VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG VĂN THỊNH
THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở CỦA CÁ NHÂN, HỘ
GIA ĐÌNH ĐỂ BẢO ĐẢM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
NGÂN HÀNG BẢO VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG VĂN THỊNH
THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở CỦA CÁ NHÂN, HỘ
GIA ĐÌNH ĐỂ BẢO ĐẢM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
NGÂN HÀNG BẢO VIỆT
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tôi. Các kết quả được nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và tính trung thực của luận
văn này.
Tác giả luận văn
Hoàng Văn Thịnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT Ở VÀ PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT Ở ĐỂ BẢO ĐẢM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG .............. 5
1.1. Lý luận về thế chấp quyền sử dụng đất ở .......................................... 5
1.2. Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở ...................................... 12
1.3. Lược sử hình thành và phát triển của quy định thế chấp quyền sử
dụng đất ở tại Việt Nam .......................................................................... 16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT Ở ĐỂ BẢO ĐẢM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ
THỰC TIỄN TẠI NGÂN HÀNG BẢO VIỆT ............................................ 22
2.1. Quy định pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở của cá nhân
và hộ gia đình để bảo đảm hợp đồng tín dụng. ....................................... 22
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thế chấp quyền sử dụng
đất ở của cá nhân, hộ gia đình để bảo đảm hợp đồng tín dụng tại
Ngân hàng Bảo Việt ................................................................................ 40
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở TẠI VIỆT NAM ... 50
3.1. Yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền
sử dụng đất ở ........................................................................................... 50
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở ... 53
3.3. Giải pháp thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ............. 59
KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 65
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tặng vật tự nhiên dành cho loài người. Từ hàng nghìn năm
qua, đất đai đã được coi là tài nguyên đặc biệt của đất nước, bởi vai trò không
chỉ là nguồn lực chủ yếu để phát triển đất nước mà còn là lãnh thổ vô cùng
quý giá và thiêng liêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Ở nước ta, đất đai thuộc sở
hữu toàn dân và do Nhà nước là chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Cá nhân,
hộ gia đình được nhà nước giao đất, cho thuê đất với quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt. Do đó, đất đai ngày càng có giá trị, dần trở thành vật bảo
đảm làm trung gian tài chính và là cầu nối để các tổ chức tín dụng luân
chuyển vốn cho nền kinh tế.
Hiện nay, các giao dịch dân sự đang rất phổ biến và không ngừng phát
triển bởi nhu cầu của con người đặc biệt là giao dịch liên quan đến thế chấp
quyền sử dụng đất để bảo đảm hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, không phải lúc
nào quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao dịch thế chấp tài sản
cũng được thực hiện một cách nghiêm túc. Nhằm khắc phục tình trạng trên,
pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận các biện pháp bảo đảm trong
giao dịch dân sự, qua đó các bên có quyền sẽ được đảm bảo bằng tài sản của
bên có nghĩa vụ.
Một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phổ
biến nhất hiện nay là thế chấp quyền sử dụng đất ở. Biện pháp bảo đảm bằng
thế chấp quyền sử dụng đất được xem là một trong những biện pháp bảo đảm
phổ biến nhất hiện nay. Với xu thế phát triển của xã hội ngày nay, khi vay
mượn một số tiền lớn thì cần phải có một tài sản có giá trị lớn như quyền sử
dụng đất để bảo đảm cho khoản vay đó. Sở dĩ thế chấp quyền sử dụng đất ở
được sử dụng phổ biến bởi đất đai là tài sản có giá trị trong các giao dịch dân
sự, đặc biệt là đất ở do có giá trị tiềm năng lớn, dân số ngày càng tăng nhưng
1
đất ở thì không tự sinh ra vì thế lại càng làm tăng thêm giá trị của đất ở. Đối
với bên nhận thế chấp, đất ở là một tài sản cố định, ít hao mòn, giá chuyển
nhượng thường tăng trên thị trường bất động sản và quan trọng hơn cả đất ở là
tài sản có các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu. Đối với bên thế chấp thì việc
thế chấp quyền sử dụng đất đem lại quyền lợi cao hơn so với các hình thức
bảo đảm khác như: thế chấp quyền sử dụng đất chỉ giao giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mà không phải giao đất do đó bên thế chấp vẫn có quyền
sử dụng mảnh đất và hưởng hoa lợi, lợi tức từ quyền sử dụng đất đã thế chấp.
Thế chấp quyền sử dụng đất được ghi nhận kể từ Bộ luật dân sự năm
1995. Theo đó, người sử dụng đất được phép thế chấp quyền sử dụng đất của
chính mình để bảo đảm cho khoản vay. Kể từ đó đến nay, quy định của pháp
luật về thế chấp quyền sử dụng đất ngày càng hoàn thiện qua các lần sửa đổi
bổ sung. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các
hoạt động thế chấp quyền sử dụng đất còn tồn tại hạn chế nhất định dẫn đến
những rủi ro nhất định cho các chủ thể khi tham gia giao dịch xác lập giao
dịch thế chấp quyền sử dụng đất. Nhận thức được tầm quan trọng trong việc
bảo vệ quyền lợi của các chủ thể khi tham giao dịch thế chấp quyền sử dụng
đất. Tôi đã chọn đề tài “Thế chấp quyền sử dụng đất ở của cá nhân, hộ gia
đình để bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật Việt Nam
từ thực tiễn Ngân hàng Bảo Việt”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thế chấp quyền sử dụng đất ở không phải là vấn đề mới. Vấn đề này đã
được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến như: các nghiên cứu của Tiến sỹ
Nguyễn Quang Hiển năm 2018 về : “Giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín
dụng” đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân [25]; nghiên cứu của Thạc sỹ
Nguyễn Văn Điền năm 2019 về đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài
sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tín dụng ngân hàng” trên trang web
của Bộ Tư pháp [26]; nghiên cứu của Thạc sỹ Đoàn Thị Ngọc Hải về đề tài
2
“Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm ở nước ta hiện nay” [27]...
Những nghiên cứu này là nguồn tài liệu quý giá để tác giả có thể đưa ra được
những nhận định mới trong luận văn. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật trong việc thực hiện thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất
ở còn có những hạn chế nhất định. Đặc biệt là thực tiễn khi áp dụng quy định
pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở một số tổ chức tín dụng hiện nay vẫn
còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Do đó, liên quan đến vấn đề về thế chấp
quyền sử dụng đất ở tác giả sẽ phân tích sau hơn về thế chấp quyền sử dụng
đất ở và những vướng mắc khi sử dụng quyền sử dụng đất ở.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là từ những quy định của pháp luật về thế
chấp quyền sử dụng đất ở để phân tích, làm sáng tỏ những nhận định thực
trạng về thế chấp quyền sử dụng đất ở để bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân
hàng. Từ đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện các quy định của
pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về thế
chấp quyền sử dụng đất ở tại tổ chức tín dụng.
Phân tích những nội dung trong thế chấp quyền sử dụng đất ở để bảo
đảm hợp đồng tín dụng đồng thời đánh giá thực trạng việc thực hiện quy định
của pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng.
Cuối cùng là đưa ra một số kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện pháp
luật thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm hợp đồng tín dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật liên quan đến
thế chấp quyền sử dụng đất ở, việc áp dụng quy định pháp luật về thế chấp
quyền sử dụng đất ở trên thực tế tại Ngân hàng Bảo Việt.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện pháp luật liên
quan đến thế chấp quyền sử dụng đất trong phạm vi Luật đất đai 2013, Bộ luật dân
3
sự 2015… và các văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực pháp luật liên quan đến thế
chấp quyền sử dụng đất đang có hiệu lực thi hành. Cùng với đó đi sâu vào nghiên
cứu những khó khăn vướng mắc khi áp dụng quy định tại Ngân hàng Bảo Việt.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài: Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp, tổng hợp, phân tích, đối chiếu,
so sánh, ...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn đã phân tích và làm rõ những thay đổi phù
hợp với thực tiễn của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở. Luận văn
cũng tập trung phân tích những điểm mới về thế chấp quyền sử dụng đất ở
theo quy định của pháp luật hiện hành.
Ý nghĩa thực tiến: Luận văn có đưa ra những giải pháp góp phần hoàn
thiện quy định pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất góp phần đảm bảo an
toàn pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong giao dịch thế chấp
quyền sử dụng đất. Kết quả của đề tài có thể sử dụng tài liệu tham khảo hữu
ích cho việc nghiên cứu của các bạn sinh viên đang được đào tạo về luật, cũng
như những bạn đọc quan tâm vấn đề này có thêm tài liệu tham khảo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận
văn có kết cấu gồm 3 chương với nội dung nghiên cứu như sau:
Chương 1: Lý luận chung về thế chấp quyền sử dụng đất ở và pháp
luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở để bảo đảm hợp đồng tín dụng
ngân hàng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở
để bảo đảm hợp đồng tín dụng và thực tiễn tại Ngân hàng Bảo Việt
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thế chấp
4
quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở VÀ
PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở ĐỂ BẢO
ĐẢM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1. Lý luận về thế chấp quyền sử dụng đất ở
1.1.1. Khái niệm về đất ở
Đất ở (Đất thổ cư) là một cách gọi của đất phi nông nghiệp nằm trong
khu dân cư, là loại đất cho phép ở, xây dựng nhà cửa, các công trình xây dựng
phục vụ đời sống xã hội, đất vườn ao gắn liền với nhà ở trong cùng một thửa
đất thuộc khu dân cư đã được cơ quan nhà nước công nhận là đất ở.
Theo quy định tại Luật đất đai 2013 [16] thì đất ở thuộc nhóm đất phi
nông nghiệp, bao gồm đất ở tại nông thôn và đất ở tại đô thị. Đây là loại đất
dùng để xây dựng nhà ở, xây dựng các công trình phục vụ cho đời sống; đất
vườn ao gắn liền với nhà ở trong cùng một thửa đất thuộc khu dân cư (kể cả
trường hợp vườn, ao gắn liền với nhà ở riêng lẻ) đã được công nhận là đất ở.
Đất ở tại đô thị theo quy định tại Khoản 1 Điều 144: “Đất ở tại đô thị
bao gồm đất để xây dựng nhà ở, xây dựng các công trình phục vụ đời sống,
vườn, ao trong cùng một thửa đất thuộc khu dân cư đô thị, phù hợp với quy
hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt”.
Đất ở tại nông thôn theo quy định tại khoản 1 Điều 143: “Đất ở do hộ
gia đình, cá nhân đang sử dụng tại nông thôn gồm đất để xây dựng nhà ở, xây
dựng các công trình phục vụ đời sống, vườn, ao trong cùng thửa đất thuộc
khu dân cư nông thôn, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây
dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt”. Loại đất này cũng có sự khác biệt so với đất ở đô thị theo hạn mức,
thuế nhà đất, điều kiện xây dựng.
5
Theo Luật Đất đai 2013 “Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất” [16]
quy định hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được thực hiện quyền thế chấp
quyền sử dụng đất để vay vốn tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại
Việt Nam. Tuy nhiên, đối với đất thuê trả tiền hàng năm thì người sử dụng đất
chỉ được thế chấp bằng tài sản thuộc sở hữu mình gắn liền với đất thuê theo
quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 179 Luật Đất đai 2013 về “Quyền và nghĩa
vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất”.
Thời điểm để có thể mang quyền sử dụng đất thế chấp vay vốn ngân
hàng, theo quy định tại Luật Đất đai 2013 [16] là khi người sử dụng đất đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với trường hợp chuyển đổi
quyền sử dụng đất nông nghiệp thì người sử dụng đất được thực hiện quyền
thế chấp sau khi có quyết định giao đất, cho thuê đất của nhà nước; trường
hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện
quyền thế chấp khi có đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Căn cứ theo Điều 168 Luật Đất đai 2013, nếu người sử dụng đất chậm thực
hiện nghĩa vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước thì
phải thực hiện xong nghĩa vụ tài chính trước khi thực hiện việc thế chấp.
Ngoài quy định về thế chấp quyền sử dụng đất phải có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất như đã nêu ở trên, để thế chấp quyền sử dụng đất vay vốn
ngân hàng, Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định người sử dụng đất phải có
thêm điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất khác gồm: đất đai không có tranh
chấp, quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án và phải còn
thời hạn sử dụng đất (thế chấp trong hời hạn sử dụng đất).
Trong trường hợp trên đất có nhà ở, thì khi thế chấp cả quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở, còn phải tuân thủ điều kiện thế chấp nhà ở quy
định tại Luật nhà ở về điều kiện của nhà ở tham gia giao dịch [21], cụ thể là
6
nhà ở phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu theo quy định của pháp luật.
Luật Đất đai 2013 quy định việc thế chấp quyền sử dụng đất phải đăng
ký tại cơ quan đăng ký đất đai và sẽ có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào
sổ địa chính. [16]
1.1.2. Khái niệm về thế chấp quyền sử dụng đất ở
Như đã đề cập ở trên, người sử dụng đất được thực hiện các quyền
chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thừa kế, góp
vốn, thế chấp quyền sử dụng đất. Do đó, nếu người sử dụng đất ở đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở thì có thể được thực hiện thế chấp
quyền sử dụng đất ở tại ngân hàng.
Trước đây, đã từng có quan điểm về thế chấp quyền sử dụng đất ở là sự
thỏa thuận giữa các bên nhưng tuân theo các điều kiện, nội dung, hình thức
thế chấp quyền sử dụng đất được Bộ luật dân sự và Luật đất đai quy định.
Theo đó, bên sử dụng đất có quyền dùng quyền sử dụng đất ở của mình đi thế
chấp nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bên thế chấp được tiếp
tục sử dụng đất của mình trong thời hạn thế chấp.
Về mặt khách quan, thế chấp quyền sử dụng đất ở là quy định của pháp
luật cho phép người có quyền sử dụng đất ở dùng quyền sử dụng đất ở nhằm
bảo đảm nghĩa vụ của mình trong quan hệ nghĩa vụ cụ thể nào đó.
Tuy nhiên, về mặt chủ quan thì thế chấp quyền sử dụng đất ở được hiểu
là sự thỏa thuận giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp nhằm đảm bảo cho
việc thực hiện nghĩa vụ. Ví dụ, bên vay trả tiền không đủ hoặc trả không đúng
thời hạn như đã thỏa thuận thì bên nhận thế chấp có quyền xử lý quyền sử
dụng đất ở theo thỏa thuận giữa hai bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì thế chấp là một
trong những biện pháp phổ biến và hiệu quả nhất. Theo quy định tại Bộ luật
dân sự 2015 đã đưa ra khái niệm về thế chấp tài sản: “Thế chấp tài sản là việc
một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để
7
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là
bên nhận thế chấp)” [24].
Các chủ thể và phạm vi quyền sử dụng đất được quy định cụ thể trong
Luật đất đai 2013 nhằm khẳng định quyền thế chấp của người sử dụng đất.
Đây chính là cơ sở pháp lý rất quan trọng để Ngân hàng có thể nhận thế chấp
quyền sử dụng đất. Thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng, ngân hàng với tư cách là bên cho vay sẽ thỏa thuận với
bên vay hoặc bên thứ ba sử dụng quyền sử dụng đất để làm tài sản thế chấp
cho khoản vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Chủ sử
dụng đất sẽ chuyển giao các giấy tờ pháp lý liên quan đến quyền sử dụng đất
cho ngân hàng để thực hiện thế chấp mà không cần phải chuyển giao thửa đất
đó cho ngân hàng.
Như vậy, thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của ngân
hàng là việc bên thế chấp (có thể là bên vay hoặc bên thứ ba) và bên nhận thế
chấp (tổ chức tín dụng) cùng nhau thỏa thuận dùng tài sản thế chấp là quyền
sử dụng đất của bên thế chấp để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ phát sinh trong
quan hệ tín dụng của tổ chức tín dụng.
1.1.3. Đặc điểm thế chấp quyền sử dụng đất ở để bảo đảm hợp đồng tín
dụng tại ngân hàng
Thứ nhất là đối tượng của việc thế chấp quyền sử dụng đất ở là “quyền
sử dụng đất ở”. Tuy khái niệm quyền sử dụng đất ở không được quy định cụ
thể trong văn bản pháp luật, nhưng về cơ bản đất đai cũng là một loại tài sản.
Do vậy, chủ thể sử dụng đất ở có quyền khai thác, được sử dụng để ở, hưởng
hoa lợi, lợi tức từ diện tích đất ở mà người đó đang sử dụng nên sẽ được phép
đem thế chấp tương tự như các loại tài sản khác. Thế chấp quyền sử dụng đất
ở giữa các bên phải dựa trên sự tự nguyện hay nói cách khác là phải có sự
thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí và ý chí đó phải phù hợp với ý chí của nhà
8
nước.
Thứ hai, thế chấp quyền sử dụng đất là một biện pháp bảo đảm. Khi
ngân hàng thực hiện cấp tín dụng, để có thể thu hồi được nợ đến hạn mà bên
vay không thực hiện đúng nghĩa vụ thì ngân hàng sẽ áp dụng các biện pháp
bảo đảm cho việc thực hiện các nghĩa vụ trả nợ. Quyền sử dụng đất là một
loại tài sản có giá trị lớn có thể được định giá bằng tiền, do đó, quyền sử dụng
đất có thể đáp ứng được điều kiện là một loại tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả
nợ. Thế chấp quyền sử dụng đất hiện nay là một biện pháp bảo đảm rất phổ
biến, khi đến hạn mà bên vay không thanh toán được nghĩa vụ trả nợ thì ngân
hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ xấu.
Thứ ba là thế chấp quyền sử dụng đất ở thì bên thế chấp không phải
chuyển giao tài sản thế chấp cho bên thế chấp. Bên thế chấp không phải
chuyển giao tài sản thế chấp quyền sử dụng đất ở mà bên thế chấp vẫn có
quyền khai thác, sử dụng tài sản thế chấp. Việc không chuyển giao tài sản
giúp cho bên thế chấp có thể sử dụng phục vụ mục đích kinh doanh sản xuất
để không làm giảm giá trị quyền sử dụng đất. Pháp luật quy định bên thế chấp
được tiếp tục sử dụng đất nhằm đảm bảo việc sử dụng đất có hiệu quả, tránh
tình trạng người nhận tài sản quản lý đất đai không tốt dẫn đến tổn thất về đất
đai, tài sản trong khi bên thế chấp có nhu cầu sử dụng đất thì không được
quản lý và sử dụng đất. Ngoài ra, việc thế chấp cũng không ảnh hưởng gì đến
quyền sử dụng đất, nên việc thiệt hại phải đền bù về cơ bản không xảy ra. Cả
bên thế chấp và bên nhận thế chấp đều không có thiệt hại làm ảnh hưởng đến
tài sản thế chấp.
Thứ tư, quy trình, thủ tục về thế chấp quyền sử dụng đất được pháp luật
quy định rất chặt chẽ. Quyền sử dụng đất là loại tài sản có giá trị lớn, do đó,
so với các loại tài sản thế chấp khác quyền sử dụng đất được pháp luật quy
định chặt chẽ và cụ thể hơn. Bộ luật dân sự và Luật đất đai quy định rất nhiều
vấn đề khi thực hiện quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất như điều kiện thế
9
chấp quyền sử dụng đất, hình thức, quyền nghĩa vụ của các bên trong giao
dịch thế chấp... Ngoài ra, các trình tự thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất cũng
phải tuân thủ những quy định riêng của từng ngân hàng. Mỗi ngân hàng có
những quy định riêng áp dụng đối với các giao dịch thế chấp quyền sử dụng
đất để phù hợp với hoạt động cho vay của từng ngân hàng. Tuy có những quy
định riêng nhưng về cơ bản các ngân hàng vẫn phải tuân thủ theo những
khuôn khổ pháp lý mà nhà nước đã ban hành.
1.1.4. Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất ở
Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 thì hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Sự thỏa thuận là sự thống nhất về mặt ý chí giữa các bên tham gia quan hệ
trong hợp đồng. Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng
(bên cho vay) với cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện do luật định (bên vay),
theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận ứng trước một khoản tiền cho bên vay sử
dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi,
dựa trên sự tín nhiệm.
Hiện nay, khi thực hiện quan hệ thế chấp tại ngân hàng các bên sẽ ký
hợp đồng thế chấp để xác lập giao dịch thế chấp tài sản. Có thể thấy đối với
hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm khi kí kết thì luôn đi kèm với hợp đồng
thế chấp tài sản. Hợp đồng thế chấp tài sản có thể ký trước, sau hoặc cùng
thời điểm với hợp đồng tín dụng do pháp luật không quy định về thời điểm ký
hợp đồng thế chấp. Từ thời điểm hợp đồng thế chấp được giao kết, thì hợp
đồng tín dụng sẽ được xem là hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm và khi đó
các bên mới bắt đầu phát sinh quyền, nghĩa vụ bảo đảm.
Hợp đồng thế chấp và hợp đồng tín dụng đi kèm với nhau và có hiệu
lực độc lập với nhau, có thể phụ thuộc hoặc không phụ thuộc vào hợp đồng
tín dụng. Mỗi loại hợp đồng sẽ tự phát sinh và chấm dứt hiệu lực khi thỏa
10
mãn điều kiện theo luật định mà không phải phụ thuộc vào hợp đồng còn lại.
Có thể nói hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp là những hợp đồng độc
lập và không phụ thuộc vào nhau. Sự độc lập về mặt hiệu lực được thể hiện
trong Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ như sau:
“Điều 15. Quan hệ giữa giao dịch bảo đảm và hợp đồng có nghĩa vụ
được bảo đảm:
1. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực hiện
hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần
hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm
không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ
được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt
thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm
chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ
được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.
4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không
làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.
5. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định tại
khoản 1 và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản
bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.”
Thứ nhất, trường hợp hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp quyền
sử dụng đất bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhưng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của
các bên hoặc bởi đơn phương chấm dứt của một bên nhưng chưa được thực hiện
hợp đồng đó thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất chấm dứt.
Thứ hai, nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp quyền sử dụng
11
đất bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhưng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên
hoặc đơn phương chấm dứt của một bên nhưng đã được thực hiện một phần
hoặc toàn bộ thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất không đương nhiên chấm
dứt hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Trong trường hợp này,
nếu hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất không bị chấm dứt trong khi tổ chức
tín dụng đã giải ngân cho bên vay thì tổ chức tín dụng hoàn toàn có quyền xử lý
quyền sử dụng đất đã thế chấp để thu hồi số tiền đã giải ngân cho bên vay.
Thứ ba, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ
sẽ không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng tín dụng, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác.
Như vây, có thể khằng định hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp có
hiệu lực độc lập với nhau và không phụ thuộc vào nhau trừ trường hợp được
các bên trong giao dịch có thỏa thuận về hiệu lực của chúng.
1.2. Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở
Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở là một nội dung quan trọng
trong hệ thống pháp luật tại Việt Nam và nó cũng rất phổ biến trong đời sống
xã hội. Các quy định về quyền, nghĩa vụ, hiệu lực và thời điểm thực hiện
quyền thế chấp quyền sử dụng đất ở... các bên trong giao dịch dân sự có căn
cứ để xác lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Ngoài ra, các quy
định đó còn là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền xem xét đánh giá về tính
hợp pháp của các giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất mà các bên đã ký kết
với nhau từ đó làm cơ sở để giải quyết các tranh chấp nếu xảy ra. Từ phân
tích trên, ta có thể đưa ra định nghĩa khái niệm pháp luật về thế chấp quyền sử
dụng đất ở như sau: Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở là hệ thống
các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các
chủ thể liên quan đến việc thực hiện các giao dịch về thế chấp quyền sử
dụng đất ở nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ thế
12
chấp quyền sử dụng đất ở.
1.2.2. Cơ cấu pháp luật điều chỉnh thế chấp quyền sử dụng đất ở
Thứ nhất, việc thế chấp quyền sử dụng đất ở được điều chỉnh bởi rất
nhiều các lĩnh vực pháp luật khác nhau như: đất đai, dân sự, ngân hàng...
Pháp luật dân sự với tư cách là lĩnh vực pháp luật chung điều chỉnh các quan
hệ về tài sản mà ở đây là quyền sử dụng đất ở đã được xây dựng với những
nguyên lý chung và cơ bản nhất để tạo ra những bảo đảm và khả năng tối
thiểu cho giao dịch thế chấp tài sản nói chung và giao dịch thế chấp quyền sử
dụng đất ở nói riêng được vận hành một cách thống nhất.
Pháp luật đất đai là pháp luật chuyên ngành về quản lý và sử dụng đất,
vừa có nhiệm vụ cụ thể hóa những điều kiện, yêu cầu mang tính nguyên tắc
đã quy định trong pháp luật dân sự lại vừa cụ thể hóa những nội dung mang
tính đặc thù của đối tượng quyền sử dụng đất ở trong quan hệ thế chấp trên cơ
sở đảm bảo sự hài hòa và thống nhất giữa pháp luật chung và riêng, giữa
những nội dung mang tính chất nguyên tắc và những nội dung mang tính
chuyên biệt, cụ thể. Về cơ bản, pháp luật đất đai chủ yếu điều chỉnh những
nội dung trực tiếp liên quan đến điều kiện, phạm vi, cách thức thực hiện giao
dịch thế chấp quyền sử dụng đất nói chung và quyền sử dụng đất ở nói riêng.
Ngoài sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, pháp luật đất đai quan hệ thế chấp
quyền sử dụng đất ở cũng được điều chỉnh trong lĩnh vực pháp luật tín dụng
ngân hàng. Điều này được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật như Luật
các tổ chức tín dụng 2010, Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm,
Nghị định 102/2017/NÐ-CP về đăng ký biện pháp bảo đảm...
Thứ hai, pháp luật điều chỉnh về thế chấp quyền sử dụng đất ở bao gồm
năm nhóm quy phạm sau: nhóm quy phạm pháp luật về chủ thể của quan hệ
thế chấp quyền sử dụng đất ở; nhóm quy phạm pháp luật về đối tượng điều
chỉnh thế chấp quyền sử dụng đất ở; nhóm quy phạm pháp luật về hình thức
của giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất ở; nhóm quy phạm pháp luật quy
13
định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thế chấp quyền sử dụng
đất ở; nhóm quy phạm pháp luật về hiệu lực của giao dịch thế chấp quyền sử
dụng đất ở:
Nhóm thứ nhất, nhóm quy phạm pháp luật quy định về chủ thể của quan
hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở: Với chủ thể của quan hệ thế chấp quyền sử
dụng đất ở là các bên trong quan hệ thế chấp tài sản, bao gồm bên thế chấp
và bên nhận thế chấp. Điều kiện trở thành chủ thể của giao dịch thế chấp
quyền sử dụng đất ở cũng chính là những điều kiện đối với chủ thể tham gia
giao dịch dân sự nói chung.
Bên thế chấp, không phải mọi chủ thể có quyền sử dụng đất đều được
quyền thế chấp quyền sử dụng đất mà do Nhà nước quyết định, phân bố, điều
chỉnh xác định quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể đất. Ví dụ như quyền sử
dụng đất ở của cá nhân, hộ gia đình được nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất thì được quyền thế chấp để vay vốn còn quyền sử dụng đất của cơ
sở tôn giáo thì không được thế chấp.
Bên nhận thế chấp là những chủ thể có nguồn vốn và thực hiện hoạt
động cho vay đối với những chủ thể có nhu cầu vay mượn thông qua việc
yêu cầu bên vay có tài sản bảo đảm cho nguồn vay. Hiện nay, chủ thể nhận
thế chấp thường là các tổ chức tín dụng trong nước và các tổ chức tín dụng
nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam.
Nhóm thứ hai, nhóm quy phạm pháp luật về đối tượng điều chỉnh quan
hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở. Đối tượng điều chỉnh quan hệ thế chấp
quyền sử dụng đất ở là quyền sử dụng đất ở. Ngoài ra, quyền sử dụng đất ở
cũng phải thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất thông qua
các quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong những trường
hợp thế chấp quyền sử dụng đất ở nếu tài sản gắn liền với đất cũng thuộc
quyền sở hữu của bên thế chấp thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc tài sản
14
thế chấp, trừ trường hợp có những sự thỏa thuận khác. Việc thực hiện nghĩa
vụ trong quan hệ thế chấp là một biện pháp bảo đảm quan trọng đối với hợp
đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản.
Nhóm thứ ba, nhóm quy phạm pháp luật về hình thức của giao dịch thế
chấp quyền sử dụng đất ở. Theo quy định của luật đất đai 2013 [16] thì hình
thức của giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất ở hiện nay ở Việt Nam được
quy định phải thiết lập bằng văn bản, có công chứng, chứng thực và được
đăng ký giao dịch bảo đảm, nhằm bảo vệ cao nhất quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia giao kết. Đất ở là loại tài sản có giá trị lớn, ảnh hưởng sâu sắc
tới đời sống chủ thể sở hữu vì vậy hình thức giao dịch thế chấp quyền sử
dụng đất ở phải tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ để hạn chế tranh chấp. Với những
điều khoản rõ ràng được quy định trong giao dịch thế chấp quyền sử dụng
đất ở sẽ là căn cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan
hệ thế chấp quyền sử dụng đất. Ngoài ra, việc công chứng, chứng thực các
giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất còn là cơ sở pháp lý quan trọng để
chứng minh giao dịch đó được giao kết khách quan trên cơ sở sự thỏa thuận
tự nguyện giữa các bên trong quan hệ thế chấp và mọi nội dung thỏa thuận
trong giao dịch thế chấp đều không trái với các quy định của pháp luật và
đạo đức xã hội.
Nhóm thứ tư, nhóm quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở. Quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể trong quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất là những điều
khoản cơ bản của giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất ở, qua đó chỉ rõ các
lợi ích mà các bên đạt được và những nghĩa vụ phải thực hiện. Ví dụ: bên thế
chấp quyền sử dụng đất ở, có quyền được khai thác công dụng, hưởng hoa
lợi, lợi tức, đầu tư để làm tăng giá trị của đất trong thời gian thế chấp. Tuy
nhiên, bên thế chấp cũng phải có nghĩa vụ như: không được phá hoại hay để
người khác phá hoại hoặc lấn chiếm làm thay đổi diện tích quyền sử dụng
15
đất khiến giá trị tài sản thế chấp bị giảm; Bên nhận thế chấp có nghĩa vụ bảo
quản hồ sơ, giấy tờ về tài sản thế chấp, có nghĩa vụ trả các hồ sơ giấy tờ liên
quan đến quyền sử dụng đất cho bên thế chấp sau khi chấm dứt việc thế
chấp; có quyền xem xét, kiểm tra việc sự dụng và quản lý quá trình sử dụng
đất của bên thế chấp, yêu cầu bên thế chấp phải cung cấp thông tin về thực
trạng quyền sử dụng đất đang thế chấp; giữ giấy tờ liên quan đến quyền sử
dụng đất đang thế chấp trong các trường hợp có thỏa thuận, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác, có quyền xử lý tài sản thế chấp khi bên thế chấp
không thực hiện được nghĩa vụ đã thỏa thuận…
Nhóm thứ năm, nhóm quy phạm pháp luật về hiệu lực của giao dịch thế
chấp quyền sử dụng đất ở. Hiệu lực của giao dịch thế chấp quyền sử dụng
đất ở có thể hiểu đó là khoảng thời gian nhất định để giao dịch có giá trị bắt
buộc thực hiện với các bên tham gia trong giao dịch thế chấp. Hiệu lực của
giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất được tính từ thời điểm giao kết giao
dịch thế chấp, nghĩa là từ thời điểm giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp
cùng thỏa thuận các nội dung, đồng ý các điều, khoản và ký vào bản giao kết
thế chấp quyền sử dụng đất ở. Hiệu lực của giao dịch thế chấp quyền sử dụng
đất ở ghi nhận thời điểm mà các nội dung trong giao dịch thế chấp quyền sử
dụng đất ở bắt đầu được pháp luật công nhận và bảo vệ. Vì đất đai là một tài
sản đặc biệt nên pháp luật đã quy định giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất ở
có hiệu lực với Bên thứ ba kể từ thời điểm được đăng ký giao dịch bảo đảm để
bảo vệ quyền lợi của Bên nhận thế chấp trước các lợi ích của các cá nhân, tổ
chức khác có liên quan đến quyền sử dụng đất đã thế chấp.
1.3. Lược sử hình thành và phát triển của quy định thế chấp quyền sử
dụng đất ở tại Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1980 đến trước khi ban hành Luật Đất đai năm 1993
Đất đai là tài nguyên có nguồn gốc tự nhiên và là tài sản quý giá của
con người, đất đai là nơi để con người sinh sống và tạo ra của cải vật chất để
16
duy trì sự sống. Do đó, từ lâu đất đai luôn là mối quan tâm của nhà nước. Ở
bất kì giai đoạn phát triển nào của đất nước, Đảng và Nhà nước luôn có chính
sách cụ thể về đất đai thông qua các quy định trong Luật, Nghị định, Thông
tư... Từ năm 1980 đến nay nhà nước ta đã xác lập chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai và chế định quyền sử dụng đất ra đời.
Năm 1980, Hiến pháp mới ở Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Hiến pháp
1980 đã có quy định xóa bỏ các hình thức tư nhân về tư liệu sản xuất. Tại thời
điểm này, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, và
được khẳng định tại Hiến pháp 1980 [18] và tại điều 1 Luật đất đai năm 1987:
“Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý...”
Tại thời điểm này, Nhà nước đã tiến hành đổi mới, mở cửa cho sự ra
đời nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước
ngoặt quan trong đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong đường lối phát triển
kinh tế đất nước. Tuy mở đường cho nền kinh tế thị trường phát triển nhưng
quan hệ đất đai vẫn chịu sự điều chỉnh của Luật đất đai 1987 nên nhà nước
chỉ quy định cụ thể những trường hợp được giao dịch chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thì người dân ngoài quyền được khai thác công dụng và lợi ích từ
đất đai để phục vụ đời sống thì không có quyền giao dịch về quyền sử dụng
đất. Do đó trong giai đoạn này hoạt động thế chấp quyền sử dụng đất ở vẫn
chưa được pháp luật thừa nhận.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến trước khi ban hành Luật Đất đai năm 2003
Từ năm 1992, nhà nước ta đã có nhiều thay đổi và hoàn thiện về mọi
mặt của đời sống kinh tế, việc này đòi hỏi sự đổi mới quy định về đất đai theo
hướng mở để nhân dân có được quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất một
cách đúng nghĩa. Sự ra đời của Hiến pháp 1992 và Luật đất đai 1993 đã đánh
dấu sự thay đổi lớn trong quan hệ hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất. Hiến
pháp 1992 quy định Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai, các tổ chức,
cá nhân được sử dụng đất ổn định và lâu dài. Ngoài ra, tại Luật đất đai 1993
17
quy định cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước giao đất có quyền được chuyển
nhượng, chuyển đổi, thế chấp, cho thuê, thừa kế quyền sử dụng đất.
Quy định tại Luật đất đai 1993 có thể nói là văn bản pháp luật đầu tiên
ghi nhận quy định người sử dụng đất hợp pháp có quyền được chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất. Đây là quy định có
ý nghĩa quan trọng trong đời sống, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động sử
dụng đất hiệu quả. Việc thế chấp quyền sử dụng đất được quy định cụ thể tại
Luật đất đai 1993 theo đó, cá nhân, hộ gia đình sử dụng đất nông, lâm để
trồng rừng được thế chấp tại các tổ chức tín dụng, ngân hàng của Nhà nước để
vay vốn sản xuất. Như vậy, tại thời điểm này Nhà nước vẫn chưa cho phép
các tổ chức kinh tế được thế chấp quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng.
Quyền thế chấp quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình đã được quy định
tuy nhiên quyền thế chấp vẫn còn bị hạn chế. Năm 1995 Bộ luật dân sự Việt
Nam được ban hành, tại phần 5 đã giành riêng để quy định cụ thể về việc
chuyển quyền sử dụng đất bao gồm các quy định về chủ thể, hình thức và nội
dung về việc chuyển quyền sử dụng đất, trong đó có quy định về thế chấp
quyền sử dụng đất.
Đến năm 1996, Nghị định 85-CP năm 1996 thi hành Pháp lệnh về
quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất đã ghi nhận về việc tổ chức được nhà nước giao đất có quyền thế
chấp để vay vốn sản xuất kinh doanh.
Sự ra đời của Luật đất đai 1993 được xem là bước tiến quan trọng trong
quy định về chính sách đất đai ở nước ta, riêng về thế chấp quyền sử dụng đất
được quy định khá rõ ràng và chi tiết. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng
của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập thế giới ngày càng mạnh mẽ đã
làm luật đất đai bộc lộ một số những hạn chế nhất định trong hoạt động điều
chỉnh các quan hệ về đất đai.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến khi ban hành Luật Đất đai mới năm 2013
18
Đến năm 2003, Luật đất đai 2003 ban hành dựa trên cơ sở kế thừa và
phát triển các quy định về đất đai, đặc biệt là những quy định về thế chấp
quyền sử dụng đất. Cũng trong giai đoạn này, Bộ luật dân sự 2005 ban hành
cũng đã có những quy định về thế chấp quyền sử dụng đất. Tuy luật đất đai
2003 đã thừa nhận và mở rộng thêm các giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất
nhưng thực tế việc thế chấp quyền sử dụng đất vẫn còn tồn tại nhiều bất cập.
Cụ thể, việc quy định bắt buộc về mục đích của việc thế chấp quyền sử dụng
đất tại Điều 110 Luật đất đai 2003 quy định tổ chức kinh tế được Nhà nước
giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã trả không có nguồn
gốc từ ngân sách nhà nước thì có quyền thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử
dụng đất và tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất tại tổ chức tín dụng
được phép hoạt động tại Việt Nam để vay vốn theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra có quy đinh về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử
dụng đất không phải là đất thuê có quyền thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử
dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức
kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất, kinh doanh. Việc quy định như vậy
đã gây không ít khó khăn trong việc áp dụng các đối tượng tham gia vào quan
hệ thế chấp quyền sử dụng đất và làm giảm khả năng tiếp cận nguồn vốn của
cá nhân và hộ gia đình tại các tổ chức tín dụng.
Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đồng thời khắc phục
những bất cập trên, Luật đất đai năm 2013 được ban hành đã loại bỏ việc xác
định mục đích trong các giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất của cá nhân,
hộ gia đình. Các chủ thể đáp ứng đủ các điều kiện thế chấp thì đều có thể thế
chấp quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế khác hoặc
của cá nhân khác theo quy định của pháp luật. Đây được xem là điểm mới và
tích cực trong quy định về thế chấp quyền sử dụng đất, đưa việc thế chấp
quyền sử dụng đất phù hợp hơn với thực tế phát triển của đất nước. Đến năm
2015 cùng với sự ra đời của Luật đất đai 2013, bộ luật dân sự năm 2015 ra
đời nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật về dân sự trong đời sống được
19
hoàn chỉnh hơn, trong đó có các quan hệ về quyền, nghĩa vụ của người sử
dụng đất và các quy định về thế chấp quyền sử dụng đất ở. Luật đất đai 2013
ra đời, đã khắc phục được những bất cập nói trên. Giờ đây, các chủ thể có
quyền sử dụng đất đáp ứng được đủ các điều kiện cần có đều có thể thế chấp
quyến sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt
Nam cũng như các tổ chức kinh tế khác hoặc các cá nhân khác theo quy định
của pháp luật. Đây chính là điểm mới và tích cực nhất trong việc quy định về
thế chấp quyền sử dụng đất. Các quy định tại Luật đất đai 2013 đã đưa việc
thế chấp trở về với đúng bản chất và ý nghĩa để phù hợp với quy định tại Bộ
20
luật dân sự 2015 và các quy định pháp luật ngân hàng hiện nay.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 của luận văn: Lý luận chung về thế chấp quyền sử
dụng đất ở và pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở để bảo đảm hợp
đồng tín dụng ngân hàng, có thể rút ra kết luận như sau:
Tác giả đã phân tích lý luận về thế chấp quyền sử dụng đất ở và pháp
luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở. Trong đó, làm rõ khái niệm về thế chấp
quyền sử dụng đất ở và đặc điểm pháp lý của việc thế chấp quyền sử dụng đất
cũng như phân tích những khái niệm về hiệu lực thế chấp quyền sử dụng đất.
Qua chương I, chúng ta có thể hiểu thế chấp quyền sử đất ở là sự thỏa thuận
giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp, theo đó bên thế chấp dùng quyền sử
dụng đất ở của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên nhận
thế chấp. Trong thời hạn thế chấp thì bên thế chấp có quyền khai thác, sử
dụng đất ở. Từ những phân tích đó, người đọc đã thấy được những nét cơ bản
nhất và làm tiền đề cho việc tìm hiểu những quy định của pháp luật về thế
chấp quyền sử dụng đất ở.
Tiếp theo, tác giả đã trình bày những lý luận về pháp luật thế chấp
quyền sử dụng đất ở. Cụ thể, pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở được
định nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ
phát sinh giữa các chủ thể liên quan đến việc thực hiện các giao dịch về thế
chấp quyền sử dụng đất ở nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của các bên trong
quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở. Ngoài ra, tác giả còn trình bày về cơ
cấu pháp luật điều chỉnh của thế chấp quyền sử dụng đất ở với năm nhóm quy
phạm.
Cuối cùng là quá trình hình thành quy định về thế chấp quyền sử dụng
đất ở theo quy định của pháp luật Việt Nam. Chế định thế chấp quyền sử dụng
đất ở được hình thành từ rất sớm. Trải qua nhiều năm phát triển, quyền thế
chấp quyền sử dụng đất ở của cá nhân, hộ gia đình dần được phát triển quy
21
định cụ thể trong hệ thống pháp luật đất đai.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ở ĐỂ BẢO ĐẢM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN TẠI
NGÂN HÀNG BẢO VIỆT
2.1. Quy định pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở của cá nhân và
hộ gia đình để bảo đảm hợp đồng tín dụng.
2.1.1. Quy định về hợp đồng tín dụng và việc thế chấp tài sản để bảo đảm
thực hiện hợp đồng tín dụng.
Như đã trình bày ở chương 1, Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận giữa
tổ chức tín dụng với cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện do luật định. Đây là một
văn bản rất quan trọng thể hiện đầy đủ các thông tin về khoản vay, kế hoạch
trả nợ, các quy định về thay đổi lãi suất, phí phạt cũng như các quyền và trách
nhiệm của cả hai bên. Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng là bên vay và bên
cho vay. Một bên tham gia hợp đồng phải là tổ chức tín dụng có đáp ứng đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật, với tư cách là bên cho vay. Theo quy
định tại Luật các tổ chức tín dụng 2010, tổ chức tín dụng phải đáp ứng được
các yêu cầu sau: Có giấy phép thành lập và hoạt động được Ngân hàng nhà
nước cấp; có điều lệ được sự chấp thuận của ngân hàng nhà nước; có giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp; có người đại diện đủ năng lực và
thẩm quyền để ký kết hợp đồng. Cũng theo quy định tại Thông tư
39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng thì tổ
chức tín dụng cho vay là tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo
quy định của Luật các tổ chức tín dụng bao gồm: Ngân hàng thương mại;
Ngân hàng hợp tác xã; Tổ chức tín dụng phi ngân hàng; Tổ chức tài chính vĩ
mô; Quỹ tín dụng nhân dân; Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Đối với chủ thể là bên vay có thể là cá nhân, tổ chức đáp ứng những điều
22
kiện vay vốn theo quy định của pháp luật. Để trở thành chủ thể trong hợp đồng tín
dụng thì bên vay phải đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại Thông tư 39:
khách hàng là cá nhân, pháp nhân bao gồm: Cá nhân có quốc tịch Việt Nam, cá
nhân có quốc tịch nước ngoài; Pháp nhân thành lập và hoạt động tại Việt Nam,
pháp nhân được thành lập ở nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền (bao gồm tiền
mặt và bút tệ). Về nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng
phải là một số tiền nhất định và phải được các bên thỏa thuận, ghi rõ ràng
trong văn bản hợp đồng. Hợp đồng tín dụng vốn dĩ chứa đựng nguy cơ rủi ro
rất lớn cho quyền và lợi ích của bên cho vay. Sở dĩ có rủi ro trên bởi vì theo
cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ có thể đòi lại tiền của bên
vay sau một thời hạn nhất định. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi
ro và bất trắc ngày càng lớn. Chính vì đặc thù trên mà các tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng tín dụng cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ cao hơn so với
những loại hợp đồng khác. Vì thế để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng,
các tổ chức tín dụng có quyền xem xét đánh giá bên vay để quyết định cho vay
và quy định lãi suất.
Để được tổ chức tín dụng cho vay, bên vay phải đáp ứng được nhiều
điều kiện mà tổ chức tín dụng đưa ra như nhu cầu vay vốn có mục đích hợp
pháp hay không? Phương án sử dụng vốn như thế nào có đảm bảo để tổ chức
tín dụng thu hồi được nợ không? Bên vay có khả năng tài chính để đảm bảo
trả khoản nợ không? Mặc dù bên vay phải đáp ứng đầy đủ các yếu tố trên thì
tính rủi ro trong hợp đồng tín dụng vẫn rất cao, nhất là với những khoản cấp
tín dụng có số tiền lớn.
Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho các khoản cấp tín dụng, tổ chức tín
dụng thường cho khách hàng vay khi có các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng
tài sản như thế chấp quyền sử dụng đất, cầm cố... Đặc biệt, đối với khoản vay
có giá trị lớn thì việc bảo đảm bằng tài sản gần như là bắt buộc đối với khoản
23
vay đó. Do đó, khi thực hiện kí kết hợp đồng tín dụng, bên vay thường sẽ phải
kí kết thêm hợp đồng bảo đảm để bảo đảm cho khoản vay của tổ chức tín
dụng. Mặc dù biện pháp bảo đảm bằng tài sản sẽ hạn chế rủi ro trong hoạt
động cho vay tuy nhiên, pháp luật hiện hành vẫn cho các tổ chức tín dụng
được thỏa thuận cho vay có tài sản bảo đảm hoặc không. Cụ thể tại Thông tư
39/2016/TT-NHNN quy định: “Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay
hoặc không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay do tổ chức tín dụng và khách
hàng thoả thuận. Việc thỏa thuận về biện pháp bảo đảm tiền vay của tổ chức
tín dụng với khách hàng phù hợp với quy định của pháp luật về biện pháp bảo
đảm và pháp luật có liên quan”. Quy định này không những giúp cho tổ chức
tín dụng tăng tính cạnh tranh mà còn phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay.
Thực tế trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, trong các
điều kiện cho vay thì tài sản thế chấp là điều kiện quan trọng nhất để quyết
định đến khoản vay của bên vay.
2.1.2. Quy định cụ thể liên quan đến thế chấp quyền sử dụng đất ở
Chủ thể thế chấp quyền sử dụng đất ở
Chủ thể thế chấp quyền sử dụng đất ở là bên thế chấp và bên nhận thế
chấp và phải có đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định đối với các bên
trong quan hệ thế chấp.
Trong phạm vi đề tài, chúng ta sẽ tìm hiểu về thế chấp quyền sử dụng
đất ở của cá nhân và hộ đình tại tổ chức tín dụng. Do đó, bên thế chấp là cá
nhân, hộ gia đình; bên nhận thế chấp là tổ chức tín dụng nói chung.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 Chủ thể có
năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân
sự được xác lập. Vậy trước hết chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải có đầy
đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
Về cá nhân thì theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 thì năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ
24
dân sự; Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau; Năng lực
pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi
người đó chết. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là một khả năng có tính
tiền đề như một loại quyền và nghĩa vụ khách quan do bộ luật dân sự quy
định. Khi có sự kiện pháp lý xảy ra, năng lực pháp luật dân sự mới trở thành
hiện thực. Đặc thù của năng lực pháp luật dân sự là sự gắn liền với cá nhân
trong suốt cuộc đời, nên năng lực pháp luật dân sự của mỗi cá nhân có từ khi
cá nhân đó sinh ra và chấm dứt khi chết. Tại điều 19 Bộ luật dân sự 2015 quy
định: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Khác với năng
lực pháp luật dân sự được pháp luật công nhận sự bình đẳng giữa các cá nhân
và có từ khi sinh ra đến lúc chết đi. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ
có khi cá nhân đó đạt đến độ tuổi nhất định và cá nhân đó phải có sự phát
triển về trí tuệ hoàn toàn bình thường. Năng lực hành vi dân sự là khả năng để
cá nhân tiến hành các hành vi nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự của cá
nhân.
Cá nhân nào có đầy đủ khả năng nhận thức để làm chủ hành vi của
mình trong mọi trường hợp thì cá nhân đó được xem là có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ. Bộ luật dân sự 2015 quy định người thành niên là người từ đủ
18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp bị tuyên bố
mất năng lực hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Pháp luật chỉ quy
định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi tối đa của những người có
năng lực pháp luật dân sự đầy đủ. Những người này có đầy đủ tư cách chủ
thể, toàn quyền tham gia vào quan hệ dân sự với tư cách là những chủ thể độc
lập và họ tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện.
Cá nhân nào có nhận thức nhưng chưa đủ để làm chủ hành vi trong một
số trường hợp thì cá nhân đó là người có năng lực hành vi dân sự không đầy
đủ. Người có năng lực hành vi một phần (không đầy đủ) là những người chỉ
25
có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn
nhất định do pháp luật dân sự quy định. Theo quy định của pháp luật hiện
hành thì người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi; Giao dịch
dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người
đó xác lập, thực hiện; Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng
ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa
tuổi; Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản,
động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải
được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Như vậy cá nhân từ đủ 6 tuổi đến
dưới 18 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ. Những
người này có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những
nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu
hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Tuy pháp luật không quy định những giao
dịch nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày” và “phù hợp với
lứa tuổi” nhưng có thể hiểu đó là những giao dịch có giá trị rất nhỏ, phục vụ
những nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống được người đại diện của họ
cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của người đại diện.
Cá nhân không có khả năng nhận thức hoặc có khó khăn trong vấn đề
nhận thức hành vi của mình trong mọi trường hợp thì cá nhân đó là người bị
mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của một cá nhân
tạo nên tư cách chủ thể của cá nhân đó. Như vậy, người có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ là người có toàn quyền tham gia vào giao dịch thế chấp quyền
sử dụng đất ở.
Chủ thể tiếp theo trong quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở là hộ gia
đình. Hộ gia đình theo quy định tại luật đất đai được định nghĩa như sau: Hộ
26
gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi
dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung
và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Quyền sử dụng đất ở là tài sản có giá trị của hộ gia đình được xác lập trên
những căn cứ khác nhau nhưng có thể do cơ quan nhà nước giao cho hộ gia
đình quản lý sử dụng. Về cơ bản năng lực chủ thể của hộ gia đình có một số
những đặc điểm cơ bản như: năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự
của hộ gia đình sẽ phát sinh cùng thời điểm sự hình thành của hộ gia đình;
khác với năng lực chủ thể của cá nhân, năng lực chủ thể của hộ gia đình trong
giao dịch liên quan đến tài sản chung của hộ gia đình thì phải có sự thỏa thuận
của các thành viên trong hộ gia đình. Do đó, tư cách chủ thể của hộ gia đình
khi tham gia quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở thì phải căn cứ vào tình
hình thực tế của hộ gia đình đó, nếu quyền sử dụng đất ở được cấp cho hộ gia
đình thì khi tham gia thế chấp quyền sử dụng đất ở phải có sự thỏa thuận của
tất cả các thành viên trong hộ gia đình.
Chủ thể cuối cùng trong quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở là tổ
chức tín dụng. Theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì các
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi
ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập ở nước
ngoài theo quy định của pháp luật nước ngoài.
Tổ chức tín dụng nước ngoài được hiện diện thương mại tại Việt Nam
dưới hình thức văn phòng đại diện, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính liên
doanh, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100%
vốn nước ngoài, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài.
27
Ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài là loại hình
ngân hàng thương mại; công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100%
vốn nước ngoài là loại hình công ty tài chính; công ty cho thuê tài chính liên
doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là loại hình công ty
cho thuê tài chính theo quy định của Luật này.
Nhìn chung các chủ thể là cá nhân, hộ gia đình và tổ chức tín dụng nếu
đáp ứng đủ các điều kiện theo luật định thì có thể trở thành chủ thể trong quan
hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở. Tuy nhiên, do đặc thù đất đai là tài sản có
giá trị và là tài nguyên quan trọng của quốc gia nên khi các chủ thể tham gia
vào quan hệ thế chấp không những phải đáp ứng các điều kiện theo chung của
luật dân sự mà còn phải đáp ứng các điều kiện khác do pháp luật quy định
như tại luật đất đai, luật nhà ở...
Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân và hộ gia đinh khi tham gia
hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần phải có vốn để hoạt đông. Do đó, khi
thực hiện vay vốn để sản xuất, kinh doanh các chủ thể này đều mong muốn
hoạt động kinh doanh sẽ đạt lợi nhuận cao nhất để thanh toán các khoản nợ
gốc lãi cho tổ chức tín dụng. Tuy nhiên không phải lúc nào các chủ thể cũng
đạt được điều đó, dẫn đến không có khả năng trả nợ số tiền đã vay từ tổ chức
tín dụng. Nhưng dù là lý do gì thì khi bên vay không thực hiện đúng thỏa
thuận thì tổ chức tín dụng sẽ phải xử lý tài sản đã thế chấp để thu hồi khoản
nợ. Tuy nhiên để xử lý tài sản thế chấp còn gặp nhiều khó khăn, các thủ tục
hành chính còn bất cập, chưa tạo được hành lang pháp lý thông thoáng để bên
nhận thế chấp có thể xử lý tài sản thế chấp một cách hiệu quả.
Đối tượng của quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở
Đối tượng của quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở chính là quyền sử
dụng đất ở. Tuy nhiên, không phải quyền sử dụng đất ở nào cũng thỏa mãn
điều kiện để trở thành đối tượng của quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở.
Để quyền sử dụng đất ở của các chủ thể trở thành tài sản bảo đảm trong quan
28
hệ thế chấp thì nó còn phải đáp ứng các điều kiện pháp lý như: Quyền sử
dụng đất ở phải thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bên thế chấp; Quyền sử
dụng đất ở không có tranh chấp; Quyền sử dụng đất ở không thuộc diện phải
kê biên để bảo đảm thi hành án và phải còn trong thời hạn được phép sử dụng.
Theo quy định hiện hành thì người sử dụng đất được thực hiện các
quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thừa kế,
góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất khi có các điều
kiện sau đây:
- Có Giấy chứng nhận
- Đất không có tranh chấp;
- Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
- Trong thời hạn sử dụng đất.
Điều kiện thứ nhất, điều kiện quyền sử dụng đất ở phải có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, tại khoản 1 điều 166 luật đất đai năm 2013 quy định
quyền chung của người sử dụng đất là được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liên với đất. Giấy chứng
nhận này chính là căn cứ pháp lý để xác định mối quan hệ giữa nhà nước và
người sử dụng đất và nó là phương tiện để người sử dụng đất có thể thực hiện
quyền thế chấp quyền sử dụng đất. Như vậy, để thế chấp quyền sử dụng đất ở
thì người sử dụng đất phải có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, mà ở
đây là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất. Việc quy định điều kiện thế chấp phải có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý đất đai của
nhà nước.
Điều kiện thứ hai, Quyền sử dụng đất ở phải không có tranh chấp.
Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất
giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai [16]. Thế chấp về cơ bản là
biện pháp bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ dân sự mà trong đó bên thế chấp
29
dùng tài sản của mình để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Vì thế,
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhân thế chấp, pháp luật quy
định tài sản thế chấp phải không có tranh chấp. Nghĩa là tại thời điểm quyền
sử dụng đất ở thế chấp thì quyền sử dụng đất của bên thế chấp phải không có
bất kì khiếu nại hay mâu thuẫn với chủ thể khác về các quyền nghĩa vụ liên
quan đến tài sản đó. Cơ quan có thẩm quyền xác nhận đất không có tranh
chấp là ủy ban nhân dân xã, phường thị trấn nơi có quyền sử dụng đất.
Điều kiện thứ ba, Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi
hành án. Đây là điều kiện cần thiết bởi khi quyền sử dụng đất ở của một chủ
thể bị kê biên để bảo đảm thi hành án thì rất có thể quyền sử dụng đất này đã
là tài sản để bảo đảm cho việc thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ về tài sản
đối với các chủ thể khác. Thông qua quyết định kê biên thi hành án thì cơ
quan có thẩm quyền cũng đã xác định người sử dụng đất tạm dừng quyền sử
dụng đối với quyền sử dụng đất đã bị kê biên nên không thể dùng quyền sử
dụng đất này để thế chấp tại bên nhận thế chấp. Như vậy, trong mọi trường
hợp khi đã bị kê biên để đảm bảo thi hành án thì quyền sử dụng đất đó sẽ
không thể trở thành đối tượng của quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất được.
Điều kiện thứ tư, thế chấp quyền sử dụng đất phải trong thời hạn sử
dụng đất. Nhà nước quy định về thời hạn sử dụng đất trong Luật đất đai 2013,
có loại đất được nhà nước giao đất để sử dụng lâu dài, có loại được nhà nước
cho thuê... Thời hạn sử dụng đất được quy định tại Điều 125 đất sử dụng ổn
định lâu dài, Điều 126 đất sử dụng có thời hạn, Điều 127 thời hạn sử dụng
đất khi chuyển mục đích sử dụng đất, Điều 128 thời hạn sử dụng đất khi nhận
chuyển quyền sử dụng đất của luật đất đai 2013. Theo đó, quyền và nghĩa vụ
của mỗi chủ thể trên phần đất được nhà nước cho phép sử dụng cũng đồng
thời xác lập và tương ứng với thời hạn đã được xác định. Do đó, việc xác lập
quyền thế chấp quyền sử dụng đất trong thời hạn sử dụng đất còn lại có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với bên nhận thế chấp, bởi lẽ nó sẽ ảnh hưởng
30
trực tiếp đến quyền và lợi ích của bên nhận thế chấp.
Đối với thế chấp quyền sử dụng đất ở thì tài sản là đất ở. Đối với đất ở
sẽ bao gồm đất ở tại nông thôn và đất ở tại đô thị. Đất ở tại nông thôn bao
gồm đất ở do hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng tại nông thôn gồm đất để xây
dựng nhà ở, xây dựng các công trình phục vụ đời sống, vườn, ao trong cùng
thửa đất thuộc khu dân cư nông thôn, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt. Đất ở tại đô thị gồm đất ở tại đô thị bao gồm đất để xây
dựng nhà ở, xây dựng các công trình phục vụ đời sống, vườn, ao trong cùng
một thửa đất thuộc khu dân cư đô thị, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt
[16]. Đối với loại đất này, mục đích sử dụng là để ở tại nông thôn và đô thị do
đó loại đất này có tính ổn định cao, pháp luật không quy định về thời gian sử
dụng, do vậy loại đất này có thời hạn sử dụng đất lâu dài, và chỉ bị thu hồi
trong một số trường hợp đặc biệt. Do đó, với các loại đất khác thì đất ở luôn
có giá trị cao hợp do tính chất sử dụng của nó nên trong các quan hệ thế chấp
quyền sử dụng đất thì đất ở luôn được ưu tiên và thường được sử dụng để làm
tài sản thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự.
Hình thức xác lập giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất ở
Trong giao dịch dân sự, tự do tỏa thuận là một trong những nguyên tắc
quan trọng. Các bên trong giao dịch dân sự có quyền lựa chọn hình thức kí kết
hợp đồng. Theo quy định tại Bộ luật dân sự Điều 119 về hình thức giao dịch
dân sự: “1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới
hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử
được coi là giao dịch bằng văn bản. 2. Trường hợp luật quy định giao dịch
dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký
thì phải tuân theo quy định đó”. Hình thức của một giao dịch dân sự có thể là
31
lời nói, hành vi hoặc một văn bản cụ thể. Tuy nhiên, trong một số trường hợp,
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, pháp luật đã quy định một
số loại giao dịch dân sự phải giao kết bằng hình thức nhất định.
Theo quy định tại điều 502 Bộ luật dân sự 2015: “1. Hợp đồng về
quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với
quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật
có liên quan. 2. Việc thực hiện hợp đồng về quyền sử dụng đất phải đúng
trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về đất đai và quy định khác của
pháp luật có liên quan”. Như vậy, đối với giao dịch thế chấp quyền sử dụng
đất ở thì đây là loại giao dịch mà pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện
bằng văn bản.
Việc quy định giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất ở phải được lập
thành văn bản xuất phát từ đặc trưng chung của việc thế chấp tài sản và đặc
trưng riêng của loại hình thế chấp này. Đất ở vốn dĩ là một loại tài sản có giá
trị lớn nên giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất ở được nhà nước quy định rất
chặt chẽ. Trong các loại hình thức giao dịch thì lập văn bản là hình thức rõ
ràng nhất và có ý nghĩa quan trọng trong tố tụng, bởi đó là chứng cứ xác nhận
quan hệ thế chấp. Do đó, khi thực hiện thế chấp quyền sử dụng đất pháp luật
quy định phải lập thành văn bản để đảm bảo quyền và lợi ích cho các bên
trong quan hệ thế chấp đất ở.
Cũng theo quy định tại Điều 167 Luật đất đai: “Hợp đồng chuyển
nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ
trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này”. Theo
quy định này thì các giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất ở phải được lập
thành văn bản và phải được công chứng, chứng thực. “Việc công chứng thực
hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực thực hiện tại Ủy
ban nhân dân cấp xã.”
32
Việc quy định giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất ở phải được công
chứng, chứng thực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc Nhà nước quản lý
việc giao dịch đất đai (một loại tài sản đặc biệt) mà Nhà nước là đai diện chủ
sở hữu và có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý kiểm soát việc sử dụng đất
của Nhà nước.
Nội dung trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ở.
Khi thực hiện thế chấp quyền sử dụng đất, các bên trong quan hệ thế
chấp thường sử dụng hình thức lập hợp đồng thế chấp để quy định rõ các
quyền nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thế chấp. Pháp luật hiện hành
không quy định cụ thể về nội dung của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
mà tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất. Tuy nhiên khi soạn thảo hợp đồng thế chấp, các tổ chức tín dụng
vẫn phải tuân những nguyên tắc cơ bản về hợp đồng trong bộ luật dân sự,
những quy định tại luật đất đai, luật tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật
khác. Hiện nay, các tổ chức tín dụng đều có những quy định nội bộ về mẫu
biểu hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của riêng mình. Tuy mỗi ngân
hàng có một quy định khác nhau nhưng về cơ bản nội dung của hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất sẽ bao gồm những nội dung sau: Thời gian thế chấp,
thông tin bên thế chấp và bên nhận thế chấp, tài sản thế chấp, giá trị tài sản
thế chấp, nghĩa vụ được bảo đảm, quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp và bên
nhận thế chấp, xử lý tài sản thế chấp, giải quyết khi phát sinh tranh chấp, hiệu
lực của hợp đồng thế chấp...
Trên thực tế, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất thường do các tổ
chức tín dụng đưa ra; bên bảo đảm thường có rất ít cơ hội được thảo luận về
các điều khoản trong Hợp đồng nên trong quan hệ bảo đảm tín dụng này, bên
bảo đảm thường là bên yếu thế hơn.
Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bảo đảm, nhất là
khi tài sản bảo đảm là tài sản có giá trị lớn, có ý nghĩa quan trọng với cuộc
33
sống của bên bảo đảm thì phải có các quy định chặt chẽ về nghĩa vụ của các
tổ chức tín dụng, ví dụ như phải giải thích đầy đủ hợp đồng cho bên bảo đảm
để có thể chắc chắn bên bảo đảm hiểu, chí ít là hậu quả pháp lý của việc ký
kết hợp đồng. Chỉ khi bên bảo đảm hiểu được hậu quả mà họ có thể phải chịu
khi ký kết hợp đồng (một trong số đó là sẽ phải giao tài sản bảo đảm cho ngân
hàng để xử lý) thì mới đảm bảo quyền và lợi ích cho bên bảo đảm.
Đăng ký biện pháp bảo đảm và hiệu lực của việc thế chấp quyền
sử dụng đất ở
Đối với hiệu lục của việc thế chấp quyền sử dụng đất, pháp luật quy
định như sau: tại khoản 3 điều 188 Luật đất đai 2013: “Việc chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử
dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký
đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính” và tại Nghị
định 163/2006 về Giao dịch bảo đảm: Khoản 1 điều 10: “1. Giao dịch bảo
đảm được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ các
trường hợp sau đây:
a) Các bên có thoả thuận khác;
b) Cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên
nhận cầm cố;
c) Việc thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng
sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký
thế chấp;
d) Giao dịch bảo đảm có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng hoặc chứng
thực trong trường hợp pháp luật có quy định”.
Có thể thấy do đặc thù đối tượng thế chấp quyền sử dụng đất là quyền
sử dụng đất nên hiệu lực của giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất đã có
những khác biệt so với tài sản thế chấp thông thường. Về nguyên tắc giao
dịch bảo đảm là thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở có hiệu lực
34
kể từ thời điểm đăng ký thế chấp. Việc tổ chức tín dụng cho cá nhân vay tiền
có bảo đảm bằng thế chấp quyền sử dụng đất và đã được tiến hành công
chứng, nhưng không thực hiện việc đăng ký thế chấp theo quy định, thì giao
dịch bảo đảm này chưa có hiệu lực pháp luật. Nếu đã được đăng ký thế chấp
theo Hợp đồng vay nào thì sẽ chỉ có hiệu lực theo hợp đồng vay đó. Giao dịch
thế chấp quyền sử dụng đất sẽ hết hiệu lực nếu đáp ứng một trong các điều
kiện sau: Nghĩa vụ được bảo đảm chấm dứt; giao dịch thế chấp chấm dứt khi
bị hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; quyền sử dụng đất đã
bị xử lý hoặc theo thảo thuận của các bên đồng ý chấm dứt hiệu lực của hợp
đồng.
Khi thực hiện thế chấp quyền sử dụng đất ở để bảo đảm hợp đồng tín
dụng tại ngân hàng thì bắt buộc các chủ thể tham gia trong giao dịch thế chấp
phải thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm. Đăng ký biện pháp bảo đảm là
điều kiện bắt buộc và có ý nghĩa quan trọng trong công khai thông tin giao
dịch, điều này giúp cho cơ quan nhà nước có thể kiểm soát được giao dịch và
phòng ngừa rủi ro cho các tổ chức tín dụng.
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 102/2017/NÐ-CP về đăng ký biện
pháp bảo đảm: “Đăng ký biện pháp bảo đảm là việc cơ quan đăng ký ghi vào
sổ đăng ký hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về việc bên bảo đảm dùng tài sản
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm”.
Về thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm được quy
định tại Tại điều 5 Nghị định 102/2017/NĐ-CP: “Điều 5. Thời điểm có hiệu
lực của đăng ký biện pháp bảo đảm: 1. Trường hợp đăng ký biện pháp bảo
đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển, thì
thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm là thời điểm cơ quan
đăng ký ghi nội dung đăng ký vào sổ đăng ký.”
Đăng ký biện pháp bảo đảm được xem là điều kiện để xác định thứ tự
ưu tiên thanh toán giữa những người nhận thế chấp trong trường hợp quyền
35
sử dụng đất đó được sử dụng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ tại một hay
nhiều tổ chức tín dụng khác nhau. Theo đó, nếu giao dịch thế chấp quyền sử
dụng đất được đăng ký thì việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý
quyền sử dụng đất sẽ phụ thuộc vào thứ tự đăng ký. Trường hợp một tài sản
được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán
giữa các bên cùng nhận bảo đảm nhưng có giao dịch đăng ký, có giao dịch
không đăng ký thì xác định theo quy định tại Điều 6 Nghị định 163/2006/NĐ-
CP:
Trường hợp 1: Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu
lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự
xác lập hiệu lực đối kháng. Khi xác lập giao dịch bảo đảm thì quyền và nghĩa
vụ giữa các bên trong trong giao dịch bảo đảm không chỉ phát sinh đối với
các chủ thể trực tiếp tham gia giao dịch (bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm)
mà trong những trường hợp luật định còn phát sinh hiệu lực và có giá trị pháp
lý đối với cả người thứ ba không phải là chủ thể trong giao dịch bảo đảm.
Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng
ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản
bảo đảm.
Trường hợp 2: Nếu trường hợp các giao dịch bảo đảm đã được đăng ký
thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký. Nghĩa là, giao
dịch bảo đảm nào có thời điểm đăng ký giao dịch trước thì sẽ được ưu tiên
thanh toán trước và ngược lại.
Trường hợp 3: Tiếp theo, trong số những giao dịch bảo đảm có giao
dịch bảo đảm được đăng ký và có những giao dich bảo đảm không được đăng
ký, thì ưu tiên thanh toán cho giao dịch bảo đảm được đăng ký trước và giao
dịch bảo đảm không được đăng ký sẽ thanh toán sau.
Trường hợp 4: Cuối cùng, trường hợp các giao dịch bảo đảm không có
đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập giao
36
dịch bảo đảm. Giao dịch bảo đảm có thời gian xác lập trước sẽ được thanh
toán trước.
Xử lý quyền sử dụng đất thế chấp
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì hoạt động cho vay
ngày càng xảy ra nhiều rủi ro. Do đó, thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm
cho khoản vay đã trở thành phương thức bảo đảm gần như phổ biến nhất
trong hoạt động cấp tín dụng. Trong các hoạt động sản xuất kinh doanh không
phải lúc nào bên vay hoặc bên thế chấp cũng làm ăn suôn sẻ mà sẽ luôn có
những trường hợp xấu, rủi ro, thua lỗ. Do đó, bên thế chấp sẽ không có khả
năng thanh toán các khoản nợ, dẫn đến tình trạng bên nhận thế chấp phải xử
lý tài sản thế chấp để thu hồi khoản nợ.
Xử lý quyền sử dụng đất có thể nói là phương án cuối cùng của bên thế
chấp trong hoạt động xử lý nợ. Hiện nay, vấn đề xử lý tài sản thế chấp chưa
được quy định rõ trong Bộ luật dân sự 2015 và Luật đất đai 2013. Phương
thức xử lý quyền sử dụng đất được quy định tại Nghị đinh 163/2006/NĐ-CP
về giao dịch bảo đảm và Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai như sau:
Một là về căn cứ xử lý, theo quy định tại Điều 56 Nghị định 163 như
sau:
“Điều 56. Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm
1. Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do
vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Pháp luật quy định tài sản bảo đảm phải được xử lý để bên bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ khác.
4. Các trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định.”
Hai là phương thức xử lý quyền sử dụng đất, Theo quy định tại Nghị
37
định 163 thì việc xử lý quyền sử dụng đất phải thực hiện theo thỏa thuận của
các bên. Các bên có thể thỏa thuận để việc xử lý quyền sử dụng đất trong hợp
đồng thế chấp hay trong các văn bản khác. Các bên có thể thỏa thuận xử lý tài
sản bằng một trong các phương thức sau: Bán tài sản bảo đảm; Bên nhận bảo
đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của
bên bảo đảm; Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ
người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ; Phương thức khác do
các bên thoả thuận [4].
Đối với trường hợp các bên không thỏa thuận về phương thức xử lý
hoặc không xử lý được theo các thỏa thuận thì bên nhận thế chấp có quyền
khởi kiện để yêu cầu tòa xử lý quyền sử dụng đất; yêu cầu cơ quan nhà nước
bán đấu giá hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thu hồi nợ [4].
Có thể nói, phương thức xử lý quyền sử dụng đất đã được pháp luật
quy định khá đầy đủ và rõ ràng góp phần đảm bảo nguyên tắc tự thỏa thuận
của các bên trong giao dịch thế chấp. Dựa vào đó, các bên có thể căn cứ vào
tình hình cụ thể để lựa chọn phương thức phù hợp.
Tuy nhiên, phương thức xử lý quyền sử dụng đất vẫn còn một số các
hạn chế nhất định. Phương thức bán tài sản chưa làm rõ những trường hợp
nào thì việc bán tài sản cần phải đặt dưới sự kiểm soát của tòa án. Nếu bên
nhận thế chấp có quyền bán tài sản thì phải tuân thủ những nghĩa vụ hay quy
định gì để không làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên thế chấp. Hay như
phương thức bán đấu giá tài sản thế chấp. Phương thức này có ưu điểm là
đảm bảo được tính minh bạch trong quá trình xử lý tài sản thế chấp. Tuy
nhiên, những bất cập của việc đấu giá tài sản lại bắt nguồn từ chính những
quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản. Việc bán đấu giá tài sản công
khai có thể làm ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động kinh doanh của bên thế
chấp, chi phí tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản cao, có hiện tượng ép giá,
thông đồng giữa những người đăng ký mua bán đấu giá tài sản. Hay như việc
38
bên nhận thế chấp khởi kiện ra Tòa án để thu hồi nợ cũng còn nhiều hạn chế
như các thủ tục hành chính để khởi kiện ra tòa còn phức tạp làm mất thời gian
cũng như chi phí của bên nhận thế chấp. Bên cạnh đó, công tác thi hành án
còn chậm chạp, có những bản án đã có quyết định của tòa án và đã có hiệu lực
thi hành và yêu cầu thi hành án nhưng cơ quan thi hành án vẫn chưa thi hành
án vì nhiều lý do khác nhau. Những trường hợp như vậy có thể khiến các vụ
án khởi kiện thu hồi nợ kéo dài nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm trời.
Như vậy, có thể thấy mặc dù đã được pháp luật quy định nhiều phương
thức xử lý tuy nhiên thực tế khi áp dụng pháp luật vẫn còn khá nhiều bất cập
cần phải có những quy định pháp luật mới để điều chỉnh và hạn chế những
tồn tại nói trên.
Thứ ba là thủ tục xử lý quyền sử dụng đất. Trước khi xử lý quyền sử
dụng đất, người xử lý quyền sử dụng đất phải thông báo bằng văn bản về việc
xử lý quyền sử dụng đất cho bên thế chấp và các bên cùng nhận thế chấp biết.
Nội dung văn bản phải thông báo rõ lý do xử lý quyền sử dụng đất, nghĩa vụ
bảo đảm, mô tả tài sản bảo đảm, địa điểm, phương thức, thời gian xử lý tài
sản bảo đảm... Văn bản được gửi cùng với đơn đăng ký văn bản thông báo về
việc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch
bảo đảm. Ngoài ra, đối với mỗi phương thức xử lý quyền sử dụng đất khác
nhau thì trình tự, thủ tục xử lý cũng khác nhau. Nếu xử lý quyền sử dụng đất
trong trường hợp bên thế chấp bị phá sản sẽ được thực hiện cùng lúc với quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Còn khi các bên thỏa
thuận xử lý quyền sử dụng đất bằng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
hoặc nhận chính quyền sử dụng đất đó thì trình tự và thủ tục xử lý quyền sử
dụng đất đó sẽ áp dụng theo quy định của pháp luật về chuyển nhượng quyền
sử dụng đất. Trường hợp các bên lựa chọn phương thức bán đấu giá thì trình
tự và thủ tục xử lý quyền sử dụng đất sẽ được thực hiện theo quy định của
pháp luật về bán đấu giá tài sản.
39
Thứ tư là thứ tự ưu tiên thanh toán. Thứ tự ưu tiên thanh toán khi thực
hiện xử lý quyền sử dụng đất để thu hồi nợ vay cũng được áp dụng tương tự
như thứ tự ưu tiên thanh toán đối với các loại tài sản khác. Thứ tự ưu tiên
thanh toán sẽ phụ thuộc vào việc quyền sử dụng đất thế chấp đó có đăng ký
giao dịch bảo đảm hay không. Nếu quyền sử dụng đất đó được đăng ký giao
dịch bảo đảm thì việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý quyền sử
dụng đất sẽ căn cứ theo thứ tự đăng ký. Trong trường hợp quyền sử dụng đất
được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà có giao dịch bảo
đảm có đăng ký, có giao dịch bảo đảm không đăng ký thì giao dịch bảo đảm
có đăng ký được ưu tiên thanh toán; Trong trường hợp quyền sử dụng đất
dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà các giao dịch bảo đảm
đều không có đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự
xác lập giao dịch bảo đảm [4].
Thực tế, khi xử lý quyền sử dụng đất thế chấp các ngân hàng đều gặp
khó khăn trong việc thỏa thuận với bên thế chấp về phương thức xử lý quyền
sử dụng đất. Nhiều trường hợp bên thế chấp không hợp tác nhằm kéo dài thời
gian xử lý tài sản, gây khó dễ cho phía ngân hàng. Thậm trí có nhiều trường
hợp, dù không thỏa thuận được với bên thế chấp thì phía ngân hàng vẫn
không khởi kiện ra tòa do thủ tục còn rườm ra, tốn kém chi phí, thời gian.
Một số trường hợp đã có quyết định của tòa thì việc thi hành án cũng không
hề đơn giản dẫn đến vụ án kéo dài nhiều năm mà không xử lý được.
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất
ở của cá nhân, hộ gia đình để bảo đảm hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng
Bảo Việt
2.2.1. Hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần Bảo Việt.
Được thành lập theo giấy phép hoạt động số 328/GP-NHNN ngày
11/12/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng
TMCP Bảo Việt là thành viên trẻ nhất của tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo
40
Việt cũng là một ngân hàng thương mại trẻ trong hệ thống các tổ chức tín
dụng tại Việt Nam. Ngân hàng TMCP Bảo Việt ra đời đã góp phần hình thành
thế chân kiềng vững chắc giữa ba bên Bảo hiểm - Ngân hàng - Chứng khoán,
tạo nên sức mạnh tổng hợp, hài hòa, đảm bảo cho sự phát triển bền vững và
toàn diện cho toàn hệ thống Bảo Việt.
Các cổ đông sáng lập là Tập đoàn Bảo Việt, Công ty Cổ phần sữa Việt
Nam (Vinamilk) và Công ty Cổ phần Tập đoàn Công nghệ CMC cùng với
một số cổ đông khác là các tổ chức có uy tín khác trong nước. Ngân hàng
TMCP Bảo Việt có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc phát triển quan hệ đối
tác với nhiều tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, ứng dụng các công nghệ
ngân hàng tiến tiến và hiệu quả nhất để tạo nên sức mạnh cạnh tranh cho ngân
hàng, tạo ra tiền đề để trở thành một trong những ngân hàng hàng đầu tại Việt
Nam.
Với hơn 10 năm thành lập, Ngân hàng Bảo Việt đã phát triển lên tới 22
chi nhánh trên khắp các tỉnh thành trong cả nước thì hoạt động thế chấp, tín
dụng tại ngân hàng diễn ra rất phổ biến. Với số lượng chi nhánh như vậy cũng
góp phần vào hoạt động cung ứng nguồn vốn cũng như các hoạt động nghiệp
vụ như nhận tiền gửi, cho vay, thẻ tín dụng... Trong thời gian 4 năm từ năm
2015 đến 2019 tổng các hợp đồng thế chấp liên quan đến cá nhân, hộ gia đình
để bảo đảm hợp đồng tín dụng của một chi nhánh của ngân hàng Bảo Việt tại
Hà Nội lên đến hơn 300 hồ sơ. Với số lượng hồ sơ tương đối lớn như vậy thì
việc đăng ký thế chấp và tranh chấp liên quan đến thế chấp quyền sử dụng đất
là khá lớn và tất nhiên với lượng hồ sơ đó thì sẽ phát sinh những hạn chế,
vướng mắc trong hoạt động thế chấp tại ngân hàng.
2.2.2. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về thế chấp quyền sử dụng
đất ở của cá nhân, hộ gia đình để bảo đảm hợp đông tín dụng tại Ngân
hàng Bảo Việt
Như đã trình bày ở trên, Ngân hàng TMCP Bảo Việt đã trải qua nhiều
41
năm phát triển và hoàn thiện, cùng với đó là quy định của pháp luật về thế
chấp quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam cũng đã dần dần hoàn thiện, góp phần
to lớn tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình được vay vốn sản xuất kinh
doanh, đáp ứng nhu cầu của người lao động, đồng thời tăng thêm thu nhập
cho người sử dụng đất. Quy định của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất
ở còn là cơ sở pháp lý cho ngân hàng Bảo Việt thực hiện các biện pháp để bảo
đảm trả nợ vốn vay trong hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động
thế chấp quyền sử dụng đất ở tại ngân hàng Bảo Việt vẫn còn một số bất cập
như sau:
Thứ nhất là việc nhận thế chấp quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình.
Khi ngân hàng nhận thế chấp quyền sử dụng đất của cá nhân đang có
vợ hoặc chồng. Theo quy định tại luật hôn nhân và gia đình 2014 Quyền sử
dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng,
trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Tại luật hôn nhân gia đình đã
phân tách rõ ràng tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng. Ta có thể thấy
quyền sử dụng đất nếu được hình thành trước thời kì hôn nhân hoặc trong thời
kì hôn nhân nhưng được tặng cho riêng, thừa kế riêng hoặc thông qua giao
dịch bằng tài sản riêng thì quyền sử dụng đất đó là của riêng người đó. Pháp
luật đất đai hiện hành cũng quy định về việc vợ chồng có thể thỏa thuận một
người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, thực tiễn
khi nhận thế chấp với chủ thể là cá nhân đã có vợ hoặc chồng thì không dễ để
xác định quyền sử dụng đất thuộc tài sản chung hay riêng, do tài sản được
hình thành thông qua giao dịch bằng tài sản riêng rất khó để chứng minh
trong thực tế. Pháp luật cũng chưa có định nghĩa cụ thể về giao dịch bằng tài
sản riêng nhất là khi giao dịch bằng tài sản riêng là tiền mặt lại càng khó xác
định hơn. Hay như việc khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
chủ thể chưa lập gia đình. Trong thời gian chờ cấp giấy chứng nhận quyền sử
42
dụng đất thì cá nhân lập gia đình. Vậy lúc được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thì tài sản có phải của cá nhân hay của cả vợ và chồng. Điều này
dẫn đến việc phía ngân hàng phải mất nhiều thời gian hơn để xác định tài sản
là của cá nhân hay của cả vợ chồng khách hàng. Ngoài ra, trường hợp quyền
sử dụng đất đứng tên một cá nhân, nếu cá nhân đó chưa có kết hôn thì phải
cung cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để chứng minh đang độc thân và
tài sản là của mình cá nhân đó. Tuy nhiên, thủ tục xác nhận tình trạng hôn
nhân đối với cá nhân gặp nhiều khó khăn khi cá nhân đã chuyển qua nhiều
nơi cư trú. Luật Hộ tịch 2014 đã quy định về việc xác nhận tình trạng hôn
nhân với các cá nhân đã qua nhiều nơi cư trú. Tuy nhiên, đối với trường hợp
chuyển qua nhiều nơi mà không thể xác định được tình trạng hôn nhân thì cho
cá nhân đó được tự cam kết để hoàn tất thủ tục xác nhận tình trạng hôn nhân.
Điều này dẫn đến trường hợp cá nhân đã kết hôn nhưng cố tình cam kết chưa
kết hôn sẽ dẫn đến rủi ro về mặt chủ thể khi ngân hàng nhận tài sản thế chấp
với cá nhân này. Vậy khi rủi ro xảy ra thì cơ quan quản lý hộ tịch có phải chịu
trách nhiệm về công tác xác minh thông tin này không?
Pháp luật hiện hành công nhận chủ thể quyền sử dụng đất là hộ gia
đình. Tuy nhiên, vấn đề phát sinh ở đây lại đến từ việc xác định các thành
viên trong hộ gia đình lại gặp rất nhiều khó khăn. Như đã trình bày ở trên thì
hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống,
nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống
chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất
[16]. Ngoài ra, không có một quy định nào khác về việc xác định các thành
viên trong hộ gia đình sử dụng đất. Việc xác định các thành viên trong hộ gia
đình sử dụng đất thường được căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Tuy nhiên, không phải hồ sơ nào cũng được lưu giữ đầy đủ và có
thông tin của tất cả các thành viên hộ gia đình tại thời điểm được cấp đất. Nếu
43
cơ quan nhà nước quản lý chặt chẽ các quy định về cấp đất cho hộ gia đình thì
sẽ hạn chế được rất nhiều rủi ro liên quan đến thế chấp quyền sử dụng đất ở
của hộ gia đình. Thực tế, có nhiều trường hợp có thể do quá tải hoặc sự tắc
trách của một số cán bộ quản lý đất đai đă thực hiện sai thủ tục mà pháp luật
quy định về cấp đất cho hộ gia đình.
Do đó, thực tế hiện nay, để thuận tiện cho việc kí kết hợp đồng, nhiều
nơi vẫn căn cứ vào sổ hộ khẩu của hộ gia đình để xác định các thành viên
trong hộ gia đình sử dụng đất. Tuy nhiên, nếu xác định các thành viên trong
hộ gia đình bằng hộ khẩu sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro, có thể dẫn tới xác định thiếu
thành viên hộ gia đình tại thời điểm cấp đất.
Thứ hai là về hình thức, trình tự, thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất ở.
Việc thế chấp quyền sử dụng đất sẽ có hiệu lực khi thực hiện đúng hình thức,
chủ thể tham gia kí hợp đồng, đăng kí thế chấp tại cơ quan có thẩm quyền và
được nhà nước công nhận. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp chủ thể không
thực hiện đúng quy định như việc người thế chấp không có đủ phạm vi theo
ủy quyền của người chủ sử dụng chung khác hoặc người đó không phải chủ
sử dụng đất nhưng vẫn tham gia kí kết hợp đồng. Điều này thường xảy ra khi
chủ thể tham gia thế chấp là hộ gia đình hoặc cá nhân đã kết hôn. Do đó, khi
có vi phạm hợp nghĩa vụ trả nợ thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị
xác định vô hiệu và khoản nợ sẽ trở thành không có tài sản bảo đảm. Ngoài ra
hạn chế trong quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất. Thường thì vi phạm chủ yếu do bên thế chấp không
thực hiện đúng nghĩa vụ bảo đảm đó là đất có tranh chấp, hoặc bị bán cho bên
thứ ba dù đang thế chấp tại ngân hàng. Đây là những điều mà bản thân phía
ngân hàng cũng không thể kiểm soát hết được khi bên thế chấp vi phạm quy
định hợp đồng.
Thứ ba là vấn đề về hạn chế trong giải quyết tranh chấp trong thế chấp
quyền sử dụng đất.
44
Hạn chế này phát sinh chủ yếu do hạn chế của cơ quan Tư pháp trực
tiếp giải quyết tranh chấp về việc thế chấp quyền sử dụng đất. Nhiều trường
hợp, trong quá trình xử lý tranh chấp về việc thế chấp quyền sử dụng đất, tòa
án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ không đầy đủ dẫn đến trường hợp
tòa án đã tuyên xử lý tài sản để ngân hàng thu hồi nợ, nhưng cơ quan thi hành
án khi xác minh tài sản để thi hành thì tài sản cần thi thành không phải của
người phải thi hành án, mà tài sản hiện tại đang có người khác sinh sống hoặc
có những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan lại không được triệu tập
trong quá trình tố tụng. Thêm vào đó, việc thực hiện các quy định về giải
quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất: Tranh chấp hợp đồng
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có nguyên nhân là do một bên hoặc cả
hai bên có những vi phạm hợp đồng, không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng, không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, vì thế
liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng, nhìn
chung, các bên trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đều quan tâm đến
việc giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
thúc đẩy nhanh về tiến độ, bảo đảm đúng đắn về nội dung giải quyết. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc giải quyết tranh chấp thường đạt được kết
quả thấp, phần lớn là dây dưa, kéo dài gây thiệt hại cho các bên trong quan
hệ thế chấp.
Thứ tư là trình trạng lạc hậu trong hoạt động của cơ quan nhà nước về
đất đai, hộ tịch.
Hiện nay, nước ta đã và đang ngày càng đổi mới, áp dụng khoa học
công nghệ trong việc quản lý thông tin, kết nối giữa các cơ quan nhà nước với
nhau. Hệ thống dữ liệu thông tin phải thống nhất, công khai minh bạch để
khắc phục tình trạng lừa đảo về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, về thông
tin của người sử dụng đất, tính pháp lý của quyền sử dụng đất đó... Tuy nhiên,
45
thực tiễn hiện nay việc thực hiện hiện đại hóa cơ quan quản lý đất đai còn
chậm. Hệ thống thông tin người sử dụng đất cũng chưa rõ ràng, nhiều trường
hợp không xác định được chủ thể sử dụng đất. Điều này dẫn đến khi phía
ngân hàng xác minh thông tin bên thế chấp gặp rất nhiều khó khăn, làm tốn
nhiều thời gian của ngân hàng và khách hàng, thậm trí là làm tổn thất đến
doanh thu cũng như uy tín của ngân hàng. Không ít các trường hợp khách
hàng thấy thủ tục về xác minh nhân thân tốn quá nhiều thời gian, công sức mà
từ bỏ vay vốn tại ngân hàng, hoặc chuyển sang một đơn vị khác. Điều đó, đòi
hỏi các cơ quan quản lý đất đai, hộ tịch cần đẩy nhanh công tác hiện đại hóa,
đổi với hoạt động, tổ chức thì mới đáp ứng được yêu cầu của người dân.
Thử năm là sự chưa thống nhất về các quy định của pháp luật về thế
chấp quyền sử dụng đất.
Mặc dù pháp luật hiện hành đã quy định về thế chấp tài sản tại rất nhiều
văn bản pháp luật như: Luật dân sự, Luật đất đai, luật tổ chức tín dụng và các
Nghị định, thông tư hướng dẫn khác nhau nhưng dường như để áp dụng thực
tế những quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ còn nhiều khó
khăn.
Bên thế chấp quyền sử dụng đất có nghĩa vụ phải giao giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho bên nhận thế chấp. Tuy nhiên, một tài sản có thể được
dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập
giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác [16]. Quy định
không nhất quán này gây khó khăn cho bên thế chấp và bên nhận thế chấp vì
trong trường hợp giao dịch thế chấp của một tài sản nhưng lại thế chấp ở
nhiều tổ chức tín dụng thì chỉ có một bên nhận thế chấp được giao giấy chứng
nhận, bên thế chấp không còn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bên thế
chấp tham gia các giao dịch khác và cũng không còn giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất để giao cho bên nhận thế chấp khác.
46
Một quy định khác nữa đó là: “Không được bán, thay thế, trao đổi,
tặng cho tài sản thế chấp”[24]. Nhưng nếu trường hợp bên thế chấp bán,
trao đổi hoặc tặng cho tài sản thế chấp thì vẫn chưa có chế tài cụ thể xử lý…
Bên cạnh đó, việc thế chấp quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản trên đất
trong trường hợp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất lại không cùng một
người hoặc trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa ghi nhận tài sản
trên đất mà thực tế lại có tài sản trên đất hoặc giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ghi có tài sản trên đất nhưng lại không đúng với thực trạng thực tế.
Vậy nếu bên thế chấp không có khả năng trả nợ thì sẽ phải xử lý như thế
nào? Hay như việc chủ sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không
thế chấp tài sản trên đất thì sẽ xử lý ra sao? Hiện này, pháp luật đã có quy
định về việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất như sau: quy định tại
Khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Trường hợp thế chấp quyền sử
dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất
đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao
gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”. Tại
khoản 1 Điều 326 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp chỉ thế
chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất và chủ sở
hữu tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất thì tài sản được
xử lý bao gồm cả quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”.
Đây được xem là giải pháp để tháo gỡ vướng mắc, khó khăn khi xử lý tài sản
bảo đảm trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp
tài sản gắn liền với đất và ngược lại. Thực tế không chỉ riêng tại Ngân hàng
Bảo Việt mà các ngân hàng khi thực hiện ký hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất thì phía ngân hàng sẽ luôn thêm điều khoản về tài sản gắn liền với
quyền sử dụng đất cũng thuộc tài sản thế chấp. Tuy nhiên, quy định việc xử lý
cùng lúc quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để tạo điều kiện thuận
lợi cho viêc xử lý tài sản thế chấp chứ không đồng nghĩa tài sản trên đất cũng
47
đồng thời là tài sản thế chấp.
Một điểm không thống nhất trong quy định của pháp luật đó là về hiệu
lực của việc thế chấp quyền sử dụng đất.
Tại khoản 3 Điều 188 Luật đất đai 2013: “Việc chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng
đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất
đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.” Điều này nghĩa
là tại thời điểm kí kết hợp đồng thế chấp đã được công chứng chứng thực thì
việc thế chấp vẫn chưa có hiệu lực. Như vậy, thì việc công chứng chứng thực
liệu có còn cần thiết không. Hai quy trình công chứng và đăng ký thế chấp
quyền sử dụng đất hiện nay đã làm cho hoạt động này bị chồng chéo. Khi
công chứng hợp đồng thế chấp, cơ quan công chứng đã thực hiện kiểm tra
xem xét tính hợp pháp của hợp đồng, chỉ khi hợp đồng thế chấp hoàn toàn
hợp pháp về mặt pháp lý thì công chứng viên mới thực hiện công chứng vào
hợp đồng. Tuy nhiên, khi công chứng xong, thì thủ tục này lại phải đưa cho
cơ quan đăng ký thế chấp xét lại để thực hiện đăng ký thế chấp. Điều này dẫn
đến việc một số trường hợp cơ quan đăng ký đất đai phát hiện quyền sử dụng
đất không đủ điều kiện để thế chấp nên từ chối đăng ký thế chấp quyền sử
dụng đất, vậy thì hợp đồng thế chấp đã công chứng còn có giá trị pháp lý
không? Để tránh các rủi ro không đang có, ngân hàng thường sẽ làm việc với
cơ quan đăng ký đất đai trước và cung cấp các nội dung hợp đồng thế chấp
cho cơ quan đăng ký đất đai xem trước, nếu đảm bảo tính pháp lý thì mới
thực hiện công chứng hợp đồng thế chấp. Những bất cập này là rào cản cho
các bên trong quan hệ thế chấp, mặt khác cũng gây nên khó khăn, vướng mắc
cho các cơ quan nhà nước. Thiết nghĩ cần phải có những quy định cụ thể về
vấn đề này để đảm bảo quyền lợi của các bên trong giao dịch thế chấp quyền
48
sử dụng đất.
Tiểu kết chương 2
Tại chương 2 tác giả đã tập trung phân tích những vấn đề pháp luật về
việc thế chấp quyền sử dụng đất ở qua đó chỉ ra những bất cập hạn chế tồn
đọng trong quy định về thế chấp quyền sử dụng đất ở. Cụ thể:
Về chủ thể quyền sử dụng đất là cá nhân, hộ gia đình. Những điều kiện
pháp lý để trở thành chủ thể trong thế chấp quyền sử dụng đất. Quy định về
đối tượng, hình thức, công chứng, chứng thực, hiệu lực thế chấp quyền sử
dụng đất ở. Theo đó, hình thức thế chấp quyền sử dụng đất ở phải được lập
thành văn bản có công chứng, chứng thực và đăng ký thế chấp tại cơ quan
đăng ký giao dịch bảo đảm.
Trong phần thực trạng áp dụng quy định pháp luật thế chấp quyền sử
dụng đất tại Ngân hàng Bảo Việt, tác giả đã nêu lên những khó khăn, hạn chế
còn tồn đọng trong hoạt động nhận thế chấp tài sản của ngân hàng. Sự vướng
mắc và rào cản trong quá trình thực hiện giao dịch thế chấp quyền sử dụng
đất. Cụ thể như: Quy định về việc xác định chủ thể trong quan hệ thế chấp
còn nhiều bất cập, quy định chung chung, chưa đi vào thực tế; Các cơ quan
nhà nước về quản lý đất đai, hộ tịch chưa đáp ứng được yêu cầu về hiện đại
hóa thủ tục hành chính, hệ thống quản lý thông tin người dân, chưa đáp ứng
được yêu cầu của người dân; Sự chồng chéo trong quy định của pháp luật về
thế chấp quyền sử dụng đất làm cho công tác thực thi pháp luật bị giảm hiệu
49
quả, mất nhiều thời gian.
CHƯƠNG 3
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẾ
CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở TẠI VIỆT NAM
3.1. Yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền sử
dụng đất ở
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì các quy định của pháp
luật cũng phải thay đổi để đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội. Các
quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng đã có nhiều
bước tiến quan trọng đánh dấu một bước ngoặt lớn trong hoạt động quản lý
đất đai. Đặc biệt là những quy định của pháp luật trong lĩnh vực thế chấp
quyền sử dụng đất. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho người dân được tiếp cần
nguồn vốn vay, góp phần tăng gia, sản xuất, cải thiện đời sống. Việc xây dựng
và ban hành văn bản pháp luật đất đau đã thể hiện vai trò của nhà nước trong
quản lý đất nước và xã hội có hiệu quả. Để bảo đảm hiệu quả trong công tác
quản lý nhà nước về thế chấp quyền sử dụng đất nhà nước ta đã chủ trương
quản lý đất nước bằng pháp luật. Hiện nay, trong quan hệ thế chấp quyền sử
dụng đất thì pháp lý là căn cứ để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên.
Do đó, nếu khung pháp lý chưa đảm bảo thì các bên sẽ gặp nhiều khó trong
qua trình thực thi pháp luật, đặc biệt là bên nhận thế chấp. Xuất phát từ yêu
cầu pháp lý, việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật chung và hệ thống
các quy định pháp luật riêng về thế chấp quyền sử dụng đất về cơ bản cần
hoàn thiện những điểm sau:
Thứ nhất là thực hiện đồng bộ các quy định bảo đảm thực thi pháp luật
để khắc phục những chồng chéo trong các quy định của pháp luật thế chấp
quyền sử dụng đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi pháp luật.
Để đạt được điều đó, trước tiên phải rà soát để loại bỏ các văn bản pháp luật
không còn phù hợp với thực tiễn. Bổ sung những văn bản, nội dung có ý
50
nghĩa thực tiễn để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo thuận lợi cho các
chủ thể trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật. Các văn bản hướng
dẫn thi hành luật cũng phải dựa trên quy định của Bộ luật dân sự và một số
đạo luật khác, đặc biệt các văn bản này phải bảo đảm tính thống nhất không
được chồng chéo với các quy định tại luật đất đai, luật nhà ở, luật công chứng,
chứng thực, đăng kí giao dịch bảo đảm... Xóa bỏ tình trạng pháp luật của Bộ,
Ngành ban hành mà phải có sự liên kết tham gia của nhiều Bộ, ngành khác
nhau.
Ngoài ra, việc hoàn thiện quy định pháp luật thế chấp quyền sử dụng
đất còn phải đảm bảo sự đồng bộ của việc tổ chức thực hiện pháp luật, kiện
toàn tổ chức nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước; hiện đại hóa cơ quan quản lý đất đai, hộ tịch, đi tới có một hệ thống
quản lý dân cư khoa học, chính xác và thuận tiện.
Thứ hai là việc hoàn thiện quy định pháp luật về thế chấp quyền sử
dụng đất phải tương đồng với sự phát triển của thị trường tín dụng. Hiện nay,
pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ngày càng được củng cố và hoàn thiện,
từng bước tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng nâng cao năng lực tự chủ của
mình trong các hoạt động kinh doanh. Hiện nay, pháp luật cho phép các tổ
chức tín dụng được quyền hạch toán độc lập và tự quyết định giá trị của tài
sản thế chấp, quyết định mức vốn vay, mặc dù ít nhiều vẫn phụ thuộc vào sự
điều tiết của Nhà nước. Hơn nữa, các quy định của pháp luật về thủ tục thế
chấp quyền sử dụng đất hiện nay đã được đơn giản, minh bạch, cũng như đã
đưa ra nhiều phương án xử lý quyền sử dụng đất để các bên được lựa chọn
phương án tốt nhất nhằm thu hồi vốn nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên,
cùng với những thay đổi tích cực đó thì pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
còn tồn tại một số những hạn chế. Trong đó, có thể nói đến cơ chế về xử lý
quyền sử dụng đất chưa thực sự tạo ra được sự chủ động cho phía ngân hàng.
Do đó, trong thời gian tới việc hoàn thiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng
51
đất cần dựa trên những định hướng như: Bảo đảm phát huy quyền tự do kinh
doanh, quyền tự định đoạt của các tổ chức tín dụng trong việc thực hiện giao
dịch thế chấp quyền sử dụng đất, tôn trọng tối đa quyền tự do thỏa thuận và tự
quyết định trong việc cho vay vốn đối với bên thế chấp; Cần có những quy
định phù hợp để các tổ chức tín dụng có quyền độc lập và tự chủ nhằm nâng
cao hiệu quả của việc xử lý quyền sử dụng đất thế chấp để đảm bảo thu hồi
vốn.
Thứ ba là việc áp dụng pháp luật chung và pháp luật thế chấp quyền sử
dụng đất nói riêng phải thể hiện tính quyền lực của nhà nước. Việc áp dụng
luật khi giải quyết tranh chấp thì mọi tình tiết đều phải được xem xét đánh giá
một cách toàn diện, kỹ lưỡng, dựa trên các quy định và yêu cầu cụ thể của
quy phạm pháp luật. Tính thống nhất quá trình áp dụng pháp luật được xem là
một yêu cầu cấp thiết của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta,
có những quy định thiếu đồng bộ của pháp luật cùng các yếu tố về lịch sử đã
khiến việc áp dụng luật trở nên khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp
trong việc thế chấp quyền sử dụng đất. Việc áp dụng pháp luật thế chấp quyền
sử dụng đất không những đảm bảo ổn định các giao dịch dân sự mà còn là yếu
tổ đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Cần xác lập một cơ sở khoa học trong mối
quan hệ giữa pháp luật chung và pháp luật về quyền sử dụng đất khi ban hành
các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ liên quan đến thế chấp quyền sử
dụng đất. Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật điều chỉnh các giao dịch
bảo đảm nói chung chỉ quy định những nguyên tắc chung còn các vấn đề
mang tính khác biệt thì cần phải có sự điều chỉnh hướng dẫn chi tiết trong
pháp luật riêng về thế chấp quyền sử dụng đất. Như vậy, việc áp dụng pháp
luật đòi hỏi phải có sự sáng tạo trong tư duy, sự chủ động trong nhận thức.
Chủ thể áp dụng pháp luật ngoài việc phải có trình độ chuyên môn cao còn
phải tích lũy được kiến thức tổng hợp, kinh nghiệm phong phú và có đạo đức
nghề nghiệp. Hậu quả pháp lý trong pháp luật dân sự có thể được quy định
52
trong luật hoặc nó được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các chủ thể. Khi áp
dụng pháp luật dân sự cần quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch thế
chấp quyền sử dụng đất, chế tài chỉ do các bên cam kết và thỏa thuận trong
giao dịch.
Như thế, pháp luật được hình thành do nhu cầu điều chỉnh các quan hệ
xã hội trong thế chấp quyền sử dụng đất muốn được tuân thủ nghiêm chỉnh thì
phải phù hợp với điều kiện kinh tế và xã hội. Việc áp dụng pháp quy định
pháp luật về thế chấp và xử lý quyền sử dụng đất phải đáp ứng được tiêu chí
thích ứng và phù hợp với nền kinh tế xã hội đất nước.
Thứ tư là việc hoàn thiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất còn
phải đáp ứng các yêu cầu của xu thế hội nhập. Đây là vấn đề không chỉ đặt ra
đối với việc hoàn thiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất mà còn là vấn đề
đặt ra với cả hệ thống pháp luật của nước ta. Để đảm bảo yêu cầu của xu thế
hội nhập thì pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất phải đảm bảo những yếu tố
sau: Pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất phải đảm bảo được các yêu tố cơ
bản mà bất kì pháp luật trong lĩnh vức nào khi xây dựng cũng cần phải đảm
bảo đó là tính phù hợp, thống nhất giữa pháp luật chung và pháp luật về
quyền sử dụng đất. Pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất phải tạo ra một cơ
chế thuận lợi và thông thoáng để người sử dụng đất được trao quyền năng của
mình một các thuận lợi nhất và hiệu quả nhất trong đó quyền năng cơ bản và
quan trọng nhất đó là quyền thế chấp quyền sử dụng đất. Pháp luật về quyền
sử dụng đất phải chú ý tới các mặt kinh tế, chính trị - xã hội. Đảm bảo một
cách hài hòa nhất lợi ích của Nhà nước và xã hội phải phù hợp với đường lối
phát triển của đất nước. Và cuối cùng là phải nâng cao trách nhiệm và nghĩa
vụ của mọi người dân trong xã hội đối với việc sử dụng và quản lý đất đai.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở
3.2.1. Hoàn thiện quy định về chủ thể thế chấp quyền sử dụng đất
Như đã trình bày ở trên, việc xác định chủ thể tham gia giao dịch thế
53
chấp tuy đã được quy định tại Luật dân sự, luật đất đai và các văn bản pháp
luật khác. Tuy nhiên khi áp dụng vào thực tiễn gặp vướng phải không ít khó
khăn. Nhất là đối với các trường hợp xác định thành viên hộ gia đình sử dụng
đất. Việc xác định các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất thường được
căn cứ vào sổ hộ khẩu. Điều này rất dễ khiến cho việc xác định các thành viên
trong hộ gia đình có sai sót trong nhiều trường hợp như việc có những người
có tên trong hộ khẩu nhưng không có quan hệ huyết thống với hộ gia đình...
Do đó, cần phải có quy định ghi nhân rõ các thành viên trong hộ gia đình khi
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong Thông tư 33/2017/TT-
BTNMT về hướng dẫn Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi nghị định hướng
dẫn Luật đất đai và sửa đổi thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai do Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành đã từng quy định về việc phải
ghi tên tất cả các thành viên hộ gia đình sử dụng đất như sau: ” c) Hộ gia đình
sử dụng đất thì ghi “Hộ gia đình, gồm ông” (hoặc “Hộ gia đình, gồm bà”),
sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân của chủ hộ gia đình
như quy định tại Điểm a Khoản này; địa chỉ thường trú của hộ gia đình.
Trường hợp chủ hộ gia đình không có quyền sử dụng đất chung của hộ gia
đình thì ghi người đại diện là thành viên khác của hộ gia đình có chung quyền
sử dụng đất của hộ gia đình. Dòng tiếp theo ghi “Cùng sử dụng đất, cùng sở
hữu tài sản gắn liền với đất (hoặc Cùng sử dụng đất hoặc Cùng sở hữu tài
sản) với … (ghi lần lượt họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân của
những thành viên còn lại trong hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất).” Tuy nhiên do trước đây, pháp luật về
đất đai hướng dẫn ghi đại diện của hộ gia đình sử dụng đất trên Giấy chứng
nhận. Trong quá trình thực hiện các giao dịch về quyền của người sử dụng
đất, việc ghi tên hộ gia đình trên Giấy chứng nhận như trên đã bộc lộ tồn tại,
hạn chế như: Nhà nước còn gặp khó khăn khi thực hiện bảo hộ quyền sử dụng
đất hợp pháp của các thành viên hộ gia đình sử dụng đất khi có những rủi ro
54
xảy ra trong quá trình thực hiện giao dịch dân sự do quyền sử dụng đất của
từng thành viên trong hộ gia đình không được xác lập cụ thể; phát sinh mâu
thuẫn, tranh chấp về quyền sử dụng đất của các thành viên trong hộ gia đình
sử dụng đất khi thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất, trong khi việc
giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp lại rất khó khăn do thiếu cơ sở pháp lý
và thường kéo dài. Tất cả những hệ quả trên đã khiến cho quy định này bị bãi
bỏ ngay sau khi ban hành. Như vậy, để việc ghi nhận các thành viên trong hộ
gia đình trên giấy chứng nhận đòi hỏi phải có sự đồng bộ hóa các quy định
của pháp luật về quyền sử dụng đất. Đồng thời, phải bổ sung thêm các quy
định về người đại diện hộ gia đình trong việc thế chấp quyền sử dụng đất. Bổ
sung thêm căn cứ pháp lý để xác định các thành viên trong hộ gia đình sử
dụng đất để tránh việc bỏ sót dẫn đến giao dịch đó có thể bị vô hiêu.
Đối với trường hợp chủ thể là cá nhân có vợ hoặc chồng thì cần phải
xem xét một cách cụ thể trong việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị bỏ sót
chủ sở hữu là vợ hoặc chồng. Nếu một người mang quyền sử dụng đất thế
chấp mà người kia biết nhưng vẫn im lặng thì được xem là đồng ý và giao
dịch thế chấp vẫn có hiệu lực. Những quy định như thế cần phải được cụ thể
hóa trong các văn bản pháp luật, để bảo vệ quyền lợi cho bên nhận thế chấp.
3.2.2. Hoàn thiện quy định về đối tượng thế chấp quyền sử dụng đất
Theo quy định tại luật đất đai 2013, thì một trong những điều kiện bắt
buộc khi thế chấp quyền sử dụng đất là quyền sử dụng đất đó không có tranh
chấp. Tuy nhiên, để xác định đất có tranh chấp hay không lại là một vấn đề
khó khăn, phức tạp. Ví dụ như: Những trường hợp như thế nào thì được coi là
đất có tranh chấp, liệu có bắt buộc phải có đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn
khởi kiện thì mới được coi là đất đang tranh chấp hay thẩm quyền xác nhận
đất không tranh chấp. Điều này đã làm khó cho các tổ chức tín dụng khi xác
minh tài sản thế chấp. Họ phải tự tìm cách tháo gỡ, xác định thửa đất tại chính
quyền địa phương xem có tranh chấp hay không, làm tốn kém chi phí cũng
55
như thời gian của tổ chức tín dụng. Thậm trí chỉ cần một đơn thư khiếu nại
nặc danh chưa có đủ căn cứ là có thể coi thửa đất đang có tranh chấp. Chính
những trở ngại đó đã khiến các tổ chức tín dụng không nhận thế chấp, làm
ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của người sử dụng đất, khiến họ bị tước đi
một trong những quyền cơ bản nhất của người sử dụng đất là thế chấp quyền
sử dụng đất. Do dó, pháp luật cần thiết phải có quy định và hướng dẫn một
cách cụ thể nhất về khái niệm đất không có tranh chấp, xác định thế nào là có
tranh chấp, thời điểm nào được coi là đất có tranh chấp, căn cứ chứng minh
cho việc đất có tranh chấp, cũng như thẩm quyền xác nhận đất tranh chấp để
tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong quá trình nhận thế chấp.
3.2.3. Hoàn thiện quy định về quy định về công chứng và đăng ký thế
chấp quyền sử dụng đất
Pháp luật hiện hành quy định hình thức thế chấp quyền sử dụng đất
phải được lập thành văn bản và phải được công chứng, chứng thực tại cơ quan
công chứng. Tuy nhiên vẫn thiếu sự đồng bộ trong quy định của của pháp luật
về thế chấp quyền sử dụng đất, do đó cần phải có sự thống nhất trong quy
định về hình thức của việc thế chấp quyền sử dụng đất nhất là quy định về vấn
đề công chứng các giao dịch thế chấp và việc đăng ký thế chấp. Pháp luật cần
quy định về hiệu lực của việc thế chấp quyền sử dụng đất thì có hiệu lực kể từ
thời điểm được công chứng, chứng thực. Còn việc đăng ký thế chấp quyền sử
dụng đất chỉ là một thủ tục hành chính bắt buộc để quản lý tài sản thế chấp và
là cơ sở để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán.
Ngoài ra thủ tục đăng ký thế chấp cũng cần phải nhanh chóng và đơn
giản. Pháp luật hiện tại cho phép các bên tham gia giao dịch được quyền lựa
chọn một trong ba phương thức để nộp hồ sơ đăng ký thế chấp quyền sử dụng
đất như: Nộp trực tiếp; Gửi qua đường bưu điện có bảo đảm; Gửi qua hệ
thống đăng ký trực tuyến. Tuy nhiên, quy định về việc nộp qua đường bưu
điện và trực tuyến có lẽ vẫn còn mang tính hình thức và chưa có một hướng
56
dẫn cụ thể. Do đó, các tổ chức tín dụng thường sẽ nộp trực tiếp tại cơ quan
đăng ký thế chấp dù xét về hình thức có thể cách này sẽ tốn nhiều thời gian và
công sức hơn.
Vì thế, pháp luật cũng cần có những quy định một cách chi tiết việc
nộp hồ sơ qua bưu điện và hệ thống trực tuyến. Nhà nước cần sớm nghiên cứu
và triển khai đồng bộ dịch vụ đăng ký giao dịch bảo đảm nói chung và giao
dịch thế chấp quyền sử dụng đất nói riêng qua hệ thống trực tuyến. Khi đã có
quy định cụ thể thì các bên tham gia giao dịch không phải mất thời gian, công
sức và chi phí cho việc đi lại. Không những vậy, thông qua hình thức trực
tuyến này việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất sẽ được công khai, minh
bạch đồng thời hạn chế phần nào tình trạng tiêu cực trong hoạt động đăng ký
thế chấp quyền sử dụng đất.
Cùng với việc xây dựng hệ thống trực tuyến về đăng ký thế chấp là việc
xây dựng một kênh thông tin công khai thông tin đất đai để hạn chế tối đa rủi
ro khi nhận tài sản thế chấp. Khi thực hiện giao dịch thế chấp, điều mà các tổ
chức tín dụng luôn muốn là thông tin chính xác về tình trạng thửa đất sẽ nhận
thế chấp, tuy nhiên để xác minh thông tin thửa đất lại phải mất nhiều thời gian
công sức do chưa có một hệ thống quản lý thông tin đất đai trực tuyến để có
thể tra cứu xác minh. Do vậy, pháp luật cần phải nhanh chóng hoàn thiện cơ
sở pháp lý để vận hành hệ thống tra cứu trực tuyến thông tin liên quan đến
quyền sử dụng đất để các tổ chức tín dụng có thể chủ động tìm kiếm thông tin
liên quan đến quyền sử dụng đất nhận thế chấp một cách nhanh chóng và
chính xác nhất, từ đó tránh được những rui ro cho các tổ chức tín dụng hoặc
các bên nhận thế chấp khác.
3.2.4. Hoàn thiện quy định về xử lý quyền sử dụng đất thế chấp
Thứ nhất, hiện nay, đang có xu hướng là khuyến khích các chủ thể thỏa
thuận về phương thức xử lý tài sản ngoài tòa án. Pháp luật quy định cho bên
nhận thế chấp có quyền thu giữ tài sản để xử lý khi hết thời hạn thống báo mà
57
bên giữ tài sản không chịu giao nhận tài sản. Tuy nhiên thực chấp bên nhận
thế chấp rất khó để bên nhận thế chấp có thể thu giữ tài sản nếu không có
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chính vì thế pháp luật cần
phải có quy định để tăng quyền chủ động cho bên nhận thế chấp khi phải xử
lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Cần bổ sung thêm quy định về việc thu giữ
tài sản như tăng thêm quyền lực thu giữ cưỡng chế tài sản thế chấp ngay cả
khi bên thế chấp tìm cách chống đối tại thời điểm xử lý tài sản thế chấp. Đây
có thể nói là giải pháp giúp cho bên nhận thế chấp có quyền chủ động khi
phải xử lý tài sản thế chấp, đồng thời tiết kiệm chi phí, thời gian và cũng là để
bên thế chấp có trách nhiệm trả nợ sau khi thế chấp tài sản.
Thứ hai, giao dịch thế chấp phải được thực hiện một cách nghiêm túc
do đó, pháp luật cần phải tôn trọng tuyệt đối sự thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng thế chấp về việc lựa chọn phương thức xử lý quyền sử dụng đất thế
chấp. Theo đó, bên nhận thế chấp được quyền xử lý quyền sử dụng đất theo
đúng những gì đã thỏa thuận, trừ trường hợp thỏa thuận đó bị tuyên bố là vô
hiệu thì việc xử lý tài sản thế chấp mới tuân theo quy định của pháp luật.
Thứ ba pháp luật cần có quy định hướng dẫn cụ thể về quy trình tự xử
lý quyền sử dụng đất, hướng dẫn chi tiết việc thực hiện đối với từng phương
thức xử lý quyền sử dụng đất. Cần phải quy định, trước khi xử lý quyền sử
dụng đất thế chấp, bên nhận thế chấp phải thông báo cho bên thế chấp về việc
bên có nghĩa vụ được bảo đảm đã vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm và phương
thức xử lý quyền sử dụng đất được áp dụng. Nếu như sau khi được thông báo
mà bên có nghĩa vụ vẫn không thực hiện đúng nghĩa vụ theo cam kết thì bên
nhận thế chấp có quyền xử lý quyền sử dụng đất thế chấp theo phương thức
đã thông báo mà không cần sự đồng ý của bên thế chấp. Hướng dẫn chi tiết
phương thức xử lý tự chuyển nhượng quyền sử dụng đất thế chấp mà không
cần phải thông qua bán đấu giá để giảm thiểu chi phí và thời gian. Tuy nhiên,
nếu bên nhận thế chấp hoàn toàn có thể lợi dụng phương thức này để trục lợi
58
với bên thứ ba, ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thế chấp khi chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với giá trị thấp hơn so với giá trị thực của quyền sử dụng
đất trên thị trường. Do đó, việc tự chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải
được thực hiện một cách công khai và được pháp luật quy định cụ thể. Giá
chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải đảm bảo không thấp hơn giá trị thị
trường hiện tại của quyền sử dụng đất. Riêng với trường hợp quyền sử dụng
đất được người thứ ba chào mua với mức giá cao hơn mức giá thị trường hiện
tại thì bên nhận thế chấp có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
người thứ ba này, mà không cần thiết phải thông báo công khai.
Trường hợp bên nhận thế chấp lựa chọn phương thức bán đấu giá
quyền sử dụng đất thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu
giá tài sản. Đối với phương thức xử lý nhận chính quyền sử dụng đất thế chấp
để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ thì pháp luật cần quy định về giá trị
tài sản sau khi khấu trừ sẽ do các bên thỏa thuận. Trường hợp không thỏa
thuận được thì bên nhận thế chấp được quyền yêu cầu cơ quan có chức năng
thẩm định giá độc lập xác định giá trị tài sản quyền sử dụng đất làm giá trị để
giao, nhận thay thế nghĩa vụ. Trình tự thủ tục khi bên nhận thế chấp thực hiện
việc xin cấp giấy chứng nhận đối với quyền sử dụng đất đã nhận. Cuối cùng,
bên nhận thế chấp được quyền áp dụng các phương thức xử lý quyền sử dụng
đất miễn là việc xử lý quyền sử dụng đất thu được giá trị lớn nhất. Chẳng hạn,
trường hợp bên nhận thế chấp không thể tự chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho bên thứ ba hoặc việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bên thứ ba
không mang lại kết quả như mong muốn thì bên nhận thế chấp được quyền
bán đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi nợ. Trường hợp, bán đấu giá quyền
sử dụng đất cũng không được hoặc không thu được kết quả mong muốn thì
bên nhận thế chấp được quyền nhận chính quyền sử dụng đất đó để thay thế
cho việc thực hiện nghĩa vụ.
3.3. Giải pháp thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
59
Cần tăng cường các hoạt động tư vấn và trợ giúp pháp lý trong việc
thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất. Hiện này rất nhiều vụ việc
tranh chấp về việc thế chấp quyền sử dụng đất đều có nguyên nhân là sự thiếu
hiểu biết pháp luật, ký kết hợp đồng không rõ ràng, chưa bảo đảm các điều
kiện hợp pháp về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất v.v… Do đó, cần thiết
phải tăng cường hoạt động tư vấn pháp lý, dịch vụ, giúp đỡ cho tổ chức, cơ
quan, công dân sống, làm việc theo pháp luật. Hơn nữa, một bộ phận người
dân vì khó khăn không tiếp cận được các hệ thống dịch vụ tư vấn pháp lý rất
cần hoạt động trợ giúp pháp lý của các tổ chức trợ giúp pháp lý như Hội Luật
gia Việt Nam, Đoàn Luật sư, hoặc những người có hiểu biết pháp luật trong
xã hội.
Phải kiện toàn hệ thống cơ quan đăng kí giao dịch có bảo đảm kết hợp
với hiện đại hóa hệ thống trao đổi thông tin về giao dịch có bảo đảm, đặc biệt
là các giao dịch về thế chấp quyền sử dụng đất. Việc xây dựng một hệ thống
cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm hiện đại hóa hệ thống lưu trữ, trao đổi
thông tin, kết nối, bảo đảm độ an toàn, tin cậy của các thông tin về giao dịch
bảo đảm đang là một yêu cầu hàng đầu hiện nay. Đây nguồn thông tin quan
trọng để trao đổi từ cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thông tin
từ hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất từ tổ chức tín dụng…
Cần rà soát những quy định bất hợp lý về trình tự, thủ tục thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên thế chấp quyền sử dụng đất nhằm phát hiện ra
những quy định chưa hợp lý để điều chỉnh phù hợp với thực tiễn. Qua đó, góp
phần đảm bảo quyền lợi cho các bên trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất.
Phải tăng cường cơ chế giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các
trường hợp liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đặc
biệt là cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình và cá nhân đã
lập gia đình, việc ký kết và giải quyết tranh chấp về thế chấp quyền sử dụng
60
đất để bảo đảm thực hiện đúng đắn pháp luật về quyền sử dụng đất.
Cần phải tăng cường công tác nghiên cứu các tư liệu luật học trong
nước và trên thế giới để phục vụ cho hoạt động ban hành văn bản pháp luật và
hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về thế chấp quyền sử dụng
đất. Pháp luật Việt Nam cần đẩy mạnh quốc tế hóa. Hiện nay có nhiều quan
điểm, khái niệm, nhiều quy định về biện pháp thế chấp tài sản, xử lý tài sản
thế chấp về đất đai theo pháp luật chưa tương thích với các quy định trong
Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Do đó, việc tham khảo các quy
định pháp luật của nước ngoài về thế chấp quyền sử dụng đất trên cơ sở
nghiên cứu tình hình thực tiễn tại Việt Nam là rất cần thiết. Yêu cầu này đòi
hỏi chúng ta phải có nghiên cứu một cách hệ thống kinh nghiệm lập pháp của
hệ thống pháp luật của các nước, các điều ước quốc tế để chuyển hóa và tiếp
thu, chọn lọc được các tinh hoa của nước quy định cho phù hợp với pháp luật
61
Việt Nam.
Tiểu kết chương 3
Qua chương 3 tác giả đã trình bày những phân tích những yêu cầu cũng
như các giải pháp để hoàn thiện quy định pháp luật về thế chấp quyền sử dụng
đất. Thứ nhất, việc hoàn thiện quy định pháp luật về thế chấp quyền sử dụng
đất ở cần phải đáp ứng được những yêu cầu về nhiệm vụ hoàn thiện các quy
định về thế chấp quyền sử dụng đất là một nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng
của ngành tư pháp. Việc hoàn thiện quy định của pháp luật về thế chấp quyền
sử dụng đất ở phải phù hợp với đặc thù tại Việt Nam và phải luôn đặt cùng
với quan hệ tín dụng.
Tuy pháp luật hiện hành đã điều chỉnh quan hệ thế chấp quyền sử dụng
đất với nhiều chuyển biến tích cực góp phần tạo hành lang pháp lý an toàn
cho các bên trong quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất. Nhưng trong quá trình
áp dụng pháp luật vẫn còn nhiều vướng mắc và khó khăn khiến cho quyền và
nghĩa vụ của các bên chưa được đảm bảo. Chính vì phát sinh những hạn chế
đó, tác giả đã đưa ra những giải pháp nhằm tăng cướng sự hiệu quả trong việc
thực thi pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất.
Thứ hai là tác giả đã đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện quy định
của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất. Các giải pháp hoàn thiện quy
định thế chấp quyền sử dụng đất bao gồm các giải pháp liên quan để chủ thể
thế chấp quyền sử dụng đất, đối tượng thế chấp quyền sử dụng đất, các vấn đề
về công chứng và đăng ký thế chấp, vấn đề về xử lý quyền sử dụng đất.
Thứ ba, tác giả đã đưa ra một số giải pháp thực thi pháp luật về thế
chấp quyền sử dụng đất. Theo đó các giải pháp thực thi pháp luật thế chấp
như: tăng cường các hoạt động tư vấn và trợ giúp pháp lý trong việc thực hiện
pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất; Kiện toàn hệ thống cơ quan đăng kí
giao dịch có bảo đảm; Rà soát những quy định bất hợp lý về trình tự, thủ tục
thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên thế chấp quyền sử dụng đất nhằm
62
phát hiện ra những quy định chưa hợp lý để điều chỉnh phù hợp với thực tiễn;
Phải tăng cường cơ chế giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các trường
hợp liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Tăng cường
công tác nghiên cứu các tư liệu luật học trong nước và trên thế giới. Hi vọng,
trong thời gian tới, nhà nước cần phải rà soát, bãi bỏ những quy định pháp
luật không còn phù hợp, đồng thời ban hành những quy định mới góp phần
đáp ứng được nhu cầu thực tiễn và phù hợp với sự phát triển của đất nước
63
từng giai đoạn.
KẾT LUẬN
Thế chấp quyền sử dụng đất là một trong những biện pháp bảo đảm phổ
biến nhất hiện nay. Thế chấp quyền sử dụng đất đóng vai trò nhắc nhở bên có
nghĩa vụ về việc thực hiện đầu đủ và chính xác những thỏa thuận của các bên.
Đồng thời giúp bên nhận thế chấp thu lại được một phần hoặc toàn bộ lợi ích
hợp pháp của mình trong trường hợp bên thế chấp không thực hiện được
nghĩa vụ theo đúng thỏa thuận.
Đất đai có giá trị lớn, quyền sử dụng đất là quyền tài sản gắn với lợi ích
của người sử dụng đất, quan trọng bậc nhất, quyết định sự phát triển cũng như
cuộc sống của mỗi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Vì vậy, phải xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về đất đai, về quyền sử dụng đất và nhất là thế chấp quyền sử
dụng đất. Nhờ có sự phát triển và hoàn thiện của pháp luật thế chấp quyền sử
dụng đất, quá trình thực hiện của việc sử dụng quyền sử dụng đất làm tài sản
bảo đảm trong quan hệ giao dịch dân sự, thương mại, phát triển sản xuất kinh
doanh đã thỏa mãn các nhu cầu của cuộc sống. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở cũng bộc lộ nhiều bất cập
gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong khi thực hiện thế
chấp quyền sử dụng đất, gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến
môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Trong thời gian tới, để đảm bảo thực hiện
pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất, nhà nước cần có những quy định cụ
thể về thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm quyền lợi cho các bên khi tham
gia thế chấp quyền sử dụng đất.
Như vậy, tôi đã phân tích các quy định của pháp luật về thế chấp quyền
sử dụng đất ở. Đồng thời đưa ra những định hướng cũng như giải pháp giúp
hoàn thiện quy định của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở. Với
những nghiên cứu về lý luận được nêu ở trên, tôi mong muốn rằng mình có
thể góp phần nào nghiên cứu của mình trong việc xây dựng và hoàn thiện hơn
64
các quy định về thế chấp quyền sử dụng đất ở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên Môi trường (2017) Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT về
hướng dẫn Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi nghị định hướng dẫn Luật
đất đai và sửa đổi thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai do Bộ trưởng
Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành;
2. Bộ Tư pháp - Bộ Tài nguyên Môi trường (2016), Thông tư liên tịch số
09/2016/TTLT/BTP-BTNMT hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử
dụng đất, tài sản gắn liền với đất;
3. Bộ Tư pháp - Bộ Tài nguyên Môi trường - Ngân hàng nhà nước (2014),
Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT/BTP-BTNMT-NHNN hướng dẫn một
số vấn đề xử lý tài sản bảo đảm.
4. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12 về giao dịch
bảo đảm
5. Chính phủ (2017), Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/09 về đăng ký
biện pháp bảo đảm.
6. Chính phủ (2009), Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10 về cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền trên đất.
7. Chính phủ (2010), Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7 về đăng ký
giao dịch bảo đảm.
8. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.
9. Giáo trình Luật dân sự 2015 Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp
10. Giáo trình Luật Đất đai 2016, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an
Nhân dân
11. Ngân hàng nhà nước (2017) Thông tư Số: 39/2016/TT-NHNN ngày
30/12/2016 Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng,Chi
65
nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, Hà Nội.
12. Phùng Văn Hiếu (2012) “Thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình -
Thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại Quốc tế Việt Nam - Đề xuất giải
pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật”. Luận văn thạc sỹ luật học;
13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật các Tổ
chức tín dụng 2010
14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Tố tụng dân sự 2011.
15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Ðất đai;
16. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Ðất đai;
17. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật hôn
nhân và gia đình 2014;
18. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Hiến pháp
1980,
19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
năm 2013;
20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2014), Luật Công
chứng;
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật nhà ở
năm 2014;
22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Kinh
doanh bất động sản năm 2014;
23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật Dân sự;
24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Dân sự;
25. Tiến sỹ Nguyễn Quang Hiển (2018) “Giao dịch bảo đảm bảo đảm trong
hợp đồng tín dụng” đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân,
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/giao-di%25cc%25a3ch-
ba%25cc%2589o-da%25cc%2589m-trong-ho%25cc%25a3p-dong-tin-
66
du%25cc%25a3ng-phan-2, (26/02/2018);
26. Nguyễn Văn Điền (2019) “Hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tín dụng ngân hàng”, <
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-
doi.aspx?ItemID=2500>, (18/10/2019);
27. Đoàn Thị Ngọc Hải (2019) “Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm
ở nước ta hiện nay”, < https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-
67
doi.aspx?ItemID=2513>, (14/11/2019)..