1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ NHA TRANG PHONG CÁCH VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT KIM LÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành Mã số
: Văn học Việt Nam : 60 22 34
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THÀNH THI
2
MỞ ĐẦU
1. Mục đích và ý nghĩa của luận văn
1.1 Mục đích của luận văn
Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân thuộc số những nhà văn
viết không nhiều. Hơn năm mươi năm cầm bút, ông chỉ viết vẻn vẹn có trên ba
mươi tác phẩm. Thế nhưng, ông vẫn được xem là một tác giả văn xuôi có tầm
vóc. Tác phẩm của ông đã gây ấn tượng với người đọc bởi cách viết độc đáo. Khi
viết ông thường suy nghĩ thật sâu sắc, thận trọng chứ không ngẫu hứng cao
giọng, ông luôn có cái nhìn nhân hậu với đời với người cũng như trong sáng tạo
văn chương, đặc biệt là trong thể tài truyện - truyện ngắn. Nhiều tác phẩm của
ông đã vượt qua được thử thách thời gian, sự sàng lọc của công chúng, góp phần
làm nên thành tựu rực rỡ cho nền văn học Việt nam hiện đại ở cả hai thời kỳ
trước và sau Cách mạng tháng Tám. Có được như thế, chính vì Kim Lân bằng
thực tiễn sáng tác đã đóng góp một tiếng nói riêng, một phong cách riêng. Cho
nên để hiểu sâu sắc hơn, toàn diện hơn về Kim Lân và văn xuôi nghệ thuật
(VXNT) Việt Nam hiện đại, chúng ta không thể không nghiên cứu những đóng
góp đặc sắc của VXNT Kim Lân từ góc độ phong cách.
Mục đích của luận văn là nghiên cứu khảo sát toàn bộ sáng tác của Kim Lân
dưới góc độ phong cách nghệ thuật. Có thể nói đây là một việc làm cần thiết và
có ý nghĩa vì nó đề cập đến một trong những phương diện cơ bản nhất nhằm
đánh giá những thành tựu đầy sáng tạo của nhà văn để qua đó có thể nhìn thấy
nhiều vấn đề đặt ra trong sự phát triển văn học của cả một giai đoạn. Mặt khác,
trên cơ sở đó mà chỉ ra những đóng góp về phong cách VXNT của Kim Lân
trong tiến trình hiện đại hóa VXNT tiếng Việt.
1.2. Ý nghĩa của luận văn
Tìm hiểu phong cách văn chương của Kim Lân, trong quan niệm của chúng
tôi, là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật và cách triển khai quan niệm ấy của ông
3
vào văn bản tác phẩm. Nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là cung cấp cái nhìn tổng
quát về đặc trưng VXNT Kim Lân. Nghĩa là luận văn chủ yếu trình bày hệ thống
những nét độc đáo tiêu biểu, có ý nghĩa thẩm mỹ cao trong phong cách VXNT
Kim Lân, từ đó góp phần khẳng định những cống hiến và vị trí của nhà văn trong
lịch sử phát triển văn học Việt Nam hiện đại.
Bên cạnh đó luận văn còn cung cấp những dữ liệu, tư liệu để nghiên cứu thi
pháp VXNT, đặc biệt là truyện - truyện ngắn văn học Việt Nam trong một giai
đoạn có nhiều thành tựu và nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo. Đồng thời,
luận văn có thể sử dụng bổ sung kiến thức cho việc giảng dạy ở các trường trung
học phổ thông.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kim Lân là nhà văn gần gũi, quen thuộc với công chúng trong mấy chục
năm qua. Ngay từ những tác phẩm đầu tay của mình, ông đã được nhiều người
giới thiệu, phê bình. Nhìn chung, ông được xem xét khá kỹ lưỡng ở từng giai
đoạn sáng tác, ở chân dung con người và cả khu vực phê bình, tiểu luận. Nhưng
việc nghiên cứu phong cách nghệ thuật của tác giả như một đối tượng chuyên
biệt thì chưa có một bài viết công phu hoặc một công trình khoa học nào và tính
đến nay đã hơn nửa thế kỷ, việc nghiên cứu về ông không phải là không có ý
kiến khác nhau, nhưng cơ bản là thống nhất. Có thể chia quá trình nghiên cứu về
Kim Lân thành hai giai đoạn chính như sau:
2.1 Trước năm 1975
Nhà văn Nguyên Hồng, trong “Những nhân vật ấy đã sống với tôi” đã kể
lại rằng: “Từ giữa những năm 1943 - 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim
Lân… Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân
chương chướng thế nào ấy, hình như định chọi, định đả chữ nhau với một số tên
như Mộng Ngọc, Mộng Dương, hay Hoài Trạch, Hoài Tâm… lúc bấy giờ vậy.
Nhưng rồi chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át
một cách bợm bãi, trái lại có một cái gì đó chân chất của đời sống con người
4
nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung cảm thắm thiết, đặc biệt là lại gần gũi
với mình…” [38]
Đây có thể xem là một ý kiến rất đáng chú ý khi tìm hiểu phong cách nghệ
thuật của Kim Lân về nội dung tư tưởng và giọng điệu tác phẩm.
Ở những tác phẩm đầu tay, Kim Lân dường như chưa ý thức phản ánh một
vấn đề gì có ý nghĩa hiện thực sâu sắc cả nhưng chất hiện thực cứ toát ra một
cách tự nhiên từ những hình tượng nhân vật của ông, vì đó thường là những con
người của quê hương ông, ruột thịt với ông, từ cuộc sống lam lũ bần cùng, họ đã
trực tiếp bước vào văn học. Và cũng gần với quan điểm của Nguyên Hồng, Lại
Nguyên Ân cũng đưa ra nhận xét “Đọc văn xuôi Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới
của những người dân nghèo vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ: Những người dân
miền xuôi mất nhà, mất đất, xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một xóm chợ, bến
sông, một góc phố hay ven một đồn điền, một xóm trại, tiếp tục vật lộn với miếng
sống sơ đẳng hàng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi những nhân vật thân vật thân
thuộc ấy của ngòi bút mình là “những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp xó xỉnh cuộc
sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh đầy đau xót của chính các nhân
vật ấy (…) mạch kể chuyện của Kim Lân dường như bắt rất nhạy vào những
cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt vì công nợ, thuế khoá, cảnh ăn xin, cảnh
chết đường chết chợ, cảnh bị áp bức đọa đày ”[4]
Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá đã đưa ra một nhận định thật khái quát, xác
đáng về quan niệm viết văn của Kim Lân “Kim Lân quan niệm viết văn như cách
đòi cho mình một thân phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ
bé quẩn quanh của quê hương” [95]. Tuy nhiên do khuôn khổ hạn chế của
những mục từ trong “Từ điển văn học” nên tác giả đã không có điều kiện trình
bày lí giải nhận định của mình một cách cặn kẽ.
Đáng lưu ý nhất là nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh trong “Tổng tập văn
học Việt Nam” đã tỏ ra khá tinh tế vá sắc sảo khi nhận xét về đề tài phong tục và
thú chơi đồng quê của Kim Lân, ông cho rằng “Văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp
dẫn hơn khi ông viết về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng
5
ruộng”. Rồi ông lại tiếp tục lí giải “Sở dĩ có sự hấp dẫn, không phải vì ở đấy
những tập quán ngộ nghĩnh, kỳ lạ, những thú chơi phiền phức, cầu kỳ được trình
bày cặn kẽ, mà chính là nhờ nhà văn đã thể hiện lên được những con người ở
làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy nghèo khổ thiếu thốn mà vẫn yêu đời” [72].
Tiếp sau đó tác giả lại nhận xét một cách tổng quát hơn về toàn bộ nội dung
truyện ngắn Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám 1945: “Đó là những trang số
phận của các đầu thừa, đuôi thẹo, được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt
trang giấy trắng chứa nhân thế, nhân tình hoặc những trang tuy nghiêng về phía
phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh …, nhưng vẫn biểu hiện
một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám
những người sống vất vả, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, trong sáng thông minh,
tài hoa” [72].
Sau đó trong “Tuyển tập Kim Lân” - 1996 nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên
lại đưa ra nhận xét rất chính xác về toàn bộ truyện ngắn Kim Lân “Nếu có dịp
đọc toàn bộ tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu là truyên ngắn ta sẽ thấy, ông
không chỉ là đại diện văn học của loại nhân vật đầu thừa đuôi thẹo; ông còn là
đại diện văn học sáng giá của những người tài hoa, bặt thiệp, phong lưu riêng
thú … chọi gà, thả chim, đấu võ, đánh vật …” [4] .
Tương tự, các nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá, Hoài Việt… vẫn viết về Kim
Lân nhưng phần lớn các ý kiến chủ yếu chỉ dừng lại đánh giá quan điểm lập
trường tư tưởng của nhà văn, nghiên cứu nhận xét về nội dung cảm hứng truyện
ngắn của Kim Lân.
Đọc truyện ngắn Kim Lân, người đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi những tố chất
và vẻ đẹp dung dị, kín đáo của con người làng quê Bắc bộ - những con người lịch
lãm, hào hoa và đầy tinh thần thượng võ. Đặc biệt là cái thú “phong lưu đồng
ruộng” trong văn ông vừa có nét tinh tế, lại vừa thật thà, cởi mở qua đôi mắt nhìn
rất kỹ, quan sát cuộc sống nông thôn một cách say sưa, tỉ mỉ, cụ thể rồi ghi lại
với ý thức thể hiện những mảnh đời, những số phận bằng lối diễn đạt của chính
mình - lối diễn đạt đậm “chất quê” của một con người “vốn là con đẻ của đồng
6
ruộng” (chữ của Nguyên Hồng ). Có lẽ vì thế mà nhà nghiên cứu Lữ Quốc Văn
đã khẳng định thật xác đáng “Kim Lân là nhà tiểu thuyết phong tục hạng nhất
của Việt Nam”. Và để bổ sung nhấn mạnh điều này nhà nghiên cứu Lữ Huy
Nguyên đã đưa ra nhận xét như sau: “Con người ấy có cái gì đặc biệt lắm từ
ngoại hình, lề lối, ăn mặc, ứng xử… đến văn phong, nhân vật, cốt truyện, chữ
nghĩa, vận nhịp… Con người ấy đáng kính, đáng trọng; chỉ có điều là hơi khác
biệt, cái khác biệt của loại nghệ sĩ đã vượt qua được cái ngưỡng của thói thường
đời sống” [85].
Và khi bàn về nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên
Ân đã chia truyện ngắn Kim Lân ra thành ba loại: truyện ngắn tính cách, truyện
ngắn tình huống và truyện ngắn ngụ ý. Ông đã nói cụ thể như sau “Có lẽ do số
lượng tác phẩm không nhiều nên truyện ngắn Kim Lân cũng không thật đa dạng
về các kiểu cấu tứ. Bằng hai tập “Vợ nhặt” và “Nên vợ nên chồng”, có thể kể
được khoảng ba kiểu truyện chính. Kiểu phổ biến hơn cả, có thể gọi là những
truyện ngắn tính cách. Nhiệm vụ nghệ thuật mà nhà văn vẽ ra ở đó là vẽ ra một
con người (…). Hơi khác chút ít với kiểu truyện tính cách này, “Vợ nhặt” là
truyện ngắn không chú tâm hẳn vào nhân vật nào (…). Diễn biến của truyện
không nhằm khám phá một nét tính cách nào của một trong số các nhân vật. Cái
được chủ yếu ở đây là miêu tả tình huống. Đây có thể gọi là ước lệ, là truyện
ngắn tình huống (…). Có một kiểu truyện nữa mà Kim Lân viết rất ít. Tôi muốn
nói truyện ngắn “Con chó xấu xí” từng được đặt làm cái tên chung cho tập
truyện “Vợ nhặt” hồi in lần đầu thành sách. Đây là truyện có hơi hướng ngụ
ý”.[4]. Tác giả còn là người nhận ra ngôn ngữ và chất giọng trong văn xuôi Kim
Lân “Chất giọng thường xuyên trong truyện ngắn cùa Kim Lân là chất giọng
thật sự văn xuôi. Nó không thích hướng vào chất trữ tình, không thích rống lên
thống thiết. Nó thích phô bày cái nôm na thật thà, đáng yêu nhưng cũng đáng tức
cười của những sự thật xung quanh chứ không thích phủ lên các sự thật ấy một
sự cảm động đến rưng rưng.
7
Chính là do thích phô bày nôm na thật thà của những con người và sự vật
xung quanh nên văn xuôi này đã chú trọng khai thác các khả năng miêu tả của
các ngôn ngữ (…). Nhà văn rất chú ý miêu tả lời ăn tiếng nói của họ và đã biến
thứ ngôn ngữ sống của những cư dân sống thực đó thành một đối tượng nghệ
thuật rất đáng lắng nghe, nếu ta biết nghiệm ra cái vẻ đẹp đích thực của lời ăn
tiếng nói ấy” [2]
Và càng sắc sảo khi Lại Nguyên Ân đã khẳng định nét đặc sắc trong văn xuôi
Kim Lân chính là ngôn ngữ “Ngôn ngữ nhân vật có vai trò quyết định trong việc
thể hiện những tâm lý cổ truyền của người nông dân” [4].
Có thể xem đây là những phát hiện có ý nghĩa mở đường cho những người đến
sau như Nguyên An, Vũ Dương Quỹ chẳng hạn. Và nói như nhà văn Nguyên
Hồng, bạn tri kỉ gần gũi với Kim Lân về nhiều mặt “Ông là nhà văn một lòng đi
về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn …”
[115].
Dường như Nguyên Hồng muốn coi cuộc sống nông thôn, làng quê như là
một đặc điểm phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Đọc Kim Lân ta thấy rất rõ
với bất kỳ một tác phẩm nào, người đọc cũng thấy mở ra trước mắt cảnh vật, con
người và không khí của làng quê Bắc bộ. Cho nên có thể nói Kim Lân là nhà văn
của nông thôn làng quê Việt Nam.
Bước tiến đáng kể nhất của việc nghiên cứu nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân
qua bài viết “Sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc của truyện Kim Lân” tác
giả Bảo Nguyên đã cho rằng “Kim Lân lựa chọn những từ ngữ còn mang hơi thở
của cuộc sống hằng ngày, để diễn đạt chúng với cuộc sống miền quê với những
con người giản dị mà đáng yêu” [84]. Điều đó có lẽ đã làm cho tác phẩm của
Kim Lân mang giá trị hiện thực và tạo cho ông một phong cách rất riêng về bố
cục, kết cấu giọng điệu, ngôn ngữ, cách tả người tả việc …
Tác giả Bảo Nguyên còn rất tinh tế khi bổ sung thêm:
8
“Giọng văn chủ đạo của ông thường trầm sáng như giọng ca dao cổ tích. Nhịp
văn của ông chậm gọn… đó là một thứ giọng đệm phù hợp với quang cảnh nông
thôn, với văn minh nông nghiệp (…)
Yêu thương ca ngợi là nét giọng chủ đạo trong các truyện ngắn Kim Lân. Song
ở mỗi truyện, ở mỗi hoàn cảnh, ở mỗi nhân vật trong từng điều kiện Kim Lân sử
dụng các giọng khác nhau để miêu tả. Giọng phẫn uất lẫn mỉa mai trong “Con
chó xấu xí”, giọng cảm thông lẫn kính phục trong “Thượng tướng Trần Quang
Khải - Trạng Vật” [84] (…)
Trong các truyện tâm lý xã hội của Kim Lân ta thường bắt gặp một giọng kể
giản dị độc đáo, giọng tả tác giả Bảo Nguyên đã đưa ra kết luận khái quát: “Ngữ
âm từ vựng, giọng điệu được bàn tay nhà nghệ sĩ tài ba Kim Lân đã sắp đặt tạo
ra một thứ ngôn từ mang đậm chất “văn xuôi”. Đó là một đóa hoa tạo nên sức
hút ban đầu cho các độc giả. Đó là phong cách giản dị độc đáo của Kim Lân”
[84].
Trong số những bài nghiên cứu, phê bình về Kim Lân vào những năm tháng
này, đáng ghi nhận nhất là hướng đi thẳng vào văn bản để tìm kiếm những nét
đặc sắc, độc đáo của tác phẩm Kim Lân. Nhờ vậy, không ít nhận xét, kết luận tỏ
ra có sức thuyết phục, có đóng góp. Bên cạnh đó loạt bài của Nguyên Hồng, của
Nguyên An, của Vũ Dương Quỹ, Nguyễn Đăng Điệp… cũng giúp người đọc
hiểu thêm về thân thế, con người Kim Lân và phần nào, giúp soi sáng phong
cách nghệ thuật của ông.
Tuy vậy, có thể nói rằng hơn 60 năm đọc văn Kim Lân giới nghiên cứu, phê
bình vẫn chưa có bài viết thật sự đi sâu vào xem xét một cách đầy đủ về hệ thống
VXNT Kim Lân với tầm vóc một chuyên luận hay một công trình.
2.2. Từ sau năm 1975
Từ sau 1975, việc nghiên cứu về Kim Lân có phát triển và mở rộng thêm.
Nhưng phần lớn các ý kiến chủ yếu dừng lại ở đánh giá quan điểm lập trường tư
tưởng của nhà văn mà ít khi chú ý trực diện vấn đề phong cách qua văn bản nghệ
thuật. Tuy vậy, nhìn chung sáng tác của Kim Lân được xem xét với một thái độ
9
trân trọng. Ông được nhìn nhận như một hiện tượng khá đặc biệt trong số những
nhà văn viết về đề tài nông thôn. Điều này cũng giúp soi sáng phong cách nghệ
thuật của ông.
Khi bàn về nội dung truyện ngắn Kim Lân ở giai đoạn sau Cách mạng
tháng Tám, Lại Nguyên Ân là một trong những người viết nhiều về Kim Lân, đã
cho rằng: “Do chỗ tập trung miêu tả người nông dân trong cách mạng dân tộc
dân chủ, cho nên ở hầu hết truyện ngắn của ông, Kim Lân chưa chú trọng khám
phá óc tư hữu của họ. Nét tâm lý căn bản này, chỉ cần bước vào thời kỳ đầu của
cách mạng xã hội chủ nghĩa là lập tức bộc lộ rõ rệt. Nhà văn đã thấy ngay nét
đó: ở ông cả Luốn gốc me trong truyện ngắn cùng tên, nhà văn đã khá tinh tế
nhận thấy có một tương quan nào đó giữa gia trưởng và óc tư hữu trong tâm lý
người nông dân này (…) Đáng tiếc là những tâm lý ứng xử như vậy của người
nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã không được Kim Lân tiếp tục
phân tích và thể hiện nữa trong văn xuôi của ông: giữa những năm sáu mươi về
sau, hầu như ông đã thôi không sáng tác nữa” [4].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét về truyện ngắn Kim Lân
bằng cái nhìn biện chứng sắc sảo và quan điểm lịch sử như sau: “Sau Cách mạng
tháng Tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào phương diện xã hội chính trị, của đời
sống nông dân gắn liền với vận mệnh của đất nước. Về đề tài này “Làng” và
“Vợ nhặt” xứng đáng được xem là những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học
Việt Nam hiện đại” [70].
“Từ điển văn học” - 2003, trong những dòng cô đúc đã cố gắng khái quát về
truyện ngắn sau cách mạng của Kim Lân “Kim Lân vẫn tiếp tục viết về làng quê
Việt Nam. Ông thường viết về những cảnh tội nghiệp, cuộc sống khốn khó đến
cùng cực của người nông dân dưới chế độ cũ và sự đổi đời của họ nhờ cách
mạng” [94].
Nhà thơ Trần Ninh Hồ, trên báo văn nghệ số 34, (1991) đã đưa ra nhận xét
với tư cách của người rất hiểu truyện ngắn Kim Lân như sau: “Tuy tầm vóc, vị trí
của mỗi nhà văn một khác, nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường đến với
10
ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành lời (…)
Năm mươi năm, một nửa thế kỷ cầm bút mà chỉ vẻn vẹn có ngót chục truyện ngắn
thì quả là quá ít ỏi. Nhưng cũng kỳ lạ thay, mỗi khi lần mở những trang văn ít ỏi
ấy, ta lại cảm thấy không có một bước ngoặt, một chặng đường nào của con
người Việt Nam trong gần nửa tế kỷ mà Kim Lân không đá động tới dẫu chỉ bằng
sự chạm trổ hết sức khiêm tốn: truyện ngắn (…) Tất cả, tất cả dường như đã
được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi.
Nếu cho rằng văn chương chính là “lịch sử tâm trạng của con người” thì Kim
Lân quả là một nhà văn đích thực trên cái nghĩa ấy” [36].
Khi bàn về nghệ thuật của Kim Lân ở giai đoạn này thì năm 1994 trong
“Tiếng nói tri âm”, tác giả Trần Đồng Minh với bài viết “Bóng tối và ánh sáng
trong câu chuyện nhặt vợ” đã khẳng định tác phẩm của Kim Lân cùng với một
số nhà văn gần gũi về phong cách với ông là “…Cái nghèo của Ngô Tất Tố, cái
đói ở Nam Cao khiến ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở
Kim Lân khiến ta khiếp sợ đến rụng rời” [79].
Đến với Nguyễn Khải, một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại
trong “Nghề văn cũng lắm công phu” đã tâm sự: “Về văn xuôi là nghề của tôi,
trước sau tôi thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân.
Sau này viết lách được cái gì thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn” và khi
đọc “Làng” của Kim Lân, tác giả đã ngạc nhiên và thốt lên rằng “Đó là thần
viết , thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”[85].
Và ông cũng đã khái quát lại toàn bộ truyện ngắn Kim Lân như sau “Nếu
nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong tác phẩm Kim Lân viết
trước Cách mạng đến các tác phẩm sau này, người đọc dễ dàng nhận ra nét
riêng của Kim Lân là: Một ngòi bút sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn, luôn luôn cố
gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm, tâm trạng từng con người, từng số phận
riêng, để từ đó góp một tiếng nói riêng vào trang sử chung về tâm tư tình cảm
con người Việt Nam của văn học Việt Nam hiện đại” [98].
11
Để khẳng định tài năng viết truyện ngắn của Kim Lân, Hà Minh Đức đã
nhận xét “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học
Việt Nam hiện đại, Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim
Lân viết không nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn
đọc” [18].
Mặc dù vậy, nhưng có thể nói rằng hơn năm mươi năm đọc văn của Kim
Lân, giới nghiên cứu phê bình vẫn chưa có bài viết hay tiểu luận nào thực sự đi
sâu vào xem xét một cách đầy đủ, có hệ thống về phong cách VXNT Kim Lân
với tầm vóc một chuyên luận hay một công trình.
VXNT Kim Lân đã đến lúc xem như một đối tượng nghiên cứu đầy đủ,
nghiêm túc khoa học.
Năm 2005, tác giả Đặng Thị Huy Lam trong luận văn “Đặc điểm truyện
ngắn Kim Lân” đã dành hai chương để khảo sát về nghệ thuật dựng truyện và
xây dựng nhân vật; về ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Kim Lân.
Năm 2006, tác giả Nguyễn Quốc Thanh trong luận văn “Cảm hứng chủ đạo
và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân” thì đã đề cập đến “cảm
hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn
Kim Lân”.
Cả hai tác giả đã cố gắng chỉ ra một số nét đặc trưng trong truyện - truyện
ngắn của Kim Lân qua hệ thống hình tượng (người nông dân, người dân nghèo,
người phụ nữ và nghệ thuật viết truyện của Kim Lân).
Điều đáng nói là các bài viết và các công trình vừa kể trên tùy mức độ, phạm
vi đều đã gợi mở được nhiều khía cạnh, luận điểm có ý nghĩa khoa học trong việc
nghiên cứu Kim Lân và phong cách nghệ thuật của ông .
Và đến đây có thể nói việc nghiên cứu Kim Lân và sáng tác của ông đã tiến
một bước khá dài. Trong đó, tác phẩm của Kim lân đã được tiếp cận từ “Một
cách nhìn hiện thực và con người”, từ “Văn chương và cái đẹp”, từ “Thi pháp
và thể loại”, từ sự soi sáng của “một quan niệm văn chương”. Và trong tất cả các
12
bài tham luận, các công trình nghiên cứu về truyện - truyện ngắn Kim Lân, có thể
ghi nhận nhiều ý kiến rất đáng lưu ý như:
- Nhân vật của Kim Lân thường là những người nông dân - những con người
lao động nghèo khổ, thấp cổ bé miệng ở làng quê Việt Nam. Đó là những nhân
vật sống gắn bó với quê hương của mình, dù nghèo nhưng họ vẫn trong sáng, tài
hoa, lạc quan, yêu đời.
- Kim Lân là nhà văn mang khuynh hướng phong tục rất rõ. Ông viết rất hay
về “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng” gắn với sinh hoạt văn hoá làng
quê Việt Nam.
- Truyện Kim Lân thường ít hành động và vai trò của cốt truyện là vai trò
thứ yếu, Kim Lân là một nhà văn thành công trong việc dùng “chi tiết lấn át cốt
truyện, chi tiết thể hiện một cách tinh tế nhất và rõ ràng nhất tính cách nhân vật
cũng như hoàn cảnh sống của nhân vật”, ông đi sâu diễn tả tâm tư, ý nghĩ, cảm
xúc của nhân vật khá tinh tế.
Tuy nhiên, những kết luận trên đây cũng chỉ mới dừng lại ở các ý kiến
nhận xét, nhận định tương đối khái quát, mà nhiều khi chưa được khảo sát kỹ
lưỡng, đầy đủ, toàn diện.
Nhìn chung, các bài viết các chuyên luận, các công trình nghiên cứu đã nêu,
dù khác nhau về góc nhìn về quy mô nghiên cứu, trực tiếp hay không trực tiếp,
đều đã góp một tiếng nói có ý nghĩa cho việc nghiên cứu phong cách nghê thuật
cũng như thi pháp Kim Lân. (Đó cũng là lý do khiến cho lịch sử vấn đề nghiên
cứu văn chương Kim Lân về căn bản cũng là lịch sử vấn đề nghiên cứu phong
cách hay thi pháp Kim Lân). Mặc dù vậy, cho đến thời điểm này, vẫn chưa có
một công trình dày dặn tập trung nghiên cứu một cách trực diện, hệ thống về Kim
Lân và phong cách VXNT của ông.
Trong tình hình ấy, để vừa tiếp thu được ý kiến của người đi trước, kế thừa
những thành tựu nghiên cứu phê bình của hơn nửa thế kỷ “tìm kiếm Kim Lân” và
vừa tránh sa vào sự trùng lặp, chọn đề tài “Phong cách - phong cách văn xuôi
13
nghệ thuật Kim Lân”, tác giả luận văn này muốn góp một tiếng nói khiêm
nhường bổ sung vào chỗ khiếm khuyết đó.
3. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu VXNT Kim Lân nhằm:
3.1. Phát hiện đặc trưng phong cách nghệ thuật Kim Lân; phân tích những biểu
hiện cụ thể và giá trị của các đặc trưng bút pháp ấy qua các sáng tác cụ thể, tiêu
biểu trong các tập truyện - truyện ngắn của Kim Lân.
3.2. Khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa bút pháp nghệ thuật với tư tưởng,
cảm hứng trong tính chỉnh thể của VXNT Kim Lân, chỉ ra cái nhìn độc đáo của
nhà văn bộc lộ trên các bình diện quan niệm nghệ thuật, nội dung và phương thức
tự sự.
3.3. Đặt những tìm tòi thể nghiệm của Kim Lân trong tiến trình vận động và
phát triển của văn xuôi hiện đại để xem xét những đóng góp cụ thể của Kim Lân
đối với sự phát triển của nghệ thuật của văn xuôi hiện đại nói chung và sự phát
triển của truyện - truyện ngắn nói riêng.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khoa học mà luận văn đề cập đến là đặc trưng VXNT Kim Lân. Ở
đây hầu như các bình diện chính yếu trong sáng tác của ông đều được đề cập,
xem xét tương đối đầy đủ, nhưng chủ yếu là để làm rõ chỗ đặc sắc, độc đáo trong
phong cách sáng tác cũng như những đóng góp cụ thể của ông trên các bình diện
này.
Với một đối tượng khoa học như vậy, phạm vi khảo sát giới hạn cho luận văn
là 33 truyện ngắn của Kim Lân mà tác giả đã khảo sát và nghiên cứu từ các
nguồn tư liệu sau:
-Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản văn học Hà Nội 1996.
-Kim Lân – Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản hội nhà văn, Hà Nội 2004.
-Các truyện: “Cô Dí”, “Cô Vịa”, “Truyện chó chết”, “Món đồ mừng”,
“Tông chim Cả chuống”, đều là những truyện ngắn do tác giả luận văn vừa sưu
14
tầm được từ các báo “Trung Bắc chủ nhật” và “Báo văn nghệ”. Đó là những
tác phẩm của Kim Lân.
Đồng thời, để có cái nhìn tổng quát hơn, khi cần, luận văn khảo sát thêm một
số tác giả gần gũi hoặc khác biệt về xu hướng, cùng giai đoạn hoặc khác giai
đoạn với ông.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng quát của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng.
Luận văn nghiên cứu phong cách VXNT Kim Lân, do vậy phương pháp sử
dụng trước hết là phương pháp của thi pháp học miêu tả. Theo đó, phương pháp
nghiên cứu cấu trúc - hệ thống sẽ được sử dụng để xác lập các nguyên tắc tư duy
nghệ thuật của Kim Lân.
Luận văn cũng sử dụng phương pháp phân tích loại hình hoá nhằm xác lập
đặc trưng loại hình tư duy nghệ thuật và phong cách tự sự của nhà văn. Từ đó có
cơ sở để so sánh, đối chiếu và chỉ ra những cái gì là thành tựu thuộc về thời đại,
những cái gì là đóng góp thuộc về cá nhân nhà văn.
5. Kết cấu của luận văn
Như trên đã nói, người viết chọn cách trình bày phong cách VXNT Kim Lân
là nghiên cứu những đóng góp đặc sắc của VXNT Kim Lân từ góc độ phong
cách nghệ thuật cùng với việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật và triển khai quan
niệm ấy của ông vào văn bản tác phẩm. Do vậy, ngoài phần Mở đầu và phần Kết
luận, luận văn được tổ chức thành ba chương với những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Chương một: Quan niệm nghệ thuật của Kim Lân. Ở chương này luận
văn xác định một cách hiểu về phong cách nghệ thuật của Kim Lân về con người
và phong tục văn hóa làng quê.
- Chương hai: Những nội dung tự sự chủ yếu trong VXNT Kim Lân. Với
chương hai luận văn sẽ trình bày những nội dung tự sự về bức tranh quê hương
và không gian làng xóm cùng với con người văn hóa và cảm hứng “phong tục”,
thể hiện cái nhìn của Kim Lân về con người và phong tục văn hóa làng quê.
15
- Chương ba: Phương thức tự sự trong VXNT của Kim Lân. Nhiệm vụ của
chương ba là khảo sát về bút pháp nghệ thuật trong VXNT Kim Lân, đặc biệt là
phương thức trần thuật chủ quan, khách quan, cùng với những thủ pháp xây dựng
nhân vật, tình huống, cốt truyện, và việc tạo ngôn ngữ, giọng điệu, đảm bảo tính
nhất quán của phong cách như phạm trù xuyên suốt từ nội dung đến hình thức tác
phẩm.
16
Chương 1
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA KIM LÂN
1.1 . Về khái niệm phong cách nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm về phong cách nghệ thuật
Vấn đề phong cách nghệ thuật là một vấn đề khá phức tạp. Nó có thể được
hiểu rất rộng (khi nó được đồng nhất với cá tính sáng tạo) mà cũng có thể được
hiểu rất hẹp (khi nó được đồng nhất với phong cách ngôn ngữ của nhà văn); có
thể được hiểu như là một cái gì thuộc về ý thức nghệ thuật, hay thuộc về nhãn
quan của nhà văn (ví dụ quan niệm phong cách là vấn đề cái nhìn), cũng có thể
được hiểu như là một đặc điểm riêng trong hệ thống phương tiện biểu đạt của nhà
văn (ví dụ quan niệm phong cách là vấn đề kỹ thuật hay mối quan hệ giữa những
yếu tố của hình thức nghệ thuật)… Tuy nhiên, với nội hàm ít nhiều khác nhau,
phong cách là một thuật ngữ được sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác
nhau, tùy theo tính chất đặc trưng của các ngành khoa học này. Và ngay trong
giới nghiên cứu văn học, nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về phong cách
cũng đang tồn tại. Ở Liên Xô (trước đây) trong công trình “Cá tính sáng tạo của
nhà văn và sự phát triển văn học” [80] viện sĩ Bôrixôvích Khrapchencô đã đưa
ra nhiều định nghĩa về phong cách tiêu biểu cho các quan niệm khác nhau. Chẳng
hạn của D.Likhachev, A. Grogorian, V. Turbin, V. Tinnunxki, V. Kôvalep, L.
Nôvichencô, V. Đneprov, Ya. Elxberg, R. Yakobxưn… Còn theo ông thì định
nghĩa này được xem như một cái quạt mà một phía thì thừa nhận phong cách là
một phạm trù lịch sử - thẩm mỹ rộng nhất, bao quát nhất, nhưng phía khác lại coi
phong cách như là một đặc điểm của từng tác phẩm riêng lẻ. Nói như nhà nghiên
cứu Phan Ngọc “Các khái niệm làm cơ sở cho nó như phong cách, phong cách
thể loại, phong cách thời đại, phong cách tác giả… vẫn chưa được xác định một
cách nhất quán. Phong cách học chưa xây dựng cho mình một hệ thống thao tác
có hiệu lực để khảo sát phong cách tác giả một cách khách quan” [83].
17
Đó còn là chưa nói đến hàng trăm công trình nghiên cứu khác liên quan đến
phong cách cá nhân nhà văn hoặc những vấn đề xung quanh nó mà chắc chắn ở
đó các quan niệm về phong cách chưa hẳn đã giống nhau. Hơn nữa phong cách
chưa được coi là một tiêu chí quan trọng để đánh giá sự đóng góp của nhà văn,
và chính quan niệm này cũng phần nào hạn chế hứng thú tìm tòi, phát hiện ở nhà
nghiên cứu. Những năm gần đây giới nghiên cứu nói chung đã bắt đầu tiếp cận
tác giả, tác phẩm từ góc độ phong cách.
Trong các công trình nghiên cứu cụ thể như “Tìm hiểu phong cách Nguyễn
Du trong Truyện Kiều” của Phan Ngọc [83]; “Nhà văn - tư tưởng - phong
cách” của Nguyễn Đăng Mạnh [71]; “Một số vấn đề thi pháp học hiện đại” của
Trần Đình Sử [99]; “Từ ký hiệu học đến ngôn ngữ học” của Hoàng Trinh [111];
“Phong cách học tiếng Việt” của Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa [47];
“Văn học và học văn” của Hoàng Ngọc Hiến [27]… Khi đề cập tới khái niệm
này, các tác giả cũng đã đề xuất vấn đề dưới những hình thức khác nhau trong
cách hiểu về phong cách của mình. Trong các công trình đó, nhìn chung các tác
giả đều coi trọng các yếu tố hình thức trong tính thống nhất với nội dung tác
phẩm, đồng thời đề cao vai trò sáng tạo của cá nhân. Từ thực tế của các công
trình cụ thể, chúng tôi thấy rằng trong khi nghiên cứu một tác giả để tìm kiếm
phong cách nghệ thuật của họ trên cơ sở các định nghĩa, các nhà nghiên cứu đều
tùy thuộc vào đặc trưng riêng của nhà văn đó để thể hiện quan niệm về phong
cách của mình. Nói như thế cũng có nghĩa là điều mà luận văn quan tâm ở đây
chưa phải là tính khoa học hay tầm khái quát của các định nghĩa về phong cách;
điều quan trọng là qua những cách hiểu, hay từ các định nghĩa của các nhà lý
luận và các nhà sáng tác, người ta có thể xác định được đâu là những yếu tố hợp
nhất nên phong cách? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả Nguyễn Thành Thi trong
“Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam” đã đưa ra bốn cách trả lời khác
nhau, nhưng có thể bổ sung cho nhau như sau:“Một là: phong cách chỉ thuần túy
là vấn đề kỹ thuật hay cách thức biểu đạt, biểu hiện ở hình thức tác phẩm (tức là
phong cách chỉ biểu hiện ở hình thức, qua hình thức tác phẩm); hai là: phong
18
cách chủ yếu và trước hết biểu hiện qua ý thức nghệ thuật, qua cái nhìn, qua
cách cảm nhận thế giới độc đáo của nhà văn (phong cách chỉ biểu hiện ở nội
dung); ba là: phong cách biểu hiện cả ở nội dung, cả ở hình thức của tác phẩm;
bốn là: phong cách biểu hiện thành những đặc điểm hình thức nhưng những đặc
điểm này có nguồn gốc trong ý thức nghệ thuật của nhà văn, tức là hình thức có
tính nội dung.” [107]
Và theo bốn cách trả lời đó, tác giả cũng đã khẳng định “Ở nước ta cách hiểu
về phong cách thiên về cách (3) và (4), đặc biệt là cách (4)” [107].
Có thể thấy đây cũng là một quan niệm gần gũi với ý kiến của viện sĩ
Khrapchencô, ông cho rằng “Mỗi nhà văn có tài đều đi tìm những biện pháp và
những phương tiện độc đáo để thể hiện những tư tưởng và hình tượng của mình
(…) Nếu như dùng một công thức vắn tắt thì phong cách cần phải được định
nghĩa như thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như
thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả” [107].
Phong cách thường được định danh là những kiểu lựa chọn, những đặc điểm
hay những dấu hiệu hình thức được qui định bởi cái nhìn độc đáo hay ý thức
nghệ thuật của một nhà văn. Tác giả Phan Ngọc đã đưa ra quan niệm nghệ thuật
của mình như sau: “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ tất cả các kiểu lựa chọn
tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho
phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả. Nó
chứa đựng một cái nhìn đối với hiện thực” [83] hoặc “Phong cách (…) là một
cái nhìn(…) nó không phải đơn thuần là hình thức nhưng phong cách phải được
dựa trên hình thức thì nới tồn tại được” [83].
Tác giả “Từ điển thuật ngữ văn học” (1992) đã định nghĩa một cách đầy đủ:
“Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ chỉ sự thống nhất tương đối
ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói
lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ,
trong trào lưu văn học hay trong văn học dân tộc,… các dấu hiệu phong cách
dường như nổi lên trên bề mặt tác phẩm như là một thể thống nhất hữu hình và
19
có thể tri giác được tất cả mọi yếu tố cơ bản của hình thức nghệ thuật” [22]. Tác
giả Lê Ngọc Trà cũng đã đưa ra quan niệm của mình “Phong cách nói lên những
đặc điểm nào đó thuộc về hình thức của tác phẩm, các đặc điểm này có nguồn
gốc trong ý thức nghệ thuật của nhà văn” [107].
Quan niệm nào cũng có cơ sở lý luận riêng của nó. Nhưng xét trên yêu cầu
ứng dụng vào thực tiễn thì các quan niệm trên tự nó vẫn chưa sáng rõ, vẫn thiếu
những chỉ dẫn cần thiết cho việc xây dựng được một mô hình nhận thức khái
quát để có thể nghiên cứu phong cách nghệ thuật của từng nhà văn cụ thể, nhất là
khi những quan niệm này chưa được triển khai, minh hoạ ứng dụng đầy đủ.
Tìm hiểu phong cách nghệ thuật của một tác giả, chúng tôi không quan niệm
đơn thuần chỉ là nghiên cứu những yếu tố có tính chất hình thức, mặc dù hình
thức có vai trò cực kỳ quan trọng, hoặc ngược lại. Nhà văn chân chính sáng tác
theo quy luật của cái đẹp và phong cách chính là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng
như nghệ thuật, có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong tác phẩm.
Quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ không đơn thuần là việc lựa chọn, càng
không phải là việc thêm bớt những yếu tố mà là tổ chức chúng lại thành một cấu
trúc tinh vi và nhuyễn đến mức mà tất cả những dấu hiệu hình thức đều mang
tính nội dung và do đó, ngược lại tất cả nội dung đều được hình thức hoá. Một
tác phẩm nghệ thuật độc đáo không thể là một tác phẩm kém cỏi về cả hai
phương diện - hoặc một trong cả hai phương diện. Nội dung chỉ tồn tại bằng hình
thức và ngược lại. Một tác phẩm văn học hay là khi với nội dung đó, tác giả của
nó đã lựa chọn được một hình thức thích hợp để diễn đạt thành công nội dung.
Có những nhà văn gần nhau về tư tưởng có cùng một thế giới quan, cùng viết về
một đề tài, nhưng sản phẩm nghệ thuật đó như thế nào lại hoàn toàn tuỳ thuộc
vào hình thức mà nhà văn chọn, vào cái sở trường của mỗi nhà văn. Hiện thực
cuộc sống trở thành một văn bản nghệ thuật mà giá trị của nó được xác định bởi
toàn bộ các thành tố như: tình tiết, cốt truyện, nhân vật… trong một thể thống
nhất in dấu ấn riêng của mỗi nhà văn.
20
“Trong một tác phẩm nghệ thuật đích thực tất cả nội dung được chuyển hoá
vào hình thức và ngược lại” (Hêghen).
Như vậy phong cách nghệ thuật của nhà văn, suy cho cùng là “vấn đề cái
nhìn” (Macxen Prust), nhưng cái nhìn ấy phải toát lên từ tất cả các yếu tố hình
thức và nội dung của tác phẩm, từ hệ thống hợp nhất các tri giác về thực tế tiêu
biểu đối với nhà văn và phương pháp nghệ thuật của nhà văn ấy, nghĩa là cần
được tiếp cận “với tính cách một hệ thống cụ thể về hình thức và nội dung” (AX
Likhatsov, Grigôrian), toát lên từ một cấu trúc hữu cơ tất cả các kiểu lựa chọn
(Phan Ngọc) [107].
Trên tinh thần này luận văn sẽ khảo sát phong cách trên tất cả các yếu tố hình
thức và tất cả các yếu tố nội dung trong các tác phẩm của Kim Lân. Điều này
cũng có nghĩa là nghiên cứu phong cách VXNT Kim Lân, một mặt luận văn có
nhiệm vụ phải tìm cho ra những đặc điểm hình thức. Mặt khác, luận văn sẽ cố
gắng chỉ ra cho được những nhân tố qui định các đặc điểm của hình thức ấy -
những nhân tố thuộc về chiều sâu nội dung của sáng tác như ý thức nghệ thuật,
hay những nét độc đáo trong cái nhìn của nhà văn - tức là chỉ ra các đặc điểm
hình thức ấy có “tính nội dung”, “tính quan niệm” như thế nào?
Theo định hướng của nội hàm khái niệm như vậy, luận văn sẽ dành hai
chương đầu trình bày kết quả nghiên cứu những yếu tố thuộc về nội dung mang ý
thức nghệ thuật, cái qui định phong cách nghệ thuật của nhà văn (chương 1,
chương 2); chương còn lại trình bày các biểu hiện cụ thể của phong cách nghệ
thuật qua các đặc điểm về hình thức VXNT Kim Lân (chương 3).
1.1.2. Khái niệm về quan niệm nghệ thuật
Tiếp cận phong cách và giá trị nghệ thuật trong sáng tác của một nhà văn,
người ta không thể không tìm kiếm, xác định, trước hết là quan niệm nghệ thuật
của nhà văn ấy (quan niệm về công việc viết văn, về con người, về thế giới).
Tất cả các quan niệm của nhà văn suy cho cùng là thuộc về ý thức nghệ thuật,
nó bao hàm cái nhìn độc đáo của nhà văn ấy, về con người (và về thế giới). Theo
nguyên tắc mà nói, nhà văn nhìn con người và thế giới như thế nào thì sẽ mô tả
21
như thế ấy trong các sáng tác của mình. Tìm hiểu cái nhìn ấy (và rộng hơn là ý
thức nghệ thuật của nhà văn) cần phải lưu ý mấy điều có tính nguyên tắc:
Thứ nhất, đây là cái nhìn mang tính mỹ học, tính triết luận trước thế giới và
con người, một cái nhìn, nói như Trần Đình Sử “Cung cấp một mô hình nghệ
thuật về thế giới có tính chất công cụ để thể hiện cuộc sống cần phải có mang
tính khuynh hướng khác nhau” [99]; cái nhìn ấy có khả năng mở ra theo nó cả
một thế giới nghệ thuật riêng biệt độc đáo của nhà văn [107].
Ngoài ra, khi nghiên cứu khảo sát phong cách nghệ thuật Kim Lân trên bình
diện quan niệm nghệ thuật về con người (và thế giới), luận văn cho rằng, vấn đề
không chỉ là đề xuất các luận điểm, miêu tả đặc trưng quan niệm nghệ thuật của
nhà văn mà còn góp phần chỉ ra các chiều hướng quan hệ chi phối lẫn nhau giữa
các đặc điểm ấy. Trong đó việc nhìn sâu vào đời sống tâm tư tình cảm, hoàn cảnh
sống của con người và việc tìm kiếm cái đẹp của phong tục văn hoá làng quê
theo quan niệm của ông, có một ý nghĩa rất đặc biệt.
1.2. Quan niệm về con người và về cái đẹp của phong tục văn hoá làng quê
1.2.1. Quan niệm về con người
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất Kinh Bắc giàu truyền thống văn hóa, văn vật lại
gắn với những con người tài hoa, nhân hậu, có lẽ, con người Kim Lân suốt từ
tuổi thơ đến khi cầm bút đã ảnh hưởng rất nhiều. Từ nhỏ Kim Lân được coi là
người có hoa tay, vẽ giỏi và lại là người rất thích đóng kịch. Ông đã từng đóng
vai Giuốc - đanh trong hài kịch “Môlie”, vai Cả Khiết, cụ Bá trong vở “Cái tủ
chè” của Vũ Trọng Can, lão Hạc trong “Làng Vũ Đại ngày ấy” của Phạm Khoa
Văn… Mặc dù, những năng khiếu đó không thuộc về sáng tác văn chương,
nhưng tất cả đều là nghệ thuật, đều thuộc về tư chất nghệ sĩ. Có điều là do hoàn
cảnh riêng, Kim Lân không thể thực hiện được năng khiếu theo sở thích của
mình mà ông buộc phải bỏ học giữa chừng, học nghề sơn guốc để kiếm sống.
Kim Lân đã tâm sự về cuộc đời mình như sau: “Tôi không được học đến nơi đến
chốn. Đang học lớp nhất ở trường huyện thì bố tôi mất, tôi bỏ nhà xuống Hải
Phòng tìm việc làm, không được lại quay về làng. Tôi đi học nghề sơn guốc của
22
một ông hoạ sĩ làng bên. Trong sự rẻ rúng của gia đình, nhiều bạn bè đồng học
vẫn đi về đèn sách nhởn nhơ, tôi buồn bực vô cùng. Đúng ra là tự ái (…) “Ta
cũng chẳng kém gì các người”. Trong làng tôi lúc đó có một đám bạn cũng ham
thích văn chương.Chúng tôi thường tụ tập trao đổi với nhau về văn chương sôi
nổi lắm” [65]
Đây cũng chính là lý do trực tiếp khởi đầu con đường sáng tác của nhà văn.
Điều này cũng là sự tự khẳng định mình của Kim Lân - viết văn là vì tự ái, vì
muốn thoát khỏi tình trạng bị xem thường, “rẻ rúng”, “như một cách đòi cho
mình một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé quẩn quanh ở quê
hương”- nói như nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá mà phần lịch sử vấn đề đã nêu
[95] và đây cũng chính là một tâm nguyện, một sở nguyện chân thành, đẹp đẽ
của Kim Lân. Phải chăng vì thế mà các sáng tác của ông đã tập trung ở hai mảng
đề tài lớn: Cuộc sống và tâm tư tình cảm của những con người nghèo khổ được
gọi là những con người “đầu thừa đuôi thẹo” ở nông thôn; Phong tục văn hoá
làng quê với những thú chơi tao nhã, “phong lưu đồng ruộng”.
Cả hai mảng đề tài này đều có một sự thống nhất dẫn đến sự thành công trong
sáng tác của Kim Lân. Điều này cũng dễ hiểu vì Kim Lân là một nhà văn rất yêu
quê hương của mình, ông sống gắn bó, gần gũi với cuộc sống bình dị ở nông
thôn, đặc biệt là ông rất yêu thương và rất quý trọng con người. Lúc nào ông
cũng nghĩ đến cái cốt lõi của con người là tốt, là bản tính thiện. Mặt khác trong
cái nhìn của ông, ông hiểu văn hoá không chỉ là “đất lề quê thói” mà còn là
“ứng xử đạo lý”. Do đó ông đã rất chủ động trong việc xử lý đề tài, nhân vật,
không bị vướng víu vào một định kiến nào. Tất cả, tất cả đều hướng vào vẻ đẹp
của con người và sự sống nói chung.
Con người là sản phẩm tuyệt vời của tạo hoá, là trung tâm của đời sống xã
hội. Từ xưa đến nay văn học thường lấy con người làm đối tượng để phản ánh
cuộc sống xã hội. Duy có điều ở mỗi thời đại, con người trong văn học được nhìn
nhận dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Hơn nữa, một trong những chức năng của
văn học là phản ánh cuộc sống, mà trung tâm của bức tranh cuộc sống là con
23
người. Con người vừa là đối tượng vừa là mục tiêu mà văn học hướng đến. Văn
học có những đặc trưng riêng của mình cho phép nó đi sâu vào việc nhận thức
khám phá những giá trị của con người bằng hình ảnh âm thanh… làm cho con
người được nhìn nhận một cách hoàn hảo hơn về những nỗi đau, những niềm
hạnh phúc và các khía cạnh khác trong mối quan hệ với cuộc sống. Bất kỳ nền
văn học nào cũng quan tâm đến con người, đến tình cảm và số phận con người
với một sự cảm thông chia sẻ. Điều đó đã tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc trong
văn học. Giá trị đó tất nhiên sẽ được thể hiện qua nhãn quan của nhà văn về con
người. Do đó con người trong tác phẩm văn học cũng chính là cảm nhận chủ
quan của nhà văn về con người trong cuộc sống, nhìn nhận con người theo quan
niệm riêng của mình thông qua phương tiện nghệ thuật.
Cũng như những nhà văn khác, Kim Lân luôn hướng ngòi bút của mình để đề
cao con người của quê hương, nhưng Kim Lân lại tìm kiếm cho mình một góc
riêng, nhất quán suốt cả đời văn của mình là sự trải nghiệm bằng chính cuộc đời
mình. Hơn nữa, ông là nhà văn của nông thôn từng có những sáng tác viết về đề
tài nông thôn khá nổi tiếng, nhiều người đã gọi ông là nhà văn viết về nông thôn
ở ý nghĩa ông đã từng phát hiện ca ngợi con người ở nông thôn với những tình
cảm hết sức tốt đẹp. Ông từng đặt ra những vấn đề về cuộc sống và con người ở
nông thôn. Có thể nói là ông đã nhìn nhận đúng về bản chất con người, đã có
những phát hiện và những cảm nhận sâu sắc, tinh tế về con người, về phẩm chất
con người và cuộc sống của con người ở nông thôn làng quê Bắc bộ. Thật ra còn
một Kim Lân khác về đề tài này: Kim Lân của phong tục văn hoá làng quê Bắc
bộ. Đó cũng chính là “sợi dây ràng buộc giữa những thành viên trong cộng đồng
làng xã qua sinh hoạt văn hoá, qua phong tục tập quán” [49].
Và trên hướng đó, VXNT Kim Lân đề cao con người nhưng con người ở đó
được soi chiếu vừa trong mối quan hệ tình cảm giữa con người với con người,
vừa trong quan hệ giữa con người với con vật nuôi, với thiên nhiên. Có thể xem
đây là một đặc trưng riêng của Kim Lân.
24
Cái đặc tính rất riêng ấy của con người ở nông thôn làng quê Bắc bộ trong
VXNT Kim Lân đã bộc lộ rất đậm, rất rõ ở nhiều góc độ, ý nghĩa.
Trước hết, đọc truyện ngắn Kim Lân, người đọc dễ dàng nhận ra các mảng
đời sống riêng mà ông đề cập đến trong suốt đời văn của mình.
Những truyện ngắn đầu tay của ông thiên về đời tư của ông cùng với những
kiếp người nghèo khổ ở làng quê Bắc bộ “Những truyện tôi thích và cũng được
nhiều người thích đều là những cái tôi viết về chính mình, về làng xóm mình,
người thân mình” [98]. Điều này chúng ta có thể thấy rất rõ qua những tác phẩm
đầu tay của ông trước Cách mạng tháng Tám như Đứa con người vợ lẽ, Người
kép già, Cơm con, Nỗi này ai có biết, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa, Cô Dí…
Những truyện tiếp theo, Kim Lân chú tâm tới phong tục văn hoá dân gian. Ông
đã sử dụng phong tục văn hoá như một tiêu điểm để khám phá phản ánh đời
sống, xã hội, con người, tạo nên tính chất cụ thể nhưng sinh động qua bức tranh
đời sống, xã hội, con người ở nông thôn. Với mảng văn học này, nhà văn nhằm
khẳng định sự phong phú của tâm hồn người nông dân Việt Nam cùng tài năng
và sự khéo léo của họ trong đó đề cập đến tình người, quan hệ giữa con người
với con người trong gia đình, họ mạc, trong làng xóm, cộng đồng: Con mã mái,
Đôi chim thành, Chó săn, Đuổi tà, Tông chim Cả Chuống…
Có thể nói lòng yêu thương ưu ái đối với con người cũng như niềm suy tư về
thân phận con người luôn là sự quan tâm hàng đầu của các nhà văn. Đối với Kim
Lân cũng thế, dù viết về đề tài nào, ông cũng hướng về con người, ông luôn chú
ý tới các khía cạnh tốt đẹp của họ, đặc biệt là ông đã luôn nhấn mạnh tới tình
người. Với ông tình người chính là cái lõi để gắn kết con người, gắn kết cộng
đồng, giữ gìn nhân phẩm trong những khó khăn bão táp của cuộc đời. Có lẽ vì
thế mà Kim Lân muốn tạo dựng trong các tác phẩm của mình cái truyền thống
đạo lý tình nghĩa của con người Việt Nam. Đó chính là cái đạo lý làm cha, làm
mẹ, làm vợ, làm con cái… Trong tất cả các mối quan hệ đó, ông muốn con người
lúc nào cũng phải “cho ra người”. Khi xây dựng các mối quan hệ tình cảm trong
truyện của mình, Kim Lân đặc biệt chú ý tới quan hệ tình cảm trong gia đình.
25
Điều này, cũng có nghĩa là ông chú ý tới quan hệ hạt nhân giữa con người với
con người. Ông xoáy sâu vào các quan hệ trong gia đình như giữa cha mẹ với
con cái, giữa vợ với chồng, giữa anh với em… để khẳng định những tình cảm tốt
đẹp, sâu đậm giữa con người với con người.
Đó cũng chính là tình cảm của ông Cả Nhiêu trong “Cơm con”. Vợ chết sớm,
với thân gà trống nuôi con, ông Cả Nhiêu đã hy sinh cả tuổi xuân của mình để
nuôi nấng hai đứa con nên người, không bao giờ ông dám nghĩ đến việc bước
thêm bước nữa, bởi lẽ ông “sợ con khổ vì cảnh mẹ ghẻ con chồng” [65]. Có thể
nói đó là một người cha suốt cả đời chỉ yêu thương lo lắng và hy sinh cho con
cái. Đó cũng là tình cảm của ông Tư Mủng trong “Bố con ông gác máy bay trên
núi Côi kê”. Tình cảm của ông Tư Mủng đối với con mình không gì có thể sánh
nỗi, đứa con như là một báu vật, như là một nguồn sáng đối với ông “từ cái
khuôn mặt trẻ thơ sáng rực lên một niềm tin, một nguồn an ủi làm dịu đi những
đau khổ, tủi nhục cay đắng hàng ngày” [65]. Và thật sự cảm động khi ta đọc
truyện ngắn “Người chú dượng”, Kim Lân đã phác họa được cái tình người qua
tấm lòng của ông Mộc gù thương vợ, thương con. Ông Mộc gù đã âm thầm chịu
đựng những đau đớn vất vả, oan ức mà người vợ phải lòng trai đã gây ra. Vậy mà
“Anh đỏ Mộc nát ruột nát gan, không hiểu sao lúc ấy anh lại càng thấy thương
yêu vợ mình. Anh nghĩ: chẳng qua là vợ anh nó dại, nó cả nghe người. Với lại vợ
chồng ăn ở với nhau bằng ấy năm giời, đem nhau từ quê lên đây làm ăn, không
lẽ mỗi lúc bỏ nhau? (…) Thôi thì, vợ mình trước sau vẫn là vợ mình, bới xấu ra
làm gì cho thêm tan nát...
Ngày ấy không có đứa con thì tôi cũng muốn chết quách cho rồi anh ạ.
Thương nó mình phải sống mà nuôi nó” [65]. Tình người quả thật là sâu đậm!
Đặc biệt hơn, trong các mối quan hệ của tình cảm gia đình, Kim Lân còn
quan tâm chú ý tới vị trí vai trò của người phụ nữ. Người phụ nữ Việt Nam luôn
là niềm tự hào của mọi thời đại. Hình ảnh của họ đã đi vào lòng người với biết
bao vẻ đẹp hết sức giản dị, mang cốt cách của con người Việt Nam qua ca dao cổ
tích, thơ ca… Giờ đây người phụ nữ lại có mặt trong những trang văn xuôi của
26
Kim Lân với dáng vẻ hết sức tự hào: những tình cảm đằm thắm thiết tha với
chồng, với con, với làng xóm láng giềng, những hy sinh chịu đựng, những cố
gắng vượt qua vất vả nhọc nhằn… Tất cả như càng làm sáng lên vẻ đẹp của
người phụ nữ Việt Nam. Đó là bà mẹ của Tư (Đứa con người vợ lẽ), Tần (Trạng
Vật), cô Vịa (Cô Vịa), dì Bản (Người chú dượng), bà cụ Tứ, người vợ nhặt (Vợ
nhặt), Nhâm (Chị Nhâm), Hoà (Nên vợ nên chồng), bà Cẩn (Bà mẹ Cẩn)…
Xâu chuỗi tất cả các truyện mà Kim Lân viết về người phụ nữ người đọc có thể
thấy rất rõ vẻ đẹp tình người của con người trong mọi hoàn cảnh. Tiêu biểu là
tình yêu thương bao la cùng với tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ trong
“Vợ nhặt”. Bà đã sẵn sàng cưu mang, đùm bọc một người đàn bà xa lạ đói rách
về làm dâu bà, làm vợ anh Tràng - con trai của bà. Câu nói “Thôi thì các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”, thật ngắn gọn, giản dị nhưng
đã toát lên tấm lòng vị tha cao quý của bà. Tình thương ấy còn thể hiện trong
những hành vi ý nghĩ rất cụ thể, từ việc bà cho phép con trai kiếm cái phên nứa
ngăn riêng chỗ của vợ chồng con cho kín đáo, chuyện “khi nào có tiền ta mua
lấy đôi gà” đến những ước mơ xa vời hơn mà cũng đớn đau hơn về một ngày
“Rồi may ông giời cho khá… có ra thì rồi con chúng mày về sau”. Có thể nói bà
đã hội tụ tất cả vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam - một người mẹ già nua,
nghèo khó nhưng lại giàu lòng nhân hậu vị tha, luôn yêu thương con cái và luôn
lạc quan tin tưởng vào tương lai. Người mẹ ấy rõ ràng là chỉ sống vì con, hy vọng
cho lớp con cháu, tìm thấy ý nghĩa của đời mình trong sự chăm lo vun vén cho
con, ước mơ cho con. Tấm lòng cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói chung
là thế đấy!
Khi viết về phong tục làng quê với những thú chơi tao nhã, “phong lưu đồng
ruộng”, Kim Lân chỉ tập trung xoay quanh nét sinh hoạt văn hoá tinh thần của
những người dân quê. Nhưng rõ ràng đọc sâu, ngẫm kĩ ta mới thấy ẩn đằng sau
những câu chữ ấy là khám phá, phát hiện của nhà văn về giá trị văn hoá cổ truyền
của dân tộc mà trong đó có tình cảm con người hiện lên rất rõ.
27
Truyện “Con mã mái” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Kim Lân viết
về đề tài phong tục. Toàn bộ nội dung của truyện, Kim Lân chỉ tập trung xoay
quanh nét phong tục sinh hoạt văn hoá tinh thần của những người dân ở chốn
thôn quê với thú chơi hết sức tao nhã. Ví như thú chọi gà của ông Cả Chuẩn:
“ông mê đến nỗi chẳng thiết làm ăn gì cả chỉ khổ bà Cả và cô Tưởng. Hai mẹ
con đầu tắt mặt tối ngược xuôi, tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình” [65]. Cứ ngỡ
rằng ông Cả Chuẩn ham mê chọi gà như vậy thì vợ con ông sẽ dễ dàng có phản
ứng với ông. Họ có thể cho ông là người ham chơi lười nhác, sẽ mặt nặng mày
nhẹ với ông. Ấy vậy mà không, ông Cả Chuẩn cứ việc “mê thích chọi gà”, còn
hai mẹ con bà Cả cứ việc “tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình”. Có được sự êm ấm
hoà thuận như vậy là nhờ họ hiểu được sở thích của ông Cả Chuẩn và chiều theo
ông. Thậm chí khi mua gà vào ban đêm: “…rồi cứ cầm gà trên tay đi vào buồng
nâng đầu vợ gọi:
- Này! Này! Đưa mượn tạm năm đồng.
Bà Cả oặn oại, ậm ờ, giọng khê nồng nặc:
- Bây giờ còn lấy tiền làm gì?
Ông phát bẳn:
- Có việc chứ còn làm gì nữa? Hỏi lẩn thẩn mãi!
Bà Cả đành phải đấu dịu. Bao giờ ông gắt bà cũng phải đấu dịu như thế:
- Ở cái bao trong bồ hàng ấy. Lấy đúng năm đồng thôi nhé!” [65]
Có thể nói sự dịu dàng, chiều chồng của bà Cả Chuẩn như thế đủ thấy gia
đình bà sống rất giàu tình người. Tình cảm gia đình giữa họ thật sâu đậm vô
cùng.
“Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật” cũng là một truyện ngắn như
thế. Ở đây Kim Lân chỉ tập trung miêu tả cảnh đấu vật “tranh hùng quyết liệt”
với không khí tưng bừng trong các ngày hội vật của những đô vật kỳ tài vang
danh khắp thiên hạ. Nhưng ẩn sau cảnh và việc là tình cảm của một người mẹ
suốt đời tần tảo, vất vả, chuyên cần làm việc để cố lo cho con, mong cho “sau
này không đến nỗi đần ngu vô dụng” [65]. Truyện cũng thể hiện tình cảm của
28
một người cha lần đầu tiên gặp gỡ con mình - sự gặp gỡ giữa Đức Thái Tông
Trần Cảnh với Trạng Sặt. Ấy là khi tranh hùng với Trạng Kế, Trạng Sặt lâm vào
thế nguy đến nỗi “Có tiếng người cùng sân với Trạng Sặt thét: - Thôi chịu thua
đi Sặt ơi không chết mất”. Nhưng Trạng Sặt vẫn cố sức chống trả, chiếc khăn võ
sinh bị tuột, chiếc khăn vàng khác rơi theo khiến cho Trần Cảnh nhìn thấy “mảnh
áo làm tin” ngày xưa “Ngài tái mặt hẳn đi, vội vàng xuống lệnh hoãn cuộc thi
đấu để cứu nguy cho đứa con chưa hề biết mặt (…). Đức Thái Tông Trần Cảnh
ôm ghì Sặt trong lòng. Hai mắt đẫm lệ” [65]. Tình cảm cha con, tình cảm gia
đình quả là có sức mạnh khác thường, làm xúc động lòng người.
Tình cảm của con người trong truyện ngắn Kim Lân không dừng lại ở mối
quan hệ của những con người trong phạm vi gia đình mà nó còn mở rộng ra ở
phạm vi cộng đồng. Đó chính là tình cảm của con người với bà con, họ mạc, làng
xóm, quê hương. Đọc “Đôi chim thành”, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra điều này.
Ông Trưởng Thuận - một người say mê với thú chơi chim câu và rất quý chúng,
nên ông không bao giờ dám thả chim trong điều kiện thời tiết xấu, như thế, sẽ có
hại cho chim. Hơn nữa, ông rất quý đôi chim thành vì nó đã giúp ông giành được
“thành tích chưa từng có” thì không dễ gì ông lại thả những con chim của mình
lúc trời không được đẹp. Thế mà khách đến chơi nhà ông - những người cũng có
thú chơi như ông, toàn là những người “sành chơi” cả và họ đã đề nghị ông thả
chim trong điều kiện thời tiết “xấu trời lắm: vừa oi, vừa gió tây”. Nhưng vì tình
người mà ông đã đáp ứng yêu cầu của khách - thả chim cho họ xem mặc dù trong
thâm tâm ông vẫn hơi ngần ngại.
Còn trong truyện “Ông Cản Ngũ” thì nội dung câu chuyện xoay quanh việc
mô tả các đô vật có tiếng tăm trong thiên hạ. Ông Cản Ngũ là đô vật vô địch xứ
Bắc. Ông về hội vật đền Đô và ông đã chiến thắng dễ dàng đô vật Quắm đen.
Trong suốt mấy ngày không có ai dám ra vật với ông Cản Ngũ “nhưng trong keo
vật với cụ Cả Lẫm, ông Cản Ngũ đã bị năm đầu ngón tay cứng như cái vuốt sắt
của cụ Cả Lẫm quặp chặt lấy xương quai xanh… toàn thân ông Cản Ngũ đã run
lên bần bật… Ông Cản Ngũ hoàn toàn lệ thuộc vào sự điều khiển theo ý muốn
29
của cụ Cả Lẫm…”. Cản Ngũ sắp thua, nhưng cũng đúng vào thời điểm ấy, cụ Cả
Lẫm đã tha cho ông Cản Ngũ. Chính ông Cản Ngũ đã nói lên điều đó: “Một ông
đô vật dày dạn, lỗi lạc như cụ, không khi nào để tôi thoát khỏi miếng vật hiểm
nghèo ấy một cách quá dễ dàng như thế… Đúng là cụ tha cho tôi keo vật ấy”.
Còn cụ Cả Lẫm thì lại nghĩ “Khi phải đánh những miếng hiểm độc đã là hạ sách
rồi… huống chi ông Cản Ngũ tiếng là đô vật, nhưng ông lại là một ông tướng
nghĩa quân của quan Tán, có nên vì một keo vật mà làm hại một người bấy lâu vì
dân vì nước không?” [65]. Với suy nghĩ như thế, rõ ràng cụ Cả Lẫm đã vì tình
cảm của con người với cộng đồng dân tộc mà chịu thua không nỡ hại ông Cản
Ngũ.
Đó cũng là tình cảm của Đoàn trong “Ông lão hàng xóm”, của ông Hai trong
“Làng”, của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt”… Rất nhiều, rất nhiều…, nếu xâu chuỗi
tất cả các truyện ngắn của Kim Lân chúng ta sẽ thấy con người luôn tốt và cái tốt
đó có thể biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong mỗi hoàn cảnh cụ thể thì
cái tốt đó sẽ mang đậm tính nhân văn cao cả của nhà văn bởi nó đã thể hiện được
cái tình cảm sâu nặng nhất giữa con người với con người.
Có thể nói mỗi tác phẩm của các nhà văn đều là phát ngôn về tư tưởng đối với
con người và cuộc sống. Ông luôn có ý thức đứng về phiá những người nghèo
khổ bị lép vế trong xã hội cũ. Nhưng lại có một sự khác biệt khá rõ là con người
trong tác phẩm của Kim Lân, họ không chỉ ngồi trong nhà, trên giường, trong
bếp, nơi đầu hè hay một xó vườn hoang - vợ chồng, cha con, mẹ con, hoặc một
đôi tình nhân bị đời hắt hủi tâm sự với nhau nếu không phải là một mình đối diện
với mình. Mà hầu như, họ có mặt ở khắp mọi nơi trong môi trường xã hội ở làng
quê nông thôn Việt Nam. Kim Lân tuy viết ngắn, viết ít, viết về những chuyện
đời tư, đời thường, những chuyện vụn vặt hàng ngày trong quan hệ cá nhân nhỏ
hẹp ở làng quê nông thôn, nhưng nhà văn lại soi vào đấy ánh sáng của những tư
tưởng lớn bằng một trí tuệ sâu sắc và một tấm lòng nhân đạo bao la. Đây cũng
chính là một cái nhìn thật mới mẻ, thật nhân hậu của nhà văn về người nông dân
- những con người dù trong hoàn cảnh lay lắt, nghèo đói khốn cùng nhưng họ
30
vẫn yêu thương, vẫn cưu mang, đùm bọc lẫn nhau và vẫn luôn lạc quan, tin tưởng
hướng về cách mạng, về một tương lai tươi sáng hơn. Điều này đã khẳng định
truyện ngắn của Kim Lân có nội dung rộng lớn và sâu sắc.
Tiếp đến, ta có thể thấy con người luôn là đề tài vô tận trong sáng tác văn
chương. Những nhà văn lớn đều là những nghệ sĩ có trái tim giàu lòng yêu
thương luôn thấu hiểu và rung động trước cuộc sống của con người ở mọi lúc,
mọi nơi, mọi hoàn cảnh, mọi khía cạnh. Có lẽ vì thế mà trái tim của Kim Lân
không chỉ cảm nhận được tình người sâu đậm giữa con người với con người, mà
bằng sự quan sát khá tinh tế, ông còn thấy được cả những tình cảm chân thành
của con người đối với con vật nuôi của mình, đối với thiên nhiên cây cối.
Con người trong sáng tác của Kim Lân đều là những người nông dân gắn liền
với cuộc sống làng quê qua những thú chơi tao nhã “phong lưu đồng ruộng” như
chơi gà chọi, chơi chim… Cho nên phần nào tình cảm giữa con người và con vật
nuôi luôn gần gũi, đằm thắm sâu đậm thật sự. Họ quan tâm, lo lắng cho các con
vật nuôi của mình khi nó bị ốm đau, họ buồn phiền khi nó thi đấu kém hiệu quả
và họ lại vui vẻ hồ hỡi khi nó khoẻ mạnh chiến thắng trong ngày hội….
Đọc truyện “Con mã mái” người đọc sẽ thấy rõ điều này. Ông Cả Chuẩn
“suốt ngày chỉ lăn lóc với gà. Ngay từ mờ sáng, chưa dậy được, nằm trên giường
ông đã để ý xem hôm nay con Chuối gáy mấy tiếng, con Bạch Nhạn gáy mấy
tiếng được mạnh khoẻ không?” [65]. Còn khi con gà bị ốm thì “… ruột gan ông
Cả Chuẩn rối bời lên chạy thuốc cho hai con gà. Đứng không yên, ngồi không
yên ai mách lối nào ông cũng làm” [65]. Chạy chữa mãi mà hai con gà quý của
ông vẫn chưa khỏi “Cả Chuẩn như mất hồn, trong người sút hẳn đi, phờ phạc,
xanh xao suốt đêm không ngủ” [65]. Tình cảm của ông Cả Chuẩn đối với hai con
gà mà ông nuôi chẳng khác gì tình cảm người cha đối với đứa con thân yêu của
mình. Ông thật sự đã chăm chút, lo lắng cho chúng như đối với một con người
thực thụ cả khi chúng khỏe mạnh lẫn khi chúng ốm đau, bệnh tật.
Với “Đôi chim thành” cũng thế. Ông Trưởng Thuận cũng hết sức yêu quý đàn
chim câu của mình. Ông đã phát sốt lên khi đàn chim câu của mình bị gió đánh
31
bạt đi. Còn khi đàn chim bay trở về, “Ông Trưởng đang rên hừ hừ, vùng trở dậy,
run lẩy bẩy chạy ra sân, miệng hỏi: - Đâu! Thật không? (…) hai mắt của ông
sáng lên vì sung sướng. Cặp môi héo của ông nở một nụ cười rất tươi” [65].
Không phải chỉ nhằm vào các lễ hội hoặc những thú chơi tao nhã thì con người
mới có tình yêu đối với con vật nuôi như vậy. Tình yêu đó thể hiện ở mọi lúc mọi
nơi. Thật là cảm động khi chúng ta hiểu và chia xẻ tấm lòng nhân vật xưng “Tôi”
trong truyện “Con chó xấu xí”. Sau khi nghe vợ của mình kể về chuyện con chó
xấu xí đã lê lết về nhà để gặp chủ trước khi chết, anh ta vừa thương xót vừa xấu
hổ vì cảm thấy ăn năn với những sự việc, những hành động mà mình đã đối với
con chó: “Tôi tối sầm mặt lại, vừa thương xót con chó vừa cảm thấy xấu hổ. Quả
thật tôi chỉ là một thằng tồi. Một thằng ích kỷ. Tôi chỉ nghĩ đến mình và vợ con
mình. Đến như con chó mình nuôi mình đối xử với nó có được như cái tình nghĩa
của nó đối với mình đâu” [65]. Lời của “Tôi” rất thành thật cảm động. Một sự
hối lỗi muộn màng, nhưng đó là tình cảm của con người đối với con chó mà
mình đã nuôi chẳng khác là bạn với tình cảm mà con người vẫn dành cho nhau.
Chơi cây cảnh cũng là một thú vui tao nhã của người dân thôn quê. Ông Cả
Chuẩn chơi cây cảnh chẳng qua rượu say tức đời đem câu “danh lợi bất như
nhàn” hay “bần thanh còn hơn trọc phú” ra an ủi mình và để lên mặt khinh đời.
Nghĩa là khinh mấy ông giàu có trong làng mà ông cho là những người keo bẩn,
thô tục, không bao giờ hiểu được cái nhàn nhã như ông. Miêu tả thú chơi cây
cảnh của Cả Chuẩn, Kim Lân cũng đã ngầm nói lên một điều: người nông dân
tuy còn nghèo khó nhưng họ là những con người có tình cảm, có tình yêu thiên
nhiên cây cỏ. Chính tình yêu thiên nhiên cây cỏ này đã góp phần tạo nên sự
phong phú trong đời sống tinh thần của người dân thôn quê.
Yêu vật nuôi vốn là bản tính của người nông dân. Tình yêu này vừa bộc lộ sự
phong phú của tâm hồn, lại vừa tạo ra sức mạnh cho người nông dân vượt qua
những khó khăn gian khổ. Đồng thời Kim Lân cũng muốn khẳng định cùng
người đọc: những người nông dân của ông luôn có những tình cảm hết sức trong
sáng, lành mạnh. Họ đáng để chúng ta tin yêu trân trọng.
32
Trong truyện “Con mã mái”, Kim Lân chú ý đến một khía cạnh nữa trong
tình cảm của con người. Đó là tình yêu thiên nhiên. Tác giả đã miêu tả vườn cây
cảnh của ông Cả Chuẩn một cách tỉ mỉ, tường tận. Mặc dù không gian rất nhỏ
hẹp nhưng vì yêu thiên nhiên, yêu cây cảnh mà ông Cả Chuẩn đã cố bày biện nó
cho ra vẻ một cái vườn cây cảnh: “Giàn thiên lý chính giữa thấp lè tè, cành lá
xum xuê che chiếc bể cạn thả cá vàng và bốn chậu lan đặt trên đôn sứ cũ kỹ, sứt
mẻ: hai chậu bạch ngọc và hai chậu nhất điểm. Trong bể, kê một hòn non bộ sần
sùi, gân guốc; cỏ tóc tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu bí mật đối với bọn
người sành bé nhỏ (…)”. Và ông đã say mê hào hứng kể cho mọi người nghe về
thú chơi, niềm đam mê thiên nhiên, cây cảnh của mình “…những người sành này
tôi gửi mua tận chợ Đồng Xuân ngoài Hà Nội, toàn là sứ tàu cả; lại còn cây si
này nữa. Ông thử ngắm kỹ mà xem: kiểu long cuốn thủy đấy!… Này nhé cái gốc
là cái đầu vục xuống uống nước này. Hai vấu này là hai con mắt này. Cái thân
uốn éo như hình con rồng cuộn khúc này. Cái tán ở trên xòe là cái đuôi này. Còn
cây nhỏ dưới gốc là cây tử này. Chơi cây phải có mẫu có tử mới không sái, ông
ạ!” [65].
Như vậy, ta thấy rất rõ mảng sáng tác này của Kim Lân không chú ý đề cập
đến mâu thuẫn xã hội. Ông đã cho thấy một mặt khác của đời sống tồn tại bền
chặt qua nhiều đời. Hóa ra, ở người dân quê không chỉ có lam lũ nhọc nhằn “bán
lưng cho đất, bán mặt cho trời”, ở họ còn ánh lên những vẻ đẹp tinh thần với
những tình cảm sâu sắc giữa con người với con người, với thiên nhiên và con vật
nuôi.
Qua mối quan hệ giữa con người và con người, con người và con vật nuôi,
thiên nhiên chúng ta đã thấy được ý đồ nghệ thuật của Kim Lân chính là để con
người hiểu con người, và sau đó, cũng là để con người hiểu tự nhiên, lịch sử.
So với cách nhìn về người nông dân và nông thôn ở trong các sáng tác của
thời kỳ trước đó thì với cách nhìn của Kim Lân là một sự trưởng thành của nhà
văn. Người nông dân, trong sáng tác của ông cũng là những người lao động bình
thường ở làng quê nông thôn với những thuộc tính giai cấp, xã hội và bản chất
33
lao động của mình. Cách nhìn đó đã trả lại giá trị đích thực cho người nông dân.
Nhưng chân dung con người của Kim Lân rất khác so với những nhà văn khác
cùng thời, trước đó. Điều này có thể khẳng định rằng: con người trong sự miêu tả
của nhà văn là một trong những tâm điểm, mà qua đó phong cách của nhà văn
được thể hiện sáng rõ hơn hết. Chính nguyên tắc miêu tả con người trong con
người đã cung cấp chìa khoá để giúp ta hiểu được phương pháp sáng tạo của
nghệ sĩ. Thường các nhà văn lớn đều hướng ngòi bút của mình tìm đến con người
theo nhiều góc nhìn khác nhau. Nhưng mục đích cuối cùng vẫn là để hiểu con
người hơn. Đó chính là nguyên nhân làm nên tính vĩnh hằng của tác phẩm văn
học, cũng là lý do để ta hiểu được khả năng tiếp nhận của công chúng đối với bất
kỳ một đề tài nào. Tính độc đáo của Kim Lân được thể hiện không chỉ ở đề tài
quen thuộc phổ biến trong nghề mà còn ở khả năng, nói như Lê Lựu “nhìn đâu
cũng ra truyện ngắn”. Khả năng ấy là khả năng tiếp cận con người trong đời
thường. Từ những câu chuyện tưởng không có gì đặc biệt, ông vẫn tìm ra các
khía cạnh khác nhau của thế thái nhân tình, một cảm nghiệm sâu sắc về đời sống.
Chính vì thế mà với những đề tài tưởng như là nhỏ nhưng vấn đề của truyện vẫn
mang một tầm vóc nhất định. Con người trong cái nhếch nhác, lầm lũi của đời
thường, vẫn cặm cụi, lặng lẽ làm nên các giá trị, vẫn nhân hậu, đằm thắm. Con
người đặt vào những thử thách nghiệt ngã của hoàn cảnh, của sự sống và cái chết,
phẩm chất Người vẫn hiện lên một vẻ đẹp nhuần nhị, sâu sắc… Đó là cái nhìn
mang tính phát hiện của Kim Lân. Đây cũng chính là nét riêng của Kim Lân so
với các nhà văn khác.
1.2.2. Quan niệm về cái đẹp của phong tục văn hoá làng quê
Goethe đã từng nói: “Sáng tác nghệ thuật là bữa ăn ngon, là hoa tươi dâng
bạn bè tôi”. Người nghệ sĩ sáng tạo ra nghệ thuật là sáng tạo ra cái đẹp, đó là
thiên tư và thiên chức cao quí. Nhưng không có cái đẹp nào xa rời cái có ích, xa
rời cuộc sống của con người. Trong văn chương cũng vậy, cái đẹp là sự sống
được cảm thấy. Cho nên với nghệ sĩ vấn đề là tìm kiếm vẻ đẹp nào? Tìm kiếm ở
đâu?
34
Có thể nói từ xưa đến giờ, trong văn chương Việt Nam không ít người tìm
kiếm cái đẹp vốn tiềm tàng khuất lấp (như Thạch Lam, Nguyễn Minh Châu), tìm
kiếm cái đẹp tài tử siêu phàm - “Vang bóng một thời” (như Nguyễn Tuân).
Cũng có những người tìm kiếm đề cao cái đẹp hoang dại, nguyên sơ đôi khi gắn
với bản năng, phi lý tính (như Khái Hưng), lại có những người chỉ đến với cái
đẹp của những kiếp lầm than đau khổ (như Nam Cao)….
Kim Lân cũng đi tìm cái đẹp nhưng với ông, cái đẹp vốn là những phong tục
sinh hoạt văn hoá lành mạnh của người nông dân ở làng quê nông thôn Việt
Nam. Nghĩa là nhà văn đi tìm cái đẹp ngay trong cuộc sống hàng ngày. Cái đẹp
vốn không bị giới hạn, khuôn hẹp trong một không gian, thời gian nào, nó thật sự
phong phú đa dạng chất chứa trong cuộc sống quanh ta. Và với Kim Lân, cái đẹp
chính là những thú chơi tao nhã, những sinh hoạt văn hoá lành mạnh của người
dân ở làng quê nông thôn mà nhà văn cần quan sát và chỉ ra vẻ đẹp ấy bằng cảm
nhận với những rung động thành thật, sâu xa và bằng một thái độ trân trọng hiếm
có. Có thể nói, chính quan niệm về cái đẹp như thế thật sự đã giúp Kim Lân trở
thành một trong những đại biểu xuất sắc cho khuynh hướng phong tục làng quê
trong văn xuôi Việt Nam. Qua những trang văn của mình, Kim Lân đã “tìm” và
“phát biểu” được biết bao vẻ đẹp của phong tục văn hoá làng quê Việt Nam.
Khi viết về các phong tục dân gian, trước hết Kim Lân muốn khẳng định cái
đẹp trong tâm hồn của người nông dân. Đọc các truyện “Đôi chim thành”, “Con
mã mái”, “Thượng tướng Trần Quang Khải-Trạng vật” …, ta thấy cái đẹp ở
đây chính là cuộc sống nông thôn, cuộc sống thôn quê lành mạnh. Bao nhiêu nỗi
nhọc nhằn thường ngày của người dân trước những khó khăn giờ đây nhường
chỗ cho sự thảnh thơi trong cuộc sống thanh bình, yên ả. Họ đã suy nghĩ tái tạo
gìn giữ và làm giàu có, phong phú thêm các trò chơi vui: thả chim, chọi gà, đánh
vật… những trò chơi gợi ta nghĩ đến cái đẹp của tinh thần văn hoá phương Đông.
Những trò chơi phải chăng đã nảy sinh từ những công việc lao động vất vả
thường ngày. Tinh thần của nền văn minh nông nghiệp đã được lưu giữ bảo tồn
bằng những phong tục văn hoá lành mạnh. Kim Lân đã quan sát và tìm ra được
35
vẻ đẹp này ở các phong tục văn hoá và khéo léo dựng lên những hình tượng văn
học để bảo tồn lưu giữ.
Thú chơi của con người xuất phát từ nhu cầu con người cần được chơi. Chơi
chính là biểu hiện của một nhu cầu thám hiểm và thỏa mãn tính tò mò của con
người. Chơi còn được hiểu là khát vọng thuần túy về một cuộc sống, nó cho phép
con người lúc đó rũ bỏ được mọi câu thúc, ràng buộc của cuộc sống thường ngày.
Đó cũng là một vẻ đẹp trong cuộc sống. Con người khao khát được chơi và cảm
thấy được thỏa mãn khao khát ấy trong bản thân việc chơi, chứ không đòi hỏi gì
ở bên ngoài. Nó không đòi hỏi phải mang lại lợi ích vật chất, hoặc mục đích thực
dụng nào khác. Người ta tham gia hết vào cuộc chơi trong một trạng thái tự do
cao nhất và khi đó thì cái phận vị của con người được tạm thời quên đi, ranh giới
có tính đẳng cấp giữa các thành viên trong cuộc chơi tạm thời được xóa nhòa.
Điều này cho thấy nó cũng phản ánh một cách vô thức cái khát vọng dân chủ
thường ngày, mà ngay trong cuộc sống thường ngày ấy con người ít khi đạt được.
Nhìn vào các trò chơi, cách chơi và người chơi trong các trang văn của Kim
Lân ta thấy, tất cả đều toát lên một vẻ đẹp - vẻ đẹp của tình yêu quê hương làng
quê trong tâm hồn người nông dân. Nhà văn miêu tả trò chơi trong tinh thần
khẳng định danh tiếng của làng. Danh dự của làng là một giá trị tối thượng. Nếu
vì một lý do nào đó mà thua cuộc, thì cái danh dự của làng, uy tín của làng, tư thế
của làng bị kém giá, bị suy sụp. Cho nên nhất nhất mọi sự chuẩn bị, mọi hy vọng
đều thuộc về nhóm những người đam mê, có cùng sở thích chơi - có tính đại diện
cho làng. Đi chơi chọi gà chẳng hạn, có phải một mình ông Cả Chuẩn đâu, mà có
cả những “tay chơi” sành sỏi và những cổ động viên nhiệt thành như: hương
Chế, ông Tư, ông đồ Thảo, cả Sầy, hương Thân, tư Chuyên… Tất cả mọi người
đều lo lắng, hồi hộp đến ngạt thở trong cuộc tranh hùng của “mã mái”; rồi cuối
cùng đều vỡ oà trong niềm vui chiến thắng. Mọi người đều hướng về cái danh
tiếng của làng. Đơn cử một ví dụ về làng vật “Người ta bảo làng Cẩm Giang có
đất vật, nhiều đô nổi. Nên bọn con trai làng gắng công luyện tập dưới sự trông
nom, chỉ bảo của đô Cót để giữ tiếng cho sân mình” [65]. Đô Cót đi khoe miên
36
man những sự tích thú vị của làng vật với một sự khoái chí ra mặt, không hề giấu
diếm. Cái sự khoe khoang đó có cái vẻ đáng yêu:
“Uống luôn ba bát nước một cách chậm chạp, đô Cót thở dài kể lể:
- Các cụ truyền lại: làng tôi ngày xưa được ông Tả Ao để cho ngôi đất
phát to lắm. “Văn tể tướng Võ quận công”. Thời bấy giờ các quan võ phần nhiều
là đô vật. Làng tôi cũng có mấy ông được tiến cử vào trong kinh đô.
Nhưng lúc vua ngự giá đi đâu thì ngồi lên cánh tay một đô vật. Cậu thử tưởng
tượng xem: một người to lớn đẫy đà, đầu đội mũ lưỡi búa, mình đóng khố bao,
khăn vắt. Một tay khuỳnh ra làm ngai cho vua ngự, còn một tay cầm tàn che, có
phải oai phong lẫm liệt biết là bao nhiêu không. Vì thế làng tôi thời ấy mới có
mấy ông đô như: đô Tàn, đô Lọng, đô Kiệu, đô Cờ….
Dứt lời, đô Cót liếc tôi tủm tỉm cười một cách tự đắc, sự hân hoan rạng rỡ
trên nét mặt.” [65]
Trong một câu chuyện khác, nhà văn miêu tả cái cảnh hát tuồng của làng
đang có nguy cơ rã đám, tàn lụi trước sự tấn công của tân nhạc và lối sống mới.
Sân khấu dân gian cũng là một thú chơi sang trọng của văn hoá làng truyền
thống. Trước nguy cơ tàn lụi, các cụ trong làng cùng đồng lòng: “Làng ta đất
tuồng, không nhẽ đình đám bỏ tẻ ngắt (…) Sợ rằng hàng xứ người ta chê bai, nên
các cụ bỏ tiền ra nuôi thầy dạy” [65]. Kết cục cái mong muốn khôi phục truyền
thống hát tuồng không thành tạo nên nỗi buồn chung cho cả làng, nhất là lớp
người không còn trẻ tuổi, hay sống bằng niềm hoài cổ như cụ trùm Trạch. Nhưng
điều đó lại thể hiện được cái đẹp trong tâm hồn của người nông dân đối với văn
hoá truyền thống ở nông thôn.
Xin đơn cử thêm một trường hợp nữa ở truyện ngắn “Đuổi tà”, ngay từ tựa đề
chúng ta cứ nghĩ truyện mang khuynh hướng phục cổ hoặc đả phá những hủ tục
cổ ở làng quê. Nhưng đi sâu vào nội dung truyện chúng ta thấy “đuổi tà” là một
tập tục trừ ma sống động của những người dân quê và rất quen thuộc với những
cư dân đồng bằng Bắc Bộ.“Đuổi tà” là để giã từ năm cũ đón chào năm mới;
“đuổi tà” là để “trục ma đói, ma khát ra khỏi làng, năm mới đây dân làng làm
37
ăn thịnh đạt” hơn; “đuổi tà” là để cuộc sống của con người sang năm mới được
thuận lợi hơn, tốt đẹp hơn… Và “đuổi tà” hàng năm, rõ ràng đã trở thành một
thuần phong mĩ tục của con người Việt Nam với một mục đích, một ước mơ cao
cả trong tâm hồn mà ai ai cũng đều hào hứng tham gia “… Trẻ con, người lớn à à
theo sau reo hò ầm ĩ”. Tất cả dường như đã ăn sâu bám rễ vào đời sống tâm linh,
đời sống tinh thần của người dân quê. Như vậy, qua “Đuổi tà” Kim Lân muốn
khẳng định cái đẹp trong tâm hồn của người nông dân: dù cuộc sống khó khăn,
vất vả nhưng họ vẫn có niềm tin và luôn hướng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Chính điều này cũng đã thể hiện ý thức nghệ thuật sâu sắc của nhà văn - ý thức
về giá trị văn hóa cổ truyền, ý thức bảo vệ, ngợi ca và tôn vinh sức sống, sức
mạnh của văn hóa dân tộc Việt Nam trong tâm hồn của người nông dân.
Bên cạnh đó Kim Lân còn chỉ ra cho người đọc những nét tài hoa của người
nông dân Việt Nam. Bao nhiêu phong tục là bấy nhiêu cách nghĩ, cách tổ chức,
cách dàn dựng, cách nhìn thẩm mỹ: chọi gà, thả chim, đánh vật, đi săn… Hãy
đọc một đoạn văn để thấy con mắt thẩm mỹ của người dân lao động. Chẳng hạn
khi đọc lại đoạn văn miêu tả vườn cây cảnh của ông Cả Chuẩn trong truyện “Con
mã mái”, ta thấy cái đẹp hết sức đa dạng. Tác giả của vườn cây cảnh phải là
người tài hoa có óc tưởng tượng, có khiếu thẩm mỹ, có bàn tay khéo léo mới tạo
nên một vẻ đẹp như vậy. Bổ sung thêm cho nét tài hoa này, trong nhiều tác phẩm
văn xuôi phong tục, Kim Lân cho ta thấy người nông dân còn biết bao khéo léo,
đó là kỹ thuật nuôi trồng, từ chọn giống đến chăm lo, nuôi dạy, chữa bệnh… lĩnh
vực nào cũng am tường. Nhiều khi ta thấy họ như những nhà nông học thật sự.
Họ chọn giống: “chó giống cha, gà giống mẹ”, gà “mặt tông siết”, “thứ nhất ăn
sâu, thứ nhì chầu mỏ” (Con mã mái)… Trong các cuộc chơi có biết bao khâu,
biết bao luật lệ, bao thuật ngữ, song họ vẫn hiểu, vẫn dùng một cách thành thạo,
chính xác. Ví dụ, các từ trong hội thả chim: “trung chính, thượng tiểu tùy”, “vần
thượng”, “đại tùy” (Đôi chim thành); trong chọi gà “đòn linh”, “vỗ”, “bằng
trang hơn xương”…(Con mã mái); trong đấu vật “bá tai tư”, “miếng móc quai
xanh”, “xới vả”, “tấm vật” (Trạng vật),...
38
Viết lên những điều này nhà văn muốn khẳng định cái đẹp trong tâm hồn của
người dân thôn quê - những con người hiền lành bình dị nhưng thật phong phú về
tâm hồn, thật khéo léo và tiềm ẩn nhiều tài năng. Thật vậy, đọc các truyện viết về
phong tục của Kim Lân, ta thấy được cái đẹp của tình cảm sâu đậm giữa con
người đối với con người, đối với con vật nuôi và thiên nhiên cây cối của người
nông dân như đã đề cập ở trên. Ở điểm này, ta thấy được sự khác biệt giữa Kim
Lân so với các nhà văn khác. Có những nhà văn chỉ ngồi ở thành phố nhưng lại
cầm bút viết về nông thôn, viết về người nông dân. Do vậy, người nông dân của
họ thật khờ khạc đáng thương, lại có những nhà văn còn xem người nông dân
như những con vật hình người, nhìn người nông dân với cái nhìn trịch thượng,
thái độ thương hại. Đối chứng vậy ta càng thấy rõ tinh thần nhân bản cao cả của
Kim Lân. Ý thức trách nhiệm, sự kính trọng cùng tình yêu con người đã giúp nhà
văn, khám phá đời sống, xã hội và con người một cách thấu đáo. Điều này đã
khẳng định nhãn quan thẩm mỹ tinh tường của nhà văn. Ông đã nhìn thấy người
nông dân không những phong phú về tâm hồn mà còn có bàn tay khéo léo tài
hoa. Cách nhìn, cách nghĩ trên đã giúp Kim Lân tạo dựng được những hình tượng
văn học đáng nhớ. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được một cách toàn diện
hơn về vẻ đẹp của con người ở làng quê nông thôn: hiền lành, chất phác mà cũng
thật tinh tế tài hoa.
Viết về các phong tục văn hóa dân gian, ngoài việc tìm cái đẹp trong tâm hồn
phong phú, trong sáng, lành mạnh, trong sự tài hoa khéo léo của người nông dân
thôn quê, Kim Lân còn muốn tìm cái đẹp trong niềm tự hào dân tộc của mình.
Một dân tộc nếu để mất tiếng nói, để mất văn hóa thì đã coi như để mất đi vẻ
riêng của mình. Dân tộc Việt Nam ta tồn tại có bản sắc một phần là nhờ có tiếng
nói riêng, một thứ của cải vô cùng lâu đời, quý báu, và thật sự giàu đẹp. Cùng với
tiếng nói là lịch sử, là văn hóa. Vì thế, theo ông, chúng ta cần thấy vẻ đẹp của
lịch sử dân tộc, của tâm hồn cha ông, chúng ta cần giáo dục cháu con bằng các
phong tục văn hoá.
39
Mỗi một phong tục văn hoá đều bắt nguồn từ lịch sử của đời sống xã hội. Bao
nhiêu ngành nghề có bấy nhiêu lễ hội. Làng chài có lễ hội làng chài, làng nghề
chạm bạc, chạm gỗ có lễ hội làng nghề chạm bạc, chạm gỗ. Nghề nông có lễ hội
xuống đồng, lễ cơm gạo mới, hội chọi trâu… Rồi các lễ hội về lịch sử như hội
Gióng, hội đền Hùng, hội đền Kiếp Bạc; các lễ hội văn hoá như hội Lim, hội hát
xoan, hát dặm… Bao nhiêu lễ hội là bấy nhiêu vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp là một chứng
tích lịch sử của cha ông về cách nghĩ, cách làm, lời nhắn gửi truyền lại cho con
cháu.
Đọc các truyện “Con mã mái”, “Đôi chim thành” người đọc nhận ra dấu ấn
xa xưa có từ nền văn minh nông nghiệp. Đọc “Thượng tướng Trần Quang Khải
- Trạng vật”, “Ông Cản Ngũ” ta lại nghĩ về truyền thống thượng võ của cha
ông. Ta thấy đánh vật là một thú vui phổ biến trên đất nước Việt Nam - một thú
vui vừa rèn luyện thể lực, vừa rèn luyện trí tuệ. Một dân tộc luôn đồng cam hiệp
lực để chống trả sự tàn bạo của giặc ngoại xâm thì sức khỏe, trí tuệ vô cùng cần
thiết. Người dân Việt Nam đã khéo léo tạo ra những thú vui hữu ích. Trong
“Trạng vật”, Kim Lân đã nói rõ ý này: “Trong nước tuy đã yên ổn thái bình
nhưng thái sư Trần Thủ Độ vẫn không một lúc nào không lo toan chỉnh chu binh
bị. Mỗi năm một lần tuyển những binh tráng sang làm lính. Những người lính
này phần nhiều là đô vật... Từ kẻ chợ đến thôn quê đâu đâu cũng náo nức tập
vật” [65]. Như vậy, các phong tục văn hoá chính là dấu ấn lịch sử, là cái đẹp của
cha ông để lại. Chọn các phong tục văn hoá để viết, dùng phong tục khám phá
nhìn nhận, Kim Lân muốn nhắc nhở mọi người hãy tôn trọng lịch sử dân tộc, hãy
biết giữ gìn và bảo vệ các phong tục văn hóa. Đó là một vẻ đẹp truyền thống của
quê hương. Tự hào về nền văn hoá dân tộc, Kim Lân cũng nhận thấy được cái
đẹp của sức mạnh cộng đồng qua các truyền thống văn hoá đó. Các phong tục
văn hóa không chỉ là sức mạnh, là kết quả của trí tuệ, sức lực tập thể mà còn là
nơi gắn kết cộng đồng, nơi tô đậm thêm những tình cảm giữa con người với con
người, giữa con người với thiên nhiên, đất nước. Người Việt Nam đến với các
phong tục văn hoá là để tiếp xúc, để chia sẻ niềm vui, để cống hiến tài năng, cống
40
hiến trí tuệ tập thể. Tính cộng đồng được rèn giũa và ngày càng bền chặt qua các
lễ hội. Đây có lẽ cũng là một nguyên nhân tạo cho người Việt Nam phẩm chất
nhân nghĩa, đoàn kết. Đọc truyện ngắn “Đôi chim thành” ta càng thấy rõ điều
này, Kim Lân đã chú ý miêu tả đám đông để làm rõ tính cộng đồng. “… Cái
tiếng quần chim của Trưởng Thuận ăn khao “liên tam trúng, nức cả hàng phủ …
thật là một thành tích vẻ vang chưa từng có.”, “khách mỗi lúc một đông thêm,
gian nhà vừa lụp xụp vừa chật chội bộn lên những người, tiếng cười nói xôn xao
ầm ĩ ”. Còn trong “Con mã mái” thì “Cu Trạm lách qua dòng người chạy ra gọi
đồ Thảo khoe rối rít… dòng người xô lại”. Trong “Thượng tướng Trần Quang
Khải - Trạng vật ”: “Cờ xí, đàn quạt rợp trời, nam phụ lão ấu đứng vây quanh
xem đông như kiến, có đô vật các loại ngồi hai bên trên ghế chờ xướng đến tên
mà ra thi sức… cứ lần lượt hết cặp này đến cặp khác ra vật” [65]
Có thể nói qua các tác phẩm viết theo khuynh hướng phong tục, Kim Lân đã
chứng tỏ sự hiểu biết sâu sắc của mình về nông thôn Việt Nam, về người nông
dân, đồng thời thể hiện sự đồng cảm, tình yêu mến, sự kính trọng đối với những
người dân bình thường giản dị mà trong sáng tài hoa. Khẳng định những phẩm
chất quý báu của người nông dân, Kim Lân cũng đã khẳng định cái đẹp của văn
hoá dân tộc được tạo dựng lên từ những con người chịu nhiều vất vả nhưng rất
chăm chỉ, sáng dạ. Ý thức dân tộc đã tạo nên niềm tự hào dân tộc thuyết phục
người đọc. Bằng văn học, ông đã khơi dậy ở người đọc tình cảm, ý thức với đất
nước, với dân tộc. Qua các tác phẩm của mình nhà văn còn nói đến các tầng văn
hoá làng quê, đến nhu cầu thưởng thức văn hoá, từ đó thấy được giá trị của văn
hoá dân tộc nói chung. Tất cả vẻ đẹp, sức hấp dẫn của những trang văn Kim Lân
phải chăng chính là cái đẹp của phong tục văn hoá làng quê qua nhãn quan thẩm
mỹ của nhà văn tài hoa xứ Kinh Bắc. Như vậy cái đẹp của Kim Lân hiện diện ở
khắp làng quê nông thôn Việt Nam. Đó là cái đẹp của thực tại đời thường, cái
đẹp bình dị. Nó không giống với cái vẻ đẹp thiêng liêng sang trọng kiểu như vẻ
đẹp “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân, lại càng không giống với cái đẹp
của “Đời mưa gió”, “Lạnh lùng” của Nhất Linh, Khái Hưng. Cái đẹp của Kim
41
Lân là cái đẹp của văn hoá lịch sử làng quê Việt Nam. Cái đẹp đó người ta không
thể quên được bởi nó chính là cội nguồn, là gốc rễ của làng quê cổ truyền Việt
Nam ngàn đời.
Do hoàn cảnh riêng, đã từ lâu Kim Lân không viết nữa. Song, cảm hứng về
con người với những nỗi niềm trong đời sống tinh thần, trong cuộc mưu sinh,
trong các mối quan hệ giữa con người và cái đẹp phong tục văn hoá làng quê có
lẽ vẫn luôn là mối quan tâm lớn của ông. Với nguồn cảm hứng này, Kim Lân đã
sáng tạo nên thế giới nghệ thuật của mình, tạo nên những tình huống khác nhau,
thay đổi điểm nhìn, hình thành giọng điệu và bản sắc riêng của mình trong ngôn
ngữ nghệ thuật. Tất cả những điều đó đã làm nên một Kim Lân với tư cách một
trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Trên đây, luận văn đã khảo sát một vài nét chủ yếu trong quan niệm nghệ
thuật của Kim Lân: quan niệm về con người - mối quan hệ giữa con người với
con người, con người với con vật nuôi; quan niệm về cái đẹp của phong tục văn
hoá làng quê - cái đẹp bình dị trong cuộc sống đời thường gắn với những thú
chơi tao nhã “phong lưu đồng ruộng” của người nông dân, cái đẹp trong tâm hồn
của người dân lao động… Từ đó luận văn chỉ ra nét đặc sắc trong quan niệm
nghệ thuật về con người và thế giới trong tác phẩm của Kim Lân. Đó cũng chính
là một trong những mặt biểu hiện cụ thể và chủ yếu thuộc về ý thức nghệ thuật
hay hẹp hơn, cái nhìn độc đáo của nhà văn về thế giới, cuộc sống và con người.
Những nét đặc sắc này sẽ chi phối sâu sắc và có hiệu lực đến cách lựa chọn nội
dung và hình thức tự sự của nhà văn.
42
Chương 2
NHỮNG NỘI DUNG TỰ SỰ CHỦ YẾU TRONG VĂN XUÔI
NGHỆ THUẬT KIM LÂN
2.1. Từ bức tranh quê hương, không gian làng - xóm đến cái nhìn nhiều phía
và những nội dung tự sự chủ yếu trong VXNT Kim Lân
Nếu nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn làng quê Việt Nam thì
Kim Lân chính là nhà văn của nông thôn làng quê ấy. Bởi trong toàn bộ các sáng
tác của Kim Lân luôn có sự hiện diện của một kiểu “thế giới”, một khoảng trời
riêng dường như chỉ có trong văn của ông. Đó là cái thế giới mà nhiều người đã
nói tới: nông thôn Việt Nam - làng quê của Kim Lân. Quan sát kỹ bức tranh nông
thôn làng quê ấy, người ta còn nhận ra rằng đó không phải là nông thôn làng quê
nói chung mà là làng Việt cổ truyền, làng xóm tản cư của nông thôn Việt Nam
trong những năm trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đây có thể xem
như là một cấu trúc không gian đặc thù của nông thôn làng quê với nhiều vẻ đẹp
bình dị của con người, của phong tục văn hóa làng Việt mà bất kỳ ai cũng cảm
nhận được. Nó đòi hỏi nhà văn phải có một sự nhạy bén, tinh tế, một cách tinh vi
điềm tĩnh, soi ngắm từ nhiều phía, nhiều tầng để cảm nhận. Có thể nói rằng,
chính nét đặc thù này của phạm vi hiện thực mà nhà văn lựa chọn đã mở ra một
cái nhìn nhiều phía về con người trong VXNT Kim Lân.
2.1.1. Bức tranh quê hương và không gian làng - xóm
Kim Lân là nhà văn của nông thôn làng quê Việt Nam nói chung, của nông
thôn làng quê Bắc Bộ nói riêng. Vốn sinh ra và lớn lên ở một làng quê thuộc
không gian Kinh Bắc giàu truyền thống văn hóa, văn vật với các tập tục lễ tết, lễ
hội, âm nhạc, sân khấu dân gian… Nên có thể nói, nhà văn được ấp ủ, được nuôi
dưỡng và được tưới tắm đời mình từ nhỏ đến lớn giữa cái nôi văn hóa của làng
quê ấy. Và đây được xem như một quá trình thấm thấu để hình thành một hồn
văn Kim Lân độc đáo. Tuy nhiên làng quê trong sáng tạo của Kim Lân lại không
43
được đặc tả hoặc nhấn mạnh cái nét đặc trưng Kinh Bắc, mà nhà văn lại hướng
tới không gian làng quê Bắc Bộ nói chung.
Do đó, thế giới trong VXNT Kim Lân về căn bản là thế giới nhìn từ nông
thôn làng quê, hay từ một mô hình “nông thôn làng Việt” mang bản sắc rất riêng.
Có rất nhiều người đã viết về làng quê Việt Nam xưa kia, từ kho tàng đồ
sộ của văn học dân gian với những ca dao, tục ngữ, những khảo cứu phong tục
tập quán, những phóng sự việc làng cho đến những tác phẩm trong văn học viết
của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… mà trong đó làng không phải chỉ là một
đơn vị hành chính, địa lý mà còn là tất cả cuộc sống xã hội đối với người nông
dân xưa. Và cái làng quê trong truyện ngắn Kim Lân cũng thế. Tuy nhiên, nhà
văn đã tạo một linh hồn riêng cho tác phẩm của mình, ông đã đưa vào văn học
một bức chân dung rất sống động, một vẻ đẹp rất riêng, rất “nguyên thủy” mà
cũng rất đặc thù của nông thôn làng quê Việt Nam nói chung. Chúng ta thấy Kim
Lân có một sự tiếp nối xuất sắc của các nhà văn đàn anh như Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan…, nhưng Kim Lân không lặp lại lối mòn của họ bởi Kim
Lân tiếp cận làng quê trên bình diện phong tục sinh hoạt văn hóa cùng với những
câu chuyện đời tư, đời thường sau lũy tre xanh. Ở đó, người đọc không thấy được
cái lo âu sợ hãi vì gánh nặng của lệ làng, của hủ tục mà chỉ thấy người nông dân
hòa niềm vui vào trong không khí tưng bừng của những lễ hội sinh hoạt văn hóa
làng quê để quên hết những lo âu, vất vả của cuộc sống thường ngày. Do vậy,
không gian làng quê trong truyện ngắn Kim Lân có thể hiểu đó là không gian
cộng sinh, cộng sản, một không gian văn hóa.
Hơn ba mươi truyện ngắn của Kim Lân đều miêu tả hoặc gợi nhắc đến cuộc
sống muôn màu, muôn vẻ của người dân quê trong làng mạc, thôn xóm ngày
xưa. Từ những truyện ngắn: Đôi chim thành, Con mã mái, Cầu đánh vật,
Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật,… đến Làng, Thư phát động, Bố
con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Ông lão hàng xóm…, tất cả đều chứa
đựng một không gian làng nói chung mang đậm màu sắc địa phương bởi những
yếu tố phong tục, những sinh hoạt văn hóa làng xã gắn liền với những thú chơi
44
tao nhã, “phong lưu đồng ruộng”, với những buồn vui thế sự, những số phận,
những tâm tình của con người Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám nói
chung.
Có thể nói, cái làng quê ấy của Kim Lân chính là một không gian vừa là làng
Việt cổ truyền, vừa là làng xóm tản cư thời kháng chiến với những biểu hiện cụ
thể của nó. Không gian làng đi vào trang văn của Kim Lân với tất cả sự sống
động của nó.
Đầu tiên là làng Việt cổ truyền. Đó cũng chính là làng quê gốc gác lâu đời
gắn liền với các tên chữ trang trọng do các bậc Nho học của làng đã đặt ra ngay
từ ngày mới lập làng như làng Trang Liệt, Đại Đình, Hạ Dương (Đôi chim
thành), Đại Sơn, Dưỡng Mông (Chó săn), Cẩm Giang, Từ Sơn, Đình Tràng, Phù
Trẩn, Phù Ninh, Đồng Kỵ (Cầu đánh vật), Cổ Pháp Đình Bảng, Bỉnh Hạ, Hàm
Long (Thượng tướng Trần Quang Khải…), chùa Vân Điềm, làng Vân Điềm
(Đuổi tà), Trang Liệt, Phủ Từ, Hà Đông, Yên Thế, Ngân Sơn (Trả lại đòn)… Ở
đó có những phong tục, những sinh hoạt văn hóa, những trò chơi dân gian như
chọi gà, thả chim, đi săn, đấu vật, lễ tết lễ hội và cùng các tập tục tín ngưỡng
khác. Đó là thú “phong lưu đồng ruộng” thân thuộc có từ ngàn đời. Làng trong
truyện ngắn Kim Lân quả thật là một thực thể sống động ẩn chứa nhiều trữ lượng
văn hóa.
Thực ra, trong văn chương Việt Nam, không riêng gì Kim Lân sở
trường về các thú chơi tao nhã của người xưa mà còn có nhiều cây bút cự phách
khác cũng rất sở trường trong lĩnh vực này. Mỗi người một vẻ, họ đã làm đẹp
thêm bản sắc văn hóa của dân tộc mình qua văn chương chữ nghĩa như Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng… Nhưng nếu Nguyễn Tuân đã làm sống lại những nét son xưa
của lịch sử văn hóa Việt Nam qua những thú chơi tao nhã cao đẹp; Vũ Bằng nâng
chuyện ẩm thực lên thành một nghệ thuật tạo nên những trang viết xuất thần về
“miếng ngon Hà Nội”, thì Kim Lân, qua những thú chơi tao nhã “phong lưu
đồng ruộng”, đã giúp người đọc hình dung được những tố chất và vẻ đẹp của
con người quê hương ông. Những trang viết của ông trở thành những chỉ dẫn văn
45
hóa về các ngón chơi của những cao thủ làng vật, hay chọi gà… Cái tinh thần
thượng võ, niềm say mê trong những cuộc thi tài đấu trí mang đậm bản sắc dân
gian từ chính cuộc sống, sinh hoạt thường ngày của xứ sở Kinh Bắc quê hương
ông.
Phía ngoài rìa các không gian làng Việt cổ truyền có gốc gác từ lâu đời đó
là không gian tá túc của những “xóm ngụ cư”. Đây là không gian của bóng đen,
của cái chết nặng mùi tử khí. Cái không gian của mảnh đất “đầu thừa đuôi thẹo”
- đó là nơi rìa làng, đầu bãi mom sông, chó ăn đá, gà ăn sỏi, đất xấu, người thưa
trộm cướp hoành hành nên thường thì nó không có địa danh (Vợ nhặt, Người
chú dượng…). Và ở đó thường dành riêng cho những mảnh đời “đầu thừa đuôi
thẹo” sống, chết, làm lụng, vui buồn, hy vọng. Ở điểm này Kim Lân cũng có một
sự tiếp nối sâu sắc của các nhà văn đàn anh, nhưng ở ông cũng có một sự khác
biệt khá rõ. Nếu như không gian ngụ cư trong tác phẩm của Ngô Tất Tố và Nam
Cao mang màu sắc tối tăm ngột ngạt đến bế tắc và những người dân ngụ cư của
họ hiện ra như một nạn nhân của sự áp bức bóc lột dẫn đến sự thoái hóa thậm chí
đánh mất nhân cách, thì đến lượt Kim Lân như chúng ta đã thấy, cũng vẫn là
không gian ấy, nhưng nó không bế tắc, những con người ngụ cư thì dám chống
chọi với hoàn cảnh để giữ gìn nhân cách, khẳng định sức sống và quyền sống của
mình. Trong những lúc cuộc đời tăm tối nhất, con người vẫn luôn khao khát hạnh
phúc, vẫn luôn hướng tới ánh sáng, đặt niềm tin vào tương lai. Điều đặc sắc nhất
trong ngòi bút của Kim Lân là tác phẩm của ông mang âm hưởng đan xen giữa
hiện thực và lãng mạn, giữa tiếng khóc và tiếng cười, giữa bóng tối và ánh sáng
để cuối cùng mở ra một không gian sáng lóa - không gian của sự sống, của niềm
tin ở con người. Đây cũng là những biểu hiện sống động của văn hóa làng quê
truyền thống người Việt.
Và trên cái nền của làng cổ truyền ấy, nhà văn còn mở ra một không gian
làng trong cơn bão cải cách ruộng đất. Đó là những làng quê có sự xuất hiện của
cán bộ cách mạng làm công tác cải cách ruộng đất, lao vào đổi đời cho những
46
người mang thân phận “đầu thừa đuôi thẹo” (Thư phát động, Nên vợ nên
chồng, Tìm em, Chị Nhâm, Ông lão hàng xóm…).
Theo những biến thiên của lịch sử, những tao loạn của đất nước, tiếp nối và
gắn liền với không gian làng Việt cổ truyền trong truyện ngắn Kim Lân là không
gian làng tản cư, hay nói một cách xác định hơn đó là những làng kháng chiến
thời chống Pháp. Loại không gian này thì Kim Lân miêu tả không nhiều. Chúng
ta chỉ thấy thấp thoáng ở các truyện: Người chú dượng, Con chó xấu xí, Làng.
Trong đó truyện ngắn “Làng” mới là một minh chứng cụ thể nhất. Ở đó, chúng
ta có thể thấy nổi lên các vấn đề được đề cập đến thường xảy ra đó là mối quan
hệ giữa người tản cư với người bản địa, giữa người tản cư với nhau, và giữa
người tản cư với quê hương bản quán của họ.
Thứ nhất, ở mối quan hệ giữa người tản cư với người bản địa, Kim Lân có
nhắc đến hình ảnh bà chủ nhà của vợ chồng ông Hai trong truyện ngắn Làng.
Mụ là người đàn bà “tham lam, tinh quái”, “thần gian”, “tính nết lành chanh
lành chói”, “không phải là người đứng đắn”… “Ông Hai chưa thấy người đàn
bà nào tham lam, tinh quái như mụ ta. Người gầy đét như thanh củi khô. Cái
miệng mỏng lèo lèo, nói cứ liến đi, mà chúa là thần gian. Không vào nhà thì thôi,
động vào là nhòm. Mụ nhòm xó này một tí, nhòm xó kia một tí, rồi lục. Mụ đưa lọ
tương lên ngắm rồi đặt xuống, mụ mở thạp gạo ra xem, lại đậy vào, mụ lục bồ
moi chiếo áo ướm thử vào người, rồi ném trả... Đồ ăn thức đựng của mụ, mụ cất
kỹ đi. Con dao, cái chậu bó củi của người ta mụ dùng tự nhiên, hồ cất đi mụ lại
lôi ra. Không nhìn thấy thì mụ nói móc, nói máy như chính mụ bị người ta hà
hiếp. Đến cả cái ăn, cái uống mụ cũng rây phần vào. Có cái nồi nước giải mua
để tăng gia một tí, mụ cũng lấy hết” [56]. Những thói tật đó không phải người
dân nào cũng mắc phải, nhưng nó cũng lại rất tiêu biểu cho những thói tật phổ
biến của người thôn quê. Nhất là khi thấy người khác nhờ vả mình, mụ chủ nhà
lắm khi lên mặt tự phụ, thậm chí cho mình cái quyền nhiễu sách, cạnh khóe vặt
vãnh… Những người trực tính, trung hậu như ông Hai rất khó có thể cảm thông,
hòa hợp được với một người như mụ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đất nước đang
47
loạn lạc, mụ lại có nhận thức khá là đúng đắn. Mụ ghét những người nào, làng
nào theo Tề, theo Ngụy, nên mụ mới ghét luôn cả gia đình ông Hai - người của
cái làng bị quy là đã trở thành làng tề Việt gian bán nước. Chính vì thế mà người
đọc có thể hiểu và cảm thông cho mụ, dẫu sao đó vẫn là một con người có tâm -
cái tâm của con người yêu nước.
Thứ hai, đối với mối quan hệ giữa những người tản cư với nhau, nhà văn đã
nhắc đến nhân vật Nhược Dự - một nhà văn tản cư lên vùng kháng chiến sống xa
lánh bà con, trốn tránh công việc kháng chiến, quen tiêu xài hưởng thụ, tác phong
kiểu cách, giả dối (Con chó xấu xí ). Nói đến nhân vật này ta liên tưởng đến
nhân vật Hoàng trong “Đôi mắt” của Nam Cao. Cùng khai thác về nhà văn lớp
cũ sống trong vùng kháng chiến, nhưng mỗi nhà văn lại khai thác một cách khác
nhau. Nếu như Nam Cao đặt vấn đề “Đôi mắt” ở cách nhìn đời, nhìn người nông
dân, nhìn cuộc kháng chiến một cách lệch lạc đáng phê phán thì Kim Lân lại đưa
ra hình ảnh loại nhân vật “phản chủ” vô ơn đối với dân tộc, Tổ quốc. Nhà văn
như muốn cảnh tỉnh người đọc rằng: một con người sống quay lưng với kháng
chiến - một kẻ chỉ quen hưởng thụ và ích kỷ thì con đường phản bội bạn bè, phản
bội dân, phản bội nước sẽ là một tất yếu.
Thứ ba, là mối quan hệ giữa người tản cư với quê hương bản quán của họ,
chúng ta sẽ thấy ở hình ảnh ông Hai trong truyện ngắn “Làng”. Có thể nói ông
Hai là hình ảnh tiêu biểu, điển hình cho mẫu người nông dân Việt Nam với
truyền thống vốn có là yêu nước, yêu làng. Rõ ràng ông Hai là người nông dân,
sinh ra tại làng, lớn lên làm lụng, lấy vợ sinh con đẻ cái tại làng, sống chết ở làng
và ít khi ông có điều kiện đi xa khỏi làng. Ông đã tự nguyện gắn bó với làng và
dường như chính cái cộng đồng làng này đã hút chặt lấy ông, thậm chí xóa mờ
cái tư cách cá nhân của ông. Ông buồn vui cùng làng, khổ đau cùng làng. Cái tâm
thức làng như là một giá trị được hình thành và chi phối mạnh mẽ đến ông nói
riêng, đến mỗi thành viên trong cộng đồng ấy nói chung. Do đó ông luôn tự hào
về làng của mình, đi đâu ông cũng khoe khoang về làng của mình. Ngày trước thì
ông khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông “Hồi còn đế quốc Pháp, mỗi
48
bận đi đâu xa, khoe làng ông chỉ khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng
ông”. Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm: “Chết! Chết!
Tôi chưa thấy cái dinh cơ nào lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi. Có
lăm lắm là của. Vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy. Thấy bảo còn hơn cái
lăng cụ thiếu Hà Đông nhiều cơ mà!” [56].
Đến thời kháng chiến thì ông lại khoe cái làng kháng chiến của mình với
những lão du kích, với những công trình quân sự đánh giặc… “Bây giờ khoe
làng ông lại khoe khác. Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền
sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao gần ngọn tre, chiều chiều
loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như
tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa, trời gió tha hồ đi khắp đầu
làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm,
phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất… Ông khoe những
ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ hồi kỳ còn bóng
tối. Những buổi tập quân sự, cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy
đi tập một hai…” [56]. Tình yêu ông Hai đối với làng, suy cho cùng cũng chính
là tình yêu đối với dân, với nước nói chung và rộng ra đó chính là tình yêu quê
hương đất nước, yêu Tổ quốc.
Người Việt Nam chúng ta có một truyền thống yêu nước rất nồng nàn.
Truyền thống ấy trở thành giá trị hàng đầu, cao nhất trong bản giá trị tinh thần
cao quý của dân tộc Việt Nam. Chính vì yêu nước nên mới có lòng căm thù sâu
sắc. Và càng yêu nước thì càng căm ghét quân thù, căm ghét những bọn cam tâm
làm tay sai, làm “chó săn chim mồi” cho kẻ thù xâm lược, phản bội lại Tổ quốc
mình. Nhân gian kể lại rằng: “Đời nhà Trần có một làng nọ đã trốn tránh nghĩa
vụ, không cho người tham gia đánh giặc. Khi kháng chiến thắng lợi, các quần
thần đề nghị nhà vua trừng phạt dân của làng này tội thật nặng. Nhà vua đã làm
theo quần thần, nhưng không xử trảm, bỏ tù, mà chỉ trừng phạt bằng cách: đổi
tên làng này thành làng Chó. Dân làng xấu hổ, cứ đêm đêm không ai bảo ai lặng
lẽ bỏ trốn khỏi làng. Từ đó trở đi, làng này không còn một ai ở lại, trở thành một
49
vùng đất hoang vắng hoàn toàn. Họ đã biết xấu hổ, nhục nhã và muốn xóa đi dấu
tích đáng xấu hổ của làng”. Và từ câu chuyện này, chúng ta có thể trở lại với
truyện ngắn “Làng” để thấy việc dân làng của ông Hai như lời đồn là theo Tề,
Ngụy là việc vô cùng hệ trọng. Trước hết là về phía ông Hai, bà Hai thì cảm thấy
đau đớn, nhục nhã, xấu hổ với đồng bào xung quanh, không dám ngẩng mặt lên
trước người khác. Mặc dù mới là lời đồn đại, chưa biết thực hư ra sao? Còn về
phía người dân vùng tản cư, bất cứ ai khi nghe tin làng Giầu của ông Hai theo
Tây, đều lên tiếng phẫn nộ, khinh bỉ “Cha tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp,
ăn trộm bắt được thì người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ
cho mỗi đứa một nhát!” [56]. Chỉ riêng thái độ bất bình, xa lánh, khinh bỉ đối với
những kẻ rắp tâm đi theo giặc đã phần nào nói lên tình cảm yêu nước, lòng tự
trọng có tính cách quốc sĩ của những con dân nước Việt. Cũng vì hiểu lầm mà
chịu sự khinh bỉ như vậy, nên ông Hai mới có niềm sung sướng, hả hê tột độ khi
nghe tin cải chính nỗi oan của làng mà cũng là nỗi oan của ông:
“- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ! Đốt nhẵn. Ông Chủ tịch làng em vừa
lên cải chính… cải chính cái tin làng chợ Giầu chúng em là Việt gian ấy mà. Ra
láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!
Cũng chỉ thấy ngần ấy câu, ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Cần phải kể
cho người khác biết chứ! Ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi
người” [56].
Trước một cái tin cải chính hệ trọng như vậy, ông Hai nói riêng, người dân
làng Giầu nói chung đều vui mừng ra mặt. Cụ thể là mụ chủ nhà lâu nay vẫn ứng
xử không lấy gì làm tốt đẹp cho lắm đối với ông bà Hai thì nay “mụ lại tỏ ra vui
sướng. Mụ giương tròn cả hai mắt mà reo: A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới
nhà đi Việt gian, tớ ghét ghê ấy” [56].
Chúng ta thấy tất cả mọi người đều vui vì không những bản thân họ không
mang cái tiếng là Việt gian, mà vui hơn khi họ nhận ra toàn dân đồng lòng yêu
nước, đánh giặc. Quyền lợi của làng, quyền lợi của nước và quyền lợi của mỗi
50
mái nhà, mỗi con người, mỗi thân phận trong những cơn thử thách trước quân
thù đã hòa làm một. Yêu làng trong trường hợp ông Hai chính là yêu nước.
Nhưng điều quan trọng là giữa các không gian làng kể trên trong VXNT
Kim Lân có một điểm chung thống nhất - đó chính là tinh thần cộng đồng làng
rất cao. Nó làm nên sức mạnh và niềm kiêu hãnh của dân làng. Song tính cộng
đồng luôn được Kim Lân miêu tả, không bị khép kín, tự trị mà làng luôn gắn bó
với vùng miền, với đất nước. Nhất là khi tổ quốc bị lâm nguy, tinh thần yêu làng
lập tức nâng lên thành tinh thần yêu nước. Làng trở thành căn cứ địa vững chắc
chiến đấu chống quân thù, làng cũng là thành lũy gìn giữ văn hóa dân tộc. Làng
trong cái nhìn cảm thụ và cắt nghĩa của nhà văn thực sự đã hiện lên với sự suy tư
và lòng yêu mến sâu sắc, đầy trách nhiệm của một nghệ sĩ yêu làng, yêu nước.
Tóm lại, có thể nói đây là một kiểu mô hình cấu trúc không gian rất tiện
lợi để ngắm nhìn, chiêm nghiệm về cuộc sống nông thôn với những sinh hoạt văn
hóa, những buồn vui thế sự, những số phận, những tâm tình của con người cá
nhân trong vai trò chủ thể nhận thức và tự nhận thức.
Từ đây, nhà văn có thể nhìn vào trung tâm để thấy những người nông
dân tài hoa, bặt thiệp, riêng thú “phong lưu đồng ruộng”, nhìn ra bìa làng với các
xóm ngụ cư để thấy những mảnh đời “đầu thừa đuôi thẹo”…
Nhân vật đặc thù của thế giới làng - xóm trong VXNT Kim Lân đều là
những mẫu người đặc trưng cho văn hóa làng quê. Đó không ai khác hơn là
những đô Voi, đô Nghê, Trạch Khô, Vâm lớn, Trạng Sặt, Trạng Kế (Thượng
tướng Trần Quang Khải - Trạng vật), những Quắm Đen, Cản Ngũ, Cả Lẫm
(Ông Cản Ngũ), những đô Tàn, đô Lọng, đô Kiệu, đô Cờ, Ngựa lồng, Voi cái….
(Cầu đánh vật) … Tất cả những nhân vật này đều mang phẩm chất tài hoa, dũng
khí của một tinh thần thượng võ cao quý, sang trọng. Bên cạnh đó, còn có những
nghệ sĩ làng quê cùng với những thú chơi dân gian truyền thống thật tài hoa nghệ
thuật như Trưởng Thuận (Đôi chim thành), Cả Chuẩn (Con mã mái), Cả Nội
(Chó săn), ông Đồ Sơn (Tông chim Cả Chuống).
51
Và phía sau họ còn có cả một thế giới của những mẫu người “đầu thừa
đuôi thẹo”, đời sống bấp bênh, đau khổ, bất hạnh. Đó là bà mẹ Tư (Đứa con
người vợ lẽ), bà Cẩn (Bà mẹ Cẩn), Vịa (Cô Vịa), ông Trạch (Người kép già),
ông Mộc (Người chú dượng), người vợ nhăt (Vợ nhặt), định kiến của dân chính
cư với dân ngụ cư (Vợ nhặt, Người kép già, Thư phát động…), cách nhìn đời,
nhìn người trong kháng chiến (Con chó xấu xí, Làng…).
Làng - xóm là một kiểu không gian đặc thù trong VXNT Kim Lân nói
chung. Chính cái cảnh quan làng quê nông thôn và kiểu không gian làng xóm này
đã được nhà văn tạo ra vừa như một nội dung hiện thực của đời sống nông thôn
Việt Nam trước và sau Cách mạng, vừa như một mô hình nghệ thuật độc đáo để
nhận thức khám phá thế giới, để suy ngẫm và ca ngợi. Thật nhẹ nhàng nhưng
cũng thật sâu sắc và tinh tế. Ở đó, mối quan hệ giữa nhà - làng - nước trở thành
tình cảm gắn bó tự nguyện của mỗi con người. Ở đó có những “ô cửa” nhìn ra
thế giới để thấy được những phong tục, những sinh hoạt văn hóa truyền thống,
những cảnh đời, những tâm trạng với cả vẻ đẹp trong tâm hồn con người. Và nhất
là ở đó, con người được nhìn bằng cái nhìn “nhân học” từ nhiều phía, tạo nên
các nội dung tự sự mới mẻ cho VXNT Kim Lân.
2.1.2. Cái nhìn nhiều phía về con người và những nội dung tự sự chủ
yếu trong VXNT Kim Lân
Các sáng tác tiêu biểu cho VXNT Kim Lân bao gồm chỉ hơn 30 truyện
ngắn. Số lượng tác phẩm rõ ràng không nhiều. Nội dung đề tài trong các sáng tác
ấy chỉ xoay quanh cuộc sống sinh hoạt của con người ở nông thôn làng quê Bắc
Bộ. Có rất nhiều vấn đề mà hiện thực thời đại ông từng đặt ra cho các trào lưu
văn học, bằng cách này hay cách khác đã được gợi lên hay vang động vào các
sáng tác của Kim Lân: đời sống nông thôn và cốt cách văn hóa tinh thần của
người nông dân (Con mã mái, Đôi chim thành, Thượng tướng Trần Quang
Khải - Trạng vật, Cầu đánh vật, Tông chim cả Chuống…) định kiến khắt khe
của dân chính cư với dân ngụ cư (Vợ nhặt, Người kép già, Thư phát động…),
cách nhìn đời nhìn người trong kháng chiến (Con chó xấu xí, Làng…), mâu
52
thuẫn giữa giàu nghèo, giữa người nông dân với tầng lớp áp bức, bóc lột (Đứa
con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cơm con, Cô Vịa…), vấn đề tình yêu
và hôn nhân (Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Người mẹ Cẩn…),
hạnh phúc và bất hạnh, đổi thay và tha hóa (Người chú dượng, Vợ nhặt…), vấn
đề trẻ em và phụ nữ (Anh chàng hiệp sĩ gỗ, Đứa con người vợ lẽ, Cô Vịa, Cô
Dí, Người chú dượng, Vợ nhặt,…), vấn đề sống và chết (Vợ nhặt, Ông lão
hàng xóm…), cách mạng và công cuộc cải cách ruộng đất (Nên vợ nên chồng,
Ông lão hàng xóm, Ông cả Luốn gốc me…), …
Nhưng tất cả những nội dung ấy trong nhiều trường hợp chỉ mới được
gợi hay nhắc qua. Đó chưa phải là nội dung tự sự mà nội dung tự sự theo quan
niệm của chúng tôi, phải là những nội dung đã thật sự trở thành cảm hứng nghệ
thuật và chịu sự qui định của đặc trưng thể loại, cụ thể là các thể loại tự sự thuộc
VXNT.
Kim Lân đã từng nói “Đất có lề, quê có thói, văn hóa được tích tụ hàng
nghìn năm, hàng trăm năm. Nó tồn tại và phát triển trong mỗi con người, mỗi
gia đình, mỗi làng xã… và từng làng được ghép thành cộng đồng, thành dân tộc,
quốc gia… Văn hóa, hoăc như ta nói đất lề quê thói, không phải mỗi lúc mà có,
cũng không phải một lúc mà mất được” [1].
Rồi ông cũng đã từng tâm sự “Những truyện tôi thích và cũng được
nhiều người thích đều là những cái tôi viết về chính mình, về làng xóm mình,
người thân mình” [99].
Và nhà văn Nguyên Hồng - bạn ông cũng đã nhận xét: “Tác phẩm của
Kim Lân không chỉ chân chất của đời sống và con người nghèo hèn mà còn ấm
áp tình người, tình cảm của những con người lao động đôn hậu, nhân ái, thủy
chung và giàu khát vọng” [99].
Có thể nói Kim Lân viết văn như “một cách đòi cho mình một thân
phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé quẩn quanh của
quê hương” [96].
53
Đây được xem như là những gợi ý quan trọng trong việc tìm hiểu hướng
lựa chọn nội dung tự sự của Kim Lân: VXNT Kim Lân thường viết về chính
mình, về những mảnh đời “đầu thừa đuôi thẹo”, về những phong tục sinh hoạt
văn hóa tinh thần của người dân quê. Nhà văn đã kể với chúng ta về những gì mà
ông “phát hiện” và “tìm biết” được trong các mối quan hệ giữa con người với
đời sống tâm tư tình cảm của chính mình, con người với những phong tục, những
sinh hoạt văn hóa truyền thống ở quê hương. Đó chính là cái nhìn “nhân học”,
cái nhìn nhiều phía về con người, cái nhìn đó như một cánh cửa mở ra cho người
đọc thấy một phương diện trong cách nhìn và cách thể hiện con người qua sáng
tác của kim Lân. Và nó đã tạo nên nội dung tự sự trong VXNT của ông
2.2. Con người văn hóa và cảm hứng “phong tục” trong VXNT Kim Lân
2.2.1. Con người văn hóa
Con người văn hóa được xem như một nội dung tự sự hiện diện trong
VXNT Kim Lân, làm cho các sáng tác của ông mang thêm một phong vị độc đáo
ngay cả trên bình diện nội dung tư tưởng. “Văn hóa” ở đây có thể hiểu đó là
những phong tục tập quán, những thú chơi tao nhã, “phong lưu đồng ruộng” của
những con người bình dị ở làng quê Bắc Bộ. Đó còn là văn hóa ứng xử giao tiếp
trong quan hệ giữa con người với đồng bào, đồng loại, với người thân, với quê
hương đất nước. Những nếp văn hóa như vậy ngấm sâu vào số phận, cốt cách,
tâm trạng của nhân vật Kim Lân, trở thành một góc tiếp cận con người và hiện
thực, một hình tượng nghệ thuật về con người văn hóa. Và nhà văn trong niềm
nhiệt hứng đã kể cho chúng ta về những con người như thế. Con người văn hóa
ấy không còn là quan niệm mà đã trở thành một nội dung tự sự.
Có thể nói văn học thể hiện đời sống theo cách riêng của nó. Từng kiểu
người đi vào văn chương theo kiểu sáng tạo riêng của các nhà văn. Họ thành
những kiểu nhân vật khác nhau. Các nhân vật này vừa thể hiện trạng thái văn hóa
dân tộc, vừa bộc lộ mối quan tâm và sự ảnh hưởng phức tạp của văn hóa dân tộc
đối với người nghệ sĩ. Nghiên cứu con người văn hóa cũng chính là tìm hiểu các
mẫu nhân vật - mẫu người văn hóa trong sáng tác Kim Lân như: mẫu nhân vật
54
thượng võ; mẫu nhân vật nghệ sĩ làng quê; mẫu nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo”.
Và đó cũng chính là nội dung tự sự chủ yếu trong VXNT Kim Lân.
Thứ nhất là mẫu nhân vật thượng võ: Nói đến mẫu nhân vật này là phải
nói đến phong trào đấu vật ở xứ Bắc nước ta. Đây vốn là một trò chơi dân gian
thể hiện ước vọng cầu sức khỏe cho con người, về sau môn vật này được thể thức
hóa với một số quy tắc trò chơi… Từ đó sinh ra việc thi đấu vào các ngày hội
làng, hội xứ. Và cũng từ đây xuất hiện nhiều đô vật lừng danh nổi tiếng trong
thiên hạ như: đô Tàn, đô Lọng, đô Kiệu, đô Cờ… (Cầu đánh vật), đô Voi, đô
Nghê, Trạch Khô, Vâm Lớn, Trạng Sặt, Trạng Kế (Thượng tướng Trần Quang
Khải - Trạng vật), Quắm Đen, Cản Ngũ, Cả Lẫm (Ông Cản Ngũ)…, toàn là
những tay đô có đẳng cấp vượt trội. Bằng việc miêu tả các trận vật căng thẳng,
hồi hộp, tràn đầy hứng khởi, với những chiêu vật cao cường, đầy tính nhà nghề,
nhà văn đã thể hiện phẩm chất tài ba, dũng khí của các đô vật này. Nhà văn cũng
tỏ ra rất am hiểu nghệ thuật của môn võ. Chả thế mà ông đưa ra khá nhiều những
cách gọi các thế miếng vật theo ngôn ngữ nhà nghề… Rõ ràng, môn vật đã trở
thành một phong trào, một thú chơi, một môn thi đấu tràn đầy tinh thần thượng
võ, làm nên nét riêng thuộc sinh hoạt văn hóa cổ truyền làng Việt.
Con người văn hóa ở loại nhân vật này có một điểm chung nhất chính
là tinh thần trọng danh dự - danh dự cá nhân và danh dự làng. Có thể nói danh dự
là một điều đặc biệt quan trọng đối với cá nhân. Một đô vật có thể cảm thấy rất
đau khổ nếu như ra sới vật lại bị thua các đô vật khác. Nhưng danh dự cá nhân
không bằng danh dự cộng đồng, danh dự của mỗi sân vật, tức là mỗi xứ, mỗi
làng. Điều này có thể thấy trong truyện “Ông Cản Ngũ” - khi Quắm Đen bị Cản
Ngũ hạ, những người xem và các tay đô khác đều chung một tâm trạng thất bại ê
chề. Họ nghĩ: “Keo vật bị người ta đánh bại một cách nhục nhã, cay đắng quá
chừng. Người ta đánh mình, coi không bằng đánh với một đứa trẻ con! Quắm
Đen, một tay đô tài mạnh vào bậc nhất trong hàng tỉnh mà còn bị đánh thua như
vậy thì còn ai là người theo keo đánh nổi được ông Cản Ngũ? Họ cùng cắn chặt
môi lại và thở dài” [65]. Nỗi thất bại trở nên nghiêm trọng đến mức tự nhiên tất
55
cả các đô vật già trẻ đều đến nhà cả Lẫm để họp bàn xem ai có thể ra đấu với Cản
Ngũ để cứu vãn và bảo toàn danh dự cho làng. Hầu hết ở các trang truyện viết về
nhân vật thượng võ, nhà văn Kim Lân đã khai thác rất sâu về cái tinh thần trọng
danh dự, tinh thần đua tranh của mỗi sân vật thuộc mỗi một làng trong vùng.
Dĩ nhiên nhà văn ý thức rất sâu sắc vấn đề danh dự trong mối quan hệ với
quyền lợi của đất nước và đạo lý làm người. Ở những đô vật lừng danh như cả
Lẫm, như Cản Ngũ bao giờ họ cũng có những ngón hiểm chết người, có thể là
miếng độc cuối cùng nhằm hạ gục đối phương. Với những đòn hiểm này, đô vật
có thể gây cho đối phương nguy cơ tàn phế, thậm chí dẫn đến cái chết. Nhưng
với những người cùng con dân một nước, họ không bao giờ giở những chiêu độc
có tính sát hại đối phương như vậy. Ông cả Lẫm đã có lần hạ gục một đô già, mà
cảm thấy trong lòng cứ “áy náy mãi không yên, vừa thương thương, vừa tội tội”
[65]. Đặc biệt một khi cụ cả Lẫm đã biết được cái mục đích đi ngao du thiên hạ
dưới danh nghĩa đi tranh giải vật để chiêu mộ nghĩa sĩ đánh giặc, lại cộng với con
mắt tinh đời của cụ khi phân tích các miếng vật có chủ ý nương tay của Cản Ngũ,
nên cụ không trút tổng lực vào cái miếng bí truyền. Đó là một tinh thần thượng
võ cao cả, vừa mang tính nhân văn sâu sắc, vừa biểu lộ đồng lòng tinh thần nghĩa
khí đánh giặc của các đô vật, của tất cả dân làng. Lòng tự trọng cá nhân, tự trọng
làng sẽ là cần thiết, nhưng sẽ không trở nên quan trọng nữa trước lòng trọng danh
dự của một người dân nước Việt trước họa kẻ thù. “Tôi cứ nghĩ rằng đã là người
đô vật mình, dù ở đâu, ở xứ Đông hay xứ Đoài, xứ Nam hay xứ Bắc, ở đâu cũng
là người dân Việt ta cả, cũng là máu đỏ da vàng với nhau, trong cái buổi còn
đang nước mất nhà tan này, có nên vì hơn thua một keo vật mà đánh một người
nghĩa khí, một người vì dân, vì nước như ông bác đây thành một người tàn phế,
bỏ đi được không ?” [65]. Nghĩ như thế nên cụ cả Lẫm vì tình cảm với cộng
đồng dân tộc mà chịu thua không nỡ hại ông Cản Ngũ. Nhà văn Kim Lân miêu tả
các đô vật trong một tinh thần thượng võ cao quý, sang trọng, một tư thế văn hóa
đáng nể phục.
56
Ngoài những câu chuyện về đấu vật nhằm ca ngợi đạo lý, tư thế văn hóa của
con người trong “Cầu đánh vật”, “Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng
vật”, “Ông cản Ngũ” mà chúng ta đã thấy, Kim Lân còn một câu chuyện cũng
khá độc đáo ít nhiều cũng ca ngợi vẻ đẹp văn hóa trong tinh thần thượng võ của
con người - truyện “Trả lại đòn”. Nội dung câu chuyện chỉ đề cập đến cách trả
thù để giải quyết mâu thuẫn giữa hai làng thù nhau nhưng đồng thời qua đó nhà
văn đã phát hiện và ca ngợi nét đẹp văn hóa của con người. Nếu Chánh Bảy
không ngộ ra cái điều cần phải hóa giải mối thù truyền kiếp giữa dòng họ của
ông (kể cả dân làng Đồng Kỵ) với làng Trang Liệt, thì có lẽ bạo lực để giải quyết
mối thù sẽ còn kéo dài mãi, hậu quả sẽ khôn lường. Sau những cảm giác cay cú,
tức tối, nhục nhã, cuối cùng ông đã bừng ngộ: Hãy vì sự sống lâu dài bình yên và
thân thiện giữa con người, giữa người dân của hai làng, giữa cánh võ Ba Lai Hà
Đông với cánh võ phủ Từ Sơn Kinh Bắc. Câu chuyện được nâng bổng nhờ ý
nghĩa nhân văn cao quý của tác phẩm. Các nhân vật từ tư cách lục lâm thảo khấu
chuyển hẳn sang tư cách của những võ sĩ cao thượng, đáng nể, đáng trọng.
Như vậy, viết về môn vật nhưng Kim Lân không dừng lại ở một sinh hoạt
phong tục thôn dã thuần túy mà ông đã xử lý câu chuyện theo hướng tôn vinh vẻ
đẹp văn hóa của con người ở làng quê ông nói riêng và làng quê Bắc Bộ nói
chung.
Thứ hai là mẫu nhân vật nghệ sĩ làng quê: Khi miêu tả các nhân vật mang
phẩm chất tài hoa, có những sở thích cá nhân, tìm đến những thú chơi dân gian
truyền thống, nhà văn thường tập trung miêu tả các nhân vật ưu tú, vượt trội.
Điều này cũng dễ hiểu bởi phẩm chất tài hoa hơn người trong cái thú “phong lưu
đồng ruộng” không phải ai cũng có. Phải là người biết trọng cõi tinh thần, biết
thưởng thức và hưởng thụ đời sống và cũng phải học cách chơi mới có được. Và
cũng không phải tất cả những người chơi đều là những người giàu có. Ở đây,
Kim Lân chỉ hướng tới thú chơi của những người bình dân, những người dân quê
bình dị hàng ngày. Đây được xem là một sự lựa chọn thấm đẫm tinh thần dân chủ
trong cái nhìn nghệ thuật của nhà văn.
57
Các nhân vật nghệ sĩ làng quê trong sáng tác của Kim Lân đều là những
người tài hoa có hạng. Đó là ông trưởng Thuận (Đôi chim thành), ông Đồ Sơn
(Tông chim cả Chuống), ông cả Nội (Chó săn), ông cả Chuẩn (Con mã mái).
Và dưới ngòi bút của Kim Lân họ hiện lên như những tay chơi đến mê mẩn, đến
xem thường mọi thứ trên đời, chỉ có đắm đuối mỗi thú chơi của mình.
Mỗi người một thú chơi riêng. Nhưng giữa các nhân vật này lại có những
điểm chung giống nhau. Điểm chung đầu tiên giữa họ là rất vững vàng về
“nghiệp vụ” chơi. Một khi nâng cuộc chơi lên thành danh dự không chỉ còn là
của cá nhân mà của cả làng, cả tổng thì không thể có chuyện coi nhẹ hoặc xem
thường về nghề nghiệp. Tất cả phải được học hỏi, được đào luyện, tích trữ kinh
nghiệm từ hàng chục năm trời, có những kinh nghiệm rút ra từ những thất bại cay
đắng. Các nhân vật này giỏi từ việc chọn giống cho đến việc chăm nuôi, rồi đến
việc luyện ngôn ngữ nhà nghề gọi là “vần” (đối với gà), “vực” (đối với chó
săn)… Điều này thể hiện trong cách chọn giống, cách thưởng thức, cách đánh giá
nhận xét chi li, kỹ lưỡng các chi tiết hay - dở, đẹp - xấu, độc hay thường. “Tiếng
đàn chim của ông Đồ Sơn khắp mặt làng chơi ai cũng biết. Họ tấm tắc khen
không hết lời. Nào “đàn quả đẹp”; “đông đen” và “tròn trặn”, nào vòng hay và
ở “thẳng băng”. Nào vòng đánh hay và “cao ơ”(...) Tiếng rằng đàn quả kể cũng
đã coi như được đấy, nhưng xem ra còn có nhiều “tội”, còn có thể đánh “tùy”,
đánh “nhàn”, đánh “tiên hành”, đánh “động” được. Cho nên ông Đồ vẫn để ý
loại bớt những con nhũng đàn và yếu ấy đi. Ông đoán con nào khỏe tất phải
“tiên hành” và “động”, con nào yếu tất phải “nhàn” và “tùy”…” [52]. Hàng
loạt từ ngữ nhà nghề lại một lần nữa được Kim Lân tung ra như một người chơi
am hiểu từ trong cốt lõi. Chỉ cần nhìn vào một truyện thôi đã thấy mật độ các từ
nhà nghề dầy lên như thế nào: liên tam trúng, vần thượng, trung chính, thượng
tiểu tùy, đài tùy, trung khứ, đại biên, cào, bị, sơ, tràng, rơi lạc phao… (Đôi chim
thành). Còn ở truyện “Con mã mái”, mật độ các từ nhà nghề còn dầy đặc hơn
thế nữa: bầu dọc, khâu dao, thái, buông… Có một điều lạ là dù dùng nhiều biệt
ngữ như vậy mà khi đọc vào truyện người ta không thấy cản trở, không thấy rờm
58
mà trái lại càng thấy thú vị. Có thể nói ở đây, tác giả đã làm được cái việc: trang
bị những tri thức tối thiểu cho người đọc về những thú chơi đặc sắc ở làng quê
Việt Nam - những tri thức mà người bình thường phổ thông đa số không dễ gì có
được.
Điểm giống nhau thứ hai của các nhân vật này là một khi họ đã mê mẩn vào
thú chơi thì không coi chuyện gì là quan trọng hơn nữa. Từ bữa ăn, bữa uống
cũng chẳng coi ra gì, đến cái khó nhọc lặn lội ngoài đồng cũng không quản ngại.
Ốm đau càng không coi ra gì. Cái ấm nước đang trào cũng coi là không có ý
nghĩa gì bằng việc cần phải ngay lập tức lấy thóc cho chim ăn. Đôi chim quý đã
về là Trưởng Thuận vui, ông hết ốm, hết lử khử, hết cáu bẳn ngay (Đôi chim
thành). Còn Cả Chuẩn (Con mã mái) thì mê đến nỗi đánh liều cậy nhờ kẻ
chuyên đào tường khoét ngạch đi ăn cắp con Mái Củi Tạ về. Với ông Đồ Sơn lại
say mê chơi chim một cách quá quắt, khi có ai nói về chim thì “Ông nói thao
thao không biết chán, không biết mỏi mệt. Hình như với ông chỉ có những “cái
đực rợi”, “cái mái xanh”, “cái mốc ba đai”, nghĩa là chỉ có những con chim bồ
câu óng ả, mượt mà là đáng kể thôi. Còn ngoại giả ông thây kệ tuốt. Về sự làm
ăn buôn bán ông dửng dưng, chẳng thiết bàn bạc tới” [52]. Các nhân vật này vui
cái vui cùng vui với con vật nuôi, buồn cái buồn của vật nuôi khi thấy chúng ốm
đau hoặc không như ý. Thậm chí sẵn sàng sẵng giọng, cáu bẳn với vợ con khi
thấy các con vật nuôi bị sa bẩy hoặc đau ốm. Ngược lại, nếu trong lòng cảm thấy
vui vẻ, hài lòng về những con vật nuôi, bỗng ra ngay cái giọng ngọt ngào, thậm
chí tán tỉnh, lẳng lơ. “Đấy bà này nghe xem. Có phải con gà mái kêu”. “Vừa
đau, vừa rát!” thì con gà trống ở đâu te tái chạy lại dỗ dành: “Ai cũng thế! Ai
cũng thế! Ai cũng thế! Không?” [65]. Ví dụ trên cho thấy tâm lý của người nghệ
sĩ đồng quê trong lời ăn tiếng nói. Cái tâm tính của những người thôn quê bộc
trực, giản dị, chất phác như thế. Có thể nói, cách miêu tả tâm lý theo cung cách
như vậy sau này lại được phát huy thêm ở những người như ông Cả Luốn gốc
me, bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê. Nhờ vậy mà các nhân vật nông dân
của Kim Lân thường đưa lại cho người đọc cảm giác gần gũi, chân thực mà hóm
59
hỉnh, thú vị. Nhà văn có cái biệt tài hiểu thật chính xác và tinh tế tâm lý của
người nông dân Việt Nam dưới góc độ “con người văn hóa”.
Cũng như các nhân vật thượng võ, các nhân vật tài hoa nghệ sĩ làng quê này
đặc biệt tôn thờ danh dự của làng nơi mình sinh ra, lớn lên, gắn bó. Niềm vui
chiến thắng được cả làng, cả phủ vui mừng. Nỗi thất bại thì cả làng, cả phủ xôn
xao, bàn tán, tỏ ra không hài lòng, thậm chí bất bình. Các tay chơi “Ai cũng tỏ ra
bất mãn về quần chim của ông Trưởng bị đánh hỏng ở hội Đại Đình hôm vừa
qua” [65]. Con Mã Mái trước khi đi dự hội, bao nhiêu dân làng đến nhà xem
“khách mỗi lúc một đông thêm. Gian nhà vừa lụp xụp, vừa chật chội bộn lên
những tiếng người. Tiếng cười, tiếng nói xôn xao, ầm ĩ” [65]. Rồi các tay chơi
lập thành cả một đoàn cùng bố con Cả Chuẩn kéo nhau đi dự hội. Tinh thần cộng
đồng là một đặc điểm của con người văn hóa, nó tiêu biểu cho văn hóa làng, xã
Việt Nam nói riêng và dân tộc nói chung.
Ngoài ra, khi đề cập đến các nhân vật được coi là nghệ sĩ làng quê, nhà
văn Kim Lân còn cho người đọc thấy được mối ưu tư và tình yêu của họ đối với
nền văn hóa dân tộc. Một ông kép hát tuồng nay đã về già. Đời sống vật chất thì
túng thiếu, lại nghiện thuốc phiện. Cái môn nghệ thuật tuồng thì “cũng đến ngày
không được ai chuộng nữa” [66]. Ông nằm bẹp gốc nhà ôm niềm hoài cổ và nghĩ
cách xoay tiền để thỏa mãn cơn nghiện. Khi được làng mời ra dựng lại môn nghệ
thuật này, thì ông đã đem hết chút tài mọn cuối cùng bằng một niềm hăm hở,
sung sướng được sống lại nghề cho lớp trẻ. Nghề tổ được dựng lại - sức sống
nghệ thuật bắt đầu được nhen nhóm trở lại, chẳng những ông sung sướng, mà cả
dân làng, các hàng chức sắc của làng cũng mừng theo. Tất cả vì cái uy tín của
làng, danh dự của làng. Nhưng than ôi, niềm sung sướng mới đến của ông mau
chóng bị đốn gãy. Không có một đứa trẻ nào theo học cả. Thế là cái ý định phục
dựng lại bộ môn tuồng cổ hoàn toàn thất bại. Là một nhân vật sống chết với
nghề, thân bại danh liệt cũng vì nghề, trong ông không khỏi uất nghẹn, một nỗi
đau của một kẻ đã bị thời thế vượt qua, loại ra ngoài lề thế sự. Đó cũng là nỗi đau
60
của con người văn hóa - những “kiếp tài tử đa cùng” mà nhà văn đã bày tỏ sự
cảm thông sâu sắc.
Thứ ba là mẫu nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo”: Nói đến mẫu nhân vật này,
người đọc sẽ nghĩ ngay đến những con người bé nhỏ, thường ngày lam lũ, vô
danh tiểu tốt ở làng quê nông thôn Việt Nam nói chung trong cả hai giai đoạn
trước và sau Cách mạng tháng Tám.
Có thể nói, nhìn người nông dân ở góc độ con người văn hóa, nhà văn Kim
Lân không chỉ dừng lại với những con người thượng võ, tài hoa, bặt thiệp mang
thứ “phong lưu đồng ruộng”. Hay nói khác đi, ông không chỉ làm sống lại những
phong tục, những thú chơi, những sinh hoạt văn hóa truyền thống của con người
ở làng quê Bắc bộ Việt Nam, mà sâu xa hơn, Kim Lân muốn tạo dựng trong
VXNT của mình, cái cốt cách tâm hồn của con người Việt Nam - cái cốt cách mà
ông cho là rất cao quý, đặc biệt là cốt cách tâm hồn của người lao động Việt
Nam, người phụ nữ Việt Nam - những con người nghèo mà chính Kim Lân chứ
không ai khác đã định danh cho họ là “Những con người mà như là những đầu
thừa đuôi thẹo ở khắp xó xỉnh của cuộc sống” [65].
Có lẽ chính vì thế mà trên hành trình khám phá và thể hiện những người
nông dân Việt Nam ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ, Kim Lân đã tập trung xoáy
vào chủ đề sức sống mãnh liệt của con người ngay trong những lúc cùng quẫn,
tuyệt vọng nhất. Đây chính là một biểu hiện cụ thể nhất của con người văn hóa.
Rất nhiều truyện của Kim Lân nói chung không chỉ khám phá và thể hiện mà còn
khẳng định bản chất lành mạnh, khỏe khoắn trong nhân cách của người lao động,
như khẳng định một chân lý. Ông viết “Những người đói, họ không nghĩ đến cái
chết, mà họ nghĩ đến cái sống. Và người đói ngày ấy cũng có đạo lý. Cái đạo lý
ấy của những con người đau khổ phải chăng là niềm mong đợi, khát khao một
cuộc đổi đời mà “lá cờ đỏ” của Việt Minh đang vẫy gọi họ” [98]. Điều này có lẽ
tập trung tiêu biểu nhất ở nhân vật Tràng, vợ Tràng, bà cụ Tứ - mẹ Tràng trong
truyện ngắn “Vợ nhặt”. Anh Tràng lấy vợ trong hoàn cảnh giữa nạn đói đã mang
đến cho con người một niềm tin mãnh liệt về sự sống đang tắt lụi dần giữa cảnh
61
đói khát, chết chóc, thê lương, ảm đạm. Cụ thể là Tràng đem lại cho “người vợ
nhặt” - con người đói rách có cơ hết sống ấy một chỗ dựa tin cậy, tồn tại, khiến
chị ta vốn chao chát, chỏng lỏn đã sớm hoàn lại tính tình hiền hậu, đúng mực. Và
với bản thân Tràng cũng thế - anh tự thấy mình “nên người” hơn, anh cảm thấy
phải có “trách nhiệm” và “bổn phận” đối với gia đình hơn. Tất cả càng làm cho
người đọc thấm thía hơn về vẻ đẹp trong tâm hồn những con người nghèo, cần
lao cơ cực, cái chết luôn cận kề sự sống nhưng họ vẫn luôn yêu thương, cưu
mang, đùm bọc nhau, vẫn luôn ước ao thèm khát hạnh phúc - dù đó chỉ là hạnh
phúc nhỏ nhặt, tầm thường. Song đáng nói hơn nữa, ở nhân vật bà cụ Tứ - mẹ
anh Tràng - một người mẹ già nua, nghèo khó có tấm lòng nhân hậu và rất yêu
thương con. Bà đã thương con mà chấp nhận người đàn bà xa lạ về nhà làm dâu
mình. Thương con, bà lại càng thương hơn đứa con dâu tội nghiệp của mình. Có
lẽ, có một sự đồng cảm cũng là đàn bà con gái với nhau nên bà cảm thấy xót
thương cho “người vợ nhặt”. Tình thương của bà thật lớn lao và cảm động. Đó là
một thứ tình thương rất gần với bản năng, một lòng thương xót tự nhiên giữa mẹ
và con, giữa con người với con người. Tình thương này đặc biệt tiêu biểu cho
tấm lòng của người phụ nữ Việt Nam có từ ngàn đời. Nhưng điều quan trọng là ở
bà cụ Tứ, chính là niềm tin và khát vọng sống lớn lao trong tâm hồn bà. Chính bà
đã thắp lên ngọn lửa hy vọng vào cuộc sống cho vợ chồng Tràng. Bữa cơm đầu
tiên, bà đón tiếp nàng dâu mới chỉ với vài bát cháo loãng cùng lùm rau chuối thái
(cả nhà cùng ăn) và một nồi “chè khoán” nấu loãng cám mà bà cho là “ngon đáo
để”, “xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy!” [65]. Bà nói toàn là chuyện vui,
chuyện sung sướng sau này. Trên cái khuôn mặt bủng beo của bà, luôn hiện lên
một niềm vui “rạng rỡ” và từ niềm vui đó bà đã phác họa ra cảnh nuôi gà để có
thể “may ra ông giời cho khá”. Tình thương của bà cụ Tứ thật lớn lao và cảm
động. Chính tình thương này đã góp phần xua đuổi cái bóng đen của đói khát và
cái chết ra khỏi cuộc sống của con người. Và đó không chỉ là tình thương vô bờ
bến của tình mẹ đối với con, mà còn chính là niềm tin, sức sống to lớn của con
người Việt Nam - đặc biệt là người phụ nữ: dù hoàn cảnh sống có bi đát, có
62
nghèo đói, túng thiếu, cái chết có cận kề với sự sống đi chăng nữa, nhưng họ vẫn
cưu mang, đùm bọc, yêu thương nhau, vẫn lạc quan tin tưởng vào cuộc sống và
hướng đến ánh sáng Cách mạng với một tương lai tươi sáng. Đó cũng chính là vẻ
đẹp thuộc về tâm hồn Việt, văn hóa Việt.
Nhân vật Đoàn trong truyện ngắn “Ông lão hàng xóm” cũng thế. Đoàn bị
quy oan theo quốc dân Đảng, đang bị những nhân vật đội nhân danh cách mạng
truy bức, làm nhục. Không chỉ có Đoàn, mà cả đồng đội của anh - những chiến sĩ
trung kiên của Cách mạng như Mùi cũng bị quy oan và đã bị bắt. Những lời hát
của ông lão hàng xóm như một ngụ ý về thói đời oan nghiệt, về nỗi oan khúc của
kiếp người, về lòng đồng cảm đầy ân tình, cảm động nhưng không dám công
khai trong tình cảnh khắc nghiệt lúc bấy giờ. Điều đáng nói là nhân vật Đoàn
trong lúc bị đày ải, bị ép cung, bị dồn tứ phía, kể cả bà con và người thân, nhưng
anh đã hai lần tâm niệm, như tự thề nguyền với lương tâm và dũng khí của mình:
phải sống. Tác giả để cho Đoàn tâm niệm: “Và Đoàn chết đi, liệu đã thoát chưa?
Hay là rồi đây người ta sẽ cho rằng Đoàn trốn đấu tranh? Bị đồng bọn cắt đứt
đầu mối? Không, Đoàn phải sống! Cho dầu hoàn cảnh có đắng cay, tủi nhục đến
chừng nào đi nữa, Đoàn cũng phải sống. Tình thương yêu và bổn phận làm cha,
làm chồng day dứt trong lòng, Đoàn không thể trốn mà đi được” [65]. Hai lần,
hai tiếng “phải sống” vang lên như một sự quyết đấu, giành lại chỗ đứng của
thân phận giữa thời buổi đảo điên đó.
Đó còn là lòng ham sống khỏe khoắn, mãnh liệt của dì Bản, ông Mộc gù
(Người chú dượng), chị Nhâm (Chị Nhâm), ông Tư (Cha con ông gác máy bay
trên núi Côi Kê…). Họ đều là những con người bất hạnh, chịu nhiều đau khổ
trong cuộc đời, nhưng họ vẫn luôn tiềm ẩn trong người một khát vọng sống, một
niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai, vào cuộc sống mới có thể làm thay đổi
cuộc đời của họ. Chúng ta hãy lắng nghe lời trăn trối thật cảm động của một
người cha trước khi tắt thở, vẫn khẩn thiết kêu gọi các con tìm đất sống: “Cố lên!
Các con ơi! Thái Nguyên, Bắc Giang đất rộng người thưa. Đồi bãi rộng, khoai
sắn nhiều…” [65]. Và cuộc đi tìm đất sống của một gia đình gồm mười một
63
người, cuối cùng người thì chết, người thì mất tích, chỉ còn lại hai vợ chồng ông
Tư. Lời văn của Kim Lân rưng rưng khi nhắc đến nỗi mất mát này “Cái hôm đầu
tiên hai vợ chồng ông lên khai phá trên quả núi này, ông đã khóc như mưa, như
gió. Mười một người trong gia đình bỏ làng ra đi tìm đất, bây giờ có đất rồi thì
chẳng còn ai…” [65]. Cho nên, người đọc mới thấu hiểu tại sao những lúc bom
Mỹ ác liệt như vậy, ông vẫn không rời bỏ quả núi này. Nguyên do thuộc về sự
gắn bó máu thịt của ông đối với mảnh đất đã được đánh đổi bằng bao nhiêu mạng
người và nước mắt. Đó cũng còn là cái công việc báo động của ông được bà con
dân chúng tin cậy và trao gửi. Đó cũng lại còn là lòng căm tức quân thù mà quyết
tâm ngăn trừ tội ác của chúng…. Có thể nói rằng sức sống của nhân dân là bất tử,
không sức mạnh nào có thể hủy diệt được. Cường quyền, bạo lực, bom đạn, cái
đói, tất thảy đều trở nên bất lực đến mức thảm hại trước sức sống mãnh liệt của
con người. Có thể nói các tác phẩm của Kim Lân như những bài ca ngợi ca sự
sống, ngợi ca sự bất tử của con người, rộng hơn là của người Việt, tính cách Việt,
tâm hồn Việt. Và đó cũng chính là cốt cách của con người văn hóa.
Khi nhìn vào loại nhân vật này với tư cách là con người văn hóa, chúng ta
không thể không nhắc đến tình cảm và trách nhiệm tự nhiên của họ đối với số
phận và sự tồn vong của đất nước. Trước hết, phải kể đến là nhân vật ông Hai
(Làng). Với ông Hai, yêu làng tức là yêu nước, gắn bó với số phận và danh dự
của làng cũng chính là gắn bó với số phận và danh dự của đất nước. Khi nghe tin
đồn, làng mình theo giặc, ông Hai tâm niệm: “Không thể được! Làng thì yêu
thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù” [56]. Đúng là một thái độ lựa
chọn dứt khoát, mặc dù phải chịu đau đớn. Nhân vật ông Tư (Bố con ông gác
máy bay trên núi Côi Kê) cũng là một trường hợp điển hình. Ông căm thù quân
giặc đã quấy phá cuộc sống dân lành vô tội, đem đến điêu linh, chết chóc cho
dân. Ông tự cảm thấy có trách nhiệm làm công việc báo động cho tốt để tránh
thảm họa cho dân. Nỗi lo lắng an toàn tính mạng của dân đã trở thành một tình
cảm tự nhiên, cảm động. Đó chính là tình yêu quê hương đất nước một cách bình
dị nhất. Hay như bà mẹ Cẩn (Bà mẹ Cẩn) cũng vậy. Bà hay khoe thằng con trai
64
là đang tại ngũ. Ban đầu có vẻ khó gần, nhưng dần dà mới hiểu, hóa ra bà rất
thương quý người, biết lo lắng quan tâm cho cô giáo, lo lắng cho sự an toàn của
bộ đội qua sông…
Trong những năm tháng kháng chiến, trước họa xâm lăng, bất kể ai là con
dân của nước Việt đều đem lòng mến yêu và trách nhiệm đối với sự an nguy của
đất nước. Thật tự nhiên, họ đã vô cùng gắn bó với quê hương, đất nước trong
khung cảnh thời chiến. Lòng yêu nước đã trở thành một giá trị tinh thần cao quý
chảy trong huyết quản của mỗi người. Có thể nói giá trị tinh thần cao nhất trong
con người văn hóa đó chính là lòng yêu nước một cách tự nhiên máu thịt, cảm
động và bền bỉ. Đó cũng chính là cái mạch nguồn thiêng liêng trong văn hóa
Việt.
Mỗi nhân vật, mỗi con người với một thân phận, một tâm tính, nhưng ở họ
lại có những điểm chung thống nhất giống nhau:
Thứ nhất: Họ đều là những người nông dân sống ở làng quê nông thôn Việt
Nam “cày sâu cuốc bẫm”, “chân lấm tay bùn” nhưng lại giàu tình, nặng nghĩa,
thông minh, hóm hỉnh, tài hoa, bặt thiệp, lạc quan, yêu đời luôn khát vọng sống
mãnh liệt.
Thứ ha: Họ đều là những người tự nguyện gắn bó với quê hương và tất cả vì
danh dự của quê hương, của cộng đồng làng.
Thứ ba: Họ không bị giới hạn của quyền lợi làng trói chặt, mà họ vẫn có khả
năng nhìn rộng hơn trong mối quan hệ với vùng, miền, xứ sở, với quyền lợi của
Tổ quốc. Sự miêu tả của nhà văn cho thấy, dù trong hoàn cảnh nào, ở trường hợp
nào thì mối quan hệ giữa nhà - làng - nước là một quan hệ hữu cơ, máu thịt trở
thành tình cảm gắn bó tự nguyện của mỗi con người. Và chính những điểm giống
nhau này đã tạo nên vẻ đẹp trong tâm hồn của người nông dân Việt Nam - những
con người văn hóa mang đậm cái cốt cách, cái tinh hoa thuần túy của văn hóa
Việt.
Nhìn từ góc độ văn hóa hay cốt cách văn hóa của con người, luận văn
muốn thông qua khảo sát sáng tác VXNT Kim Lân để khẳng định phong tục -
65
sinh hoạt văn hóa làng quê trong các sáng tác ấy như một nguồn cảm hứng mãnh
liệt, thiết tha, nghĩa là như một sự lựa chọn, một góc tiếp cận đời sống có ý nghĩa
phong cách. Có thể xem đó là biểu hiện của cái nhìn văn hóa trong VXNT Kim
Lân.
2.2.2 Cảm hứng “phong tục”
Nhà văn Kim Lân đã từng tâm sự về lý do ra đời của các truyện ngắn
“phong tục” như sau:
“Anh có biết người đầu tiên xui tôi viết phong tục tập quán và các thú
chơi dân giã là ai không? Chính ông Vũ Bằng (…), Ông ấy bảo: “Truyện tình
ông không viết được đâu. Nhưng ông gửi thì tôi cứ cho đăng, tôi đổi tên tác giả
là Lang Kim. Ông viết truyện nghèo khổ cũng được, nhưng không bằng những
ông Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan. Các ông ấy đã thành rồi. Ông viết những
truyện như Đôi chim thành, Con mã mái, Đánh vật, Chó săn…. thì không ai
tranh chiếu của ông” [1].
Ở một chỗ khác, ông cho biết thêm: “Lúc tôi mới bắt đầu viết về thú chơi
làng quê thì chán chường lắm. Nhưng về sau gặp Nguyên Hồng, Trần Huyền
Trân …, các anh cho đó cũng là một đóng góp về văn hóa, đời sống của con
người. Bên cạnh công việc vất vả hằng ngày người ta cũng còn biết đến thú chơi,
thú tiêu khiển” [91].
Các ý kiến của chính nhà văn đã giúp ta nhận ra cái lý do trực tiếp khiến
ông đi vào con đường văn chương và viết thành công về đề tài “phong tục”.
Song không chỉ đơn giản là như thế mà Kim Lân lại trở thành “một nhà văn
phong tục hạng nhất của Việt Nam” [86]. Phải nói rằng chính làng quê đồng
bằng Bắc bộ, đặc biệt là vùng Kinh Bắc, quê hương ông - nơi bảo lưu nhiều
phong tục truyền thống văn hóa nhất Việt Nam ta đã nuôi dưỡng và tạo nên cảm
hứng “phong tục” trong nhà văn, để rồi sản sinh ra một hồn văn Kim Lân độc
đáo.
Khi viết về đề tài phong tục, Kim Lân đã hướng ngòi bút của mình mô tả ba
loại phong tục làng quê: thứ nhất là những trò chơi dân gian trong các ngày lễ hội
66
như chọi gà, thả chim, đánh vật; thứ hai là những tục lệ cổ truyền trong làng quê
như đuổi tà đêm ba mươi Tết hoặc tục cướp lúa làng do mối thù truyền kiếp; thứ
ba là thú đi săn. Ngoài ra ở những tác phẩm khác tuy không trực tiếp viết về
phong tục, nhưng cái khung cảnh làng quê, đất quê, người quê, vẫn cứ hiện ra rõ
rệt, không lẫn, không nhầm được.
Như trên đã nói “phong tục” chính là nguồn cảm hứng của cái đẹp mà Kim
Lân đã “tìm” và “phát biểu” để người đọc có thể “trông nhìn” và “thưởng
thức” bằng cảm xúc thật của mình.
Do đó, với cảm hứng “phong tục” được ấp ủ và nuôi dưỡng từ cái nôi của
văn hóa làng quê Bắc bộ nói chung - Kinh Bắc nói riêng ấy, Kim Lân không chỉ
dừng lại ở việc làm sống dậy những sinh hoạt văn hóa ở làng quê ông với những
thú chơi tao nhã “phong lưu đồng ruộng”. Mà từ trong sâu xa nhà văn còn muốn
tạo dựng trong VXNT của mình cái cốt cách tâm hồn Việt, phong tục Việt, văn
hóa Việt, có thể nói đó là cái tinh hoa văn hóa thuần túy của người nông dân ở
nông thôn làng Việt có tự ngàn đời.
Vậy, cái cốt cách văn hóa của tâm hồn Việt, phong tục Việt hay cái tinh hoa
thuần túy ngàn đời của con người Việt Nam là gì? Qua VXNT của Kim Lân, có
thể thấy cái cốt cách văn hóa, tinh hoa ấy đọng lại ít nhất hai nét nổi bật sau:
Thứ nhất: Đó là vẻ đẹp bình dị trong cuộc sống đời thường gắn với những
sinh hoạt văn hóa truyền thống, những thú chơi tao nhã “phong lưu đồng ruộng”
của người nông dân.
Hầu hết tất cả các truyện ngắn của Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám,
phần lớn đều sáng tác theo khuynh hướng phong tục. Từ Đôi chim thành, Con
mã mái, Chó săn, Tông Chim Cả Chuống, Cầu đánh vật - từ ngôi đất hình
nhân bái tướng - đến chuyện voi cái ngựa lồng, Thượng tướng Trần Quang
Khải – Trạng vật, Đuổi tà, Trả lại đòn, Ông Cản Ngũ … Cũng giống với những
nhà văn khác như Tô Hoài, Bùi Hiển… khi viết về phong tục Kim Lân cũng thể
hiện những thói xấu, những phong tục cổ hũ, lạc hậu, nhưng bằng nhãn quan
phong tục của mình, bằng những tình cảm chân thật tha thiết của một người “vốn
67
là con đẻ của đồng ruộng”, Kim Lân đã có một điểm riêng rất rõ - nhà văn đã tập
trung trình bày, miêu tả cặn kẽ những sinh hoạt văn hóa lành mạnh, những thuần
phong mĩ tục, những thú chơi tao nhã của người dân nông thôn.
Có thể nói “Đuổi tà” là truyện phản ánh tục lệ cổ truyền của dân tộc - tục
đuổi tà đêm ba mươi Tết của người nông dân. Đây là một tập tục độc đáo được
Kim Lân miêu tả trong không khí thiêng liêng đón Tết cổ truyền của dân tộc
“Mọi người như yên lặng kính cẩn đón chờ cái năm mới rỡ ràng”. Đối với người
nông dân, việc đuổi tà đầu năm rất quan trọng vì nó sẽ “ảnh hưởng đến sự thịnh
đạt suy vi của cả dân làng sang năm mới tới đây”. Cho nên “Dẫu là nhà giàu
hay nghèo, ai ai cũng cúng một cách vui vẻ, coi như là bổn phận”. Và “…Trẻ
con người lớn à à theo sau reo hò ầm ĩ. Có người lượm đất, gạch ném theo nữa.
Họ tin như thế là đang trục xuất ma đói, ma khát ra khỏi làng, năm mới đây dân
làng làm ăn mới thịnh đạt” [65]. Họ tin tưởng rằng sau khi đuổi tà thì cuộc sống
sẽ bình an, thịnh vượng hơn trong tương lai. “…Tất cả những vẻ đăm chiêu vì
cuộc sống hàng ngày không còn vươn trên mặt họ lúc này. Một bầu không khí đề
huề mà thân mến” [65]. Vì thế mà việc đuổi tà đầu năm như một thuần phong mĩ
tục mang đậm màu sắc dân gian gắn liền với đời sống tinh thần của người dân
quê. Nó như một sự gắn kết tình cảm giữa các thành viên trong cộng đồng với
một niềm tin thiêng liêng thể hiện ước mơ về cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc trong
đời sống tinh thần của người nông dân. Đó cũng là ý nghĩa nhân văn cao cả mà
Kim Lân muốn gởi đến người đọc qua văn xuôi phong tục của ông.
Phải quan sát nhiều và tìm hiểu kỹ lưỡng, Kim Lân mới miêu tả được như
thế. Và cũng do vậy mà dù Kim Lân viết không nhiều, nhưng ông xứng đáng là
một trong những cây bút xuất sắc về phong tục và con người đất quê. Qua những
trang văn của nhà văn, người đọc có thể xem đó như những chỉ dẫn văn hóa về
các ngón chơi của những cao thủ làng vật, hay chọi gà, thả chim, đi săn…Và
trong từng trang viết, người đọc như được trực tiếp tham dự vào những thú chơi
làng quê thật ấn tượng: “Dưới mái đình, những chiếc giải gà buộc lõng thõng.
Ba chiếc giải: nhất, nhì, ba; và năm sáu chiếc giải lèo. Những vuông lụa điều
68
uốn éo nhẹ nhàng trong cánh gió. Cu Trạm say sưa nhìn. Nó ước mơ một chiếc
thắt lưng, trong khi mọi người chàng màng tìm gà kháp đá. Năm nay rất nhiều
gà. Nhưng con thì nhỏ quá, con thì to quá. Hạng bằng trang thì lại hơn xương,
hơn cựa. Kháp gà phải thận trọng cân nhắc suy bì từng li từng tí. “Hơn một cái
lông không chọi” cơ mà! Cả hội xem ra chỉ có con Hoa Mơ (…) là “đồng cân
đồng lạng” (…) Đôi bên thỏa thuận đem gà vào sở tại, xin đánh giải nhất. Mỗi
bên cược năm chục bạc. Còn sau này gọi thêm. Hai ông chủ kê đem gà ra sới.
Mọi người xúm đông quay vòng quanh bên ngoài vạch vôi. Hương Thân cầm con
Mã Mái. Ông bắt gà, thả gà, chữa gà khéo léo, và nhiều mánh lới có tiếng.
Hết giao vài díu, Hoa Mơ đánh Mã Mái một đòn cong hẳn cần lại, quay
liệng đi nửa vòng. Lý Khản gọi liền:
- Mười đồng ăn tám Hoa Mơ đây!
Sầy giơ tay:
- Bắt!
Hai người vừa trao tiền cho nhau xong, Mã Mái trả một đòn hầu dọc, Hoa
Mơ ngằn ra, và tiếp thêm mấy chiếc nữa, Sầy sung sướng reo:
- Tin! … Tin! … Mã Mái năm đồng nữa! Ai bắt không?
Đôi gà cũng lọt quản, mau đòn nên sát phạt nhau dữ lắm. Người xem đều
xuýt xoa khen là “kỳ phùng địch thủ”. Mới nửa hồ đầu mà quản con nào con ấy
như trát máu.
Những lúc thả gà, Hương Thân đã để ý bao giờ Mã Mái cũng buông trước
một đòn. Cho nên ông thả “lơi” cho đúng tầm chân đá. Người ta thận trọng từng
đòn một, trong lúc ăn thua này.
Đôi gà vẫn tranh hùng trả đòn kịch liệt, xô đi đẩy lại sát vào vòng người.
Hai ông chủ kê bắt gà của mình ra. Họ xoa nắn chà xát đùi vế và cho uống dấp
giọng một ít nước, thấm vào khăn mặt cho tỉnh táo. Rồi cùng lừa xem lối thả của
người kia thế nào. Lý Khản cũng sợ cái đòn buông của Mã Mái. Ông đặt giúi
Hoa Mơ vào sát. Nhanh nhẹn, Hương Thân nhắc lùi gà mình về phía sau. Được
thế rộng, đúng “võ” con Mã Mái buông liền. Nó đánh một đòn rất nặng. Cái đòn
69
di truyền của mẹ nó - Con Mái Củi Tạ - khiến Hoa Mơ hoang mang, biệng siệng
như say, chân thấp, chân cao tấp tênh và bối rối quay “tháo chái...” [65]
Và thật giản dị nhưng cũng thật sống động. Cái thú “phong lưu đồng ruộng”
của người nông dân trong văn xuôi Kim Lân vừa có nét riêng tinh tế và hóm
hỉnh. Bằng ngôn ngữ tự sự mang đầy tính khách quan, nhà văn đã ý thức thể hiện
những ngón chơi lành mạnh ở thôn quê bằng một giọng kể rất riêng mang đậm
“chất quê”. Và cũng chính cái “chất quê” đó đã giúp nhà văn khám phá những
giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
“Đôi chim thành” là truyện phản ánh thú chơi chim bồ câu, một nét sinh
hoạt văn hóa tinh thần của người dân thôn quê. Trưởng Thuận là người chơi chim
sành sỏi, nức tiếng làng phủ. Biết tiếng Trưởng Thuận “Các tay ăn chơi sành sỏi
đến chơi nhà ông trưởng rất đông” [65]. Ai cũng muốn xem đàn chim đã từng ăn
khao “liên tám trúng” của ông. Nể mọi người Trưởng Thuận mở lồng thả chim
cho mọi người thưởng thức, không may bị gió đánh bạt mất đàn chim, Trưởng
Thuận phát ốm. Khi đàn chim trở về, hai mắt ông “sáng lên vì sung sướng” [65].
Và còn một số tác phẩm Kim Lân cũng viết về các thú chơi như thế như Con
Mã Mái, Chó săn, Tông chim Cả Chuống… Ngoài ra, nhà văn cũng có một loạt
truyện ngắn viết về một nét sinh hoạt văn hóa khác, đấu vật, đấu võ. Có thể kể
một số tác phẩm tiêu biểu như: Cầu đánh vật, Thượng tướng Trần Quang Khải
- Trạng vật, Trả lại đòn, Ông Cản Ngũ …
Dưới đây là đoạn văn thể hiện không khí của hội vật ở nơi thôn dã, thật vui
nhộn, náo nức mang đậm màu sắc văn hóa của làng Việt cổ truyền: “Năm ấy hội
vật đền Đô vào đám to, tiếng đồn bay dậy khắp mọi miền xứ Bắc, chính vì có tin
ông Cản Ngũ phá giải. Các sân vật, các tay đô vật, những người ham thích xem
vật, đâu đâu cũng nghe bàn bạc, sôi nổi về ông Cản Ngũ… Tiếng trống vật nổi
lên dồn dập. Người tứ xứ đổ về đông như nước chảy. Ai ai cũng náo nức muốn
được xem mặt, xem tài ông Cản Ngũ. Người ta chen lấn nhau, quây kính quanh
sới vật, nhiều người phải trèo lên những cây trôi, cây nhội gần đấy xem cho
rõ” [65].
70
Kim Lân yêu cái làng Việt cổ truyền của mình, yêu tất cả các giá trị văn hóa
cổ truyền của dân tộc. Có như thế, nhà văn mới cảm nhận một cách sâu sắc về sợi
dây ràng buộc giữa các thành viên trong cộng đồng làng xã qua sinh hoạt văn
hóa, qua phong tục tập quán bằng một niềm tự hào kín đáo mà tinh tế đến thế! Và
đây cũng là một nét riêng độc đáo của Kim Lân so với các nhà văn khác cũng
tiếp cận làng quê từ khuynh hướng phong tục. Tất nhiên là để có sức hấp dẫn
riêng, Kim Lân phải nỗ lực sáng tạo, tìm tòi mới mẻ về nội dung và sâu sắc về
nghệ thuật. Sự nỗ lực này của Kim Lân chính là ông cố gắng diễn đạt cái chất
sống thực giản dị, chân chất tiềm ẩn trong những con người và đất đai quê hương
đồng bằng Bắc Bộ của ông nói chung. Chính vì thế mà nhà nghiên cứu Nguyễn
Đăng Mạnh khi nhận xét truyện ngắn viết về đề tài phong tục và thú chơi đồng
quê của Kim Lân đã khẳng định rằng: “Văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn
khi ông viết về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng” và
“Sở dĩ có sự hấp dẫn, không phải vì ở đấy, những tập quán ngộ nghĩnh kỳ lạ,
những thú chơi phiền phức, cầu kì được trình bày cặn kẽ, mà chính là nhờ nhà
văn đã hiển hiện lên được những con người ở làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy
nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời” [72]. Những con người ở làng quê nông
thôn trong truyện ngắn Kim Lân chính là những gương mặt tiêu biểu cho bao
nhiêu gương mặt làm nên giá trị văn hóa cổ truyền cho làng quê Việt Nam như
những Đô Tàn, Đô Lọng… (Cầu đánh vật), những Trạng Sặt, Trạng Kế…
(Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng vật)…, những Quắm Đen, Cản Ngũ,
Cả Lẫm … (Ông Cản Ngũ) …
Họ trong nghèo khó, quê mùa, chất phác nhưng họ lại mang những phẩm
chất tài hoa, có thú “phong lưu đồng ruộng” và họ đã tìm đến những thú chơi
dân gian truyền thống. Họ đã nghĩ và tạo ra rất nhiều trò chơi - những trò chơi,
thú chơi làng quê mang tinh thần văn hóa phương Đông. Đó là thú chơi chim của
Cụ Tú, của ông Trưởng Thuận, ông Đồ Sơn (Đôi chim thành, Tông chim Cả
Chuống), thú chọi gà của Cả Chuẩn (Con Mã Mái), thú đi săn của Cả Nội (Chó
săn)…
71
Dường như cuộc sống, sinh hoạt văn hóa ở nông thôn làng quê đồng bằng
Bắc Bộ cứ đeo đẳng trong tâm trí nhà văn. Và cứ thế, cứ thế Kim Lân cho ra đời
những truyện ngắn tuy không gây tiếng vang thật lớn trong dư luận nhưng in đậm
cốt cách khác riêng của ông. Đó là những câu chuyện về phong tục, sinh hoạt văn
hóa làng nhưng có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, giàu yếu tố lịch sử thể
hiện niềm tự hào về văn hóa cổ truyền của dân tộc (Anh chàng hiệp sĩ gỗ, Cầu
đánh vật, Thượng tướng Trần Quang Khải, Ông Cản Ngũ), hay những cái hay,
cái đẹp thuần túy trong tâm hồn của người nông dân Việt Nam qua những lễ hội,
những thú chơi mang đậm màu sắc dân gian (Đuổi tà, Đôi chim thành, Tông
Chim Cả Chuống, Con Mã Mái, Chó săn …).
Cái cốt cách riêng mà Kim Lân luôn giữ được khiến nó trở thành một bút
lực, một bản sắc khó trộn lẫn trong suốt cả một quá trình sáng tạo, dù ông viết
không thật nhiều và hầu như chỉ thủy chung với thể loại truyện ngắn. Đó là ông
luôn cố gắng tái tạo cái chất sống thực của cuộc đời vào tác phẩm bằng sự lựa lọc
kỹ càng, tỉ mỉ, thấu đáo, pha lẫn một chút vui tươi hóm hỉnh nữa, để rồi qua đó
Kim Lân gửi gấm tư tưởng, tình cảm và quan niệm của một nhà văn luôn xem
trọng chữ “tâm”.
Thứ hai: Đó là vẻ đẹp của những con người giàu lòng nhân ái, giàu tình
thương và sống rất có tình, có nghĩa.
Chính nhà văn Kim Lân đã từng đưa ra ý kiến về chân lý của văn chương
“Trong văn chương phải có cái tâm” [18]. Điều này đã giúp chúng ta hiểu rằng
truyện Kim Lân không đơn thuần là những trang miêu tả mà ẩn sau đó là cả một
tấm lòng - một tâm hồn Việt. Cái tinh hoa cốt cách Việt Nam qua sáng tác của
Kim Lân, chính là sự phong phú của tâm hồn người nông dân Việt Nam cùng tài
năng và sự khéo léo của họ. Điều mà Kim Lân đặc biệt muốn nhấn mạnh ở đây
chính là tình người, cái truyền thống đạo lý muôn đời của dân tộc Việt, con
người Việt.
Đọc những trang văn xuôi phong tục của Kim Lân, chúng ta sẽ thấy hình
ảnh của những người nông dân - những con người quê mùa, suốt đời lam lũ “đầu
72
Ông Đồ Sơn rất yêu quý và say mê với đàn chim của mình “suốt ngày chỉ
quanh quẩn với chim cò”, còn tất cả mọi việc khác ông đều không quan tâm. Từ
việc lớn đến việc bé trong gia đình đều do một mình bà Đồ - vợ ông chu toàn tất.
Những tưởng lấy một người chồng như thế thì bà Đồ sẽ than phiền. Ấy vậy mà
bà Đồ không hề kêu ca, mà ngược lại còn lấy làm tự hào với bà con hàng xóm vì
“Có được một người chồng như ông Đồ kể cũng hiếm chứ. Chẳng may lấy phải
con người chơi bời cũng còn phải chịu nữa là” [52]. Do đó bà hết mực chiều
chồng “ông muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi” còn bà thì cứ lẳng lặng lo tròn
trách nhiệm của một người vợ, người mẹ đối với chồng, với con. Như thế cũng
đủ thấy trong gia đình của họ sống rất tình người. Giữa họ có một tình cảm gia
đình thật sâu đậm. Đó còn là tình cảm của gia đình ông Trưởng Thuận (Đôi chim
thành), ông Cả Chuẩn (Con Mã Mái), Ông Cả Nội (Chó săn) …
Còn bao nhiêu hình ảnh chi tiết cảm động, tình nghĩa khác nữa mà Kim Lân
muốn chắt chiu tả, kể với chúng ta. Đó là cái tình luân lý, láng giềng của những
người nông dân nghèo ở làng quê Việt Nam (Đôi chim thành, Tông chim Cả
Chuống), hay là tình cảm của cha, của mẹ đối với con cái (Cầu đánh vật …). Đó
là tình cảm cộng đồng sâu sắc của người dân quê (Con Mã Mái, Đuổi tà, Ông
Cản Ngũ, Anh chàng hiệp sĩ gỗ) thể hiện một nét đẹp văn hóa mà qua đó, ta
thấy họ không chỉ sống với khát vọng cơm áo mà họ còn sống với niềm vui, khát
khao về văn hóa tinh thần. Đó là cái tình yêu của con người Việt Nam đối với
quê hương đất nước, với văn hóa cội nguồn của dân tộc (Thượng tướng Trần
73
Như vậy, xem cốt cách văn hóa, con người văn hóa và cảm hứng “phong
tục” như là một nội dung tự sự, Kim Lân đã kết hợp rất hài hòa tinh thần nhân
văn, nhân đạo của ông với những phong tục, những sinh hoạt văn hóa làng quê,
với những tình cảm cộng đồng sâu sắc và thấm thía. Đây là một nét rất đặc biệt
trong tình cảm thẩm mỹ khi đọc văn Kim Lân. Nhà văn dường như bằng ngòi bút
thủ thỉ, chậm rãi của mình đã làm được cùng một lúc hai công việc: công việc
của những nhà văn phong tục - truyền cho độc giả cội nguồn của phong tục văn
hóa làng quê mang đậm màu sắc dân gian, cùng với ý thức tôn trọng giữ gìn
những giá trị văn hóa của dân tộc - và công việc của nhà văn nông thôn - truyền
đến cho độc giả vẻ đẹp tâm hồn của người dân quê. Ở đây, yêu nước và nhân đạo
đã có một sự kết hợp độc đáo. Đặc biệt là sự trân trọng ca ngợi những người dân
lao động nghèo, những mảnh đời “đầu thừa đuôi thẹo” gắn với tình cảm yêu
mến quê hương, cộng đồng làng xóm. Tất cả những biểu hiện của cái nhìn “nhân
học” nhiều phía trên đây đều hội tụ trong bức tranh nông thôn đồng bằng Bắc bộ
và không gian làng - xóm độc đáo và rất quen thuộc của ông.
Tất nhiên, đọc Kim Lân, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy thiếu vắng những
nét vẽ hoành tráng, những xung đột gây cấn, những mâu thuẫn xã hội, những tính
cách dữ dội, những đấu tranh gay gắt trong tâm trạng, những lo toan chật vật vì
74
Mặc dầu vậy, Kim Lân đã tạo ra được trong nội dung VXNT của ông một
khoảng trời riêng bằng một cái nhìn “nhân học” nhiều phía về con người ở làng
quê nông thôn Việt Nam.
75
Chương 3
PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT KIM LÂN
3.1. Phương thức tự sự
Là một bình diện quan trọng để nhà nghiên cứu khảo sát những đặc trưng
nghệ thuật của một tác giả VXNT. Phương thức tự sự cũng chính là hình thức
của tác phẩm nghệ thuật. Hình thức với tư cách là cái biểu đạt có tính độc lập thể
hiện phong cách nghệ thuật của một nhà văn. Hình thức tạo nên dấu ấn cá nhân
của người nghệ sĩ được in đậm lên trên tác phẩm: từ cách tổ chức tác phẩm, cách
xử lý đề tài, cách xây dựng nhân vật, tạo tình huống bố cục đến lựa chọn cách
trần thuật, giọng điệu, ngôn ngữ… Nghiên cứu phong cách nghệ thuật của Kim
Lân trên bình diện phương thức tự sự, luận văn cho rằng trong VXNT của ông, tự
sự mang tính tự truyện, vừa có truyện phi cốt truyện lại vừa có truyện có cốt
truyện và sự tập trung khắc họa ngoại hình và miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật.
Đặc biệt là trần thuật kết hợp hình thức trần thuật chủ quan với hình thức trần
thuật khách quan, sự hòa phối kỹ thuật trong ngôn ngữ giọng điệu… đã tạo nên
những áng văn mang âm vọng của đời sống nông thôn làng Việt cổ truyền là đặc
điểm rất nổi bật và là những biểu hiện tập trung của phong cách. Đây cũng sẽ là
nội dung mà chương ba của luận văn sẽ tập trung khảo sát qua VXNT Kim Lân.
3.2. Trần thuật chủ quan, khách quan
Trong VXNT hiện đại, trần thuật chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.
Theo đó, thủ pháp trần thuật cũng là yếu tố cho thấy đặc điểm phong cách nghệ
thuật của nhà văn.
Mỗi nhà văn thường chọn một cách trần thuật tốt nhất cho tác phẩm của
mình. Bằng sự luân phiên các điểm nhìn, khi gần, khi xa, khi cách biệt, khi hòa
hợp với đối tượng miêu tả, người trần thuật đã tạo ra được những góc độ khác
nhau để quan sát và phản ánh hiện thực. Qua cách trần thuật trong tác phẩm của
76
nhà văn, người ta thấy rõ quan điểm của tác giả, quan điểm của nhân vật. Một tác
phẩm được đánh giá là đặc sắc hay không chính là nhờ phần lớn vào nghệ thuật
trần thuật của nhà văn.
Kim Lân được coi là nhà văn của làng Việt. Sáng tác của ông luôn hướng
tới những phong tục, những sinh hoạt của văn hóa làng quê cùng với sự đồng
cảm, thương yêu trân trọng những người nông dân quê mùa, nghèo khổ, đói kém
mà vẫn thông minh, tài hoa và điều quan trọng là họ sống có đạo lý, có khát
vọng. Vì thế mà khảo sát đặc điểm thủ pháp trần thuật trong VXNT Kim Lân,
luận văn cho rằng nhà văn đã sử dụng một lối trần thuật riêng nhằm thể hiện cái
“tâm” của một người “vốn là con đẻ của đồng ruộng”… Do vậy mà các hình
thức trần thuật của ông cũng có những dạng sau đây:
3.2.1. Trần thuật chủ quan
Đây là lối trần thuật mà chủ thể trần thuật được nhân vật hóa. Đọc văn Kim
Lân, chúng ta thấy rất đậm dấu ấn chủ quan của nhà văn trong cách trần thuật và
kể chuyện. Ở đó, nhà văn trực tiếp bày tỏ cái “tôi” của mình trên trang sách một
cách chân thành - cái “tôi” đó chính là cái “tôi” hướng nội, nói tiếng nói của cá
nhân, kể lại câu chuyện theo quan điểm cá nhân.“Tôi” trong loại truyện này hoặc
ở tư cách nhân chứng. Sử dụng lối trần thuật này, tác giả được tự do trong quan
sát, bình luận theo chủ kiến của mình. Khảo sát 33 truyện ngắn của Kim Lân
chúng tôi thấy có 9 truyện được trần thuật theo phương thức trần thuật chủ quan.
Có thể coi đây là một hiện tượng khá đặc biệt ở truyện ngắn Kim Lân.
Để lợi dụng triệt để thế mạnh của lối trần thuật này, Kim Lân thường chọn
nhân vật là những người nông dân nghèo khó, những con người “đầu thừa đuôi
thẹo”, những người vừa có khả năng quan sát, nhận diện con người qua hình thể,
lại vừa có khả năng đi sâu vào tâm lý và suy nghĩ của đối tượng. Năng lực khám
phá của nhân vật mở dần theo truyện. Từ cảm tính đến lý tính và lý tính ngày
càng khẳng định điều nhận thức từ cảm tính buổi đầu. “Vợ chồng anh đội
trưởng” có thể coi như một truyện điển hình cho lối trần thuật theo nhân chứng.
77
Toàn bộ câu chuyện về chuyến công tác ở Tam Tiêu của vợ chồng anh đội
trưởng được kể lại bởi vai trò chủ thể trần thuật là một người dân sống ở Tam
Tiêu. Trước tiên là sự cảm nhận về những sinh hoạt hằng ngày trong chuyến
công tác, cho đến hành động phẩm chất của vợ chồng anh đội trưởng trong một
đợt chống bão cùng với người dân ở Tam Tiêu… Những chi tiết đó chỉ có thể
quan sát được bằng con mắt và thói quen của người nông dân.
Bắt đầu từ sự quan sát đó, sự cảm nhận càng ngày càng được khẳng định
bởi vì nhân chứng này ở vị trí thuận lợi vốn có, đã có điều kiện để quan sát vợ
chồng anh đội trưởng trong suốt thời gian công tác đến Tam Tiêu, cho nên đã gây
được ấn tượng sâu sắc về tinh thần tập thể và tấm gương lao động của vợ chồng
anh đội trưởng với người đọc.
MắcXim Gokki từng cho rằng “Trong tiểu thuyết hay truyện, những con
người được tác giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả
luôn ở bên cạnh họ, mách cho người đọc biết rõ phải hiểu họ như thế nào, giải
thích cho người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau
hành động của các nhân vật được miêu tả, tô đậm thêm cho tâm trạng của họ…
luôn luôn giật dây cho họ thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một
cách tự do và rất khéo léo mặc dù người đọc không nhận thấy những lời lẽ,
những việc làm, những mối tương quan của họ…” [22].
Kim Lân đã hướng vào nội tâm của nhân vật để phân tích và phát hiện vấn
đề ở đây với cái “tôi” riêng tư mang màu sắc số phận, nhân vật được hoàn toàn
soi chiếu dưới nhiều góc độ.
Điểm nhìn trần thuật từ nhân vật là nhân chứng còn được Kim Lân sử
dụng ở truyện “Cầu đánh vật”. Đây là truyện được kết cấu theo kiểu “truyện
trong truyện”. Kiểu kết cấu này giúp tránh được sự đơn điệu của lối kể theo một
giọng từ đầu đến cuối, đồng thời còn nhấn mạnh được tính khách quan. Ở truyện
này, người trần thuật đóng vai trò là người dẫn truyện, ngoài đoạn mở đầu đã “tự
rút lui để nhân vật của mình tự tìm đến độc giả” [84]. Lúc bấy giờ người trần
thuật vừa là nhân chứng lại vừa là nhân vật chính. Góc độ trần thuật của truyện,
78
trên thực tế vừa được soi chiếu từ câu chuyện của đô Cót, lại vừa được soi chiếu
từ sự quan sát của người được nghe kể.
Theo dòng hồi tưởng đô Cót - một tay đô lão luyện “đã từng mấy năm ăn
giải cạn tiếng tăm lừng lẫy khắp vùng Từ Sơn”, về những câu chuyện đấu vật nổi
tiếng, những “chiến công oanh liệt” của sân vật Cẩm Giang…, tất cả như đang
được sống lại.
Cả một cuộc đời đi đấu vật, nay đã là “một đô già hết thời”, đô Cót kể lại
những câu chuyện đấu vật ngày xưa mà mình đã chứng kiến bằng tinh thần của
một con người thượng võ với một sự nhớ tiếc, buồn bã. Ông đã tiếc cho thời thế
biến thiên, tinh thần thượng võ của ta ngày một suy kém và gần như là bị quên
lãng.“…Và từ một phía khác, người kể chuyện - nhân chứng cũng muốn đem tất
cả cái hay, cái lạ đặc biệt của môn đấu vật ra vẽ lại để cho chúng ta cùng thấy
được cái tinh hoa ngày xưa của cha ông.
Thời bấy giờ các quan võ phần nhiều là đô vật. Làng tôi cũng có mấy ông
được tiến cử vào tận trong kinh đô.
Những lúc vua ngự giá đi đâu thì ngồi trên cánh tay một đô vật.
Cậu tưởng tượng xem: một người to lớn đẫy đà, đầu đội mũ lưỡi búa,
mình đóng khố bao, khăn vắt. Một tay khuỳnh ra làm ngai cho vua ngự, còn một
tay cầm tàn che, có phải oai phong lẫm liệt biết là bao nhiêu không. Vì thế, làng
tôi thời ấy mới có mấy ông như: đô Tàn, đô Lọng, đô Kiệu, đô Cờ (…) Đấy cậu
xem, ngay như cái “cầu đánh vật” và mấy phiến đá bắt qua lạch, chính là của
mấy ông đô làng tôi lúc về già mang về đấy…” [65]. Từ những góc nhìn này,
Kim Lân đã tập trung soi vào cái phần khuất lấp trong ý nghĩ của nhân vật, để
làm sáng lên các phẩm chất mà cảm nhận bình thường không thể thấy được,
không thể cắt nghĩa được.
Ở một loại truyện khác, người kể chuyện đồng thời cũng là chủ thể trần
thuật. Khi hoàn toàn hòa nhập vào nhân vật, tác giả sẽ có rất nhiều lợi thế để
quan sát để giải bày, kể cả việc đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật.
79
Trong truyện “Người chú dượng”, nhân vật ông Mộc Gù đã bộc lộ tâm
trạng thật của mình - một tâm trạng mà những người hàng xóm của ông không
thể nhìn thấy được - trong những lần bị xa lánh hắt hủi. Đối diện với những bất
hạnh của mình, ông Mộc đã bộc lộ cái khát khao về tình cảm bạn bè để được chia
sẻ, tâm sự. Với “hai con mắt đỏ đòng đọc như mắt trâu điên. Hai con mắt mỗi
khi chĩa vào ai lại ánh lên những tia sáng hằn học, thèm khát khó hiểu” [65]. Đó
cũng chính là đôi mắt của nhà văn Kim Lân đang nhìn sâu vào nhân vật - đôi mắt
đau đớn, thương xót, vừa như uất hận, oán trách lại vừa tin tưởng, khát khao của
một sự đồng cảm sâu sắc. Đó cũng là lý do khiến cho “Người chú dượng” thể
hiện một cách đầy đủ sự đau khổ mang đầy kịch tính trong nội tâm nhân vật ông
Mộc. Biểu hiện bề ngoài của một nội tâm đầy kịch tính đó chính là sự chửi bới,
quát tháo ầm ĩ,“có hôm rượu vào hắn khóc, có hôm rượu vào hắn hát” nhưng tất
cả đều “nghe ghê rợn và sầu thảm như tiếng con chó ngộ tru lên từng hồi dài khi
nó sắp chết” [66].
Nhân vật Hiền trong “Ông Cả Luốn gốc me” được Kim Lân xây dựng
thành công cũng chính là do nhà văn - người kể chuyện đã đứng ở ngôi thứ nhất
để trần thuật. Chủ thể kể “tôi” chính là một nhân vật phụ trong tác phẩm. Câu
chuyện về ông Cả Luốn thường được chủ thể kể “tôi” kể lại cho nên câu chuyện
chủ yếu được vận động theo quan điểm chủ quan của nhân vật “tôi”. Ông Cả
Luốn chỉ vì chút tài sản riêng mà phải ngày đêm dằn vặt, hao tâm khổ trí gây
buồn phiền lục đục trong gia đình để hàng xóm còn chê bai là bảo thủ, chậm tiến,
cản bước đi của phong trào hợp tác nhưng ông cũng không phải hoàn toàn là
người xấu. Suy nghĩ của ông chẳng qua là suy nghĩ của người nông dân có óc tư
hữu. Thật ra thì ông chưa bao giờ có ý nghĩ là sẽ chống lại phong trào phát triển
của hợp tác xã. Chính vì thế mà sau những ngày đêm dằn vặt với lòng tự trọng
của một con người có thứ bậc trong dòng họ, ông đã nộp đơn xin vào hợp tác xã.
Kể chuyện ông Cả Luốn như vậy, Kim Lân sẽ có lợi thế, nhà văn có thể cùng
một lúc vừa miêu tả hiện thực cuộc sống nông thôn thời kỳ đầu Cách mạng xã
hội chủ nghĩa, lại vừa thể hiện trực tiếp suy nghĩ của mình về hiện thực ấy. Mặt
80
Tương tự, nhân vật ông Trạch trong “Người kép già” cũng được Kim Lân
kể lại ở ngôi thứ nhất. Lối kể này một mặt đã tạo cho ông Trạch - người kép già
nhớ lại quá khứ của “một thời hoa niên lừng lẫy, tưng bừng ánh sáng và âm nhạc
thuở trước”, ông đã bỏ vợ, bỏ con của mình trong suốt mười lăm năm trời. Mặt
khác, ông tự mình “giải tỏa” cho mình ra khỏi những điều khó xử trong quan hệ
với gia đình vợ con… và thu mình đón nhận lòng thương hại cũng như sự hắt hủi
của người cháu họ. Cho nên trong nỗi đau thất thế của mình hôm nay, ông Trạch
vừa xót xa, ân hận vừa cảm thông, thấu hiểu sự hi sinh, chịu đựng, vất vả của vợ
con. Khi nhân cách cá nhân được đặt trong trường nhân bản để thẩm định thì
những khuyết điểm, sai lầm do thói đời sẽ được chính sự sám hối chân thành này
tẩy rửa. Ông Trạch trong “Người kép già” vốn là “con người văn hóa”, ông có ý
định phục hồi lại nghệ thuật hát tuồng, giữ lại bản sắc văn hóa truyền thống cho
dân tộc, có lòng tự trọng cao, dù trong hoàn cảnh thất thế ông cũng không đang
tâm làm khổ vợ con. Ấy vậy mà vẫn có những lúc tầm thường, thiếu suy nghĩ
nhưng lại biết xót xa ân hận cho những sai phạm của mình. Con người ông Trạch
hoàn toàn vẫn là một nhân cách đáng nể, đáng phục, đáng cảm thông. Kim Lân
đã đi vào “con người trong con người” của nhân vật để tìm hiểu, biện minh và
hành động theo một lôgic tính cách hoàn chỉnh.
Đặc biệt trong truyện “Con chó xấu xí” sự hoá thân của tác giả vào nhân
vật tôi - một nhà văn thật sự ân hận, day dứt trước sự “chia ly phũ phàng” với
con chó tội nghiệp - hoàn toàn phù hợp để Kim Lân thực hiện ý đồ nghệ thuật
của mình. Kim Lân đã thực sự xúc động, vừa cảm thương, vừa mến trọng cho
tấm lòng trung thành của một con vật bị con người bỏ rơi trong hoàn cảnh con
người phấn đấu giành lại sự sống cho mình, lại vừa thể hiện được tâm trạng của
người trần thuật. Đó cũng chính tâm sự và sự giải bày tấm lòng trung trinh của
một nhà văn theo Cách mạng. Hoá thân vào nhân vật xưng “tôi”, Kim Lân đã có
một điểm nhìn riêng cho “Con chó xấu xí”, tạo nên một giọng văn khác với
81
3.2.2. Trần thuật khách quan
Đây là một lối trần thuật phổ biến, ở đó giữa nhà văn và nhân vật luôn tồn
tại một khoảng cách. Nhà văn là người biết hết mọi điều, mọi người và dẫn dắt
nhân vật, chèo lái câu chuyện theo ý của mình nhưng lại không xuất hiện mà chỉ
ẩn ngầm. Đặc điểm này xuyên suốt trong các sáng tác của Kim Lân.
Khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật được thu hẹp dần. Từ điểm nhìn
bên ngoài (hướng ngoại) để tiếp tục khẳng định cho một tư tưởng có sẵn, điểm
nhìn trần thuật đã chuyển vào bên trong (hướng nội). Từ chỗ được miêu tả theo
quan điểm của tác giả, nhân vật đã hoàn toàn vận động một cách khách quan theo
tính cách, trong hoàn cảnh cụ thể của mình. Như một người “biết hết”, nhưng
nhà văn ẩn đi, hoặc từ một chỗ đứng bên ngoài, chọn một mảng đời, một đoạn
đời trong cái dòng đời tuôn chảy để quan sát cuộc sống, hoặc nhập vào nhân vật
để sống với họ trong những suy nghĩ vui buồn …
Hầu hết những truyện ngắn thuộc đề tài thế sự của Kim Lân đều được viết
theo lối trần thuật này. Theo khảo sát, chúng tôi thấy số lượng truyện ngắn sử
dụng lối trần thuật này lên đến 25/33 truyện. Song ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập
đến một số truyện tiêu biểu.
Với cách trần thuật này, người đọc thấy giữa tác giả và nhân vật luôn có
một khoảng cách nhưng tính chất của khoảng cách ở đây khác với loại truyện
khác. Nhà văn như một “lữ khách”, đứng nhìn dòng đời trôi chảy bằng sự quan
sát tinh tế của mình đã phát hiện ra cái không bình thường trong cái bình thường
của cuộc sống và con người. Bài học về đối nhân xử thế toát ra một cách âm
thầm đằng sau câu chuyện được trần thuật. Thỉnh thoảng, tác giả như một người
dẫn truyện vui tính có xen vào một đôi câu bình luận dí dỏm hoặc thâm trầm.
Đứng hoàn toàn ở vị trí khách quan để quan sát nhân vật Cô Viạ - cô gái
chịu nhiều thiệt thòi bất hạnh ở quê lên phố huyện sống nương nhờ vất vả, Kim
82
Hoặc sự hồn nhiên trong cư xử của nhân vật Ứng trước những nỗi đau của
Vịa. Có thể nói, sau lần vấp ngã, Vịa trở nên “dở dở bầm bầm”, cô luôn sống với
ảo tưởng được làm vợ Phán Đường, có cuộc sống giàu sang, sung sướng, hạnh
phúc. Biết Vịa có tính “cám hấp” nên Ứng đã phỉnh phờ đùa cợt, trêu chọc cho
vui để rồi tạo nên một niềm tin, niềm hy vọng khát khao trong Vịa. Nhưng ảo
tưởng chỉ là một giấc mơ, cũng như những lời đùa của Ứng thì không bao giờ có
thật. Con đường đi tìm hạnh phúc của Vịa trở nên vô vọng. Cô đã mất trí và chết
trong sự bùi ngùi, đau xót, luyến tiếc của mọi người, đặc biệt là với Ứng - người
vừa dễ xúc động lại vừa hồn nhiên trước nỗi đau của người khác. Đau xót trước
cái chết của Vịa, Kim Lân đã xuất hiện và lên tiếng thở dài. Với lối trần thuật
này, khi tính khách quan của hiện thực được gia tăng thì vai trò của chủ thể sáng
tạo càng ẩn kín. Ngoài những triết lý sâu sắc bất ngờ lộ ra thì trong phần lớn các
truyện này nội dung trần thuật trở thành một cơ hội cho người đọc chiêm nghiệm.
Kiểu trần thuật theo lối ẩn ngầm còn được biểu hiện dưới một hình thức
khác, khá phổ biến, đòi hỏi ở Kim Lân sự nỗ lực theo một hướng khác. Lối trần
83
84
Phổ biến hơn và ở đó cũng thể hiện đầy đủ hơn khả năng chiếm lĩnh thế
giới nghệ thuật, quan niệm về con người của Kim Lân là những truyện mà ông
hoàn toàn thâm nhập vào nhân vật, hòa mình vào nhân vật của mình. Anh chàng
hiệp sĩ gỗ (Anh chàng hiệp sĩ gỗ), Bà cụ Tứ (Vợ nhặt), ông Cả Luốn (ông Cả
Luốn gốc me)… được khảm vào tâm trí người đọc không chỉ vì cái dáng vẻ bề
ngoài qua con mắt, cái nhìn, qua thái độ và bằng “giác quan thứ sáu” của nhân
vật khác trong truyện. Thâm nhập vào thế giới nội tâm, cho các nhân vật quan sát
và nghĩ về nhau, Kim Lân đã vận dụng nhiều lối đối thoại, độc thoại và cả cách
nói trực tiếp của mình để thực hiện ý đồ nghệ thuật. Người đọc có thể gặp ở đây
lối viết vừa kể vừa tả tâm trạng nhân vật. Và người đọc có thể tìm thấy nhiều
đoạn mà trong đó lời của chủ thể kể và lời độc thoại nội tâm của nhân vật hòa
vào nhau làm một. Anh chàng hiệp sĩ gỗ trong truyện ngắn cùng tên, được tác giả
miêu tả khá kỹ càng từ ngoại hình dến cử chỉ, thái dộ. Tất cả những điều đó chỉ
nhằm nói lên rằng anh chàng hiệp sĩ gỗ làm bằng gỗ nhưng lại có “trái tim
người”. Chính “trái tim người” đó đã làm cháy bỏng trong anh một ước mơ
thành “người” để đi khắp nơi cứu khổ cho con người. Anh phải đứng trước một
thử thách mà mụ phù thủy hứa giúp anh toại nguyện “phải giết chết một cô gái
lương thiện” [66]. Giết một con người lương thiện để bản thân mình được hóa
thân thì không thể được, thà suốt đời anh làm hiệp sĩ gỗ. Và vì thế mà anh đã
được thành người thật. Hoặc ông Cả Lẫm trong “Ông Cản Ngũ” được Kim Lân
nhìn từ cái nhìn của một tay đô đối thủ và của chính tác giả. Từ ngoại hình, nội
tâm, ông Cả Lẫm đã hiện lên như một tay đô vừa bình thường, vừa khác thường.
Đã là một tay đô thì ai mà chẳng thích được tiếng tăm lẫy lừng, thích dùng những
miếng võ tuyệt chiêu để hạ gục những tay đô có hạng, thích chiến thắng để mang
danh dự về cho làng, ai chẳng thích được mọi người ca ngợi, nể phục. Song là
một tay đô tài năng như: ông Cả Lẫm, chắc thắng ông Cản Ngũ một trăm phần
trăm, bỗng dừng tay chịu thua thì điều đó lại trở thành không bình thường. Trong
“Anh chàng hiệp sĩ gỗ” rồi “Ông Cản Ngũ”, nhà văn Kim Lân đã phân tích khá
kỹ diễn biến tâm lý của nhân vật, đồng thời ông cũng tạo cơ hội cho nhân vật tự
85
86
3.3. Những thủ pháp xây dựng nhân vật
3.3.1 Miêu tả tâm lí và sử dụng độc thoại nội tâm
“Nếu cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân
quả là nhà văn đích thực trên cái nghĩa ấy” [98]. Đọc truyện ngắn Kim Lân,
chúng ta thấy nhà văn xem việc đi sâu vào tâm lí trong xây dựng nhân vật như là
một lợi thế để tự mình bộc lộ với mình những cảm xúc và suy nghĩ trung thực
nhất.
Ông Hai trong “Làng” là một người nông dân thuần phác, đôn hậu và ông
yêu quê hương bằng nhận thức của người dân Việt Nam tự nguyện đi theo kháng
chiến gắn bó với cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Ông đã rất buồn, rất đau khi
phải rời xa làng để đi tản cư. Mặc dù với suy nghĩ “tản cư âu cũng là kháng
chiến” nhưng ở nơi tản cư, trong thân phận nhờ cậy người khác, lòng ông vẫn
luôn day dứt nhớ về quê hương - cái làng Giầu, nơi chôn nhau cắt rốn, gắn với
biết bao kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày của ông. Càng yêu làng, càng tự hào
về làng của mình, ông Hai càng đau khổ khi nghe tin làng của mình theo giặc,
làm Việt gian. Nỗi đau khổ của ông lên đến tột cùng, khiến ông giận lây mọi
người, ông căm thù tất cả “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải
thù…”. Lời độc thoại nội tâm đã khẳng định lòng yêu nước của ông Hai với ý
thức rất rõ, yêu ghét phân minh, rạch ròi. “Ông kiểm điểm từng người trong óc.
Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Quyết tâm một sống một
chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy” [55]. Vì yêu làng
mà ông Hai mới có những suy nghĩ dằn vặt đan xen giữa niềm tin và sự nghi ngờ
như thế và rồi ông lại tự vấn, tự lí giải để xóa đi những mâu thuẫn trong lòng
“Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta đâu bịa tạc chuyện ấy làm gì?”
[55]. Không còn nghi ngờ nữa ông Hai trở nên xót xa, đau đớn đến tột cùng
“Chao ôi, cực nhục chưa! Cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra
87
Tương tự thế, chúng ta còn thấy ở nhiều nhân vật khác của Kim Lân như
Đoàn (Ông lão hàng xóm), Ông Mộc (Người chú dượng), bà cụ Tứ (Vợ nhặt)…
Nhờ sử dụng độc thoại nội tâm gắn liền với mô tả tâm trạng, ngòi bút Kim
Lân có khả năng đi sâu phản ánh thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp. Bằng con
đường hướng nội này, Kim Lân đã làm giàu thêm nội dung phản ánh trong tác
phẩm của mình. Xét về phương diện xây dựng cốt truyện và nhân vật của nghệ
thuật truyện ngắn, dường như Kim Lân không tập trung hứng thú vào việc xây
dựng cốt truyện như các nhà văn khác nên nhiều truyện trong sáng tác của ông có
thể nói là phi cốt truyện, hiểu theo nghĩa là không có những biến cố gì đáng kể,
quyết định số phận nhân vật, do vậy mà truyện của Kim Lân thường rất khó tóm
tắt. Kim Lân chú ý xây dựng những tình huống khác nhau để nhân vật tự bộc lộ
tâm trạng và giải bày cảm xúc, tình cảm của mình. Mặt khác khi miêu tả tính
cách nhân vật, Kim Lân có thiên hướng chú tâm khai thác thế giới nội tâm sâu
kín của con người hơn là miêu tả cử chỉ hành động bên ngoài của nhân vật.
88
Tâm lý nhân vật bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” được Kim Lân thực
hiện qua những lời thoại trực tiếp hoặc độc thoại nội tâm theo dòng “ý thức” với
những nỗi niềm, những ký ức đau xót, nặng nề, những lo toan, buồn vui lẫn
lộn… “Dòng ý thức” đó thể hiện tâm trạng của một kiếp người nghèo đang đối
mặt giữa sự sống và cái chết. Tuôn chảy theo “dòng ý thức” đó, nỗi lòng về tính
cách nhân vật được bộc lộ dần. Nhờ thế, nhà văn không cần dẫn truyện mà vẻ
đẹp của nhân vật vẫn được khắc họa sinh động và sâu sắc.
Bà cụ Tứ khi vừa về đến nhà thì từ “ngạc nhiên” đến “băn khoăn”, bà lão
tự nghĩ “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào
đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà? Sao lại
chào mình bằng U? Ai thế nhỉ?” [65]. Những câu hỏi liên tiếp diễn ra trong dòng
độc thoại, chứng tỏ bà cụ Tứ hết sức bất ngờ, không tin là con trai của mình đã
có vợ. Bà lão đang ngạc nhiên vì chưa hiểu gì cả thì anh Tràng lại thông báo
“Kìa, nhà tôi nó chào U… nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi ấy U ạ!”[65]. Cúi
đầu nín lặng bà cụ đã hiểu ra biết bao nhiêu là cớ sự. Tâm trạng của bà mẹ nghèo
ngổn ngang và đan xen những buồn tủi cùng vời lòng thương cảm xót xa, bà
thương cho số kiếp đứa con trai mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho
con cái là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau
này, còn mình thì…” [65]. Bà cụ Tứ nghẹn ngào trong lòng. Bà thương cho đứa
con trai của mình và bà cũng thương cho “người ta có gặp bước khó khăn, đói
khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới lấy vợ được”[65].
Như vậy, chỉ cần những dòng độc thoại trong tâm trạng nhân vật mà người đọc
có thể cảm được tấm lòng nhân hậu, bao dung của bà cụ Tứ - một người mẹ
nghèo đáng thương, đáng quí.
Rồi bà đã nhẹ nhàng nói với nàng dâu: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên,
phải kiếp với nhau U cũng mừng lòng” [65]. Câu nói ngắn gọn nhưng thật ý nhị
đã vừa giải tỏa được nỗi lo âu phiền muộn của“người đàn bà xa lạ”, lại vừa như
trút đi gánh nặng phấp phỏng, đợi chờ của Tràng. Mặt khác, lời thoại đã biểu
hiện thái độ của một sự thuận tình, chấp nhận.
89
Thế nhưng, ngay sau đó bà cụ Tứ lại lo âu tự hỏi “liệu nó có nuôi nổi
nhau qua được cơn đói khát này không?” [65] rồi bà lại lặng đi khi nghĩ tới cuộc
đời cơ cực của mình, tủi thân cho số phận của chồng và đứa con gái. Từ đó bà
càng thương hơn cuộc đời của vợ chồng Tràng: “Cuộc đời của chúng nó liệu có
hơn bố mẹ trước kia không?” [65]. Bà thương con đẻ, thương cả con dâu nên bà
đã giải bày gia cảnh tạo sự đồng cảm để nàng dâu mới liệu bề mà cư xử, toan lo.
Rồi bà tiếp tục an ủi nàng dâu trong ý thức của một người mẹ hiểu rất rõ về việc
lấy vợ cho con thì phải như thế nào? “Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương
xót”, và nói với vợ chồng Tràng: “…Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là U
mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này U thương quá!”,
rồi bà “nghẹn lời không nói được nữa và nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”
[65]. Việc con trai có vợ vừa là nỗi lo, vừa là niềm vui. Song có lẽ hạnh phúc của
con trai mình là trên hết nên bà cụ Tứ đã vui nhiều hơn buồn. Chúng ta thấy bà
lão nói toàn là chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này để thắp lên trong
niềm mơ ước cho vợ chồng Tràng “… Ai giàu ba họ, ai khó ba đời?” [65] Bà đã
cố giấu đi nỗi lo trong lòng để động viên con mình.
Nhà văn rất tinh tế khi thấu hiểu và phát hiện những phẩm chất cao đẹp
của người nông dân - đặc biệt là người phụ nữ dù trong hoàn cảnh khốn cùng,
giữa sự sống và cái chết cận kề, họ vẫn yêu thương, cưu mang đùm bọc nhau,
vẫn lạc quan để hướng về một tương lai tươi sáng hơn.
Có thể nói tất cả những lời thoại diễn ra trong tâm trạng của bà cụ Tứ, dù
là độc thoại hay đối thoại, trực tiếp hay gián tiếp cũng đều toát lên phẩm chất cao
đẹp của một người mẹ nghèo, hiểu lòng người, nhân từ phúc hậu, luôn lạc quan
tin tưởng hy vọng vào tương lai trong mọi hoàn cảnh. Cách ứng xử ấy thật là ý
nhị, những ý tứ sâu xa cứ hiện dần qua từng lời nói, từng câu chữ của Kim Lân.
Cách miêu tả tâm lí nhân vật như thế ta còn thấy ở nhiều truyện khác của Kim
Lân như Con chó xấu xí, Làng, Ông lão hàng xóm,…
90
Qua đó, cũng đã cho chúng ta thấy được cái biệt tài riêng của nhà văn Kim
Lân trong việc sử dụng một trong những thủ pháp nghệ thuật để khắc họa tính
cách nhân vật.
Cùng với việc sử dụng lời thoại trực tiếp và gián tiếp trong “Vợ nhặt”
Kim Lân còn dùng yếu tố khắc họa tâm lý qua những biểu hiện bên ngoài. Có thể
nói anh Tràng được mô tả như một anh con trai tuy đã lớn tuổi mà chưa có gì
chính chắn, thậm chí hơi ngộc nghệch, nên thường là đối tượng trêu ghẹo, đùa
cợt của trẻ con trong xóm. Lúc đầu việc lấy vợ của anh chỉ là chuyện đùa, nhưng
sau thì thành chuyện thật “người phụ nữ lon ton đi theo anh” [65]. Thế là đã
thành vợ thành chồng. Anh Tràng có thoáng lo sợ, nhưng là người vô tâm nên rồi
anh “chặc lưỡi một cái: - Chặc kệ!” [65]. Trên đường đưa vợ về nhà, người đàn
bà thì bẽn lẽn nhưng anh thì tỏ ra đắc ý “Mặt hắn có một nét gì phớn phở khác
thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai con mắt thì sáng lên lấp lánh”,
thậm chí “cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình” [65], trước sự dòm ngó của mọi
người. Và vì vô tâm, ngộc nghệch nên suốt cả đường về Tràng chẳng biết nói gì
với người đàn bà đi bên cả, cứ bối rối rồi “tay nọ xoa mãi vào vai kia” [65], mà
chẳng thốt nên lời, mặc dầu anh rất muốn nói một câu gì đó thật “tình tứ”. Từ
khi có vợ, cuộc sống anh Tràng đã thay đổi, anh Tràng thật sự đã trưởng thành,
tự vun vén cho hạnh phúc của gia đình mình, hành động anh “…xăm xăm chạy
ra giữa sân, cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” [65], rất
thực, rất bình dị nhưng lại mang một ý nghĩa thiêng liêng - chính hạnh phúc gia
đình đã giúp anh Tràng “nên người” hơn.
Còn người vợ nhặt trong tâm trạng lần đầu tiên về nhà chồng, thị bước đi
rón rén, e thẹn,“tay cắp cái thúng con, đầu hơi cúi, cái nón rách nghiêng
nghiêng (…) chân nọ bước díu vào chân kia”[65] . Trông thị lúc này có cả cái e
thẹn của giới tính lẫn mặc cảm chua xót vì đã để người đàn ông “nhặt” về như
một cái rơm, cái rác. Có lẽ thị cũng đã buồn. Nỗi buồn của thị định hình trên đôi
mắt “tư lự” cứ dõi sâu vào con đường tre hun hút. Rồi khi về đến nhà Tràng thị
có vẻ lo lắng trong dáng mặt “bần thần” không biết sẽ ăn sao, nói sao với mẹ
91
Xây dựng hình tượng hai nhân vật chính của truyện - anh Tràng và người
vợ nhặt, chỉ bằng cái nét bút phác hoạ những biểu hiện bên ngoài mà Kim Lân đã
cực tả được sự khốn cùng của con người trong nạn đói. Mặt khác, nhà văn cũng
đã trân trọng ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của con người trong mọi hoàn
cảnh.
Ở truyện ngắn “Làng”, dường như sự hoá thân vào nhân vật của nhà văn là để cảm nhận những nỗi đau tinh thần bằng những cảm giác thật cụ thể của thể xác. Chẳng hạn như, để diễn tả tấm lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai, ngoài việc Kim Lân sử dụng thủ pháp độc thoại, đối thoại để khắc họa tâm lí yêu làng của ông Hai. Nhưng ngòi bút của Kim Lân cũng tỏ ra khá là tinh tế sắc sảo trong việc thể hiện tình yêu làng, yêu nước của ông Hai qua những biểu hiện bên ngoài. Khi nghe tin làng Giầu của mình theo giặc, tâm trạng ông Hai bàng hoàng, sửng sốt, còn “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được”, rồi “cúi gầm mặt đi thẳng và về đến nhà ông nằm vật ra giường”, “nước mắt ông lão cứ trào ra” [55]. Chỉ bấy nhiêu thôi, người đọc cũng thấy được nỗi đau đớn, tủi nhục trong lòng ông Hai. Đó cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn của một người nông dân yêu làng, yêu nước. Vẻ đẹp ấy tượng trưng cho tâm hồn Việt, văn hoá Việt. Tạo ra những chi tiết biểu hiện bên ngoài nhân vật, Kim Lân đã tạo điều
kiện cho ngòi bút của mình để làm bộc lộ tính cách nhân vật và cũng chính ở đây
ông cũng đã thể hiện nét tài hoa riêng biệt của mình. Nhà văn đã huy động đến
92
Rõ ràng sử dụng một cách đắc địa những thủ pháp đó, Kim Lân đã đi vào
được các ngõ ngách của tâm hồn, phát hiện ra những điều sâu xa ẩn sau cái vẻ bề
ngoài bình thường của sự đối nhân xử thế, có điều kiện hơn để đi sâu vào con
người, với những suy tư, chiêm nghiệm, những xúc động của tâm hồn và các
cung bậc tình cảm. Không thể nói đây là một sáng tạo riêng của Kim Lân, song
phải nói rằng, với thủ pháp này Kim Lân đã tạo được lợi thế và xây dựng nên
những nhân vật gây nhiều ấn tượng.
3.3.2 Khắc hoạ nhân vật bằng yếu tố ngoại hình và tên gọi
Con đường sáng tạo của Kim Lân cũng chính là sự khám phá những biểu
hiện khác nhau của tính cách, của đời sống nhọc nhằn, với bao biến cố mà bản
chất thầm kín nhất của con người không dễ dàng bộc lộ.
Trong cách xây dựng nhân vật, Kim Lân thường tạo cho nhân vật của
mình một vẻ đẹp tương đối hài hòa giữa nội dung và hình thức. Vẻ đẹp cũng như
tính cách, nhân cách của nhân vật thường được toát lên qua thần thái, cử chỉ, điệu
bộ, thậm chí là một đặc điểm ngoại hình. Tùy thuộc vào vấn đề, chủ đề và tính
cách nhân vật, Kim Lân đã chọn lấy một “điểm sáng” về ngoại hình hoặc cử chỉ
phù hợp để rồi trong suốt truyện, đặc điểm đó trở đi, trở lại nhằm thể hiện sâu sắc
hơn tâm hồn, tính cách của nhân vật.
Trong quá trình xây dựng nhân vật, Kim Lân không dành nhiều thời gian
cho việc miêu tả ngoại hình. Tuy vậy, đối với những nhân vật cần được nhấn
mạnh về vị trí xã hội, về tính cách… ông đã triệt để tận dụng những điều kiện
cho phép để đưa ra đặc điểm về hình dáng của họ. Nét vẽ chân dung của ông
thường chỉ là phác thảo, song luôn gây ấn tượng ban đầu cho người đọc. Trong
việc phác thảo hình dáng nhân vật ông thể hiện rõ quan điểm thẩm mỹ truyền
thống. Thường thì với người quyền quý là mắt sáng, xếch, môi đỏ, da trắng, có
nét “quý tướng”…, với người lao động thì đen, chắc, khỏe …
93
Đoạn tả Trạng Sặt (con vua - Thượng tướng Trần Quang Khải sau này).
“Cậu có khuôn mặt trái xoan, trắng trẻo. Chiếc mũi dọc dừa, thon dài, cặp môi
đỏ hồng như thoa son, hơi mỏng một chút nhất là mớ tóc đen nhánh dài đến gót
chân, khiến cậu có vẻ kiều mị như con gái, nhưng trái lại, cặp mắt sáng quắc
dưới cặp lông mày lưỡi mác rậm, xếch ngược trên tảng trán dồ cao” [65].
Những nét quý tướng được nêu khiến người đọc phần nào dự đoán được vị trí
của nhân vật sau này.
Nếu như đoạn tả Trạng Sặt với những nét quý tướng thì đoạn tả cụ Tú
trong “Đôi chim thành” lại hiện lên với dáng vẻ nhà Nho “An bần lạc đạo”:
“tuy tuổi cao nhưng cụ vẫn còn tráng kiện. Cặp mắt tinh anh dưới hàng mi dài.
Nước da hồng hào càng làm tôn bộ râu trắng muốt phất phơ trước ngực. Một tay
chống gậy trúc, một tay cầm quạt thước che nắng, súng sính trong chiếc áo lụa
trắng dài” [65]. Thật là một dáng vẻ của những vị tiên, của những nhà Nho đã
thôi “hành đạo”, “xuất thế” vui với cảnh điền viên an nhàn. Còn đây là đoạn tả
một đô vật trong truyện “Ông Cản Ngũ”: “Quắm Đen to trùi trũi như con trâu
mộng; Anh ta khỏe lắm. Gánh lúa của anh ta bao giờ cũng to gấp đôi ba lần
người khác. Anh có thể vật suốt ngày không biết mệt” [65]. Tả như vậy thật phù
hợp với một đô vật nhưng đoạn tả anh Vựa một đô vật khác trong “Cầu đánh
vật” còn sinh động hơn:
“Anh Vựa thực xứng đáng với tên. Thừa hưởng cái khí huyết cường tráng
của cha, anh có một thân hình lớn ai bì. Đôi vai rộng rãi, bề thế. Bộ ngực nở
nang rắn chắc, thây nẩy trên chiếc bụng đõn, bắp thịt nổi lên từng múi. Những
lúc anh dùng toàn lực để đối phó với một địch thủ nào, cái thân hình đen đủi ấy
bóng loáng mồ hôi càng làm tăng thêm những thớ thịt vằn vèo trên tấm lưng
cánh phản” [65].
Có thể nói, song hành cùng với việc khắc họa yếu tố ngoại hình rất thành
công của nhà văn trong những tác phẩm thuộc đề tài phong tục mà luận văn đã
trình bày bên trên, thì những tác phẩm thuộc đề tài thế sự của Kim Lân cũng
mang lại những bức chân dung sắc nét sống động đến từng chi tiết.
94
Trong “Đứa con người vợ lẽ”, thái độ vô tư, tự phụ của một con người.
Chỉ biết đến bản thân như ông Cả đã được Kim Lân thể hiện rất rõ qua những đặc
điểm bên ngoài. Thân hình thì “bệ vệ”, “phì nộn”, còn mặt thì “tròn, ngắn”, da
lại “trắng nhễ, trắng nhại, bóng loáng như bôi dầu”, khi đi thì “thắng bộ oai ra
phết”, “lúc nào cũng cắp cái cặp phồng to tướng…” [65]. Qua đó, người đọc
còn có thể hiểu thêm, đó là một con người có hoàn cảnh kinh tế giàu có, khá giả
hơn người, thế mà lại tiếc một hào mua phở cho em. Trong khi đó, tính cách, nói
cho đúng hơn là nhân cách của Nhược Dự trong (Con chó xấu xí) lại được ông
chọn thể hiện ở một góc độ khác. Dưới con mắt nhà nghề của một nhà văn,
Nhược Dự đã được “định dạng” ngay trên “khuôn mặt non choẹt” lúc nào cũng
“rầu rĩ, băn khoăn” với “cái đầu trọc nay đã mọc dài” cùng “bộ râu dài lượt
mượt, trắng nhầy” [59]. Chỉ đôi nét thôi mà Nhược Dự hiện lên với chân dung
của một con người kín đáo khó hiểu, rất khôn ngoan luôn tìm cách che đậy con
người thật của mình để từ chối lời mời cộng tác với Ủy ban kháng chiến. Có thể
nói đó là một con người cơ hội, giả dối, ham sống sợ chết chỉ mưu cầu cho lợi
ích riêng của mình.
Nhìn người theo con mắt của một nhà “tướng học dân gian”, ông đã quan
sát và vẽ nên khuôn mặt của từng người phù hợp với con người, nghề nghiệp và
tính cách của họ. Từ ông Chánh Bảy đến nhà sư “hổ mang” trong “Trả lại đòn”.
Ông Chánh Bảy thì có khuôn mặt dữ tợn của một “tay chơi khét tiếng” giàu có
được nhà văn miêu tả với “Cái bộ mặt to lớn, thô kệch, gan guốc, sạm đen. Cặp
lông mày sâu róm sếch ngược trên tảng trán dồ cao, chờm ra che cặp mắt trắng
dã, tròn như ốc nhồi, nhìn vào đâu thì trô trố không chớp. Cái mũi sư tử thấp
chẹt, sù sì, đỏ hỏn náu giữa hai chiếc xương lưỡng quyền nhô cao. Cặp môi thâm
sì như hai miếng thịt trâu chết vều lên để lộ bộ răng vẩu cải mả. Và cái quai hàm
bạnh ra rất lớn, râu quai nón lâu ngày chưa cạo mọc ra tua tủa, đen sì như bôi
nhọ nồi quanh mồm, quanh mặt” [65]. Còn ở nhà sư “hổ mang” thì “lão có một
nước da trắng trẻo hồng hào. Cái mũi dọc dừa nhòm xuống cái mồm mỏng dính,
tỏ ra hay nói. Nhưng đến đôi mắt thì thật là quỷ quyệt, gian hùng, nhỏ tí mà lúc
95
Dấu ấn thời gian, của sự từng trải, của sự vất vả, nghề nghiệp, đặc biệt là
chân dung của những “mảnh đời đầu thừa đuôi thẹo” cũng được ông quan sát và
thể hiện ngay khi miêu tả ngoại hình nhân vật. Từ người dân ngụ cư xấu xí,
nghèo đói, vất vả như anh Tràng hiện ra trong “thân hình vậm vạp”, và tấm lưng
thì to “như lưng gấu”, “cái đầu trọc nhẵn” đến ông Cả Luốn trong “Ông Cả
Luốn gốc me” hiện ra với dáng ngồi “im như khúc gỗ trên cái trường kỹ tre
cũ”, hai tay thì “chống má” còn “hai con mắt thì căng ra” trông ông già “sọp
hẳn đi và dúm dó như cái bị nát” [65]. Trong khi đó, để miêu tả người mẹ nghèo
lam lũ vất vả Kim Lân lại thể hiện bằng cái dáng “lọng khọng”, “vừa đi vừa lẩm
bẩm tính toán”, “còn đôi mắt thì cứ luôn hấp hái cho đỡ nhoèn” [65] (Bà cụ Tứ
trong Vợ nhặt). Hoặc khi miêu tả đôi mắt của một bà mẹ bất hạnh trong đau khổ,
dở dang, có con đi bộ đội, thì lại “đăm đắm, xa xôi như đang mệt mõi (…). Hai
con mắt nom thật hiền từ, mà cũng thật gan góc, nhẫn nại” (Bà Cẩn trong Bà mẹ
Cẩn). Còn khi miêu tả đôi mắt của một cô gái chịu nhiều thiệt thòi, thiếu thốn
tình cảm nên đã rơi vào bẫy tình, rồi trở nên thân tàn ma dại thì “Mắt trắng dã
giương lên lại nhìn xuống” (Vịa trong Cô Vịa).
Yếu tố dị thường cũng được Kim Lân dùng như một thủ pháp đắc hiệu để
làm rõ hơn phẩm chất nhân vật.
Trong truyện “Người chú dượng”, nhân vật ông Mộc đã mang một số nét
ngoại hình không bình thường so với các nhân vật khác trong những “mảnh đời
đầu thừa đuôi thẹo” của nhà văn. Người đàn ông này “độ ngoài năm mươi tuổi,
mặt ngắn, trán ngắn, bàn chân, bàn tay đều to ngắn, nứt nẻ, sần sùi như những
cành củi gộc”, lại có thân hình “lùn thấp và to lớn bè bè như cái cối xay” với
một dáng đi “khập khiễng (…) cái lưng gù càng gù lên, đầu rục vào trong vai”
và “tất cả những bắp thịt trên người, trên mặt, trên vai, trên cổ đều nổi u lên
từng cục và đang lặng lẽ di chuyển dưới lớp da đỏ cháy như đồng tụ”. Còn hai
96
Như vậy với “Người chú dượng”, Kim Lân đã bước đầu tạo ra một cách
nhìn sâu vào con người, ông phát hiện ra dưới lớp vỏ ngoài xù xì là một lớp trầm
tích. Đây cũng là cách nhìn riêng của Kim Lân trong xu hướng miêu tả ngoại
hình xấu xí - Ông quan niệm nét xấu xí dị thường như là sản phẩm của sự tác
động lẫn nhau giữa con người và hoàn cảnh.
Như vậy khi tả người ngòi bút của Kim Lân cũng hết sức sinh động, tinh
tế, tỉ mỉ. Mỗi nhân vật, mỗi kiểu người, ông đều có một ngôn ngữ riêng miêu tả
phù hợp với đối tượng. Điều này cũng góp phần tạo nên sự sinh động thành công
trong các bức tranh phong tục của nhà văn.
Ngoài tả người Kim Lân còn có những trang, đoạn tả con vật nuôi cũng
hết sức sống động. Ta hãy đọc một đoạn trong truyện “Con mã mái”:
“Tuy rằng cùng đàn với nhau mà đôi gà ấy mỗi con một vẻ, mỗi con đánh
một đòn. Con Ô mã mái tảng dày, mi trờm làm cho đôi mắt ếch sâu hoắm vào.
Mỏ tam sơn, ba múi, quăm quắm như mỏ diều hâu. Mình củ đậu, đuôi lá vả, tỏ ra
có sức bền bĩ, gan góc. Nhất là đôi quản đen bóng, rắn cứng như thép nguội. Hai
hàng vẩy một song song chạy từ khoeo đến bàn. Quản bên phải, sóng ngang với
cựa có một chiếc vẩy rất nhỏ cài vào nữa. Theo những tay chơi nói là chiếc vẩy
cào lợi hại lắm…
Nhưng đến con Sám Miến Hồng thì mới thực là tài ba có một. Với đôi
quản đầy vảy “khâu dao”, chỉ buông không cũng thành cần, cáo. Và nhất là hai
ngón “thái”, vênh vênh kỳ quái. Nó đã lấy vừa đúng mười hai con mắt trong
mười hai trận đấu. Sám Miến Hồng khét tiếng lên là con gà kỳ tài. Đến nỗi vần
97
Tả con vật như vậy thật là tỉ mỉ, tinh tường, sống động. Mỗi con vật một
vẻ riêng, một đặc điểm riêng, một tài riêng, như thế tác giả phải là người am
hiểu, quan sát tinh tế và có vốn từ ngữ thật phong phú mới viết được như vậy.
Nét riêng của Kim Lân còn thể hiện ở ý thức khi dặt tên cho nhân vật của
mình. Sáng tác theo khuynh hướng phong tục, chọn những người dân miền quê
cùng các phong tục, tập quán để miêu tả, Kim Lân cố gắng tận dụng những đặc
điểm tạo ra tính tự nhiên cho nhân vật. Đặt tên cho nhân vật là một trong những
biện pháp được nhà văn sử dụng một cách tích cực góp phần tạo nên chất phong
tục trong tác phẩm.
Ở nông thôn, với những người nông dân việc đặt tên người hết sức giản
dị. Họ thường mượn tên các dụng cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt để đặt tên, ví
như cái Hái, chị Dao, anh Bát, chị Chén… Họ dựa luôn vào thứ tự trong nhà để
gọi: chị Ba, ông Cả, anh Năm… Họ dựa vào đặc điểm bên ngoài của người đó để
gọi: Hai Đen, Tư Mập, Hùng Khèo…, dựa vào những nghề nghiệp chức vụ để
gọi: Binh chức, Cai Huy, Bá Kiến… Cách gọi tên trên trở thành thói quen thông
thường tự nhiên ở nông thôn.
Trong các tác phẩm viết theo khuynh hướng phong tục, Kim Lân đã sử
dụng thói quen truyền thống của dân gian để đặt tên cho các nhân vật như: Văm
Lớn, Trạch Khô, Quắm Đen, Trưởng Thuận, Cả Chuẩn, Trạng Sặt, Trạng Kế…,
cách đặt tên như thế phù hợp với việc diễn tả phong tục. Nhà văn tập trung vào
những con người bất hạnh nghèo khó, lam lũ, vất vả, tha phương kiếm sống ở
làng quê nông thôn mà nhà văn đã gọi họ là “những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp
các xó xỉnh của cuộc sống” (Người chú dượng). Và cái đặc điểm “đầu thừa
đuôi thẹo” ấy trước hết được Kim Lân thể hiện ngay ở việc đặt tên nhân vật.
Người đọc có thể thấy với loại nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo” này thì có loại
nhân vật có tên và có loại nhân vật không tên. Loại nhân vật có danh tính thì
cũng toàn là những cái tên quê kiểng như: Tư, Thân, Thạ, Tràng, Đục, ông Hai,
98
Lại nữa, thường thì những người phụ nữ khi về nhà chồng, cái tên cha mẹ
đẻ đặt cho cũng bị bỏ mất, mà được gọi tên theo chồng; khi có con lại được gọi
theo tên con. Trong truyện “Người chú dượng”, nhân chuyến về thăm dì của
người cháu họ, khi hỏi tên bà Bản thì không ai biết. Hóa ra họ gọi bà theo tên con
gái - bà Sen. Tương tự, chúng ta còn thấy tên bà Hai (vợ ông Hai trong Làng), bà
Tư (vợ ông Tư Mủng trong Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê)… cũng
thế.
Đây cũng là một tập tục của làng quê. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, chúng ta
sẽ thấy cách gọi như vậy ẩn chứa cả một nông nổi, một thân phận của người phụ
nữ nông thôn Việt Nam. Họ chịu đựng một nề nếp gia đình mang tính gia trưởng.
Mọi quyền tối cao trong nhà là do người đàn ông nắm hết. Họ chỉ là kẻ phụ
thuộc. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Lấy chồng thì theo
thói nhà chồng, toàn tâm, toàn ý cho chồng con, cha mẹ chồng. Và ngay cả cái
tên cha mẹ đẻ đặt cho cũng không được quyền giữ lại. Nhà văn Kim Lân hiểu rất
kỹ điều này, nên ông đã đưa vào tác phẩm của mình những cái tên đầy chủ ý như
99
3.3.3 Xây dựng nhân vật mang yếu tố tự truyện
Yếu tố tự truyện như một biện pháp để hiểu sâu hơn tâm lí nhân vật. Nhân
vật - tự truyện dễ tạo nên ở người đọc một sự đồng cảm, gần gũi và tin cậy, một
sự xúc động sâu lắng. Cái “tôi” tự truyện, cái “tôi” tâm sự thầm kín với người
đọc như là người thân của mình đã tạo ra một mối quan hệ gần gũi, tin yêu và
thông cảm lẫn nhau giữa nhà văn và công chúng. Điều đáng nói là Kim Lân
không thể tái hiện sự kiện theo kiểu biên niên khô cứng mà ông tập trung vào
những điểm chính yếu nhất, sinh động nhất để dựng lại thời quá vãng.
Tác phẩm của Kim Lân rất gần với Nguyên Hồng, Thạch Lam ở lối phân
tích tâm lí nhân vật tinh tế, lối viết đi sâu vào cảm giác; ở lối cảm hứng nhân đạo
chủ nghĩa. Đó là cảm giác phiêu dạt, tha hương, chết đường, chết chợ, sống vá
víu khổ sở mà vẫn muốn sống và sống tử tế. Chúng ta có thể kể đến ở đây rất
nhiều nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân như mẹ con Tư (Đứa con người vợ
lẽ) mẹ con anh Tràng (Vợ nhặt) mẹ con Thạ (Đứa con người cô đầu), ông Hai
(Làng)…
Song trong những nhân vật ấy nổi lên hai loại người: Người vợ lẽ và người
ngụ cư. Ở hai loại người này ta đều thấy con người tiểu sử Kim Lân, phiên bản
cuộc đời thân phận của hai mẹ con nhà văn.
Trước tiên nói về kiểu nhân vật người vợ lẽ. Chắc không phải ngẫu nhiên
mà truyện ngắn đầu tay của Kim Lân lại là “Đứa con người vợ lẽ”. Trong truyện
chúng ta thấy nhân vật là đứa con và người mẹ - người mẹ phải phiêu dạt kiếm
sống khắp nơi, còn Tư - đứa con ở nhà, bị bỏ đói, bị bắt nạt, bị khinh bỉ, mà
người khinh bỉ lại chính là ông Cả, con bà Cả cùng cha khác mẹ với Tư. Chính
điều đó đã làm cho Tư buồn tủi, xót đau cho thân phận của mình - làm con vợ lẽ
thì “chỉ là một phần thừa trong gia đình” [65]. Ở truyện ngắn “Vợ nhặt” cũng
100
Tiếp đến là thân phận của kẻ ngụ cư. Trong tác phẩm của Kim Lân, người
mẹ trong “Đứa con người vợ lẽ” cũng là một kẻ gốc gác ngụ cư. Tràng, người
vợ nhặt trong “Vợ nhặt” cũng đều là dân ngụ cư. Cả cái xóm Tràng ở được gọi
là “xóm ngụ cư”. Những người như ông Hai trong truyện ngắn “Làng” thực chất
cũng là thân phận ngụ cư, tuy rằng tình thế ngụ cư trong kháng chiến có khác đôi
chút. Bản thân dòng máu Kim Lân cũng có đến một nửa mang dòng máu dân ngụ
cư: mẹ ông quê ở Kiến An - Hải Phòng theo chồng về Phù Lưu - Kinh Bắc. Và
có lẽ vì thế mà thân phận ngụ cư trở thành một ám ảnh buồn bã trong thế giới
tinh thần của nhà văn. Gắn liền với thân phận ngụ cư là những cảnh đời phiêu
tán, lưu lạc, ăn nhờ ở đợ, gá nghĩa… Sau này, hình ảnh những nhân vật trên
quãng đường tản cư trong kháng chiến cũng là một dạng thức ngụ cư mới.
Điểm qua một số nhân vật mang tính chất tự truyện của Kim Lân, chúng
ta thấy rõ ràng nhà văn đã khơi gợi nguồn cảm hứng sáng tạo từ chính cuộc sống
gian nan, khốn khổ của chính cuộc đời mình, gia cảnh của mình, nghề nghiệp và
công việc của mình, quê hương làng xóm của mình để rồi nhà văn đã trút nông
nổi của thân phận mình vào trong trang viết. Nhưng qua đó, biểu hiện ra cả cuộc
đời. Văn Kim Lân chính là trái tim, là tấm lòng của nhà văn trải ra trước con
người và cuộc đời.
Hạt nhân tính cách của nhân vật này được tác giả nhắc lại nhiều lần, đó là
khả năng nhìn đời sống một cách chăm chú, khả năng đồng cảm, nói rõ ràng hơn,
khả năng đau bằng chính da thịt mình, nỗi đau của những người khác. Kim Lân
đã thật sự “nhập thân” vào nhân vật, sống cùng nhân vật, cùng quá khứ đã qua.
Mỗi nhân vật mang tính tự truyện của Kim Lân đều là nguyên mẫu từ chính cuộc
đời của ông - bất hạnh, nghèo khổ, bần hàn, cơ cực giữa bóng tối của cuộc đời
nhưng tâm hồn luôn tỏa sáng, soi rọi vào những người xung quanh.
101
Chính nhờ thế mà nhân vật mang tính tự truyện trong truyện ngắn Kim
Lân luôn tạo được tình cảm đặc biệt nơi người đọc. Có thể nói Kim Lân là một
trong số ít các nhà văn đã thành công khi khắc họa kiểu nhân vật này.
3.4 Xây dựng tình huống và cốt truyện; ngôn ngữ và giọng điệu
3.4.1 Xây dựng tình huống và cốt truyện
Tìm hiểu các dạng thức tình huống đặt ra trong sáng tác là một công việc cần
thiết trong quá trình tìm hiểu phong cách nghệ thuật của một nhà văn. Từ lâu, vai
trò của tình huống được các nhà văn, các nhà nghiên cứu đánh giá cao. Chúng ta
có thể thấy đôi khi nhà văn chỉ cần nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra câu
chuyện thật hay mà “không cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng
nó là cái cớ chắc chắn, hết sức cụ thể và mang tính riêng, ở đó cốt truyện và
nhân vật nương tựa vào nhau để thực hiện đắc lực tất cả ý định của tác giả”
[24]. Như vậy cũng có nghĩa tình huống là một phương tiện rất quan trọng trong
nghệ thuật viết văn. Kim Lân rất coi trọng vai trò của tình huống trong sáng tác
của mình nên ông đã xây dựng rất nhiều tình huống khác nhau làm nên những
đặc trưng riêng cho mình.
Có thể thấy, có những cốt truyện không biến cố, kịch tính, nhưng truyện vẫn
phải hình thành một tình huống cụ thể. Còn đối với những truyện ngắn thông
thường, tình huống là bối cảnh đặc biệt mà tác giả tạo ra để triển khai cốt truyện,
để nhân vật hành động, suy nghĩ. Thường ở loại truyện này, tình huống được tạo
nên bằng một sự kiện gây tác động mạnh mẽ đến đời sống nhân vật.
Phân chia ra các dạng tình huống khác nhau, trên thực tế, chúng tôi quan
niệm đây chỉ là một việc làm tương đối. Mọi hoạt động sáng tạo của nhà văn
chung qui lại đều nhằm diễn tả sự vận động của nhận thức về tư tưởng, về thẩm
mỹ mới cho người đọc. Do vậy, việc phân chia các dạng tình huống khác nhau,
chủ yếu vẫn là tiếp tục những thao tác cần thiết để tìm hiểu các “phương tiện
102
Khảo sát các sáng tác của Kim Lân để tìm ra những dạng tình huống phổ
biến, chúng tôi xem đây là một thao tác để tìm hiểu sự “độc đáo lặp lại và phát
triển” trong quá trình tiếp cận hiện thực đời sống con người.
Dạng tình huống tự nhận thức:
Đây là một dạng tình huống mới xuất hiện trong các sáng tác viết sau Cách
mạng tháng Tám của ông. Sự ra dời của nó gắn với những trăn trở trong đổi mới
tư duy nghệ thuật, trong việc nhận thức về mối quan hệ giữa văn học và hiện
thực, về khả năng thực tế của con người trong đời sống, về công cuộc cải cách
ruộng đất ở nông thôn. Những truyện ngắn có dạng tình huống nhận thức vừa thể
hiện cuộc hành trình tư tưởng của cá nhân lại cũng vừa thể hiện cách nhận thức
của cá nhân con người về bản thân và xã hội với điểm nhìn hoàn toàn khác trước.
Những truyện tiêu biểu cho dạng tình huống này trong truyện ngắn Kim Lân có
thể kể đến như Làng, Người chú dượng, Ông Cả Luốn gốc me, Vợ nhặt, Bố
con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Nên vợ nên chồng, Chị Nhâm, Tìm em,
Con chó xấu xí… Ở đây chúng tôi chỉ xin đơn cử một vài trường hợp, chẳng hạn
tình huống truyện mà ở đó lần đầu tiên con người được coi như một đối tượng để
khám phá từ nội tâm là truyện ngắn “Người chú dượng”. Một giả thiết được đặt
ra nếu như anh Mộc gù không có lương tâm thật thì trước sự bêu rếu, đồn đại,
ghẻ lạnh của mọi người, anh có thể tìm những biện minh để người ta không còn
xa lánh anh nữa, họ sẽ có thái độ khác đi. Mặt khác, nếu chỉ cần anh Mộc có thể
nói ra tất cả sự thật ở gia đình ông Dưỡng và câu chuyện đau xót về người vợ mê
trai của mình thì tình huống truyện cũng sẽ khác đi. Đằng này anh Mộc vẫn cứ
103
Tạo tình huống cho nhân vật nhận chân về bản thân để từ đó sửa chữa những
sai lầm dẫu vô tình hay cố ý, vấn đề tự nhận thức được Kim Lân đặt ra chủ yếu
từ yêu cầu đối với việc xác định đối tượng của nghệ thuật. Tất nhiên vấn đề tự
nhận thức còn được mở rộng ra trên nhiều phương diện khác của đời sống mà
“Con chó xấu xí” là một trường hợp. Nhân vật xưng “tôi” là một nhà văn theo
Cách mạng đến khi kháng chiến với tình thế nguy cấp là phải chạy loạn tản cư đã
khiến nhà văn rơi vào tình thế khó xử trước việc ra đi của gia đình rồi con chó
của họ sẽ như thế nào - để nó lại hay mang nó theo? Và sau những ngày suy nghĩ
đắn đo thì con chó được bỏ lại cho một người quen trong “tiếng lồng lộn, cuống
quýt như kêu cứu, như van khóc”. Song cũng thật là bất ngờ là sau những ngày
chạy giặc vất vả, con chó đã không bỏ chủ mà lê lết tìm về ngôi nhà cũ, đói khát
kiệt quệ, làm cho nhà văn thật sự cảm động.“Chao ôi! Con chó xấu xí ấy của tôi!
Nó đã chết một cách thảm thương và trung hậu quá!” [59]. Đặt ra tình huống về
sự trung thành và cái chết của con chó, Kim Lân đã vừa đưa ra một cách nhìn cho
những nhà văn đứng bên lề cuộc sống, cuộc kháng chiến chung của dân tộc -
những con người cơ hội, ham sống sợ chết, vì lợi ích riêng của mình mà bán rẻ
lương tâm để phản bội bạn bè, phản bội Tổ quốc như Nhược Dự.
Trong “Ông lão hàng xóm”, đặt ra một tình huống khác, nhà văn đã dựng lên
được một đám cán bộ đội do hằn thù giai cấp cũng có, nhưng chủ yếu do nhận
thức ấu trĩ, ngu dốt, máy móc, cuồng tín dẫn đến căn bệnh khiếp nhược cùng với
thói a dua nông nổi của đám đông dân chúng đã đẩy Đoàn - một cán bộ Cách
mạng, từng vào sinh ra tử, rơi vào bi kịch oan khuất - bị quy oan là “quốc dân
Đảng” mà không ai bênh vực, che chở. Để rồi giữa cái chết và sự sống, như thế
nào mới giành lại được chỗ đứng cho thân phận và cuối cùng Đoàn tự nhận, tự
104
Tính chất “tự nhận thức” ở các tình huống trên có khác nhau. Một mặt nó đòi
hỏi người nghệ sĩ phải trung thực với bản thân, phải nhìn sâu vào mỗi cảnh đời,
mỗi số phận để quan sát, mặt khác nó đặt ra như một yêu cầu không thể thiếu
trong quá trình mỗi con người tự hoàn thiện bản thân mình. Con người ta không
ai hoàn hảo nhưng biết được những khiếm khuyết của mình để sửa sai càng sớm
càng tốt thì càng đỡ phải ân hận. Có thể kể thêm một vài tình huống dạng này
trong các truyện khác như Làng, Ông Cả Luốn gốc me. Thái độ ăn năn của mụ
chủ nhà vì đã hiểu lầm và đối xử không tốt với vợ chồng ông Hai, sự suy nghĩ lại
và làm đơn tự nguyện xin vào hợp tác xã của ông Cả Luốn… là biểu hiện của sự
tự nhận thức mà kết quả chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến phần đời còn lại của nhân
vật. Nhưng với chị Mộc đỏ trong “Người chú dượng” thì sự tự nhận thức đâu
còn có ích gì cho chị.
Khả năng của mỗi con người đâu chỉ vô song nên dẫu chị Mộc có ăn hận,
đau xót đến cháy lòng, có yêu thương quý trọng chồng đến nhường nào đi chăng
thì chị cũng không còn có cơ hội ở trên cõi đời để sống bên chồng mà chuộc lại
những lỗi lầm của mình, minh oan cho chồng và mang lại hạnh phúc cho người
chồng đáng thương tội nghiệp của mình.
Đặt ra những tình huống này, Kim Lân đã tạo nên những cái cớ để trở đi
trở lại, lật xới những vấn đề vốn vẫn luôn thao thức trong ông. Mỗi tình huống
truyện ở đây, tự nó là sự phúc đáp về bản thân trong một khía cạnh về đạo đức lối
sống, về khả năng có hạn của mỗi con người, mỗi đời người.
Dạng tình huống gợi lòng thương cảm:
Đây là một dạng tình huống mang màu sắc trữ tình đậm nét - tình huống làm
nổi bật tâm trạng nhân vật hoặc giúp nhà văn phát hiện mô tả, tinh tế những cảm
xúc, cảm giác trong thế giới tâm hồn của nhân vật. Ở những nhân vật thành công
nhất của Kim Lân, tính cách được khắc họa chủ yếu cũng ở những tình huống trữ
105
Ở Kim Lân, tình huống truyện phải phục vụ yêu cầu khẳng định tư tưởng
nghệ thuật bằng một sự tài hoa tinh tế và một niềm cảm thông sâu sắc. Yêu cầu
ấy đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo những tình huống truyện thật éo le, bi đát và bất
hạnh cứ chồng chất để người đọc thấy được nhân vật thật sự là đáng thương,
đáng tin và đáng quý. Có thể nói hầu hết trên ba mươi truyện ngắn của Kim Lân
đều có tình huống gơị lòng thương cảm. Tuy nhiên, ở đây luận văn chỉ khảo sát
một vài truyện tiêu biểu.
Tạo tình huống gợi lòng thương cảm cho truyện ngắn “Vợ nhặt” , Kim Lân
bắt đầu bằng câu chuyện hết sức éo le, bi đát - chuyện “nhặt vợ” của anh Tràng
ngay giữa nạn đói 1945. Một anh Tràng, dân ngụ cư, nghèo xơ, nghèo xác, xấu
trai, ế vợ, vậy mà bỗng dưng chỉ nhờ có bốn bát bánh đúc và một câu nói bông
đùa mà có người theo không về làm vợ. Đúng là nhặt được vợ như người ta nhặt
cái rơm cái rác bên đường. Số phận con người sao mà rẻ rúng và bi thảm đến thế!
Việc lấy vợ của anh Tràng trở nên quá dễ dàng và quá bất ngờ! Lúc đầu mọi
người chẳng ai tin. Thật éo le, tủi nhục. Ai đời lại thành vợ, thành chồng đúng
vào lúc giữa nạn đói thảm hại như thế, để rồi chẳng lễ cưới, chẳng họ mạc, xóm
giềng chia vui. Chỉ có tang tóc vây quanh, phủ đầy căn nhà và “đêm tân hôn”.
Liệu có qua khỏi thì đói này không? Nhưng tình cảm vừa mừng, vừa tủi, vừa ai
oán xót thương, buồn thảm, chua chát gợi lên trong lòng mọi người trong gia
đình anh Tràng là thế. Kim Lân đã thể hiện được lòng thương cảm sâu sắc của
một nhà văn đã khơi gợi được tình thương nơi người đọc. Mặt khác, dưới ngòi
bút Kim Lân thì con người dù ở vào nghịch cảnh vẫn không đánh mất tính người.
106
Ở truyện ngắn “Làng” cũng thế, Kim Lân đã đặt nhân vật ông Hai trước một
tình huống cũng hết sức éo le, đầy thử thách trước cái tin làng Giầu của ông theo
Tây. Tình huống này quá bất ngờ, khiến ông Hai bị chấn động, dường như niềm
kiêu hãnh về làng của ông bị tổn thương nặng. Nhưng tình yêu làng của ông quá
lớn nên ông không tin đó là sự thật. Ông nhớ lại từng mái nhà, từng khuôn mặt
của làng. Ông tin vào dân làng của mình “họ toàn là những người có tinh thần
mà”. Họ đã ở lại đánh giặc không đi sơ tán thì lẽ gì họ theo giặc? Trí óc ông Hai
rối tung, tình cảm của ông lẫn lộn. Có thể nói tình cảnh mà ông Hai phải chịu thật
107
Ở một góc độ khác, tình huống gợi lòng thương cảm được xây dựng trên cơ
sở đặt nhân vật vào hoàn cảnh phải chịu nhiều nỗi bất hạnh dồn dập thường là
tăng cấp. Những tác phẩm được xây dựng bởi tình huống như thế thường bao
quát cả cuộc đời nhân vật. Những tình huống đó đều nói về những nỗi bất hạnh
của con người, nhất là người phụ nữ. Đọc truyện Kim Lân, đặc biệt là mảng
truyện thế sự, ta thấy rõ những nhân vật phụ nữ của ông không mấy ai có hạnh
phúc trọn vẹn với tư cách là con người cá thể. Hơn thế, họ lại luôn chịu những
nỗi bất hạnh chồng chất. Kim Lân muốn qua nhân vật của mình cho người đọc
thấy được cái tận cùng nỗi khổ của con người, mặt khác, ông muốn khẳng định
những phẩm chất tinh thần tốt đẹp của con người trong mọi hoàn cảnh.
Tạo tình huống cho truyện “Cô Vịa”, Kim Lân xoay quanh cuộc đời của cô
Vịa - một cô gái phải gánh chịu cả một chuỗi bất hạnh. Thứ nhất, cô Vịa chịu
nhiều thiệt thòi, thiếu thốn tình cảm gia đình ngay từ lúc nhỏ, mồ côi mẹ, sống
với mẹ kế, bị hành hạ khổ sở. Thứ hai, mười tuổi cô lại mồ côi cha, cô bị mẹ kế
đánh đập “da diết suốt ngày”. Thứ ba là vì khao khát hạnh phúc của một mái ấm
gia đình mà cô đã rơi vào bẫy tình đến nỗi phải thân tàn ma dại. Bấy nhiêu thứ tai
họa dồn dập trút lên đầu cô gái như thế nhưng với Kim Lân dường như vẫn chưa
đủ, ông để cho Ứng đùa trêu cô khi biết cô luôn có ảo tưởng làm vợ Phán Đường,
khao khát một cuộc sống giàu sang hạnh phúc. Nhưng tất cả chỉ là một giấc mơ,
nó cũng giống như lời nói đùa của Ứng thì không bao giờ là sự thật và cô đã
tuyệt vọng trên con đường đi tìm hạnh phúc, nên đã dẫn đến cái chết trong điên
108
Tạo ra những tình huống khác nhau, dù có khi ngay trong một đề tài, ngay
trong một truyện ngắn, điều đó càng khẳng định sự tìm tòi của Kim Lân trên con
đường nghệ thuật. Khảo sát và rút ra một số dạng tình huống trên, chúng tôi nhận
thấy sự tìm tòi của Kim Lân luôn diễn ra trên bề rộng lẫn bề sâu. Một mặt, với
“khả năng nhìn đâu cũng ra truyện ngắn” của mình, ông đã nới rộng đường viền
của hiện thực trong tác phẩm và nhanh chóng tìm ra trong cuộc sống đời thường,
những tình huống truyện nhẹ nhàng, nhưng thâm sâu, ý nhị. Mặt khác, ông cũng
tạo ra những tình huống cho nhân vật “tự nhận thức” để gởi gắm những vấn đề
tư tưởng đang đặt ra trong đời sống ở nông thôn Việt Nam. Ở đây, chúng tôi
cũng gặp lại Kim Lân trong những tình huống gợi lòng thương cảm vẫn không
mâu thuẫn, không xung đột, gây cấn nhưng lại sâu sắc hơn, hay hơn và cũng độc
đáo hơn. Sự tìm tòi đó có thể cho là một trong những phương diện thể hiện bản
sắc riêng của Kim Lân.
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Mà truyện ngắn là “một tác
phẩm tự sự cỡ nhỏ” thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện
một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Đó
chính là khoảnh khắc của cuộc sống, có khi là một trạng thái tâm lý, một biến
chuyển tình cảm, một tình thế xã hội… Do vậy, điều quan trọng là khi viết truyện
109
Để làm được như thế, nhà văn có thể dựa hẳn vào ưu thế riêng của một cốt
truyện ly kỳ độc đáo. Cũng có thể dựa hẳn vào cái tài, cái duyên kể chuyện để
biến những việc bình thường, thậm chí tầm thường, thành “chuyện”, thành “câu
chuyện”. Lại cũng có thể phối hợp cả hai cách trên.
Phương thức tự sự truyền thống thường rất chú trọng vào việc dùng cốt
truyện, một cốt truyện với đầy đủ những thành phần “cổ điển” như “trình bày”,
“khai đoạn” (thắt nút), “phát triển”, “đỉnh điểm” (cao trào) và “kết thúc” (mở
nút). Phương thức tự sự hiện đại thường không chú trọng nhiều vào việc xây
dựng cốt truyện, hoặc giản lược đi, thường chỉ còn là mô hình chủ yếu với “thắt
nút”, “mở nút”. Trung tâm của người viết truyện giờ đây là nghệ thuật kể
chuyện, tức là cái cách nhà văn làm cho độc giả chăm chú lắng nghe mình “nói”
như thế nào và đến mức nào?.
Và tất nhiên là các nhà văn hiện đại Việt Nam, trên bước đường hiện đại
hóa VXNT, nhất là truyện ngắn, đã có nhiều cách ứng xử kỹ thuật đối với cốt
truyện. Nguyễn Công Hoan vẫn viết rất hứng thú với các câu chuyện có cốt
truyện bất ngờ độc đáo bằng mô hình “thắt nút”, “mở nút” tài tình. Nam Cao
cũng tận dụng cốt truyện nhưng chủ yếu tập trung sáng tạo tính cách, tinh thần
của nhân vật. Riêng Kim Lân thì lại có một “lối dựng truyện mới mẻ”, có những
truyện có thể nói là không có cốt truyện, cốt truyện với ông chỉ là cái cớ để xâu
chuỗi các yếu tố, chi tiết, các bức tranh phong tục, các “mảnh đời đầu thừa đuôi
thẹo” để phát huy cái duyên kể chuyện và khơi sâu tâm trạng.
Người đọc quả nhiên sẽ gặp ở Kim Lân một điểm khác biệt so với những
nhà văn khác khi xây dựng cốt truyện: ông chú tâm đi sâu vào đời sống, sinh
hoạt, các phong tục văn hóa ở làng quê Bắc bộ, bằng cách tạo tình huống độc
đáo, cách kể chuyện thật tự nhiên, gần gũi, thân mật. Truyện ngắn của ông phần
lớn là phát triển theo hướng tích cực và thường kết thúc có hậu, tác giả tiếp thu ở
110
Để có được bản sắc riêng và sự khác biệt trên, cùng với nghệ thuật tạo
tình huống, Kim Lân còn sử dụng một số biện pháp khác để xây dựng cốt truyện.
Biện pháp nghệ thuật tăng cấp thường có giá trị bổ sung tô đậm các đặc
điểm của các nhân vật, làm rõ tính chất của các sự kiện. Nắm bắt được thế mạnh
của biện pháp nghệ thuật này, Kim Lân đã sử dụng khá rộng rãi. Trong quá trình
dựng truyện, Kim Lân dùng biện pháp tăng cấp để tô đậm thêm đặc điểm nhân
vật, để thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện.
Trong truyện “Con mã mái”, Kim Lân dành một đoạn dài để tả thú chơi
cây cảnh của Cả Chuẩn để rồi sau đó đưa ra nhận xét: “Chính ra Cả Chuẩn cũng
không tha thiết gì với cái vườn cảnh cho lắm, thật tâm ông chỉ thích gà chọi
thôi” [47]. Đặc điểm mê gà chọi của Cả Chuẩn như thế được tô đậm. Còn trong
Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật, miêu tả Trạng vật, Kim Lân dành
nhiều công sức để miêu tả sức mạnh của đối thủ là Trạch Khô. Nào là “…một đô
vật đã ăn giải cạn mấy năm vùng Đông ngàn…”, “bao nhiêu sân vật, đến ngay
sân Cẩm Giang là một sân đàn anh trong vùng cũng không có ai đánh lại”.
“Nào là… vào vật khảo xong ba kéo lèo”, “chưa đầy ba nhịp trống Quắm đen bị
Trạch Khô dùng móng “quai quất”, và một tay khóa cánh vít gáy, một tay nắm
khố mép nên ra ngoài sới” [65], nâng sức mạnh của Trạch Khô lên để rồi cho
gặp Trạng Sặt, sức khỏe của Trạch Khô ghê gớm bao nhiêu thì sức khỏe của
Trạng Sặt nâng cao lên bấy nhiêu. Kim Lân đã khéo léo cho người đọc thấy được
sức mạnh của Trạng Sặt chỉ qua một câu kết: “Sặt dùng toàn lực nhấc lưng
Trạch Khô lên” [65].
Đọc truyện ngắn “Làng”, chúng ta có thể thấy “Làng” chỉ là một cái cớ,
một cái nền làm nổi rõ một nhân vật, một “người làng” yêu nước - ông Hai. Rõ
111
Tác giả Kim Lân còn tài tình hơn nữa, khi miêu tả bà chủ nhà “lắm lời,
tham tham” để thực hiện ý đồ nghệ thuật của mình. Người đọc có thể thấy toàn
bộ truyện “Làng”, hầu như không có một chi tiết nào nhắc đến đời sống nơi sơ
tán, nhưng có một đoạn tác giả lại dựng lên hình ảnh của mụ chủ nhà tham lam,
ích kỷ, quá quắt, nhòm ngó cả vào tài sản, đời sống của ông Hai. Nhưng khi nghe
tin nhà ông Hai bị đốt và người dân làng Giầu không theo Việt gian thì “mụ lại
tỏ vẻ rất vui sướng”, và nói “Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ
ghét ghê!” [55]. Lòng yêu nước của ông Hai nói riêng và của người dân Việt
112
Truyện ngắn Kim Lân không có nhiều nhân vật, nhiều sự kiện, càng
không có nhiều nội dung chồng chéo phức tạp nên cốt truyện phần lớn được xây
dựng theo lối kết cấu tâm lý - xoay quanh một tâm trạng, một nỗi lòng.
Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt”, chúng ta thấy tâm lý xuất hiện dường như
lấn át cả sự kiện bỏ qua sự kiện, hoàn toàn không nương vào sự kiện. Mở đầu câu
chuyện anh Tràng đưa vợ về nhà gặp mẹ là tâm trạng băn khoăn, ngạc nhiên của
bà cụ Tứ, rồi đến nỗi lòng của một người mẹ nghèo khi “hiểu ra mọi nhiều cơ sự,
vừa như ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình (…). Trong kẽ mắt của
bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…” [65]. Tiếp đến bà nghĩ về quá khứ, “nghĩ về
cuộc đời cơ nhỡ, cực khổ dài dằng dặc của mình” [65].
Câu chuyện chỉ chấm phá vài sự kiện, còn hoàn toàn là diễn biến tâm lý
của bà cụ Tứ trước việc lấy vợ của anh Tràng trong hoàn cảnh thê thảm của nạn
đói.
Ở một góc độ khác, sức hấp dẫn của truyện ngắn “Làng” là những dòng
phân tích tâm lý khá nhiều dạng sắc thái khác nhau. Từ tâm lý của một con người
yêu làng hay khoe làng đến tâm lý của người dân tản cư buồn rầu vì phải xa làng,
nhớ làng. Rồi lại ghét làng khi nghe tin làng mình theo giặc… Tâm trạng nối tiếp
tâm trạng, sự kiện chỉ thấp thoáng, có chăng thì sự kiện chỉ là cái cớ để nhà văn
triển khai tâm lý ông Hai… Có thể nói, đọc tác phẩm Kim Lân người đọc đều
thấy có yếu tố tâm trạng con người với những mức độ và ảnh hưởng khác nhau.
Trong đó những tác phẩm có yếu tố tâm lý chi phối cốt truyện chiếm một khối
lượng khá lớn. Cho nên có thể xem đây là một đặc điểm khá ổn định của tác
phẩm Kim Lân.
Nhìn chung, cốt truyện truyện ngắn Kim Lân phong phú, đa dạng, linh
hoạt, không bị gò bó theo một khuôn mẫu nào sẵn có, bởi vậy, dung lượng thì
113
3.4.2. Tạo lời văn nghệ thuật và giọng kể
Xét trên bình diện lời văn nghệ thuật, phong cách VXNT Kim Lân cũng
được bộc lộ nhiều đặc điểm riêng đáng lưu ý. Nhưng ở đây luận văn chỉ giới hạn
lại trong một phạm vi hẹp: đó là cách tạo lời văn nghệ thuật của ông trong việc
miêu tả, trong khả năng đưa ngôn ngữ văn chương gần gũi với ngôn ngữ của đời
sống, của tâm hồn tạo nên một vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, tự nhiên mà vẫn trong
sáng, hóm hỉnh, tươi tắn.
Với cách viết và cách miêu tả của Kim Lân càng chứng tỏ hơn sự tài hoa,
tinh tế của ông trong việc vận dụng ngôn từ miêu tả. Mặt khác, để thấy được khả
năng vận dụng sáng tạo lời văn nghệ thuật của Kim Lân, chúng ta cần xem xét
phương diện ngôn ngữ nhân vật trong các lời thoại. Bởi qua lời ăn tiếng nói của
nhân vật, ở một khía cạnh khác, ngôn ngữ trong lời thoại nhân vật cũng là một
thành công góp phần tạo nên phong cách nhà văn. Bởi qua lời ăn tiếng nói của
nhân vật, một mặt chúng ta sẽ thấy được ngôn ngữ của một vùng - miền - văn
hóa cụ thể, mặt khác, thấy được cả sự am tường và khả năng sử dụng sáng tạo
ngôn từ của nhà văn. Kim Lân cũng thế ông viết về cuộc sống nông thôn làng
quê Bắc bộ, nhân vật trong tác phẩm của ông chủ yếu là người nông dân, do đó,
114
- “Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn độc lập …
- Nó chết một cái nhà tôi neo người quá phải đi, chứ những như một mình
tôi, thì tôi ở lại làng với anh em cơ đấy …
- Thì vưỡn! Lúa dưới ta vưỡn tốt nhiều chứ!
- … Láo! Láo hết. Toàn là sai sự mục đích cả.
- … Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sai sất. Toàn là sai sự mục đích cả”.[55]
Còn trong trường hợp mụ chủ nhà, lời thoại của mụ ra cái giọng cay
nghiệt, sống sượng, có phần độc địa:
- “Ái chà! Nhà này có mớ cá ngon gớm, chiều tớ phải xin một bát mấy
được …
- Này, nói thì bảo là tham, cái nhà ông Hai này, với bác Thứ bên kia, thật
tớ đếch được cái gì, ở xóm dưới cánh hàng xáo họ ở, họ nuôi lợn được vô khối là
khuẩn. Nói thật tớ cho ở nhờ chỉ chủ có mỗi cái “khuẩn” ấy thôi” [55].
Có một điểm chung ở các lời thoại này là rất nhiều từ đệm trong khẩu ngữ
mang tính địa phương. Nhà văn đã chủ động để khắc họa cái chất “địa phương
tính” của nhân vật. Thông qua cái chất “địa phương tính” trong nói năng, thấy
được cái nét riêng, phong vị riêng thuộc văn hóa mỗi vùng. Để ý cái chất “địa
phương tính” của lời thoại trong “Vợ nhặt”, người đọc cũng thấy tần số xuất
hiện rất đậm đặc. Có thể liệt kê một cách tùy hứng, không đầy đủ cũng đã thấy sự
phong phú của chúng:
“- Về muộn mấy? Hẵng vào chơi cái đã nào.
- Có mỗi mình tôi mấy u nhá.
115
- … đằng ấy nhỉ?
- Điêu, người thế mà điêu.
- Thì u cứ hẵng vào trong nhà đã nào!
- Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên chiếc chĩnh chiện cái đã nào!
- Đã một mình lại còn mấy U. Bé lắm đấy!
- …Hai hào đấy, đắt quá, cơ mà thôi, chả cần.
- Vợ mới vợ miếc.
- Khỉ gió!
- Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!
- …”[65]
Có lẽ hiếm thấy nhà văn nào lại sử dụng lời quê trong các lời thoại của
nhân vật đậm đặc như trong truyện ngắn Kim Lân. Cái lạ là người đọc cảm thấy
nhân vật nói năng vô cùng tự nhiên, mà lại rất khác người. Cá tính nhân vật được
khắc tạc ấn tượng. Lại nữa, các từ có tính địa phương không hề cản trở người
đọc, mà lại tạo nên sự bất ngờ, thú vị cho người đọc. Môi trường văn hóa ngôn
ngữ làng quê đã ban tặng cho Kim Lân sự giàu có, đến lượt nhà văn đã không
phụ ân huệ ấy với một sự làm chủ vững vàng, phong phú, điêu luyện.
Kim Lân luôn có ý thức thể hiện những mảnh đời, những số phận, những
ngón chơi bằng thứ giọng kể đậm “chất quê”. Đọc một đoạn văn sau đây của
Kim Lân ta sẽ thấy rất rõ điều đó: “Sặt đi vật đã nhiều nơi, mà chưa một ai đánh
ngã nổi. Cậu thường phàn nàn tiếc rằng: Chưa bao giờ gặp được địch thủ để thử
sức, thử tài. Các đô thời bấy giờ gọi cậu là Trạng Vật. Hễ cậu dự giải thì họ lờ
đi, không dám vào phá, để Sặt ăn giải cạn. Mà nếu có đô nào nổi tiếng nho nhe
muốn thi sức là họ vội can ngăn ngay: “Ấy chớ! Đừng vuốt râu hùm! Tôi bảo
thật. Vật với ai thì vật, chứ đừng vật với Trạng Sặt thì toi mạng” [65]. Câu chữ
của Kim Lân thường thế, tinh và gọn. Đặc biệt là rất giàu cảm xúc, gợi hình ảnh
bằng việc chọn và sử dụng từ láy một cách tài tình. Có thể thấy rằng, qua khảo
sát một vài truyện ngắn của ông thôi mà chúng tôi đã ghi nhận cụ thể như sau:
116
Truyện “Tông chim Cả Chuống” có 205 từ láy; “Con chó xấu xí” có 203
từ láy, “Vợ nhặt” có 194 từ láy, “Làng” có 180 từ láy… Chúng ta hãy đọc một
đoạn minh chứng trong truyện “Tông chim Cả Chuống” để thấy rõ hơn sự điêu
luyện trong nghệ thuật từ láy của nhà văn.
“Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh
đồng thổi vào ngăn ngắt. Hai bên dãy phố úp xúp, tối om, không nhà nào có ánh
đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo, sù sì bóng những người đói dật dờ đi lại
như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ gào lên từng hồi
thê thiết” [65].
Chính nghệ thuật từ láy đã làm cho câu văn của Kim Lân vừa trở nên mộc
mạc giản dị, lại vừa tươi tắn tự nhiên mà vẫn khắc họa được những hình tượng
nghệ thuật vô cùng sống động, lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. Đây có thể coi là
một đặc điểm riêng của Kim Lân. Và cũng là một nét đặc trưng nổi bật trong
phong cách ngôn ngữ của ông.
Kim Lân còn có ý thức trong việc nâng cấp ngôn ngữ nghệ thuật cho ngôn
ngữ tác phẩm của mình. Văn ông giàu hình ảnh với từ ngữ khá là trau chuốt, linh
hoạt và kết cấu câu đa dạng. Câu văn của ông chủ yếu là câu đơn, câu đơn đặc
biệt. Xin đơn cử một đoạn trong truyện ngắn “Vợ nhặt” “… Mặt hắn có vẻ gì
phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên
lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Cô ả cấp cái thúng con,
đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàn nghiêng che khuất đi nửa mặt. Ả ta rón rén,
e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem” [65]. Trường hợp với câu
đơn đặc biệt cũng xin dẫn một đoạn sau:
“- Khỉ gió.
Ả đánh đét vào lưng hắn, khoặm mặt lại.
(…)
- Mẹ bố chúng mày cắn gì thế!
- Vẫn chưa đến à?
- Còn chán.
117
- Khiếp!” [65], hoặc
“- Chết thật!... Này, anh đã biết gì chưa?
Bóng cái đầu khẽ đụng đậy.
- Anh Mùi bị bắt rồi đấy! ...
- Mùi bị bắt rồi à? Đoàn hỏi dồn dập trong hơi thở, hai tai nghe ù ù.
Bóng những mảng tối xoay xoay trước mặt, có những mảng xanh, mảng đỏ…
- Bắt rồi. Bắt khi chiều …” [65]
Và Kim Lân như một nhà lắp ghép ngôn ngữ, ông khéo léo đưa thành
ngữ, tục ngữ vào từng câu một cách tự nhiên vừa vặn và sít sao, mang đậm chất
dân gian đã góp phần diễn tả một cách chân thật, sống động cuộc sống của những
con người nghèo ở làng quê nông thôn đồng bằng Bắc bộ, đồng thời cũng cho
người đọc thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn của họ. Xin đơn cử trường hợp tiêu
biểu nhất, cụ thể ở đây là trong truyện ngắn “Cơm con” chúng ta thấy nhà văn
không cần kể lể dài dòng, chỉ cần đưa các thành ngữ vào, người đọc cũng hiểu rõ
tình cảnh vất vả, lận đận cùng tấm lòng hy sinh hạnh phúc riêng vì con mình của
cụ Cả Nhiêu: “Chao ôi! Cứ nghĩ đến cái đận gà trống nuôi con ấy mà phát sợ.
Một mình cụ tần tảo buôn rau bán hành, buôn thúng bán bưng, thôi thì xoay xỏa
đủ vành. Anh em trong họ khuyên cụ lấy thêm bà Hai. Nhưng cụ Nhiêu thương
con: “biết rằng người ta có thực thương con mình không? Hay lại tan cửa nát
nhà. Nên cụ không dám tơ tưởng đến đường vợ lẽ con thêm làm gì?” [66]. Ở
điểm này, Kim Lân có phần giống với Nguyên Hồng, nhưng lại khác biệt rất rõ
so với Thạch Lam. Bởi Kim Lân cũng như Nguyên Hồng đều sống gần gũi với
những người dân lao động nghèo lầm than, khổ cực ở nông thôn nên các ông
thấm thía nỗi khổ của họ cũng như của chính bản thân mình. Còn Thạch Lam
cũng có lòng trắc ẩn chân thành đối với những con người nghèo dưới đáy xã hội,
nhưng ông lại thuộc một tầng lớp khác, có cuộc sống khác nên cách nhìn, cách
viết của ông cũng khác với Kim Lân.
Đọc truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi nhận thấy sự liên tưởng so sánh
thường xuất hiện dưới những hình thức dân dã độc đáo, với nhiều kiểu dạng khác
118
nhau: A như B; A là B; A bằng B. Nhưng chủ yếu là dạng so sánh mang tính giả
định A như B chiếm tỉ lệ đến 96%. Chỉ riêng trong truyện Con chó xấu xí,
chúng tôi đã gặp được những trường hợp cụ thể sau:
Trong con mắt chủ nhà thì vẻ bề ngoài của con chó nhà mình “y như đứa
trẻ con một người làm lẽ thứ năm, thứ bảy trong một gia đình giàu có, đông con
mà bố mẹ chết rồi phải ở với anh, chị con bà cả vậy” [59].
Chủ nhà nhìn con chó xấu xí vốn không thiện cảm, không ưa “Nó bằng
cái nắm đấm thế này, vừa bé, vừa lường, còm dốm như con chuột trù ấy” [59].
Miêu tả con chó suốt ngày chỉ quanh quẩn ở nhà “Nó ngồi gù gù ngoài
bóng nắng như anh nghiện thuốc lá”; “Lông nó lường ăn rụng từng đám lơ
phơ, nham nhở và đỏ bẻm như đám cỏ ấy”; “Đuôi nó thun lủn một mẩu xám xịt
như đuôi một con chuột cống già”, hoặc ông miêu tả anh bợm rượu, thích ăn
thịt chó “Cái miệng chảy thểu ra lúc nào cũng thấy tóp ta, tóp tép như cóc thèm
muỗi…” [59]
Lối so sánh ví von của Kim Lân thường bao giờ cũng phù hợp với đề tài
của truyện. Ông sử dụng những hình ảnh, sự vật ngay trong môi trường cảnh
quan mà nhân vật sống. Đặc điểm này không chỉ với “Con chó xấu xí” mà
chúng tôi vừa mới nêu trên đây. Trong “Người chú dượng”, ông từng miêu tả
ông Mộc gù “người lùn thấp và to lớn bè như cái cối xay”, “ những bắp thịt
trên người, trên mặt, trên vai, trên cổ đều nổi u lên từng cục và đang lặng lẽ di
chuyển dưới lớp da đỏ cháy như đồng tụ”, “bàn chân, bàn tay đều to ngắn, nứt
nẻ, sần sùi như những cành củi gộc”; cô hàng xén ở bến Mảng “có cái cổ trắng
ngần và hai bàn tay muôn muốt như bàn tay cô tố nữ trong tranh vẽ”; bà cụ ngồi
bán hàng rong dưới gốc đa “như một bà cụ nào trong truyện cổ tích và tưởng
chừng cụ vẫn ngồi như thế từ thời nảo, thời nào đến bây giờ”; còn Hiền - nhân
vật “tôi”. Khi trở lại Trại Han “tôi bỗng có cái cảm giác giống như những ngày
kháng chiến về thăm gia đình”… [66]. Trong Ông lão hàng xóm, khi nói về số
phận không may của Đoàn - một Đảng viên - từng vào sanh ra tử với Cách mạng,
giờ lại thể hiện trách nhiệm của một người dân góp phần vào công cuộc cải cách
119
ruộng đất ở nông thôn, bỗng dưng bị vu oan là quốc dân tính kết tội chết, Kim
Lân viết: “Việc xảy ra đột ngột và phũ phàng. Nó giống như một cơn giông ngày
hè thình lình ập đến, tối sầm cả trời đất”, “Đoàn là một tên phản động. Sống
giữa quê hương làng xóm của mình mà ngăn cách như một người bị đày ải ở một
xứ sở nào khác…” [65].
Trong khi đó hai lọai so sánh có tính chất khẳng định A là B; A bằng B
chỉ chiếm có 4%. Chẳng hạn như:
“Từng tiếng chuông từ gác tam quan chùa Dận buông ra không trung,
vọng xa xa ngân nga và buồn não nuột. Nhưng cũng chưa buồn bằng cái giọng rì
rầm của chú tiểu tụng kinh, non nớt và rung rẩy như tiếng chim chưa ra giàng.”
[65]. Hoặc,
“Thời buổi bây giờ đào được cái hầm, cái hố tốt sao nó lại sướng đến thế
nhỉ? Bằng ông Lưu Bị vớ được cụ Gia Cát Lượng đấy nhá!” [65]
Đưa sự vật này so sánh với sự vật kia chủ yếu bằng chất liệu ngôn ngữ đời
thường, một mặt Kim Lân đã nâng cấp tính bác học cho câu văn của mình, mặt
khác ông kéo gần các sáng tác đó lại với đời sống, đó là lí do khiến cho ngôn ngữ
trong tác phẩm của ông giàu tính biểu cảm.
Xâu chuỗi lại tất cả sự phân tích trên đây đã cho thấy những vẻ đẹp đặc
sắc đáng quý của ngôn ngữ VXNT Kim Lân. Nó là ngôn ngữ của đời sống của
tâm hồn rất mộc mạc, bình dị tự nhiên mà vẫn trong sáng hóm hỉnh, tươi tắn rất
Kim Lân. Đây cũng là phần đặc sắc nhất trong những tìm tòi thể nghiệm của nhà
văn. Do đó, có thể nói ngôn ngữ đã góp phần hình thành nên phong cách VXNT
Kim Lân.
Nói đến một Kim Lân của nông thôn làng quê Bắc bộ, là nói đến một
giọng điệu thủ thỉ, chậm rãi, rất đôn hậu, trầm sáng, gần với giọng cổ tích. Giọng
điệu này được quy định do cảm hứng của tác giả, một phần là từ những cảm xúc
thật sự trước cuộc sống của con người ở làng quê ông, một phần cũng là do tác
giả muốn ca ngợi phẩm chất của những con người lao động nghèo dù trong hoàn
120
cảnh khốn cùng họ vẫn yêu thương, cưu mang nhau và vẫn lạc quan tin tưởng
hướng về một tương lai tươi sáng hơn.
Trong văn học, giọng điệu thường chứa đựng thái độ tình cảm, lập trường
tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả. Giọng điệu qui
định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm. Giọng điệu tạo ra sự xa
gần thân sơ thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm. Do đó, là nhà văn
chuyên viết truyện ngắn, Kim Lân đã phải lựa chọn giọng điệu phù hợp với từng
chủ đề, từng hoàn cảnh, từng loại nhân vật trong truyện.
Quan điểm về hiện thực và con người thay đổi đã kéo theo những thay đổi
khác về các biện pháp nghệ thuật, về tư tưởng, thẩm mỹ… đưa nhà văn tìm đến
sự khám phá con người trong mối quan hệ giữa ý thức và vô thức, giữa cao cả và
thấp hèn.
Tất nhiên, chúng tôi cho rằng sự đa dạng trong sáng tác Kim Lân chỉ là
thành quả bước đầu của sự đổi mới trên con đường hiện đại hóa văn học. Và với
ý nghĩa đó, chúng tôi thấy các tác phẩm viết về đề tài thế sự, đặc biệt là ở các
truyện bàn về công cuộc cải cách ở nông thôn đã thể hiện rõ hơn về giọng điệu
trong sáng tác của ông. Có thể nói, Kim Lân đã chọn chỗ đứng bình đẳng với
nhân vật để nhân vật nói lên tiếng nói của mình. Đọc các truyện Ông cả Luốn
gốc me, Con chó xấu xí, Người chú dượng... thật khó mà phân biệt đâu là giọng
tác giả, đâu là giọng nhân vật. Những cuộc độc thoại nội tâm đã mang tính chất
một cuộc đối thoại với nhiều giọng điệu khi thì mỉa mai phê phán, khi thì tự biện
lí giải cho hành động của mình… nhưng nổi bật lên vẫn là giọng điệu đôn hậu,
trầm sáng của những con người bị nỗi đau tinh thần giằng xé khiến cho trong một
con người luôn xảy ra những nghịch lý khi vừa phạm phải sai lầm lại vừa biết ăn
năn, đau khổ trước những sai lầm đó. Cách nhìn mới về con người như vậy ít
nhiều cũng đưa lại cơ sở nhất định để Kim Lân tạo thêm nhiều giọng điệu cho tác
phẩm của mình.
Đọc và xâu chuỗi lại hết toàn bộ truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi nhận
thấy tất cả đều toát lên một sự nhẹ nhàng, đằm thắm, sâu lắng với một giọng kể
121
thủ thỉ, chậm rãi, trầm sáng và đôn hậu, lại phảng phất cách kể chuyện cổ tích, rất
hợp với đặc điểm tính cách của những nhân vật người lao động ở làng quê nông
thôn Việt Nam.
Với giọng văn như thế, Kim Lân đã rất thành công khi thể hiện đời sống
sinh hoạt tinh thần của người dân quê trong những sáng tác viết về đề tài phong
tục. Có thể nói là trong “Đôi chim thành” từ cách xưng hô, gọi tên, dùng từ đến
sắc điệu tình cảm đều toát lên giọng văn đôn hậu, trầm sáng.
“Trưởng Thuận chạy ra hiên đon đả:
- Nắng nôi thế này, cụ cũng chịu khó sang chơi.
Cụ Tú vuốt râu cười khanh khách:
- Có hề gì. Nhân thằng chánh Quyền nhà tôi bảo bên ông có quần chim
bay, nên muốn sang xem.
Ông Trưởng cười nhũn nhặn:
- Xin rước cụ vào trong nhà nghỉ ngơi cho mát đã”. [65]
Ta cũng cảm nhận được cái giọng văn đôn hậu, trầm sáng ấy trong các
truyện Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng Vật, Cầu đánh vật, Con mã
mái, Tông chim Cả Chuống, Ông Cản Ngũ …
Tính trầm sáng, đôn hậu trong giọng điệu của truyện ngắn Kim Lân được
thể hiện dưới nhiều sắc thái cụ thể. Chẳng hạn ở những truyện thuộc đề tài thế sự
như Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Người kép già, Làng, Vợ
nhặt… Giọng điệu của truyện tuy có cái bình thản của “sự đời cứ diễn ra như
thế” (Ban Dắc), nhưng tính trầm sáng, đôn hậu lại ẩn sau câu chữ của nhà văn. Ở
đây chúng tôi nhìn thấy một Kim Lân do điểm nhìn trần thuật của một người
“biết hết” nên tỏ ra tinh tế, hóm hỉnh trong cách phát hiện, thể hiện những vấn đề
của cuộc sống.
Từ chỗ quan sát và khám phá trong đời sống thường nhật, Kim Lân đã đi
thẳng vào tìm kiếm lẽ đời trong số phận cá nhân và các vấn đề xã hội. Từng bước
một ông dần dần hóa thân vào một nhân vật, sống cùng nhân vật để khám phá và
tìm hiểu cái chiều sâu của hiện thực. Trên cơ sở đó, ông đã tạo cho sáng tác của
122
mình một giọng điệu da diết, trầm lắng và cuốn hút hơn khiến người đọc phải
chiêm nghiệm suy ngẫm về những gì mà nhà văn đặt ra
Chẳng hạn truyện ngắn “Làng”, Kim Lân với tư cách là người kể chuyện,
ông đã kể về cảnh làng quê Việt Nam trong ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Ở
đó nhà văn xoay quanh nhân vật chính ông Hai - một con người thuần phác, đôn
hậu có bản chất tốt đẹp: rất yêu làng của mình. Và qua câu chuyện, ông Hai đã tự
kể về làng của mình. Lúc thì ông khoe làng bằng một giọng say mê, hào hứng,
lúc thì ông nhớ về quê hương làng xóm bằng giọng điệu vừa trầm lắng trong
dòng hồi tưởng, nhưng cũng vừa tự hào về làng của mình. Rồi khi hay tin làng
theo giặc thì ông vô cùng đau khổ, ngỡ như không thể sống, giọng điệu trở nên
trầm lắng hẳn xuống, khi thì ngậm ngùi, khi thì thủ thỉ tâm sự… Giọng điệu càng
về sau càng có dư vị thương cảm hơn đối với một người vốn cả đời chỉ quẩn
quanh trong làng của mình; luôn yêu quý, tự hào, bằng lòng với tất cả những gì
thuộc về làng của mình, cùng một lúc buộc ông phải chịu hai cú sốc - xa làng đi
tản cư và nghe tin làng của mình theo giặc. Kim Lân đã vừa kể vừa tả tâm trạng
người dân yêu làng không muốn nghe người ta nghĩ và nói không tốt về làng của
mình - làng theo Tây - vì đây là một sự thật quá nghiệt ngã đối với ông mà lâu
nay ông không bao giờ tin cũng như không bao giờ nghĩ đến. Giọng điệu của
truyện trầm lắng dần. Truyện khép lại ở mạch kể. Ông Hai cảm thấy vô cùng
sung sướng tự hào khi được tận tai nghe ông chủ tịch làng đính chính làng mình
không theo giặc.
Còn con người mụ chủ nhà đáng ghét tham lam, bủn xỉn, hay xoi mói,
thóc mách bỗng trở nên đáng thương, vì mụ cũng “tỏ vẻ vui sướng, mụ giương
tròn cả hai mắt lên mà reo.
- A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê
ấy. Thôi bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên. Ăn hết nhiều chứ ở hết là bao
nhiêu.
Mụ cười khi khí.
- Này, rồi cũng phải nuôi lấy con lợn… mà ăn mừng đấy!” [55]
123
Chúng ta thấy trong con người Việt Nam luôn tiềm tàng tinh thần yêu
nước. Có lẽ vì thế mà mụ chủ nhà lại thay đổi tính cách nhanh như thế. Và điều
này cũng đã cho thấy khi mọi người biết tìm cái chung trong nguồn tình cảm
thiêng liêng thì họ sẽ trở nên gần gũi nhau hơn. Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện
nổi bật lên là giọng kể thủ thỉ, tâm tình rất đôn hậu, trầm, sáng của một con người
vốn là “con đẻ của đồng ruộng”.
“Anh chàng hiệp sĩ gỗ” là truyện ngắn duy nhất của Kim Lân mang
những nét viễn tưởng với sự giả định rằng đây là “Câu chuyện cảm động về một
con rối và trái tim người” và hậu vận của anh chàng hiệp sĩ gỗ khi đã bằng lòng
với mụ phù thủy là giết một cô gái để được biến thành người, đặc biệt là cuộc đối
thoại giữa anh chàng hiệp sĩ gỗ với mụ phù thủy và cô gái. Những nét viễn tưởng
ấy làm cho truyện thi vị hơn, trong trẻo hơn trong cái kết thúc có hậu về tình đời,
tình người.
Giọng chủ đạo đó được trở lại trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, các nhân vật
ở đây chủ yếu cũng vẫn là những “mảnh đời đầu thừa đuôi thẹo” và cũng vẫn
hơi văn, mạch văn ấy, thay vì ông đi sâu vào những vấn đề mưu sinh và tính chất
phức tạp đặt ra trong các mối quan hệ của cuộc sống ngay nạn đói thì ông lại đi
sâu vào quan hệ tình người. Đặt nhân vật vào quầng sáng của thế giới tình cảm,
Kim Lân đã phát huy thế mạnh của một ngòi bút trữ tình nhân bản, của một tâm
hồn đồng cảm với niềm vui và nỗi đau con người. Mặc dù viết về sự nghèo khó
khốn cùng của con người trong nạn đói nhưng tác phẩm vẫn toát lên một vẻ đẹp
của tình người. Đó là sự yêu thương, cưu mang, đùm bọc giữa những con người
nghèo với nhau, đặc biệt là dù cuộc đời đói khổ nhưng họ vẫn khao khát một mái
ấm gia đình hạnh phúc, vẫn hướng tới một ngày mai tươi sáng, no đủ hơn. Có thể
nói “Vợ nhặt” vừa có sự xót xa đồng cảm với nỗi đau khổ của con người lại vừa
tin tưởng ngợi ca tấm lòng bao dung, nhân hậu, cùng với tinh thần lạc quan luôn
khao khát cuộc sống gia đình hạnh phúc của những con người lao động nghèo
nên giọng điệu của “Vợ nhặt” có phần độc đáo hơn so với những sáng tác khác.
Nhưng, nhìn chung thì từ lời độc thoại nội tâm, đến lối kể chuyện, cách xưng hô,
124
gọi tên, cách dùng từ, sắc điệu tình cảm… trong “Vợ nhặt” nói riêng và trong
VXNT Kim Lân nói chung, đã thể hiện thái độ thẩm mỹ và năng lực nghệ thuật
của ông đối với người nông dân và thân phận của họ. Tất cả đều toát lên một
giọng điệu thủ thỉ, chậm rãi; nhẹ nhàng, sâu lắng; đôn hậu, giản dị mà vẫn trong
sáng, hóm hỉnh, tươi tắn. Đây cũng là một giọng điệu riêng mà chính nó đã góp
phần tạo nên phong cách VXNT Kim Lân.
125
KẾT LUẬN
Tiếp cận phong cách nghệ thuật với tính cách một hệ thống cụ thể về hình
thức và nội dung, “một nguyên lý mỹ học của kết cấu thống nhất tất cả nội dung
và tất cả hình thức của tác phẩm”, trên đây chuyên luận đã lần lượt tìm hiểu,
khảo sát phong cách VXNT của Kim Lân trên tất cả các bình diện thuộc về hình
thức (phương thức tự sự [chương ba] ) và nội dung (quan niệm nghệ thuật; nội
dung tự sự [chương một, chương hai] ). Trong đó các yếu tố nội dung được xem
là nguồn gốc hay cơ sở cắt nghĩa cho những biểu hiện cụ thể của phong cách
nghệ thuật thành những đặc điểm về hình thức của tác phẩm.
Từ sự khảo sát và phân tích đó, chúng tôi có thể rút ra mấy kết luận sau đây
về phong cách VXNT của ông.
1. Về quan niệm nghệ thuật của Kim Lân
1.1. Trong VXNT Kim Lân, con người được đề cao là con người cá nhân ở đời
sống nông thôn làng quê Việt Nam. Con người ấy được nhìn nhận trong tư cách
một chủ thể sống, tự cảm nghiệm, nhận thức thế giới và con người. Nó không
phải là con người hành động hay con người tư tưởng (như trong sáng tác của “Tự
lực văn đoàn”), cũng không phải là con người tâm lý với những quá trình xung
đột tâm lý rõ rệt (như trong sáng tác của Nam Cao), mà là con người ở nông thôn
với những tình cảm hết sức tốt đẹp bên cạnh đời sống tâm hồn phong phú và
được soi chiếu trong nhiều mối quan hệ giữa con người với con người; giữa con
người với con vật nuôi, với thiên nhiên. Con người ấy biết quý trọng đời sống nội
tại của bản thân và của người khác; thích tự mình cảm thụ cái đẹp, tự cảm
nghiệm lấy các chân lý, tự tạo ra cái đẹp, tạo ra hạnh phúc, niềm vui hoặc biết
thực sự trân trọng ý nghĩa của sự sống và không dễ dàng thỏa hiệp buông xuôi
trước sự sống đó. Chính do quan niệm này mà nhân vật của Kim Lân thường
được miêu tả rất riêng, rất tình người, rất Kim Lân, mang cốt cách văn hóa của
con người Việt, làng quê Việt.
Con người mang truyền thống đạo lý của con người Việt Nam vốn là trung
tâm và là một bộ phận không tách rời của một thế giới không ngừng đổi thay,
126
luôn tồn tại vận động trong trạng thái giao chuyển phức tạp giữa các khoảng
không gian, thời gian khác nhau cho nên ô cửa để nhìn vào thế giới ấy phải mở ra
một góc tiếp cận đặc biệt. Ô cửa và góc tiếp cận ấy trong văn Kim Lân chính là
cái không gian làng xóm hay không gian nông thôn làng Việt giai đoạn trước và
sau Cách mạng tháng Tám.
1.2. Quan niệm về con người và thế giới như vậy mở theo nó quan niệm về văn
chương và cái đẹp mang tính chất phát hiện của Kim Lân: cái đẹp là sự sống; cái
đẹp trong thế giới vốn là phong tục, sinh hoạt văn hóa lành mạnh của người nông
dân ở làng quê nông thôn Việt Nam với những thú chơi tao nhã, “phong lưu
đồng ruộng”; cái đẹp ấy chỉ thực sự có giá trị khi nó sống với thực tại và được
con người cảm thấy. Tác phẩm văn chương phải mang trong lòng nó cái đẹp của
sự sống và nghệ sĩ chính là người tìm kiếm và nâng đỡ cái đẹp ấy trong cuộc đời.
Và đó cũng chính là cái mà người đọc có thể tri giác được qua hệ thống hình
tượng cảm tính, sinh động trong VXNT Kim Lân.
Như vậy, nếu cần khái quát quan niệm nghệ thuật của Kim Lân trong một
mệnh đề ngắn gọn, có thể gọi ông là Người ưa tìm cái đẹp của văn hóa làng
quê, lịch sử Việt Nam.
2. Về những nội dung tự sự chủ yếu trong VXNT Kim Lân
2.1. Thế giới và cuộc sống con người trong VXNT Kim Lân về căn bản là thế
giới được nhìn từ quê hương, hay mang hình bóng quê hương đồng bằng Bắc bộ
vốn dung dị và kín đáo, thân thuộc của nhà văn. Thế giới ấy được biểu hiện sinh
động, đầy đủ nhất trong cấu trúc không gian làng - xóm rất Kim Lân. Ở đó,
người đọc nhận ra cái không khí xã hội Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, nhận ra những vẻ đẹp mang cốt cách văn hóa Việt, tâm hồn Việt.
2.2. Từ bức tranh quê hương với cái nhìn không gian làng xóm, nhà văn có được
nhiều góc tiếp cận thế giới và cái nhìn nhiều phía về con người, về đời sống sinh
hoạt văn hóa ở nông thôn tạo nên những nội dung tự sự mới mẻ của nhà văn: 1)
Con người văn hóa; 2) Cảm hứng “phong tục”.
127
2.3. Mỗi một nội dung tự sự như vậy có thể xem là một tìm tòi thể nghiệm tâm
đắc của Kim Lân trong cách tiếp cận hiện thực đời sống cũng như cách thể hiện
sự cảm nhận, suy ngẫm đánh giá của nhà văn. Khi kể những chuyện về đời sống
sinh họat văn hóa làng quê với những thú chơi “phong lưu đồng ruộng” của
người nông dân, Kim Lân đã đi sâu vào số phận, cốt cách, tâm trạng của họ ở
một góc độ tiếp cận trực diện. Đó cũng chính là góc tiếp cận hiện thực mới mẻ và
sở trường của riêng ông. Kim Lân mở ra một thế giới khác - một thế giới thứ hai
riêng thuộc về con người văn hóa ở làng quê Việt Nam. Đó là những con người
nghèo khó, khốn cùng mang mệnh danh “đầu thừa đuôi thẹo” nhưng lại trong
sáng, tài hoa, phong lưu, bặt thiệp…, đặc biệt là dù trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn
sống có đạo lý, vẫn lạc quan, yêu đời hướng về một tương lai tươi sáng hơn. Và
đây cũng là một hướng đi đầy triển vọng cho VXNT hiện đại.
Hướng về con người văn hóa ở làng quê Bắc bộ, Kim Lân tập trung viết
về những con người thượng võ, những nghệ sĩ làng quê và những con người
“đầu thừa đuôi thẹo” tạo nên một thế giới rất riêng. Nhân vật của ông vì thế mà
thường mang vẻ đẹp truyền thống, đồng thời cũng ẩn chứa một sức sống riêng
của con người hiện đại. Trang văn của ông vừa thanh thản, trang trọng bình dị
trong những câu chuyện đấu vật, những sinh hoạt văn hóa với những thú chơi
“phong lưu đồng ruộng”, lại vừa phảng phất một nỗi buồn man mác, hay niềm
suy tư nhẹ nhàng sâu kín về số phận con người. Nhiều trang văn của Kim Lân đã
chắt chiu những nét đẹp hồn hậu của tâm hồn Việt, cốt cách Việt…, phản ánh
những nét đẹp của văn hóa làng Việt. Và như thế cũng đủ thấy Kim Lân - nhà
văn hiện đại - có một tâm hồn “thuần hậu nguyên thủy” với nông thôn làng Việt
đến dường nào. Có thể nói Kim Lân - một nhà văn phong tục - Người lưu giữ
hoài niệm của văn hóa Việt, tâm hồn Việt.
3. Về phương thức tự sự trong VXNT của Kim Lân
3.1. Phương thức tự sự trong VXNT của Kim Lân chủ yếu là tự sự mang tính tự
truyện, đặc biệt là sự kết hợp hình thức trần thuật chủ quan với hình thức trần
thuật khách quan, lấy trung tâm chú ý của sáng tạo nghệ thuật là xây dựng nhân
128
vật, sự hòa phối kỹ thuật trong việc xây dựng tình huống và cốt truyện; ngôn ngữ
và giọng điệu thuần hậu, chân tình.
3.2. Là nhà văn vốn là “con đẻ của đồng ruộng”, ngòi bút của Kim Lân luôn
hướng tới sự gắn bó với cái CHÂN - THIỆN - MỸ của cuộc sống nông thôn
đồng bằng Bắc bộ. Truyện của ông đầy ắp những chi tiết đời tư - thế sự. Với lối
trần thuật linh hoạt, có duyên.
3.3. Phong cách VXNT Kim Lân còn tập trung ở những thủ pháp xây dựng nhân
vật. Nhà văn đặt con người vào mội trường sống bình thường, miêu tả cụ thể, sắc
sảo, rõ nét về cả ngoại hình, tên gọi lẫn nội tâm nhân vật. Đặc biệt là ông xây
dựng nhân vật mang tính tự truyện, chú trọng đi sâu vào tâm lý nhân vật và xem
đó như là một lợi thế để ông tự bộc lộ với mình những cảm xúc, những suy nghĩ.
Kim Lân đã tạo cho nhân vật của mình một vẻ đẹp tương đối hài hòa giữa nội
dung và hình thức. Đây có thể xem là một đóng góp vào thể tài truyện ngắn nói
riêng và nền văn xuôi đương đại nói chung những hình tượng nhân vật đặc sắc,
vừa nối tiếp truyền thống văn xuôi của những giai đọan trước, vừa góp phần vào
sự đổi mới nghệ thuật cho VXNT hiện đại Việt Nam.
3.4. Trong khi xem con người là đối tượng và đi vào bề sâu tâm lý, vào các số
phận cá nhân mà khám phá Kim Lân đã tạo được các dạng tình huống khác nhau
giàu tính nghệ thuật và đậm bản sắc riêng.
Kim Lân là một cây bút tài hoa tinh tế. Văn của ông rất giàu hình ảnh.
Ngôn ngữ trong sáng tác Kim Lân rất giàu tính biểu cảm đặc sắc. Kim Lân là nhà
văn nông thôn, nhân vật trong sáng tác của ông là những người nông dân nên
ngôn ngữ trong lời thoại của ông thường mang đậm tính khẩu ngữ. Đặc biệt là
ngôn ngữ văn xuôi của ông là ngôn ngữ của những người bình dân được sử dụng
một cách nghệ thuật mang vẻ đẹp của sự giản dị tự nhiên. Nhìn chung cuộc sống
và con người ở nông thôn làng quê Bắc bộ, dưới ngòi bút của Kim Lân, dù chỉ
với những nét chấm phá cũng rất gây ấn tượng. Bên cạnh giọng điệu trữ tình
truyền thống là một giọng điệu thủ thỉ, chậm rãi; nhẹ nhàng, sâu lắng; đôn hậu,
129
giản dị mà trong sáng, hóm hỉnh, tươi tắn phù hợp với đặc điểm tính cách nhân
vât người lao động xuất thân nông dân ở làng quê Bắc bộ.
4. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại Kim Lân thuộc vào số những nhà văn
sống và viết dưới hai giai đoạn khác nhau. Viết không nhiều, hơn năm mươi năm
cầm bút, Kim Lân chỉ để lại cho đời hơn ba mươi tác phẩm, nhưng Kim Lân vẫn
là một nhà văn tạo được phong cách nghệ thuật riêng.
Suy cho cùng, con người Kim Lân, tư tưởng và sự nghiệp Kim Lân đều
bắt nguồn từ một cái gốc chung cắm rất sâu vào một mảnh đất quê hương, bắt
nguồn từ một tấm lòng trân trọng yêu quý những truyền thống của dân tộc, tư
tưởng đạo lý của nhân dân, tinh thần của thời đại. Hiện thực đời sống thôn quê
Việt Nam được hấp thụ bởi một cá tính mãnh liệt, một nhân cách nghệ sĩ lớn. Đó
chính là vẻ đẹp đằm thắm và sức sống bền vững của một phong cách nghệ thuật.
130
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoài Anh (2003), Kim Lân nhà tiểu thuyết phong tục sở trường về miêu
tả trạng thái nhân thế, tạp chí văn (số 13), hội văn nghệ TP.HCM.
2. Toan Ánh (1992), Nếp xưa - Tiểu thuyết phong tục, Nxb Văn học, Hà
Nội.
3. Toan Ánh (1993), Các thú tiêu khiển Việt Nam, Nxb Mũi Cà Mau.
4. Lại Nguyên Ân (1986), Văn xuôi Kim Lân, Tạp chí Văn học (số 6), Viện
văn học- Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam.
5. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
6. Bakhtin M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (bản dịch của Phạm
Vĩnh Cư), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
7. Y Ban (2004), Nhà văn Kim Lân: thuở ấy chúng tôi sống bằng hữu lắm,
Giáo dục và thời đại chủ nhật (số 17).
8. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí
Văn học (số 9).
9. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Đồng Tháp.
10. Nam Cao (1996), Truyện ngắn chọn lọc, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam
Ninh, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Lê Tư Chỉ (1996), Để phân tích một tác phẩm truyện ngắn, Nxb Trẻ,
TP.HCM.
12. Vũ Khắc Chương (2000), Nghệ thuật kể chuyện trong truyện ngắn Nam
Cao, Nxb.
13. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, Nxb
Giáo dục Hà Nội.
14. Trần Ngọc Dung (1992), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt
Nam thời kỳ từ đầu những năm 1930 đến 1945: Nguyễn Công
Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Luận án PTS. ĐHSP. Hà Nội I.
131
15. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lý luận văn học (Phần Tác phẩm văn
học), Nxb Đại học quốc gia TP.HCM.
16. Đặng Anh Đào (2001), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Văn nghệ
TP. HCM.
17. Nguyễn Đăng Điệp (2005), Chân dung các nhà văn hiện đại, Nxb Giáo
dục.
18. Hà Minh Đức (chủ biên) (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học,
Hà Nội.
19. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học,
Hà Nội.
20. Hà Minh Đức (2000), Đi tìm chân lý nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội.
21. Gorki M (1978), Bàn về văn học, Nxb Văn học.
22. Lê Bá Hán (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Hạnh (1979), Suy nghĩ về văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi
mới cách nhìn về con người, TCVH, số 3.
25. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học văn hoá - vấn đề và suy nghĩ, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - vấn đề
và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, TP.HCM.
27. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
28. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, Nxb
Đà Nẵng.
29. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ
thuật, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
30. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb KHXH và Nxb Mũi
Cà Mau.
132
31. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
32. Tô Hoài (1959), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà
Nội.
33. Tô Hoài (1997), Những gương mặt (Chân dung văn học, in lần thứ 3),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
34. Nguyễn Công Hoan (1959), Nghệ thuật viết truyện ngắn, Báo văn nghệ số
23-24.
35. Nguyễn Công Hoan (1969), Viết truyện ngắn, Báo Văn nghệ (số 30).
36. Trần Ninh Hồ (1991), Một ngày Kim Lân, Báo Văn nghệ (số 34).
37. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Nguyên Hồng (1978), Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb tác phẩm
mới.
39. Khái Hưng (1957), Một quan niệm về văn chương, Báo ngày nay (89),
1937, Minh Đức in lại, Hà Nội.
40. Nguyễn Khải (2003), Nghề văn cũng lắm công phu, Nxb Trẻ, TP.HCM.
41. Đào Khương (1987), Gặp gỡ 27 nhà văn có tác phẩm được chọn giảng
trong nhà trường, Sở Giáo dục Hà Sơn Bình.
42. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi
pháp, Nxb Giáo dục, TP.HCM.
43. Nguyễn Trọng Khánh, (2006), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà
trường nhìn từ góc độ ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
45. Lê Đình Kỵ (1984), Cơ sở lý luận văn học, Nxb Đại học và trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
46. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
133
48. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu,
Nxb khoa học xã hội.
49. Đặng Thị Huy Lam (2005), Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Luận văn
Thạc sĩ, ĐHSP. TP.HCM.
50. Kim Lân (1942), Cô Vịa, Báo Trung Bắc chủ nhật, số 135/142, trang 18.
51. Kim Lân (1944), Cô Dí, Báo Trung Bắc chủ nhật, số 189, trang 12.
52. Kim Lân (1945), Tông chim Cả chuống, Tiểu thuyết thứ 7 số 9, trang 60.
53. Kim Lân (1943), Món đồ mừng, tiểu thuyết thứ 7, trang 9.
54. Kim Lân (1944), Truyện chó chết, Báo Trung Bắc chủ nhật, số 234,
trang 10.
55. Kim Lân (1955), Làng, Truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
56. Kim Lân (1957), Ông lão hàng xóm, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
57. Kim Lân (1955), Anh chàng hiệp sĩ gỗ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
58. Kim Lân (1960), Cô gái công trường, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
59. Kim Lân (1962), Con chó xấu xí, Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Kim Lân (1965), Vợ chồng anh đội trưởng, Báo Văn nghệ (số 13), Tuần
báo của hội liên hiệp văn học - nghệ thuật Việt Nam.
61. Kim Lân (1982), Nguyên Hồng - một nhà văn, TC Văn học (số 3).
62. Kim Lân (1983), Vợ nhặt, Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Kim Lân (1984), Chặng đường đi tới, TC Văn học (số 4).
64. Kim Lân (1984), Ông Cản Ngũ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
65. Kim Lân (1996), Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội.
66. Kim Lân (2004), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
67. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
68. Phạm Quang Long (1994), Một đặc điểm của thi pháp truyện Nam Cao,
Tạp chí văn học (số 2), Hà Nội.
69. Nguyễn Văn Long, Trần Đăng Xuyền (1999), Tư liệu văn 12 - phần Văn
học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
134
70. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà,
La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình, (2001), Lý luận văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
71. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Văn
học, Hà Nội.
72. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), “Khải luận” Tổng tập văn học Việt Nam, tập
30A, Nxb KHXH, Hà Nội.
73. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1986), Các nhà văn nói về văn (tập 2),
Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
74. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Các tác giả văn học Việt Nam (tập 2), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
75. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
76. Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Dung, Trần Hữu Tá (1995), Tổng tập văn học
Việt Nam tập 30B, Nxb KHXH, Hà Nội.
77. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và
phong cách, Nxb Trẻ, TP.HCM.
78. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb
Đại học quốc gia, Hà Nội.
79. Trần Đồng Minh (1994), “Bóng tối và ánh sáng trong câu chuyện nhặt
vợ” Tiếng nói tri âm, Nxb Trẻ, TP.HCM.
80. M.B.Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, Nxb Tác phẩm mới (Hội nhà văn Việt Nam), Hà Nội.
81. M.B.Khrapchenco (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
82. Hồ Quý Nghĩa (2004), Sức sống trong truyện ngắn Vợ nhặt, Báo giáo
dục và thời đại, (số 49).
83. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều,
Nxb KHXH, Hà Nội.
135
84. Bảo Nguyên (1997), Sử dụng ngôn ngữ- nghệ thuật đặc sắc của truyện
ngắn Kim Lân, TC Ngữ học trẻ, Nxb Hội ngôn ngữ học Việt Nam.
85. Lữ Huy Nguyên (1997), Kim Lân với những thú chơi ngày xuân Kinh
Bắc, Báo Văn nghệ (số 5+6), Hội nhà văn Việt Nam.
86. Lữ Huy Nguyên (2000), Ấn tượng văn chương, Nxb Văn hoá thông tin.
87. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, TP.HCM.
88. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ, TP.HCM.
89. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và văn hoá - Từ một góc nhìn, Nxb
Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
90. Phùng Quý Nhâm - Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, Trường ĐHSP
TP.HCM.
91. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học Việt Nam, văn học hiện đại giao lưu
gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.
92. Nhiều tác giả (1992), Khảo cứu về các phong tục và những thú chơi đẹp
ở đồng quê miền Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
93. Nhiều tác giả (2001), Hợp tuyển công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
94. Nhiều tác giả (2003), Tuyển tập 10 năm tạp chí văn học và tuổi trẻ, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
95. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
96. Nhiều tác giả (2004), Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng
cho nhà trường, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
97. Ngô Văn Phu, Phong Vũ, Nguyễn Phan Hách (1999), Nhà văn Việt Nam
thế kỷ 20 (tập 4), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
98. Vũ Dương Quỹ (Tuỵển chọn và biên soan) (1999), Nhà văn và tác phẩm
trong nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ GD và ĐT,
Vụ Giáo viên, Hà Nội.
100. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường ĐHSP TP.HCM.
136
101. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học (tập tiểu luận), Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
102. Nguyễn Quốc Thanh (2006), Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật
trong truyện ngắn Kim Lân, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP. TP .HCM.
103. Vương Thảo (2004), Nhà văn Kim Lân và sự im lặng của nỗi buồn, Báo
An ninh thế giới cuối tháng (số 30).
104. Đào Thản (1994), Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn
xuôi, TC Văn học Hà Nội (số 2).
105. Bùi Việt Thắng (1994), Văn xuôi gần đây và quan niêm con người, TC
Văn học Hà Nội (số 4).
106. Bùi Việt Thắng (2002), Văn học Việt Nam 1945 - 1954 (văn tuyển), Nxb
ĐHQG, Hà Nội.
107. Nguyễn Thành Thi (2000), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam,
Nxb Khoa học xã hội.
108. Nguyễn Quang Thiều (chủ biên), Nguyễn Quyến, Trần Thanh Hà (2000),
Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ, TP.HCM.
109. Ngọc Trai (1987), Sự khám phá về con người Việt Nam qua truyện ngắn,
TC Văn nghệ quân đội (số 10).
110. Hoàng Trinh (chủ biên), 1993, Phương pháp luận về vai trò của văn hóa
trong sự phát triển, Nxb KHXH.
111. Hoàng Trinh (1997), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, Nxb Đà Nẵng.
112. Phùng Văn Tửu (1996), Một phương diện của truyện ngắn, TC Văn học
(số 2).
113. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi
mới, Nxb KHXH, Hà Nội.
114. Hòa Vang (2004), Kim Lân những ấn tượng, TC Văn học và tuổi trẻ
(số 7), Nxb Giáo dục.
115. Hoài Việt (1999), Nhà văn trong nhà trường - Kim Lân, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
137
116. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học và
trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
117. Viện văn học (1988), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

