intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Phong cách văn xuôi nghệ thuật Kim Lân

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:137

193
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn tham khảo luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Phong cách văn xuôi nghệ thuật Kim Lân sau đây để nắm bắt được những nội dung về quan niệm nghệ thuật của Kim Lân, những nội dung tự sự chủ yếu trong VXNT Kim Lân, phương thức tự sự trong VXNT của Kim Lân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Phong cách văn xuôi nghệ thuật Kim Lân

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ NHA TRANG PHONG CÁCH VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT KIM LÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THÀNH THI
  2. 2 MỞ ĐẦU 1. Mục đích và ý nghĩa của luận văn 1.1 Mục đích của luận văn Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân thuộc số những nhà văn viết không nhiều. Hơn năm mươi năm cầm bút, ông chỉ viết vẻn vẹn có trên ba mươi tác phẩm. Thế nhưng, ông vẫn được xem là một tác giả văn xuôi có tầm vóc. Tác phẩm của ông đã gây ấn tượng với người đọc bởi cách viết độc đáo. Khi viết ông thường suy nghĩ thật sâu sắc, thận trọng chứ không ngẫu hứng cao giọng, ông luôn có cái nhìn nhân hậu với đời với người cũng như trong sáng tạo văn chương, đặc biệt là trong thể tài truyện - truyện ngắn. Nhiều tác phẩm của ông đã vượt qua được thử thách thời gian, sự sàng lọc của công chúng, góp phần làm nên thành tựu rực rỡ cho nền văn học Việt nam hiện đại ở cả hai thời kỳ trước và sau Cách mạng tháng Tám. Có được như thế, chính vì Kim Lân bằng thực tiễn sáng tác đã đóng góp một tiếng nói riêng, một phong cách riêng. Cho nên để hiểu sâu sắc hơn, toàn diện hơn về Kim Lân và văn xuôi nghệ thuật (VXNT) Việt Nam hiện đại, chúng ta không thể không nghiên cứu những đóng góp đặc sắc của VXNT Kim Lân từ góc độ phong cách. Mục đích của luận văn là nghiên cứu khảo sát toàn bộ sáng tác của Kim Lân dưới góc độ phong cách nghệ thuật. Có thể nói đây là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa vì nó đề cập đến một trong những phương diện cơ bản nhất nhằm đánh giá những thành tựu đầy sáng tạo của nhà văn để qua đó có thể nhìn thấy nhiều vấn đề đặt ra trong sự phát triển văn học của cả một giai đoạn. Mặt khác, trên cơ sở đó mà chỉ ra những đóng góp về phong cách VXNT của Kim Lân trong tiến trình hiện đại hóa VXNT tiếng Việt. 1.2. Ý nghĩa của luận văn Tìm hiểu phong cách văn chương của Kim Lân, trong quan niệm của chúng tôi, là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật và cách triển khai quan niệm ấy của ông
  3. 3 vào văn bản tác phẩm. Nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là cung cấp cái nhìn tổng quát về đặc trưng VXNT Kim Lân. Nghĩa là luận văn chủ yếu trình bày hệ thống những nét độc đáo tiêu biểu, có ý nghĩa thẩm mỹ cao trong phong cách VXNT Kim Lân, từ đó góp phần khẳng định những cống hiến và vị trí của nhà văn trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam hiện đại. Bên cạnh đó luận văn còn cung cấp những dữ liệu, tư liệu để nghiên cứu thi pháp VXNT, đặc biệt là truyện - truyện ngắn văn học Việt Nam trong một giai đoạn có nhiều thành tựu và nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo. Đồng thời, luận văn có thể sử dụng bổ sung kiến thức cho việc giảng dạy ở các trường trung học phổ thông. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Kim Lân là nhà văn gần gũi, quen thuộc với công chúng trong mấy chục năm qua. Ngay từ những tác phẩm đầu tay của mình, ông đã được nhiều người giới thiệu, phê bình. Nhìn chung, ông được xem xét khá kỹ lưỡng ở từng giai đoạn sáng tác, ở chân dung con người và cả khu vực phê bình, tiểu luận. Nhưng việc nghiên cứu phong cách nghệ thuật của tác giả như một đối tượng chuyên biệt thì chưa có một bài viết công phu hoặc một công trình khoa học nào và tính đến nay đã hơn nửa thế kỷ, việc nghiên cứu về ông không phải là không có ý kiến khác nhau, nhưng cơ bản là thống nhất. Có thể chia quá trình nghiên cứu về Kim Lân thành hai giai đoạn chính như sau: 2.1 Trước năm 1975 Nhà văn Nguyên Hồng, trong “Những nhân vật ấy đã sống với tôi” đã kể lại rằng: “Từ giữa những năm 1943 - 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim Lân… Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy, hình như định chọi, định đả chữ nhau với một số tên như Mộng Ngọc, Mộng Dương, hay Hoài Trạch, Hoài Tâm… lúc bấy giờ vậy. Nhưng rồi chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại có một cái gì đó chân chất của đời sống con người
  4. 4 nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung cảm thắm thiết, đặc biệt là lại gần gũi với mình…” [38] Đây có thể xem là một ý kiến rất đáng chú ý khi tìm hiểu phong cách nghệ thuật của Kim Lân về nội dung tư tưởng và giọng điệu tác phẩm. Ở những tác phẩm đầu tay, Kim Lân dường như chưa ý thức phản ánh một vấn đề gì có ý nghĩa hiện thực sâu sắc cả nhưng chất hiện thực cứ toát ra một cách tự nhiên từ những hình tượng nhân vật của ông, vì đó thường là những con người của quê hương ông, ruột thịt với ông, từ cuộc sống lam lũ bần cùng, họ đã trực tiếp bước vào văn học. Và cũng gần với quan điểm của Nguyên Hồng, Lại Nguyên Ân cũng đưa ra nhận xét “Đọc văn xuôi Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới của những người dân nghèo vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ: Những người dân miền xuôi mất nhà, mất đất, xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một xóm chợ, bến sông, một góc phố hay ven một đồn điền, một xóm trại, tiếp tục vật lộn với miếng sống sơ đẳng hàng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi những nhân vật thân vật thân thuộc ấy của ngòi bút mình là “những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp xó xỉnh cuộc sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh đầy đau xót của chính các nhân vật ấy (…) mạch kể chuyện của Kim Lân dường như bắt rất nhạy vào những cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt vì công nợ, thuế khoá, cảnh ăn xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp bức đọa đày ”[4] Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá đã đưa ra một nhận định thật khái quát, xác đáng về quan niệm viết văn của Kim Lân “Kim Lân quan niệm viết văn như cách đòi cho mình một thân phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé quẩn quanh của quê hương” [95]. Tuy nhiên do khuôn khổ hạn chế của những mục từ trong “Từ điển văn học” nên tác giả đã không có điều kiện trình bày lí giải nhận định của mình một cách cặn kẽ. Đáng lưu ý nhất là nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh trong “Tổng tập văn học Việt Nam” đã tỏ ra khá tinh tế vá sắc sảo khi nhận xét về đề tài phong tục và thú chơi đồng quê của Kim Lân, ông cho rằng “Văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn khi ông viết về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng
  5. 5 ruộng”. Rồi ông lại tiếp tục lí giải “Sở dĩ có sự hấp dẫn, không phải vì ở đấy những tập quán ngộ nghĩnh, kỳ lạ, những thú chơi phiền phức, cầu kỳ được trình bày cặn kẽ, mà chính là nhờ nhà văn đã thể hiện lên được những con người ở làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy nghèo khổ thiếu thốn mà vẫn yêu đời” [72]. Tiếp sau đó tác giả lại nhận xét một cách tổng quát hơn về toàn bộ nội dung truyện ngắn Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám 1945: “Đó là những trang số phận của các đầu thừa, đuôi thẹo, được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt trang giấy trắng chứa nhân thế, nhân tình hoặc những trang tuy nghiêng về phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh …, nhưng vẫn biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám những người sống vất vả, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, trong sáng thông minh, tài hoa” [72]. Sau đó trong “Tuyển tập Kim Lân” - 1996 nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên lại đưa ra nhận xét rất chính xác về toàn bộ truyện ngắn Kim Lân “Nếu có dịp đọc toàn bộ tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu là truyên ngắn ta sẽ thấy, ông không chỉ là đại diện văn học của loại nhân vật đầu thừa đuôi thẹo; ông còn là đại diện văn học sáng giá của những người tài hoa, bặt thiệp, phong lưu riêng thú … chọi gà, thả chim, đấu võ, đánh vật …” [4] . Tương tự, các nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá, Hoài Việt… vẫn viết về Kim Lân nhưng phần lớn các ý kiến chủ yếu chỉ dừng lại đánh giá quan điểm lập trường tư tưởng của nhà văn, nghiên cứu nhận xét về nội dung cảm hứng truyện ngắn của Kim Lân. Đọc truyện ngắn Kim Lân, người đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi những tố chất và vẻ đẹp dung dị, kín đáo của con người làng quê Bắc bộ - những con người lịch lãm, hào hoa và đầy tinh thần thượng võ. Đặc biệt là cái thú “phong lưu đồng ruộng” trong văn ông vừa có nét tinh tế, lại vừa thật thà, cởi mở qua đôi mắt nhìn rất kỹ, quan sát cuộc sống nông thôn một cách say sưa, tỉ mỉ, cụ thể rồi ghi lại với ý thức thể hiện những mảnh đời, những số phận bằng lối diễn đạt của chính mình - lối diễn đạt đậm “chất quê” của một con người “vốn là con đẻ của đồng
  6. 6 ruộng” (chữ của Nguyên Hồng ). Có lẽ vì thế mà nhà nghiên cứu Lữ Quốc Văn đã khẳng định thật xác đáng “Kim Lân là nhà tiểu thuyết phong tục hạng nhất của Việt Nam”. Và để bổ sung nhấn mạnh điều này nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên đã đưa ra nhận xét như sau: “Con người ấy có cái gì đặc biệt lắm từ ngoại hình, lề lối, ăn mặc, ứng xử… đến văn phong, nhân vật, cốt truyện, chữ nghĩa, vận nhịp… Con người ấy đáng kính, đáng trọng; chỉ có điều là hơi khác biệt, cái khác biệt của loại nghệ sĩ đã vượt qua được cái ngưỡng của thói thường đời sống” [85]. Và khi bàn về nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã chia truyện ngắn Kim Lân ra thành ba loại: truyện ngắn tính cách, truyện ngắn tình huống và truyện ngắn ngụ ý. Ông đã nói cụ thể như sau “Có lẽ do số lượng tác phẩm không nhiều nên truyện ngắn Kim Lân cũng không thật đa dạng về các kiểu cấu tứ. Bằng hai tập “Vợ nhặt” và “Nên vợ nên chồng”, có thể kể được khoảng ba kiểu truyện chính. Kiểu phổ biến hơn cả, có thể gọi là những truyện ngắn tính cách. Nhiệm vụ nghệ thuật mà nhà văn vẽ ra ở đó là vẽ ra một con người (…). Hơi khác chút ít với kiểu truyện tính cách này, “Vợ nhặt” là truyện ngắn không chú tâm hẳn vào nhân vật nào (…). Diễn biến của truyện không nhằm khám phá một nét tính cách nào của một trong số các nhân vật. Cái được chủ yếu ở đây là miêu tả tình huống. Đây có thể gọi là ước lệ, là truyện ngắn tình huống (…). Có một kiểu truyện nữa mà Kim Lân viết rất ít. Tôi muốn nói truyện ngắn “Con chó xấu xí” từng được đặt làm cái tên chung cho tập truyện “Vợ nhặt” hồi in lần đầu thành sách. Đây là truyện có hơi hướng ngụ ý”.[4]. Tác giả còn là người nhận ra ngôn ngữ và chất giọng trong văn xuôi Kim Lân “Chất giọng thường xuyên trong truyện ngắn cùa Kim Lân là chất giọng thật sự văn xuôi. Nó không thích hướng vào chất trữ tình, không thích rống lên thống thiết. Nó thích phô bày cái nôm na thật thà, đáng yêu nhưng cũng đáng tức cười của những sự thật xung quanh chứ không thích phủ lên các sự thật ấy một sự cảm động đến rưng rưng.
  7. 7 Chính là do thích phô bày nôm na thật thà của những con người và sự vật xung quanh nên văn xuôi này đã chú trọng khai thác các khả năng miêu tả của các ngôn ngữ (…). Nhà văn rất chú ý miêu tả lời ăn tiếng nói của họ và đã biến thứ ngôn ngữ sống của những cư dân sống thực đó thành một đối tượng nghệ thuật rất đáng lắng nghe, nếu ta biết nghiệm ra cái vẻ đẹp đích thực của lời ăn tiếng nói ấy” [2] Và càng sắc sảo khi Lại Nguyên Ân đã khẳng định nét đặc sắc trong văn xuôi Kim Lân chính là ngôn ngữ “Ngôn ngữ nhân vật có vai trò quyết định trong việc thể hiện những tâm lý cổ truyền của người nông dân” [4]. Có thể xem đây là những phát hiện có ý nghĩa mở đường cho những người đến sau như Nguyên An, Vũ Dương Quỹ chẳng hạn. Và nói như nhà văn Nguyên Hồng, bạn tri kỉ gần gũi với Kim Lân về nhiều mặt “Ông là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn …” [115]. Dường như Nguyên Hồng muốn coi cuộc sống nông thôn, làng quê như là một đặc điểm phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Đọc Kim Lân ta thấy rất rõ với bất kỳ một tác phẩm nào, người đọc cũng thấy mở ra trước mắt cảnh vật, con người và không khí của làng quê Bắc bộ. Cho nên có thể nói Kim Lân là nhà văn của nông thôn làng quê Việt Nam. Bước tiến đáng kể nhất của việc nghiên cứu nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân qua bài viết “Sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc của truyện Kim Lân” tác giả Bảo Nguyên đã cho rằng “Kim Lân lựa chọn những từ ngữ còn mang hơi thở của cuộc sống hằng ngày, để diễn đạt chúng với cuộc sống miền quê với những con người giản dị mà đáng yêu” [84]. Điều đó có lẽ đã làm cho tác phẩm của Kim Lân mang giá trị hiện thực và tạo cho ông một phong cách rất riêng về bố cục, kết cấu giọng điệu, ngôn ngữ, cách tả người tả việc … Tác giả Bảo Nguyên còn rất tinh tế khi bổ sung thêm:
  8. 8 “Giọng văn chủ đạo của ông thường trầm sáng như giọng ca dao cổ tích. Nhịp văn của ông chậm gọn… đó là một thứ giọng đệm phù hợp với quang cảnh nông thôn, với văn minh nông nghiệp (…) Yêu thương ca ngợi là nét giọng chủ đạo trong các truyện ngắn Kim Lân. Song ở mỗi truyện, ở mỗi hoàn cảnh, ở mỗi nhân vật trong từng điều kiện Kim Lân sử dụng các giọng khác nhau để miêu tả. Giọng phẫn uất lẫn mỉa mai trong “Con chó xấu xí”, giọng cảm thông lẫn kính phục trong “Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng Vật” [84] (…) Trong các truyện tâm lý xã hội của Kim Lân ta thường bắt gặp một giọng kể giản dị độc đáo, giọng tả tác giả Bảo Nguyên đã đưa ra kết luận khái quát: “Ngữ âm từ vựng, giọng điệu được bàn tay nhà nghệ sĩ tài ba Kim Lân đã sắp đặt tạo ra một thứ ngôn từ mang đậm chất “văn xuôi”. Đó là một đóa hoa tạo nên sức hút ban đầu cho các độc giả. Đó là phong cách giản dị độc đáo của Kim Lân” [84]. Trong số những bài nghiên cứu, phê bình về Kim Lân vào những năm tháng này, đáng ghi nhận nhất là hướng đi thẳng vào văn bản để tìm kiếm những nét đặc sắc, độc đáo của tác phẩm Kim Lân. Nhờ vậy, không ít nhận xét, kết luận tỏ ra có sức thuyết phục, có đóng góp. Bên cạnh đó loạt bài của Nguyên Hồng, của Nguyên An, của Vũ Dương Quỹ, Nguyễn Đăng Điệp… cũng giúp người đọc hiểu thêm về thân thế, con người Kim Lân và phần nào, giúp soi sáng phong cách nghệ thuật của ông. Tuy vậy, có thể nói rằng hơn 60 năm đọc văn Kim Lân giới nghiên cứu, phê bình vẫn chưa có bài viết thật sự đi sâu vào xem xét một cách đầy đủ về hệ thống VXNT Kim Lân với tầm vóc một chuyên luận hay một công trình. 2.2. Từ sau năm 1975 Từ sau 1975, việc nghiên cứu về Kim Lân có phát triển và mở rộng thêm. Nhưng phần lớn các ý kiến chủ yếu dừng lại ở đánh giá quan điểm lập trường tư tưởng của nhà văn mà ít khi chú ý trực diện vấn đề phong cách qua văn bản nghệ thuật. Tuy vậy, nhìn chung sáng tác của Kim Lân được xem xét với một thái độ
  9. 9 trân trọng. Ông được nhìn nhận như một hiện tượng khá đặc biệt trong số những nhà văn viết về đề tài nông thôn. Điều này cũng giúp soi sáng phong cách nghệ thuật của ông. Khi bàn về nội dung truyện ngắn Kim Lân ở giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, Lại Nguyên Ân là một trong những người viết nhiều về Kim Lân, đã cho rằng: “Do chỗ tập trung miêu tả người nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ, cho nên ở hầu hết truyện ngắn của ông, Kim Lân chưa chú trọng khám phá óc tư hữu của họ. Nét tâm lý căn bản này, chỉ cần bước vào thời kỳ đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là lập tức bộc lộ rõ rệt. Nhà văn đã thấy ngay nét đó: ở ông cả Luốn gốc me trong truyện ngắn cùng tên, nhà văn đã khá tinh tế nhận thấy có một tương quan nào đó giữa gia trưởng và óc tư hữu trong tâm lý người nông dân này (…) Đáng tiếc là những tâm lý ứng xử như vậy của người nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã không được Kim Lân tiếp tục phân tích và thể hiện nữa trong văn xuôi của ông: giữa những năm sáu mươi về sau, hầu như ông đã thôi không sáng tác nữa” [4]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét về truyện ngắn Kim Lân bằng cái nhìn biện chứng sắc sảo và quan điểm lịch sử như sau: “Sau Cách mạng tháng Tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào phương diện xã hội chính trị, của đời sống nông dân gắn liền với vận mệnh của đất nước. Về đề tài này “Làng” và “Vợ nhặt” xứng đáng được xem là những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại” [70]. “Từ điển văn học” - 2003, trong những dòng cô đúc đã cố gắng khái quát về truyện ngắn sau cách mạng của Kim Lân “Kim Lân vẫn tiếp tục viết về làng quê Việt Nam. Ông thường viết về những cảnh tội nghiệp, cuộc sống khốn khó đến cùng cực của người nông dân dưới chế độ cũ và sự đổi đời của họ nhờ cách mạng” [94]. Nhà thơ Trần Ninh Hồ, trên báo văn nghệ số 34, (1991) đã đưa ra nhận xét với tư cách của người rất hiểu truyện ngắn Kim Lân như sau: “Tuy tầm vóc, vị trí của mỗi nhà văn một khác, nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường đến với
  10. 10 ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành lời (…) Năm mươi năm, một nửa thế kỷ cầm bút mà chỉ vẻn vẹn có ngót chục truyện ngắn thì quả là quá ít ỏi. Nhưng cũng kỳ lạ thay, mỗi khi lần mở những trang văn ít ỏi ấy, ta lại cảm thấy không có một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa tế kỷ mà Kim Lân không đá động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn: truyện ngắn (…) Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu cho rằng văn chương chính là “lịch sử tâm trạng của con người” thì Kim Lân quả là một nhà văn đích thực trên cái nghĩa ấy” [36]. Khi bàn về nghệ thuật của Kim Lân ở giai đoạn này thì năm 1994 trong “Tiếng nói tri âm”, tác giả Trần Đồng Minh với bài viết “Bóng tối và ánh sáng trong câu chuyện nhặt vợ” đã khẳng định tác phẩm của Kim Lân cùng với một số nhà văn gần gũi về phong cách với ông là “…Cái nghèo của Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao khiến ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân khiến ta khiếp sợ đến rụng rời” [79]. Đến với Nguyễn Khải, một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại trong “Nghề văn cũng lắm công phu” đã tâm sự: “Về văn xuôi là nghề của tôi, trước sau tôi thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân. Sau này viết lách được cái gì thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn” và khi đọc “Làng” của Kim Lân, tác giả đã ngạc nhiên và thốt lên rằng “Đó là thần viết , thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”[85]. Và ông cũng đã khái quát lại toàn bộ truyện ngắn Kim Lân như sau “Nếu nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong tác phẩm Kim Lân viết trước Cách mạng đến các tác phẩm sau này, người đọc dễ dàng nhận ra nét riêng của Kim Lân là: Một ngòi bút sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn, luôn luôn cố gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm, tâm trạng từng con người, từng số phận riêng, để từ đó góp một tiếng nói riêng vào trang sử chung về tâm tư tình cảm con người Việt Nam của văn học Việt Nam hiện đại” [98].
  11. 11 Để khẳng định tài năng viết truyện ngắn của Kim Lân, Hà Minh Đức đã nhận xét “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc” [18]. Mặc dù vậy, nhưng có thể nói rằng hơn năm mươi năm đọc văn của Kim Lân, giới nghiên cứu phê bình vẫn chưa có bài viết hay tiểu luận nào thực sự đi sâu vào xem xét một cách đầy đủ, có hệ thống về phong cách VXNT Kim Lân với tầm vóc một chuyên luận hay một công trình. VXNT Kim Lân đã đến lúc xem như một đối tượng nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc khoa học. Năm 2005, tác giả Đặng Thị Huy Lam trong luận văn “Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân” đã dành hai chương để khảo sát về nghệ thuật dựng truyện và xây dựng nhân vật; về ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Kim Lân. Năm 2006, tác giả Nguyễn Quốc Thanh trong luận văn “Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân” thì đã đề cập đến “cảm hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân”. Cả hai tác giả đã cố gắng chỉ ra một số nét đặc trưng trong truyện - truyện ngắn của Kim Lân qua hệ thống hình tượng (người nông dân, người dân nghèo, người phụ nữ và nghệ thuật viết truyện của Kim Lân). Điều đáng nói là các bài viết và các công trình vừa kể trên tùy mức độ, phạm vi đều đã gợi mở được nhiều khía cạnh, luận điểm có ý nghĩa khoa học trong việc nghiên cứu Kim Lân và phong cách nghệ thuật của ông . Và đến đây có thể nói việc nghiên cứu Kim Lân và sáng tác của ông đã tiến một bước khá dài. Trong đó, tác phẩm của Kim lân đã được tiếp cận từ “Một cách nhìn hiện thực và con người”, từ “Văn chương và cái đẹp”, từ “Thi pháp và thể loại”, từ sự soi sáng của “một quan niệm văn chương”. Và trong tất cả các
  12. 12 bài tham luận, các công trình nghiên cứu về truyện - truyện ngắn Kim Lân, có thể ghi nhận nhiều ý kiến rất đáng lưu ý như: - Nhân vật của Kim Lân thường là những người nông dân - những con người lao động nghèo khổ, thấp cổ bé miệng ở làng quê Việt Nam. Đó là những nhân vật sống gắn bó với quê hương của mình, dù nghèo nhưng họ vẫn trong sáng, tài hoa, lạc quan, yêu đời. - Kim Lân là nhà văn mang khuynh hướng phong tục rất rõ. Ông viết rất hay về “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng” gắn với sinh hoạt văn hoá làng quê Việt Nam. - Truyện Kim Lân thường ít hành động và vai trò của cốt truyện là vai trò thứ yếu, Kim Lân là một nhà văn thành công trong việc dùng “chi tiết lấn át cốt truyện, chi tiết thể hiện một cách tinh tế nhất và rõ ràng nhất tính cách nhân vật cũng như hoàn cảnh sống của nhân vật”, ông đi sâu diễn tả tâm tư, ý nghĩ, cảm xúc của nhân vật khá tinh tế. Tuy nhiên, những kết luận trên đây cũng chỉ mới dừng lại ở các ý kiến nhận xét, nhận định tương đối khái quát, mà nhiều khi chưa được khảo sát kỹ lưỡng, đầy đủ, toàn diện. Nhìn chung, các bài viết các chuyên luận, các công trình nghiên cứu đã nêu, dù khác nhau về góc nhìn về quy mô nghiên cứu, trực tiếp hay không trực tiếp, đều đã góp một tiếng nói có ý nghĩa cho việc nghiên cứu phong cách nghê thuật cũng như thi pháp Kim Lân. (Đó cũng là lý do khiến cho lịch sử vấn đề nghiên cứu văn chương Kim Lân về căn bản cũng là lịch sử vấn đề nghiên cứu phong cách hay thi pháp Kim Lân). Mặc dù vậy, cho đến thời điểm này, vẫn chưa có một công trình dày dặn tập trung nghiên cứu một cách trực diện, hệ thống về Kim Lân và phong cách VXNT của ông. Trong tình hình ấy, để vừa tiếp thu được ý kiến của người đi trước, kế thừa những thành tựu nghiên cứu phê bình của hơn nửa thế kỷ “tìm kiếm Kim Lân” và vừa tránh sa vào sự trùng lặp, chọn đề tài “Phong cách - phong cách văn xuôi
  13. 13 nghệ thuật Kim Lân”, tác giả luận văn này muốn góp một tiếng nói khiêm nhường bổ sung vào chỗ khiếm khuyết đó. 3. Đóng góp mới của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu VXNT Kim Lân nhằm: 3.1. Phát hiện đặc trưng phong cách nghệ thuật Kim Lân; phân tích những biểu hiện cụ thể và giá trị của các đặc trưng bút pháp ấy qua các sáng tác cụ thể, tiêu biểu trong các tập truyện - truyện ngắn của Kim Lân. 3.2. Khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa bút pháp nghệ thuật với tư tưởng, cảm hứng trong tính chỉnh thể của VXNT Kim Lân, chỉ ra cái nhìn độc đáo của nhà văn bộc lộ trên các bình diện quan niệm nghệ thuật, nội dung và phương thức tự sự. 3.3. Đặt những tìm tòi thể nghiệm của Kim Lân trong tiến trình vận động và phát triển của văn xuôi hiện đại để xem xét những đóng góp cụ thể của Kim Lân đối với sự phát triển của nghệ thuật của văn xuôi hiện đại nói chung và sự phát triển của truyện - truyện ngắn nói riêng. 4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng khoa học mà luận văn đề cập đến là đặc trưng VXNT Kim Lân. Ở đây hầu như các bình diện chính yếu trong sáng tác của ông đều được đề cập, xem xét tương đối đầy đủ, nhưng chủ yếu là để làm rõ chỗ đặc sắc, độc đáo trong phong cách sáng tác cũng như những đóng góp cụ thể của ông trên các bình diện này. Với một đối tượng khoa học như vậy, phạm vi khảo sát giới hạn cho luận văn là 33 truyện ngắn của Kim Lân mà tác giả đã khảo sát và nghiên cứu từ các nguồn tư liệu sau: -Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản văn học Hà Nội 1996. -Kim Lân – Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản hội nhà văn, Hà Nội 2004. -Các truyện: “Cô Dí”, “Cô Vịa”, “Truyện chó chết”, “Món đồ mừng”, “Tông chim Cả chuống”, đều là những truyện ngắn do tác giả luận văn vừa sưu
  14. 14 tầm được từ các báo “Trung Bắc chủ nhật” và “Báo văn nghệ”. Đó là những tác phẩm của Kim Lân. Đồng thời, để có cái nhìn tổng quát hơn, khi cần, luận văn khảo sát thêm một số tác giả gần gũi hoặc khác biệt về xu hướng, cùng giai đoạn hoặc khác giai đoạn với ông. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp tổng quát của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng. Luận văn nghiên cứu phong cách VXNT Kim Lân, do vậy phương pháp sử dụng trước hết là phương pháp của thi pháp học miêu tả. Theo đó, phương pháp nghiên cứu cấu trúc - hệ thống sẽ được sử dụng để xác lập các nguyên tắc tư duy nghệ thuật của Kim Lân. Luận văn cũng sử dụng phương pháp phân tích loại hình hoá nhằm xác lập đặc trưng loại hình tư duy nghệ thuật và phong cách tự sự của nhà văn. Từ đó có cơ sở để so sánh, đối chiếu và chỉ ra những cái gì là thành tựu thuộc về thời đại, những cái gì là đóng góp thuộc về cá nhân nhà văn. 5. Kết cấu của luận văn Như trên đã nói, người viết chọn cách trình bày phong cách VXNT Kim Lân là nghiên cứu những đóng góp đặc sắc của VXNT Kim Lân từ góc độ phong cách nghệ thuật cùng với việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật và triển khai quan niệm ấy của ông vào văn bản tác phẩm. Do vậy, ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn được tổ chức thành ba chương với những nhiệm vụ cụ thể sau: - Chương một: Quan niệm nghệ thuật của Kim Lân. Ở chương này luận văn xác định một cách hiểu về phong cách nghệ thuật của Kim Lân về con người và phong tục văn hóa làng quê. - Chương hai: Những nội dung tự sự chủ yếu trong VXNT Kim Lân. Với chương hai luận văn sẽ trình bày những nội dung tự sự về bức tranh quê hương và không gian làng xóm cùng với con người văn hóa và cảm hứng “phong tục”, thể hiện cái nhìn của Kim Lân về con người và phong tục văn hóa làng quê.
  15. 15 - Chương ba: Phương thức tự sự trong VXNT của Kim Lân. Nhiệm vụ của chương ba là khảo sát về bút pháp nghệ thuật trong VXNT Kim Lân, đặc biệt là phương thức trần thuật chủ quan, khách quan, cùng với những thủ pháp xây dựng nhân vật, tình huống, cốt truyện, và việc tạo ngôn ngữ, giọng điệu, đảm bảo tính nhất quán của phong cách như phạm trù xuyên suốt từ nội dung đến hình thức tác phẩm.
  16. 16 Chương 1 QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA KIM LÂN 1.1 . Về khái niệm phong cách nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật 1.1.1. Khái niệm về phong cách nghệ thuật Vấn đề phong cách nghệ thuật là một vấn đề khá phức tạp. Nó có thể được hiểu rất rộng (khi nó được đồng nhất với cá tính sáng tạo) mà cũng có thể được hiểu rất hẹp (khi nó được đồng nhất với phong cách ngôn ngữ của nhà văn); có thể được hiểu như là một cái gì thuộc về ý thức nghệ thuật, hay thuộc về nhãn quan của nhà văn (ví dụ quan niệm phong cách là vấn đề cái nhìn), cũng có thể được hiểu như là một đặc điểm riêng trong hệ thống phương tiện biểu đạt của nhà văn (ví dụ quan niệm phong cách là vấn đề kỹ thuật hay mối quan hệ giữa những yếu tố của hình thức nghệ thuật)… Tuy nhiên, với nội hàm ít nhiều khác nhau, phong cách là một thuật ngữ được sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau, tùy theo tính chất đặc trưng của các ngành khoa học này. Và ngay trong giới nghiên cứu văn học, nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về phong cách cũng đang tồn tại. Ở Liên Xô (trước đây) trong công trình “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học” [80] viện sĩ Bôrixôvích Khrapchencô đã đưa ra nhiều định nghĩa về phong cách tiêu biểu cho các quan niệm khác nhau. Chẳng hạn của D.Likhachev, A. Grogorian, V. Turbin, V. Tinnunxki, V. Kôvalep, L. Nôvichencô, V. Đneprov, Ya. Elxberg, R. Yakobxưn… Còn theo ông thì định nghĩa này được xem như một cái quạt mà một phía thì thừa nhận phong cách là một phạm trù lịch sử - thẩm mỹ rộng nhất, bao quát nhất, nhưng phía khác lại coi phong cách như là một đặc điểm của từng tác phẩm riêng lẻ. Nói như nhà nghiên cứu Phan Ngọc “Các khái niệm làm cơ sở cho nó như phong cách, phong cách thể loại, phong cách thời đại, phong cách tác giả… vẫn chưa được xác định một cách nhất quán. Phong cách học chưa xây dựng cho mình một hệ thống thao tác có hiệu lực để khảo sát phong cách tác giả một cách khách quan” [83].
  17. 17 Đó còn là chưa nói đến hàng trăm công trình nghiên cứu khác liên quan đến phong cách cá nhân nhà văn hoặc những vấn đề xung quanh nó mà chắc chắn ở đó các quan niệm về phong cách chưa hẳn đã giống nhau. Hơn nữa phong cách chưa được coi là một tiêu chí quan trọng để đánh giá sự đóng góp của nhà văn, và chính quan niệm này cũng phần nào hạn chế hứng thú tìm tòi, phát hiện ở nhà nghiên cứu. Những năm gần đây giới nghiên cứu nói chung đã bắt đầu tiếp cận tác giả, tác phẩm từ góc độ phong cách. Trong các công trình nghiên cứu cụ thể như “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” của Phan Ngọc [83]; “Nhà văn - tư tưởng - phong cách” của Nguyễn Đăng Mạnh [71]; “Một số vấn đề thi pháp học hiện đại” của Trần Đình Sử [99]; “Từ ký hiệu học đến ngôn ngữ học” của Hoàng Trinh [111]; “Phong cách học tiếng Việt” của Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa [47]; “Văn học và học văn” của Hoàng Ngọc Hiến [27]… Khi đề cập tới khái niệm này, các tác giả cũng đã đề xuất vấn đề dưới những hình thức khác nhau trong cách hiểu về phong cách của mình. Trong các công trình đó, nhìn chung các tác giả đều coi trọng các yếu tố hình thức trong tính thống nhất với nội dung tác phẩm, đồng thời đề cao vai trò sáng tạo của cá nhân. Từ thực tế của các công trình cụ thể, chúng tôi thấy rằng trong khi nghiên cứu một tác giả để tìm kiếm phong cách nghệ thuật của họ trên cơ sở các định nghĩa, các nhà nghiên cứu đều tùy thuộc vào đặc trưng riêng của nhà văn đó để thể hiện quan niệm về phong cách của mình. Nói như thế cũng có nghĩa là điều mà luận văn quan tâm ở đây chưa phải là tính khoa học hay tầm khái quát của các định nghĩa về phong cách; điều quan trọng là qua những cách hiểu, hay từ các định nghĩa của các nhà lý luận và các nhà sáng tác, người ta có thể xác định được đâu là những yếu tố hợp nhất nên phong cách? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả Nguyễn Thành Thi trong “Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam” đã đưa ra bốn cách trả lời khác nhau, nhưng có thể bổ sung cho nhau như sau:“Một là: phong cách chỉ thuần túy là vấn đề kỹ thuật hay cách thức biểu đạt, biểu hiện ở hình thức tác phẩm (tức là phong cách chỉ biểu hiện ở hình thức, qua hình thức tác phẩm); hai là: phong
  18. 18 cách chủ yếu và trước hết biểu hiện qua ý thức nghệ thuật, qua cái nhìn, qua cách cảm nhận thế giới độc đáo của nhà văn (phong cách chỉ biểu hiện ở nội dung); ba là: phong cách biểu hiện cả ở nội dung, cả ở hình thức của tác phẩm; bốn là: phong cách biểu hiện thành những đặc điểm hình thức nhưng những đặc điểm này có nguồn gốc trong ý thức nghệ thuật của nhà văn, tức là hình thức có tính nội dung.” [107] Và theo bốn cách trả lời đó, tác giả cũng đã khẳng định “Ở nước ta cách hiểu về phong cách thiên về cách (3) và (4), đặc biệt là cách (4)” [107]. Có thể thấy đây cũng là một quan niệm gần gũi với ý kiến của viện sĩ Khrapchencô, ông cho rằng “Mỗi nhà văn có tài đều đi tìm những biện pháp và những phương tiện độc đáo để thể hiện những tư tưởng và hình tượng của mình (…) Nếu như dùng một công thức vắn tắt thì phong cách cần phải được định nghĩa như thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả” [107]. Phong cách thường được định danh là những kiểu lựa chọn, những đặc điểm hay những dấu hiệu hình thức được qui định bởi cái nhìn độc đáo hay ý thức nghệ thuật của một nhà văn. Tác giả Phan Ngọc đã đưa ra quan niệm nghệ thuật của mình như sau: “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả. Nó chứa đựng một cái nhìn đối với hiện thực” [83] hoặc “Phong cách (…) là một cái nhìn(…) nó không phải đơn thuần là hình thức nhưng phong cách phải được dựa trên hình thức thì nới tồn tại được” [83]. Tác giả “Từ điển thuật ngữ văn học” (1992) đã định nghĩa một cách đầy đủ: “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay trong văn học dân tộc,… các dấu hiệu phong cách dường như nổi lên trên bề mặt tác phẩm như là một thể thống nhất hữu hình và
  19. 19 có thể tri giác được tất cả mọi yếu tố cơ bản của hình thức nghệ thuật” [22]. Tác giả Lê Ngọc Trà cũng đã đưa ra quan niệm của mình “Phong cách nói lên những đặc điểm nào đó thuộc về hình thức của tác phẩm, các đặc điểm này có nguồn gốc trong ý thức nghệ thuật của nhà văn” [107]. Quan niệm nào cũng có cơ sở lý luận riêng của nó. Nhưng xét trên yêu cầu ứng dụng vào thực tiễn thì các quan niệm trên tự nó vẫn chưa sáng rõ, vẫn thiếu những chỉ dẫn cần thiết cho việc xây dựng được một mô hình nhận thức khái quát để có thể nghiên cứu phong cách nghệ thuật của từng nhà văn cụ thể, nhất là khi những quan niệm này chưa được triển khai, minh hoạ ứng dụng đầy đủ. Tìm hiểu phong cách nghệ thuật của một tác giả, chúng tôi không quan niệm đơn thuần chỉ là nghiên cứu những yếu tố có tính chất hình thức, mặc dù hình thức có vai trò cực kỳ quan trọng, hoặc ngược lại. Nhà văn chân chính sáng tác theo quy luật của cái đẹp và phong cách chính là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật, có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong tác phẩm. Quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ không đơn thuần là việc lựa chọn, càng không phải là việc thêm bớt những yếu tố mà là tổ chức chúng lại thành một cấu trúc tinh vi và nhuyễn đến mức mà tất cả những dấu hiệu hình thức đều mang tính nội dung và do đó, ngược lại tất cả nội dung đều được hình thức hoá. Một tác phẩm nghệ thuật độc đáo không thể là một tác phẩm kém cỏi về cả hai phương diện - hoặc một trong cả hai phương diện. Nội dung chỉ tồn tại bằng hình thức và ngược lại. Một tác phẩm văn học hay là khi với nội dung đó, tác giả của nó đã lựa chọn được một hình thức thích hợp để diễn đạt thành công nội dung. Có những nhà văn gần nhau về tư tưởng có cùng một thế giới quan, cùng viết về một đề tài, nhưng sản phẩm nghệ thuật đó như thế nào lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào hình thức mà nhà văn chọn, vào cái sở trường của mỗi nhà văn. Hiện thực cuộc sống trở thành một văn bản nghệ thuật mà giá trị của nó được xác định bởi toàn bộ các thành tố như: tình tiết, cốt truyện, nhân vật… trong một thể thống nhất in dấu ấn riêng của mỗi nhà văn.
  20. 20 “Trong một tác phẩm nghệ thuật đích thực tất cả nội dung được chuyển hoá vào hình thức và ngược lại” (Hêghen). Như vậy phong cách nghệ thuật của nhà văn, suy cho cùng là “vấn đề cái nhìn” (Macxen Prust), nhưng cái nhìn ấy phải toát lên từ tất cả các yếu tố hình thức và nội dung của tác phẩm, từ hệ thống hợp nhất các tri giác về thực tế tiêu biểu đối với nhà văn và phương pháp nghệ thuật của nhà văn ấy, nghĩa là cần được tiếp cận “với tính cách một hệ thống cụ thể về hình thức và nội dung” (AX Likhatsov, Grigôrian), toát lên từ một cấu trúc hữu cơ tất cả các kiểu lựa chọn (Phan Ngọc) [107]. Trên tinh thần này luận văn sẽ khảo sát phong cách trên tất cả các yếu tố hình thức và tất cả các yếu tố nội dung trong các tác phẩm của Kim Lân. Điều này cũng có nghĩa là nghiên cứu phong cách VXNT Kim Lân, một mặt luận văn có nhiệm vụ phải tìm cho ra những đặc điểm hình thức. Mặt khác, luận văn sẽ cố gắng chỉ ra cho được những nhân tố qui định các đặc điểm của hình thức ấy - những nhân tố thuộc về chiều sâu nội dung của sáng tác như ý thức nghệ thuật, hay những nét độc đáo trong cái nhìn của nhà văn - tức là chỉ ra các đặc điểm hình thức ấy có “tính nội dung”, “tính quan niệm” như thế nào? Theo định hướng của nội hàm khái niệm như vậy, luận văn sẽ dành hai chương đầu trình bày kết quả nghiên cứu những yếu tố thuộc về nội dung mang ý thức nghệ thuật, cái qui định phong cách nghệ thuật của nhà văn (chương 1, chương 2); chương còn lại trình bày các biểu hiện cụ thể của phong cách nghệ thuật qua các đặc điểm về hình thức VXNT Kim Lân (chương 3). 1.1.2. Khái niệm về quan niệm nghệ thuật Tiếp cận phong cách và giá trị nghệ thuật trong sáng tác của một nhà văn, người ta không thể không tìm kiếm, xác định, trước hết là quan niệm nghệ thuật của nhà văn ấy (quan niệm về công việc viết văn, về con người, về thế giới). Tất cả các quan niệm của nhà văn suy cho cùng là thuộc về ý thức nghệ thuật, nó bao hàm cái nhìn độc đáo của nhà văn ấy, về con người (và về thế giới). Theo nguyên tắc mà nói, nhà văn nhìn con người và thế giới như thế nào thì sẽ mô tả
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0