu năm 2004 đến nay, giá

cà phê đang có dấu hiệu phục hồi do nguồn cung giảm bởi chịu ảnh

hưởng của giá giảm trước đó. Đây cũng là yếu tố quan trọng làm tăng

năng lực cạnh tranh về giá của sản phẩm cà phê so với giai đoạn trước.

Giá chè thế giới giai đoạn 1995-2000 tuy có xu hướng giảm, nhưng

cơ bản không có biến động lớn. Do đó, chỉ số Ci năng lực cạnh tranh về

giá đối với chè xuất khẩu Việt Nam, về cơ bản đã có sức cạnh tranh (C i

= -1,49%). Nâng cao được chất lượng, cơ cấu chủng loại các sản phẩm

chế biến, nên giá xuất khẩu đã có sự cải thiện đáng kể so với thời kỳ

trước đó. Giá xuất khẩu chè năm 2004 so năm 1995 tăng lên 17,5% nên

từng bước đã thu hẹp dần khoảng cách so với giá quốc tế.

Nhu cầu và giá cả điều thế giới từ cuối năm 1997 đến năm 2004

tăng đã tác động làm năng lực cạnh tranh lên 13,88%. Chính sách thương

mại thông thoáng, Nhà nước tăng thuế xuất khẩu đối với điều thô,

khuyến khích nhập khẩu điều nguyên liệu thông qua việc đổi gạo lấy

nhân điều nguyên liệu của các nước châu Phi về chế biến tận dụng được

91

nguồn lao động rẻ trong nước đã làm chỉ số năng lực cạnh tranh tăng

3,22%. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa làm giảm năng lực cạnh tranh của

điều -1,21%. Toàn bộ các nhân tố trên tác động làm chỉ số năng lực canh

tranh về giá (Ci) của sản phẩm điều của Việt Nam đã tăng 15,89%.

Như vậy, trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu giai đoạn này,

điều là mặt hàng có chỉ số năng lực cạnh tranh về giá cao nhất, còn cao

su là mặt hàng có chỉ số năng lực cạnh tranh về giá thấp nhất phản ánh

hiệu quả xuất khẩu cao su thời kỳ này giảm mạnh.

Qua bảng 2.10 ta thấy biến động giá thế giới, chính sách thương

mại và chính sách tỷ giá có tác động rất lớn đến đến chỉ số năng lực cạnh

tranh về giá nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Giá trị đồng nội tệ trong

thời gian qua bị đánh giá cao hơn giá trị thực làm giảm năng lực cạnh

tranh của hầu hết các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Như

vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh về giá cần cải thiện môi trường

kinh doanh, điều hành chính sách tỷ giá theo hướng khuyến khích xuất

khẩu, và chú trọng đầu tư cho công tác nghiên cứu và dự báo thị trường,

giá cả nông sản thế giới để từ đó có kế hoạch sản xuất, xuất khẩu (sản

lượng, chủng loại, thời điểm xuất khẩu,...) cho phù hợp nhằm hạn chế tới

mức thấp những thiệt hại do biến động thị trường và giá nông sản thế

giới gây ra.

2.3.8 Hệ số chi phí tài nguyên nội địa (DRC)

Chỉ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC) là thước đo khả năng cạnh

tranh trong trường hợp không có những sai lệch về giá cả do những can

thiệp về chính sách.

Xét trên góc độ chi phí, thì chi phí về các yếu tố đầu vào của Việt

Nam thấp, năng suất lúa cao, nên giá thành sản xuất lúa thấp. Đây là một

lợi thế có sức cạnh tranh lớn trên thị trường gạo. Theo tính toán của Viện

92

kinh tế nông nghiệp Bộ NN&PTNT và các chuyên gia của Viện nghiên

cứu Khoa học Thị trường Giá cả, Bộ Tài chính, cho thấy, DRC (chi phí

nguồn lực nội địa) của một số nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam

được tập hợp ở bảng 2.11

Bảng 2.11 Chỉ số DRC nông sản xuất khẩu Việt Nam

Các chỉ tiêu

ĐVT

Gạo

Cà phê

Cao su

Điều

1 Giá

thành

Đ/kg

1092,0

7.513,0

7.672,0

4.089,0

sản phẩm

2

Tỷ lệ yếu tố

59,7

61,4

71,3

65,0

bất

khả

%

thương

3 Giá cổng trại

Đ/kg

1.704,0 12.242,0

11.383,0

9.142,0

Giá biên giới

USD/tấn

248,0

248,0

928,0

742,0

4

Giá biên giới

Đ/kg

1840,0

14.445,0

8566,0

10867,0

5

tương đương*

Giá thành/ Giá

6

biên

giới

tương đương

0.599

0,569

0,0960

0.391

Chỉ số nguồn

7

0,490

0,484

1,030

0,301

lực nội địa

(DRC)

7

Nguồn: [6, 40, tr.70-78] D RC = (1)*(2)*0.01/{(5)-(1)*[1-(2)]*0.01*1.1}

trong giai đoạn 1995-2000

Trong bảng 2.11, chỉ số DRC của điều có mức thấp nhất, DRC=

0.301, và chỉ số DRC của cao su có mức cao nhất bằng 1.030. Xét trên

góc độ cạnh tranh về chi phí, tuy chi phí cho các yếu tố đầu vào của Việt

Nam thấp, nhưng năng suất cao su rất thấp so với các nước trong khu

vực nên về cơ bản xuất khẩu cao su chưa có hiệu quả cao.

93

Với chỉ số DRC (1995-2000) = 0.490, xuất khẩu gạo có hiệu quả,

Trong khi đó, chỉ số DRC gạo xuất khẩu của Thái Lan là 0,9. Nói cách

khác, để tạo ra 100 USD sản phẩm lúa, Việt Nam chỉ cần 50 USD, trong

khi Thái Lan cần 90 USD.

Tuy nhiên, chi phí thấp mới chỉ là sự khởi đầu của tính cạnh tranh,

kinh doanh năng động chính là phải biết chuyển từ lợi thế so sánh về chi

phí thấp đến khả năng cạnh tranh trong hoạt động thương mại. Vì từ sản

xuất ra lúa đến thành gạo để xuất khẩu còn là một chặng đường dài mà

không ít những khó khăn, bất cập như các vấn đề thị trường, chất lượng

chế biến, môi trường kinh doanh và hàng loạt các tác động về thể chế

chính sách đối với xuất nhập khẩu... Những khâu, những công đoạn này

Việt Nam còn rất nhiều hạn chế, bất cập, thậm chí lệch pha trước yêu

cầu phát triển của thị trường và có nguy cơ “thắt nút cổ chai” phát triển

và tăng trưởng [37,tr.46-47]. Do vậy, cần tạo lập môi trường thương mại

để biến lợi thế về chi phí và giá thành thấp trở thành lợi nhuận thương

mại, là môi trường cạnh tranh động, phải có những giải pháp thích hợp

mang tính chiến lược.

Với DRC = 0.484 (bảng 2.11), xuất khẩu cà phê của Việt Nam có

hiệu quả. Cũng như mặt hàng gạo, chi phí sản xuất thấp mới chỉ là lợi

thế ban đầu để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá. Muốn nâng cao

được hiệu quả xuất khẩu phải tạo lập được môi trường thương mại để

biến lợi thế về chi phí và giá thành thấp trở thành lợi nhuận thương mại.

Xét trên góc độ cạnh tranh về chi phí và lợi thế sản xuất, điều Việt

Nam có nhiều lợi thế là các yếu tố đầu vào thấp, nhưng năng suất cao.

Do vậy, với DRC = 0.301, điều là ngành xuất khẩu có hiệu quả cao nhất

trong số các nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta.

94

Như vậy, kết quả của các phân tích định lượng (so sánh chi phí và

giá thành sản xuất nông sản của Việt Nam với các đối thủ cạnh tranh; C i,

DRC) cho thấy điều là mặt hàng có sức cạnh tranh cao nhất, kế tiếp là

gạo, cà phê, còn cao su là mặt hàng có sức cạnh tranh kém nhất trong

thời kỳ nghiên cứu. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của các mặt hàng này

thường xuyên thay đổi phụ thuộc rất nhiều yếu tố, trong đó yếu tố biến

động giá thị trường quốc tế và chính sách kinh tế vĩ mô có tác động lớn

nhất.

2.4 PHÂN LOẠI NÔNG SẢN VIỆT NAM THEO NĂNG LỰC CẠNH TRANH

Để phân loại được hàng nông sản theo mức độ/ năng lực cạnh tranh

của hàng hoá nông sản của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế khu

vực và quốc tế, cần phải giải đáp rất nhiều câu hỏi cả định tính và định

lượng như: hàng hoá nông sản của Việt Nam có khả năng cạnh tranh hay

không?; tại sao chúng ta có khả năng cạnh tranh và không có khả năng

cạnh tranh đối với những hàng hoá nông sản nhất định?; năng lực cạnh

tranh của những hàng hoá nông sản đó có bền vững hay không?; và về

mặt kinh tế liệu nhập khẩu một số mặt hàng thay cho việc sản xuất trong

nước có hiệu quả hay không? v.v. Do vậy để đánh giá chính xác năng

của một loại hàng hoá nông sản trong một thời điểm nhất định cần phải

tính toán các chỉ tiêu định tính và định lượng như đã nêu ở mục 2.3. Đây

là công việc phức tạp đòi hỏi quá trình nghiên cứu công phu, đầy đủ

thông tin. Do những hạn chế nhất định và do qui mô của một luận văn

thạc sỹ, tác giả chỉ dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá sơ bộ các nhân tố

ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam ở

phần trên và tham khảo việc phân loại năng lực cạnh tranh của một số cơ

quan nghiên cứu khoa học để có thể tạm thời phân loại hàng nông sản

Việt Nam theo năng lực cạnh tranh như sau:

95

2.4.1 Nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao

Nhóm này thể hiện rõ rệt về cả ưu thế tự nhiên và kinh tế xã hội,

ngay trong tình hình công nghệ hiện nay vẫn có giá thành thấp hơn so

với mọi mức biến động giá cả thị trường quốc tế, có tiềm năng phát triển

lâu dài, có thị trường rộng. Thể hiện lợi thế cạnh tranh so với các nước

xuất khẩu khác về ít nhất một trong các mặt sau: năng suất, phẩm chất

hoặc giá thành. Việt Nam có 3 sản phẩm chính nằm trong nhóm này: cà

phê (năng suất cao, phẩm chất tốt), hạt điều (phẩm chất cao, công nghệ

chế biến tốt) và gạo (giá thành thấp). Nhìn chung những ngành hàng này

có lợi thế so sánh cao dựa trên tài nguyên đặc thù, chi phí lao động rẻ.

2.4.2 Nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh trung bình

Nhóm này có lợi thế về điều kiện tự nhiên, nhưng kỹ thuật sản xuất

nguyên liệu thô và công nghệ chế biến kém làm năng suất, chất lượng,

giá thành không vượt trội hẳn so với các nước xuất khẩu khác, khả năng

xuất khẩu tùy thuộc vào biến động giá cả thị trường quốc tế, năm nào giá

cao xuất khẩu có lợi, năm nào giá thấp chịu lỗ hoặc thu hẹp xuất khẩu.

Thị trường không ổn định. Các mặt hàng trong nhóm này gồm: cao su,

chè, hạt tiêu,... Những sản phẩm này hiện đang gặp khó khăn trong cạnh

tranh với các đối thủ cạnh tranh về các mặt như giá cả, chất lượng,

thương hiệu sản phẩm và thị trường.

2.4.3 Nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh thấp

Nhóm này có một số lợi thế về tự nhiên hoặc xã hội, nhưng có

nhiều cản trở về kỹ thuật, tổ chức, cơ sở hạ tầng, chính sách. Những sản

phẩm thuộc nhóm này thường có năng suất thấp, chi phí cao, chất lượng

giống thua kém các nước cùng sản xuất, công nghệ chế biến lạc hậu.

Những sản phẩm này hiện chưa có thị trường rõ rệt, mặc dù có thị trường

triển vọng trong tương lai. Xuất khẩu được với số lượng hạn chế khi có

96

điều kiện buôn bán thuận lợi, bị xâm nhập thị trường khi điều kiện buôn

bán trở nên bất lợi, phải áp dụng các biện pháp bảo vệ mậu dịch để duy

trì thị trường trong nước. Các mặt hàng sau thuộc loại này: rau quả, thịt

lợn [2, tr161-164].

Nhìn chung, việc xác định năng lực cạnh tranh theo các tiêu chí trên

giúp chúng ta nhận thức rõ hơn năng lực cạnh tranh của từng nhóm mặt

hàng để từ đó có những đối sách phù hợp. Tuy nhiên, việc phân nhóm

trên chỉ là tạm thời vì năng lực cạnh tranh của từng mặt hàng phụ thuộc

rất nhiều vào các yếu tố định tính và định lượng, các chính sách vĩ mô

của Chính phủ, môi trường thương mại v.v...mà những yếu tố này lại

biến động rất lớn theo từng thời kỳ cụ thể.

Kết luận chƣơng 2:

Bức tranh toàn cảnh về năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất

khẩu của Việt nam trong giai đoạn từ 1995-2004 đã được thể hiện trong

chương 2. Thông qua các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản

phẩm cho thấy, Việt Nam có nhiều lợi thế về sản xuất nông sản xuất

khẩu như vị trí điạ lý thuận tiện trong buôn bán, sự đa dạng của tài

nguyên thiên nhiên, khí hậu phù hợp, nguồn lao động dồi dào, giá nhân

công rẻ nhưng năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Việt

nam chưa cao, thậm chí có nhiều mặt hàng năng lực cạnh trạnh đang có

chiều hướng giảm là do:

+ Việt Nam mới chỉ có lợi thế so sánh tĩnh (tài nguyên nhiên nhiên

ở dạng thô, nguồn lao động dồi dào nhưng thiếu kỹ năng,...), mà thiếu

những lợi thế so sánh động (phát triển khoa học công nghệ, lao động có

kỹ năng,..). Do đó chưa tận dụng được lợi thế so sánh tĩnh để nâng cao

năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu.

97

+ Việc qui hoạch vùng sản xuất chưa gắn với việc cung ứng các

dịch vụ đầu vào nên chưa khai thác được lợi thế về qui mô.

+ Khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng nhưng xuất khẩu nguyên

liệu thô là chủ yếu, hàm lượng chất xám trong sản phẩm xuất khẩu thấp

nên chưa tận dụng được lợi thế về thị phần xuất khẩu trong việc mặc cả

giá. Thị trường xuất khẩu xuất khẩu nông sản tuy được mở rộng nhưng

vẫn thiếu tính bền vững.

+ Khả năng sẵn sàng cung ứng sản phẩm cho xuất khẩu kém do qui

mô sản xuất của các hộ gia đình nhỏ lẻ do bị hạn chế bởi hạn điền dẫn

tới khó khăn trong cơ giới hoá nông nghiệp, áp dụng công nghệ tiên tiến

vào sản xuất. Hơn nữa, trình độ sản xuất của các vùng, các hộ gia đình

có sự chênh lệch lớn dẫn tới sản phẩm làm ra chất lượng không ổn định.

+ Chất lượng nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của việt Nam vẫn

thua kém các đối thủ cạnh tranh do đầu tư xây dựng sở hạ tầng phục vụ

cho sản xuất nông nghiệp thấp nhất là đầu tư cho phát triển công nghệ

sinh học và công nghệ chế biến nông sản. Do đó, công nghệ sinh học và

công nghệ chế biến nông sản lạc hậu, chậm được đổi mới dẫn tới giá

thành sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm thấp, tính đa dạng của sản

phẩm kém, mẫu mã đơn điệu nên khó cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Ngoài ra, công tác phổ biến công nghệ (công nghệ sản xuất, công nghệ

trước sau thu hoạch) đến người sản xuất thực hiện chưa tốt cũng là một

nguyên nhân làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng nông sản.

+ Chủng loại, mẫu mã nông sản xuất khẩu đơn điệu chưa quan tâm

đến nhu cầu của thị trường nên khó cạnh tranh với các đối thủ canh trên

thị trường thế giới.

+ Vấn đề xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại chưa được

quan tâm đúng mức, phần lớn nông sản xuất khẩu của Việt Nam không

98

có thương hiệu ở nước ngoài. Công tác nghiên cứu thị trường chưa được

đầu tư thoả đáng cả về điều kiện vật chất và năng lực nghiên cứu cũng

gây thua thiệt lớn trong xuất khẩu nông sản. Hơn nữa, do tác phong sản

xuất nhỏ vẫn còn bám sâu vào tiềm thức của người sản xuất thậm chí cả

ngưòi làm công tác kinh doanh xuất khẩu nông sản nên việc giữ chữ tín

với khách hàng chưa được đặc biệt coi trọng. Đây là một trở ngại không

nhỏ cho Việt Nam đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng

nông sản xuất khẩu trong bối cảnh cạnh tranh về chất lượng, thương hiệu

và uy tín đang được coi là phổ biến.

+ Môi trường kinh doanh ở Việt Nam tuy đã có nhiều thay đổi theo

hướng tích cực nhưng chưa thực sự thông thoáng do thủ tục hành chính

còn rườm rà gây tốn kém thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, các chi

phí dịch vụ đầu vào, chi phí thuê kho bãi, chi phí vận chuyển cao; Còn

sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận

nguồn vốn và mặt bằng sản xuất kinh doanh; thị trường các yếu tố sản

xuất chậm ra đời là những nguyên nhân quan trọng làm giảm năng lực

cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.

Tác giả cho rằng, nhận thức được đầy đủ những lợi thế và những

bất lợi trong sản xuất kinh doanh nông sản là một vấn đề có ý nghĩa

quan trọng giúp chúng ta chủ động khắc phục những hạn chế, phát huy

những thế mạnh để tăng sức cạnh tranh một cánh bền vững. Để làm được

điều đó đòi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, các cấp các

ngành và người sản xuất. Đặc biệt là vai trò điều tiết của Chính phủ,

nhằm chủ động tạo lập và xây dựng các chiến lược mặt hàng xuất khẩu,

ngành hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu chủ lực, tạo sức cạnh

tranh cho sản phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới.

99

Chương 3

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH

TRANH CỦA NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM

3.1 MỘT SỐ QUAN ĐIỂM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH

CỦA NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM

3.1.1 Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi hội nhập kinh tế

quốc tế

Cho đến nay, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam chủ yếu mới tập

trung phát triển theo bề rộng trên cơ sở khai thác những tài nguyên

thiên nhiên sẵn có và nguồn lao động dồi dào với giá rẻ. Trong sản xuất,

vấn đề số lượng vẫn được coi trọng hơn chất lượng nông sản, mức đầu

tư khoa học và kỹ thuật thấp, năng lực cạnh tranh của một số hàng nông

sản của nước ta trên thị trường thế giới còn thấp do năng suất, chất

lượng thấp, chi phí sản xuất cao, tính đa dạng về mẫu mã sản phẩm

thấp, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến lạc hậu, chưa xây

dựng được thương hiệu cho sản phẩm. Đó cũng chính là những nguyên

nhân quan trọng làm cho nông sản Việt Nam chưa đáp ứng tốt nhu cầu

đa dạng của thị trường thế giới, hiệu quả xuất khẩu thấp và người sản

xuất gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá.

Việc Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng với khu vực và thế

giới như tham gia Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Tổ chức

khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Tổ chức khu vực mậu dịch tự

do ASEAN - Trung Quốc và chuẩn bị gia nhập WTO, một mặt đã tạo ra

nhiều cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển sản xuất và xuất khẩu

những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh nhờ đó mà nguồn lực được phân

bổ có hiệu quả, nhưng mặt khác cũng tạo ra những thách thức không

nhỏ cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam.

100

3.1.1.1 Những cơ hội

Những cơ hội chủ yếu của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế

được thể hiện ở những điểm sau:

Một là, do hội nhập kinh tế quốc tế thông qua các hiệp định thương

mại song phương và đa phương, tham gia vào các định chế khu vực và

quốc tế, Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản.

Quá trình đó cũng tạo nên sức ép hữu hình thúc đẩy đổi mới lĩnh vực

sản xuất nông nghiệp, ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ

tiên tiến để phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tài nguyên

sinh học đa dạng và nguồn nhân lực dồi dào của nước ta.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội thuận lợi cho Việt Nam

thu hút đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn. Điều này được lý

giải bởi Việt Nam là quốc gia có tiềm năng và lợi thế để phát triển nền

nông nghiệp có hiệu quả kinh kế cao; nhiều hàng nông sản xuất khẩu

của Việt Nam đã khẳng định được vị thế trên thị trường thế giới; nông

nghiệp và nông thôn là khu vực luôn được Đảng và Chính phủ Việt

Nam khuyến khích đầu tư, do vậy nhận được sự ưu đãi đầu tư cao; và

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tính ổn định cao về môi trường

chính trị – xã hội là một trong những điểm mà người đầu tư đặc biệt

quan tâm. Có thể hy vọng rằng, với chính sách chủ động hội nhập kinh

tế quốc tế, trong tương lai nông nghiệp và nông thôn Việt Nam sẽ trở

thành lĩnh vực hấp dẫn mạnh hơn các nhà đầu tư nước ngoài.

Ba là, hội nhập sâu và rộng hơn vào đời sống kinh tế quốc tế, Việt

Nam có cơ hội thuận lợi tiếp nhận, chuyển giao và phát triển năng lực

khoa học và công nghệ để khai thác tiềm năng to lớn của nền nông

nghiệp nhiệt đới thông qua việc tiếp nhận công nghệ sản xuất và kỹ

năng quản lý tiên tiến; tham gia nhiều hơn vào các chương trình hợp tác

101

khoa học và công nghệ song phương và đa phương; tăng thêm các

nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực khi tham gia các định chế

kinh kế quốc tế với tư cách nước nghèo và kém phát triển.

3.1.1.2 Những thách thức

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra những thách thức không nhỏ

đối với Việt Nam như:

Một là, nền nông nghiệp Việt Nam về cơ bản chưa thoát khỏi tình

trạng qui mô nhỏ, phân tán và lạc hậu. Tình trạng này làm cản trở trực

tiếp việc thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp và

nông thôn, ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ.

Một nền nông nghiệp lạc hậu khó có thể tạo ra được nhiều mặt hàng có

năng lực cạnh tranh cao. Vấn đề này càng trở nên trầm trọng vì nông

nghiệp Việt Nam nói chung, nông sản xuất khẩu của Việt Nam nói

riêng đã, đang và sẽ còn phải cạnh tranh gay gắt hơn với các đối thủ

cạnh tranh khác - những nước có trình độ phát triển hơn Việt Nam -

không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường nội địa.

Hai là, nông nghiệp Việt Nam cho đến nay mới chủ yếu phát triển

theo bề rộng dựa trên khả năng tự nhiên, mức đầu tư khoa học và công

nghệ thấp, sức cạnh tranh của một số nông sản xuất khẩu còn thấp do

năng suất và chất lượng thấp, chi phí sản xuất cao, công nghệ sau thu

hoạch và công nghệ chế biến lạc hậu. Để nông sản Việt Nam có thể vào

được những thị trường rộng lớn của các nước phát triển thì những yếu

kém trên cần được khắc phục. Tuy nhiên đây là những công việc không

thể giải quyết xong trong một thời gian quá ngắn. Điều này có nghĩa là

trong tương lai gần (5 năm thậm chí 10 năm) nông sản xuất khẩu của

Việt Nam còn phải chịu nhiều sức ép rất lớn từ các đối thủ cạnh tranh.

102

Ba là, cơ sở hạ tầng, dịch vụ, hệ thống pháp lý còn nhiều bất cập so

với yêu cầu hội nhập. Nông sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp rất

nhiều khó khăn trong việc vượt qua các rào cản kỹ thuật hết sức khắt

khe và tinh vi của các nước công nghiệp phát triển nhằm bảo hộ sản

xuất trong nước của họ (ví dụ, dư lượng thuốc kháng sinh trong hàng

thuỷ sản, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, điều kiện về vệ sinh và kiểm

dịch động, thực vật). Ngay việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước

ta cho phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế cũng đòi hỏi nhiều thời

gian và rất nhiều công sức, tiền của (đổi mới tư duy trong xây dựng và

hoàn thiện pháp luật là điều rất quan trọng, nhưng chúng ta đang còn

gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này, ví dụ, việc phát triển doanh

nghiệp 100% vốn nước ngoài, việc cho người nước ngoài mua cổ phần

tại các doanh nghiệp Việt Nam, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà

nước trong lĩnh vực nông nghiệp v.v...)

Bốn là, tham gia vào các định chế kinh tế khu vực và quốc tế buộc

Việt Nam phải thực hiện những cam kết cụ thể đối với mỗi định chế về

nông nghiệp theo hướng: mở cửa thị trường hàng nông sản thông qua

việc thực hiện thuế hoá các biện pháp phi thuế và cam kết thuế, coi thuế

là biện pháp duy nhất để bảo hộ sản xuất trong nước, thực hiện lịch

trình cắt giảm thuế nhập khẩu; làm minh bạch các loại trợ cấp của

Chính phủ đối với sản xuất nông nghiệp. Cắt giảm các loại trợ cấp làm

bóp méo thương mại nếu vượt quá mức cho phép, đồng thời khuyến

khích áp dụng các chính sách đầu tư phát triển không làm bóp méo

thương mại như nghiên cứu khoa học, đào tạo nguồn nhân lực, khuyến

nông, phát triển cơ sở hạ tầng v.v...Những việc này đòi hỏi phải đổi mới

tư duy một cách mạnh mẽ và phải đề ra và thực hiện được các giải pháp

hữu hiệu để vừa có thể phát triển được sản xuất trong nước, vừa không

103

bị coi là vi phạm các cam kết mà Việt Nam đã ký. Đây là thách thức

không hề nhỏ nhưng Việt Nam phải tìm cách vượt qua.

Do đó, nhận thức đúng những cơ hội và thách thức của Việt Nam

khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế để từ đó tìm ra các giải pháp tận

dụng cơ hội và vượt qua thách thức sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh

tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam.

3.1.2 Một số quan điểm nâng cao năng lực cạnh tranh của nông

sản xuất khẩu

Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của nông sản

Việt Nam trong thời gian qua, phân tích những cơ hội và thách thức mà

nước ta phải đối mặt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế chúng tôi

xin nêu ra một số quan điểm cần tuân thủ nhằm nâng cao năng lực cạnh

tranh của nông sản xuất khẩu của nước ta trong những năm tới như sau:

Thứ nhất, sản xuất, xuất khẩu nông sản phải xuất phát từ nhu cầu

thị trường, thị trường là căn cứ chủ yếu để xây dựng chiến lược kinh

doanh, đối với từng ngành hàng và cho từng sản phẩm.

Quan điểm này đòi hỏi phải làm tốt công tác nghiên cứu nhu cầu thị

trường và thị hiếu khách hàng, từ đó xác định thị trường trọng điểm,

dung lượng trao đổi và tính ổn định với những mặt hàng có khả năng

cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn. Quyết định lựa chọn và

định hướng qui hoạch sản xuất một cách đồng bộ từ khâu sản xuất, chế

biến đến khâu xuất khẩu phải căn cứ vào nhu cầu thị trường, tránh qui

hoạch sản xuất một cách chủ quan, duy ý chí dựa trên những cái ta sẵn

có, ta có thể sản xuất được.

Thứ hai, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu trên

cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, từng sản phẩm, tạo lợi thế

cạnh tranh, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần tăng

104

nhanh kim ngạch xuất khẩu, tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho

nông dân.

Quan điểm này đòi hỏi phải phân tích và tìm ra những nông sản có

ưu thế trong lĩnh vực sản xuất - xuất khẩu của từng vùng, từng địa

phương, trên cơ sở vận dụng lý thuyết về lợi thế so sánh để tìm ra những

sản phẩm xuất khẩu có hiệu quả cao, có chi phí và giá thành thấp so với

thế giới, tránh tình trạng vùng nào, địa phương nào cũng có cơ cấu nông

nghiệp na ná như nhau. Trên cơ sở đó xây dựng qui hoạch kế hoạch, phát

triển sản xuất, đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có sức cạnh tranh cả về

chất lượng và chi phí.

Thứ ba, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu phải trên

cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật với công nghệ tiên tiến nhằm

nâng cao năng suất, giá trị sản phẩm xuất khẩu kết hợp với tổ chức tốt

quá trình cung ứng dịch vụ xuất khẩu.

Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình sản xuất - chế biến - tổ chức

xuất khẩu nông sản cần chú ý ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học

trong lĩnh vực tạo giống, áp dụng công nghệ canh tác tiên tiến đồng thời

đổi mới công nghệ và thiết bị công nghiệp chế biến, bảo quản nhằm nâng

cao chất lượng và đa dạng hoá các mặt hàng, hạn chế tổn thất sau thu

hoạch tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Quan điểm này

cũng đòi hỏi trong thời gian tới cần chú trọng đến chất lượng sản phẩm

hơn số lượng sản phẩm xuất khẩu, nói cách khác là cần chú trọng hơn

đến phần giá trị gia tăng mà Việt Nam có thể tạo ra.

Thứ tư, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu trên cơ sở

phát huy tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp sản xuất, xuất

khẩu, đồng thời cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, các cấp, các ngành có

105

liên quan, để tạo lập những ngành hàng có đủ năng lực cạnh tranh trên

thị trường thế giới.

Kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, để nâng cao năng lực

cạnh tranh của nông sản xuất khẩu, phải xuất phát từ động lực trực tiếp

của người kinh doanh. Nếu người kinh doanh không có động lực, bị "trói

chân, trói tay" hay quá ỷ lại vào sự bảo hộ, che chở của Nhà nước thì

năng lực cạnh tranh của người kinh doanh cũng khó được nâng cao.

Mặt khác, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản xuất

khẩu cũng phụ thuộc vào sự tác động từ phía các cơ quan quản lý vĩ mô

thông qua hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích của Nhà nước trong

lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu nông sản, nhằm nâng cao lợi thế cạnh

tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới.

3.2 TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VÀ NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG

ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005-2010

3.2.1 Triển vọng xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2005-2010

Xuất khẩu nông sản của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào năng lực

sản xuất trong nước cũng như diễn biến thị trường giá cả nông sản thế

giới. Năm 2005, sản xuất lúa gạo thế giới giảm do hạn hán kéo dài ở các

nước châu Á làm giảm sản lượng thu hoạch. Theo FAO, năm 2005 mậu

dịch gạo thế giới chỉ đạt 26,1 triệu tấn, giảm 6% so với năm 2004 do

xuất khẩu gạo của Thái Lan giảm xuống còn 7-8 triệu tấn, Việt Nam

cũng giảm khối lượng xuất khẩu khoảng 0,2 triệu tấn so năm 2004.

Trung Quốc, Inđônêxia, Philipin, Băngladesh và một số nước khác có

thể phải tăng nhập khẩu gạo. Do cung khan hiếm nên giá xuất khẩu năm

2005 có thể vẫn giữ ở mức cao. Dự báo, lượng gạo xuất khẩu của thế

giới tăng bình quân 2%/năm trong giai đoạn từ 2005-2010, trong đó xuất

khẩu gạo của Việt Nam khoảng 3,5-4,2 triệu tấn/năm [49].

106

Sản lượng cà phê thế giới niên vụ 2004/2005 có thể đạt 119 triệu

bao (1bao =60kg) tăng 9% so với niên vụ trước, trong đó sản lượng cà

phê của Việt Nam đạt 14,2 triệu bao, tăng 2,2 triệu bao so với niên vụ

2003/2004. Xuất khẩu cà phê thế giới niên vụ 2004/2005 dự báo đạt 86,2

triệu bao, giảm 2% so với niên vụ trước. Do xuất khẩu giảm nên giá cà

phê thế giới năm 2005 có thể vẫn ổn định ở mức 880-900 USD/tấn đối

với loại robusta và 2500-2650 USD/tấn đối với loại cà phê arbica.

Dự báo xuất khẩu cà phê của Việt Nam giai đoạn 2005-2010 dao

động từ 750-800 ngàn tấn/năm. Tương tự những mặt hàng nông sản xuất

khẩu khác của Việt Nam trong giai đoạn này cũng tăng mạnh, chẳng hạn

xuất khẩu chè năm 2005 khoảng 80 ngàn tấn và đến năm 2010 sẽ đạt 120

ngàn tấn, xuất khẩu cao su đến 2010 khoảng 420 ngàn tấn, hạt điều năm

2005 xuất khẩu khoảng 100 ngàn tấn, đến năm 2010 đạt khoảng 170

ngàn tấn và xuất khẩu rau quả sẽ đạt khoảng 450 triệu USD vào năm

2010. [49,50]

Nhu cầu tiêu dùng đối với hàng nông sản giai đoạn 2005 - 2010

cũng thay đổi đáng kể theo hướng tăng sử dụng những loại nông sản có

chất lượng cao, nông sản sạch, nông sản hữu cơ. Vì thế, các nước sản

xuất và xuất khẩu nông sản coi cải thiện chất lượng nông sản là chìa

khoá để thâm nhập thị trường thế giới.

Như vậy xuất khẩu nông sản của Việt Nam, nhất là xuất khẩu một

số mặt hàng chủ lực (gạo, cà phê, điều, chè, cao su, rau quả...) trong

những năm tới có nhiều triển vọng. Vấn đề là để chiến thắng trong cạnh

tranh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu nông sản, chúng ta cần đề ra

phương hướng sản xuất, xuất khẩu phù hợp trên cơ sở nghiên cứu tốt

diễn biến cung cầu và giá cả nông sản thế giới và có các giải pháp khả

107

thi vừa phù hợp với điều kiện của nước ta, vừa đáp ứng được những biến

động, nhất là những biến động về giá trên thị trường thế giới.

3.2.2 Phƣơng hƣớng đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam

Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và phù hợp với các quan điểm nêu

trên, trong giai đoạn 2005-2010 cần thực hiện tốt một số phương hướng

sau đây:

Một là, Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản theo hướng đa dạng hoá thị

trường và đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu nhằm tăng kim nghạch và

phòng ngừa rủi ro do những biến động thị trường nông sản thế giới.

Thị trường ASEAN sẽ ngày càng hạn chế đối với các nông sản xuất

khẩu của Việt Nam. Một là, do đặc trưng cơ bản về nông sản của các

nước ASEAN tương tự nhau do đó hoàn toàn có khả năng thay thế. Hai

là, hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước

này không có tác động làm tăng khối lượng xuất khẩu nông sản của Việt

Nam trong tương lai.

Thị trường các nước châu Á khác có tiềm năng mở rộng mậu dịch

hàng nông sản là các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông và

Đài Loan. Tuy nhiên, một số thị trường trong số này (các thị trường

Hồng Kông, Đài Loan) là thị trường tái xuất và thường thiếu tính ổn

định. Do vậy cần tập trung khai thác thị trường Trung Quốc và thị trường

Nhật Bản, đặc biệt là thị trường Trung Quốc do trong thời gian tới Trung

quốc có khả năng phải nhập khẩu nhiều gạo và các loại nông sản khác.

Thị trường SNG và Đông Âu là khu vực xuất khẩu nông sản truyền

thống của Việt Nam và được xem là thị trường "dễ tính" nhất đối với

nông sản xuất khẩu của Việt Nam do không đòi hỏi quá khắt khe về chất

lượng sản phẩm và là thị trường có nhiều tiềm năng phát triển. Trong

thời gian tới Việt Nam cần đẩy mạnh việc xuất khẩu nông sản vào thị

108

trường này. Tuy vậy chi phí vận chuyển nông sản xuất khẩu sang thị

trường này là khá cao, vì vậy cần phải có biện pháp hạ giá thành sản

phẩm thì mới có thể cạnh tranh được.

Thị trường châu Phi, yêu cầu về chất lượng không cao nhưng sức

mua hạn chế do không có khả năng thanh toán, và chỉ dừng lại ở hàng

ngũ cốc. Vì vậy, Việt Nam nên tranh thủ đẩy mạnh xuất khẩu gạo chất

lượng vừa phải với giá không quá cao vào thị trường này dưới dạng hàng

đổi hàng.

Triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt nam vào thị

trường Mỹ rất lớn, yêu cầu về chất lượng cũng đa dạng gồm cả chất

lượng cao và chất lượng trung bình phù hợp với nông sản xuất khẩu của

Việt Nam. Kể từ khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, xuất

khẩu nông sản của Việt Nam vào thị trường này tăng nhanh chóng. Tuy

nhiên, xuất khẩu vào thị trường này chúng ta cũng vấp phải những rào

cản lớn như vụ kiện chống bán phá giá cá tra, cá basa, tôm nhằm ngăn

cản sự thâm nhập của hàng nước ngoài và bảo hộ sản xuất nội địa của

Mỹ. Để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này ngoài những yêu cầu về

chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng còn phải đặc biệt quan tâm đến

luật pháp và những qui định về thương mại của Mỹ.

Thị trường EU được coi là thị trường "khó tính" nhất về chất lượng

hàng nông sản nhập khẩu, với cơ chế bảo hộ nông nghiệp rất chặt chẽ và

mức độ bảo hộ cao, song đây vẫn là thị trường tiềm năng lớn đối với

nhóm hàng nông sản nhiệt đới của Việt Nam trong thời gian tới như cà

phê, cao su tự nhiên, hạt tiêu, hạt điều và các loại hoa quả. Tuy nhiên, để

mở rộng được thị phần xuất khẩu nông sản vào thị trường EU đòi hỏi

Việt Nam phải nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng

hoá mặt hàng trên cơ sở đẩy mạnh việc ứng dụng những tiến bộ khoa

109

học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ sản xuất nông sản

sạch.

Hai là, cần xác định rõ các đối thủ cạnh tranh trong thời gian tới

để tìm giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu

Việt Nam trên thị trường thế giới.

Hiện nay trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản vào thị trường Mỹ và

châu Âu, Thái Lan và Trung Quốc có rất nhiều kinh nghiệm, họ bỏ nhiều

công sức để nghiên cứu nhu cầu, sở thích và tập quán tiêu dùng của các

thị trường này để điều chỉnh việc sản xuất và xuất khẩu. Ví dụ, để mở

rộng thị phần xuất khẩu chè sang EU, Trung Quốc nghiên cứu rất kỹ nhu

cầu tiêu dùng chè sạch của thị trường này, từ đó chuyển hướng sang sản

xuất chè hữu cơ. Mặc dù giá xuất khẩu cao hơn rất nhiều so với loại chè

bình thường nhưng vẫn được người tiêu dùng EU ưa chuộng. Hiện tại

hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu vào EU đang bị sức ép rất mạnh

của hàng Thái Lan và Ấn Độ về sản phẩm gạo, Indônêxia và Braxin về

sản phẩm cà phê, Trung Quốc về sản phẩm chè. Phần lớn hàng của các

đối thủ cạnh tranh có ưu thế hơn hàng nông sản của Việt Nam về chất

lượng, tính đa dạng của sản phẩm, và nguồn cung cấp ổn định.

Vì vậy, việc xác định đối thủ cạnh tranh đối với từng loại mặt hàng

ở từng khu vực thị trường giúp chúng ta xây dựng chiến lược lâu dài

trong phát triển sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản nhằm nâng cao

sức cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng nông sản Việt

Nam.

Ba là, nâng cao sức cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu Việt

Nam trên cơ sở khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng tham gia.

Hiện tại, sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam

so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới chưa cao một phần

110

do chúng ta thiếu kinh nghiệm trong buôn bán và xúc tiến thương mại,

thiếu vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và xuất

khẩu nông sản, cũng như đầu tư cho công tác nghiên cứu và ứng dụng

khoa học công nghệ vào sản xuất và chế biến nông sản, phần khác do

chúng ta đang còn có những sự phân biệt đối xử nhất định giữa các thành

phần kinh tế, do vậy chưa thu hút hết được năng lực của các thành phần

kinh tế vào sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản. Vì vậy, để nông

sản xuất khẩu của Việt Nam ngày càng củng cố được vị thế của mình

trên thị trường quốc tế, đòi hỏi Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý cả

về chính sách, cơ chế quản lý và thủ tục hành chính thông thoáng có sức

hấp dẫn thu hút mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia

vào sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản.

Huy động được các lực lượng kinh tế cùng tham gia vào việc nâng

cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu là chúng ta tạo ra

được sức mạnh tổng hợp để vượt qua những thách thức khi Việt Nam

tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.

Để thực hiện được những phương hướng trên cũng như chiến lược

phát triển nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là

tăng khối lượng hàng hoá và kim ngạch xuất khẩu nông sản đến năm

2010 đạt 8,5 - 9,0 tỷ USD và nâng cao vị thế của nền Nông nghiệp Việt

Nam trong khu vực và thế giới đòi hỏi phải thực thi đồng bộ các giải

pháp và chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông

sản xuất khẩu Việt Nam.

3.3 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH

TRANH CỦA NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM

Hiện nay khi hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh chóng và

là xu thế tất yếu, để đẩy nhanh được quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

111

và phát triển bền vững của đất nước, chúng ta phải nâng cao sức cạnh

tranh của nền kinh tế nói chung, của các mặt hàng nông sản xuất khẩu

nói riêng. Tuy nhiên, để nâng cao được năng lực cạnh tranh cho hàng

nông sản xuất khẩu trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng diễn ra gay gắt

cần phải có sự phối hợp chặt chẽ từ Chính phủ, các cấp các ngành tới

các chủ thể sản xuất kinh doanh xuất khẩu nông sản trong việc thực hiện

đồng bộ các giải pháp như cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển và

mở rộng thị trường xuất khẩu, xây dựng thương hiệu sản phẩm, nâng cao

chất lượng sản phẩm, áp dụng công nghệ sinh học và công nghệ chế biến

tiên tiến... Trong đó, Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc

đưa ra các chính sách nhằm tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá của mình

trên thị trường thế giới.

3.3.1 Tạo lập và hoàn thiện môi trƣờng kinh doanh

Môi trường kinh doanh ở Việt Nam trong những năm gần đây tuy

đẫ được cải thiện theo hướng tích cực nhưng chưa thực sự thông thoáng

như phân tích ở chương 2. Do đó, để cải thiện môi trường kinh doanh

nhằm tăng sức cạnh tranh cho các chủ thể kinh tế kinh doanh các mặt

hàng nông sản xuất khẩu, Nhà nước cần ban hành đồng bộ hệ thống luật

pháp và hoàn thiện một số chính sách có liên quan như chính sách đầu

tư, chính sách thương mại, chính sách thuế, chính sách tỷ giá, chính sách

đất đai...

3.3.1.1 Chính sách đầu tư

Chính sách đầu tư từ ngân sách Nhà nước cần hoàn thiện theo

hướng đầu tư đủ và đồng bộ tới quá trình sản xuất - chế biến - xuất khẩu

nông sản, cụ thể đầu tư cho các yêu cầu sau:

112

- Đầu tư cho vùng sản xuất tập trung, hình thành các vùng nguyên

liệu cho chế biến và xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng (giao thông, điện,

đặc biệt hệ thống thuỷ lợi) tại những vùng này;

- Đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, trong đó chú ý

đầu tư nghiên cứu cải tạo giống, ứng dụng công nghệ sinh học và các kỹ

thuật canh tác tiến bộ nhằm tạo ra nông sản sạch và có chất lượng cao

gắn liền với chính sách khuyến nông từ Trung ương đến cơ sở;

- Đầu tư cho nâng cấp và đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao khả

năng cạnh tranh

- Đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển thị trường nhất là

công tác dự báo, dự đoán nhu cầu của thị trường trong tương lai ở cả tầm

vi mô và vĩ mô, nhằm xây dựng chiến lược thị trường.

Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài cần sửa đổi theo hướng mở

cửa, thông thoáng và đơn giản hoá các thủ tục đầu tư hơn nữa nhằm thu

hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp và nông

thôn, đặc biệt là lĩnh vực chế biến nông sản và phát triển cơ sở hạ tầng

nông thôn. Trong chính sách này cần đặc biệt chú trọng giảm dần, tiến

tới xoá bỏ sự phân biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh

nghiệp có yếu tố nước ngoài.

Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước cần xây dựng theo

hướng khuyến khích hơn nữa khu vực ngoài quốc doanh đầu tư vào lĩnh

vực sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản. Để thực hiện được chính

sách này đòi hỏi phải hoàn toàn xoá bỏ mọi phân biệt đối xử giữa các

thành phần kinh tế, nhất là khả năng tiếp cận các nguồn vốn, thuê đất

làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, tiếp cận thông tin thị trường, đào tạo

bồi dưỡng cán bộ. Cần khuyến khích thành lập các trung tâm hỗ trợ

113

doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các vùng trọng điểm sản xuất nông sản xuất

khẩu.

3.3.1.2 Chính sách thương mại

Chính sách thương mại phải được xây dựng trên cơ sở tiếp tục mở

rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá,

chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp điều kiện của

Việt Nam và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ đa phương

và song phương.

Chính sách thương mại cần hoàn thiện theo hướng mở rộng quyền

xuất khẩu cho doanh nghiệp và các cá nhân được xuất khẩu những mặt

hàng không cấm hoặc không hạn chế về số lượng; tổ chức nghiên cứu thị

trường trong và ngoài nước, xây dựng hệ thống thông tin dự báo thị

trường; đào tạo, bồi dưỡng năng lực đàm phán cho đội ngũ cán bộ đang

làm công tác này của Nhà nước và ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Chính sách thương mại cần hoàn chỉnh cho phù hợp với các qui

định của WTO bởi vì Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập

WTO, do đó sẽ phải đưa ra các cam kết ràng buộc và tiến tới cắt giảm

thuế suất nhập khẩu. Ngay những mặt hàng Việt Nam cần bảo hộ trong

thời gian tới thì cũng nên thí điểm áp dụng các cơ chế linh hoạt như hạn

ngạch thuế quan hay thuế thời vụ. Theo đó chúng ta sẽ mở cửa thị trường

nội địa phần nào để gia tăng sức ép cạnh tranh buộc sản xuất trong nước,

nhất là các doanh nghiệp phải cố gắng vươn lên. Một môi trường cạnh

tranh lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất trong

nước nâng cao hiệu quả hoạt động và qua đó từng bước cải thiện vị thế

cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Các chính sách khuyến khích xuất khẩu trong những năm qua đã

góp phần tạo điều kiện để các doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, tăng

114

sức cạnh tranh về giá, khuyến khích các doanh nghiệp gia tăng đầu tư

sản xuất chế biến nông sản xuất khẩu. Tuy nhiên, về lâu dài chúng ta

không thể áp dụng các chính sách trợ giá xuất khẩu và thưởng xuất khẩu

vì các chính sách này vi phạm qui định về cấm trợ cấp xuất khẩu trực

tiếp của WTO. Do vậy, chúng ta nên nghiên cứu chuyển sang các dạng

trợ cấp khác phù hợp hơn với yêu cầu của các tổ chức kinh tế - thương

mại khu vực và quốc tế. Để làm được điều này, chúng ta phải đa dạng

hoá các hình thức tín dụng xuất khẩu, tiếp tục hoàn thiện và tăng cường

các giải pháp ưu đãi tín dụng xuất khẩu, hoàn thiện quĩ tín dụng xuất

khẩu tiến tới thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu và triển khai bảo hiểm

xuất khẩu.

Khuyến khích các doanh nghiệp hình thành các tổ chức hiệp hội,

hợp tác để thống nhất về qui cách, hàng hoá, ký kết hợp đồng dài hạn,

bảo đảm thanh toán để giảm bớt rủi ro, tránh hiện tượng ép cấp, ép giá

trong buôn bán, nhất là buôn bán quốc tế.

3.3.1.3 Chính sách tài chính

Yêu cầu vốn cho đầu tư sản xuất, chế biến và tiêu thụ xuất khẩu là

rất lớn. Để có vốn cho đầu tư đầy đủ và đồng bộ vào các khâu quan

trọng, chính sách tài chính cần được tiếp tục hoàn thiện nhằm thu hút

được mọi nguồn vốn cho đầu tư. Cụ thể chính sách tài chính phải nhằm:

- Thu hút đầu tư trong nước, trong đó huy động vốn tự có của các

doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế để đầu tư phát triển cơ sở hạ

tầng, sản xuất, chế biến nông sản xuất khẩu.

- Thu hút vốn nước ngoài và tham gia hợp tác quốc tế trong các lĩnh

vực kinh doanh. Đây được xem như giải pháp quan trọng tháo gỡ tài

115

chính, vì dựa vào nội lực thì trong tương lai gần chúng ta chưa thể đáp

ứng đầy đủ được yêu cầu, trong khi vốn và công nghệ nước ngoài rất

quan trọng cho sự phát triển của Việt Nam hiện nay. Thông qua hợp tác

quốc tế Việt Nam sẽ tranh thủ được một phần thị trường (thông qua bao

tiêu, cho sử dụng các kênh phân phối, sử dụng nhãn hiệu của các nhà đầu

tư nước ngoài v.v...).

Đối với chính sách thuế cần:

- Thực hiện chính sách ưu đãi thuế có thời hạn cho các doanh

nghiệp phục vụ xuất khẩu tại các vùng xa, vùng sâu, vùng khó khăn;

- Giảm thuế nhập khẩu đối với những trang thiết bị máy móc và

công nghệ sản xuất, chế biến các nông sản để hộ trợ cho đổi mới công

nghệ;

- Nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây trồng, hình

thành quĩ bảo hiểm từng ngành sản phẩm. Trước mắt cần thành lập các

quĩ bảo hiểm các nông sản sau: lúa gạo, cà phê, cao su, thịt lợn. Quĩ này

dùng để can thiệp thị trường khi giá thị trường đột biến xuống dưới giá

sàn định hướng và giúp đỡ sản xuất trong những trường hợp đặc biệt khó

khăn do thiên tai. Quĩ được trích từ phần thuế xuất khẩu và các khoản

thu và đóng góp khác đối với từng loại nông sản.

3.3.1.4 Chính sách tỷ giá

Từ khi Chính phủ thực hiện cải cách cơ chế điều hành tỷ giá theo

hướng điều chỉnh linh hoạt hơn thì chính sách tỷ giá đã góp phần thu hẹp

khoảng cách giữa tỷ giá do ngân hàng Trung ương qui định với tỷ giá

được hình thành trên thị trường tự do. Song trong thời gian tới cần điều

hành tỷ giá linh hoạt hơn nữa (không nên định giá quá cao đồng nội tệ),

tuy nhiên không nên áp dụng biện pháp đột ngột (tạo nên các cú sốc), mà

cần điều chỉnh từng bước để tỷ giá do Nhà nước qui định càng ngày càng

116

sát với tỷ giá hình thành trên thị trường, để khuyến kích xuất khẩu, hạn

chế nhập khẩu và đảm bảo sự ổn định, tăng trưởng kinh tế.

3.3.1.5 Chính sách đất đai

Chính sách đất đai là vấn đề lớn có tác động trực tiếp tới sự phát

triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Do đó, cần đồng thời xử lý tốt

mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. Nhà nước cần tạo

mọi điều kiện để phát triển thị trường bất động sản. Trên thực tế, do thị

trường bất động sản nói chung và thị trường quyền sử dụng đất chậm ra

đời và phát triển là một trong những nguyên nhân nẩy sinh hiện tượng

chuyển nhượng ngầm đất đai, tức mua bán đất nhưng không nộp thuế

chuyển nhượng đất, giá đất do nhà nước qui định chênh lệch rất xa giá

thị trường làm cho việc quản lý của Nhà nước khó khăn, thất thoát về

nguồn thu ngân sách, đất bị sử dụng lãng phí, sử dụng sai mục đích, nạn

tham nhũng nẩy sinh.

Giải quyết nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho

hộ nông dân, một mặt tạo điều kiện cho hộ gia đình yên tâm đầu tư khai

thác và sử dụng tốt tiềm năng về tài nguyên đất, mặt khác tạo điều kiện

thuận lợi cho người dân thực hiện các quyền về đất đai đã được luật pháp

qui định (các quyền chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thế chấp...). Việc

thực hiện các quyền về đất đai một cách nhanh chóng, thuận tiện sẽ tạo

điều kiện cho việc tích tụ ruộng đất để phát triển sản xuất hàng hoá.

Nghiên cứu để mở rộng tiến tới xoá bỏ hạn điền tạo điều kiện cho

những người có kinh nghiệm, có vốn đầu tư phát triển các trang trại sản

xuất với qui mô lớn nhằm tăng năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản

xuất khẩu.

3.3.2 Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của nông

sản xuất khẩu

117

3.3.2.1 Tăng qui mô cung ứng, chế biến và xuất khẩu

Để hàng nông sản của Việt Nam có thể thâm nhập một các vững

chắc và lâu dài vào thị trường thế giới đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm

hơn đến việc hoạch định chiến lược, qui hoạch phát triển hàng nông sản

xuất khẩu từ nay đến năm 2010 và xa hơn nữa là tầm nhìn năm 2020.

Trên cơ sở chiến lược phát triển của ngành nông nghiệp, Bộ Nông

nghiệp và phát triển nông thôn xây dựng kế hoạch phát triển cho từng

mặt hàng và đưa ra bảng danh mục các nông sản xuất khẩu cụ thể theo

thứ tự ưu tiên cho từng vùng nhằm phát huy lợi thế so sánh của từng

vùng và nhu cầu của thị trường thế giới.

Đặc biệt cần lưu ý rằng, chiến lược phát triển nông sản xuất khẩu

phải được xây dựng trước hết trên cơ sở coi trọng định hướng đến thị

trường và hiệu quả xuất khẩu chứ không phải chỉ trên cơ sở coi trọng

tiềm năng sản xuất trong nước. Bởi phương châm xuất khẩu của chúng ta

là "bán cái thị trường cần, chứ không phải bán cái gì ta có".

Cùng với việc qui hoạch vùng chuyên canh xuất khẩu, Nhà nước

cần đặc biệt quan tâm đầu tư đồng bộ cho các vùng đó hệ thống các cơ

sở chế biến, bảo quản và cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu. Cụ thể đầu tư

đồng bộ cho các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, tạo vùng nguyên liệu

có chất lượng cao gắn với hệ thống tiêu thụ phục vụ cho chế biến và xuất

khẩu như hệ thống giao thông, điện, mạng lưới viễn thông, đặc biệt hệ

thống thuỷ lợi và công nghiệp chế biến. Chỉ có qui hoạch các vùng sản

xuất hàng hoá tập trung và đầu tư một cách đồng bộ cho các vùng

nguyên liệu mới có thể nâng cao được sức cạnh tranh cho nông sản nhờ

qui mô sản xuất, chất lượng sản phẩm.

Căn cứ vào qui mô của các vùng sản xuất, tiến hành xây dựng các

chương trình dự án cụ thể phát triển từng mặt hàng, ngành hàng để thu

118

hút vốn đầu tư. Trên từng vùng cụ thể cần có những chính sách ưu tiên

sát thực để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển kinh

tế vùng.

Đối với các vùng sản xuất tập trung nông sản xuất khẩu, cần

khuyến khích xây dựng mô hình gắn kinh doanh với sản xuất, cơ sở chế

biến với vùng nguyên liệu. Hình thành nguồn hàng xuất khẩu ổn định

đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới.

Đối với vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến nông

sản, cần khuyến khích các công ty chế biến, thương mại mở rộng đại lý

thu gom nông sản nguyên liệu dưới hình thức hợp đồng với nông dân,

tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến và xuất khẩu; hỗ trợ vốn,

công nghệ kỹ thuật và định hướng sản xuất cho hộ nông dân, mở rộng

đại lý tiêu thụ sản phẩm nhằm ổn định, điều hoà thị trường toàn quốc.

Thực tiễn ở vùng lúa gạo xuất khẩu Đồng bằng Sông Cửu Long, cụ

thể là mô hình tổ chức mạng lưới thu gom của công ty lương thực An

Giang, cho thấy việc thực hiện ký hợp đồng mua sản phẩm với nông dân,

đảm bảo giá mua tối thiểu, đã tạo được sự gắn kết có trách nhiệm giữa

sản xuất và tiêu thụ. Đây thực sự là mô hình tốt cần nhân rộng đối với

các vùng sản xuất nông sản tập trung như vùng cà phê Tây Nguyên,

Đồng Nai; vùng cao su Đông Nam Bộ; vùng chè ở miền núi và Trung du

Phía Bắc, vùng sản xuất rau quả ở ĐBSH và ĐBSCL.

Để nâng cao được hiệu quả xuất khẩu và giữ chữ tín cho hàng nông

sản của Việt Nam trên thị trường thế giới, cần hạn chế độc quyền bằng

việc mở rộng các đầu mối xuất khẩu, với sự tham gia của các thành phần

kinh tế trong và ngoài nước. Ngoài ra, cần lựa chọn các doanh nghiệp có

năng lực chế biến, có kho tàng đủ tiêu chuẩn bảo quản, có kinh nghiêm

trong xuất khẩu, có hệ thống thu mua nắm nguồn hàng ổn định làm đầu

119

mối xuất khẩu. Khuyến khích các đầu mối xuất khẩu mở đại diện và đại

lý ở nước ngoài, gắn kết trách nhiệm lâu dài giữa sản xuất - chế biến và

tiêu thụ, nâng cao vị thế của các ngành hàng xuất khẩu.

3.3.2.2 Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu

Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào giống cây trồng vật

nuôi, kỹ thuật chăm sóc, công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm. Như

phân tích ở chương 2, chất lượng nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của

Việt Nam hiện nay còn thấp so với các đối thủ cạnh tranh và chưa đáp

ứng được yêu cầu của thị trường nhập khẩu. Đây là một trong những hạn

chế lớn ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt

Nam.

* Nâng cao chất lượng giống cây trồng vật nuôi

Nâng cao chất lượng sản phẩm được coi là giải pháp có ý nghĩa tiên

quyết đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất

khẩu đặc biệt đối với những mặt hàng nông sản xuất khẩu hiện có sức

cạnh tranh thấp do thua kém các đối thủ cạnh tranh về chất lượng (mặt

hàng gạo) và kém về năng suất (cao su, chè). Để nâng cao được chất

lượng nông sản xuất khẩu đòi hỏi chúng ta phải tăng cường tiềm lực cho

các cơ sở nghiên cứu để tuyển chọn, nhập nội có chọn lọc những giống

mới có năng suất và chất lượng cao vào sản xuất, cùng với việc phổ cập

rộng rãi các công nghệ sản xuất tiên tiến nhằm tạo ra nông sản chất

lượng cao, giá thành thấp và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tạo chỗ

đứng vững chắc trên thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất nông sản.

Về phía Nhà nước, cần tăng đầu tư chiều sâu cho các viện, các trung

tâm nghiên cứu giống cây trồng vật nuôi hiện có, đồng thời xây dựng

mới một số trung tâm ở các vùng sản xuất nông sản tập trung để nghiên

cứu và chuyển giao nhanh các giống mới sạch bệnh đã qua khảo nghiệm

120

vào sản xuất đại trà. Huy động lực lượng cán bộ kỹ thuật của các cơ sở

nghiên cứu phối hợp với hệ thống khuyến nông tổ chức hướng dẫn nông

dân trồng mới, chăm sóc, thu hoạch theo đúng qui trình kỹ thuật để tạo

ra sản phẩm có chất lượng cao. Đặc biệt cần nâng cao trình độ canh tác

và kỹ thuật của các hộ sản xuất. Nâng cao độ đồng đều về năng suất,

chất lượng đối với các hộ trong các vùng sản xuất, với sự phối hợp chặt

chẽ giữa các cơ quan kỹ thuật, quản lý và chỉ đạo sản xuất cùng các cơ

quan kinh doanh. Nâng cao được độ đồng đều về năng suất chất lượng

của các hộ sản xuất là nội dung có ý nghĩa kinh tế lớn hiện nay.

Về phía các doanh nghiệp sản xuất và người sản xuất nông sản xuất

khẩu phải lựa chọn loại giống cây trồng vật nuôi từ những cơ sở sản xuất

giống có uy tín, đảm bảo cung cấp giống đủ tiêu chuẩn chất lượng và chú

ý sản xuất những loại nông sản đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu.

Trong quá trình sản xuất cần áp dụng những biện pháp kỹ thuật

thâm canh hiện đại nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt phải

tăng cường áp dụng phương pháp sản xuất sạch theo qui trình canh tác

nông nghiệp đảm bảo (GAP). Phương pháp sản xuất sạch không những

giúp chúng ta bảo vệ được môi trường sống, mà còn giảm được chi phí

sản xuất do giảm chi phí về phân bón và thuốc trừ sâu, tăng hiệu quả sử

dụng tài nguyên, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của

nông sản Việt nam trên thị trường thế giới.

Ngoài ra, người sản xuất cũng cần phải nâng cao chất lượng nông

phẩm ngay ở khâu thu hoạch. Thu hoạch đúng thời vụ, đúng qui trình có

ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nông sản. Một thực tế hiện nay, do kỹ

thuật thu hái cà phê của Việt Nam tuốt cả quả xanh lẫn quả chín đã làm

giảm chất lượng cà phê xuất khẩu và giảm giá bán rất nhiều.

121

* Nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua việc áp dụng công

nghệ bảo quản và chế biến tiên tiến

Để nông sản có chất lượng cao thì vấn đề bảo quản sau thu hoạch

cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Kỹ thuật bảo quản tốt không những giảm

tỷ lệ hao hụt nông sản mà còn giữ được chất lượng cho nông sản đặc biệt

là nhưng loại nông sản tươi sống như rau, hoa quả, sản phẩm từ ngành

chăn nuôi. Có cơ sở hạ tầng và kỹ thuật bảo quản tốt còn cho phép các

doanh nghiệp chủ động nguồn hàng cho khâu chế biến và xuất khẩu,

thông qua đó mà nâng cao được năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu.

Công nghệ bảo quản có tốt mới đảm bảo tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn

thực phẩm, giữ được hương vị đặc trưng của nông sản xuất khẩu. Công

nghệ bảo quản nông sản của Việt Nam hiện nay rất kém nên thời gian

bảo quản ngắn, tỷ lệ hao hụt sau bảo quản cao làm giảm năng lực cạnh

tranh so với nông sản của các nước xuất khẩu khác.

Thực tế hiện nay, công nghệ chế biến của Việt Nam vừa rất thiếu lại

vừa lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh cho nên nông sản của Việt

Nam chủ yếu phải xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô tới 70-80%. Đây

là một thua thiệt rất lớn cho Việt Nam do không tận dụng được nguồn

lao động dồi dào trong nước, hơn nữa xuất khẩu nguyên liệu thô giá trị

xuất khẩu rất thấp và thường chịu tác động rất lớn của biến động giá cả

trên thị trường thế giới. Ví dụ, khi giá cà phê trên thị trường thế giới

giảm thì giá nguyên liệu thô giảm nhanh hơn nhiều so với giá cà phê đã

qua chế biến sâu.

Để nâng cao sức cạnh tranh cần thiết phải tạo lập chương trình: "Hỗ

trợ đổi mới công nghệ trong nông nghiệp nói chung, đối với những mặt

hàng nông sản xuất khẩu nói riêng". Trước hết, cần nâng cấp các nhà

máy chế biến hiện có, trong đó những nhà máy quá lạc hậu thì nên rà xét

122

lại, để có hướng xử lý trên cơ sở lấy hiệu quả làm mục tiêu. Đồng thời

xây dựng một số nhà máy mới tại vùng nguyên liệu áp dụng đồng bộ

công nghệ tiến tiến và đa dạng hoá các sản phẩm chế biến. Trên cơ sở

nắm bắt yêu cầu của thị trường, xây dựng chương trình hỗ trợ đổi mới

công nghệ, đáp ứng yêu cầu của thị trường, chủ yếu ở các thị trường

mới, yêu cầu chất lượng và tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp cũng như vệ

sinh thực phẩm cao.

Để hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam có chỗ đứng vững chắc trên

thị trường thế giới, đòi hỏi cả Nhà nước và doanh nghiệp chế biến phải

đặc biệt quan tâm đầu tư cho lĩnh vực chế biến nông sản.

Về phía Nhà nước, cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp nâng

cao trình độ công nghệ chế biến nông sản thông qua thuế, tín dụng, sử

dụng quĩ khấu hao như:

+ Giảm thuế nhập khẩu đối với những thiết bị máy móc và công

nghệ sản xuất, chế biến nông sản;

+ Cho các doanh nghiệp vay vốn ưu đãi để đầu tư đổi mới công

nghệ;

+ Khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ nguồn từ

những nước có trình độ sản xuất tiên tiến trên thế giới như Mỹ, EU;

+ Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng khoa học công nghệ hiện đại thông

qua chương trình giới thiệu rộng rãi các tài liệu và trình diễn các công

nghệ chế biến nông sản mới; hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước chuyển

giao công nghệ, nghiên cứu và cải tiến công nghệ đang áp dụng.

Về phía các doanh nghiệp, trước mắt cần nâng cao trình độ công

nghệ bảo quản nông sản tiên tiến như: xây dựng các kho bảo quản nông

sản đúng tiêu chuẩn kỹ thuật; kỹ thuật đóng gói, bảo quản bằng kho lạnh,

123

công nghệ lạnh đông nhanh để bảo quản các loại nông sản tươi sống như

hàng thuỷ sản, rau quả tươi.

Các doanh nghiệp chế biến nông sản cần thực hiện một số biện

pháp như: cải tiến, nâng cao kỹ thuật của các trang thiết bị chế biến hiện

có; thay đổi các công nghệ cũ bằng các công nghệ sạch ít gây ô nhiễm

môi trường. Các doanh nghiệp có thể hiện đại hoá công nghệ chế biến

bằng cách nghiên cứu, thiết kế công nghệ trong nước; nhập khẩu công

nghệ chế biến hiện đại từ nước ngoài; liên doanh liên kết sản xuất với

nước ngoài để trang bị công nghệ đặc biệt là công nghệ chế biến sạch.

* Các giải pháp khác

Ngoài ra, để đảm bảo được sự ổn định về chất lượng hàng xuất

khẩu cần áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối

với nông sản xuất khẩu. Khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm hơn

đến vấn đề công nghệ sạch nhằm nâng cao uy tín cho hàng hoá Việt Nam

trên thị trường thế giới.

Để tạo ra sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam về chất lượng phải

đặc biệt chú ý đến việc giám sát và kiểm tra chặt chẽ những chỉ tiêu qui

định đối với các mặt hàng xuất khẩu theo từng khu vực và thị trường

nhập khẩu.

3.3.2.3 Phát triển thị trường, xúc tiến thương mại và xây dựng

thương hiệu cho nông sản xuất khẩu

* Phát triển thị trường

Trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản, để đạt được hiệu quả kinh tế

cao cần coi trọng công tác nghiên cứu, dự báo thị truờng giá cả và mở

rộng thị trường xuất khẩu cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Kinh nghiệm của

một số nước thành đạt trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản cho thấy phải

có những tổ chức chuyên trách trong việc nghiên cứu thị trường ngoài

124

nước. Ở Việt Nam cũng nên có những tổ chức này để thực hiện những

nhiệm vụ:

+ Thu thập thông tin về cung, cầu, giá cả, thị hiếu tiêu dùng, dung

lượng, khả năng cạnh tranh đối với từng nhóm hàng, mặt hàng;

+ Xử lý thông tin, dự báo sản phẩm tiềm năng ở mỗi thị trường cụ

thể về các mặt như số lượng, chất lượng, giá cả và thị hiếu;

+ Cung cấp thông tin đã xử lý một cách nhanh nhất cho các cấp

lãnh đạo, làm cơ sở để xây dựng chiến lược kinh doanh, giúp các cơ

quan chức năng của nhà nước nắm được những diễn biến của thị trường

để kịp thời ứng phó nhằm thực hiện chức năng điều hành vĩ mô đối với

thị trường;

+ Cung cấp thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua

các tổ chức khuyến nông, các cấp chính quyền, đoàn thể, tới người sản

xuất, giúp họ định hướng sản xuất lâu dài, ổn định có căn cứ phù hợp với

nhu cầu của khách hàng;

+ Cung cấp thông tin về những ưu thế của sản phẩm trong nước tới

khách hàng thông qua các cuộc hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế, giúp

khách hàng nước ngoài hiểu rõ về sản phẩm Việt Nam nhằm đẩy mạnh

xuất khẩu.

Để thực hiện tốt công tác này, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ

giữa Bộ Thương mại và Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn. Hơn

nữa, Nhà nước cũng cần hỗ trợ doanh nghiệp trong việc mở rộng thị

trường xuất khẩu thông qua các hoạt động đàm phán ký kết các thoả

thuận song phương và đa phương, định hướng cho các doanh nghiệp

phát triển thị trường.

Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần làm tốt công tác nghiên

cứu thị trường bao gồm: các thông tin về cung cầu, giá cả, dung lượng,

125

thị hiếu tiêu dùng ở từng thị trường, nghiên cứu về các đối thủ cạnh tranh

với doanh nghiệp trên các thị trường đó. Qua đó xây dựng chiến lược

xuất khẩu của mình trên mỗi thị trường.

* Xúc tiến thương mại

Hiện nay, đẩy mạnh xúc tiến thương mại đang trở thành vấn đề bức

xúc vì môi trường cạnh tranh về hàng nông sản xuất khẩu đang diễn ra

gay gắt. Để củng cố các thị trường đã có và mở rộng thêm các thị trường

mới, cần có chính sách xúc tiến thương mại thích hợp. Trước mắt, Nhà

nước cần chọn thị trường trọng điểm, sản phẩm mũi nhọn có tính chiến

lược cho từng khối, từng khu vực để gây uy tín, tạo hình ảnh sản phẩm

Việt Nam và lấy đó làm điểm dựa để mở rộng và lan toả vào các nước

khác.

Tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ thương mại với các nước

thuộc thị trường truyền thống, đặc biệt thị trường SNG và Đông Âu, vì

đây là một thị trường có dung lượng trao đổi lớn và yêu cầu về chất

lượng sản phẩm không khắt khe, như các thị trường của các nước phát

triển. Theo nhận định của Bộ thương mại trong những năm tới thị trường

này vẫn có nhu cầu lớn về cao su, cà phê, chè và các nông sản khác như

hoa quả, thịt,...Việc chủ động khai thác thị trường SNG và Đông Âu,

một mặt vừa là sự chủ động của các doanh nghiệp, mặt khác các cơ quan

quản lý vĩ mô phải có trách nhiệm thực hiện các hoạt động khâu nối đàm

phán.

Tích cực và chủ động khai thác thị trường Trung Quốc - thị trường

có dân số đông, có khả năng tiêu thụ lớn và gần Việt Nam về vị trí địa lý.

Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã nhập nhiều cao su, gạo, điều

của Việt Nam, nhưng đang ở dạng tiểu ngạch. Đối với thị trường này

phải có sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu

126

để giảm bớt rủi ro, tổn thất. Để đảm bảo an toàn trong hoạt động xuất

khẩu, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan có trách nhiệm hai bên,

thực hiện đàm phán ký các hiệp định thương mại ở các cấp độ khác nhau

(cấp trung ương, cấp tỉnh, thậm chí cấp huyện và doanh nghiệp ), nhằm

đảm bảo quan hệ ngoại thương lâu dài và ổn định.

Thị trường các nước ASEAN đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ lệ

lớn trong giai đoạn chuyển đổi thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông

nghiệp (từ thị trường khu vực I sang thị trường khu vực II). Tuy nhiên,

từ năm 1996 đến nay tỷ lệ xuất khẩu sang các nước ASEAN có xu

hướng giảm mạnh do: một mặt, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu tương tự

giống nhau của các nước ASEAN, nên Việt Nam xuất khẩu cơ bản dưới

hình thức tạm nhập tái xuất; mặt khác, do tác động của hiệp định ưu đãi

thuế quan (CEPT/AFTA) ít có tác động đến khối lượng xuất khẩu các

sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam trong tương lai. Tuy nhiên thị

trường ASEAN vẫn là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng

đối với các sản phẩm như: gạo, cà phê, điều,...Do vậy cần tập trung

nghiên cứu khai thác trong thời gian tới cũng như lâu dài.

Để khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản, Nhà

nước cần hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào các hội chợ quốc tế nhằm

giới thiệu hàng hoá của mình.

Các doanh nghiệp kinh doanh nông sản xuất khẩu cần phải chủ

động đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại trên thị trường thế giới

bằng cách:

+ Chủ động tìm kiếm đối tác, chào hàng thông qua việc tham gia

các hội chợ triển lãm, hội thảo chuyên đề về nông sản, thông qua các

tham tán thương mại ở các nước;

127

+ Hợp tác chặt chẽ với thương vụ ở các nước mở phòng trưng bày

giới thiệu sản phẩm;

+ Tham gia vào các Hiệp hội ngành hàng để được hỗ trợ về thông

tin và thị trường xuất khẩu. Liên kết chặt chẽ với các hội viên trong cùng

Hiệp hội để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong đàm phán;

+ Tổ chức các hoạt động trước và sau bán hàng để duy trì và củng

cố uy tín của hàng nông sản Việt Nam với người tiêu dùng thế giới.

* Xây dựng thương hiệu sản phẩm

Việc xây dựng thương hiệu và chỉ dẫn địa lý đối với nông sản đang

trở thành một vấn đề thời sự đối với các doanh nghiệp tham gia xuất

khẩu. Việc có quá ít doanh nghiệp đăng ký thương hiệu ở thị trường

nước ngoài đã làm cho tới 90% nông sản xuất khẩu của Việt Nam phải

mang thương hiệu của các nước khác. Chẳng hạn, Việt Nam là nước

đứng đầu thế giới về xuất khẩu hạt tiêu, thứ hai về cà phê và gạo, nhiều

loại nông sản khác cũng có thứ hạng về số lượng xuất khẩu. Nhưng cho

đến nay vẫn chưa có thương hiệu sản phẩm ở thị trường nước ngoài.

Bởi vậy, vấn đề xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, chứng chỉ

quản lý chất lượng nông sản đối với Việt Nam hiện nay là điều hết sức

cấp thiết. Xây dựng thương hiệu và xuất xứ hàng hoá cũng chính là góp

phần nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. Do đó, các vùng trồng

nông sản xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu

nông sản ngay từ bây giờ cần phải quan tâm đầu tư xây dựng và bảo vệ

thương hiệu sản phẩm của mình. Bởi vì thương hiệu sẽ mang lại cho các

doanh nghiệp sở hữu thêm nhiều lợi nhuận trên sản phẩm bán ra, và hơn

nữa tạo ra một thị trường tiêu thụ tương đối ổn định. Với các thương

hiệu khác nhau, các doanh nghiệp kinh doanh nông sản xuất khẩu có thể

phân biệt sản phẩm của mình qua hình ảnh và những tính chất đặc trưng

128

tránh phải cạnh tranh đơn thuần về giá cả. Sức mạnh cạnh tranh cho

phép doanh nghiệp chế biến, kinh doanh có thêm đòn bảy thương lượng

với khách hàng nhập khẩu.

Thực tế cho thấy, kiến thức và kinh nghiệm về xây dựng thương

hiệu hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh

nghiệp kinh doanh xuất khẩu nông sản còn rất hạn chế. Do đó, để thực

hiện tốt công tác này đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Sự hỗ

trợ thiết thực nhất trong giai đoạn ban đầu là Nhà nước có chính sách hỗ

trợ về luật pháp và một phần tài chính cho các doanh nghiệp thông qua

Hiệp hội ngành hàng để đăng ký thương hiệu tại những thị trường chính.

* Xây dựng các mô hình hiệp hội chuyên doanh

Ở Việt Nam hiện nay đã hình thành được một số hiệp hội ngành

hàng như Hiệp hội cà phê, Hiệp hội lúa gạo, Hiệp hội chè, Hiệp hội cao

su...Mục đích xây dựng hiệp hội ngành hàng chính là để các đơn vị thành

viên hỗ trợ lẫn nhau, cùng chia sẻ trách nhiệm và bảo vệ lợi ích chung và

lợi ích chính đáng của mỗi thành viên. Việc ra đời các hiệp hội đã góp

phần làm tăng sức mạnh của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trên

thị trường thế giới, hạn chế bớt tình trạng tranh mua, tranh bán làm

khách hàng nước ngoài ép giá. Một số Hiệp hội làm tốt việc hỗ trợ tìm

kiếm thị trường tiêu thụ, cung cấp thông tin về thị trường và giá cả cho

các hội viên như Hiệp hội thuỷ sản, Hiệp hội cà phê...

Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của nhiều hiệp hội chưa đáp ứng

được yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Nhiều trường hợp, Hiệp hội chỉ

là sự liên kết về mặt hình thức, còn từng hội viên vẫn mạnh ai người nấy

làm gây thiệt hại rất lớn cho các thành viên khác.

Do đó, để làm tốt được các nhiệm vụ như định hướng sản xuất;

định hướng công nghệ; cung cấp thông tin về chính sách, thông tin thị

129

trường, giá cả thế giới; xây dựng quĩ hỗ trợ khi gặp rủi ro trong sản xuất

và kinh doanh v.v... Trong những năm tới, cần củng cố và hoàn thiện lại

các Hiệp hội hiện có, kết hợp đổi mới một số tổng công ty và công ty để

hình thành mới những hiệp hội chuyên doanh quốc gia gồm các hội viên

từ mọi thành phần kinh tế trong tất cả các khâu từ sản xuất đến xuất

khẩu. Trước mắt cần xây dựng cơ chế quản lý điều hành của Hiệp hội,

nhằm phối hợp hoạt động xúc tiến thương mại và can thiệp có hiệu quả

vào thị trường của từng mặt hàng cụ thể trong từng Hiệp hội. Đặc biệt,

phải tiến hành ngay đối với những nhóm hàng có dung lượng trao đổi

lớn trên thị trường và có kim ngạch xuất khẩu tương đối cao (gạo, cà

phê, cao su, chè, điều, hạt tiêu...).

3.3.2.4 Phát triển cơ sở hạ tầng dịch vụ phục vụ xuất khẩu nông sản

Yếu tố rất quan trọng trong cạnh tranh xuất khẩu là phải giảm chi

phí trong các khâu dịch vụ xuất khẩu như chi phí bốc xếp, vận chuyển,

thời gian lưu kho bãi, thời gian thông quan...Hiện nay, chi phí cho hầu

hết dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam đều ở mức cao hơn so với các nước

trong khu vực, làm tăng chi phí, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của hoạt

động xuất khẩu và làm giảm năng lực cạnh tranh của nông sản xuất

khẩu. Để khắc phục tình trạng này, cần khuyến khích sự tham gia của

các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và dịch vụ xuất

khẩu, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực này nhằm

giảm giá và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ xuất khẩu.

3.3.2.5 Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực

Bên cạnh những tiềm năng to lớn như nguồn lao động dồi dào,

thông minh khéo tay, chịu khó, ham học hỏi và nhanh chóng tiếp thu tri

thức và công nghệ..., nguồn nhân lực Việt nam còn bộc lộ những hạn chế

ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội như: tác phong và tư duy của

130

người sản xuất nhỏ chưa phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và

công nghiệp hoá, chưa coi trọng chữ tín trong kinh doanh, thói quen

mạnh ai nấy làm, thiếu sự hợp tác, chia sẻ và thiếu ý thức làm việc theo

nhóm, thiếu kinh nghiệm trong công tác xuất khẩu, thiếu kỹ năng trong

đàm phán thương mại và tranh chấp các vụ kiện tụng thương mại. Vì

vậy, nhà nước nên có chính sách ưu tiên đầu tư hơn nữa cho công tác đào

tạo đội ngũ cán bộ, doanh nhân, thương nhân có năng lực và đội ngũ

công nhân lành nghề tham gia công tác xuất, nhập khẩu.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy công tác đào tạo là một trong những

nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển đất nước. Ngày nay

nhân tố này càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế tri

thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy quản lý, tư duy

kinh tế và phương thức sản xuất - kinh doanh.

Do đó, tuỳ điều kiện và tình hình cụ thể, Nhà nước có thể hỗ trợ

một phần cho hoạt động đào tạo cán bộ quản lý và kinh doanh của các tổ

chức, doanh nghiệp xuất khẩu nông sản hoặc hướng dẫn, giúp đỡ để các

doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn tài trợ khác cho hoạt động đào tạo

cán bộ. Tổ chức những lớp đào tạo bồi dưỡng giám đốc, để hình thành

dần đội ngũ doanh nhân có năng lực có khả năng xử lý linh hoạt, đồng

thời cần có chính sách khuyến khích doanh nhân giỏi, đặc biệt trong khu

vực DNNN.

Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham quan khảo sát

thị trường, học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các nước xuất

khẩu nông sản thành công như Thái Lan, Mỹ, Australia.

Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ và

đào tạo cán bộ quản lý cho doanh nghiệp Việt Nam.

131

Khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo thông qua các chính

sách hỗ trợ tài chính xây dựng quĩ đào tạo ở doanh nghiệp.

3.3.2.6 Quản lý rủi ro

Do đặc thù của sản xuât nông sản phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự

nhiên, thời hạn bảo quản hàng nông sản thường ngắn so với các hàng

hoá khác, giá cả nông sản xuất khẩu chịu sự chi phối rất lớn của giá cả

thị trường thế giới. Hơn nữa, do tiềm lực kinh tế và qui mô sản xuất và

xuất khẩu của người sản xuất và xuất khẩu nông sản Việt Nam còn quá

nhỏ nên dễ bị tổn thương khi có biến động về thiên tai, dịch bệnh và giá

cả. Vì vây, việc nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây

trồng, hình thành quĩ bảo hiểm từng ngành sản phẩm là việc làm có ý

nghĩa vô cùng quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Trước mắt cần thành lập các quĩ bảo hiểm các nông sản sau: lúa gạo, cà

phê, cao su, thịt lợn, chè. Quĩ này dùng để can thiệp thị trường khi giá

nông sản đột biến giảm dưới giá sàn định hướng và giúp đỡ sản xuất

trong những trường hợp đặc biệt khó khăn do thiên tai. Quĩ được trích từ

phần thuế xuất khẩu và các khoản thu và đóng góp khác đối với từng loại

nông sản.

Ngoài ra, khuyến khích áp dụng hệ thống hợp đồng kết nối giữa sản

xuất- chế biến - xuất khẩu, hình thành cơ chế chia sẻ lợi nhuận, chia sẻ

rủi ro giữa "bốn nhà": Nhà nước, nhà sản xuất, nhà chế biến và kinh

doanh xuất khẩu.

Kết luận chƣơng 3

Trên đây là một số quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm

nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu việt Nam

trong thời gian tới. Để nông sản Việt Nam ngày càng có ưu thế trên thị

trường thế giới đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ của các cấp, các

132

ngành từ trung ương đến người sản xuất. Nhà nước có trách nhiệm tạo

môi trưòng kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, thông thoáng để khuyến

khích được các chủ thể sản xuất kinh doanh phát huy được tiềm năng,

thế mạnh của mình trong việc nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản xuất

khẩu. Nhà nước xây dựng các chính sách khuyến khích người sản xuất

kinh doanh đầu tư đổi mới công nghệ sinh học, công nghệ sản xuất và

chế biến nông sản để nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá mặt

hàng xuất khẩu. Nhà nước có chính sách hỗ trợ đầu tư vào những lĩnh

vực mà một mình tư nhân chưa thể làm được như đào tạo nâng cao

nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ xuất khẩu, xây dựng

thương thương hiệu và xúc tiến thương mại, nghiên cứu và dự báo thị

trường thế giới,...

Bên cạnh sự hỗ trợ từ phía nhà nước, bản thân ngưòi sản xuất,

doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cần xây dựng cho mình chiến lược

nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu như chủ động áp

dụng những loại giống tốt, kỹ thuật chăm sóc và thu hoạch tiên tiến, tuân

thủ chặt chẽ những qui định về vệ sinh và an toàn thực phẩm trong sản

xuất và chế biến nhằm không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá. Các

doanh nghiệp kinh doanh cũng phải tự nâng cao trình độ quản lý sản

xuất kinh doanh, kỹ năng đàm phán thương mại, tăng cường công tác

xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường để điều chỉnh sản xuất, kinh

doanh và mở rộng thị trường xuất khẩu.

133

KẾT LUẬN

Việt nam có nhiều lợi thế và tiềm năng về sản xuất nông sản xuất

khẩu có giá trị trên qui mô lớn và có sức cạnh tranh cao trên thị trường

thế giới do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào. Trong

những năm đổi mới cơ chế kinh tế, sản xuất và xuất khẩu nông sản của

Việt nam đã đạt được một số thành tựu to lớn. Song nhìn chung, xuất

khẩu nông sản của Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của đất

nước. Vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu đang là một chủ trương kinh tế lớn

của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

của Đảng đã chỉ rõ: "Nhà nước cần có chính sách khuyến khích mạnh mẽ

mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất khẩu hàng

hoá và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh mẽ những

sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường

quốc tế".{11,tr.199]. Để thực hiện chủ trương đúng đắn đó, chúng ta phải

không ngừng mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.

Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản trong bối cảnh cạnh tranh xuất khẩu

ngày càng trở nên gay gắt đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải có năng lực

thực sự mới có thể chiến thắng trong cạnh tranh. Thế nhưng, xuất khẩu

nông sản của Việt Nam trong những năm qua đang bộc lộ những hạn chế

làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới như: chủ yếu vẫn xuất

khẩu nông sản dưới dạng nguyên liệu thô, hàm lượng "chất xám" trong

sản phẩm thấp; đơn điệu về mặt hàng xuất khẩu, chất lượng hàng xuất

khẩu chưa cao và không ổn định; chưa có số lượng đủ lớn để xuất khẩu

do sản xuất manh mún; hàng xuất khẩu không có thương hiệu; chi phí

trong các khâu xuất khẩu cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh, chủ yếu

xuất khẩu ở dạng FOB; các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu kém nhanh

134

nhạy và thiếu kinh nghiệm trong đàm phán và nắm bắt thông tin thị

trường.

Vì vậy, để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và không ngừng mở

rộng thị phần phần xuất khẩu buộc chúng ta không có con đường nào

khác là phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông

sản xuất khẩu. Để đạt được mục đích đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực của cả

Nhà nước, các doanh nghiệp và ngưòi sản xuất trong việc hoạch định

chiến lược sản xuất, kinh doanh xuất phát từ nhu cầu của thị trường;

không ngừng nâng cao chất lượng và đang dạng hoá sản phẩm nhờ áp

dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như công nghệ sinh học,

công nghệ chế biến, bảo quản, công nghệ thông tin; tăng cường đầu tư cơ

sở vật chất và năng lực cho cán bộ làm công tác nghiên cứu và dự báo thị

trường; đổi mới công tác xúc tiến thương mại. Ngoài ra, Nhà nước cũng

cần cải thiện môi trưòng kinh doanh, chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ

tầng nhằm giảm chi phí kinh doanh tạo cơ hội thuận lợi cho các doanh

nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Làm được những điều này chắc chắn nông

sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ ngày càng có vị thế và có sức cạnh tranh

cao trên thị trường thế giới.

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã hết sức cố

gắng tổng hợp một cách có hệ thống và cập nhật được các thông tin,

phân tích trên cơ sở lượng hoá một số chỉ tiêu chủ yếu về năng lực cạnh

tranh của sản phẩm. Song do còn hạn chế về năng lực chắc chắn luận

văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả luận văn xin chân thành cảm

ơn và trân trọng sự chỉ dẫn của các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế

để tiếp tục hoàn thiện hơn nũa đề tài này./.

135

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngọc Anh (2002), "Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu- vấn đề đáng

quan tâm", Tạp chí Thông tin Tài chính (số 27), tr10.

2. Đinh Văn Ân (2003), " Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia", NXB

Giao thông vận tải, Hà Nội.

3. Ban Vật giá Chính Phủ (1998), "Nông nghiệp Việt Nam trên đường

hiện Đại hóa", Hà Nội.

4. Báo Sài Gòn giải phóng (17/9/2004), "Nghịch lý hạt tiêu", Tr.2.

5. D. Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch , Kinh tế học, NXB

Giáo dục, 2004.

6. Bộ NN&PTNT (10/2000), "Phân tích sơ bộ Khả năng cạnh tranh của

ngành nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh ASEAN và AFTA.

7. Bộ NN&PTNT (3/2001), Tài liệu hội thảo quốc tế về Hội nhập kinh tế

toàn cầu và tác động của nó tới ngành nông nghiệp Việt nam.

8. Nguyễn Sinh Cúc, (1/2005), "Tổng quan nông nghiệp năm 2004 và dự

báo 2005", Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, Tr.8.

9. Lê Anh Cường, (2003), "Tạo dựng và quản trị thương hiệu", NXB Lao

động xã hội.

10. Mai Ngọc Cường, (1996), lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Thống

kê, Hà Nội. tr.358

11. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), "Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Vũ Xuân Đào (9/1996), Đề án Việt Nam Hà Lan "Các giải pháp

kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh trong quá

trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam".

136

13. F. Ellis (1995) "Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát

triển", Đại học tổng hợp East Anhlia, NXB Nông nghiệp.

14. IFPRI (1996), “Giám sát thị trường gạo và nghiên cứu các lựa chọn

chính sách”.

15. T.S Bạch Quốc Khang (2003), "Đẩy mạnh công nghệ bảo quản góp

phần nâng cao giá trị giảm hư hao hàng nông sản", Tạp chí Thị

trường giá cả, số 9, tr. 3

16. Trần Văn Lệnh (2003) "Xây dựng thương hiệu với hàng nông sản

tươi sống", Tạp chí Thương mại số 47, tr.8-12.

17. T.S Nguyễn Đình Long (8/1999) "Nâng cao sức cạnh tranh và hiệu

quả hàng nông sản xuất khẩu nước ta", Tạp chí Kinh tế và Phát triển,

số 31, tr.46- 47.

18. N. Minot (4/1998), “Khả năng cạnh tranh của ngành chế biến lương

thực của Việt nam", IFPRI.

19. Nghị quyết 10/ NQTW ngày 5 tháng 4 năm 1988 của Bộ Chính trị về

đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.

20. Nghị quyết 06/ NQTW ngày 10 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị

về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn.

21. Nông nghiệp Việt Nam (20/9/2004), "Xôn xao chuyện nông dân tỉnh

lúa chán ruộng", Tr. 1.

22. Nguyễn Ngọc Quế (2000), “Khả năng cạnh tranh của gạo Việt nam”,

Bộ NN và PT NN.

23. A. Smith (1994), Của cải của các dân tộc, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.

652-653

137

24. Lê Viết Thái (2000), " Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây

dựng chính sách cạnh tranh ở Việt Nam", NXB Lao động, Hà Nội.

25. Nguyễn Tiến Thỏa (1996), "Lúa gạo Việt Nam, nguyên nhân của Kỳ

tích". NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

26. Tổng cục thống kê (2001), Niên giám thống kê 2000, NXB Thống

kê, Hà Nội.

27. Tổng cục thống kê (2003), Niên giám thống kê 2002, NXB Thống

kê, Hà Nội.

28. Tổng cục thống kê (2004), Niên giám thống kê 2003, NXB Thống

kê, Hà Nội.

29. Tổng cục thống kê (2005), Niên giám thống kê 2004, NXB Thống

kê, Hà Nội.

30. Nguyễn Xuân Trình (2002), "Cảnh báo về sức cạnh tranh của chè

Việt Nam", Tạp chí Thương mại số 32, tr.18-19.

31. Nguyễn Xuân Trình (2003), "Cao su tiếp tục tăng giá", Tạp chí

Thương mại số 8, tr.23

32. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, WB. (2003), "Việt

Nam sẵn sàng gia nhập WTO", Hội thảo khoa học quốc tế tại Hà

Nội.

33. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội, Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, "Đánh giá môi trường kinh doanh ở Việt Nam", số 36

(29/9/2005).

34. Phạm Hồng Tú- Phan Ngọc bảo (1999), "Triển vọng hàng nông sản

thế giới và khả năng xuất khẩu của Việt Nam đến 2010", Viện

Nghiên cứu Thương Mại Hà Nội.

138

35. UNDP(12/1999), "Hướng tới tương lai" - Báo cáo đánh giá chung về

tình hình Việt Nam.

36. Uỷ ban hợp tác kinh tế quốc tế, Đề án quốc gia về "Nâng cao năng

lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam".

37. Nguyễn Trung Vân (1999), "Giá thành bình quân sản xuất gạo xuất

khẩu của một số nước", Tạp chí Kinh tế nông nghiệp số1,tr 34.

38. Viện kinh tế học (4/2001), "Tổng quan về chính sách tự do hoá

thương mại của Việt Nam trong những năm 90: Những thay đổi và

tác động".

39. Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển - Trường đại học KTQD

(1999), "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với

khu vực và thế giới", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Viện nghiên cứu khoa học thị trường giá cả (11/2001), "Giá cả với

vấn đề hội nhập của Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế", Đề

tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.

41. Viện nghiên cứu khoa học thị trường giá cả, Bộ Tài chính, Các báo

cáo giá cả hàng hoá và dịch vụ hàng năm từ 1997-2004.

42. Viện nghiên cứu khoa học thị trường giá cả (11/2000) “Phương pháp

đánh giá khả năng cạnh tranh về giá cả của một số ngành hàng chủ

yếu của Việt Nam và kiến nghị các giải pháp điều hành thị trường -

giá cả để nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong xu thế

hội nhập”, Đề tài NCKH cấp Bộ.

43. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2002) "Kinh tế Việt

Nam 2001", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2003) "Kinh tế Việt

Nam 2002", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

139

45. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, (9/2003), "Hội nhập kinh tế

ASEAN- áp lực cạnh tranh trên thị trường và đối sách của Việt

Nam".

46. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2004) "Kinh tế Việt

Nam 2003", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Vụ Nông nghiệp Thuỷ sản, Tổng cục Thông kê (2000), Số liệu thống

kê nông- lâm nghiệp- thuỷ sản Việt Nam 1975-2000, NXB thống kê,

Hà Nội.

48. Phạm Thế Vỹ (2002), "Nâng cao hàm lượng "chất xám" trong nông

sản xuất khẩu", Tạp chí Thương mại số 19, tr.10-11.

49. Website http://www.agoviet.gov.vn/

50. Website http://www.vneconomy.com.vn/

51. World Bank (10/2004), "Đa dạng hoá nông nghiệp ở Việt Nam: cơ

hội và thách thức", Hà Nội.

140

PHẦN PHỤ LỤC

141

Phụ lục 1

Đơn vị tính: 1.000 tấn

Sản lƣợng lúa thế giới và 1 số nƣớc sản xuất chính

95/96 96/97 97/98 98/99 99/00 00/01

Nƣớc Australia Bangladesh Brazil Burma China Egypt India Indonesia Japan Korea, South Pakistan Philippines Taiwan Thailand VietNam EU United States Other World 1.145 26.517 9.779 17.241 185.214 3.387 121.452 51.077 13.435 6.386 5.701 11.174 2.069 21.818 26.364 1.994 7.886 38.406 551.045 1.387 28.326 9.504 15.517 195.100 4900 121.980 49.360 12.930 7.123 6.461 11.177 1.931 20.700 27.277 2.598 7.773 39.657 563.701 1.331 28.296 8.551 15.345 200.700 5.400 123.852 49.237 12.532 7.365 6.500 9.982 2.042 23.500 28.930 2.701 8.297 39.704 574.235 1390 29.784 11.582 16.034 198.714 4.198 129.013 50.400 11.201 6.800 7.012 10.268 1.859 23.620 30.467 2.694 8.367 42.345 585.748 1084 32.298 11.534 17.000 198.480 5.826 134.233 52.919 11.470 7.017 7.735 11.957 1.986 25.000 31.439 2.653 9.345 42.016 603.992 1.359 31.953 10.882 16.897 190.900 6000 132.763 53.000 11.863 7.067 6.451 12.128 1.986 25.152 31.970 2.644 8.669 40.657 591.441

Nguồn: Grain: World Market and Trade

142

Đơn vị tính: tấn/ha

Phụ lục 2 Năng suất lúa của một số nƣớc trên thế giới

Năm Trung Quốc Việt Nam

Các nƣớc đang phát triển ở châu Á

1965 2,98 1,90 1,99

1970 3,29 2,06 2,27

1975 3,51 2,17 2,41

1980 4,24 2,12 2,74

1985 5,31 2,78 3,27

1990 5,61 3,17 3,56

1995 6,02 3,67 3,74

1996 6,33 3,98 3,87

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

143

Phụ lục 3

Tỷ trọng (%) phẩm cấp gạo trong tổng số lƣợng gạo

xuất khẩu của Việt Nam

Năm Gạo phẩm cấp cao Gạo phẩm cấp trung Gạo phẩm cấp thấp

(5-10% tấm) bình (từ 25% tấm trở lên)

(15-20% tấm)

2,26 97,42 1989 0,32

9,09 76,70 1990 14,21

9,00 56,50 1991 34,50

15,25 65,31 1992 37,78

21,44 27,41 1993 51,15

8,53 17,00 1994 74,47

22,41 23,39 1995 54,20

11,00 43,50 1996 45,50

8,40 48,10 1997 43,50

14,40 32,60 1998 53,00

14,40 30,60 1999 55,00

12,0 38,00 2000 50,00

Nguồn: Hiệp hội xuất nhập khẩu lúa gạo Việt Nam

144

Phụ lục 4

Tình hình sản xuất lúa của một số nƣớc cạnh tranh với Việt Nam

Chỉ tiêu 1986 1993 1994 1995 1996

Toàn cầu - Sản lượng - Diện tích - Năng suất Châu Á - Sản lượng - Diện tích - Năng suất 1. Thái lan - Sản lượng - Diện tích - Năng suất - Xuất khẩu gạo 2. Pakistan - Sản lượng - Diện tích - Năng suất - Xuất khẩu gạo 3.Trung Quốc - Sản lượng - Diện tích - Năng suất - Xuất khẩu gạo 4. Ấn Độ -Sản lượng - Diện tích - Năng suất - Xuất khẩu gạo 5. Việt Nam -Sản lượng - Diện tích - Năng suất - Xuất khẩu gạo

Triệu tấn 1000 ha Tấn/ha Triệu tấn 1000 ha Tấn/ha Triệu tấn 1000 ha Tấn/ha Triệu tấn Triệu tấn 1000 ha Tấn/ha Triệu tấn Triệu tấn 1000 ha Tấn/ha Triệu tấn Triệu tấn 1000 ha Tấn/ha Triệu tấn Triệu tấn 1000 ha Tấn/ha Triệu tấn

469,9 144.527 3,25 431,0 129.371 3,33 18,9 9.194 2,05 - 5,23 2.066 2,53 - 174,7 32.798 5,33 - 90,8 41.167 2,20 - 16,0 5.689 2,81 0,12

527,5 145.317 3,63 482,8 129.732 3,72 18,5 8.482 2,17 - 5,99 2.187 2,74 - 179,8 30.746 5,85 - 120,6 42.013 2,87 - 22,8 6.559 3,48 1,91

537,1 146.472 3,67 489,4 130.314 3,76 21,1 8.975 2,35 4,74 5,14 2.125 2,42 1,40 178,0 30.538 5,83 1,52 121,6 42.205 2,88 0,60 23,5 6.559 3,56 2,36

550,9 149.565 3,68 502,4 133.190 3,77 21,1 9.020 2,34 5,93 5,92 2.162 2,74 1,59 187,3 31.107 6,02 0,03 119,4 42.910 2,78 4,20 25,0 6.766 3,69 2,66

562,3 150.758 3,81 513,1 134.616 3,81 21,8 9.220 2,36 5,28 5,55 2.264 2,45 1,66 190,1 31.360 6,06 0,3 120,0 42.700 2,81 3,56 26,3 7.300 3,60 3,10

Đơn vị tính

Tốc độ tăng bq năm (86-96) (%/năm) 1,8 0,4 1,4 1,7 0,4 1,4 1,1 -0,5 1,6 - 1,5 0,9 0,6 - 0,7 -0,7 1,4 - 3,0 0,5 2,5 - 5,6 2,5 3,1 -

145

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

146

Phụ lục 5

Chi phí sản xuất lúa Vụ đông xuân 2000 tính trên 1 ha, 1 vụ STT Khoản mục tính

Chi phí vật chất Giống Phân bón: Trong đó: -URÊ -DAP -NPK -Lân -KALI -Phân chuồng + Vôi Thuốc trừ cỏ, sâu Chi phí nội đồng Thuỷ lợi phí Dụng cụ nhỏ Chi phí khác (lãi vay, vận chuyển..) Chi phí lao động Công làm đất Công gieo sạ, gieo mạ + cấy Bón phân Làm cỏ Tát nước Phun thuốc sâu, cỏ Công thu hoạch, vận chuyển Thuê tuốt lúa Phơi lúa Thăm đồng, công khác Tổng chi phí Năng suất 1 vụ Giá thành lúa Giá bán bq lúa của nông dân

I 1 2 3 4 5 6 7 II 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 III IV V VI VII Lãi VIII Tỷ lệ lãi trên giá thành

Đơn vị Địa phƣơng điều tra An Giang 3.295,4 499,6 1.292,2 338,0 287,0 433,6 96,4 137,2 662,8 407,4 178,7 254,6 2.159,6 316,4 37,4 51,9 171,4 90,4 133,0 700,5 240,2 210,4 208,0 5.455,0 6.430,0 848,4 1.200,0 351,6 41,4 Thái Bình 3.644,1 364,0 2.06,1 506,9 92,2 374,7 292,7 939,6 531,8 205,8 215,4 115,1 5,9 3.175,9 748,9 545,2 388,0 157,5 215,0 623,6 129,8 367,9 6.820,0 5.722,0 1.191,9 1.550,0 358,1 30,0 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ 1000 đ Kg/ha đ/kg đ/kg đ/kg %

Nguồn: Ban Vật giá Chính phủ

147

Phụ lục 6

Sản lƣợng sản xuất cà phê của một số nƣớc trên thế giới

1998/1999 Đơn vị : nghìn bao (1 bao=60kg) 2000/2001 1999/2000

108.089 18.855 5.010 4.300 2.494 2.459 1.860 1.131 452 442 280 221 160 29 17 51.203 35.600 10.868 1.980 1.322 1.250 150 34 16.531 2.217 3.640 3.867 1.334 1.097 1.000 739 992 282 321 Tổng cộng Bắc và Trung Mỹ Mêhicô Goatêmala Onđurát Côtxtarica Xanvađo Nicaragoa CH Đôminic Haiti Cuba Mỹ Panama Giamaica Trinidad và Tobago Nam Mỹ Braxin Côlômbia Pêru Êcuađo Vênêxuêla Bôlivia Paragoay Châu Phi Cốtđivoa Uganđa Etiopia Camerun Kênia Daia Tandania Mađagaxca Burunđi Tôgô 106.816 20.874 5.200 4.364 3.067 2.650 2.304 1.304 811 385 350 218 151 40 20 41.912 27.000 10.000 2.416 1.301 970 170 50 20.145 5.300 4.000 3.833 1.300 1.202 900 773 752 505 334 108.659 20.149 5.300 4.494 2.900 2.400 2.112 1.100 600 420 350 238 170 45 20 45.270 28.100 12.000 2.495 1.400 1.050 170 50 19.425 4.333 4.300 3.767 1.225 1.200 1.000 800 800 520 330

148

Ruanda CH Trung Phi Dimbabuê Ăngôla Ghinê Malauy Gana Dămbia Nigêria Xiera Leon Côngô Libêria Gabông Ghinê Xích đạo Bênanh Châu Á và Đại Dương Việt Nam Inđônêxia Ân Độ Papua Niu Ghinê Thái Lan Philippin Lào Malaixia Iêmen Xrilanca Caleđônia 222 214 147 85 135 64 37 56 46 24 3 5 4 0 0 21.494 6.667 6.950 4.415 1.340 998 684 150 160 90 35 5 300 200 189 150 120 61 56 45 50 50 10 5 4 5 1 23.885 8.000 7.200 4.870 1.250 1.370 740 150 160 100 40 5 250 200 180 150 120 60 60 50 45 15 10 5 4 1 0 23.815 8.000 7.300 4.945 1.350 1.010 745 160 160 100 40 5

Nguồn: Cafe- World Market and Trade

149

Phụ lục 7

Từ năm thứ hai trở đi

Chi phí sản xuất 1 ha càphê trong thời điểm trồng mới ở khu vực Đông Nam Bộ( tỉnh Đồng Nai) năm 2000 với mức đầu tƣ trung bình: Năm đầu tiên sau khi trồng

Lƣợng Giá Lƣợng Giá

(nghìn đồng) Chi phí (nghìn đồng)

(nghìn đồng) 3.000 1500 1.2 500 2.8 2,2 0.5 30 4,2 20 1 1 1300 3 400 100 150 5 50 110 60 Chi phí (nghìn (đồng) 3.000 1500 5.030 1.560 1.500 1.120 220 75 150 210 200 1.800 1.200 1000 1.2 500 2.8 2,2 1,7 0.5 30 4,2 1.000 3.951 156 1.000 280 220 170 65 180 1680 200 10.000 1 130 2 100 100 100 130 6 400

30 20 600 500 20 10.000

300 11.635 11.635 500 15.451 200 3.000 12.451 Cải tạo đất(ha) Xây dựng Chi phí vật chất: Trồng cây Trồng bổ sung Phân chuồng(tấn) NPK(kg) urê(kg) Kali(kg) Lân(kg) Thuốc trừ sâu(chai) Xăng dầu(lít) Chi phí công cụ Chi phí lao động Chi phí trông cây(người/ngày) Chi phí chăm sóc(người/ngày) Chi phí khác Tổng chi phí Sản lượng Giá trị Chi phí thực tế

Nguồn:Ban vật giá Chính phủ năm 2000

150

Phụ lục 8

Giá thành sản xuất và chế biến cao su năm 2000

Khoản mục

ĐVT

Lượng

Đơn giá

Thành tiền (đg)

(đg)

1.Phân bón

I. Chi phí vật chất 1 ha 3.344.682

- Phân Urê

Kg

746.861

- Phân ka li

"

2.583 120 309.984

- Phân lân

"

1.779 84 149.444

- Vi sinh (NPK)

"

796 137,7 109.677

- Phân DAP

"

2.420 24,5 59.290

2.Vật liệu phụ

Đồng

1.209 98 118.466

"

3. Khấu hao (kể cả vườn cây)

223.455

4. Chi phí khác

919.437

1.454.929

3.647.322 II. Tiền công & BHXH, BHYT

6.992.004 Tổng chi phí sản xuất

đg/tấn

802.265 III. Thuế sử dụng đất

Đồng

* Giá thành mủ sống (chưa C.B) 7.353.084

đg/tấn

847.313 IV. Chi phí chế biến

"

* Giá thành mủ khô 8.200.396

"

+. Không có thuế SDĐNN

* Giá cả có (lãi 50 và 4% thuế DT)

"

+. Có thuế SDĐNN

12.300.594

12.813.118

"

đg/tấn

10.000.000 * Giá dự kiến điều hành

USD/tấn

* Giá vốn FOB 10.950.000

đg/USD

* Giá xuất khẩu FOB 770

Tỷ giá (x. k)

14.220

Nguồn: Ban vật giá Chính phủ năm2000

151

Phụ lục 9

Năng suất cao su thiên nhiên của một số nƣớc 1990-2000

Tên nƣớc Năm

Đ/vị năng suất: kg/ha Tốc độ tăng trƣởng bình quân (1990-2000)

Indonesia Malaysia Philippines Thái Lan Việt Nam Thế giới 1990 683,6 800,2 708,9 1012,9 261,3 784,3 2000 743,5 569,6 686,7 1470,8 544,8 910,3 0,9 -3,2 -0,3 3,9 8,4 1,5

Nguồn FAO