BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Vũ Thu Thảo
THẾ GIỚI CỎ CÂY
TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Vũ Thu Thảo
THẾ GIỚI CỎ CÂY
TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
Chuyên ngành
: Văn học Việt Nam
Mã ngành
: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong luận văn là trung thực, các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
TP. Tây Ninh, ngày 29 tháng 3 năm 2019
Tác giả
Vũ Thu Thảo
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến PGS.TS. Đoàn Thị Thu
Vân, người đã hết lòng giúp đỡ và tận tình hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình
hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy cho tôi trong
thời gian đào tạo vừa qua.
Tôi cũng xin cảm ơn quý thầy cô Khoa Ngữ văn, các thầy cô Phòng Sau Đại
học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm, tạo điều
kiện cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã yêu
quý, luôn ủng hộ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
TP. Tây Ninh, ngày 29 tháng 3 năm 2019
Tác giả
Vũ Thu Thảo
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................ 14
1.1. Nguyễn Trãi và thơ chữ Nôm ........................................................................ 14
1.1.1. Thời đại ................................................................................................... 14
1.1.2. Con người - cuộc đời .............................................................................. 15
1.1.3. Thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi..................................................................... 17
1.2. Tiền đề triết học về mối quan hệ thiên – nhân và hình ảnh thiên nhiên
trong thơ ca trung đại Việt Nam .................................................................... 20
1.2.1. Triết học tam giáo trong quan hệ giữa con người và tự nhiên ................ 20
1.2.2. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca trung đại Việt Nam .......................... 22
1.3. Lý luận về phê bình sinh thái trong văn học .................................................. 28
1.3.1. Khái lược lý luận phê bình sinh thái ....................................................... 29
1.3.2. Phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học và sự liên quan với
đề tài ........................................................................................................ 36
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................... 40
Chương 2. THẾ GIỚI CỎ CÂY TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA THẨM MỸ SINH THÁI .............. 42
2.1. Cỏ cây với vẻ đẹp tự nhiên, đa dạng .............................................................. 42
2.1.1. Vẻ đẹp khỏe khoắn, tràn đầy sức sống ................................................... 42
2.2.2. Vẻ đẹp giản dị, gần gũi ........................................................................... 48
2.2. Cỏ cây với vẻ đẹp tương tác, hài hòa trong một chỉnh thể thống nhất .......... 58
2.2.1. Vẻ đẹp bình đẳng, không phân biệt ........................................................ 58
2.2.2. Vẻ đẹp thân thiện, hòa hợp ..................................................................... 62
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................... 68
Chương 3. THẾ GIỚI CỎ CÂY TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
VÀ MỐI TƯƠNG GIAO VỚI CHỦ THỂ TRỮ TÌNH ................... 70
3.1. Thế giới cỏ cây trong thái độ ứng xử với tự nhiên ........................................ 70
3.1.1. Cách sống giản dị, thanh nhàn, hòa mình vào vạn vật ........................... 71
3.1.2. Tình cảm trìu mến, yêu thương, trân trọng thiên nhiên .......................... 77
3.2. Thế giới cỏ cây là “quê nhà” để trở về .......................................................... 82
3.2.1. Điểm tựa tinh thần của nhà thơ ............................................................... 83
3.2.2. Cội nguồn minh triết trong cuộc sống .................................................... 88
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................... 97
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 100
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê về tần số xuất hiện của nhóm cây cao quý ............................... 54
Bảng 2.2. Thống kê tần số xuất hiện của nhóm cây bình dị, đời thường ................. 55
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam thế kỷ XXI nở rộ với nhiều khuynh hướng văn học góp
phần làm mở rộng và đa dạng hơn nguồn đề tài cho văn học và nghiên cứu văn học
thời kì mới. Cùng với lý thuyết phê bình nữ quyền, phê bình sinh thái ở Việt Nam
dần trở thành một trào lưu phê bình năng động, tiến bộ, nhất là trong giai đoạn xã
hội hiện đại khi mà con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái – nguồn gốc
của mọi sự biến đổi khí hậu và khủng hoảng môi trường. Trước tình trạng thế giới
tự nhiên ngày một xấu đi, phê bình sinh thái đã làm đúng vai trò và nhiệm vụ của
nó, làm cho con người phải nhìn nhận lại cách sống của mình, từ đó hình thành một
lối ứng xử hài hòa, gần gũi với tự nhiên.
Thái độ sống chan hòa, trân trọng tự nhiên từ lâu đã xuất hiện trong đời sống
văn hóa của người xưa và được biểu hiện cụ thể qua các tác phẩm của họ. Trong số
các nhà thơ trung đại, Nguyễn Trãi được xem là một tác gia nổi bật hơn cả. Các tác
phẩm của ông đều có một vị trí quan trọng và giá trị to lớn trong nền văn học nước
nhà. Bên cạnh mảng thơ về lòng ưu ái, Nguyễn Trãi còn viết nhiều và viết hay về
mảng thơ thiên nhiên. Thiên nhiên hiện ra trong thơ ông ẩn chứa nét đẹp tự nhiên,
hài hòa, đầy sức sống đặc biệt là những vần thơ về các loài thảo mộc. Không phải
ngẫu nhiên mà trong thơ Nôm, ông dành ra hẳn một mục để nói về cỏ cây đồng thời
cũng cho chúng xuất hiện rải rác trong các bài thơ của những mục khác. Tình cảm
với cỏ cây đã đại diện cho tấm lòng trân quý, yêu mến thiên nhiên, tạo vật của
Nguyễn Trãi. Đó cũng chính là tinh thần mà phê bình sinh thái nỗ lực tìm kiếm và
khám phá.
Cỏ cây dù chỉ là một phần của thiên nhiên nhưng thông qua đó, người đọc
thấy được tâm hồn tinh tế và cao thượng của Ức Trai. Tuy xuất hiện khá nhiều trong
thơ Nôm nhưng hiện nay vẫn chưa có các công trình nghiên cứu riêng biệt về cỏ cây
đồng thời nhìn chúng dưới lý thuyết phê bình sinh thái. Nhận thấy giá trị và ý nghĩa
nhiều mặt của cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi dưới góc nhìn phê bình sinh thái,
chúng tôi thực hiện đề tài này hy vọng góp thêm một cái nhìn mới về thế giới tự
nhiên trong thơ Nguyễn Trãi. Sau nữa, với đề tài này, chúng tôi cũng muốn đề xuất
2
một “cảm quan nhìn lại” về thế giới tự nhiên trong văn chương trung đại để thấy
được giá trị nhân văn cao đẹp trong văn hóa ứng xử với tự nhiên của người xưa. Dù
chưa nhận thức được sự quan trọng của tự nhiên, nhưng lối sống yêu thương, hòa
mình vào vạn vật của tác giả dường như đã trở thành một trong những phương
hướng giúp con người ngày nay bồi dưỡng thêm tình thương đối với thế giới tự
nhiên.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi dưới góc nhìn phê bình
sinh thái cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu hoặc bài viết nào
chuyên biệt. Tuy nhiên, các vấn đề nghiên cứu về lý thuyết phê bình sinh thái và
hình ảnh cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi lại được nghiên cứu khá nhiều. Về lý
thuyết phê bình sinh thái, hiện nay có nhiều công trình dịch thuật và nghiên cứu lý
luận được đăng trên các tạp chí khoa học, trong đó có ba công trình nghiên cứu nổi
bật được in thành sách và xuất bản tại Việt Nam. Về hình ảnh cỏ cây trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi lại được nhắc đến nhiều qua các đề tài viết về thiên nhiên trong thơ
Nguyễn Trãi, về Quốc âm thi tập, về con người Nguyễn Trãi trong thơ Nôm, bên
cạnh đó hình ảnh cỏ cây còn xuất hiện trong những bài cảm nhận riêng biệt của các
nhà nghiên cứu nhằm mục đích phục vụ cho công việc giảng dạy và cảm thụ tác
phẩm.
2.1. Lịch sử nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam
Phê bình sinh thái mang đến luồng gió mới trong văn học nước nhà. Từ sau
bài phát biểu của Karen Thronber tại Hội thảo quốc tế 2011 Tiếp cận văn học châu
Á từ lý thuyết phương Tây hiện đại: vận dụng, tương thích, thách thức và cơ hội,
phê bình sinh thái bắt đầu được giới nghiên cứu Việt Nam chú ý, tiếp cận qua các
công trình dịch thuật và nghiên cứu lý luận. Tuy nhiên các bài viết này vẫn còn khá
khiêm tốn, lẻ tẻ.
Các công trình dịch thuật về phê bình sinh thái bước đầu đã định hình được
khuynh hướng này. Bản dịch Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển của Đỗ
Văn Hiểu cho rằng nguồn gốc của phê bình sinh thái bắt đầu từ tiền đề của tư tưởng
triết học sinh thái và nói đến nhiệm vụ của nó là “thông qua văn học để thẩm định
3
lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán – nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, mô hình
phát triển xã hội của loài người” (Đỗ Văn Hiểu, 2012). Bên cạnh đó, bản dịch còn
giới thiệu quá trình phát triển của phê bình sinh thái qua việc liệt kê các phong trào
phê bình sinh thái trên thế giới đến khi thống nhất thành khuynh hướng phê bình
sinh thái chung.
Bài Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học của Karen Thornber
do tác giả Hải Ngọc dịch đã đem đến một cách nhìn mới cho phong trào này. Karen
Thornber trong công trình nghiên cứu của mình đã sáng tạo ra khái niệm
ecoambiguity (sự mơ hồ sinh thái) và xem nó như khái niệm phản ánh đặc trưng cho
các diễn ngôn về môi trường, tự nhiên trong văn hóa Đông Á. Theo bà, văn hóa
Đông Á vốn có tư tưởng gắn bó với tự nhiên, nhưng chính tư tưởng này một phần
nào đó đã mang đến sự ngộ nhận trong ý thức và cách ứng xử đối với môi trường tự
nhiên dẫn tới sự bất công môi trường. Qua đó, nhân loại cần phải nhận thức rõ hơn
về sự phức tạp trong mối quan hệ giữa con người và môi trường ở các nền văn hóa.
Bà cũng đề nghị khi tìm hiểu phê bình sinh thái, người nghiên cứu cần phải nắm rõ
ý thức hành tinh (planet consciousness) – là một ý niệm chỉ không gian rộng nhất,
ko bị chia cắt, chiếm dụng “bao trùm cả sự sống con người và cả sự sống của các
thành tố vô nhân (nonhuman)” (Hải Ngọc, 2013) – để có thể hiểu hơn về tinh thần
sinh thái.
Bản dịch Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường của
Cheryll Glotfelty do Trần Thị Ánh Nguyệt dịch đã đề cập đến tầm quan trọng của
phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học. Cuối thế kỷ XX, khi sự sống Trái đất
đang bị đe dọa thì sự ra đời của ngành nghiên cứu văn học sinh thái đã trở thành vấn
đề cấp thiết. Trong gợi dẫn, Cheryll Glofelty đã diễn giải định nghĩa phê bình sinh
thái và quá trình hình thành phê bình sinh thái ở Mĩ. Ngoài ra, bà còn cho rằng phê
bình đang trở thành một khuynh hướng nghiên cứu“liên ngành, đa văn hóa và
mang tính quốc tế” (Trần Thị Ánh Nguyệt, 2014), góp phần tạo nên sự kết nối
mạnh mẽ giữa môi trường và sự công bằng xã hội.
Chuyên luận Phê bình sinh thái là gì? do Hoàng Tố Mai chủ biên (2017) là
một công trình dịch thuật lớn, tổng thuật các bài viết của các nhà phê bình sinh thái
4
nổi tiếng trên thế giới như Karen Thornber, Kate Rigby, Peter Barry....Các bài dịch
đều đề cập đến những vấn đề quan trọng của phê bình sinh thái, chủ yếu tập trung
đến các khía cạnh: khái niệm phê bình sinh thái, sự hình thành và phát triển của phê
bình sinh thái, những biểu hiện sinh thái trong tác phẩm của các nền văn hóa. Công
trình trên đã góp phần làm cho khuynh hướng phê bình sinh thái Việt Nam đến gần
hơn với phê bình sinh thái trên thế giới và khơi gợi sự hứng thú cho giới nghiên cứu
văn học nước nhà.
Bên cạnh các công trình dịch thuật, phê bình sinh thái cũng được các học giả
đi vào nghiên cứu chuyên sâu và tìm hiểu rất nhiều. Bài viết Phê bình sinh thái –
Khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân của Đỗ Văn Hiểu đã làm
sáng tỏ một số cách tân về bản chất của phê bình sinh thái so với các khuynh hướng
văn học khác. Phê bình sinh thái với sứ mệnh chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng
dẫn đến nguy cơ sinh thái đã lấy tư tưởng sinh thái làm trung tâm; xem sự hài hòa,
thống nhất giữa con người và tự nhiên làm nguyên tắc mỹ học; xác lập đối tượng và
phạm vi nghiên cứu là văn học sinh thái hay mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong văn học “đông tây kim cổ”. Theo tác giả, phê bình sinh thái đem đến sự
mới mẻ cho văn học vì nó “góp phần bổ sung cho những khuyết thiếu trong lịch sử
nghiên cứu văn học nhân loại.” (Đỗ Văn Hiểu, 2014) nhưng cũng mang đến nhiều
khó khăn cho giới nghiên cứu văn học khi muốn áp dụng khuynh hướng này.
Bài viết Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay của
Trần Đình Sử lại chú trọng đến khía cạnh sinh thái học tinh thần. Theo ông, sinh
thái học tinh thần không xét đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mà “tập
trung vào mối quan hệ giữa văn học và môi trường sinh thái tinh thần. Nó tồn tại
bên cạnh sinh thái học tự nhiên và sinh thái học xã hội. Lý giải ra, phê bình sinh
thái tinh thần là kiểu phê bình văn học lấy tư tưởng sinh thái làm trung tâm, xem
đời sống tinh thần xã hội là bối cảnh của sáng tạo văn học.” (Trần Đình Sử, 2015).
Phê bình sinh thái tinh thần liên quan đến các phạm trù tinh thần, môi trường sinh
thái tinh thần, sự sáng tạo của con người. Cả ba phạm trù này đều có quan hệ mật
thiết tạo nên sinh thái tinh thần cho sáng tác văn nghệ vì văn học bao giờ cũng là
5
sản phẩm của môi trường sinh thái tinh thần nên văn học nhất thiết cần phải quan
tâm đến vấn đề văn hóa xã hội, đặc biệt là vấn đề sinh thái tinh thần của con người.
Tác giả Đỗ Văn Hiểu trong một bài viết khác là Tính “khả dụng” của phê
bình sinh thái một lần nữa lại nhấn mạnh sự hài hòa giữa con người và tự nhiên,
xem đó là cơ sở lý luận của phê bình sinh thái, tuy nhiên “không nên cực đoan đề
cao lợi ích sinh thái cũng như không nên cực đoan đề cao lợi ích của con người bất
chấp nguy cơ sinh thái, và cần phải chú ý đến lợi ích của con người đồng thời chú ý
đến lợi ích của chỉnh thể sinh thái, tiến tới xác lập quan niệm thống nhất hữu cơ
giữa lợi ích của nhân loại và lợi ích của chỉnh thể sinh thái.” (Đỗ Văn Hiểu, 2016)
đồng thời ông cũng cho rằng cần phải kết hợp phương pháp nghiên cứu văn hóa và
nghiên cứu nội tại khi khảo sát văn bản văn học để đảm bảo tính thực tiễn và tính
thẩm mĩ.
Công trình nghiên cứu Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau
năm 1975 dưới góc nhìn phê bình sinh thái của Trần Thị Ánh Nguyệt và Lê Lưu
Oanh được xem là chuyên luận phê bình sinh thái đầu tiên được xác nhận một cách
thuyết phục. Trong công trình, các tác giả đã giới thiệu rất cụ thể về lý thuyết phê
bình sinh thái trên thế giới và Việt Nam từ khái niệm đến các tiêu chí của phê bình
văn học sinh thái, diễn giải cụ thể mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong văn
học từ xưa tới nay làm tiền đề cho sự phát triển của nghiên cứu phê bình sinh thái ở
Việt Nam. Ngoài ra, khi đi sâu vào phân tích nhiều tác phẩm cụ thể, cả hai tác giả
đều thấy được một cảm hứng phê phán từ điểm nhìn sinh thái qua các khía cạnh ý
thức về con người tội đồ, con người nạn nhân, con người tha hóa và nỗi bất an sinh
thái. Thông qua cảm hứng phê phán, các tác giả đã nêu ra vấn đề xây dựng lại cảm
quan đạo đức sinh thái cho con người hiện đại từ việc kế thừa các diễn ngôn lãng
mạn về tự nhiên và nhận diện mẫu hình nhân cách mới cho chủ nghĩa nhân văn sinh
thái. Con người phải “biết thương yêu loài vật để gìn giữ nhân tính, biết lắng nghe
tiếng muôn vật để đối thoại với nó… từ đó tạo ra một môi trường sinh thái nhân văn
làm nền tảng cho sự sống nhân loại. Tôn trọng quy luật tự nhiên, đó là một vấn đề
trang nghiêm vĩnh cửu mà con người không được lãng quên.” (Trần Thị Ánh
Nguyệt, Lê Lưu Oanh, 2016).
6
Nguyễn Thị Tịnh Thy trong chuyên luận Rừng khô, suối cạn, biển độc và
văn chương đã tập trung giới thiệu các khái niệm tiền đề như Sinh thái học, Luân lý
học tôn trọng sinh mệnh, Mỹ học sinh thái...; lý thuyết và thành tựu của Văn học
sinh thái và Phê bình sinh thái đồng thời đưa ra những bài thực hành nghiên cứu mà
tác giả đã khảo sát qua một số tác phẩm văn học sinh thái nổi bật của Việt Nam,
Nhật Bản và Trung Quốc. Từ việc dẫn ra những định nghĩa phê bình sinh thái của
các học giả Âu – Mĩ – Á, tác giả qua việc liệt kê những ưu và nhược điểm của các
định nghĩa trên, đã đề xuất định nghĩa phê bình thái: “Phê bình sinh thái là phê bình
văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định hướng tư tưởng
của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái qua việc khám phá
thẩm mỹ sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm.” (Nguyễn Thị
Tịnh Thy, 2017). Chuyên luận của tác giả không chỉ mang đến tính chân thực cho lý
thuyết phê bình sinh thái, mà còn mang đến sức hấp dẫn cho giới nghiên cứu văn
học nước nhà.
Ứng dụng phê bình sinh thái vào nghiên cứu văn học cho đến nay phần lớn
thường thấy được khảo sát qua tác phẩm hiện đại, rất ít những công trình nghiên
cứu phê bình sinh thái về các tác phẩm trung đại, nhất là trong thơ Nguyễn Trãi lại
càng hiếm hoi hơn nữa. Có hai công trình đã vận dụng phê bình sinh thái nghiên
cứu thơ Nguyễn Trãi mà chúng tôi tìm được, đó là:
Luận văn Thạc sĩ Tìm hiểu thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Ức Trai thi
tập của Nguyễn Trãi từ góc nhìn sinh thái của Lê Thị Thảo (2015) đã xem thiên
nhiên trong thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi như một môi trường sống lý
tưởng của tác giả. Cái môi trường ấy không chỉ chứa đựng một hệ sinh vật phong
phú, một sự chuyển vận của thế giới tự nhiên mà còn là nơi chốn tìm về của tác giả
trong những lúc bĩ cực. Ngoài ra, tác giả còn thấy rằng, thiên nhiên trong thơ
Nguyễn Trãi cũng mang đậm tính triết lý qua các khía cạnh như: một môi sinh
thuần khiết, lý tưởng; chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ; đối tượng tụng ca, thưởng
ngoạn. Tuy nhiên trong công trình nghiên cứu này, người viết tuy vận dụng góc
nhìn sinh thái để nhìn thiên nhiên như là “môi sinh” của tác giả nhưng chưa đề cập
7
đến mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người theo như tinh thần của phê bình
sinh thái.
Tác giả Trần Thị Kim Phướng trong công trình nghiên cứu Con người và
thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới góc nhìn sinh thái đã
nhìn thấy sự phong phú, đa dạng của động, thực vật trong trang thơ chữ Hán và chữ
Nôm của hai ông. Đó là một hệ sinh thái gồm những “cây” và những “con” được
miêu tả chân thực, sinh động như chính bản tính tự nhiên của nó. Không chỉ thế,
chúng còn “xuất hiện với mật độ có khi rậm rạp, đông đúc, có khi thưa thớt, ít ỏi
giống như sự phân bố thực tại của chúng trong hệ sinh thái tự nhiên” (Trần Thị
Kim Phướng, 2017). Ngoài ra, tác giả còn nhận thấy một mối liên hệ sâu sắc giữa
con người và tự nhiên trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đối với họ,
thiên nhiên đã trở thành bạn bè, người thân, hàng xóm… cùng chung sống hòa hợp,
gắn bó với nhau. Chính trong cách ứng xử với tự nhiên, người viết không chỉ thấy
được thái độ trân trọng, trìu mến vạn vật mà còn rút ra được thông điệp về sự tôn
trọng, bình đẳng với thế giới tự nhiên của hai nhà thơ.
2.2. Cỏ cây trong các công trình nghiên cứu về thơ Nôm Nguyễn Trãi
Cỏ cây được nhắc đến rất nhiều trong các bài viết về đề tài thiên nhiên, về
Quốc âm thi tập, về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm. Những bài viết này đều
được chúng tôi tìm hiểu trong công trình nghiên cứu Nguyễn Trãi, về tác gia và tác
phẩm của tác giả Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu), tái bản lần thứ hai
năm 2001, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Nhà nghiên cứu Mai Trân trong bài viết Tình yêu thiên nhiên trong thơ
Nguyễn Trãi đã mang đến cái nhìn chung về thiên nhiên trong thơ chữ Hán và chữ
Nôm. Khi nói về thiên nhiên trong thơ Nôm, tác giả khẳng định rằng: Thiên nhiên
với nhà thơ đã trở thành thầy trò, bạn bè, “rõ ràng trúc, mai, mây, gió, chim, bướm,
suối, thông, hoa, trăng, hồ, đá, là những người bạn nhỏ của nhà thơ, chúng bao
vây, chúng xoắn vó, chúng quấn quýt lấy nhà thơ” (Mai Trân, 1962). Như vậy,
trong cái nhìn về thiên nhiên, tác giả đã đưa ra được cách cảm nhận về thiên nhiên
của Nguyễn Trãi. Đó là một thiên nhiên nồng hậu, đầy sức sức sống, phong tình dí
dỏm, qua đó cũng thể hiện tình cảm trân trọng, trìu mến thiên nhiên của nhà thơ.
8
Cùng hướng về đề tài thiên nhiên, bài viết Thiên nhiên trong thơ Nguyễn
Trãi của Nguyễn Thiên Thụ, lại được nhắc đến khá nhiều về hình ảnh cỏ cây. Hòa
nhịp với cách cảm nhận về thiên nhiên, cỏ cây cũng mang biểu tượng của chân thiện
mỹ: bóng dáng người quân tử qua tùng, trúc, mai, sen; người ẩn dật qua hoa cúc; cỏ
cây còn mang bản sắc triết lý của Đạo gia qua củ hoàng tinh, cây thiên tuế, cây hòe;
của Phật giáo qua hoa bông bụt. Bên cạnh đó“cỏ cây còn có sự thay đổi theo thời
gian của từng mùa, từng tháng” (Nguyễn Thiên Thụ, 1973). Ngoài ra, tác giả còn
nói đến mối liên hệ giữa Nguyễn Trãi và tự nhiên qua việc nhận định nhà thơ hiểu
rõ quan niệm “thiên nhân tương dữ”, “vạn vật đồng nhất thể” và so sánh với con
người hiện nay không thể hiểu và yêu thiên nhiên như con người Nguyễn Trãi.
Nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê trong bài viết Nguyễn Trãi và đề tài thiên
nhiên trong dòng văn học yêu nước nhận thấy rằng: cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn
Trãi mang đậm phong vị làng quê, đó là những loại cây cỏ nhỏ bé đã được thuần
hóa để phục vụ đời sống vật chất và tinh thần con người. Và qua việc xây dựng hệ
thống hình ảnh những cây mía, cây chuối, cây đa già, cây dâm bụt... bên cạnh
những tùng, cúc, trúc, mai..., tác giả cho thấy “mối quan hệ giàu giá trị nhân văn
chủ nghĩa giữa thiên nhiên và lao động sản xuất của con người.” (Đặng Thanh Lê,
1980). Nhà nghiên cứu còn phát hiện rằng những bài thơ nói về cây cỏ còn mang ý
nghĩa ẩn dụ cho tuổi xanh, tình yêu, tài năng, khí tiết con người, hoặc triết lý Nho,
Phật.
Với bài viết Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ quốc ngữ Việt Nam,
tác giả Xuân Diệu đã phát hiện rằng Nguyễn Trãi khác hẳn với các nhà Nho xưa
“khi miêu tả sinh động và thắm thiết những loại rau cỏ sản vật của quê hương
mình.” (Xuân Diệu, 1980). Trong khi đó, nhà phê bình Hoài Thanh trong bài viết
Một vài nét về con người Nguyễn Trãi lại nhận định rằng: “Nguyễn Trãi không phải
vì chán đời mới quay ra yêu cỏ cây, sông núi mà ở ông, tình cảm trìu mến, yêu cỏ
cây sông núi cùng với yêu đời xét cho cùng vẫn là một.” (Hoài Thanh, 1980).
Bài viết Địa vị của Nguyễn Trãi trong quá trình phát triển của lịch sử văn
học Việt Nam của Nguyễn Văn Hoàn đã nhận thấy: Nguyễn Trãi đã đưa những từ
ngữ “tầm thường” – tên của các loại cỏ cây như xoan, chuối, muống, mùng, mía, đa,
9
niềng niễng… đã chịu vắng bóng khá lâu trong văn học, khoảng bốn trăm năm sau
khi ông mất thì những hình ảnh này mới xuất hiện trong thơ của Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, Tú Xương và tiêu biểu nhất là trong thơ ca nói về đời sống thực.
Điều này cho thấy Nguyễn Trãi đã “thoát khỏi những thi liệu cao quý trong văn học
cổ để rồi đưa những cây cỏ - những sản vật quê hương bình thường của cuộc sống
vào trong thơ một cách hiền hòa nhưng vẫn phảng phất thi vị” (Nguyễn Văn Hoàn,
1980).
Với bài viết Về con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi, tác giả Nguyễn
Hữu Sơn nhận thấy các bài thơ vịnh cảnh, vịnh vật trong thơ Nôm là sự chiếu ứng
với khí tiết của người quân tử. Và trong những bài thơ này “hình bóng tác giả chỉ
được cảm nhận trong tương quan với đối tượng diễn tả” (Nguyễn Hữu Sơn, 1995).
Cùng nói về con người cá nhân nhưng nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài viết
Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi đã đưa ra sự mâu thuẫn giữa tinh
thần “đại dụng” và thế “vô dụng” trong những vần thơ về cỏ cây. Ông nói rằng:
“Chữ nhàn có thể làm cho ông hòa đồng với cây cỏ, vô danh, vô kỷ, vô ngã, êm đềm
nhưng lại đặt ông vào thế vô dụng! Mong được đại dụng mới là lý tưởng lớn của cá
nhân ông.” (Trần Đình Sử, 1997). Như vậy, theo tác giả, những bài thơ viết về cỏ
cây không chỉ thể hiện cách thức sống nhàn của Nguyễn Trãi mà còn thấy được tấm
lòng muốn cống hiến sức lực cho dân cho nước của nhà thơ. Đồng quan điểm với
hai tác giả trên, học giả Trần Ngọc Vương trong bài viết Nhà tư tưởng và nhà nghệ
sĩ trong Quốc âm thi tập cũng cho rằng: “Phẩm chất của những loại thảo mộc như
mai, tùng, cúc, trúc, thông, sen, lan, quỳ, lựu, chè tương xứng với phẩm chất nào đó
mà người quân tử muốn đạt tới hay là những người nô bộc, tôi tớ chân thành, tâm
phúc. Đó là xu hướng cảm quan hóa tự nhiên mà tác giả phát hiện trong các bài thơ
về cỏ cây.” (Trần Ngọc Vương, 1997).
Bài viết Quốc âm thi tập của Phạm Thế Ngũ nói nhiều đến “tâm sự u hoài
của Nguyễn Trãi và cỏ cây cũng chính là đối tượng thể hiện nhân cách thanh cao,
tấm lòng vì dân vì nước” (Phạm Thế Ngũ, 1997) của nhà thơ: cái kiêu hãnh của hoa
sen ở chỗ bụi lầm mà vẫn vươn lên tỏa hương thơm thanh cao của người quân tử, và
không bị vướng mắc vào thế sự buộc bện, đầy oán hận; cái chí khí điềm tĩnh, gắng
10
gỏi của trúc cũng là một biểu tượng để suy tư. Bài viết này dù chỉ điểm qua về cỏ
cây nhưng đã cho người đọc thấy được tấm lòng và tâm sự u hoài của Nguyễn Trãi
được biểu lộ qua cỏ cây.
Trong Luận văn Tiến sĩ Thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi – Quan
niệm thẩm mỹ và phương thức nghệ thuật của Phạm Thị Ngọc Hoa, tác giả đã đưa
ra một cái nhìn sâu sắc về phương diện cái đẹp trong thơ Nguyễn Trãi và xem đó là
thẩm mỹ quan của Nguyễn Trãi khi nhà thơ nhìn về thiên nhiên. Trong cảm quan
chung với thiên nhiên, cỏ cây được tác giả nhắc đến khá nhiều bởi chúng không chỉ
có vẻ đẹp khác nhau mà còn có “mối quan hệ thân thiết và cảm động” (Phạm Thị
Ngọc Hoa, 2012) với nhà thơ. Dù cuộc đời của Nguyễn Trãi gặp nhiều điều bất như
ý nhưng tuyệt nhiên trong thơ ông không có cảnh buồn tê tái. Qua công trình, tác
giả đã lí giải sâu sắc về quan niệm thẩm mỹ và phương thức nghệ thuật để từ đó có
được cái nhìn tổng quan hơn về cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, cỏ cây còn xuất hiện trong các bài cảm
nhận riêng biệt nhằm phục vụ cho công việc giảng dạy trong nhà trường hoặc bổ trợ
cách cảm thụ thơ Nguyễn Trãi cho người đọc. Chúng tôi khảo sát và tìm hiểu những
bài viết này qua hai tập sách là: Nguyễn Trãi, nhà văn và tác phẩm trong trường
phổ thông của tác giả Lê Bảo, xuất bản năm 1998, Nhà xuất bản Giáo dục và Tiếp
cận thơ văn Nguyễn Trãi của tác giả Đoàn Thị Thu Vân, xuất bản năm 2001, Nhà
xuất bản trẻ, Hội nghiên cứu và giảng day văn học TP. HCM.
Các bài viết trong hai cuốn sách trên thường nói về một loại cây trong số các
loại cỏ cây hoặc đặt cỏ cây ấy trong cái nhìn với mùa xuân, với tình yêu hoặc trong
ý vị thiền. Có các bài như: Một bài thơ của Nguyễn Trãi: Ba tiêu của Xuân Diệu
(1980), Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi của Nguyễn Hữu Sơn
(1985), Một bài thơ tình của Nguyễn Trãi của Cao Hữu Lạng (1985), Cây chuối của
Nguyễn Đình Chú (1991), Thơ Nguyễn Trãi – mùa xuân và hoa của Cao Hữu Lạng
(1994), Trúc của Bùi Văn Nguyên (1994), Tùng của Lê Trí Viễn và Đoàn Thu Vân
(1994), Tùng – Một bài thơ tâm huyết của Nguyễn Trãi của Trần Đình Sử (1995),
Tìm hiểu ý vị thiền trong bài thơ cây chuối của Nguyễn Trãi của Phạm Tú Châu
(1998). Những bài viết trên của các tác giả đã đi sâu vào việc phân tích ý nghĩa cỏ
11
cây và có sự gặp gỡ nhau trong việc nhận thấy cỏ cây không chỉ mang nét đẹp tự
nhiên mà còn mang nét đẹp kín đáo ở phẩm chất và khí tiết hữu dụng vì nước, vì
dân, qua đó có thể thấy được cái đẹp tâm hồn nhà thơ. Bên cạnh đó, trong cách nhìn
về thiên thiên, các tác giả còn nhận thấy thơ viết về các loại thảo mộc trong mùa
xuân khá nhiều, trong số đó, có thể nói độc đáo và cũng là riêng biệt nhất chính là
cây chuối. Nó không chỉ thể hiện ý vị tình yêu nồng hậu mà còn chứa đựng hơi
hướng Thiền tông nhẹ nhàng.
Như vậy, các công trình và bài viết về hình ảnh cỏ cây vừa khảo sát ở trên,
có điểm giống nhau trong việc nhận định cỏ cây không chỉ thể hiện cho vẻ đẹp của
thiên nhiên, tạo hóa mà còn có mối giao hòa sâu sắc với nhà thơ. Các công trình
nghiên cứu trên tuy có điểm qua một vài nét về cỏ cây nhưng do ý định, mục đích
nghiên cứu đề ra nên cỏ cây chưa được tiếp cận với tư cách là một đối tượng nghiên
cứu riêng biệt và chưa được soi chiếu dưới góc nhìn phê bình sinh thái. Tuy nhiên,
các bài viết và chuyên luận trên đã cho chúng tôi một cái nhìn tổng quan về lý
thuyết phê bình sinh thái đồng thời ứng dụng lý thuyết này để phân tích các tác
phẩm thơ viết về cỏ cây, từ đó đi đến việc xác lập ý nghĩa cỏ cây và kiến giải sự
tương giao của chúng với con người nhà thơ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là thế giới cỏ cây trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi được nhà thơ đề cập rải rác trong các bài thơ khác nhau hoặc xuất hiện
một cách riêng biệt. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ tiến hành tổng hợp, phân tích
thế giới cỏ cây dưới góc nhìn phê bình sinh thái.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi, gồm 254 bài thơ viết bằng chữ Nôm. Với tập thơ Nôm này, chúng tôi xin lấy
bản dịch do Nguyễn Thạch Giang phiên khảo và chú giải, được Nhà xuất bản Thuận
Hóa Huế in năm 2000 để làm tư liệu khảo sát và trích dẫn.
12
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các
phương pháp sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: với phương pháp này chúng tôi sẽ tiến
hành phân tích những đặc điểm của cỏ cây với tư cách là một biểu hiện thẩm mỹ
quan của Nguyễn Trãi, từ đó tổng hợp lại để thấy được ý thức sinh thái và giá trị
nhân văn cao đẹp trong tư tưởng, quan niệm sống cũng như nhân cách con người
nhà thơ.
Phương pháp lịch sử - xã hội: nói đến thơ, nhất là thơ xưa, bao giờ cũng hàm
chứa bối cảnh thời đại xã hội mà nhà văn, nhà thơ sinh sống. Vì thế, khi nhắc đến
mối tương giao giữa cỏ cây với nhà thơ cần phải sử dụng phương pháp này để thấy
được lý do vì sao tác giả lại gắn bó với thế giới giới tự nhiên như vậy.
Phương pháp tiểu sử - thực chứng: phương pháp này giúp chúng tôi dùng
những yếu tố về cuộc đời con người của Nguyễn Trãi để giải thích những ảnh
hưởng của chúng đến thơ của Nguyễn Trãi.
Phương pháp phê bình sinh thái: đây là phương pháp nghiên cứu mới, chúng
tôi sẽ tham chiếu vào việc khảo sát các bài thơ xuất hiện hình ảnh cỏ cây để có được
một góc nhìn mới thế giới tự nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng các thao tác thống kê, phân loại để giúp
các ý kiến phân tích, nhận định đủ cơ sở thực tế và sức thuyết phục.
5. Đóng góp của đề tài
Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn dùng lý thuyết phê
bình sinh thái để mang đến một cái nhìn mới về thơ thiên nhiên Nguyễn Trãi, nhất
là thơ viết về cỏ cây bởi nhận thấy đối tượng này cũng chiếm giữ một vị trí quan
trọng trong các sáng tác của ông. Cỏ cây khi được nhìn qua lăng kính của phê bình
sinh thái không chỉ là biểu hiện của thẩm mỹ sinh thái mà còn là một đối tượng có
mối giao cảm sâu sắc với tác giả.
Hơn nữa, với công trình nghiên cứu này, chúng tôi cũng muốn đề xuất một
thái độ sống hòa hợp, gần gũi với tự nhiên như cách mà Nguyễn Trãi đã thể hiện
qua tác phẩm của mình. Trong xã hội hiện đại, con người ngày càng có biểu hiện xa
13
cách và tách rời với tự nhiên, ít có hoặc không có tình cảm thân thiết, hài hoà với tự
nhiên như Nguyễn Trãi và con người thời đại ông. Như vậy, thông qua cách sống
của nhà thơ, con người ngày nay cần tiếp nối truyền thống tốt đẹp ấy và bồi dưỡng
cho mình văn hóa ứng xử với tự nhiên theo một cách trân trọng và phù hợp nhất.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phần nội dung chính của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Trong chương này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu những vấn đề chung về thời
đại, cuộc đời – con người và tập thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Bên cạnh đó, chúng tôi
cũng đưa ra những nét khái quát về lý luận phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn
học và trong sự liên quan với đề tài của mình.
Chương 2. Thế giới cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và những biểu hiện
của thẩm mỹ sinh thái
Ở chương này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu vẻ đẹp cỏ cây – biểu hiện của
thẩm mỹ sinh thái qua các khía cạnh vẻ đẹp tự nhiên, đa dạng và vẻ đẹp tương tác,
hài hòa trong một chỉnh thể thống nhất.
Chương 3. Thế giới cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và mối tương giao
với chủ thể trữ tình
Với chương này, chúng tôi đi vào tìm hiểu sự tương giao giữa cỏ cây với con
người Nguyễn Trãi, để qua đó thấy cỏ cây không chỉ thể hiện thái độ sống hòa mình
với vạn vật, yêu thương và trân trọng tự nhiên của tác giả mà cỏ cây còn là “quê
nhà” để nhà thơ trở về như một điểm tựa tinh thần và cội nguồn minh triết trong
cuộc sống.
14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nguyễn Trãi và thơ chữ Nôm
1.1.1. Thời đại
Nguyễn Trãi sống trong thời đại cuối thế kỷ XIV – nửa đầu thế kỷ XV. Đây
là thời đại diễn ra sự suy thoái của hai nhà Trần, Hồ và sự phát triển đến đỉnh cao
của nhà Hậu Lê.
Cuối thế kỷ XIV, giai cấp phong kiến nhà Trần bước vào giai đoạn suy yếu.
Các vị vua cuối triều Trần từ Trần Nghệ Tông đến Trần Thiếu Đế đều là những vị
vua bạc nhược, u mê và không có tài cầm quyền. Tất cả quyền lực triều chính đều
nằm trong tay Hồ Quý Ly. Sau khi Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly đã giết vua Thuận
Tông và ép vua Trần Thiếu Đế (con vua Trần Thuận Tông, cháu nội vua Trần Nghệ
Tông, cháu ngoại Hồ Quý Ly) nhường ngôi cho mình. Năm 1400, Hồ Quý Ly lên
ngôi, lập ra nhà Hồ, niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu, nhưng ngay
sau đó lại nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương và lên làm Thái Thượng
Hoàng.
Là vị vua đầu tiên của triều đại mới, Hồ Quý Ly đã tiến hành cải cách các
lĩnh vực hành chính, kinh tế, quân sự đồng thời dời đô từ kinh thành Thăng Long về
Thanh Hóa. Trong khoảng thời gian trị vì, ông còn đem quân đánh Chiêm Thành và
chiếm được nhiều châu huyện lúc bấy giờ. Thế nhưng, nhà Hồ chưa được thành lập
bao lâu, giặc Minh thừa dịp tình thế xã hội nước ta có nhiều xáo trộn biến đổi làm
cho lòng dân li tán, thế nước không yên đã viện cớ “phù Trần diệt Hồ” nhằm xua
quân sang xâm lược. Năm 1406, tướng Trương Phụ của nhà Minh chỉ huy mở cuộc
xâm lược vào nước ta. Quân nhà Hồ tích cực chống cự nhưng nhanh chóng gặp thất
bại. Năm 1407, cha con Hồ Quý Ly và các triều thần nhà Hồ đều bị quân Minh bắt
và đưa về Trung Quốc.
Dưới ách cai trị của nhà Minh, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đại Việt
liên tiếp nổ ra ở khắp cả nước. Tuy nhiên, những cuộc khởi nghĩa này chỉ duy trì
trong thời gian ngắn rồi lại bị quân Minh đàn áp và thất bại.
15
Năm 1416, Lê Lợi tổ chức Hội thề Lũng Nhai để tập hợp người hiền, kẻ sĩ có
tài nhằm chuẩn bị khởi nghĩa. Năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tự
xưng là Bình Định Vương. Nghĩa quân Lam Sơn thời gian đầu mới thành lập ở
vùng núi Thanh Hóa luôn gặp nhiều khó khăn và chịu nhiều tổn thất khi phải hứng
chịu những cuộc truy quét của quân Minh và quân Ai Lao. Quân Lam Sơn phải tiến
quân ra Nghệ An xây dựng căn cứ địa, sau nhiều trận đánh với quân Minh, quân
Lam Sơn đã giải phóng liên tiếp hầu hết các vùng từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa.
Sau đó, Lê Lợi tiến quân ra Bắc, bao vây quân Minh tại thành Đông Quan, Vương
Thông xin giảng hòa để ngầm sai người về nước xin viện binh. Cuối năm 1427, nhà
Minh cử Liễu Thăng, Mộc Thạnh mang mười lăm vạn quân sang viện trợ Vương
Thông nhưng mau chóng bị nghĩa quân đánh bại và tiêu diệt. Vương Thông cùng
đường phải giảng hòa và được Lê Lợi “mở đường hiếu sinh” cho phép rút quân về
nước.
Sau mười năm kháng chiến kiên trì gian khổ (từ năm 1417 đến năm 1427),
nghĩa quân Lam Sơn đã đuổi sạch giặc Minh, đưa đất nước bước vào thời kỳ hòa
bình, độc lập.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt niên hiệu Thuận Thiên, quốc hiệu Đại Việt,
thi hành nhiều chính sách mới và đạt được nhiều thành tựu. Vương triều nhà Lê
không chỉ kế thừa thành tựu của thời Lý Trần mà còn phát triển thêm hướng đi mới
phù hợp với tình hình đất nước, lựa chọn “hệ tư tưởng Nho gia kết hợp với tinh thần
tự cường dân tộc làm nền tảng để xây dựng một thể chế nhà nước phong kiến hiệu
quả nhất trong việc nội trị cũng như ngoại giao, nhằm phát huy nội lực và đưa đất
nước đi đến cường thịnh, có vị thế cao trong khu vực.” (Đoàn Thị Thu Vân chủ
biên, 2009). Có thể nói, thế kỷ XV là giai đoạn mà chế độ phong kiến Đại Việt đạt
đến sự cường thịnh, phát triển đáng tự hào của dân tộc.
1.1.2. Con người - cuộc đời
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu là Ức Trai, quê ở Hải Dương (sau dời về
Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Ứng Long, sau đổi tên là Nguyễn
Phi Khanh, làm quan dưới triều nhà Hồ. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần
Nguyên Đán – tôn thất nhà Trần. Nguyễn Trãi từ nhỏ đã được bồi dưỡng “truyền
16
thống yêu nước thương dân và tình cảm nhân hậu rộng mở” từ cha và ông ngoại. Tư
tưởng này theo suốt cuộc đời Nguyễn Trãi và được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm
của ông.
Thuở nhỏ, Nguyễn Trãi sống với mẹ và ông ngoại ở dinh quan Tư đồ, sau
dời về Côn Sơn. Khi mẹ và ông ngoại đều mất, ông về sống với cha ở Nhị Khê.
Năm 1400, ông thi đỗ Thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều Hồ, phụ
giúp Hồ Quý Ly thi hành cải cách về kinh tế, chính trị, văn hóa nhằm đưa đất nước
phát triển hơn.
Năm 1407, nhà Minh cướp nước ta, Nguyễn Phi Khanh cũng nằm trong số
quan lại bị giặc bắt mang sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi cùng em trai đi theo với ý
định sang bên kia biên giới để chăm sóc cha trong khoảng thời gian bị cầm tù. Khi
đến biên ải, nghe lời cha khuyên dạy, ông ở lại “đền nợ nước, báo thù nhà”, nhưng
lại bị giặc Minh bắt giữ và giam lỏng tại thành Đông Quan. Sau đó, ông tìm cách
thoát ra và đi nhiều nơi để tìm kiếm vị minh chủ phò tá diệt giặc. Năm 1418, Lê Lợi
khởi nghĩa tại Lam Sơn, Nguyễn Trãi tìm gặp Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách. Ông
theo Lê Lợi kháng chiến, giữ nhiều chức vụ quan trọng, được Lê Lợi tin tưởng cho
làm quân sư và thảo những thư từ, mệnh lệnh quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn.
Năm 1427, giặc Minh rút về nước. Năm 1428, nhà Lê được thành lập.
Nguyễn Trãi bắt đầu thực hiện lý tưởng xây dựng đất nước nhưng chưa được bao
lâu thì bị nghi oan và bị bắt giam, sau đó lại được thả nhưng không được tin dùng
như trước. Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, vua Lê Thái Tông lên ngôi tuổi còn non trẻ,
bọn gian thần luôn đặt điều gièm pha ông với vua. Đau buồn vì thói đời cay đắng và
cũng vì lý tưởng không thể tiếp tục được thực hiện, ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn
(năm 1437, 1438).
Nguyễn Trãi là một con người có lòng “ưu dân ái quốc” sâu đậm. Tuy về
Côn Sơn sống thanh nhàn, hướng lòng về cuộc sống chân quê, nhưng càng gần gũi
với nhân dân, ông càng thấm thía hơn ai hết cuộc sống cơ cực, vất vả của họ, đồng
thời cảm thông, gắn bó sẻ chia với những con người cơ cực ấy. Không chỉ lo dân,
ông còn hướng lòng về đất nước. Nỗi niềm canh cánh về “việc nước” luôn theo suốt
17
cuộc đời Nguyễn Trãi. Đa số các bài thơ Nôm trong thời kỳ ở ẩn của ông đều toát
lên niềm ưu hoài dân nước đến “cuồn cuộn”.
Năm 1440, Lê Thái Tông sau khi đã trừ khử những thế lực bất chính, nắm lại
quyền hành, chấn chỉnh triều đình đã mời Nguyễn Trãi trở ra làm quan, ông nghe
lệnh vua và bắt tay thực hiện hoài bão trị nước an dân. Nhưng chưa được bao lâu thì
sự biến Lệ Chi viên xảy ra, vua Lê Thái Tông mất sau khi ghé thăm ông và nghỉ
đêm tại Trại Vải trên đường về kinh. Bọn gian thần vịn vào cớ đó mà kết tội ông
mưu giết vua và tru di ba họ. Nỗi oan khiên thảm khốc ấy kéo dài mãi đến năm
1464 mới được Lê Thánh Tông xuống chiếu tẩy oan, truy phục tước phong và cho
sưu tầm thơ văn của ông.
Cuộc đời Nguyễn Trãi dù trải qua nhiều thăng trầm nhưng ở ông, nổi bật lên
trên tất cả vẫn là hình ảnh của một con người “lo đời, đau đời”, suốt đời luôn trăn
trở, lo âu cho “dân, nước”, mang trong mình chí hướng sắt son và một tâm hồn, một
nhân cách thanh cao trong sáng:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước nước triều Đông.
(Thuật hứng, bài 5)
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao tài ba
mà còn là nhà văn hóa tư tưởng lớn, một tác gia văn học lớn. Các sáng tác của ông
cho đến nay vẫn luôn chiếm một vị trí quan trọng trong nền thơ ca dân tộc. Ông để
lại một số lượng lớn các tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm có giá trị to lớn trong nền
văn học nước nhà.
1.1.3. Thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi
Trong suốt cuộc đời sáng tác, Nguyễn Trãi đã để lại một số lượng lớn các tác
phẩm chữ Hán và chữ Nôm có giá trị. Riêng bộ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
được giới nghiên cứu đánh giá là tác phẩm xưa nhất bằng tiếng Việt còn giữ được
đến ngày nay. Tập thơ là nguồn tài liệu quý báu để nghiên cứu ngôn ngữ và văn học
dân tộc.
Việc sưu tầm văn bản thơ Nôm Nguyễn Trãi cho đến nay đã dần hoàn thiện.
Từ sau vụ thảm án Lệ Chi Viên, số lượng thơ của Nguyễn Trãi bao gồm cả Quốc
18
âm thi tập cũng bị tiêu hủy và thất lạc rất nhiều. Đến năm Quang Thuận thứ tám,
vua Lê Thánh Tông sau khi giải oan và khôi phục cho ông đã hạ chỉ cho Trần Khắc
Kiệm sưu tầm lại những di cảo thơ văn của ông. Tiếp theo đến mấy trăm năm thăng
trầm của lịch sử từ nhà Lê cho đến đầu nhà Nguyễn, bản sưu tầm thơ ông của
Nguyễn Khắc Kiệm cũng bị thất lạc. Mãi đến thời vua Minh Mạng, Tự Đức, các
nhà Nho như Nguyễn Năng Tĩnh, Dương Bá Cung, Ngô Thế Vinh cùng chung sức
tìm kiếm và sưu tập, lại đem khắc ván in. Bộ sách có tên chung là Ức trai thi tập
gồm 7 quyển. Quốc âm thi tập nằm trong quyển thứ bảy.
Một điều cần lưu ý là tập thơ Quốc âm thi tập sưu tầm được không phải là
nguyên bản của Nguyễn Trãi mà là do người đời sau chép lại, theo bản cũ đã nát mà
chép hoặc do người đọc cho mà chép, cứ như thế qua nhiều thời kỳ khác nhau được
chép đi chép lại cho nên có nhiều dị bản chưa thống nhất với nhau về mặt từ ngữ.
Không chỉ thế, khi sưu tầm, khảo đính Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, các nhà
nghiên cứu còn nhận thấy có sự nhập nhằng bởi có một số bài thơ Nôm của Nguyễn
Trãi xuất hiện trong tập thơ Bạch Vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong bản
chép tay Bạch Vân thi tập gồm 100 bài thì có đến 20 bài có chép trong Quốc âm thi
tập, bản in của Nguyễn Trãi; các bài ở hai bên giống hệt nhau, có khi khác một hay
nhiều câu, có khi chỉ khác đôi chữ. Theo các học giả sưu tầm thì bản in có trước bản
chép tay nên có thể người sưu tầm thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn đưa thêm tác
phẩm của người khác vào để thêm số trang cho tập sách chứ không phải là nguyên
bản của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mất từ lâu.
Năm 1956, nhà xuất bản Văn Sử Địa đã in bản sách Quốc âm thi tập do cụ
Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm phiên âm ra quốc ngữ và chú giải. Bản sách dù
không có nguyên tác bằng chữ Nôm nhưng đã giúp những người khảo cứu rất nhiều
trong việc biên soạn lại thơ Nôm Nguyễn Trãi. Sau bản phiên âm chú giải trên, đã
có khá nhiều bản phiên âm, chú giải Quốc âm thi tập của các nhà nghiên cứu khác.
Từ các bản sưu tầm và các bản phiên âm, chú giải, có thể thấy rằng: Quốc
âm thi tập là tập thơ viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi được phát hiện trong bộ
Ức Trai di tập, quyển thứ bảy. Đa số những bài này được ông sáng tác khi đã về ở
ẩn tại Côn Sơn những năm 1437,1438.
19
Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ được chia làm 4 chủ đề, trong mỗi chủ đề
có các mục bài khác nhau.
Phần Vô đề (các đề tài về bày tỏ chí hướng, thuật lại những chuyện tản mạn,
tự răn mình, răn con cháu về các bài học đạo đức) có 192 bài thơ gồm: Thủ vĩ ngâm,
Ngôn chí (21 bài), Mạn thuật (14 bài), Trần tình (9 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự
thán (41 bài), Tự thuật (11 bài), Tức sự (4 bài), Tự giới, Bảo kính cảnh giới (61 bài),
Qui Côn Sơn trùng cửu ngẫu tác, Giới sắc, Giới nộ, Huấn nam tử.
Phần Thời lệnh môn (đề tài về thời tiết, khí hậu, cảnh sắc bốn mùa) có 21 bài
thơ gồm: Tảo xuân đắc ý, Trừ tịch, Vãn xuân, Xuân hoa tuyệt cú, Hạ cảnh tuyệt cú,
Thu nguyệt tuyệt cú, Tích cảnh (13 bài), Thủy trung nguyệt, Thủy thiên nhất sắc.
Phần Hoa mộc môn (đề tài về các loại hoa lá, cỏ cây) có 34 bài thơ gồm:
Mai, Lão mai, Cúc, Hồng cúc, Tùng (3 bài), Trúc (3 bài), Mai (3 bài), Đào hoa (6
bài), Mẫu đơn hoa, Hoàng tinh, Thiên tuế thụ, Ba tiêu, Mộc cận, Giá, Lão dung,
Cúc, Mộc hoa, Mạt lị, Liên hoa, Hòe, Cam đường, Trường yên hoa, Dương.
Phần Cầm thú môn (đề tài về các loài con vật) gồm 7 bài thơ: Lão hạc, Nhạn
trận, Điệp trận, Miêu, Trư, Thái cầu, Nghiễn trung ngưu.
Quốc âm thi tập có giá trị to lớn trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam. Về nội
dung, tập thơ thể hiện sâu sắc tâm hồn dân tộc, nếp cảm nếp nghĩ về thiên nhiên, đất
nước, con người của nhà thơ như lòng tha thiết yêu thiên nhiên, ca tụng cảnh đời
thái bình an lạc, lòng yêu chân thành đối với dân với nước, sự quan tâm đến nền đạo
đức luân lý và khai thác các giá trị của dân tộc. Về nghệ thuật, Nguyễn Trãi sử dụng
chữ Nôm và thể thơ thất ngôn xen lục ngôn phù hợp với tình điệu tâm hồn dân tộc
(hơi giống với thơ tự do), có bài thất ngôn bát cú, có bài thất ngôn tứ tuyệt; bên
cạnh đó, việc sử dụng những thi liệu dân gian cùng với từ ngữ Việt hóa, giọng điệu
hài hước, hóm hỉnh cũng đã góp phần làm cho tập thơ có sức sống lâu bền và ảnh
hưởng mạnh mẽ về sau.
Với Quốc âm thi tập, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn đã nhận định rằng
“Nguyễn Trãi được xem như nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ chữ Nôm, đồng thời cũng
là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên có số lượng nhiều nhất trong nền thơ ca cổ
điển dân tộc.” (Nguyễn Hữu Sơn, 2001).
20
1.2. Tiền đề triết học về mối quan hệ thiên – nhân và hình ảnh thiên nhiên
trong thơ ca trung đại Việt Nam
1.2.1. Triết học tam giáo trong quan hệ giữa con người và tự nhiên
Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên không phải mới xuất hiện khi phê
bình sinh thái được manh nha, mà nó đã có cách đây hàng trăm năm trong các nền
văn hóa phương Đông và phương Tây qua triết học, mĩ học và văn chương. Trong
văn hóa Đông phương, nhất là ở Việt Nam, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
được thể hiện sâu sắc và rõ rệt nhất qua ba tư tưởng triết học Nho giáo, Phật giáo và
Đạo giáo. Ba nền tư tưởng này bao hàm triết lý phong phú mang quan điểm sinh
thái đặc trưng. Dù cách thức thể hiện khác nhau nhưng tựu trung, lại có sự gặp gỡ
trong thái độ trân trọng và hài hòa với tự nhiên, mang đến giá trị, ý nghĩa to lớn
trong việc hình thành và xây dựng cơ sở lý luận cho tư tưởng sinh thái hiện đại.
Nho gia vốn là học thuyết chính trị theo quan điểm “con người là trung tâm”,
hạt nhân quan trọng của triết học Nho gia là “nhân” – “nhân giả ái nhân”. Chữ nhân
từ yêu người đến yêu vạn vật trong tự nhiên và trở thành hành vi đạo đức. Trí tuệ
sinh thái Nho học là một thứ trí tuệ nhập thế. Nó nhận thấy con người và tự nhiên
có mối tương cảm, giao hòa với nhau “thiên nhân hợp nhất” (trời và người hợp
nhất), “thiên nhân tương dữ” (trời và người liên quan mật thiết với nhau), “thiên
nhân tương cảm” (trời và người cảm ứng với nhau). Nho gia đặt con người ở địa vị
trung tâm không phải để thống trị, bóc lột tự nhiên mà là thiết lập niềm tin đối với
lương tri của con người trong việc ý thức họ là một phần của tự nhiên, thống nhất
cùng một thể. Có thể thấy Nho gia đã chú ý đến tinh thần và tình cảm nhân ái đối
với vạn vật. Đó chính là biểu hiện của sự theo đuổi đạo đức nhân ái của Nho gia.
Bên cạnh đó, tư tưởng “dưỡng tâm mạc thiện ư quả dục” (dưỡng tâm không có gì
tốt hơn là ít dục) của Nho gia đã khuyên con người nuôi dưỡng lòng thiện, từ bỏ dục
vọng hay vật chất, quyền lợi. Con người cần biết sống và nắm bắt quy luật tự nhiên
của sinh thái, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên tự nhiên, đảm bảo sự tuần hoàn của
giới tự nhiên. Khổng Tử yêu cầu không được đốn cây lớn, bắt cá phải dùng mắt lưới
to, có như vậy thì tự nhiên mới trường tồn bền vững theo quy luật. Như vậy, trí tuệ
sinh thái Nho gia thích hợp với yêu cầu thực tế, giúp nhân loại phát triển bền vững.
21
Triết học Đạo gia được đánh giá là học thuyết có trí tuệ sinh thái sâu sắc và
hoàn thiện nhất. Đạo gia rất chú trọng đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Đó là thứ “trí tuệ sinh thái xuất thế” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017). Nó tìm hiểu các
mối quan hệ con người – xã hội – tự nhiên. Các quan niệm, triết lý của Đạo gia đều
có ý nghĩa trong việc xây dựng tư tưởng sinh thái hiện đại, giải quyết nguy cơ sinh
thái mà con người phải đối mặt. Lão Tử quan niệm “nhân pháp địa, địa pháp thiên,
thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” (người theo lẽ đất, đất theo lẽ trời, trời theo lẽ
đạo, đạo theo lẽ tự nhiên) và “vô vi nhi vô bất vi” (không làm nhưng không gì là
không làm). Triết lý “vô vi” của Lão Tử không phải là không làm gì mà là không
làm gì trái với tự nhiên, khuyên con người sống thuận theo tự nhiên, đi theo quy
luật mà nó vốn có, để sự vật phát sinh theo sự hòa hợp với Đạo. “Vô vi” là thuận
theo tự nhiên, lấy “vô vi” để thay cho cái “hữu vi”, ngăn chặn những sự tiến hành
trái quy luật tự nhiên vì mục đích cá nhân của “nhân vi”, nhằm bảo vệ trạng thái
thống nhất hài hòa của tự nhiên. Lão Tử còn chủ trương con người và vạn vật bình
đẳng “thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất” (trời đất cùng sinh ra với
ta, vạn vật với ta là một). Quan niệm này được học trò của ông – Trang Tử phát
triển lên, hy vọng con người trở về với nhân tính tự nhiên, làm cho sinh mệnh của
mình hòa hợp với tự nhiên. Trang Tử là một người thích ngao du, có “thiên tâm”
gần gũi với tự nhiên. Ông thích sự hài hòa vốn có của vạn vật nhất thể chưa bị phân
chia và chú trọng cái “chân” của bản tính, phản đối những hành vi làm hại bản tính.
Bởi sống thuận theo tự nhiên là “thiện”, làm thay đổi bản tính là “ác”. Như vậy, tư
tưởng sinh thái Đạo gia qua thái độ tôn trọng tự nhiên, theo đuổi vô vi, thuận theo
bản tính của vạn vật đã mang đến giá trị và ý nghĩa quan trọng đối với thời hiện đại
trong việc khai thác và bảo vệ tự nhiên theo quy luật sinh thái.
Trí tuệ sinh thái Phật giáo là kiểu trí tuệ xuất thế, xem con người là một bộ
phận của tự nhiên. Từ mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa vạn vật trong tự nhiên
theo sự giác ngộ về “duyên khởi” của đức Phật, Phật giáo đề xuất cái nhìn bình
đẳng đối với vạn vật “vạn vật giai hữu Phật tính” (vạn vật đều có Phật tính). Con
người và vạn vật vốn cùng một bản thể, cùng mang Phật tính như nhau – tức cái
22
tính giác ngộ, hồn nhiên, trong sáng, cùng tồn tại mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau trong
cùng một chỉnh thể thống nhất.
Hơn nữa, Phật giáo răn dạy con người cần phải có lòng từ bi với vạn vật. Đó
là thái độ từ ái, thương xót đối với vạn vật chúng sinh. Phải có đức hiếu sinh đối với
vạn vật, tôn trọng sinh mệnh của tự nhiên, không được tàn sát muôn loài một cách
vô lý, phải biết yêu thương, trân trọng tất cả sinh vật trong môi trường sống tự nhiên
gồm cả vật “hữu tri hữu giác” hay “vô tri vô giác”. Thế giới tự nhiên là một môi
trường không chỉ giúp vạn vật sinh sôi mà còn là nơi nuôi sống muôn loài. Vì vậy,
con người – với tư cách của loài có trí tuệ, cần phải thực hiện đạo đức hiếu sinh để
bảo vệ sự sống của muôn loài trong tự nhiên và cũng như là bảo vệ sự sống của
chính mình. Ngay cả Đức Phật Thích Ca trước khi trở thành đấng Giác Ngộ cũng đã
luân chuyển, đầu thai qua nhiều kiếp số từ con người, thần linh đến các loài vật như
cỏ cây, muông thú chỉ với mục đích thấu hiểu nhân sinh của muôn loài trong thế
giới tự nhiên. Đây là một cái nhìn nhân đạo trong triết thuyết của Phật giáo và thích
hợp trong việc định hướng đạo đức sinh thái của con người thời hiện đại.
Như vậy, với những triết lý sâu sắc trong mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên, cả ba hệ tư tưởng Nho, Đạo, Phật tuy khác nhau trong quan niệm về vị trí của
con người trong vũ trụ và quan niệm ứng xử với cuộc đời nhưng đều gặp nhau trong
việc xem con người là bộ phận của tự nhiên, chú trọng lối sống hài hòa với tự nhiên,
xem đó là yêu cầu đạo đức của con người. Những tư tưởng này đã đi sâu vào đời
sống tâm linh, văn hóa, xã hội của con người, nhất là người Việt xưa tạo thành một
thế giới quan chi phối mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm và được thể hiện trong nhiều
tác phẩm văn học Việt Nam thời kỳ trung đại. Những mối quan hệ của phê bình
sinh thái với tư tưởng phương Đông đã trở thành những nội dung quan trọng cho
việc hoàn thiện lý luận phê bình sinh thái hiện đại.
1.2.2. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca trung đại Việt Nam
Thiên nhiên trong thơ ca từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng quen thuộc và
dường như không thể vắng bóng trong các sáng tác của thi nhân. Chịu ảnh hưởng
của thi pháp trung đại, thiên nhiên chưa được nhìn nhận như một đối tượng thẩm
mỹ độc lập, riêng biệt mà chỉ được xem như là một phương tiện, công cụ để con
23
người bày tỏ tâm sự hoặc thể hiện chí hướng, hay triết lý đạo đức một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng, ngay cả khi thiên nhiên chưa
được nhìn nhận là một thực thể sinh mệnh độc lập thì con người trung đại cũng đã
có một mối liên kết mật thiết với môi trường tự nhiên.
Triết học Nho, Phật, Đạo trong suốt thời kỳ trung đại đã trở thành một hệ tư
tưởng không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Đại Việt xưa, nhất là trong
giai đoạn văn học thời Lý Trần – khi mà chủ trương tam giáo đồng nguyên với Phật
giáo Thiền tông chiếm ưu thế, đã ảnh hưởng đến sáng tác của một bộ phận văn học
vốn vừa là thi sĩ vừa là thiền sư. Những bài học triết lý uyên áo, vi diệu của những
học thuyết này đã chi phối rất nhiều đến thế giới quan của thi nhân xưa và được
biểu hiện cụ thể qua tác phẩm viết về thiên nhiên. Vì thế, hình ảnh thiên nhiên trong
thơ ca trung đại trước hết mang ý nghĩa biểu tượng cho triết lý Thiền tông. Thiên
nhiên giờ đây trở thành nơi chuyển tải những bài học đạo đức về thế giới quan và
nhân sinh quan Phật giáo một cách trực tiếp hoặc gián tiếp:
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Thị đệ tử, Vạn Hạnh)
(Mặc cho thịnh suy xoay vần, không lo sợ
Thịnh và suy cũng chỉ như hạt móc phơi trên đầu ngọn cỏ).
(Dặn bảo đệ tử)
Thiên nhiên bao giờ cũng tồn tại và xoay vần theo quy luật của riêng nó, mùa
xuân thì hoa cỏ tươi tốt nhưng đến mùa thu lại trở nên khô héo. Nhìn vào thiên
nhiên, Thiền sư đã thấu triệt được bản chất tồn tại của cuộc đời con người chỉ như
ánh chớp, có rồi lại mất. Từ việc “hiểu rõ quy luật sinh – trụ – dị – diệt của thế
giới tự nhiên và sinh – lão –bệnh – tử của đời người, con người không còn bị cầm
tù trong những vòng dây của đau buồn, lo sợ, tiếc nuối về chuyện thịnh suy, được
mất.” (Đoàn Thị Thu Vân chủ biên, 2009). Khi ý thức được con người và vũ trụ
vốn cùng một bản thể, biết được thế giới hiện tại chỉ là vô thường, đầy biến động,
không ngừng đổi thay sinh diệt thì con người hãy luôn giữ vững tâm an nhiên, đừng
lo sợ chuyện được mất ở đời mà hãy sống thanh thản, hòa nhịp cùng quy luật của tự
24
nhiên, trân trọng những phút giây hiện tại để không phải nuối tiếc những gì thuộc về
quá khứ.
Nếu như ở thời Lý, thiên nhiên là phương tiên để trực tiếp chuyển tải những
yếu chỉ Thiền tông thì đến đời Trần, thiên nhiên đã được miêu tả cụ thể và sinh
động hơn. “Thơ Thiền đời Trần ít triết lý trực tiếp, nó thường miêu tả thiên nhiên,
ngoại vật và tâm trạng, cảm xúc mang ý vị thiền của nhà thơ. Và thông điệp mà nó
muốn truyền đạt đến người đọc rất tinh vi trong các hình ảnh biểu tượng, từ đó thấu
nhập vào người đọc một cách tự nhiên sâu sắc qua con đường cảm xúc.” (Đoàn Thị
Thu Vân, 1996).Vì thế, người đọc khi tiếp xúc thơ Thiền đời Trần, nếu không chú ý
kỹ thì sẽ không thấy được ý vị Thiền cất giấu trong thơ, mà chỉ thấy được bức tranh
thiên nhiên hài hòa, tinh tế qua từng đường nét khắc họa:
Dạ khí phân lương nhập họa bình
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Trúc đường vong thích hương sơ tận
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.
(Tảo thu, Huyền Quang)
(Khí đêm tỏa hơi thơm mát thấm vào bức bình phong vẽ
Cây trước sân xào xạc báo âm thanh mùa thu.
Dưới mái tranh quên bẵng hương vừa tắt
Mấy khóm cây cành giăng lưới ánh sáng trăng.
(Thu sớm)
Mùa thu đến trong sự cảm nhận của nhà thơ bắt đầu từ khí đêm mát lạnh,
tiếng cây xào xạc trong đêm. Hơi đêm và tiếng cây xào xạc gợi nhắc con người về
thời gian hiện tại, nhưng những hình ảnh này lại đối lập với hình ảnh nén hương
vừa tắt – thời gian mới qua. Động thái “quên” bẵng nén hương vừa tắt của nhà thơ
được diễn tả rất nhẹ nhàng không chỉ thể hiện một sự hòa nhập tuyệt đối giữa tâm
hồn thi sĩ với trăng sáng đêm thu mà còn khiến cho thời gian hiện thực ngưng đọng,
thời gian vĩnh cữu xuất hiện. Đó là hình ảnh của một con người vô ngã quên đi bản
thân để hòa nhập làm một với cái “đại ngã” tự nhiên, vũ trụ. Giây phút ấy, nhà thơ
không còn là mình nữa mà đã hòa tan vào lưới trăng sáng trong đêm thu sớm. Ý thơ
25
vừa mang đậm chất thơ, vừa toát lên ý vị Thiền mạnh mẽ. Tinh thần vô ngã với
trạng thái quên không phải là phủ nhận con người mà là giúp con người đạt đến sự
tự do tuyệt đối trong tâm hồn, từ đó đạt đến tâm bình đẳng và cái nhìn yêu thương
với vạn vật.
Bên cạnh đó, thiên nhiên trong thơ ca trung đại Việt Nam còn là “thế giới
tinh thần”, là ký hiệu để thi nhân xưa giãi bày tâm trạng. Thời xưa, khi ý thức cá
nhân chưa được biểu hiện một cách mạnh mẽ thì con người chỉ biết gửi gắm tâm
trạng, nỗi niềm của mình vào thiên nhiên, nhờ vào chúng để giải tỏa tâm trạng.
Theo đó, thiên nhiên trở thành đối tượng thể hiện đặc trưng nhân cách và thế giới
nội tâm con người.
Nhà Nho là một bộ phận sáng tác văn học đông đảo, đóng góp không ít
những bài thơ có giá trị vào kho tàng văn học dân tộc. Phần lớn nhà Nho bao giờ
cũng thường trực một chí hướng giúp nước cứu đời, cái chí hướng ấy không thể san
sẻ cùng ai mà chỉ có thể được gửi gắm qua hình ảnh thiên nhiên:
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Có thuốc trường sinh càng khỏe thay.
Hổ phách, phục linh nhìn mới biết
Dành còn để trợ dân này.
(Tùng – bài 3, Nguyễn Trãi)
Hình ảnh cây tùng xuất hiện trong bài thơ không chỉ mang lại sự vững chãi,
kiên cố ở bề ngoài mà còn có sự kiên định, bền bỉ ở bên trong. Nó cũng chính là đại
diện cho chí hướng, năng lực và phẩm chất của nhà thơ, dẫu có trải qua nhiều mùa
sương giá thì càng sản sinh thêm nhiều “thuốc trường sinh”- vị thuốc quý báu cống
hiến cho đời. Ở Nguyễn Trãi, thuốc trường sinh chính là cái lý tưởng, cái khát vọng
phục vụ đất nước, nhân dân và theo thời gian, nó trở thành “hổ phách, phục linh”,
cái chất tinh túy sản sinh từ quá trình gian lao rèn luyện đã giúp ông vượt lên nghịch
cảnh. Bài thơ vừa thể hiện chí hướng cứu nước, giúp đời vừa diễn tả sâu sắc vẻ đẹp
nội tại, kín đáo trong con người nhà thơ.
26
Trong một số bài thơ, thiên nhiên đôi khi còn thể hiện cho triết lý sống nhàn
của các nhà Nho ẩn dật, trở thành một thái độ đối lập với cái nhơ nhuốc, rối ren của
xã hội bên ngoài:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
(Nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Nguyễn Bỉnh Khiêm đề xuất cho mình một triết lý sống nhàn riêng, đó là
sống thuận theo tự nhiên và có đôi nét giống với tinh thần của triết học Lão – Trang.
Sống nhàn đối với ông là sống theo quy luật tự nhiên, mùa nào thức nấy, không
cưỡng cầu những gì trái với tự nhiên. Đó là cuộc sống giản dị và thanh cao hơn bao
giờ hết. Sự đạm bạc trong thức ăn hằng ngày như măng trức, giá đỗ có thể tìm thấy
ở bất cứ nơi đâu trong nếp nhà của người dân. Không cầu cạnh những thứ xa hoa,
nhà thơ luôn tự hài lòng với lối sống tự cung tự cấp, hòa mình vào tự nhiên để đổi
lấy cuộc sống thanh cao và bức tranh về cuộc sống thanh nhàn tưởng như đạm bạc
ấy lại trở nên có màu sắc, có hương vị hơn.
Trong xu hướng miêu tả thiên nhiên, thơ ca không chỉ bày tỏ chí hướng, thể
hiện phẩm chất con người mà còn đi sâu vào miêu tả, bộc bạch thế giới nội tâm của
người xưa. Đó đôi khi là tâm trạng cô đơn, thoáng nét bi quan đến tột cùng của một
vị danh nho thời nhà Nguyễn: “Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng
giữa trời mà reo/ Lưng trời vách đá cheo leo/ Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
(Vịnh cây thông, Nguyễn Công Trứ); nhưng cũng đồng thời là tâm trạng thấp thỏm,
lo âu của người chinh phụ có chồng đi chinh chiến phương xa, không biết bao giờ
mới có thể gặp lại. Thiên nhiên ấy giờ đây tràn ngập một nỗi thương chờ, một tấm
lòng khát khao đến cùng cực và một sự uẩn ức trong tâm hồn:
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu sen là thức cỏ cây,
Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền.
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy đây.
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn)
27
Lo lắng, thấp thỏm cho tình cảnh của người chồng nơi phương xa, người
chinh phụ tìm kiếm sự an ủi trong căn phòng của hai vợ chồng nhưng chỉ thấy sự lẻ
loi, cô độc. Phóng tầm mắt ra xa, người chinh phụ lại càng đau đớn hơn khi nhìn
những loài vật có đôi có cặp còn mình mình thì đơn bóng. Càng tìm kiếm sự an ủi
thì lại càng thất vọng. Hạnh phúc giờ đây đối với nàng chỉ là khoảng không vô tận,
mờ mịt. Qua việc miêu tả tình cảnh của người chinh phụ, Đặng Trần Côn đã đi sâu
vào những ngóc ngách, tâm tư của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến để họ cất
lên tiếng nói cá nhân, khát vọng tình yêu đôi lứa vì xã hội phong kiến thời bấy giờ
không cho phép con người bộc bạch nỗi niềm riêng, nhất là những người phụ nữ.
Ngoài ra, thiên nhiên trong thơ ca trung đại còn là nguyên tắc thẩm mỹ được
sử dụng để miêu tả cái đẹp của con người. Trong tác phẩm Truyện Kiều, nếu Thúy
Vân được Nguyễn Du miêu tả với sắc vóc đoan trang, được thiên nhiên ưu ái,
nhường nhịn, báo hiệu một cuộc đời bình an: “Vân xem trang trọng khác vời/
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang/ Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua
nước tóc tuyết nhường màu da” thì vẻ đẹp của Thúy Kiều lại được khắc họa một
cách tinh tế, sắc sảo nhưng vẻ đẹp ấy bị hoa ghen, liễu hờn, báo hiệu cuộc đời thăng
trầm, sóng gió:
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Với bút pháp ước lệ tượng trưng, thiên nhiên không chỉ được Nguyễn Du
dùng để miêu tả tài sắc của Thúy Kiều, Thúy Vân mà còn được sử dụng như một
điềm báo số mệnh cho cuộc đời của hai chị em nàng.
Đôi khi thiên nhiên cũng được các nhà thơ sử dụng như một phương tiện để
miêu tả bước đi của thời gian qua các mùa xuân, hạ, thu, đông. Trong tác phẩm
Truyện Kiều, Nguyễn Du đã miêu tả thời gian của bốn mùa rất tinh tế, trong đó mùa
hạ và mùa đông là đặc sắc hơn cả. Mùa hạ hiện ra với hình ảnh hoa lựu nở rộ và
tiếng chim quyên kêu dưới đêm trăng: “Dưới trăng quyên đã gọi hè/ Đầu tường lửa
lựu lập lòe đơm bông”. Mùa đông lại được nhà thơ miêu tả qua dấu hiệu của hình
28
ảnh sen tàn, cúc nở và quy luật tự nhiên tháng mười ngày ngắn hơn đêm: “Sen tàn
cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân”.
Thiên nhiên trong thơ ca trung đại còn là đối tượng để nói về khí tiết, phẩm
chất của con người trong xã hội xưa. Người phương Đông thường đưa ra quan niệm
rằng: tất cả mọi vật trên đời đều có linh hồn – “vạn vật hữu linh” hay “vạn vật chi tố
linh”. Vì thế mà khi miêu tả thiên nhiên, người ta không chú trọng vẻ bề ngoài mà
chú ý đến phần bên trong. Đó là “cách nhìn sự vật thiên nhiên không tự bản thân sự
vật mà nhìn xuyên qua bề ngoài đạt tới cái linh hồn của sự vật.” (Đoàn Thị Thu
Vân chủ biên, 2009). Nhìn tùng, trúc, mai người ta thấy được phẩm chất, cái khí tiết
thanh cao của người quân tử, nhìn cỏ dại người ta thấy sự xấu xa, cái thấp hèn của
hạng tiểu nhân.
Phượng những tiếc cao diều hãy lượn
Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi.
(Tự thuật – bài 9, Nguyễn Trãi)
Như vậy, thông qua hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca trung đại Việt Nam, có
thể thấy rằng trong xu hướng thâm nhập thiên nhiên, con người nhận thấy bản thân
mình là một tiểu vũ trụ trong cái đại vũ trụ, là một bộ phận của tự nhiên, có mối
quan hệ dung hòa và mật thiết với nhau. Sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho, Phật,
Đạo cũng như truyền thống gắn bó với tự nhiên từ lâu đời của ông cha đã hình
thành một thế giới quan chi phối đến tư tưởng, văn hóa, văn học của người trung
đại. Như vậy, thiên nhiên trong thơ ca trung đại vừa biểu tượng cho triết lý Thiền
tông, vừa là nơi con người bộc lộ tâm sự, gửi gắm nỗi niềm chí hướng, và cũng vừa
là nguyên tắc thẩm mỹ để miêu tả vẻ đẹp cũng như phẩm chất con người. Theo đó,
khi soi chiếu dưới góc nhìn phê bình sinh thái, các tác phẩm viết về thiên nhiên dù
chưa đúng nghĩa với văn học sinh thái hiện đại nhưng ý thức sinh thái đã được tồn
tại trong tư tưởng người viết đương thời. Chính điều này đã góp phần thể hiện cho
khuynh hướng phê bình sinh thái ngày nay càng được hoàn thiện và mở rộng hơn.
1.3. Lý luận về phê bình sinh thái trong văn học
Trong xã hội hiện đại, khi mà con người dần bước đến những thành tựu vượt
trội của khoa học kỹ thuật thì cũng là lúc họ phải đối mặt với nhiều vấn nạn đến từ
29
tự nhiên. Hiện tượng trái đất nóng lên, băng tan ở hai cực, núi lửa, sóng thần… đã
trở thành những cảnh báo từ thế giới tự nhiên. Chúng không còn là vấn đề của một
khu vực, một quốc gia nữa mà đã trở thành một vấn đề lớn của thế giới. Đứng trước
tình trạng trên, phê bình sinh thái ra đời không chỉ “thiết lập lại” vị trí của môi
trường tự nhiên mà còn đề xuất một thái độ sống hòa hợp, gắn gó giữa con người và
tự nhiên trong xã hội hiện đại, góp phần làm giảm thiểu nguy cơ sinh thái.
1.3.1. Khái lược lý luận phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái xuất hiện vào cuối thế kỷ XX, được “khởi phát ở Mĩ vào
thập niên 80, ở Anh vào thập niên 90” (Hoàng Tố Mai chủ biên, 2017). Khuynh
hướng nghiên cứu này vốn được manh nha từ thời kỳ chủ nghĩa tư bản – khi mà con
người bắt đầu tàn phá môi trường tự nhiên để phục vụ cho những lợi ích của mình.
Những dấu hiệu về nguy cơ sinh thái được nhắc đến khá nhiều qua các diễn ngôn
lãng mạn trong văn học của một số nước. Như vậy, theo sự thúc đẩy phát triển của
của thời đại và tính cấp thiết của môi trường tự nhiên, phê bình sinh thái từ một
phong trào lẻ tẻ, rời rạc đã dần thống nhất trở thành khuynh hướng nghiên cứu văn
học và lan rộng ra nhiều nước trên thế giới.
Phê bình sinh thái (Ecocriticism) còn được các nhà nghiên cứu định danh
với nhiều tên gọi khác như: Phê bình văn hóa xanh (Green cultural studies), Phê
bình xanh (Green studies), Phê bình văn học và môi trường (Enviromental literary
criticism), Nghiên cứu văn học và môi trường (Studies of literature and eviroment),
Thi pháp sinh thái (Ecopoetics), Sinh thái học văn học (Literary ecology). Tuy
nhiên, dù được gọi với nhiều tên khác nhau nhưng đa số các nhà nghiên cứu vẫn ưa
chuộng tên “phê bình sinh thái” hơn. Theo Cheryll Glotfelty, thuật ngữ “phê bình
sinh thái” sở dĩ được yêu thích bởi vì nó ngắn gọn và dễ tạo thành hai dạng thức
khác là ecocritical (tính chất phê bình sinh thái) và ecocritic (nhà phê bình sinh
thái). Bên cạnh đó, các nhà phê bình cũng quan tâm nhiều hơn đến tiền tố “eco-”
(sinh thái) hơn tiền tố “eviro-” (môi trường), bởi vì xét theo nghĩa rộng, tiền tố
“eco-” (sinh thái) mang ý nghĩa vạn vật trong cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, tạo
thành một hệ thống hòa hợp, gắn bó mật thiết với nhau. Ngược lại, tiền tố “enviro-”
30
(môi trường) lại mang quan điểm nhị nguyên, chia rõ con người là trung tâm, còn
tất cả mọi thứ xung quanh là môi trường.
Trên thế giới, có rất nhiều học giả đã đưa ra định nghĩa phê bình sinh thái. Ở
châu Âu và châu Mỹ có năm định nghĩa của các học giả James S. Hans, Scott
Slovic, Cheryll Glotfelty, William Howarth, Lawrence Buell có ảnh hướng lớn tới
giới phê bình sinh thái. Trong số các giới định trên, thì định nghĩa của Cheryll
Glotfelty được chú ý và tiếp nhận nhiều hơn cả bởi nó không chỉ dễ hiểu mà còn
tóm lược được phần lớn nội dung phê bình sinh thái, có tính hòa hợp về tư tưởng rất
mạnh. Theo bà “Phê bình sinh thái là khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn
học và môi trường tự nhiên”, “Với tư cách là một quan điểm phê bình, phê bình
sinh thái đứng một chân ở văn học, một chân ở trái đất; với tư cách là một diễn
ngôn lý thuyết, nó làm hài hòa mối quan hệ giữa nhân loại và thế giới phi nhân
loại”. Cũng trong định nghĩa này, Cheryll Glotfelty còn bổ sung: “Phê bình sinh
thái mang đến một phương pháp nghiên cứu văn học lấy trái đất làm trung tâm
(earth-centered)” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017).
Theo định nghĩa này, có thể thấy Cheryll Glotfelty đã vạch ra sứ mệnh quan
trọng của phê bình sinh thái là tiến hành xem xét mối quan hệ giữa văn học và tự
nhiên với mục đích thẩm định lại văn hóa nhân loại, truy tìm nguồn gốc phê phán
văn hóa, tư tưởng dẫn tới nguy cơ sinh thái. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu các văn
bản văn học, phê bình sinh thái phải đặt chúng trong hệ thống sinh thái để thấy được
tính thẩm mỹ và tính nghệ thuật. Ngoài ra, định nghĩa của bà còn chú trọng đến tư
tưởng chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái và thẩm mỹ sinh thái với vai trò làm hài hòa
mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Dù bao hàm được tính lý luận nhưng định
nghĩa của Cheryll Glotfelty còn tồn tại sự nhập nhằng giữa các giới thuyết “sinh
thái” – “môi trường”, “một chân ở văn học” – “một chân ở trái đất”, khiến cho
nhiều học giả còn mơ hồ về phương pháp nghiên cứu.
Phê bình sinh thái không chỉ được các nhà nghiên cứu phê bình Âu Mỹ định
nghĩa mà ở Châu Á, học giả Vương Nặc (Trung Quốc) cũng đưa ra định nghĩa:
“Phê bình sinh thái là phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự
nhiên từ định hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh
31
thể sinh thái. Nó phải phơi bày nguồn gốc văn hóa tư tưởng của nguy cơ sinh thái
được phản ánh trong tác phẩm văn học, đồng thời khám phá thẩm mỹ sinh thái và
biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017). Định
nghĩa của Vương Nặc được phát triển từ năm định nghĩa của các học giả Âu, Mỹ.
Song khi so với định nghĩa của Cheryll Glotfelty thì chúng tôi thấy được vài nét
giống nhau. Thứ nhất, cả hai định nghĩa đều vạch rõ sứ mệnh quan trọng của phê
bình sinh thái là xem xét mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên, thông qua văn học
để thẩm định lại văn hóa, tư tưởng nhân loại, chỉ ra căn nguyên dẫn đến nguy cơ
sinh thái. Thứ hai, phê bình sinh thái lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm tư tưởng
cốt lõi, chuyển hướng nghiên cứu “con người làm trung tâm” sang “sinh thái làm
trung tâm”. Cuối cùng, phê bình sinh thái chú trọng đến đặc trưng thẩm mỹ sinh
thái và biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm.
Tuy nhiên, dù giống nhau về mặt lý thuyết nhưng cả hai định nghĩa có sự
khác biệt. Dù đã tổng hợp những ưu điểm và hạn chế trong định nghĩa của các nhà
nghiên cứu Âu Mỹ, nhưng định nghĩa của Vương Nặc vẫn có chỗ thiếu sót vì nó chỉ
“phơi bày nguy cơ sinh thái trong tác phẩm văn học” còn những tác phẩm không
chứa nguy cơ sinh thái thì không cần khảo sát. Điều này đã khuôn hẹp đối tượng
nghiên cứu của phê bình sinh thái và bỏ qua những thành tựu lớn. Bởi đối tượng
nghiên cứu của phê bình sinh thái không chỉ tác phẩm văn học sinh thái mà là toàn
bộ các tác phẩm văn học Đông Tây kim cổ.
Như vậy, thông qua định nghĩa của Cheryll Glofelty và Vương Nặc về phê
bình sinh thái có thể thấy rằng: dù tồn tại tại những mặt hạn chế trong lý luận nhưng
phải thừa nhận được sự nỗ lực trong việc tìm kiếm một định nghĩa khái quát và
chính xác về phê bình sinh thái của hai học giả, giúp cho lý thuyết phê bình sinh
thái bước đầu được hoàn thiện. Về vai trò, phê bình sinh thái phân tích chỉ ra căn
nguyên về văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái. Về tư tưởng, phê bình sinh
thái lấy tư tưởng “sinh thái làm trung tâm”. Về nguyên tắc thẩm mỹ, phê bình sinh
thái chú trọng đến sự thống nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên, con người và
xã hội. Về đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phê bình sinh thái có thể khảo sát
những tác phẩm văn học sinh thái và những tác phẩm văn học Đông Tây kim cổ.
32
Phê bình sinh thái có hai hướng nghiên cứu là phê bình sinh thái tự nhiên và phê
bình sinh thái tinh thần. Nếu phê bình sinh thái tự nhiên nghiên cứu mối quan hệ
giữa văn học và tự nhiên thì phê bình sinh thái tinh thần lại chú trọng đến “mối
quan hệ giữa văn học và môi trường văn hóa, tinh thần xã hội như một vấn đề sinh
thái, không tập trung vào quan hệ con người và tự nhiên, mà xem xét môi trường
tinh thần xã hội như là môi trường sống của văn nghệ, sự tương tác giữa môi
trường văn hóa tinh thần với sáng tạo văn nghệ” (Trần Đình Sử, 2015). Phê bình
sinh thái khi nghiên cứu văn bản văn học, bao giờ cũng chú ý đến cảm hứng phê
phán và cảm hứng ngợi ca. Cảm hứng ngợi ca được thể hiện qua việc“ngợi ca vẻ
đẹp của tự nhiên, ngợi ca quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên”, còn cảm
hứng phê phán lại được biểu hiện qua việc “mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên,
và thường là thông qua phản tư và phê phán quan hệ mâu thuẫn này để thức tỉnh ý
thức sinh thái, chỉ ra nguy cơ của việc con người chiếm đoạt tự nhiên, khai thác vô
độ tự nhiên chính là tự đào huyệt chôn mình” (Đỗ Văn Hiểu, 2016). Theo đó, việc
tìm ra những biểu hiện này đã trở thành cơ sở xây dựng thái độ ứng xử với tự nhiên
cho nhân loại.
Ngoài ra, phê bình sinh thái còn tồn tại hai đặc trưng cần lưu ý là đạo đức
sinh thái và thẩm mỹ sinh thái. Đạo đức sinh thái là một nội dung quan trọng tạo
nên tính nhân văn của khuynh hướng phê bình sinh thái. Bởi nó không chỉ hướng
con người đến với tự nhiên mà còn xây dựng một ý thức về “môi trường”, ý thức
sinh thái, tinh thần sinh thái cho con người thời hiện đại. Trong bối cảnh sự sống
của Trái đất đang bị đe dọa một cách trầm trọng, thì việc xây dựng ý thức sinh thái
đã trở thành giải pháp tối ưu góp phần làm giảm thiểu những nguy cơ sinh thái bởi
xét đến cùng, mục tiêu của phê bình sinh thái chính là xây dựng ý thức sinh thái.
Trong công trình Xây dựng đạo đức sinh thái, một trách nhiệm xã hội của
con người với tự nhiên, học giả Phạm Thị Ngọc Trầm (2002) đã đề xuất khái niệm
Ý thức sinh thái mới là sự nhận thức một cách tự giác của con người về tự
nhiên (các yếu tố cả tự nhiên và quy luật hoạt động của chúng), về vị trí, vai
về ý thức sinh thái mới:
trò của con người trong mối quan hệ với tự nhiên và về trách nhiệm, nghĩa
vụ của con người trong việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ đó
hướng đến mục tiêu phát triển bền vững của xã hội và sự đồng tiến hóa giữa
con người và tự nhiên.
33
Trong mối quan hệ với tự nhiên, con người phải có trách nhiệm và nghĩa vụ
đối với tự nhiên, trước hết ở việc xem tự nhiên là một đối tượng có sinh mệnh độc
lập, có tình cảm, cảm xúc và cùng tồn tại trong một chỉnh thể tự nhiên hài hòa,
thống nhất với con người:“Bất cứ sinh mệnh nào cũng có giá trị tồn tại bình đẳng
nhưng chỉ có con người mới có thể gánh vác trách nhiệm đạo đức tôn trọng sinh
mệnh.” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017). Bên cạnh đó, phê bình sinh thái nhấn mạnh
con người và tất cả mọi sinh mệnh khác trong tự nhiên đều là những thành viên bình
đẳng trong hệ thống tự nhiên. Con người không phải là chủ thể, là đấng sáng tạo của
tự nhiên, cũng như thiên nhiên không phải là khách thể, là nô lệ phục vụ con người.
Quan hệ giữa con người và tự nhiên là quan hệ phát triển hài hòa, cộng sinh. Con
người và tự nhiên là mỗi yếu tố trong hệ thống, nếu thay đổi hay tác động vào một
yếu tố sẽ dẫn đến việc mất cân đối trong hệ thống chỉnh thể sinh thái. Vì vậy, khi
tìm hiểu các văn bản sinh thái, người phê bình phải nhìn thế giới tự nhiên bằng ý
thức sinh thái chứ không phải bằng ý thức thẩm mỹ thông thường vốn xem thiên
nhiên là đối tượng nghiên cứu của văn học, là khách thể của văn chương. Con người
không thể cứ mãi theo lối sống “ngộ nhận” mặc sức cải tạo thiên nhiên, phá hoại tự
nhiên để phục vụ cho những ích lợi, những ham muốn thực dụng của bản thân mà
quên đi giá trị của nó là nuôi dưỡng sự sống cho muôn loài, trong đó có cả con
người. Phê bình sinh thái đề cao tư tưởng sinh thái là trung tâm nhưng không có
nghĩa là hạ thấp con người, mà là đề xuất thái độ sống gần gũi, gắn bó với tự nhiên,
tôn trọng bất cứ sinh vật nào từ con người đến các loài động, thực vật. Con người
nhất thiết cần phải hình thành ý thức sinh thái trong định hướng đạo đức sinh thái,
vì chỉ có như thế, tự nhiên mới được bảo vệ trường tồn và nhân loại có thể tránh
được những nguy cơ sinh thái. Như vậy, qua việc định hướng đạo đức sinh thái từ
34
thái độ ứng xử của con người với tự nhiên, phê bình sinh thái đã có một bước tiến
quan trọng trong việc khôi phục, xây dựng ý thức sinh thái, tinh thần sinh thái.
Cùng với đạo đức sinh thái, thẩm mỹ sinh thái cũng là một khía cạnh quan
trọng của phê bình sinh thái. Chủ trương của nó “là sự thống nhất hài hòa giữa con
người và tự nhiên, con người và xã hội, con người và bản thân chứ không phải là
con người chiếm hữu, chinh phục và cải tạo tự nhiên, không chủ trương quan điểm
lao động sáng tạo ra cái đẹp.” (Đỗ Văn Hiểu, 2012). Theo đó, thẩm mỹ sinh thái
hướng đến vẻ đẹp mang tính tự nhiên và vẻ đẹp mang tính chỉnh thể.
Phê bình sinh thái thừa nhận một cái đẹp mang tính tự nhiên. Đó là vẻ đẹp
ban sơ, nguyên thủy của tự nhiên do tạo hóa ban tặng, không phải do sự tô vẽ, tác
tạo bởi bất cứ cảm xúc chủ quan nào của con người. Tự nhiên vốn dĩ có một vẻ đẹp
của riêng nó, nhưng con người do cái nhìn định kiến và lợi ích của bản thân đã biến
đổi vẻ đẹp ấy thành vẻ đẹp nhân tạo cứng nhắc, xem chúng là công cụ để biểu đạt
những sự ích kỷ của mình. Vẻ đẹp thẩm mỹ mang tính tự nhiên “không phải là sự
trừu tượng hóa trên cơ sở kinh nghiệm thẩm mỹ cụ thể, cũng không phải là thông
qua đối tượng cụ thể thể hiện tư tưởng tình cảm, nhân cách của chủ thể thẩm mỹ.
Trong thẩm mỹ sinh thái không tồn tại quan hệ chủ thể - khách thể, con người cảm
nhận tự nhiên, thiết lập quan hệ chủ thể tương giao với đối tượng thẩm mỹ.” (Đỗ
Văn Hiểu, 2012). Trong tự nhiên, không có sự phân cách giữa đẹp – xấu, có ích –
không có ích, cao – thấp… Nếu bỏ ngoài tất cả định kiến, lợi ích của con người, tự
nhiên tồn tại với tất cả sự đa dạng muôn màu muôn vẻ như nó vốn có. Vì vậy, phê
bình sinh thái phải đánh thức tâm hồn của con người để họ loại bỏ những cảm xúc
cá nhân ra khỏi tự nhiên, trân trọng vẻ đẹp ban sơ của nó, thấu nhập vào tự nhiên để
cảm nhận được sức hút và đánh giá đúng được vẻ đẹp của riêng nó. Bên cạnh đó,
khi đã hòa làm một với tự nhiên, con người dần đạt đến trạng thái vô ngã để hưởng
thụ và cảm nhận tuyệt đối với cái vô tận của tự nhiên. Con người sở dĩ không phát
hiện được vẻ đẹp của tự nhiên do cái nhìn tự cao, tự đại của bản thân, chỉ khi phê
bình sinh thái ra đời, nó đã giúp nhân loại nhận thức được tự nhiên, từ bỏ ái nhìn u
mê, lầm lạc. Con người quên đi bản ngã để hòa nhập vào tự nhiên để phát hiện và
trân trọng vẻ đẹp của tạo hóa chính là phương thức của thẩm mỹ sinh thái và cũng
35
là tinh thần triết lý mà người đọc có thể thấy trong các học thuyết tôn giáo ở Đông
phương.
Thẩm mĩ sinh thái không chỉ quan tâm đến vẻ đẹp tự nhiên của sinh mệnh
mà còn đề cao đến tính chỉnh thể của các sinh mệnh trong tự nhiên. Trong hệ thống
tự nhiên có nhiều yếu tố được thiết lập tạo thành chuỗi mắc xích liên đới có vai trò
và vị trí ngang nhau, chúng vừa thống nhất vừa tương hỗ lẫn nhau. Con người và tự
nhiên cũng là các bộ phận nằm trong tự nhiên nên luôn có sự gắn bó mật thiết, tác
động qua lại. Đối với thẩm mỹ sinh thái, cái hài hòa, ổn định chính là cái Đẹp, còn
phá hoại cái chỉnh thể, cái ổn định là cái Xấu. Mĩ học truyền thống bao giờ cũng
nhìn thiên nhiên dưới chuẩn mực của con người, đến phê bình sinh thái, chỉnh thể
sinh thái lại trở thành thước đo của vạn vật. Như vậy, thẩm mỹ sinh thái vừa quan
tâm đến mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, chú trọng đến sự hòa hợp, gắn bó
giữa các thành viên trong cộng đồng tự nhiên vừa nhận chân ra những nét đẹp trong
sự cộng cảm của các sinh mệnh. Đó không phải là sự kết nối ngắn hạn mà là một
kết nối dài lâu gắn liền với sự trường tồn của tự nhiên. Bằng việc chú ý đến tính
chỉnh thể, thẩm mỹ sinh thái đã đưa đến một cái nhìn tích cực, đầy nhân văn, nhấn
mạnh rằng sự phát triển hài hòa giữa con người và tự nhiên là tiền đề và cơ sở để
xây dựng văn minh sinh thái và xóa bỏ được các nguy cơ sinh thái.
Tuy nhiên, trong hành trình tìm kiếm thẩm mỹ sinh thái, cần xem xét đến đặc
trưng sinh thái được biểu hiện trong tác phẩm. Bên cạnh việc “gánh vác” vai trò và
nhiệm vụ trong văn học, phê bình sinh thái còn chú ý đến việc lý giải, phát hiện
những biểu hiện thẩm mỹ có trong tác phẩm văn học. Từ đó, làm cầu nối chuyển tải
những vấn đề trọng yếu của sinh thái đến người đọc.
Như vậy, trong hành trình tìm kiếm sự hoàn thiện, phê bình sinh thái trở
thành một khuynh hướng nghiên cứu “liên ngành, đa văn hóa và mang tính quốc
tế” (Trần Thị Ánh Nguyệt, 2014). Nó dung hợp nhiều lý thuyết phê bình khác (phê
bình nữ quyền), nhiều ngành khoa học khác (tâm lý học, triết học, luân lý học, mỹ
học…), nhiều nền văn hóa khác nhau, để phân tích và lý giải các tác phẩm văn
chương Đông Tây kim cổ, rút ra bài học về những cảnh báo môi trường. Cho nên,
việc nghiên cứu phê bình sinh thái đã và đang trở thành một hướng nghiên cứu quan
36
trọng. Bởi thông qua con đường văn học, nó hướng con người đến thái độ ứng xử
phải phép, hiểu rõ và biết trân trọng thế giới “phi nhân loại” xung quanh mình đồng
thời khắc phục những tiềm ẩn đe dọa đến sự sống Trái đất để từ đó, xây dựng một
cuộc sống hài hòa, bền vững cùng nhau phát triển của những sinh mệnh trong thế
giới tự nhiên.
1.3.2. Phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học và sự liên quan với
đề tài
1.3.2.1. Phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học hiện nay
Vấn đề phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học ngày càng trở thành một
khuynh hướng mới mẻ, được nhiều học giả trên thế giới tiếp cận và ứng dụng. Ở
một số nước, các trường Đại học đã đưa lý thuyết phê bình sinh thái thành một bộ
môn trong khoa được giảng dạy. Như đã trình bày ở trên, phê bình sinh thái trong
tiến trình định hình và phát triển đã dung hợp thành một hướng nghiên cứu liên
ngành, đa văn hóa và mang tính quốc tế. Chính vì điều đó mà phê bình sinh thái từ
những phong trào lẻ tẻ, tản mát từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước cho đến nay
đã dần trở thành một phong trào năng động và tích cực trên thế giới, trong đó có
Việt Nam.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Á, nổi tiếng là một khu vực
có truyền thống văn hóa nhân văn nồng đậm về tình yêu thiên nhiên, các nghiên cứu
về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên đã xuất hiện từ rất lâu, tuy nhiên đó
chưa phải là vấn đề của sinh thái hiện đại. Giới học giả Việt Nam khi được tiếp cận
với lý thuyết phê bình sinh thái đã dẫn nhập nghiên cứu dưới góc nhìn sinh thái và
đã có những ứng dụng thực hành đáng kể. Từ những công trình dịch thuật, bài viết
chuyên sâu đến những bài luận văn của ở một số trường Đại học. Tất cả dù chỉ mới
là khởi đầu nhưng cũng đã cho thấy một sự nỗ lực, năng động tích cực của giới học
giả Việt Nam trong việc ứng dụng phê bình sinh thái vào văn học.
Vấn đề về nghiên cứu phê bình sinh thái đang được mở rộng về đối tượng và
phạm vi nghiên cứu, giúp cho việc vận dụng lý thuyết này ít hạn hẹp và rộng mở
hơn. Văn học sinh thái đúng nghĩa chỉ xuất hiện trong thời hiện đại khi vấn đề tự
nhiên, môi trường đang bị đe dọa một cách trầm trọng. Nhưng ở Việt Nam, trước và
37
sau thời kỳ đổi mới chưa có một nền văn học sinh thái đúng nghĩa, vậy phải làm thế
nào để ứng dụng lý thuyết phê bình sinh thái vào các tác phẩm văn học trung đại và
hiện đại không thực sự đúng nghĩa là văn học sinh thái. Để giải quyết vấn đề này,
phê bình sinh thái tìm kiếm những ý thức sinh thái trong các tác phẩm đó. Thực tế
rằng, tư tưởng sinh thái đã được xuất hiện từ lâu qua các quan niệm “thiên nhân hợp
nhất” (Nho giáo), “đạo pháp tự nhiên” – “vô vi” của Đạo gia, “vạn vật bình đẳng”
(Phật giáo). Đối với những tác phẩm văn học trung đại, do ý thức thời đại, nhà văn
nhà thơ đương thời xem tự nhiên là đối tượng để ký thác tâm sự hay tình cảm chủ
quan của nhà thơ mà chưa đứng trên lập trường sinh thái để viết, tuy nhiên không
thể phủ nhận được ý thức sinh thái trong các tác phẩm ấy. Chẳng hạn như ở những
bài thơ viết về thiên nhiên của các nhà Nho ẩn dật như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm… có thể dễ dàng thấy được cảnh vui thú điền viên, sự ca ngợi mối quan hệ
thân thiết, gắn bó giữa con người và tự nhiên. Văn học trung đại dù chưa hình thành
được tư tưởng sinh thái một cách có hệ thống nhưng người viết đương thời đã có
cảm thức về niềm tôn kính, ngưỡng mộ, tình yêu với tự nhiên. Đến thời hiện đại
cũng có rất nhiều tác phẩm văn học không phải là văn học sinh thái, nhưng lại chất
chứa ý thức sinh thái rất mạnh mẽ như truyện của Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Huy
Thiệp, Trần Duy Phiên. Như vậy, phê bình sinh thái không chỉ nghiên cứu tác phẩm
văn học sinh thái mà còn“có thể khảo sát văn học đông tây kim cổ, đặc biệt là
những tác phẩm kinh điển có ảnh hưởng lớn đến văn minh nhân loại cũng như biến
động xã hội; có thể tiến hành đọc lại các tác phẩm trong quá khứ, tìm ra ý nghĩa
sinh thái tiềm ẩn trong đó, tất nhiên, cũng bao hàm việc chỉ ra những hạn chế của
nó trong tương quan với chỉnh thể sinh thái.” (Đỗ Văn Hiểu, 2012). Có thể thấy
rằng, việc nghiên cứu phê bình sinh thái không chỉ bổ sung cho những khuyết thiếu
trong lịch sử nghiên cứu văn học nhân loại mà còn đem đến một sự nhận thức lại về
mối quan hệ giữa con người và tự nhiên một cách rõ hơn, từ đó giúp con người thay
đổi cách nhìn và văn hóa ứng xử với với tự nhiên .
1.3.2.2. Phê bình sinh thái trong sự liên quan với đề tài
Khi vận dụng lý thuyết phê bình sinh thái vào nghiên cứu thế giới cỏ cây
trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, chúng tôi nhận thấy: dù Nguyễn Trãi là tác gia trung
38
đại nhưng trong những vần thơ viết về thiên nhiên, nhất là thơ Nôm, ý thức sinh thái
được ông biểu hiện rất rõ. Thiên nhiên trong thơ ông không chỉ mang vẻ đẹp tự
nhiên độc lập mà còn hàm chứa vẻ đẹp hài hòa, thống nhất. Bên cạnh đó, thái độ
ứng xử tôn trọng và gắn bó với tự nhiên của nhà thơ cũng chính là định hướng đạo
đức sinh thái mà phê bình sinh thái hiện đại muốn hướng đến.
Sở dĩ trong thơ Nguyễn Trãi, tư tưởng sinh thái lại được biểu hiện rõ nét như
thế có thể thấy được qua một số nguyên nhân. Trước hết, Nguyễn Trãi chịu ảnh
hưởng của hệ tư tưởng Nho – Phật – Đạo với những quan niệm, triết lý sâu sắc thể
hiện trí tuệ sinh thái rõ nét qua việc tôn trọng sinh mệnh, sống hài hòa, yêu thương,
trân trọng tự nhiên, sống theo quy luật tự nhiên, nhìn mọi vật trong mối quan hệ
bình đẳng, phụ thuộc lẫn nhau. Riêng triết học Nho gia, dù thừa nhận địa vị con
người là trung tâm nhưng không phải vì thế mà xem tự thiên là đối tượng để thống
trị, bóc lột mà là đặt con người ở vị trí trung tâm chính là bộc lộ niềm tin vào lương
tri của con người, để họ ý thức được “người có lòng nhân xem vạn vật trong trời đất
với mình là một thể” (nhân giả dữ thiên địa vạn vật thành vi nhất thể). Bên cạnh đó,
Nguyễn Trãi còn chịu ảnh hưởng bởi tinh thần nhân văn, nhân đạo sâu sắc dưới thời
đại văn học Lí – Trần, tư tưởng tam giáo đồng nguyên với tinh thần Phật giáo Thiền
tông năng động, tích cực đòi hỏi một sự hòa nhập tuyệt đối vào thế giới tự nhiên,
quên đi bản ngã để hòa làm một với tự nhiên. Ngoài ra, góp phần tạo nên tư tưởng
sinh thái của Nguyễn Trãi cần phải kể đến cuộc đời của ông. Thời ấu thơ và niên
thiếu sống với ông ngoại ở núi rừng Côn Sơn và sống với cha ở quê nghèo Nhị Khê
đã hun đúc nơi Nguyễn Trãi một tình cảm sâu nặng, gắn bó với thiên nhiên. Thường
thấy trong thơ ông, cảnh trí thiên nhiên luôn xuất hiện cả khi ông làm quan ở triều
đình hay khi đã về sống ẩn dật.
Như vậy, từ những sự đồng điệu trong thơ thiên nhiên của Nguyễn Trãi và lý
thuyết phê bình sinh thái, chúng tôi quyết định chọn và thực hiện đề tài “Thế giới cỏ
cây trong thơ Nguyễn Trãi dưới góc nhìn phê bình sinh thái” làm vấn đề nghiên
cứu. Bởi từ góc nhìn của phê bình sinh thái, thơ viết về cỏ cây của Nguyễn Trãi sẽ
cho thấy được tình cảm yêu thương, trân trọng sâu sắc với tự nhiên của nhà thơ; đưa
ra câu trả lời bề việc nhìn lại thế giới tự nhiên trong thơ Nguyễn Trãi đồng thời
39
cũng giúp con người ngày nay bồi dưỡng thêm văn hóa ứng xử đối với tự nhiên.
Các vấn đề trên cũng chính là những gì mà phê bình sinh thái đặt ra khi hướng con
người trở về với những giá trị nhân văn cao đẹp mà người xưa đã từng thực hiện.
40
Tiểu kết chương 1
Nguyễn Trãi là tác gia lớn, là cây cổ thụ của nền văn học trung đại Việt
Nam. Ông để lại rất nhiều các tác phẩm có giá trị to lớn cho hậu thế. Thơ Nôm
Quốc âm thi tập là một tập đại thành được viết bằng ngôn ngữ tiếng Việt, vừa thể
hiện hồn diệu dân tộc với những nếp cảm, nếp nghĩ về thiên nhiên đất nước vừa là
những trang thơ ghi dấu ấn về phần đời lúc ở ẩn tại Côn Sơn. Trong thơ Nôm,
Nguyễn Trãi viết rất nhiều về thế giới tự nhiên vạn vật, nhất là về cỏ cây. Cỏ cây
qua ánh nhìn của nhà thơ hiện lên với tất cả vẻ đẹp chân thực, không chỉ thể hiện
nguyên tắc thẩm mỹ của Nguyễn Trãi mà còn cho thấy được thái độ tôn trọng, hòa
hợp với tự nhiên của ông.
Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên từ lâu đã đi vào trong tiềm thức của
người xưa và được thể hiện qua những vần thơ viết về thiên nhiên. Hệ tư tưởng triết
học Nho – Phật – Đạo với những quan niệm, triết lý khuyên răn con người sống hòa
hợp, gần gũi, thống nhất với tự nhiên đã chi phối đến thế giới quan của người viết
đương thời. Con người tìm đến thiên nhiên như đối tượng để lánh trú tâm hồn, ký
thác tâm sự. Con người trung đại không chủ đích chiếm lĩnh, bóc lột tự nhiên mà
hướng đến việc tôn trọng, gắn bó với tự nhiên, sống theo quy luật, thuận theo tự
nhiên cho thấy một ý thức sinh thái đã xuất hiện từ lâu trong thái độ sống của thi
nhân xưa.
Phê bình sinh thái ra đời đã mang đến một hướng đi mới cho ngành nghiên
cứu văn học, nhất là trong giai đoạn khi thế giới tự nhiên bị tàn phá một cách
nghiêm trọng. Là một lý thuyết năng động và tích cực, phê bình sinh thái được đón
nhận ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Dù chưa có một dòng văn học sinh thái
nhưng các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã vận dụng khuynh hướng này vào phân
tích các tác phẩm văn học có tồn tại ý thức sinh thái, từ đó làm cho vấn đề nghiên
cứu được mở rộng thêm và không bị bó hẹp. Từ hướng đi này, có thể tiến hành
nghiên cứu các tác phẩm văn học trung đại và hiện đại chưa là văn học sinh thái
đúng nghĩa. Từ đó, thấy được tưởng sinh thái đã tồn tại từ rất lâu trong ý thức của
người xưa, đặc biệt là thơ thiên nhiên của Nguyễn Trãi.
41
Như vậy, việc tìm hiểu những vấn đề chung về tác gia Nguyễn Trãi, về mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên trong tư tưởng Nho – Phật – Đạo và trong thơ
ca trung đại cũng như về lý thuyết phê bình sinh thái đã góp phần định hướng việc
tiếp cận, phân tích tìm hiểu thế giới cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi qua khía
cạnh biểu hiện thẩm mỹ sinh thái của cỏ cây và mối tương giao của nhà thơ với
chúng.
42
Chương 2
THẾ GIỚI CỎ CÂY TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA THẨM MỸ SINH THÁI
Nguyễn Trãi được nhắc đến không chỉ là một người có tấm lòng luôn hướng
về đất nước, về nhân dân mà còn là một nhà thơ có tâm hồn hòa nhập với thiên
nhiên. Khoảng thời gian từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn cũng chính là lúc thấy rõ được
sự gần gũi, gắn bó của Nguyễn Trãi với thiên nhiên. Đối với từng nhánh cây, ngọn
cỏ, từng cánh hoa tàn, từng mảnh trăng muộn... ông đều nhìn chúng dưới một lăng
kính đa chiều, soi rọi từ nhiều góc độ để rồi thấy được vẻ đẹp rất riêng và khác biệt
của chúng. Trong thế giới tự nhiên, cỏ cây chính là một trong những đối tượng được
Nguyễn Trãi đặc biệt chú ý và quan tâm. Bằng cảm xúc và tâm hồn đồng điệu với
thiên nhiên tạo vật, hình ảnh cỏ cây xuất hiện trong thơ Nôm Nguyễn Trãi không
phải là một vẻ đẹp long lanh, trừu tượng mà là vẻ đẹp chân thực của chính nó, gần
gũi và gắn bó với các sinh mệnh khác trong tự nhiên. Vẻ đẹp ấy vừa thấm đượm sắc
thái tự nhiên, đa dạng mà còn hàm chứa vẻ đẹp hài hòa, thống nhất. Đó cũng chính
là những nét đẹp tự nhiên thể hiện cho khía cạnh thẩm mỹ của phê bình sinh thái.
2.1. Cỏ cây với vẻ đẹp tự nhiên, đa dạng
Tạo hóa diệu kỳ không những ban tặng sự sống cho vạn vật xung quanh mà
còn điểm tô cho chúng một vẻ đẹp riêng biệt. Mỗi mùa khi đến rồi đi bao giờ cũng
khoác một chiếc áo sắc màu, nồng thắm cho thiên thiên. Có lẽ vì thế mà thiên nhiên
nơi vùng quê Côn Sơn hay bất cứ nơi vùng quê nào khác cũng trở nên muôn màu
muôn vẻ, tràn ngập sắc hương của hoa, của trời, của sông, của núi. Theo đó, cỏ cây
trong khu vườn của Nguyễn Trãi chẳng những đẹp ở sức sống mạnh mẽ mà còn đẹp
trong sự giản dị, gần gũi. Đó là vẻ đẹp tự nhiên, ban sơ song cũng là vẻ đẹp của
chính nó. Phê bình sinh thái thừa nhận một vẻ đẹp xuất phát từ tự nhiên, không phải
là vẻ đẹp đã được nhân hóa hay mang đậm màu sắc cá nhân của con người mà là
một vẻ đẹp thuần túy, trong trẻo, hài hòa với vạn vật trong tự nhiên.
2.1.1. Vẻ đẹp khỏe khoắn, tràn đầy sức sống
Thời gian sống ở núi rừng Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã cho ra đời những vần
43
thơ hay và đặc sắc về thế giới của các loài thảo mộc. Cuộc sống sinh hoạt lao động
hằng ngày, đã khiến tác giả có dịp tiếp xúc và cảm nhận vẻ đẹp của cỏ cây bởi
chúng luôn xuất hiện quanh ông và phô bày những dáng hình khác nhau. Bằng hồn
thơ tinh tế, đầy xúc cảm của mình, ông đã đưa cỏ cây vào trong thơ Nôm một cách
bình dị và gần gũi nhất. Ở cỏ cây, người đọc thấy được một vẻ đẹp khỏe khoắn và
tràn đầy sức sống, vẻ đẹp ấy trước hết được thể hiện ở khả năng chống chọi, nỗ lực
vươn mình, dù đang trong thời tiết khắc nghiệt.
Tả cây tùng, Nguyễn Trãi không chú ý đến hình dáng hoặc màu sắc mà tập
trung miêu tả sức sống mãnh liệt, bất chấp sương gió, giá lạnh mà hiếm loài cây nào
có được:
Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông.
(Tùng, bài 1)
Quy luật của thiên nhiên xứ lạnh là vào mùa thu, cây cỏ đều biến dạng trơ
cành trụi lá, trở nên “lạ lùng” nhưng chỉ có cây tùng là không chịu trói buộc trước
quy luật ấy, vẫn cứ mãi xanh tươi trong ba tháng mùa đông “thuở ba đông” rét
buốt, Nguyễn Trãi đã làm nổi bật lên đặc trưng của riêng cây tùng khi đặt nó trong
thế so sánh giữa cái bình thường với cái phi thường để cái phi thường càng thêm nổi
bật. “Đâu phải chỉ đối lập ở cái bề ngoài, bên trơ cành bên tươi lá, bên thuận lẽ
trời bên chống quy luật. Quan trọng là đã tôn lên rất cao cốt cách siêu quần của
loài cây tùng” (Lê Trí Viễn, Đoàn Thị Thu Vân, 1994). Các cây khác mặc dù chỉ
mới là chớm thu chưa phải giá rét đã hóa thành “lạ lùng”, để rồi rơi rụng, tàn phai
nhưng hình ảnh của cây tùng “lạt thuở ba đông” lại là một tư thế chủ động, hiên
ngang mặc cho gió sương lạnh lẽo, buốt giá như sách Luận ngữ đã từng khẳng
định:“Trời rét mới biết tùng bách không điêu tàn”.
Khi miêu tả cây mai, Nguyễn Trãi thấy được ở nó vẻ đẹp tinh khôi, thanh
sạch, song lại toát lên được cốt cách rất quý:
Giữa mùa đông, trỗi thức xuân
Nam chi nở cực thanh tân.
Trên cây khác ngỡ hồn Cô Dịch,
44
Đáy nước ngờ là mặt Thái Chân.
(Thơ mai)
Nhà thơ nhìn cây mai trong mùa đông lạnh giá, không hề thấy sự héo úa, tàn
tạ mà chỉ thấy một sức sống “trỗi dậy” mãnh liệt. Khi quan sát cây mai, nhìn thấy
vẻ đẹp thanh sơ, tinh tế của nó, Nguyễn Trãi tưởng như nhìn thấy hình dáng của Cô
Dịch – thần nữ ngự trên núi, da trắng như băng tuyết, yểu điệu như xử nữ. Đó cũng
chính là cái nét duyên dáng, thanh khiết của riêng cây mai. Độc đáo hơn, vẻ đẹp của
mai không chỉ là cái hữu hình mà còn là cái vô hình, ông nhìn thấy cả bóng của hoa
mai khi chiếu xuống mặt nước mùa đông lại trở thành khuôn mặt kiều diễm của
Dương Quý Phi (hiệu Thái Chân), vợ vua Đường Minh Hoàng ở Trung Quốc.
Hình ảnh cây mai trong trời đông buốt giá không hề gợi lên sự cô đơn, lạnh
lẽo mà chỉ thấy sự thanh tao, diễm sắc, động lòng khiến bao thi nhân cũng phải say
đắm, thưởng thức:
Lại có một cành ngoài ấy lẻ
Bóng thưa ánh nước động người vay.
(Mai, bài 2)
Bóng hoa dưới mặt nước mùa đông đẹp đến nỗi khiến cho người ngắm nhìn
cũng bị lôi cuốn vào sức hút nhẹ nhàng ấy. Dù chỉ có một cành mai lẻ vươn mình
soi bóng dưới mặt nước thế nhưng hình bóng ấy lại toát lên được vẻ đẹp trong “cái
hồn” cây mai. Mai gầy guộc nên bóng in xuống cũng thưa thớt nhẹ nhàng, càng tôn
lên cốt cách thanh tao của cây mai khi đứng trong biển tuyết gió sương vẫn giữa
được tinh thần thanh cao, trong sạch.
Nếu tùng, mai đẹp ở sự cứng rắn, bền bỉ luôn vươn mình trong mùa đông
lạnh buốt thì ở cúc lại cho thấy cái vẻ đẹp của sự điềm đạm, khiêm nhường, chờ đến
mùa thu khi các loài cỏ cây khác đã bắt đầu héo úa thì mình mới kết nụ, nở hoa:
Người đua nhan sắc thuở xuân dương
Nghỉ chờ thu cực lạ dường.
(Cúc)
Cúc do đặc tính chủng loại nên chỉ khai hoa mỗi độ thu về. Theo quy luật tự
nhiên, cúc thường nở vào tiết Trùng cửu (hay trùng dương) nhằm ngày mồng chín
45
tháng chín âm lịch và vào lúc rạng đông. Không như các loài thảo mộc khác đều
sinh sôi phát triển, phô mình rực rỡ trong ba tháng mùa xuân, cúc lại an nhàn chờ
thời điểm thích hợp với mình. Ở cúc, Nguyễn Trãi thấy được một vẻ “cực lạ dường”
không giống với các loài khác. Cúc sang trọng, thơm hương, không cố bung tỏa
theo mùa xuân như các các loài khác mà chờ đợi đến thu mới nở. Đó là nét đẹp rất
riêng của cúc được nhà thơ phát hiện và viết thành những vần thơ rung động mĩ
cảm.
Nếu tùng, cúc, trúc, mai đẹp ở sự cao quý, thanh khiết, cứng cỏi không gì có
thể lay chuyển thì cây đa già lại cho thấy vẻ đẹp của sự vững chãi, bao dung với tán
lá rộng để con người có thể tránh nắng, tránh mưa:
Tìm được lâm tuyền chốn dưỡng thân
Một phen xuân tới một phen xuân.
Tuy đà chửa có tài lương đống
Bóng cả như còn rợp đến dân.
(Lão dung)
Hình ảnh cây đa già với thân to và tán lá vươn rộng thường xuất hiện trong
khung cảnh làng quê Bắc bộ Việt Nam đồng thời cũng là hình ảnh quen thuộc xuất
hiện trong thi liệu ca dao dân gian, biểu tượng cho sự chứng minh tình yêu đôi
lứa:“Cây đa trốc gốc trôi rồi, đò đưa bến khác em ngồi đợi ai”, “Cây đa rụng lá
đầy đình, bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu” hay được mượn để khuyên răn
con người sống đạo đức, hiền lành: “Ở cho phải phải phân phân, cây đa cậy thần,
thần cậy cây đa”. Cây đa ở đầu đình hay trước cổng chùa đều gợi nhớ hồn quê thân
thuộc, gắn bó. Trên nẻo đường làng quê, Nguyễn Trãi nhìn thấy cây đa luôn đứng
sừng sững, hiên ngang, mặc cho bao phong ba bão táp của tự nhiên, không xác xơ,
hoang tàn mà vẫn xanh tươi, trổ lộc. Cây đa cao to với tán lá rộng trở thành nơi con
người tránh nắng và nghỉ mát mỗi khi làm đồng mệt nhọc hay những khi có lễ hội.
Qua con mắt yêu thương, trìu mến, tác giả không chỉ nhìn thấy sức sống mãnh liệt
của cây đa già qua mỗi mùa xuân mà còn thấy vẻ đẹp của nó trong sự bao dung, che
chở mà hiếm có loại cây nào có được.
46
Các nhà thơ trung đại khi nói về thiên nhiên thường gắn thiên nhiên với con
người và gán cho nó những thuộc tính cá nhân của mình. Thiên nhiên chưa được
khám phá và nhìn nhận với những giá trị tự thân. Người xưa tìm đến thiên nhiên
như nguồn thi liệu để ngụ tình hay giáo huấn đạo đức một cách không tự giác. Vì
thế mà tùng, cúc, trúc, mai... hay một số loại cây khác được các thi nhân dùng như
phương tiện để thể hiện chí hướng, thể hiện phẩm chất, nhân cách của mình, do đó,
đôi lúc nó đã trở thành một đề tài bị công thức hóa, ước lệ hóa. Nguyễn Trãi cũng là
một nhà thơ trung đại, ông ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của lối thi pháp xưa. Mặc
dù trong thơ Nôm, khi miêu tả cỏ cây, ông vẫn mang cho nó những đặc tính của con
người, vẫn gửi gắm ở chúng những cảm xúc, những âu lo của mình nhưng ở một số
bài, hình ảnh cỏ cây lại được nhà thơ cho xuất hiện với tư cách là đối tượng thẩm
mỹ thực sự mang nét đẹp tự nhiên như chính bản thân nó.
Trong xu hướng cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả tình yêu và tâm hồn,
Nguyễn Trãi không chỉ nhận thấy sự vững chãi, rắn rỏi của các loài cây mà còn thấy
được ở chúng một sức sống căng tràn, mạnh mẽ như muốn ứa ra, trào ra để phô sắc,
thêm hương cho đời. Hình ảnh cây, hoa trong khu vườn mùa xuân xuất hiện “tốt lạ”
như được tiếp thêm sức sống, trỗi dậy mạnh mẽ và rạo rực khoe hương sắc:
Đâu đâu cũng chịu lệnh đông quân
Nào chốn nào, chẳng gió xuân.
Huống lại vườn còn hoa trúc cũ
Trỗi thức tốt lạ mười phân.
(Tích cảnh, bài 13)
Đông quân, tức thần mặt trời hay thần mùa xuân đã mang đến sự sống cho
muôn loài. Nhìn cỏ cây trong không gian mùa xuân, nhà thơ cảm nhận được sự tươi
xanh mơn mởn của trúc và các loài thực vật khác. Hình ảnh “trỗi thức tốt lạ mười
phân” cho thấy một sức sống lạ kì, sức sống ấy là sự tiếp nối cả một quá trình dài
vượt lên trên cái khô cằn, tạm thu mình của cây cành trong mùa đông để bung tỏa
đâm chồi, nảy hoa vào mùa xuân.
Hình ảnh cây chuối trong hơi thở mùa xuân dường như cũng xanh non hơn,
tươi mới hơn:
47
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, màu thâu đêm.
(Ba tiêu)
Cảm nhận được “khí dương” ấm áp trong trẻo của mùa xuân, cây chuối trong
khu vườn của nhà thơ đã được đánh thức. Động từ “bén” vừa thể hiện mức độ
nhanh nhạy của cây vừa cho thấy sự khởi đầu tốt tươi. Trong đêm xuân ngọt ngào,
cây chuối mới trổ buồng qua quan sát của nhà thơ trở nên “đầy buồng lạ”, bởi nó
được tinh kết hơi xuân của đất trời nên nhẹ nhàng tỏa hương suốt đêm – “mầu thâu
đêm”. Cây chuối giờ đây không còn là cây chuối bình thường nữa mà đã hội tụ tất
cả sức sống mùa xuân để làm nhiệm vụ sinh sôi nảy nở thiêng liêng, diệu kỳ trong
dòng sống bất tận của muôn loài.
Không chỉ cây chuối, cây dương khi được hứng rọi ánh sáng tươi mới của ba
tháng mùa xuân, cũng không ngừng nảy nở sinh lá, kết hoa:
Chiếm được thiều quang chín mươi
Dây dây hoa nở tốt hòa tươi.
Đông phong có ý bù trì nữa
Một phút xuân là một động người.
(Dương)
Những cành dương không những được nắng xuân soi chiếu mà còn được gió
đông “bù trì nữa”, khiến cho nó tươi xanh hơn và càng “động lòng” người ngắm nó
hơn. Bên cạnh đó, hình ảnh hoa đào ngày xuân qua sự quan sát của nhà thơ cũng
thắm đượm cái nét xinh xắn, nhẹ nhàng:
Một đóa đào hoa khéo tốt tươi
Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười.
(Đào hoa, bài 1)
Một đóa hoa đào tươi tắn, bung tỏa đầy sức sống trong ngày xuân đã làm lay
động tâm hồn người thưởng thức. Hoa đào có sự biến chuyển khéo léo theo nhịp
điệu của thời gian. Khi “cách xuân” chúng xuất hiện với dáng vẻ “mơn mởn”, tròn
trịa còn khi “thấy xuân” lại vui mừng, khoe sắc với sinh khí trong trẻo, thanh sạch
của đất trời đầu năm.
48
Hình ảnh hoa mẫu đơn với vẻ giàu sang, đài các cũng đã cuốn hút sự chú ý
của khách thơ như các loài thảo mộc khác:
Một thân hòa tốt lại sang
Phú quý âu chăng kém hải đường.
(Mẫu đơn hoa)
Trong sự cảm nhận của nhà thơ, vẻ đẹp của hoa mẫu đơn không chỉ thể hiện
ở sự tươi tốt mà còn ở sự sang trọng và phú quý. Chính điều này tạo nên sự đặc biệt
của nó so với các loài hoa khác và cũng khiến nó trở nên xinh tươi chẳng kém hoa
hải đường.
Trong thơ Nôm, cỏ cây được nhà thơ miêu tả không bao giờ có sự héo úa,
tàn lụi mà chỉ thấy một sự sống tràn trề, sinh sôi nảy nở qua những mầm mới,
những chồi non căng trịch. Chúng bao giờ cũng trong hình thái “tốt lại thêm” (cây
chuối), “tốt hòa tươi” (cây dương), “trỗi thức xuân” (cây mai)…, tính chất phát triển
so với trạng thái ban đầu chỉ hơn chứ không kém. Cỏ cây không chỉ được gia tăng
về sự tươi tốt mà còn được nhân lên gấp bội bởi những từ ngữ biểu cảm mạnh: “đùn
đùn” – “giương tán lục” (cây hòe), “rờn rờn bóng lục” (cây thiên tuế), “phun thức
đỏ” (cây lựu). Những vẻ đẹp kì diệu, sinh động, biến ảo theo từng nấc thời gian đòi
hỏi người quan sát phải có một tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp, một sự cảm nhận
tinh tế mới có thể nhìn thấy được. Theo đó, qua con mắt của nhà thơ, cỏ cây có sức
sống căng tràn, phồn thịnh không chỉ là kết quả tự thân của chính nó mà còn là kết
quả do tác động của ngoại vật như gió, mây, trăng…
Như vậy, bằng cái nhìn chân thật và tâm hồn yên thiên nhiên, cỏ cây được
Nguyễn Trãi phát hiện và đưa vào trong thơ mang vẻ đẹp khỏe khoắn, tràn đầy sức
sống. Ở những thảo mộc như tùng, trúc, cúc, mai, người đọc không còn thấy nét cao
sang đài các như thường được thể hiện mà chỉ thấy vẻ đẹp tươi tắn, tự nhiên như
những loài cây trong vườn, nơi gần gũi với đời sống lao động hằng ngày, với làng
quê của nhà thơ.
2.2.2. Vẻ đẹp giản dị, gần gũi
Bên cạnh vẻ đẹp khỏe khoắn, tràn đầy sức sống, cỏ cây còn được biểu hiện
qua vẻ đẹp giản dị, gần gũi. Đó là vẻ đẹp của cỏ cây, vạn vật cụ thể, giản dị đã được
thuần hóa để phục vụ đời sống con người: vật chất và tinh thần, qua những câu thơ
49
hết sức thuần phác nhưng rung động tâm tư xúc cảm nhiều thế hệ con người Việt
Nam.
Trong thơ Nôm, Nguyễn Trãi nói nhiều về những loại rau cỏ sản vật của quê
hương vốn dĩ thường xuất hiện trong bữa cơm hằng ngày của người Việt như: núc
nác, rau muống, mùng tơi, đậu, kê, khoai, dọc mùng... Cuộc sống ở ẩn tại Côn Sơn,
hằng ngày hòa mình cùng ruộng vườn quen thuộc, Nguyễn Trãi luôn gần gũi với cỏ
cây nhỏ bé ấy – những loại rau cỏ mà khi đi bất cứ nơi đâu trên mảnh đất quê hương
cũng đều có thể bắt gặp được. Và thơ Nôm – vần thơ của dân tộc trở thành phương
tiện tốt nhất để miêu tả cái phong vị quê hương đậm đà ấy:
- Tả lòng thanh vị núc nác,
Vun đất ải luống mồng tơi.
(Ngôn chí, bài 10)
- Một cày, một cuốc thú nhà quê,
Áng cúc lan chen vãi đậu kê.
(Thuật hứng, bài 3)
- Một ao niềng niễng mấy đòng đòng.
(Thuật hứng, bài 11)
- Ao quan thả gửi hai bè muống,
Đất Bụt ương nhờ một lệnh mùng.
(Thuật hứng, bài 23)
- Ao cạn vớt bèo cấy muống
Trì thanh phát cỏ ương sen
(Thuật hứng, bài 24)
- Cây rợp chồi cành chim kết tổ,
Ao quang mấu ấu, cá nên bầy.
(Ngôn chí, bài 11)
Văn học trung đại thường chuộng tính cao quý và thanh nhã. Người xưa
quan niệm rằng “văn chương” phải có sự bóng bẩy, sáng và đẹp. Tính chất này ảnh
hưởng rất lớn đến việc lựa chọn đề tài sáng tác của thi nhân xưa. Các đề tài phải
hướng đến nội dung ưu quốc ái dân, nghĩa quân thần, đạo đức hiếu trung hoặc tả
cảnh núi sông hùng vĩ hay “tùng, cúc, trúc, mai, lan” để biểu hiện chí hướng lớn
50
lao, cao cả. Văn chương chỉ dành cho tầng lớp quý tộc nên những đề tài phàm tục,
tầm thường thuộc tầng lớp bình dân sẽ không được đề cập đến. Ấy thế mà Nguyễn
Trãi lại phá vỡ những quy phạm này để đưa cả một hệ thống những cây cỏ bình dị,
quê mùa vào trong thơ Nôm với biết bao trìu mến. Với con mắt quan sát tinh tế, nhà
thơ đã thấy được những nét đẹp đậm chất thi vị của chúng. Do đó có thể nói, trong
phương diện sáng tác nghệ thuật, Nguyễn Trãi đã “không tuân thủ một cách máy
móc quan niệm mỹ học trung đại khi ông vẫn dành cho thiên nhiên dân dã một địa
vị nhất định trong địa hạt thơ ca. Ông khẳng định cái mộc mạc, bình dị là một giá
trị, góp phần tạo nên sự đa dạng trong bức tranh thẩm mỹ thơ quốc âm thế kỷ XV.”
(Phạm Thị Ngọc Hoa, 2016).
Không chỉ trong thơ chữ Nôm, mà ngay cả trong thơ chữ Hán, Nguyễn Trãi
cũng đã vựơt ra ngoài cái “phong cách cao quý” thường ràng buộc các tác giả xưa,
khi ông viết:
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.
(Mộ xuân tức sự)
(Hoa xoan, mưa nhẹ, nở đầy sân.)
(Cảm hứng ngày xuân)
Nào đã mấy nhà thơ xưa nhắc đến cây xoan bên cạnh những thứ như mai,
lan, cúc, trúc là những thứ cây, hoa quen gặp ở những bức tranh tứ bình? Thế mà
Nguyễn Trãi đã miêu tả hoa xoan với ngòi bút thật lãng mạn, tinh tế. Tuy nhiên với
thơ chữ Hán, ông vẫn bị hạn chế nhiều trong việc miêu tả hiện thực cụ thể và sinh
động của cảnh vật đất nước, của đời sống nhân dân. Sáng tác bằng ngôn ngữ dân
tộc, sự hạn chế ấy được vượt qua và ông đã có thể nói về quê hương một cách giản
dị và thắm thiết nhất.
Những cỏ cây nhỏ bé ấy xuất hiện trong thơ Nguyễn Trãi đã góp phần tạo
nên một sự cảm nhận hết sức rõ ràng và sống động về hình ảnh làng quê Việt Nam
thanh bình, êm ả với những nét đơn sơ, giản dị, thật gần gũi, quen thuộc. Điều đó,
cũng tạo nên tính dân tộc sâu sắc, nhuần nhị trong thơ Nguyễn Trãi khi miêu tả cụ
thể và sinh động vẻ đẹp dân dã, đời thường trong cuộc sống hằng ngày của chốn
làng quê Việt Nam.
51
Không chỉ miêu tả rau cỏ, sản vật trong tự nhiên, nhà thơ còn chú ý đến
những chi tiết độc đáo riêng, làm nên điểm nhấn cho vẻ đẹp của cỏ cây. Cây chuối
với những tàu lá xanh non cuộn lại như “bức tình thư” còn phong kín đợi gió xuân
đến mở:
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
(Ba tiêu)
Tàu lá chuối non trong đêm xuân êm ả chưa bung tỏa mà vẫn cuộn tròn e ấp.
Hình ảnh ấy qua con mắt thi vị của nhà thơ chợt trở thành bức thư tình của cây
chuối được tự nhiên phong kín và chờ đợi gió xuân đến để “gượng mở xem”. Động
thái “gượng” trở thành từ đắt và sáng nhất trong hai câu thơ. Nó không chỉ thể hiện
sự trân trọng của nhà thơ với cảnh vật mà còn đưa đến góc quan sát mới cho người
đọc khi liên tưởng đến tâm trạng của đôi lứa khi đang yêu. Thật là một hình ảnh đẹp
và thú vị đến diệu kỳ.
Nếu tàu chuối có vẻ ngoài non tơ, xanh mướt như lá thư tình của cô gái thanh
xuân thì cây mía với lớp vỏ ngoài màu hung được trồng trong vườn nhà đã trở thành
thứ nước giải khát tuyệt vời trong cuộc sống lao động hàng ngày của tác giả:
Viện xuân đầm ấm nắng sơ soi
Áo tế hung hung thuở mặc thôi.
Ăn nước kìa ai được thú
Lần từng đốt mới hay mùi.
(Giá)
Chỉ với bốn câu thơ, Nguyễn Trãi đã miêu tả đặc sắc hình ảnh của cây mía
vốn rất quen thuộc trong đời sống của người dân Việt Nam. Nhìn cây mía cao,
thẳng với lớp vỏ ngoài nâu, nhà thơ thấy chúng giống như những thầy cúng mặc đồ
tế màu nâu – “áo tế hung hung” trong các lễ cúng, lễ tế xưa. Trái ngược với vẻ
ngoài, cây mía trong những tháng ngày xuân lại cho ra đời thứ nước ngọt lịm, bổ
mát. Cái vị ngọt thơm thấm đậm theo từng đốt mía khiến nhà thơ cảm nhận được
thứ nước uống trong lành, thanh tao từ tự nhiên đồng thời cũng góp phần làm giải
tỏa những mệt nhọc trong công việc lao động của mọi người.
52
Cây hoè xum xuê trong mùa hè, cành lá chen nhau vươn mình che rợp mát
một góc vườn đã trở thành nơi nghỉ mát của nhà thơ trong những ngày nắng oi ả:
Có thuở ngày hè trương tán lục,
Đùn đùn bóng rợp cửa tam công.
(Hòe)
Nếu như trong mùa xuân, cây hòe với chùm bông trắng ngọt tao nên ý vị tinh
khôi, nhẹ nhàng, khiến người thưởng thức phải nao lòng thì trong mùa hạ, cây hòe
lại xuất hiện với hình ảnh tán lá vươn ra mạnh mẽ. Cụm từ “đùn đùn” diễn tả một sự
phát triển trong nội tại của cây được thôi thúc nhanh, mạnh. Hình ảnh cây hòe
không chỉ gợi lên được nét khỏe khoắn ẩn chứa sức sống tràn trề mà còn cho thấy
sự quan sát tỉ mỉ, tinh nhạy của nhà thơ đối với vạn vật trong tự nhiên.
Hay cây hoàng tinh được trồng khiêm tốn nơi một rẻo đất thừa nhưng lại cho
vị thuốc dân gian quý báu:
Ai rặng túi thầy chăng đủ thuốc
Hay vườn đã có vị trường sinh.
(Hoàng tinh)
Đây là một giống cây thuốc có củ được làm thành bột ăn rất mát, người ta
gọi là hoàng tinh vì củ của nó có màu vàng, củ nằm dưới đất do tinh khí của đất
sinh ra. Theo Đông y, cây hoàng tinh có tác dụng bổ máu và kéo dài tuổi thọ, người
ta thường lấy thân và củ để làm vị thuốc chữa bệnh hay bồi bổ cơ thể. Trong sách
thuốc của Đạo gia, hoàng tinh là vị thuốc để sống lâu. Chính vì tác dụng của cây
hoàng tinh, Nguyễn Trãi đã nhìn thấy nó như một “vị thuốc trường sinh” quý báu
trong vườn nhà, hơn hẳn mọi thứ trong túi thuốc của thầy lang.
Nếu cây hoàng tinh được Nguyễn Trãi ví như vị thuốc trường sinh thì cây
thiên tuế lại chính là vị “tiên thụ” (cây tiên) nghìn tuổi xuất hiện trong khu vườn tác
giả:
Ngày ngày đã có tiên làm bạn
Đưa thuốc tiên lai chẳng phải xin.
(Thiên tuế thụ)
53
Cây thiên tuế xanh mướt với những tán lá gai nhọn trở thành một thành viên
không thể thiếu trong thế giới cỏ cây của nhà thơ. Nhìn cây thiên tuế, Nguyễn Trãi
dường như đã có một người bạn tiên, mỗi ngày luôn đến chơi và đưa thuốc tiên cho
mình. Nhà thơ thật hài hước và dí dỏm khi miêu tả loài cây này như thế, có lẽ vì tên
gọi của nó là “thiên tuế” (nghĩa là ngàn tuổi) nên mới ví loại cây này như ông tiên
nghìn tuổi chăng?
Hình ảnh hoa nhài với hương thơm nhẹ mát trong đêm trăng mùa xuân gợi
liên tưởng về “kẻ hồng nhan” với môi son và má phấn “hây hây”:
Mài son bén phấn hây hây
Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay.
Mấy kẻ hồng nhan thời bạc phận
Hồng nhan kia chớ cậy mình thay.
(Mạt lỵ)
Không như một số loài hoa khác, hoa nhài có đặc tính nở về đêm và héo úa
vào buổi sáng. Có lẽ, chính vì điều này, mà Nguyễn Trãi đã ví nó như những người
phụ nữ đẹp ngày xưa đồng thời cũng thương cảm số mệnh “hồng nhan bạc phận”
của họ.
Hoa mộc trong sự tạo tác của thiên nhiên, không được toàn vẹn như một số
loài hoa khác. Chúng dù “kém sắc” nhưng lại được ban tặng hương thơm đặc trưng
của riêng mình:
Trời sinh vật vẫn bằng người
Nếu được thơm tho thiếu tốt tươi.
(Hoa mộc)
Và có cả cây hoa dâm bụt mọc ở bờ rào soi mình xuống ao nước với một sắc
hồng giản dị mà thanh tao:
Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vẫn nhơ chẳng bén, bụt là lòng.
(Mộc cận)
Hoa dâm bụt không chỉ điểm tô cho không gian hiện thực mà còn tạo nên vẻ
hư ảo cho không gian mặt nước. Mặt nước ao yên tĩnh như tấm gương phản chiếu
54
sắc đỏ của hoa dâm bụt khiến nó trở nên tinh khiết và rạng rỡ hơn. Từ tên gọi của
cây, nhà thơ lấy từ “bụt” để nói về ông Bụt. Ông Bụt ở đây là đức Phật. Trong kinh
Phật có nói về triết lý “tâm không” (tâm trống rỗng), khuyên con người không nên
bám trụ vào đâu cả, bởi vì tất cả sự vật trên thế gian đều không có thực tướng. Hình
ảnh hoa dâm bụt dưới nước tinh khiết không vết nhơ ấy chính là cái “tâm không” và
cũng chính là bản tính “bụt là lòng” của nó.
Cái đẹp mang nét dân dã, bình dị của cỏ cây đều là những hình ảnh quen
thuộc của quê hương, đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong toàn bộ tập thơ
viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, hình ảnh cỏ cây xuất hiện khá nhiều, nhất là
những cỏ cây đời thường trong cuộc sống lao động. Qua khảo sát 254 bài thơ Nôm
của Nguyễn Trãi, chúng tôi nhận thấy có 107 bài thơ xuất hiện hình ảnh cỏ cây, bao
gồm tùng, cúc, trúc, mai, sen, lan… và các loại cây cỏ bình dân như ổi, mía, đậu,
kê, khoai, núc nác, mồng tơi, dọc mùng, bèo, rau muống…. Cả hai loại này chúng
tôi xin tạm gọi lần lượt là nhóm cây cao quý và nhóm cây bình dị, đời thường và có
lập bảng thống kê về tần số xuất hiện của chúng như sau:
Bảng 2.1. Thống kê về tần số xuất hiện của nhóm cây cao quý
Tần số STT Tên gọi (số lần xuất hiện)
1 Trúc 36
2 Mai 32
3 Cúc 22
4 Đào 13
5 Thông 10
6 Tùng 7
7 Sen 7
8 Lan 6
9 Huệ 1
1 10 Mẫu đơn
Tổng lần xuất hiện 135
55
Bảng 2.2. Thống kê tần số xuất hiện của nhóm cây bình dị, đời thường
Tần số STT Tên gọi (số lần xuất hiện)
Cây mận 1 6
Cây hòe 2 5
Cây liễu 3 5
Cây quýt 4 3
Cây cam 5 2
Muống 6 2
Mồng tơi 7 2
Kê 8 2
Khoai 9 1
Đậu 10 1
Núc nác 11 1
Niềng niễng 12 1
Dọc mùng 13 1
Mấu ấu 14 1
Cây vầu 15 1
Bèo 16 1
Cây ổi 17 1
Cây ngô đồng 18 1
Cây quế 19 1
Cây mía 20 1
Cây dâm bụt 21 1
Cây đa già 22 1
Cây cam đường 23 1
Cây dương 24 1
Cây chuối 25 1
Hoàng tinh 26 1
56
Cây thiên tuế 27 1
Cây dâu 28 1
Cây thạch lựu 29 1
Cây quất chè 30 1
Hoa nhài 31 1
Hoa mộc 32 1
Hoa trường yên 33 1
Tổng lần xuất hiện 52
Qua việc thống kê tần số xuất hiện của hai nhóm cây này qua bảng 2.1 và
bảng 2.2, chúng tôi thấy rằng: trong số 107 bài thơ thì nhóm cây cao quý có số lần
xuất hiện nhiều hơn so với nhóm cây bình dị, đời thường. Tuy nhiên khi xét về số
lượng thì nhóm cây bình dị, đời thường lại nhiều hơn nhóm cây cao quý. Điều này
cho thấy nhóm cây đời thường này rất được ưa chuộng và được Nguyễn Trãi đưa
vào thơ với tình cảm gần gũi, thân thiết. Đồng thời, qua việc khảo sát, có thể nhận
thấy nhóm cây cao quý thường được sử dụng để biểu tượng cho phẩm chất, tính
cách con người, còn nhóm cây bình dị thì gắn với đời sống thực tế của nhà thơ lúc
lui về quê nhà vui thú điền viên. Tóm lại, qua việc khảo sát hai nhóm cây trên, dù số
lượng và tần số xuất hiện không đồng đều, nhưng lại cho thấy được một thế giới cỏ
cây đa dạng với vẻ đẹp tự nhiên, muôn màu muôn vẻ trong thơ Nôm của Ức Trai.
Cuộc sống hằng ngày gần gũi với nhân dân, cùng “cày ruộng cuốc vườn”,
“vãi đậu kê”, “ương lan”, “hái cúc”, Nguyễn Trãi dường như đã thu hết tâm hồn
mình vào những sự vật nhỏ bé đơn sơ, cùng trải nghiệm quá trình sinh trưởng của
nó. Đó là một điều tất yếu, bởi lẽ khi đã từ quan về ở ẩn, đối diện với Nguyễn Trãi
lúc này ít khi là những cảnh trí hùng vĩ, to lớn của đất nước, mà thường là những
hình ảnh quen thuộc, thân thương của xóm làng, đồng ruộng, vườn ao. Đó cũng
không phải là hình ảnh “phong, hoa, tuyết, nguyệt” hay “xuân, lan, thu, cúc” vốn đã
bị công thức hóa, ước lệ hóa mà là những hình ảnh chân thực sinh động, gần gũi với
cuộc sống nhân dân. Và thiên nhiên cũng chính vì thế mà hiện lên với vẻ bình dị,
mộc mạc nhưng rất hồn nhiên, thú vị.
57
Mặc dù trong tập thơ Nôm, Nguyễn Trãi vẫn nói về tùng, cúc, trúc, mai, vẫn
khen ngợi chúng như nhiều người đi trước thế nhưng không mấy ai như ông, đã trực
tiếp đưa những cỏ cây đời thường vào trang thơ với sự thân tình đặc biệt.
Ông đặt chúng cạnh bên nhau, hài hòa không phân biệt đẳng cấp:
- Áng cúc lan chen vãi đậu kê
(Thuật hứng, bài 3)
- Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen.
(Thuật hứng, bài 24)
Hầu như trong văn học trung đại thời bấy giờ chưa có ai làm được như
Nguyễn Trãi, mãi đến khoảng bốn trăm năm sau khi ông mất, những hình ảnh này
mới xuất hiện trong thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, và tiêu
biểu nhất là thơ ca nói về đời sống thực…Chẳng hạn như trong bài thơ Bạn đến
chơi nhà của Nguyễn Khuyến, vẻ đẹp giản dị, gần gũi của cỏ cây được tác giả đưa
vào trong thơ bằng cách nói rất tự nhiên:
Cải chửa ra hoa, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta.
Vẻ đẹp hồn nhiên, sinh động của cây cỏ đời thường vốn xa lạ với văn
chương bác học nhưng lại được hai nhà thơ đưa vào một cách rất tự nhiên, tài tình
trong những vần thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Riêng Nguyễn Trãi, trong cuộc
sống hằng ngày, đối với mỗi loại cỏ cây, ông luôn quan sát chúng bằng tấm lòng
yêu thương, từ đó thấy được hình dáng, vẻ đẹp riêng biệt của từng loại, nhất là khi
nhìn thấy chúng có mối liên hệ mật thiết, gắn bó với con người. Chính sự đồng cảm
đó đã làm nên những vần thơ cô đọng và sâu sắc về hình ảnh cỏ cây của nhà thơ.
Như vậy, dù có một số bài thơ viết về cỏ cây ẩn chứa tâm trạng của nhà thơ
nhưng cũng không thể phủ nhận có nhiều bài đã xem cỏ cây là đối tượng thẩm mỹ
thực sự. Chính điều này đã khiến thơ Nguyễn Trãi đặc biệt hơn so với thơ thiên
58
nhiên của một số nhà thơ trung đại khác và cũng đồng thời đưa thơ viết về cỏ cây
của ông gặp gỡ với khía cạnh thẩm mỹ của lý thuyết phê bình sinh thái.
2.2. Cỏ cây với vẻ đẹp tương tác, hài hòa trong một chỉnh thể thống nhất
Phê bình sinh thái đề cao chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái và lấy nó làm tư
tưởng trung tâm. Theo tư tưởng này, tất cả các loài trong tự nhiên đều có quan hệ
mật thiết, cộng sinh với nhau. Chúng gắn bó, hài hòa và bình đẳng tạo thành thể
thống nhất với nhau. Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi cũng là một cộng
đồng tự nhiên như thế.
Bằng tâm hồn đồng điệu với tạo vật muôn loài, Nguyễn Trãi đã nhìn ngắm
thiên nhiên qua tất cả các khía cạnh để rồi nhìn thấy những vẻ đẹp ẩn hiện của
chúng. Cỏ cây vừa mang vẻ đẹp tự nhiên, đa dạng song cũng vừa mang vẻ đẹp
tương tác, hài hòa trong chỉnh thể thống nhất của tự nhiên. Cỏ cây có sự hài hòa,
hợp nhất, không chỉ giữa cỏ cây với nhau mà còn hòa điệu với các loài khác trong
tự nhiên. Có thể vì thế mà thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi không phải là
một thiên nhiên đơn lẻ, cô độc, vắng bóng mà luôn có sự vận động phát triển, hòa
hợp. Đó chính là điểm đặc sắc trong thơ Nôm viết về cỏ cây của Nguyễn Trãi mà
các nhà thơ trước ông chưa có ai làm được và cũng chính là nét đặc sắc mà phê bình
sinh thái muốn hướng đến.
2.2.1. Vẻ đẹp bình đẳng, không phân biệt
Xã hội hiện đại ngày càng phát triển khiến con người ngày càng có những
ngộ nhận về những quan hệ trong tự nhiên. Con người tự cho mình là là loài có trí
tuệ nên phải ở vị trí cao hơn loài vật khác. Chính vì tư tưởng này, họ mặc sức phá
hoại thiên nhiên, bóc lột chúng đến cạn kiệt để phục vụ cho ích lợi của bản thân và
thế giới tự nhiên do đó cũng bị tước đi những gì thuộc về chính nó, những quyền lợi
vốn dĩ đã có trước con người. Nhận thấy những điều ấy, phê bình sinh thái đã đem
đến một tiếng nói cho giới tự nhiên. Lý thuyết này cho rằng trong tự nhiên không có
gì là đẹp, là xấu, xấu hay đẹp chỉ là do cách nhìn định kiến của con người. Cách
nhìn này của phê bình sinh thái đã đưa đến “một cách cảm nhận thế giới mang tính
cách tân, con người từ bỏ cái nhìn kiêu ngạo “kiểu mẫu của muôn loài” để có một
cái nhìn bình đẳng với tạo vật, coi vạn vật là một sinh thể độc lập.” (Trần Thị Ánh
59
Nguyệt, Lê Lưu Oanh, 2016). Theo cách nhìn nhìn này, phê bình sinh thái đã đưa
con người tìm về với cái nguyên thủy của vạn vật, tìm về tư tưởng “vạn vật hữu
linh” (vạn vật đều có linh hồn) mà người xưa thường lấy làm triết lý sống, là quay
lại thái độ bình đẳng với tạo vật mà con người đã đánh mất.
Ứng chiếu lý thuyết phê bình sinh thái vào trong tập thơ Nôm Nguyễn Trãi
có thể thấy tư tưởng “vạn vật hữu linh” được biểu hiện rõ nét trong cách nhìn về thế
giới tự nhiên của ông. Đối với cỏ cây, Nguyễn Trãi không chỉ nhìn thấy được vẻ
đẹp “thiên chân” của nó mà còn thấy được cái nội lực tinh thần ẩn giấu dưới hình
xác của cỏ cây. Đó là cái sinh mệnh của chúng, là vẻ đẹp toát lên từ cốt cách, tinh
thần của cỏ cây và cũng là vẻ đẹp tiềm ẩn, không được thể hiện ra bên ngoài. Chúng
có thể là hương, là chất, là những sản phẩm được hình thành từ vạn vật. Vì thế, cái
đẹp bình đẳng, không phân biệt của cỏ cây trước hết được thể hiện qua sự bình đẳng
với con người – một thành phần trong hệ thống tự nhiên. Cỏ cây cũng có linh hồn,
có sức sống như con người, là đối tượng độc lập ẩn chứa sinh mệnh mà không phải
là hình ảnh biểu tượng, tượng trưng cho con người. Đó là vẻ đẹp toát lên từ phẩm
tính mỗi loài cỏ cây và cũng đồng thuận, tương ứng với vẻ đẹp bề ngoài của chúng.
Trong con mắt nhà thơ, cây tùng, cây trúc không đơn thuần thể hiện qua sự
rắn rỏi chịu đựng mà đã đi đến một sự tinh luyện cao hơn, bền bỉ đến trăm năm,
ngàn năm để hóa thành “hổ phách”, “phục linh”, “rồng”:
Có thuốc trường sinh càng khỏe thay
Hổ phách phục linh nhìn mới biết.
(Tùng, bài 3)
Cây tùng trải qua nhiều sương giá không xác xơ, tàn lụi mà càng ngày càng
đạt đến sự bền bỉ cao hơn. Đó là tạo ra vị thuốc trường sinh giúp nó có thể chống
chọi được với những thứ khắc nghiệt của tự nhiên. Theo thời gian, cây tùng dần tích
tụ những chất tinh túy, tạo thành “hổ phách phục linh” quý giá. Tác giả nhìn cây
tùng trong sự tinh luyện đến trăm năm để tạo ra thứ tinh hoa của đất trời mà không
một giống loài nào có được. Đó chính là cái hồn của cây tùng được nhà thơ cảm
nhận.
60
Nếu cây tùng trải qua sự rèn luyện bền bỉ đã kết tạo được những tinh hoa
quý báu tặng cho đời thì cây trúc trải qua nhiều năm đã hóa thành vị “rồng trúc” lạ
mắt:
Từ thuở hóa rồng càng lạ nữa
Chúa xuân ngẫm càng huyễn thay.
(Trúc, bài 3)
Cây trúc trưởng thành với dáng đứng cao thẳng trở thành nét đẹp của sự
cương nghị, vững chắc, nhưng khi cây trúc đã già thì đầu trúc mọc cong xuống như
hình dáng con rồng. Công trình tự nhiên, diệu kỳ ấy của tạo vật thật đáng ngưỡng
mộ. Nguyễn Trãi đã mượn điển tích trúc hóa rồng trong Thần tiên truyện để nói về
quá trình tu luyện của trúc. Cây trúc sau khi đưa người học đạo Phí Trường Phòng
về nhà đã hóa thành rồng xanh bay mà bay đi mất. Như vậy, cây trúc trong sự quan
sát của nhà thơ đã “trở thành trúc tiên, với một quá trình tu luyện cao cường” (Bùi
Văn Nguyên, 1994). Nó không chỉ biểu đạt một sự vượt trội trong bản chất của trúc
mà còn cô đọng lại thành hình ảnh thi vị “trúc hóa rồng” thật ấn tượng đối với
người đọc.
Nếu cây trúc, cây tùng cùng hội tụ ở chất tinh túy, đem đến những thứ quý
giá cho đời thì cây mai lại có sự nổi bật trong cốt cách tinh thần trong mùa đông:
Càng thuở già càng cốt cách
Một phen giá, một tinh thần.
(Thơ mai)
Dường như, Nguyễn Trãi thấy được rằng: Mai càng già thì cốt cách càng
thanh tao và khi vươn mình trong tuyết sương lạnh lẽo, hình dáng mai gầy guộc
càng làm nổi bật lên tinh thần của nó. Nét đẹp thanh tĩnh, dịu dàng đã thấm nhuần
vào hồn cây mai, dù thời tiết mùa đông có thay đổi, nó vẫn giữ cốt cách như thế.
Đặc tính này của mai cũng được Nguyễn Du dùng để ví với nét đẹp trong tâm hồn
của nàng Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” (Truyện Kiều).
Thi nhân xưa thường lựa chọn tùng, cúc, trúc, mai, sen, lan làm đối tượng
thẩm mỹ trong thơ và xét chúng trong bậc những loài cây cao quý tương xứng với
phẩm chất con người. Họ thường cảm thụ thiên nhiên với tư thái của chủ thể đồng
61
thời gán cho nó những cảm xúc của mình. Trong thơ Nôm, Nguyễn Trãi cũng dùng
chúng để thể hiện phẩm chất của bản thân nhưng đồng thời lại thấy được nét đẹp ẩn
sâu trong đặc tính của những loài cây này. Người đọc khi tiếp xúc với thơ viết về cỏ
cây của ông dường như có cảm giác quan hệ chủ thể của người viết đã không còn,
cái ranh giới ấy đường như trở nên mờ nhạt, đôi khi còn có những bài thơ xem cỏ
cây như là đối tượng tác động đến con người.
Đó là hình ảnh cây chuối trong đêm xuân trổ mã sự tươi non xanh tốt với tàu
lá dài cuộn tròn như bức tình thư còn kín phong, là hoa đào xinh xắn mỉm cười khi
thấy mùa xuân, là cây dâm bụt soi mình dưới mặt ao yên tĩnh khoe sắc cho bức
tranh vườn tược, là cây mía mùa xuân cho thứ nước trong lành tự nhiên, là cây
hoàng tinh mang trong mình vị thuốc trường sinh đã trở thành “phương thuốc lành
để dưỡng mình” của nhà thơ, là cây thiên tuế như vị tiên ông nghìn tuổi ngày ngày
bầu bạn cùng con người… Và đó cũng là những vẻ đẹp khiến cho thi sĩ phải động
lòng:
- Lại có một cành ngoài lẻ ấy
Bóng thưa ánh nước động người vay.
(Mai, bài 2)
- Bút thơ đã chép hương còn bén
Ngẫm nghĩ nào ai chẳng động lòng.
(Cam đường)
- Đông phong có ý bù trì nữa
Một phút xuân là một động người.
(Dương)
- Lại có hòe hoa chen bóng lục
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
(Hạ cảnh tuyệt cú)
- Động người hoa khéo ở tinh thần
Ít bởi vì hoa ít bởi xuân.
(Đào hoa, bài 2)
62
Thế giới cỏ cây trong thơ Nôm được Nguyễn Trãi miêu tả rất đặc sắc, là cái
đối tượng để con người chiêm ngắm, thưởng thức. Trong xu hướng hòa nhập với tự
nhiên, Nguyễn Trãi không chỉ nhìn thấy ở cỏ cây tồn tại một sinh mệnh bình đẳng
với con người, mà còn thấy được sự bình đẳng, không phân biệt giữa các loài thảo
mộc với nhau.
Như đã trình bày ở trên, cao nhã là một tính chất của văn chương trung đại
Việt Nam. Thiên nhiên theo đó cũng trở thành hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ cho con
người. Tùng, cúc, trúc, mai, sen, lan trở thành biểu tượng cho phẩm chất, khí tiết
cao quý của người quân tử, còn những loại cây tầm thường, phàm tục thì không
đáng để bàn đến. Tuy nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, những cây thuộc về thế
giới phàm tục như rau muống, dọc mùng, núc nác, mồng tơi, mía, cam đường, thiên
tuế… lại được đưa vào trong thơ với tất cả niềm yêu thương, trân trọng. Ông không
chỉ cho chúng xuất hiện nhiều trong toàn bộ tập thơ mà ông còn để chúng đứng bên
cạnh những cây cao quý. Chính sự kết hợp này đã tạo nên sự song hành giữa nét
đẹp bình dân và nét đẹp bác học trong Quốc âm thi tập. Ở thời đại Nguyễn Trãi, con
người dù chưa ý thức rõ ràng về vấn đề sinh thái cũng như sự bình đẳng giữa các
yếu tố trong tự nhiên nhưng tư tưởng này đã làm cho Nguyễn Trãi đi trước thời đại
mấy trăm năm để rồi gặp gỡ với lý thuyết phê bình sinh thái hiện nay.
Như vậy, vẻ đẹp bình đẳng, không phân biệt là một trong những yếu tố cần
thiết làm nên diện mạo của đặc trưng thẩm mỹ sinh thái. Trong thế giới tự nhiên,
“không có sự phân cách đẹp – xấu, có ích – không có ích, cao – thấp… tự nhiên tồn
tại như sự đa dạng muôn màu của nó ngoài tất cả định kiến con người.” (Trần Thị
Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh, 2016). Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi cũng
xuất hiện tương tự như vậy. Chúng tồn tại một cách bình đẳng với nhau, mỗi loài
(từ con người đến động vật, thực vật) đều có sinh mệnh và giá trị của riêng mình.
Sự bình đẳng này không chỉ thể hiện một cái nhìn tiến bộ của Nguyễn Trãi mà còn
là nét đẹp trong lối ứng xử hòa hợp với tự nhiên của nhà thơ.
2.2.2. Vẻ đẹp thân thiện, hòa hợp
Góp phần vào vẻ đẹp bình đẳng, không phân biệt là vẻ đẹp thân thiện, hòa
hợp giữa cỏ cây trong tự nhiên. Phê bình sinh thái đề cao cái đẹp hòa hợp, thống
63
nhất giữa các loài trong tự nhiên. Để tạo thành một chỉnh thể sinh thái, các thành
viên trong cộng đồng tự nhiên đòi hỏi phải có mối liên hệ mật thiết, tương quan và
hỗ trợ lẫn nhau. Thế giới tự nhiên bao gồm con người, sinh vật và môi trường. Theo
tổ hợp ấy, phê bình sinh thái “xem tự nhiên làm nên hệ thống sinh thái là một thể
sinh mệnh chung với vẻ đẹp, sự ổn định, hoàn chỉnh; Sự hoàn chỉnh, ổn định và đẹp
đẽ của chỉnh thể sinh thái được xem là cái thiện cao nhất.” (Nguyễn Thị Tịnh Thy,
2017). Sự hài hòa, gắn bó, cộng sinh giữa các thành viên trong thế giới tự nhiên
chính là những gì mà phê bình sinh thái nỗ lực xây dựng.
Khảo sát toàn bộ thơ Nôm Nguyễn Trãi, người đọc không chỉ thấy được vẻ
đẹp bình đẳng của cỏ cây mà còn dễ dàng bắt gặp mối quan hệ thân thiện hài hòa
của chúng ở bất cứ đâu. Thế giới tự nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là một thế
giới không tách rời mà có sự đồng điệu, tác động qua lại lẫn nhau. Theo đó, hình
ảnh cỏ cây cũng được nhìn nhận mang vẻ đẹp hài hòa, thân thiện với các sinh thể
trong tự nhiên như con người, loài vật, gió, mây, trăng, nước, núi. Vẻ đẹp ấy trước
nhất được thể hiện trong sự hòa hợp, gắn bó với con người.
Trong quan hệ với con người, cỏ cây đã trở thành bạn bè thân thiết và luôn
xuất hiện trong cuộc sống ẩn dật của nhà thơ. Trúc, mai, cúc, thông xuất hiện nhiều
trong lời thơ của Nguyễn Trãi với một sự tin yêu và trân trọng:
- Trúc mai bạn cũ họp nhau quen
Cửa mận tường đào chân ngại chen.
(Thuật hứng, bài 1)
- Áng cúc thông quen vầy bậu bạn
Cửa quyền quý ngại lượm chân tay.
(Tự thán, bài 5)
Với thiên nhiên tạo vật, Nguyễn Trãi cảm nghiệm sâu sắc sự sống của muôn
loài. Thời gian sống ẩn dật tại núi rừng Côn Sơn cũng chính là lúc ông cho ra đời
những vần thơ hay nhất về thiên nhiên. Không chỉ là đối tượng thẩm mỹ, trúc, mai,
cúc, thông đã trở thành những người bạn chí cốt luôn ở bên tác giả. Nhà thơ thường
gọi chúng một cách thân yêu là “bạn cũ” và chỉ quen “vầy bầu bạn” với chúng. Cỏ
cây lúc này đối với Nguyễn Trãi dường như được nâng lên thành một ý nghĩa cao
hơn. Chúng đại diện cho một không gian thanh sạch, trong trẻo nơi Ức Trai dưỡng
64
mình, cũng đồng thời đối lập với không gian bên ngoài “tường đào ngõ mận”, “cửa
quyền quý” nơi xã hội đầy rẫy những dối gian, bon chen, lừa lọc.
Đôi khi trong cách nói hài hước của Nguyễn Trãi, trúc, thông đã trở thành
những người bạn thơ của nhà sư trên núi:
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy
Năng mỗ sơn tăng làm bạn ngâm.
(Ngôn chí, bài 4)
Đứng trong không gian của núi rừng, nhà thơ như trở về cái chân tâm tĩnh
tại, rũ bỏ hết những điều tục ở cõi trần để hòa mình vào cõi tự nhiên thanh sạch,
trong trẻo. Trúc thông là những người bạn cùng tu hành và cùng ngâm thơ với tác
giả.
Không chỉ thế, cỏ cây nhiều khi đã trở thành người bạn tri âm của những kẻ
“dật dân” và người quân tử:
- Rủ vượn hạc xin phương giải tục
Quyến mai trúc kết bạn tri âm.
(Tự thuật, bài 8)
- Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử
Viên hạc đà quen bạn dật dân.
(Thuật hứng, bài 15)
Nhà thơ kêu gọi vượn và chim hạc cùng mình đi tìm phương thuốc giải tục
và rủ rê mai, trúc làm bạn tri âm với mình. Mặc dù chỉ là cách nói dí dỏm nhưng đủ
để cho thấy với Ức Trai, chim, thú, cây, hoa không khác những con người. Chúng
có tâm hồn, tình cảm, xứng đáng được trân trọng, yêu thương.
Chính nhờ mở rộng tâm hồn để đón nhận và lắng nghe tiếng của thiên nhiên
nên nhà thơ mới đồng cảm được với người – bạn – thiên – nhiên ấy và cảm nhận
được sự đáp trả tình cảm nồng hậu, ấm áp, niềm hạnh phúc mà không phải ai cũng
có được:
Khách đến chim mừng hoa xẩy động
Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về.
(Thuật hứng, bài 3)
65
Với cái nhìn đặc biệt – xem cỏ cây, vạn vật đều là những sinh linh, không
phải vật vô tri vô giác, thơ Ức Trai mở ra cho người đọc một thế giới mới lạ, thú vị
mà ở đó cây cỏ, chim muông, đất, nước, gió, trăng cùng với con người đều có sự
tương giao, tương tác, cộng sinh, hài hòa trong không gian vũ trụ và thời gian bốn
mùa luân lưu không ngừng như một bản đại hợp xướng diệu kỳ.
Nếu cỏ cây là người bạn tâm giao, thân thiết với nhà thơ thì cỏ cây trong mối
quan hệ với các sinh thể khác lại có sự gắn bó, che chở và nâng đỡ cho nhau. Chúng
luôn quyện hòa, quấn quýt lẫn nhau tạo thành mối quan hệ tích cực, phát triển:
- Chè tiên nước ghín bầu in nguyệt
Mai rụng hoa đeo bóng cách song.
(Thuật hứng, bài 6)
- Đường hoa vướng vất trúc luồn.
(…) Cây rợp tán che am mát
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn.
(Ngôn chí, bài 20)
Trăng in bóng làm đẹp thêm cho bầu nước, hoa mai rụng nhưng vẫn còn
quyến luyến cành, con đường làng nở đầy hoa dại ngày xuân như nghịch ngợm lùa
quanh co qua khóm trúc, cây cổ thụ xum xuê hào phóng vươn mình che mát cho
mái nhà tranh, trăng xuất hiện tròn đầy trên mặt hồ làm tăng thêm vẻ trong trẻo, hữu
tình cho cảnh vật… Tất cả vẻ đẹp hài hòa, thi vị thiên nhiên ban tặng cho con người
ấy chỉ có thể được cảm nhận bởi những cảm quan tinh tế và một tâm hồn biết lắng
nghe.
Quan hệ cộng sinh, tương tác, tích cực giữa cỏ cây và các sinh thể khác để
tạo nên mạch sống sinh sôi, nảy nở không ngừng được Ức Trai thể hiện một cách tự
nhiên, nhuần nhị:
Cây rợp chồi cành chim kết tổ
Ao quang mấu ấu cá nên bầy.
(Ngôn chí, bài 10)
Nếu tán cây xum xuê trở thành nơi trú ẩn của muôn chim, thì ao thưa thớt
“mấu ấu” (rễ củ ấu) cá sẽ dễ dàng sinh trưởng. Mối quan hệ cộng sinh mang theo
66
nét thân thiện, hòa hợp là những gì diễn ra trước mắt nhà thơ, trở thành quy luật tự
nhiên trong cuộc sống hằng ngày.
Tuy nhiên, cỏ cây dù có sự hòa hợp, gần gũi với các sinh thể khác nhưng
chúng vẫn giữ được cái hương sắc riêng của mình, đồng điệu những không đồng
chất:
Đêm có mây nào quyến nguyệt
Ngày tuy gió chẳng bay hương.
(Lão mai)
Cây mai già trong tuyết sương tuy gầy guộc, mỏng manh nhưng lại tỏa
hương thơm mát cả một góc trời. Gió làm cho hoa rung rinh nhưng lại chẳng thể
làm tan đi hết cái sắc hương tự nhiên, ngọt ngào mà đằm thắm của mai. Thật là một
cái đẹp thanh tao, thoát tục, khiến khách thơ không khỏi động lòng:
Bóng thưa ánh nước động người vay
Lịm đưa hương, một nguyệt hay.
(Thơ mai)
Nếu cây mai già gợi lên nét đẹp thân thiện, hòa mình vào không gian của đất
trời thì một cây mai khác trong khu vườn nhà thơ lại đẹp ở sự dịu dàng và kín đáo.
Hoa mai đã “lịm” đưa hương một cách nhẹ nhàng, âm thầm không một sinh thể nào
biết ngoài ánh trăng trên cao. Cái đẹp ưu nhã, hiền hòa giữa mai và trăng gần như
đã trở thành cái đẹp tâm giao, sâu sắc giữa muôn loài với nhau.
Và trong xu hướng gắn kết, hòa hợp, các sinh thể trong tự nhiên dường như
đạt đến trạng thái cao nhất, khi con người, chim chóc, lá hoa, trăng nước cùng hòa
chung một nhịp:
Khách đến chim mừng hoa xẩy động
Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về.
(Thuật hứng, bài 3)
Chim mừng hót líu lo, hoa đong đưa trong gió như chào mừng người khách
thân quen của núi rừng. Trăng cũng quyến luyến người nên theo vào thùng nước để
khách gánh về. Một bầu sinh quyển hài hòa tuyệt diệu như cảnh tiên giữa cõi trần
67
mà chỉ người khách thơ có tấm lòng rộng mở và lắng nghe bằng mọi giác quan ấy
mới có thể đón nhận và tận hưởng.
Bằng trí tưởng tượng phong phú, Ức Trai nhìn đâu cũng thấy bóng dáng của
thiên nhiên sinh động và dành cho con người những tình cảm nồng hậu, ấm áp. Thật
độc đáo là hình ảnh thuyền ngoài bãi như một bầy tằm chen nhau lúc nhúc và xóm
nhà dân trông xa như những đám hàu biển sắp xếp so le:“Tằm ôm lúc nhúc thuyền
đầu bãi/ Hàu chất so le khóm cuối làng.” (Ngôn chí, bài 8). Chim, núi, mây, trăng,
cò, hạc đều là láng giềng, bè bạn, anh em, con cái: “Núi láng giềng, chim bầu bạn/
Mây khách khứa, nguyệt anh tam.” (Thuật hứng, bài 19), “Lộ nằm, hạc lẩn nên
bầu bạn/ Ủ ấp cùng ta làm cái con.” (Ngôn chí, bài 20).
Sự hòa hợp, gắn bó mật thiết này đã trở thành nhân tố thúc đẩy sự vận động
và phát triển của thế giới cỏ cây, khiến chúng trở nên tươi đẹp và có ý nghĩa hơn.
Đó là vẻ đẹp “tốt hòa tươi” – “dây dây hoa nở” của cây dương khi được nắng mùa
xuân chiếu rọi, là vẻ “tốt lại thêm” của cây chuối trong đêm tự tình với gió xuân, là
sự gia tăng về sắc xanh của cây thiên tuế “Cây lục rờn rờn bóng lục in” trong khu
vườn nhà của tác giả, là vẻ sinh sôi mạnh mẽ “đùn đùn” – “trương tán lục” của cây
hòe trong chiều hè oi ả, nóng bức…Tất cả những nét đẹp ấy đều thể hiện cho cho
một sức căng tràn và không ngừng phát triển. Đó chính là cái mầm sống của tự
nhiên được nuôi dưỡng chính trong sự hòa hợp, thân thiện giữa các sinh thể với
nhau.
Như vậy, dù ở thơ chữ Hán hay thơ chữ Nôm, “thiên nhiên đều được miêu tả
trong mối quan hệ gắn bó, tích cực, che chở cho nhau” (Phạm Thị Ngọc Hoa,
2012). Đó là mối quan hệ cộng sinh, tích cực, dìu dắt nhau phát triển của các sinh
mệnh trong cộng đồng tự nhiên. Cỏ cây qua ánh nhìn tinh tế và cảm quan nhạy bén
của nhà thơ, dường như trở nên sinh động và đầy mĩ cảm hơn. Và hơn hết, vẻ đẹp
thân thiện, hài hòa trong thơ Nôm Nguyễn Trãi đã khai mở chiều hướng cho phê
bình sinh thái trong việc nhận định tầm quan trọng về mối quan hệ giữa các sinh thể
trong tự nhiên, nhất là trong quan hệ giữa con người và tự nhiên.
68
Tiểu kết chương 2
Mỗi một sự vật trong tự nhiên bao giờ cũng có một vẻ đẹp chân thật. Tạo hóa
ban tặng sự sống cho muôn loài nhưng cũng tạo hình dáng riêng biệt cho chúng.
Thế giới cỏ cây qua ngòi bút của Nguyễn Trãi hiện lên với tất cả vẻ đẹp thiên chân
nhưng cũng không kém phần đa dạng. Vẻ đẹp ấy không chỉ thể hiện ở nét khỏe
khoắn, tràn đầy sức sống mà còn giản dị và gần gũi. Qua việc khắc họa vẻ đẹp tự
nhiên, đa dạng, Nguyễn Trãi không chỉ góp phần đưa hình ảnh cây cỏ trở thành đối
tượng thẩm mỹ thực sự, mà còn đem lại cho chúng vị trí xứng đáng trong nền văn
học cổ điển.
Theo thẩm mỹ sinh thái, ngoài vẻ đẹp tự nhiên, đa dạng, thì vẻ đẹp tương tác,
hài hòa trong một chỉnh thể cũng là một khía cạnh quan trọng. Thế giới tự nhiên bao
gồm nhiều thành viên, mà mỗi thành viên bao giờ cũng có mối liên hệ mật thiết,
gắn bó và cộng cảm với nhau. Cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi cũng là một bộ
phận của thế giới tự nhiên nên chúng cũng có sự tương giao mầu nhiệm với các sinh
mệnh khác. Sự hòa hợp này trước hết thể hiện ở vẻ đẹp bình đẳng, không phân biệt
giữa cao sang và hèn mọn. Trong sự vận động và phát triển, cỏ cây với con người
và các sinh thể khác cùng tồn tại trong thế giới tự nhiên. Do đó, thiên nhiên trong
thơ Nguyễn Trãi bao giờ cũng được miêu tả trong mối quan hệ cộng sinh, che chở,
nâng đỡ nhau mà không phải là một thiên nhiên đơn lẻ, tàn lụi, vô cảm, héo úa.
Chính cái đẹp hài hòa trong chỉnh thể thống nhất đã trở thành cái đẹp vĩnh cửu,
trường tồn trong thơ Nguyễn Trãi và cũng góp phần định hướng mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên ngày nay.
Như vậy, vẻ đẹp tự nhiên và vẻ đẹp hài hòa, thống nhất đã trở thành hai nội
dung quan trọng làm nên đặc trưng thẩm mỹ của phê bình sinh thái. Khi xã hội ngày
càng phát triển, con người dần đánh mất vẻ đẹp tự nhiên, quay lưng với tự nhiên thì
văn chương trở về với niềm yêu cây cỏ đã trở thành hồi chuông thức tỉnh con người
về ý thức sinh thái, tinh thần sinh thái. Quay ngược về văn chương trung đại của thi
nhân xưa, nhất là trong thơ văn Nguyễn Trãi, người đọc nhận thấy sự trùng hợp bởi
việc miêu tả thế giới tự nhiên của nhà thơ rất giống với tinh thần của phê bình sinh
thái hiện đại. Dù là một nhà thơ trung đại điển hình, thơ viết về thiên nhiên của ông
69
cũng thấm đầy tâm sự ưu hoài thời thế như bao nhà Nho khác, thế nhưng đã có
không ít bài thiên nhiên của ông hiện ra với tư cách là đối tượng thẩm mỹ thực sự.
Việc quan tâm đặc biệt đến thế giới cỏ cây chính là nét tiêu biểu cho cách nhìn tiến
bộ của nhà thơ so với thời đại. Theo đó, với cái nhìn của phê bình sinh thái, cỏ cây
cùng với các sinh thế khác trong tự nhiên cần thiết phải có mối tương giao, hòa hợp
để tạo thành một thể thống nhất cùng phát triển.
70
Chương 3
MỐI TƯƠNG GIAO GIỮA THẾ GIỚI CỎ CÂY TRONG THƠ
NÔM NGUYỄN TRÃI VỚI CHỦ THỂ TRỮ TÌNH
TỪ GÓC NHÌN SINH THÁI
Thế giới tự nhiên không chỉ là nguồn mạch nuôi dưỡng sự sống của muôn
loài mà còn là nơi lánh trú của biết bao nhiêu thành viên trong chỉnh thể sinh thái.
Con người, cỏ cây và các loài khác đã trở thành những tổ hợp có mối liên hệ mật
thiết và gắn kết với nhau. Đó là sự hòa điệu cùng hướng về cái thống nhất, hài hòa
trong chỉnh thể sinh thái. Phê bình sinh thái coi trọng mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên với mục đích cuối cùng là tạo dựng một giá trị nhân văn mới “không
tách rời tự nhiên và văn hóa, nối lại mạch sống ngàn đời của con người và tự nhiên,
coi con người là một phần cộng sinh của tạo hóa” và đặt ra nhiệm vụ trọng tâm là
“qua văn học thể hiện thái độ của mình về văn hóa ứng xử giữa con người với tự
nhiên.” (Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh, 2016).
Phê bình sinh thái tìm về văn hóa phương Đông để thấy được tâm thức hòa
hợp với tự nhiên của người xưa và phần nào giúp cho con người ngày nay thu lại
những cách ứng xử thiếu lý trí, không tôn trọng tự nhiên. Quay trở lại với niềm yêu
thương cây cỏ của Nguyễn Trãi, người đọc không chỉ thấy được sức hút về vẻ đẹp
tự nhiên của cỏ cây mà còn thấy được mối tương giao sâu đậm giữa chúng với nhà
thơ. Mối tương giao này được thể hiện sâu sắc qua hai phương diện: cỏ cây trong
thái độ ứng xử với tự nhiên và cỏ cây là “quê nhà” để trở về.
3.1. Thế giới cỏ cây trong thái độ ứng xử với tự nhiên
Nền văn minh kĩ trị trong xã hội hiện đại đã khiến con người có những hành
động tàn phá, bóc lột tự nhiên làm cho nguy cơ sinh thái ngày càng tăng cao. Đứng
trước vấn nạn đó, phê bình sinh thái với tư cách là “người bảo vệ” đã cất lên tiếng
nói phê phán sâu sắc về hành động hủy hoại tự nhiên đồng thời đề xuất một cảm
quan đạo đức sinh thái cho con người hiện đại. Cảm quan này biểu hiện cụ thể nhất
qua lối ứng xử tôn trọng thiên nhiên tạo vật của con người, bởi nếu xét trong mối
tương giao giữa con người với các thành viên khác trong tự nhiên thì “sự tồn tại
71
của con người dựa vào sự hài hòa giữa các sinh mệnh khác và toàn thế giới, bất cứ
sinh mệnh nào cũng đều có giá trị tồn tại bình đẳng nhưng chỉ có con người mới có
thể gánh vác trách nhiệm đạo đức tôn trọng sinh mệnh.” (Nguyễn Thị Tịnh Thy,
2017).
Nhìn vào thế giới cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, người đọc dễ dàng bắt
gặp được mối quan hệ thân thiện, hòa hợp với tự nhiên trong lối sống thường ngày
của ông. Nổi bật lên trên những vần thơ cỏ cây là hồn điệu về cuộc sống giản dị,
thanh nhàn, hòa mình vào vạn vật của Nguyễn Trãi đồng thời cũng cho thấy một
tình cảm yêu thương, trìu mến, trân trọng thiên nhiên của nhà thơ.
3.1.1. Cách sống giản dị, thanh nhàn, hòa mình vào vạn vật
Khoảng thời gian từ quan về ở ẩn, Nguyễn Trãi dường như đã buông bỏ bớt
những gánh nặng về “phận vị” của mình với xã hội thời bấy giờ để hòa mình vào
đời sống lao động, sinh hoạt của người dân thôn quê. Trải dài toàn bộ tập thơ Quốc
âm đa số là những cảnh trí sinh hoạt hằng ngày của tác giả, được miêu tả sống động
và rõ nét qua những vần thơ viết về thiên nhiên. Ông thích nói đến trăng, suối, gió,
mây đến các loài vật…, nhưng với cỏ cây lại có phần thiên vị hơn cả. Cỏ cây được
nhà thơ ưu ái nên xuất hiện rất nhiều trong thơ và chiếm số lượng đông đảo so với
các thành viên khác trong tự nhiên. Việc miêu tả cỏ cây đối với Nguyễn Trãi không
phải là biểu hiện của hành động “chán đời mới quay ra yêu cỏ cây, sông núi” mà
chính là thể hiện cách sống thanh nhàn, hòa mình vào vạn vật của nhà thơ. Khía
cạnh này biểu hiện trước hết qua tinh thần lạc quan, yêu đời yêu cuộc sống của Ức
Trai.
Trong cuộc sống, sinh hoạt tại vùng núi Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã trở thành
một người nông dân thực thụ; người đọc không còn nhìn thấy hình ảnh của một vị
quan đầu triều cương nghị, “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn người” mà chỉ thấy hình
ảnh của một “lão nông tri điền” hiền hòa, thân thiện trong cuộc sống chân quê hồn
hậu. Sống trong cảnh nghèo khó nhưng nhà thơ không lấy đó làm buồn chán, thất
vọng mà lại vui với cái thi vị của cảnh nghèo, sống “an bần lạc đạo” giữa chốn thiên
nhiên tươi đẹp. Nơi ông sống là một “con am” thanh tịnh giữa thiên nhiên vạn vật.
72
Trúc trở thành không gian sống Ức Trai, đối lập với thế giới đầy thị phi ngoài
xã hội:
Am trúc hiên mai ngày tháng qua
Thị phi nào đến cõi yên hà.
(Ngôn chí, bài 3)
Nhà thơ nhắc nhiều đến trúc, từ chất liệu làm nhà cho đến cảnh trí quanh
nhà đều tràn ngập hình ảnh của trúc:
- Vầu làm chèo, trúc làm nhà
(Trần tình, bài 3)
- Trúc rợp hiên mai quét tục trần
(Ngôn chí, bài 11)
- Giậu thưa thưa hai khóm trúc
(Tức sự, bài 4)
Trong số các loài cây, có thể nói trúc là người bạn thân thiết của nhà thơ.
Trúc yên tĩnh, thanh khiết cùng bầu bạn, vui thú nhàn tản với người trong cảnh sinh
hoạt thường ngày. Không chỉ nơi ở đơn sơ, sinh kế thường ngày của nhà thơ cũng
rất đạm bạc:
- Bữa ăn nào có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là.
(Ngôn chí, bài 3)
- Ngày tháng kê khoai những sản hằng
(Mạn thuật, bài 5)
- Một ao niềng niềng mấy đòng đòng.
(Thuật hứng, bài 11)
Bữa ăn của Nguyễn Trãi có nguyên liệu từ cuộc sống dân dã, là những thức
ăn quê kiểng trong dân gian nuôi sống đại bộ phận người dân nước Việt. Các món
ăn đạm bạc với cơm trắng và dưa muối hay kê khoai, niềng niễng, đòng đòng không
làm mất đi tinh thần lạc quan, yêu đời của nhà thơ. Không chỉ thanh bần trong món
ăn mà nhà thơ còn rất giản dị trong cách phục sức. Đó không phải lụa là gấm vóc
mà chỉ là “áo bô, hài cỏ” hay “hài gai, khăn cóc”:
- Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh
73
Áo bô quen cật vận xềnh xoàng.
(Tức sự, bài 4)
- Miệt bở hài gai khăn cóc
Xềnh xoàng làm mỗ đứa thôn dân.
(Mạn thuật, bài 1)
Ông lão nông Nguyễn Trãi xuất hiện với cách ăn mặc “xềnh xoàng” với khăn
lốm đốm bạc như da cóc – “khăn cóc” và đôi giày đi được bện bằng sợi gai, nhưng
lại cho thấy một thái độ sống nhàn nhã, thảnh thơi không bị trói buộc bởi đời sống
vật chất tầm thường. Nhà thơ xuất hiện như một nông dân thôn quê chất phác với
khăn cóc đội đầu vẫn vui vẻ trong đời sống khó nghèo. Cái tư thế “đủng đỉnh” khi
mang hài cỏ của nhà thơ cho thấy một phong thái ung dung, tự do tự tại, những
bước chân ấy không hề vội vã, câu thúc bởi thời gian mà thong thả để ngao du,
thưởng ngoạn thiên nhiên và cuộc sống xung quanh.
Không chỉ “an bần lạc đạo”, Nguyễn Trãi còn vui với công việc lao động
hằng ngày. Cuộc sống tự cung tự cấp không làm cho ông mệt mỏi mà lại vui vẻ,
hạnh phúc trong việc tạo ra của cải vật chất:
Ao quan gửi thả hai bè muống
Đất bụt ương nhờ một lảnh mùng.
(Thuật hứng, bài 23)
Nguồn sống của Nguyễn Trãi tuy ít ỏi: “Vườn còn thông trúc, đáng năm
mẫu” (Mạn thuật, bài 2) đôi khi, còn phải mượn ao công của làng để trồng rau
muống và mượn đất nhà chùa để trồng dọc mùng nhưng đối với Ức Trai, cuộc sống
vẫn không kém phần thi vị:
Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen.
(Thuật hứng, bài 24)
Công việc làm nông được nhà thơ gói gọn trong những vần thơ nhẹ nhàng,
vần điệu nhưng cũng cho thấy được tính chất nặng nhọc của công việc: “vớt bèo cấy
muống”, “phát cỏ”, “ương sen”. Những công việc lao động mệt nhọc đòi hỏi phải
74
có sức lực khỏe mạnh và sự cần cù chịu khó, nhưng nhà thơ lại gọi đó là “thú nhà
quê”:
Một cày một cuốc thú nhà quê
Áng cúc lan chen vãi đậu kê.
(Thuật hứng, bài 3)
Là người luôn biết tìm niềm vui sống, Nguyễn Trãi thấy được ý nghĩa những
giọt mồ hôi của việc cuốc cày và cả sự thi vị của việc vãi hạt giống đậu kê xen lẫn
cùng những khóm hoa lan, hoa cúc. Có cả thực phẩm bồi bổ cơ thể lẫn hoa thơm bồi
bổ tinh thần. Ai bảo cuộc sống thôn quê là tầm thường và tẻ nhạt? Cuộc sống thanh
bần, vất vả trong đời sống hằng ngày không làm cho tâm hồn Nguyễn Trãi trở nên
khô cằn, mà lại khiến ông phát hiện thêm những vẻ đẹp giản dị, chân thực của thế
giới tự nhiên. Sau Nguyễn Trãi, cái thú vui lao động thôn quê này lại một lần nữa
xuất hiện trong thơ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
(Nhàn)
Không chỉ xem việc cày cuốc lao động là thú nhà quê, Nguyễn Trãi còn rất
tự hào về sự giàu có của nơi “quê cũ” Côn Sơn. Cuộc sống dân dã của Ức Trai
không thiếu thứ gì. Đó đều là những của cải do thiên nhiên ban tặng và được bàn
tay con người góp công chăm chút:
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
(Mạn thuật, bài 13)
Đôi khi, ông còn nói vui về cuộc sống đạm bạc nơi quê nhà của mình cũng
cao sang không kém nhà quan đại thần với nô bộc – người hầu là vô số hàng cam,
rặng quýt trong vườn nhà:
Nô bộc ắt còn hai rặng quýt.
(Mạn thuật, bài 2)
Nguyễn Trãi nhận thức cuộc sống bằng trái tim của một nghệ sĩ lớn. Trong
khung cảnh rộn rã của mùa hè, trái tim ấy lắng nghe những thanh âm hết sức gần
75
gũi của cuộc sống đời thường. Với niềm yêu đời tha thiết, Nguyễn Trãi đã viết lên
những lời thơ tươi tắn, tràn đầy màu sắc, hương vị, âm thanh:
Rỗi hóng mát, thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
(Bảo kính cảnh giới, bài 43)
Sống trong cuộc đời đầy rẫy bon chen, danh lợi, Ức Trai càng ham muốn biết
bao sự thanh nhàn, tự do. Ông yêu thích cảnh thiên nhiên vừa tươi đẹp, hữu tình vừa
trong trẻo, thanh tao, nơi ấy tâm hồn nhà thơ được buông thả, hòa nhập trọn vẹn với
tạo vật để chạm đến hạnh phúc đích thực của đời người.
Trong hình ảnh một ông già quê áo vải có phảng phất đâu đó dáng vẻ của
một người nghệ sĩ:
Đạp áng mây, ôm bó củi
Ngồi bên suối, gác cần câu.
(Trần tình, bài 5)
Tuy nghèo về vật chất nhưng con người ấy lại rất giàu có về tâm hồn. Kho
nhà ông không để dự trữ lương thực, con thuyền không dùng để chở của cải. Cái
kho ấy, con thuyền ấy là một tâm hồn đang mở rộng cửa cho trăng, cho khói, ráng
chứa đựng mà tất cả đều ngồn ngộn với khối lượng nhiều, trọng lượng nặng đến
“đầy qua nóc”, “nặng vạy then”:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
(Thuật hứng, bài 24)
Cách cảm nhận và sự liên tưởng thật thú vị biết bao! Thiên nhiên là kho báu
trời cho tận hưởng không bao giờ hết. Có mấy ai giàu như Ức Trai chăng? Đôi khi
nhà thơ lại tự họa chân dung mình một cách hóm hỉnh, vượt ngoài mọi khuôn khổ,
tự do tự tại, cùng với sự phụ họa, đồng tình của những người bạn cỏ cây:
76
Ngõ tênh hênh nằm cửa trúc
Say lểu thểu đứng đường thông.
(Thuật hứng, bài 15)
Cuộc sống tuy đơn sơ, đạm bạc về vật chất nhưng không gò ép được tâm hồn
nhà thơ. Ông luôn hướng về cuộc sống thanh nhàn, lánh tục cùng thiên nhiên với
những thú vui như: uống trà, ngâm thơ, ủ rượu, ngắm hoa, đọc sách… đồng thời
cảm thấy hạnh phúc khi được làm những điều ấy:
Gội tục trà thường pha nước tuyết
(Ngôn chí, bài 1)
Đối với người xưa, việc thưởng trà là một thú vui tinh thần không thể thiếu
trong cuộc sống hằng ngày. Nguyễn Trãi cũng thế, ông thường uống trà được pha
với nước lấy từ sương sớm nhằm gội hết đi những cái tục của thế giới ngoài kia, để
cho lòng trong lắng thanh cao. Nhấp ngụm trà thơm hay uống chén rượu ngon
thường đi đôi với ngắm trăng, xem hoa. Hãy xem nhà thơ thưởng thức thiên nhiên
bẳng cả tấm lòng nâng niu, trân trọng:
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa bợ cây.
(Ngôn chí, bài 10)
Hớp ánh trăng trong chén rượu để cảm nhận trăng hòa nhập vào cả tâm hồn
mình. Bợ cây nhẹ nhàng để xem hoa cho hoa khỏi tổn thương. Còn sự yêu thương,
hòa hợp nào hơn thế? Bởi vậy, người bạn thiên nhiên đã đem tình đáp lại:
Hái cúc ương lan hương bén áo
Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn.
(Thuật hứng, bài 15)
Hương hoa bén vào áo của nhà thơ để lưu mãi mùi thơm. Tuyết thấm vào
khăn đội đầu như quyến luyến người tri kỷ. Bởi người hữu tình nên cây cảnh cũng
hữu tình. Thật ý vị và hạnh phúc biết bao trong sự đồng điệu đó.
Như vậy, thông qua cách sống giản dị, thanh nhàn, hòa mình vào vạn vật, có
thể thấy một tâm hồn phong phú, một tấm lòng “Cốt lãnh hồn thanh chăng khứng
hóa” (Thuật hứng, bài 9) của Nguyễn Trãi. Với lối sống hòa nhập với tự nhiên, mối
77
quan hệ giữa tác giả và cỏ cây cũng được nâng lên. Thiên nhiên xuất hiện trong thơ
Ức Trai không chỉ nói lên cách sống giản dị, thanh nhàn mà sâu sắc hơn, còn biểu
thị cho nhân cách thanh cao, trong sáng của nhà thơ. Cuộc sống hài hòa với cỏ cây,
vạn vật đã trở thành nguồn nuôi dưỡng tinh thần con người. Đời sống vật chất tuy
vất vả, thiếu thốn nhưng bù lại có được cái vô giá là sự thanh thản trong tâm hồn:
“Một phút thanh nhàn trong thuở ấy/ Nghìn vàng ước đổi được hay chăng.” (Tự
thán, bài 7).
3.1.2. Tình cảm trìu mến, yêu thương, trân trọng thiên nhiên
Thiên nhiên bao giờ cũng là đối tượng thẩm mỹ cảm của thi nhân. Người xưa
viết nhiều về thiên nhiên và xem nó như là thước đo cho mọi vẻ đẹp. Tuy nhiên, cái
đẹp ở đây không phải là vẻ đẹp của chính nó mà là vẻ đẹp được bao phủ bởi nhân
cách, phẩm tính con người. Người xưa thường nhìn thiên nhiên với tâm thế của chủ
thể, dù có biểu hiện yêu thiên nhiên, tạo vật nhưng nhìn chung đa số họ chưa có
những hành động cụ thể với tình yêu đó. Nhưng với Nguyễn Trãi, mỗi khi đọc thơ
Nôm của ông, người đọc có thể dễ dàng nhận thấy một tình yêu tha thiết, nồng hậu,
xen lẫn sự trân trọng, trìu mến với vạn vật. Cỏ cây dù chỉ là một phần nhỏ trong tự
nhiên, nhưng nhà thơ lại dành cho chúng tình cảm yêu thương sâu sắc. Cỏ cây với
Nguyễn Trãi dường như không còn phân biệt giữa thân phận “hữu tri hữu giác” và
“vô tri vô giác” mà đã trở nên thân thuộc, gần gũi như anh em, bạn bè, đồng đẳng
với nhau:
- Trúc mai bạn cũ họp nhau quen
Cửa mận tường đào chân ngại chen.
(Thuật hứng, bài 1)
- Áng cúc thông quen vầy bầu bạn
Cửa quyền quý ngại lượm chân tay
(Tự thán, bài 5)
Trúc, mai, cúc, thông là những người “bạn cũ” thân thiết trong thời gian sống
nhàn ẩn của Nguyễn Trãi. Chúng bầu bạn, thấu hiểu tâm tình của nhà thơ, còn nhà
thơ thì yêu quý trân trọng chúng. Lối sống hòa mình vào tự nhiên sẽ thật buồn tẻ khi
không có những người bạn như thế. Trong cách miêu tả của Nguyễn Trãi, dường
78
như thế giới cỏ cây đã trở thành một không gian riêng biệt bao bọc, chở che cho nhà
thơ tránh khỏi những tị hiềm, ganh đua của cuộc sống quyền quý, danh lợi chốn
quan trường, nơi mà cái “tục” vẫn thường xuyên tiếp diễn.
Không chỉ nhắc đến cỏ cây, Nguyễn Trãi còn nhắc nhiều đến vượn, hạc,
mây, trăng, núi,… và xem chúng như hàng xóm, láng giềng, anh em, con cháu thân
thuộc trong nhà:
Nghìn hàng cam quýt con đòi cũ
Mấy đứa ngư tiều bậu bạn thân.
(Tự thán, bài 32)
Trong cách nói yêu thương, Nguyễn Trãi không chỉ được “nghìn hàng cam
quýt” phục vụ cuộc sống mà còn có những người đốn củi và đánh cá là bạn thân.
Trong thơ Nôm, đâu đâu cũng thấy tình cảm mến yêu, trân quý của ông với tự nhiên
và mây núi, chim, trăng đã đi vào trong thơ với những vai vế khác nhau:
- Núi láng giềng, chim bậu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam.
(Thuật hứng, bài 19)
- Láng giềng một áng mây bạc
Khách khứa hai ngàn núi xanh.
(Bảo kính cảnh giới, bài 42)
Trong không gian Côn Sơn, bao bọc xung quanh nơi Nguyễn Trãi sống là
núi, mây, trăng, thông, trúc, chim muông. Những người hàng xóm, khách khứa, bạn
bè ấy hòa thuận, quấn quít, cùng trò chuyện với nhà thơ trong công việc hằng ngày
và trong những lúc vui chơi nhàn tản. Nhà thơ thậm chí thấy chúng thân thiết chẳng
khác con cháu trong nhà:
Cò nằm hạc lẩn nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con.
(Ngôn chí, bài 20)
Có nhiều lúc thế giới cỏ cây đã hòa làm một với con người, mang bóng dáng
tâm hồn Ức Trai. Cây tùng với sự kiến tạo “hổ phách, phục linh, thuốc trường sinh”
đã trở thành những thứ quý báu để giúp ích cho dân, cho đất nước: “Dành còn để
79
trợ dân này” (Tùng, bài 3). Cây đa già trả qua nhiều sương gió vẫn vững chắc, sừng
sững vươn hết sức lực của mình để che mát cho dân: “Tuy đà chửa có tài lương
đống/ Bóng cả như còn rợp đến dân” (Lão dung)…
Chính trên cơ sở hòa mình vào tự nhiên vạn vật, Nguyễn Trãi đã khám phá
được những giá trị nhân văn mà chưa có nhà thơ nào trước và cùng thời đại ông làm
được. Đó là nhận ra được mối thâm tình giữa con người và thế giới tự nhiên. Có lẽ
từ khi còn nhỏ, được sống với ông ngoại ở núi rừng Côn Sơn đã để lại ấn tượng và
tình cảm sâu nặng của ông với nơi đây. Vì thế mà nhà thơ thường xem chúng như
người thân của mình. “Ngọn núi quê ấy đã trở thành “cố sơn” và cây, đá, gió,
trăng…đã trở thành bạn cố giao. Bất kì ở đâu, thiên nhiên với Nguyễn Trãi vẫn
không xa lạ mà là bạn cũ, anh em, người thân, thậm chí nhiều lúc như thể người
yêu.” (Đoàn Thị Thu Vân chủ biên, 2009).
Tình cảm sâu nặng của Nguyễn Trãi với thiên nhiên không chỉ dừng lại ở ý
thức xem thiên nhiên là người bạn cố tri, cố giao mà đã được nâng lên một bước cao
hơn là hình thành một cung cách ứng xử với tự nhiên qua thái độ trân trọng, yêu
thương, trìu mến. Đó là thái độ tôn trọng sinh mệnh của cỏ cây, vạn vật trong tự
nhiên.
Với niềm mến thương thiên nhiên, Nguyễn Trãi nâng niu từng sự vật nhỏ bé
đồng thời cũng cảm thương cho những sinh mệnh mong manh đã tàn úa, héo mòn:
Viện có hoa tàn chăng quét đất,
Nước còn nguyệt hiện, sá thôi chèo.
(Mạn thuật, bài 10)
Thấy hoa tàn rụng trước thư hiên không dám quét sân vì sợ vùi dập những
cánh hoa; thấy trăng còn in bóng nơi dòng suối không nỡ khua mái chèo vì sợ làm
tan vỡ vầng trăng. Thế nhưng, ngay trong chính khoảnh khắc rơi rụng, nhà thơ đã
kịp thời thấy được vẻ đẹp diệu kỳ của cánh hoa, dù chỉ là thoáng qua nhưng lại trở
thành vĩnh cửu :
Mai rụng hoa đeo bóng cách song.
(Thuật hứng, bài 6)
80
Bằng sự quan sát tinh tế, hình ảnh “hoa đeo bóng cách song” hiện ra thật mới
lạ trong thơ Nguyễn Trãi. Những cánh hoa mai trắng lơi lả tả từ cành trên nhưng
vẫn còn dạt dào sự sống, chúng cố gắng vương đeo ở những cành dưới. Hình ảnh
đẹp đẽ ấy được nhà thơ nhìn thấy qua song. Với cái nhìn thi vị và đầy xúc cảm, hoa
mai đã tạo nên vẻ đẹp riêng biệt ngay trong chính sự rơi rụng, đó là vẻ đẹp của sự
kiên cường, bền bỉ.
Nguyễn Trãi yêu hoa, yêu cây, đến nỗi yêu luôn cả bóng của chúng. Những
cái bóng cây mờ ảo, lung linh nhưng lại hiện lên vẻ đẹp cuốn hút, động lòng người:
- Lại có một cành ngoài ấy lẻ
Bóng thưa ánh nước động người vay.
(Mai, bài 2)
- Lại có hòe hoa chen bóng lục
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
(Hạ cảnh tuyệt cú)
Cái bóng của vạn vật là hình ảnh phản chiếu của cái chân thực và đồng thời
nó không có hương vị, màu sắc. Thế nhưng, trong cái nhìn của nhà thơ, bóng cây
mai hiện dưới mặt hồ cũng có vẻ đẹp không kém hình ảnh chân thực của chúng, còn
bóng cây hòe lại đậm đà màu xanh lục. Sắc xanh của bóng lá hòe và sắc trắng của
hoa hòe trỗi dậy trong mùa xuân khiến người ngắm nhìn cũng phải nao lòng, xúc
cảm.
Đối với nhà thơ, trúc mai không chỉ đẹp ở sức sống mãnh liệt mà chúng còn
là “cành ngọc”, “cháu rồng” của thế giới tự nhiên:
Mai chăng bẻ, thương cành ngọc
Trúc nhặt vun, tiếc cháu rồng.
(Thuật hứng, bài 5)
Ức Trai không nỡ bẻ nhánh mai vì thương cho “cành ngọc”, năng vun bón
gốc trúc vì quý giống “cháu rồng”. Cành ngọc và cháu rồng ấy đều là tạo hóa sinh
ra và được ban tặng cho sự sống. Nguyễn Trãi tiếc thương và nâng niu sự sống của
vạn vật đến nỗi khi nhìn thấy lá trúc rơi đầy trên con đường gần bờ suối, nhà thơ
81
không đành lòng giẫm đạp mà quét trúc sang một bên để tiếp tục cuộc thưởng
ngoạn:
Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng.
(Ngôn chí, bài 15)
Dưới cái nhìn yêu thương, gần gũi của Nguyễn Trãi, vạn vật trong tự nhiên
đã trở thành một thế giới sống động, có tâm hồn, có hơi thở, cử động. Mỗi loài đều
có cuộc sống riêng, với nếp sinh hoạt phong phú giống con người:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, màu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
(Ba tiêu)
Cũng chính vì tình yêu thương và lối sống hòa mình với tự nhiên, Nguyễn
Trãi đã có những vần thơ đầy xúc cảm về cảnh trí thiên nhiên bình dị của làng quê:
Thu om, cửa trúc mây phủ
Xuân tĩnh, đường hoa gấm phong.
(Thuật hứng, bài 11)
Mùa thu yên tĩnh tạo nên không gian êm ả trong ngõ trúc, với mây nhẹ phủ
bao quanh. Cũng xóm làng ấy, trong ngày xuân êm đềm tĩnh lặng, con đường quê
nở rộ những khóm hoa xuân như trải một lớp gấm rực rỡ, tươi thắm sắc màu. Chỉ là
cảnh vật thôn quê rất bình thường, nhưng qua con mắt hữu tình của nhà thơ, mỗi
ngày là mỗi mới lạ, mỗi khoảnh khắc đều có ý vị riêng.
Trong cái nhìn hướng về tự nhiên, việc tôn trọng quy luật tự nhiên của tạo
vật trong trời đất cũng là cách thức thể hiện tình cảm quý mến của Nguyễn Trãi:
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá,
Rừng tiếc chim về ngại phát cây.
(Mạn thuật, bài 6)
Nhà thơ không câu cá vì muốn cho mặt ao yên tĩnh để có thể thưởng thức
ánh trăng. Hơn nữa, ông đã từng nói: “Lòng hiếu sinh nhiều cá ngại câu” (Tự thuật,
82
bài 10). Nhà thơ cũng không muốn chặt cây trong rừng vì sợ làm mất đi ngôi nhà an
lành của loài chim và không còn được thấy cảnh chim về tổ ấm mỗi buổi hoàng
hôn. Thật là một thái độ sống đẹp và đầy giá trị nhân văn.
Như vậy, với tình cảm yêu thương, trìu mến thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã làm
sáng lên sự gắn bó mật thiết giữa con người và tự nhiên. Thiên nhiên trong thơ Nôm
của ông bao giờ cũng tràn ngập sự hài hòa, gắn kết giữa các thành viên với nhau. Cỏ
cây, hoa lá, chim muông, núi, mây, gió, trăng…đều là những thực thể sinh động có
tâm hồn, có tình cảm. Nhà thơ dành cho chúng tất cả tấm lòng yêu thương, trìu mến
và trân trọng. Nguyễn Trãi đã lắng nghe một cách sâu sắc tiếng nói từ tự nhiên. Phải
lắng nghe, đồng điệu thì mới có thái độ yêu thương, trìu mến, trân trọng tự nhiên
như thế. Cách ứng xử với tự nhiên của Nguyễn Trãi không chỉ biểu hiện cái tư
tưởng cốt lõi của phê bình sinh thái mà còn đưa đến một bài học quý báu về thái độ
gìn giữ và trân trọng thiên nhiên cho con người thời nay. Bởi lắng nghe tiếng nói từ
tự nhiên đưa đến“một sự tôn trọng nhất định và một nghĩa vụ chung của nhân loại
gắn kết chúng ta không chỉ với những con vật vốn có cuộc sống và tình cảm, mà còn
với cả cỏ cây. Chúng ta cần công lý cho con người, và cần thiện ý cũng như sự
nương nhẹ đối với các tạo vật khác, vốn cũng có khả năng như vậy. Có một mối liên
hệ nào đó giữa chúng và chúng ta, một sự rằng buộc lẫn nhau nào đó.” (Trần Thị
Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh, 2016).
3.2. Thế giới cỏ cây là “quê nhà” để trở về
Thế giới tự nhiên bao giờ cũng có vai trò quan trọng đối với muôn loài. Với
con người, tự nhiên đặc biệt hơn cả vì nó chẳng những là nguồn cung cấp sự sống
mà còn là nơi để con người có thể nương tựa, lánh trú tâm hồn. Phê bình sinh thái
trong hành trình tìm kiếm mối quan hệ giữa con người và tự nhiên đã nhận thấy vai
trò quan trọng của thế giới tự nhiên đối với con người. Đó là “sự nhận thức quê
hương như là môi trường sinh thái”, là “những ứng xử của con người với tự nhiên
trở thành phong tục tập quán thói quen điều khiển hành vi của con người (cộng
đồng) trong quan hệ với tự nhiên.” (Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh, 2016).
Nghĩa là, con người bao giờ cũng có mối liên hệ với quê hương của mình, nơi chôn
83
rau cắt rốn. Chính nơi chốn ấy đã tạo nên một không gian sống động mà con người
không thể trưởng thành nếu như không có không gian ấy.
Xét theo ý nghĩa trên thì có thể thấy Nguyễn Trãi là một người có tình cảm
sâu đậm với quê hương Côn Sơn. Thời ấu thơ ở với ông ngoại và mẹ, hình ảnh núi
cũ Côn Sơn theo thời gian đã dần in đậm vào tâm hồn nhà thơ, thậm chí còn thôi
thúc hơn nữa khi ông gặp những chuyện buồn trong chốn quan trường. Cảnh trí
thiên nhiên thơ mộng và bao dung, hiền hòa đã hiện lên trang thơ của Nguyễn Trãi
với tất cả sự sống của nó. Do đó mà thế giới cỏ cây – một bộ phận của thế giới tự
nhiên nơi Côn Sơn theo một nghĩa nào đó đã trở thành “quê nhà” của tác giả và
được biểu hiện cụ thể qua hai khía cạnh: điểm tựa tinh thần của nhà thơ và cội
nguồn của minh triết trong cuộc sống
3.2.1. Điểm tựa tinh thần của nhà thơ
Cuộc đời Nguyễn Trãi có thể xem là một hành trình dài gắn liền với những
nốt thăng nốt trầm của của các triều đại từ Trần, Hồ, đến Lê. Nguyễn Trãi là nhà
Nho nhưng cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng triết lý của Đạo giáo và Phật
giáo. Cả ba hệ tư tưởng đều dạy con người cách thức sống hòa hợp với tự nhiên.
Riêng Nho giáo, dù chủ trương lấy quan niệm “con người là trung tâm” nhưng cốt
yếu là để hướng đến lương tâm của con người khi đối xử với tự nhiên. Vì thế, các
nhà Nho thường ứng xử theo con đường “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng”
(Dùng thì ta hành đạo, không dùng thì ta quy ẩn). Chính vì quan niệm này, mà các
nhà Nho thường lựa chọn cách thức “trở về với tự nhiên” để gìn giữ nhân cách
thanh cao, tránh xa xã hội ô trọc, bon chen của xã hội đương thời.
Nguyễn Trãi cũng như thế, sau những biến cố về cuộc đời, những nhọc nhằn
và lận đận chốn quan triều, ông lựa chọn về quê hương Côn Sơn - mà không phải
nơi nào khác, để lánh mình. Nguyễn Trãi có tình yêu sâu nặng với núi rừng Côn
Sơn. Trong tâm thức của Nguyễn Trãi, Côn Sơn không chỉ là nơi lưu giữ những
tháng ngày hạnh phúc với ông ngoại và mẹ lúc nhỏ mà còn là nơi yên bình, tĩnh
lặng, tràn ngập hơi thở của tự nhiên. Thiên nhiên Côn Sơn đã trở thành điểm tựa an
ủi tinh thần nhà thơ. Thiên nhiên tạo vật nơi đây đều mang đến nỗi nhớ da diết đối
với Nguyễn Trãi, nhất là thế giới cỏ cây. Chúng trước hết là hiện thân cho quê
84
hương, cho tình yêu xứ sở của nhà thơ và là điểm tựa để ông tìm về thế cân bằng
trong những lúc bất đắc chí.
Tình yêu với Côn Sơn dường như đã trở thành một nỗi niềm sâu kín luôn
thôi thúc Ức Trai không kém nỗi u hoài dân nước, ngay cả những lúc ra làm quan,
niềm nhớ thương cảnh quê Côn Sơn vẫn luôn hiển hiện trong lòng:
- Phần du lẽo đẽo thương quê cũ
Tùng cúc bù trì nhớ việc hằng.
(Ngôn chí, bài 15)
- Gia sơn đường cách muôn dặm
Ưu ái lòng phiền nửa đêm.
(Tự thuật, bài 4)
Nguyễn Trãi nhớ quê, thương quê nhưng vì đường dài cách trở chỉ có thể
mường tượng ra hình ảnh “tùng cúc”, “gia sơn” để thỏa nỗi nhớ nhung. Nhiều lúc,
nỗi nhớ thương quê cũ không chỉ da diết ở thực tại mà còn xuất hiện trong giấc
chiêm bao:
- Non quê này nọ chiêm bao thấy
Viên hạc chăng hờn lại những thương.
(Tự thán, bài 1)
- Cảnh cũ non quê nhặt chốc mòng
Chiêm bao ngờ đã đến trong.
(Thuật hứng, bài 6)
Chuỗi ngày làm quan với Nguyễn Trãi không phải là những tháng ngày yên
tĩnh mà là đầy dẫy những nghi kỵ, những hiềm khích trong nội bộ triều đình phong
kiến thời Hậu Lê. Đau đớn trong thực tại không thể giãi bày cùng ai, Ức Trai đành
tìm về với quê hương Côn Sơn nhưng chỉ là tìm về trong giấc chiêm bao. Ở đó, nhà
thơ thấy vượn, hạc, những người bạn thân yêu, không giận mình chưa trở về mà còn
thương mình lận đận.
Đã đến lúc, niềm nhớ quê hương không còn là thực tại xa vời nữa mà đã trở
thành hiện thực. Nguyễn Trãi không còn bị dằn vặt bởi: “Được thú làm quan mất
85
thú quê” (Tự thán, bài 39) mà đã trở về với quê hương và hòa mình vào hương vị
thiên nhiên nơi quê cũ:
- Vườn còn thông trúc đáng năm mẫu
Câu ước công danh đổi một cần.
(Mạn thuật, bài 11)
- Đến trường đào mận ngạt chăng thông
Quê cũ ưa làm chủ cúc thông.
(Thuật hứng, bài 5)
- Lan còn chín khúc, cúc ba đường
Quê cũ chẳng về nỡ để hoang.
(Tự thuật, bài 6)
Quê hương Côn Sơn không chỉ là nơi chốn thân thuộc, gần gũi của Nguyễn
Trãi, mà dường như đã trở thành một trách nhiệm của ông. Trách nhiệm ấy chính là
năm mẫu thông trúc, chín luống hoa lan và ba hàng hoa cúc. Hình ảnh đó cũng biểu
hiện cho chí hướng sống ẩn dật của nhà thơ:
Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc.
Ngày tháng tiêu ma một bát chè.
(Tự thán, bài 3)
Hình ảnh “ba đường cúc” xuất phát từ điển cố Đào Tiềm (Đào Uyên Minh)
một nhà Nho thời Tấn (Trung Quốc), là người nổi tiếng yêu cúc, làm quan huyện
Bành Trạch. Ông làm quan hơn tám mươi ngày rồi lại xin về quê ở ẩn. Lúc ấy, ông
có làm bài Quy khứ lai từ (Trở về quê cũ) để bày tỏ chí hướng của mình. Trong bài
thơ có câu:
Tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn.
(Ba con đường trong vườn đã hoang, nhưng khóm cúc vẫn còn)
Đào Tiềm dùng lý do ba đường cúc bị bỏ hoang nơi quê nhà không ai chăm
sóc để từ quan. Người đời sau, thường mượn hình ảnh “ba đường cúc” ấy để ngụ ý
cho hành động từ quan về ở ẩn.
Trong thơ Nôm, Nguyễn Trãi nhắc nhiều đến những từ “quê cũ”, “cảnh cũ
non quê”, “non quê” mang hàm ý nói đến quê hương Côn Sơn. Đó chính cái “gia
86
hương” mà sâu thẳm trong tâm hồn ông luôn nhớ về. Theo triết lý Thiền tông, “gia
hương” gợi nhắc “con người đang sống với cái tâm hồn luôn dao động bởi thế giới
chung quanh giống như đang tạm trú nơi quán khách, cần tìm đường trở về “nhà”,
tức nơi ở ban đầu, nơi chôn nhau cắt rốn, nguồn cội của mỗi người, đó là bản thể,
là tâm tự tại.” (Đoàn Thị Thu Vân, 1996). Trở về với tự nhiên, tức là trở về với cái
“tự tính” ngây thơ hồn nhiên, chất phác. Con người vốn là một phần của tự nhiên,
nếu tách khỏi tự nhiên con người sẽ dần mất đi cái bản thể, cái tâm tự tại của chính
mình, sống bơ vơ, lạc lõng. Chính vì thế, hình ảnh tùng cúc, vượn hạc đã trở thành
hiện thân cho nỗi nhớ quê hương của tác giả.
Thế giới cỏ cây không chỉ tồn tại với tư cách đại diện cho nỗi nhớ quê hương
mà còn là nơi bao dung, che chở cho nhà thơ những lúc đau buồn, chua xót:
Nham trung hữu tùng, vạn lý thúy đồng đồng,
ngô ư thị hồ yển tức kì trung
Lâm trung hữu trúc, thiên mẫu án hàn lục,
ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc
Vấn quân hà bất quy khú lai, bán sinh trần thổ trường giao cốc?
(Côn Sơn ca)
(Trên đèo có thông, muôn dặm biếc mông lung,
ta thảnh thơi nằm nghỉ bên trong.
Giữa rừng có trúc, nghìn màu xanh chen chúc,
ta đủng đỉnh ca ngâm dưới đất.
Hỡi ai nào chẳng sớm quay về, nửa đời vùi mãi trong lầm đục?)
(Bài ca Côn Sơn, Trúc Khê dịch)
Bài thơ Côn Sơn ca xuất hiện trong cuốn Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi,
được sáng tác khi ông còn làm quan ở dưới thời vua Lê Thái Tổ. Trong mong ước
tìm về thiên nhiên, nhà thơ muốn được nằm giữa rừng thông trúc để vơi đi những
nỗi buồn tục lụy đồng thời hòa mình vào thiên nhiên trong tâm tưởng để lắng nghe
tiếng thông reo, tiếng lá trúc luồn qua gió. Cái ý thơ tràn đầy sinh khí nhưng lại
phảng phất nỗi niềm tâm sự của nhà thơ.
87
Cỏ cây không chỉ là hiện thân cho nỗi nhớ quê hương mà còn là đối tượng để
nhà thơ hướng đến sự thanh cao, trong sạch. Thiên nhiên bao giờ cũng là một thế
giới thanh khiết, trong lành. Con người tìm về thiên nhiên như một không gian tĩnh
lặng để trải lòng và thiên nhiên theo đó cũng trở thành người bạn lớn thủy chung,
luôn sẻ chia, đồng cảm với con người. Với Nguyễn Trãi, sự trong trẻo, thanh sạch
của tự nhiên không hiển hiện một cách trừu tượng, xa vời mà trong chính những sự
vật nhỏ bé, giản đơn:
Gội tục chè thường pha nước tuyết
Tìm thanh trong vắt tịn trà mai.
(Ngôn chí, bài 1)
Với người xưa, uống trà không chỉ để giải tỏa cơn khát mà còn có thể giúp
lòng người được yên tĩnh, thư nhàn. Tuy nhiên, trà được pha ngon nhất là khi được
dùng bằng thứ nước hứng từ sương sớm. Nước tuyết trong mát, tự nhiên là nguồn
gốc để con người thanh lọc tâm hồn. Nhà thơ uống trà để gội rửa những cái tục tằn,
những mối bận tâm ở trong lòng mình, và tìm đến với sự trong trẻo, thanh sạch
nhất, chỉ có thứ trà ướp hoa mai. Đó là những thú quê vừa bình dị vừa không kém
phần cao quý.
Nhìn mai ở bên cửa sổ, khóm trúc trước hiên nhà trúc cũng làm cho nhà thơ
thấy lòng thanh nhàn, yên tĩnh:
Án sách cây đèn hai bạn cũ
Song mai hiên trúc một lòng thanh.
(Ngôn chí, bài 6)
Không chỉ trúc mai được chọn làm biểu tượng cho sự thanh tao, thoát tục mà
ngay khi nhìn vào cây núc nác mọc trong vườn nhà, Nguyễn Trãi cũng tìm thấy
“lòng thanh” ở nó:
Tả lòng thanh vị núc nác
(Ngôn chí, bài 9)
Núc nác là loài cây thân gỗ, vỏ cây nhẵn, màu xám tro ít phân cành, hoa núc
nác có màu nâu đỏ mọc thành chùm trái dài ở thân. Theo Đông y, núc nác có vị
đắng nhưng tính mát, thích hợp trị các bệnh nóng gan, bổ phổi, thanh nhiệt… Có
88
thể vì tác dụng của cây núc nác mà nhà thơ đã ví lòng mình cũng thanh sạch và
trong trẻo như vị núc nác.
Như vậy, trong cuộc sống, sinh hằng ngày, cỏ cây đã chiếm giữ được một vị
trí quan trọng đối với Nguyễn Trãi. Dù ra làm quan hay khi đã về ở ẩn, chúng luôn
được ông miêu tả bằng tất cả sự quý mến, trân trọng. Bằng tâm hồn nhạy cảm và sự
quan sát tinh tế, cỏ cây không chỉ là đối tượng để chiêm ngắm vẻ đẹp mà còn là một
người bạn thân thiết, biết đồng cảm sẻ chia với tác giả. Cỏ cây qua đó đã trở thành
điểm tựa để nhà thơ lánh trú tâm hồn. Nó không chỉ đại diện cho một phần quê
hương mà tác giả luôn nhớ về mà còn là nơi để nhà thơ tìm đến cuộc sống thanh
tao, trong sạch như một cách để lánh xa tục trần của cái xã hội ô trọc, đầy dẫy bon
chen bên ngoài. Đó cũng chính là lý do vì sao mà phê bình sinh thái kêu gọi con
người trở về với thiên nhiên như một phương thức nuôi dưỡng bản tính tự nhiên,
thuần phác.
3.2.2. Cội nguồn minh triết trong cuộc sống
Từ thời hồng hoang, nguyên thủy cho đến ngày nay, thiên nhiên theo vòng
quay của vũ trụ dần được hình thành và phát triển. Trải qua nhiều giai đoạn kiến
tạo, thiên nhiên đã bắt đầu xuất hiện những thành viên đầu tiên như đất, nước, cây
cỏ, núi, sông, chim thú. Trong cộng đồng sinh thái đó, con người là thành viên xuất
hiện muộn nhất. Thời xa xưa, con người dù chưa ý thức được mình là một bộ phận
của tự nhiên nhưng họ đã xem thiên nhiên như một thế giới không thể bị xâm phạm
hay bị chinh phục, nhất là những cư dân phương Đông lại càng có tư tưởng sùng
thượng thiên nhiên sâu nặng. Cuộc sống lao động và sinh hoạt gắn liền với tự nhiên
khiến họ hình thành lối ứng xử hòa hợp, tôn trọng tự nhiên. Đối với người Việt xưa,
thiên nhiên bao giờ cũng chiếm vị thế quan trọng. Truyền thống nông nghiệp lúa
nước kết hợp với việc canh tác, trồng trọt đã tạo cho con người kinh nghiệm sống
hòa hợp với tự nhiên. Ca dao là lĩnh vực thể nghiệm rõ nhất những bài học kinh
nghiệm này, cụ thể:
Ca dao về sự trồng trọt, canh tác trong nông nghiệp:
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm.
89
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời êm bể lặng, mới yên tấm lòng.
Hay câu ca dao dự báo thời tiết: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì
nắng, bay vừa thì râm.”
Nếu thiên nhiên trong văn học dân gian được người dân đúc kết ra thành
những bài học kinh nghiệm trong tục ngữ, ca dao dân gian nhằm hỗ trợ cuộc sống,
sinh hoạt thường ngày thì trong văn học trung đại, thiên nhiên đã trở thành đối
tượng để các nhà thơ luận bàn về những triết lý, thế sự hay về những bài học luân lý
đạo đức. Đối với Nguyễn Trãi, thiên nhiên đã trở thành cội nguồn của minh triết
trong cuộc sống. Thông qua sự vận động theo quy luật tự nhiên của cỏ cây, nhà thơ
đã đúc kết ra được những kinh nghiệm về lẽ sống ở đời:
Thế sự người no ổi tiết bảy
Nhân tình ai ủ cúc mồng mười.
(Ngôn chí, bài 21)
Bất cứ loài hoa, loài cây nào cũng dựa theo quy luật của trời đất mà sinh sôi
nảy nở theo đúng thời điểm, đúng mùa thì mới có thể tạo ra sản phẩm tuyệt hảo. Ổi
và cúc cũng thế. Tháng bảy là mùa ổi chín tức là ổi đã ra đúng mùa, tâm lý người
đời thường đổ xô vào ăn quả lúc đúng thì, ngon nhất – “người no ổi tiết bảy”. Hoa
cúc đẹp và quý nhất là nở vào thời điểm tiết trùng dương mồng chín tháng chín âm
lịch, còn “cúc mồng mười” là cúc đã trổ muộn, quá thời không còn đẹp và quý nữa,
không còn ai ưa chuộng. Qua hiện tượng của ổi và cúc, Nguyễn Trãi ngẫm ra quy
luật về thế thái nhân tình cũng như bài học về kinh nghiệm làm việc phải đúng thời
cơ mới dễ thành công trong cuộc đời.
Quan sát các vật thể trong thiên nhiên, Nguyễn Trãi liên tưởng đến thế giới
của con người:
Co que thay bấy ruột ốc
Khúc khuỷu làm chi trái hòe.
(Trần tình, bài 8)
Ruột ốc quanh co, nhìn bên ngoài không thấu được bên trong như lòng người
khó dò. Trái hòe hình dáng khúc khuỷu như đường đời đầy hiểm trở. Lật về quá khứ
90
cuộc đời ông, có thể thấy, khi kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Lê Lợi lập ra
nhà Hậu Lê, Nguyễn Trãi hăm hở bắt tay lại xây dựng nước nhà. Thế nhưng, chốn
triều đình trong cảnh thái bình bắt đầu xảy ra những nghi kỵ, mẫu thuẫn giữa các
phe phái. Những người bạn thân cùng “nếm mật nằm gai” trong kháng chiến như
Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo đều bị giết chết, ngay cả ông cũng bị bắt giam.
Sau đó, ông được thả ra nhưng không được trọng dụng như trước. Sau khi Lê Thái
Tổ mất (1433), mâu thuẫn nội bộ triều đình ngày càng trở nên gay gắt hơn khi ông
thẳng thắn mắng Nguyễn Thúc Huệ và Lê Cảnh Xước ngay giữa triều đình, bất bình
với Lê Sát trong vụ xử án bảy tên trộm phạm tội và đỉnh điểm là chống lại hoạn
quan Lương Đăng trong việc thẩm định nhã nhạc (1438). Những sự việc ấy liên tiếp
xảy ra dưới triều Lê Thái Tông khiến ông như bị cô lập ngay trong chính cái chốn
quan trường mà mình góp phần xây dựng. Năm 1438, Nguyễn Trãi về ở ẩn, nhưng
nỗi niềm uẩn khuất như vẫn còn trước mắt khiến ông phải xót xa nhận định:
Phượng những tiếc cao diều hãy lượn
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi.
(Tự thuật, bài 9)
Thơ trung đại thường mang tính tượng trưng, biểu tượng. Nguyễn Trãi cũng
chịu ảnh hưởng của thi pháp trung đại nên ở một số bài thơ “ngôn chí”, thiên nhiên
được phân ra theo hai tính chất: cao – thấp, tốt – xấu… Nhìn vào hai câu thơ trên,
có thể thấy chim phượng, hoa là đại diện cho vẻ đẹp, người tài, phẩm chất cao quý
còn diều hâu, cỏ thì đại diện cho cái xấu, kẻ tiểu nhân, thấp hèn. Nhưng điều nghịch
lý là người quân tử thường khiêm tốn, kẻ tiểu nhân lại dương dương tự đắc và cái
xấu thường sinh sôi nảy nở mạnh mẽ lấn át cái đẹp. Ở đây, Nguyễn Trãi đã dựa vào
hiện tượng quy luật của tự nhiên về đặc tính của hoa, cỏ và các loài chim để đưa ra
những chiêm nghiệm triết lý về mỗi hạng người trong xã hội.
Nhìn hoa sen trong đầm lầy tanh hôi vẫn bung tỏa hương thơm thanh tao,
tinh khiết mà không nhuốm mùi bùn:
- Thế sự dầu ai hay buộc bện
Sen nào có bén trong lầm.
(Thuật hứng, bài 25)
- Lầm nhơ chẳng bén tốt hòa thanh
91
Quân tử kham khuôn được thửa danh.
Gió đưa hương đêm nguyệt tĩnh
Trinh làm của có ai tranh.
(Liên hoa)
Trước những sự bon chen, dối trá, lừa lọc của người đời, Nguyễn Trãi tự nhủ
“rằng danh lợi nên xa lánh vì dễ nhục thân, rằng lời đàm luận của thế nhân chẳng
đáng lọt tai mình.” (Phạm Thế Ngũ, 1997) và bản thân hãy nghĩ đến cái kiêu hãnh
của cây sen ở chỗ cát lầm mà vươn lên tỏa hương thơm. Hình ảnh hoa sen ở những
dòng thơ trên khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh hoa sen trong bài ca dao dân
gian sâu sắc ngụ ý triết luận: “Nhị vàng bông trắng lá xanh/ Gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn”.
Ức Trai cũng nhiều lần mượn cây cỏ thiên nhiên để lồng vào những bài học
giáo dục người đời. Đó là những bài học về sự tu dưỡng đạo đức, nhân cách con
người:
Phú quý lòng hơn phú quý danh
Thân hòa tự tại thú hòa thanh.
Tiền sen tích để bao nhiêu thúng
Vàng cúc đem cho biết mấy bình.
(Tự thán, bài 13)
Có thể nói, thông qua cái nhìn về thiên nhiên, Nguyễn Trãi ngẫm ra nhiều
triết lý phù hợp với cuộc sống con người, không chỉ đúng với thời đại của ông mà
còn đúng với xã hội ngày ngay. Thế giới tự nhiên là cội nguồn của minh triết, nhà
thơ thông qua đó thấy được quy luật của của cỏ cây, chim muông cũng giống với
quy luật sống của con người. Bên cạnh đó, để tăng thêm tính thuyết phục, ông còn
vận dụng những kinh nghiệm dân gian có trong ca dao và lấy ý tưởng từ đó.
Ngoài ra, thế giới cỏ cây còn hàm chứa những triết lý về cõi nhân sinh hư ảo,
là nguồn mạch cho sự cảm nghiệm về những tư tưởng tôn giáo thâm sâu, vi diệu.
Khi miêu tả hình ảnh của cỏ cây, Nguyễn Trãi đã thổi vào chúng một màu sắc triết
lý, thấm đượm tinh thần của Đạo gia và Phật giáo.
92
Triết lý Đạo gia hướng con người về với tự nhiên, đặt vạn vật trong cái nhìn
tương giao với vũ trụ để rồi tìm thấy sự trường sinh bất tử trong vạn vật. Khi nói
đến cây hoàng tinh, cây thiên tuế Nguyễn Trãi đã lồng ghép vào trong chúng một
biểu tượng cho cái nhìn về vũ trụ của Đạo gia. Củ hoàng tinh là vị thuốc trường sinh
và cây thiên tuế là biểu tượng cho trường sinh bất tử:
- Đất dư dưỡng được khóm hoàng tinh,
Cấu phương lành để dưỡng mình.
Ai rạng túi thầy, chăng tủ thuốc,
Hay vườn đã có vị trường sinh.
(Hoàng tinh)
- Cây lục rờn rờn bóng lục in,
Xuân nhiều tuổi đã kể dư nghìn.
Ngày ngày đã có tiên làm bạn,
Đưa thuốc tiên lai chẳng phải xin.
(Thiên tuế thụ)
Lão Tử, người sáng lập Đạo học, quan niệm vũ trụ theo hai phạm trù: Đạo và
Đức. Đạo vô danh vô hình, là căn nguyên và cốt lõi của muôn vật. Còn Đức là
“mầm sống ngấm ngầm” trong vạn vật. Cái Đạo “phi thường Đạo” được Lão Tử
nói đến là thiên nhiên, năng lượng sức sống và sự vận hành của thiên nhiên. Và Đức
là cứ theo tự nhiên mà sống, thuận theo thiên lý mà lưu hành. Trong cái Đạo của vũ
trụ ấy, thiên nhiên và những qui luật của chúng tập hợp thành cái trụ cốt, cái bản
thể, còn đất trời và sinh linh,…là những thực thể có vị trí thích hợp và chức năng
thích hợp, thao tác theo một thể thức tự nhiên.
Và từ cái nhìn về vũ trụ, Đạo giáo tin rằng mỗi sinh linh, mỗi thực thể trong
đời sống đều có chức năng thích hợp. Trang Tử (học trò của Lão Tử) là một người
rất gần gũi và yêu mến tự nhiên. Trong sách thuốc Đạo gia, hoàng tinh là vị thuốc
uống để sống lâu, vì vậy mà khi nhìn thấy khóm hoàng tinh, Nguyễn Trãi đã mượn
tư tưởng của Đạo gia để nói lên công dụng của hoàng tinh như một phương thuốc
lành để “dưỡng mình”, giúp sống lâu. Cũng vậy, khi có cây thiên tuế trong vườn
93
nhà, Nguyễn Trãi dường như đã có một vị “tiên thụ” nghìn tuổi xuất hiện trong
vườn nhà, đến để làm bạn và đưa thuốc trường sinh cho ông mỗi ngày.
Triết lý Đạo gia cũng quan niệm đời người là một giấc mộng. Đạo gia
thường lấy hình ảnh cây hòe để biểu hiện cho quan niệm đời là mộng ảo, vinh hoa
phú quý là ngắn ngủi, phù du:
Phú quý bao nhêu người thế gian
Mơ mơ bằng thuở giấc Hòe An.
Danh thơm một áng mây nổi
(Thuật hứng, bài 18)
Hình ảnh cây hòe thường được lấy làm đối tượng để chỉ công danh, phú quý
ngắn ngủi, có lẽ được lấy ý từ tác phẩm Nam Kha Thái thú truyện của Lý Công Tá
đời Đường (Trung Quốc). Tác phẩm kể về câu chuyện Thuần Vu Phần nằm mộng
thấy mình đi lạc vào một nước tên là Hòe An, được vua Hòe An cho vào bái yết rồi
gả con gái, cho làm phò mã và đưa ra quận Nam Kha làm quan Thái thú, cai trị cả
một vùng rộng lớn, vinh hoa phú quý tột bậc. Khi tỉnh dậy, Thuần thấy mình nằm
dưới gốc cây hòe có một chỉ về phía nam, bị một đàn kiến bu quanh. Thuần nhớ lại
giấc mộng của mình, so sánh với thực tế xung quanh, thấy rằng: Cây Hòe là nước
Hòe An, cành cây phía nam là đất Nam Kha. Từ điển tích này, người ta rút ra các
thành ngữ: Giấc Nam Kha, Mộng Nam Kha, Giấc Hòe để chỉ những gì tốt đẹp của
cuộc đời thường ngắn ngủi, công danh phú quý như giấc chiêm bao.
Nguyễn Trãi là một người suốt một đời ôm mối tiên ưu cho dân cho nước,
ông làm quan không phải vì chức tước bổng lộc, vinh hoa mà là để giúp dân giúp
nước nên cho dù đã về ở ẩn, vui với cỏ cây nhưng tấm lòng của Nguyễn Trãi vẫn
luôn “đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” (Thuật hứng, bài 5). Ông xem công
danh, phú quý chỉ là những thứ phù phiếm, ngắn ngủi, như hạt sương treo đầu ngọn
cỏ, con kiến bò qua cành hòe:
Phú quý treo sương ngọn cỏ
Công danh gửi kiến cành hòe.
(Tự thán, bài 3)
94
Thế giới cỏ cây bên cạnh đó còn phảng phất màu sắc Phật giáo. Triết lý Phật
giáo quan niệm mọi sự vật hiện tượng đều không có thực tướng – “vạn pháp giai
không”. Hình ảnh hoa dâm bụt in bóng trên mặt nước gợi nhớ đến thuyết sắc không
của đạo Phật về sự hư ảo, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” của vạn vật:
Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vẫn nhơ chẳng bén, bụt là lòng.
Chiều mai hoa nở, chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không.
(Mộc cận)
Nguyễn Trãi nhìn thấy hoa dâm bụt in hình dưới mặt ao và cảm nghiệm được
sâu sắc cái chất triết lý của Phật giáo. Trong kinh Phật có nói rằng: Vạn vật trong
cuộc sống đều không có thực tướng (nếu có thì cũng do vọng niệm của con người
mà ra), vì vậy con người cần giữ cái “tâm không”, nghĩa là cái tâm trong sáng,
không bám trụ vào đâu cả. Tâm của con người khi đã dứt bỏ vọng niệm tức là đã trở
về với cái bản thể (chân như). Cái tâm ấy “chính là Phật, là bản thể vũ trụ khi con
người đã giác ngộ về sự vô thường của vạn vật, cởi bỏ những mê lầm của giác quan
và ý thức” (Đoàn Thị Thu Vân, 1996). Và con đường “tâm tức Phật” ấy có đạt được
hay không là do nỗ lực tu dưỡng của mỗi người. Phải chăng, Nguyễn Trãi nhìn thấy
bóng hoa dâm bụt dưới nước, dù trong ở trong chốn “bụi lầm” vẫn giữ cho mình
một tấm lòng của Phật, một tâm hồn không có chút vết nhơ nào. Khi không có vết
nhơ nào nơi gương tâm thì tâm trọn vẹn là cảnh, cảnh trọn vẹn là tâm. Tâm cảnh
hợp nhất thì thấy được bản chất, thể tánh của bông bụt. Bản chất, thể tánh, lòng đó
là Bụt (Phật): “Bụt là lòng”. Nếu không thấy buổi sớm hoa nở, buổi chiều hoa rụng
thì đây là một cái tâm vô tri vô giác như gỗ đá. Nếu thấy lòng hoa là Bụt, thì có nở
có rụng chỉ là chân lý quy ước tương đối, còn trong chân lý tối hậu, tuyệt đối thì tuy
hoa nở hoa rụng mà thật ra không nở không rụng.
Trong khoảnh khắc nhìn thấy “sự lạ” của cây, Nguyễn Trãi bỗng trực ngộ ra
sự thuyết sắc không của nhà Phật. Nhà thơ đã thấu triệt được chân tướng của sắc
không. Thấy cái thân ngũ uẩn ảo hoá cũng tức là cái chân thật của Pháp thân. Pháp
thân và sắc thân đều diệu dụng, ứng hoá từ một nguồn tự tánh thanh tịnh vốn “xưa
95
nay không hề có một vật” nào cả. Khi đã đốn ngộ: “Sự lạ cho hay tuyệt sắc không”,
thì bể khổ không còn, người ta trở nên lạc quan thư thái, vì cái Ngã, nguồn gốc mọi
rối ren trong đời không còn nữa để rồi thấy được cái thực tại vô ngã của nhân sinh.
Bên cạnh đó, Phật giáo trong cách nhìn về vũ trụ luôn tính thời gian hiện
thực bằng đơn vị sát-na (ksana), nó khác với cách tính thời gian với đơn vị giây của
khoa học. Sát-na là sự chuyển biến liên tục không ngừng trong mọi sự vật hiện
tượng của cuộc sống. Thế giới tự nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi cũng được ông
đong đếm bằng thời gian. Đó không phải là thời gian bình thường mà là thời gian ẩn
hiện trong chính mỗi sát-na:
Mộng lành xảy nảy bỗng hòe trồng
Một phút xuân qua một phút trông.
(Hòe)
Ở đây, Nguyễn Trãi qua việc thấy cây hòe “một phút xuân qua một phút
trông” đã nhìn thời gian qua từng sát-na. Nhà sư Thích Hạnh Tuấn trong bài viết
Khái niệm thời gian trong Phật giáo do tác giả Quảng Trí dịch (2012), đã tóm gọn
Sát-na là một khái niệm thời gian của Phật giáo, nhấn mạnh cái “duyên”,
“thời gian” hay cái “nhất thời”, từ đó chỉ ra rằng sự sống con người là rất
ngắn ngủi; sát-na “có thời gian rất ngắn, ngắn hơn cả đơn vị thời gian giây,
một sát-na thì chỉ bằng 0.01giây, và vạn vật trên trong tự nhiên được tạo bởi
nhiều sát-na đơn lẻ. Bởi vì chỉ có sát-na hiện tại là có thực, cho nên không
cần lo lắng về quá khứ hay tương lai mà hãy sống trọn vẹn với giây phút
hiện tại cùng với tâm chính niệm.
khái niệm về sát-na:
Nếu sát-na hiện tại trân trọng phút giây hiện thực để sống hết mình thì sát-na
vô thường lại nói rằng sự vật trên thế gian đều là hư ảo, tất cả mọi sự vật hiện tượng
đều thoáng chốc và giả tạm. Trong bài viết Sát-na vô thường, tác giả Hồng Dương
Nguyễn Văn Hai (2010) đã kiến giải sát-na vô thường như sau:
Sát-na vô thường (sự vô thường trong một sát-na) là sự chuyển biến từng
sát-na, sự chuyển biến liên tục không ngừng trong mọi pháp hiện hành. Sát-
na có đủ bốn tướng sinh, trụ, dị, diệt, chúng luôn biến thiên luân chuyển từ
thực thể này sang thực thể khác, không có sự bất biến. Sự vô thường biến
thiên từng sát-na hoàn toàn đi ngược lại với lòng trông mong ước vọng của
con người, đó chính là những vinh hoa phú quý.
96
Như vậy, với việc giải thích thời gian qua từng sát-na, thế giới tự nhiên trong
thơ Nguyễn Trãi dường như có ý nghĩa hơn hẳn. Trong cuộc sống ẩn đật, ông đã
thực sự hòa mình vào vạn vật trong tự nhiên để rồi tìm thấy được ý nghĩa cuộc sống
ngay trong chính thời khắc thực tại: “Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay/ Trông thế giới
phút chim bay”. (Mạn thuật, bài 4). Đó là cái lối sống không chạy theo những vinh
danh, phù hoa, lợi lộc mà hãy trân trọng khoảng thời gian hiện tại để rồi sống hết
mình với hiện thực.
Thơ Nôm viết về cỏ cây đã trở nên đa dạng hơn khi soi chiếu dưới lăng kính
của triết học và tôn giáo. Cỏ cây trong chiều sâu nhận thức của nhà thơ, không chỉ
là bài học kinh nghiệm để răn mình hay để nói về những lẽ sống ở đời mà chúng
còn được Ức Trai nhìn thấy từ sự biến ảo, huyền diệu ngay trong chính bản thân của
nó. Khép lại những triết lý vi diệu, trừu tượng, cỏ cây trở về hình ảnh đời thường
với xiết bao tình cảm của nhà thơ. Phải trân trọng, yêu thương cỏ cây một cách
nồng hậu, say đắm thì Nguyễn Trãi mới có thể cảm nghiệm và soi chiếu cỏ cây qua
nhiều góc độ đồng thời đưa chúng vào trong thơ với tất cả những gì gần gũi, thân
thuộc nhất. Mối quan hệ giữa Nguyễn Trãi và cỏ cây là mối quan hệ mật thiết, họ
vừa là bạn bè, vừa là người thân, được gắn kết qua sự tương giao, cộng cảm sâu xa.
Thật là một tình cảm đẹp, đáng trân trọng và đó cũng chính là khía cạnh đạo đức mà
phê bình sinh thái muốn xây dựng cho con người ngày nay.
97
Tiểu kết chương 3
Thế giới cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi không chỉ được miêu tả với vẻ
đẹp tự nhiên, hài hòa mà còn là đối tượng có mối thâm tình đặc biệt với nhà thơ. Cỏ
cây trước nhất thể hiện lối ứng ứng xử gần gũi, hài hòa với tự nhiên của ông. Trong
khoảng thời gian ở núi cũ Côn Sơn, Nguyễn Trãi thật sự có những khoảng khắc ung
dung, tự tại hòa mình vào thiên nhiên, vạn vật, dù đôi lúc nỗi ưu hoài thời cuộc, thế
sự vẫn được tác giả nhắc tới. Cuộc sống tuy nghèo nàn về vật chất nhưng vẫn không
làm cho tâm hồn Nguyễn Trãi trở nên khô khan, mà thay vào đó ông lại mở rộng
lòng mình với thiên nhiên một cách chân thành, nồng hậu. Xuất phát từ cách sống
giản dị, thanh nhàn hòa mình vào vạn vật và tình cảm trìu mến, yêu thương, trân
trọng thiên nhiên, cỏ cây vừa là nơi để tác giả chiêm ngắm, thưởng thức vừa là một
người bạn thủy chung biết chia sẻ, cảm thông với nhà thơ. Chính vì thế mà cỏ cây
so với các thành viên khác trong tự nhiên chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc
sống của nhà thơ.
Từ muôn đời, thiên nhiên bao giờ cũng là nguồn an ủi cho con người. Đối
với Nguyễn Trãi, thiên nhiên không chỉ là người bạn thân thiết mà còn là “quê nhà”
để trở về. Nguyễn Trãi thường hay nhắc nhiều đến cỏ cây, không phải là cỏ cây nơi
vườn thượng uyển đài các diễm lệ mà là cỏ cây bình dị, gần gũi nơi quê nhà Côn
Sơn. Đó là hình ảnh đối lập với xã hội ô trọc, bụi lầm ở thời đại mà ông sống lúc
bấy giờ. Cỏ cây theo đó không chỉ là điểm tựa tinh thần mà còn là cội nguồn minh
triết trong cuộc sống. Nhìn cỏ cây trong sự vận hành của quy luật tự nhiên, tác giả
đã suy ngẫm và đúc kết ra nhiều kinh nghiệm về lẽ sống ở đời, đồng thời còn nhìn
thấy ở chúng một sắc màu triết lý tôn giáo thâm sâu, vi diệu.
Giữa cỏ cây và Nguyễn Trãi tồn tại một mối thâm tình sâu sắc. Đó là sự
tương giao kỳ diệu vượt lên trên tất cả để hướng tới hài hòa, cộng cảm với nhau.
Cỏ cây trong chiều sâu nhận thức của nhà thơ không còn là cái khách thể để ngắm
nhìn, thưởng thức nữa mà đã trở thành bạn bè, người thân thậm chí là một phần của
chính mình. Sự đồng đẳng, nương tựa, bao dung, che chở là những gì được thể hiện
thông qua sự tương giao của Nguyễn Trãi với thế giới cỏ cây. Mối quan hệ này
không chỉ là cái đẹp vĩnh hằng, trường tồn trong thơ văn mà đã trở thành một giải
pháp thiết thực của Phê bình sinh thái trong việc đề xuất một lối ứng xử tôn trọng
với tự nhiên của con người ngày nay.
98
KẾT LUẬN
Trước áp lực về khủng hoảng môi trường, phê bình sinh thái ra đời với sứ
mệnh cao cả là thông qua văn học để tìm ra căn nguyên dẫn đến nguy cơ sinh thái,
đe dọa đến sự sống Trái Đất. Trên bước đường để hoàn thiện chính mình, phê bình
sinh thái tìm về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong tư tưởng phương
Đông với hy vọng tìm ra phương pháp giải quyết nguy cơ sinh thái, cũng như xây
dựng đạo đức sinh thái để hướng con người ngày nay hình thành lối ứng xử hòa
hợp, trân trọng thiên nhiên, vạn vật. Với “cảm quan nhìn lại”, phê bình sinh thái tiến
hành suy xét những văn bản kinh điển trong quá khứ để thấy được tinh thần sinh
thái của người xưa trong các văn học đông tây kim cổ.
Nguyễn Trãi là nhà thơ lớn của dân tộc, những sáng tác của ông không chỉ có
giá trị về mặt văn học mà còn ở các mặt khác như chính trị, quân sự, ngoại giao.
Bên cạnh mảng thơ ưu tư về thời cuộc thế sự, Nguyễn Trãi còn sáng tác nhiều về
thiên nhiên. Là một người có tình yêu sâu nặng với thiên nhiên, cỏ cây được ông
nhắc đến nhiều trong Quốc âm thi tập. Do đó, việc sử dụng lý thuyết phê bình sinh
thái vào nghiên cứu thế giới cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là một điều rất cần
thiết bởi nó đã đem đến một cái nhìn mới về cỏ cây trong ý thức sinh thái của nhà
thơ so với những nghiên cứu trước đây.
Thẩm mỹ sinh thái là một trong những yếu tố cốt lõi làm nên đặc trưng của
phê bình sinh thái. Nó chú trọng đến cái đẹp tự nhiên nhưng cũng quan tâm đến vẻ
đẹp hài hòa, thống nhất. Hai vẻ đẹp ấy đều được thể hiện rõ nét trong thế giới cỏ
cây của thơ Nôm Nguyễn Trãi. Bằng sự quan sát tinh tế và một tâm hồn nhạy cảm
với thiên nhiên, cỏ cây xuất hiện với tất cả dáng vẻ mà tạo hóa đã ban tặng cho nó.
Đó là vẻ đẹp thiên chân, là vẻ đẹp của chính nó chứ không phải là vẻ đẹp do chủ
quan con người khoác cho. Với vẻ đẹp tự nhiên, cỏ cây hiện ra trước mắt người đọc
không chỉ đẹp ở sự khỏe khoắn, tràn đầy sức sống mà còn đẹp trong sự giản đơn,
gần gũi mà người đọc có thể gặp ở bất cứ đâu trên đồng quê nội cỏ Việt Nam.
Ngoài vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp chỉnh thể thống nhất hài hòa cũng được
Nguyễn Trãi nhìn nhận và phát hiện. Thế giới tự nhiên bao giờ cũng là một thế giới
phong phú, không tồn tại biệt lập mà có sự cộng cảm, sẻ chia, bao dung với nhau.
99
Con người, cỏ cây và các thành viên khác trong tự nhiên đều bình đẳng và không có
sự phân biệt giữa hai đối cực nhị nguyên. Theo đó, cỏ cây cũng có cảm xúc, có hơi
thở, có tình cảm trìu mến, có cuộc sống sinh hoạt giống với con người. Chúng luôn
quyến luyến, quấn quít với nhà thơ và các sinh thể khác trong tự nhiên.
Mối tương quan giữa Nguyễn Trãi với cỏ cây không phải là mối quan hệ
trong sự độc chiếm một phía nghiêng về con người mà là mối quan hệ cộng cảm,
hài hòa. Cỏ cây trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của nhà thơ xuất hiện với dáng
vẻ khác nhau: vừa đóng vai trò là một người bạn, người thân vừa là đối tượng thể
hiện cho cách sống nhàn, hòa mình vào vạn vật của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi yêu
đời, yêu cuộc sống, dù ở trong cảnh nghèo khó nhưng luôn có những phút giây ung
dung, tự tại với chính mình giữa thế giới tự nhiên.
Cỏ cây dù là một phần của tự nhiên nhưng chính nó lại gánh vác trách nhiệm
đại diện cho hình ảnh quê nhà Côn Sơn. Được nhắc đến nhiều trong thơ Nôm, thế
giới cỏ cây vô hình trung đã trở thành điểm tựa tinh thần giúp nhà thơ tìm về thế
cân bằng khi gặp mâu thuẫn nội tâm giữa xuất – xử, làm quan – trở về. Bên cạnh
đó, cỏ cây trong cái nhìn về ngoại giới của nhà thơ, xuất hiện với tư cách biểu hiện
cho thế giới triết lý huyền ảo, diệu kỳ nhưng cũng chính là đối tượng chuyển tải
những bài học kinh nghiệm về lẽ sống ở đời được bóc tách từ cuộc sống của chính
bản thân nhà thơ.
Thế giới cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi dưới góc nhìn phê bình sinh thái
là một khía cạnh đáng để tìm hiểu và nghiên cứu bởi nó không chỉ xác lập cỏ cây là
đối tượng văn học cần tìm hiểu mà còn thấy được sự khác biệt trong phương thức
ứng xử với thiên nhiên của Nguyễn Trãi so với một số nhà thơ trung đại khác.
Trong xã hội hiện đại, khi vấn đề môi trường sinh thái ngày càng trở nên cấp thiết,
thì việc trở về với văn chương thể hiện tình yêu thiên cũng góp phần giúp con người
hiện đại thay đổi cách ứng xử với tự nhiên. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài này
có thể được mở rộng ra khi nghiên cứu đề tài thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi nói
riêng và thơ của các nhà văn trung đại nói chung. Bằng góc nhìn phê bình sinh thái,
thế giới cỏ cây không chỉ hiện ra với nhiều góc độ đa chiều mà còn thấy được tư
tưởng đi trước thời đại của Nguyễn Trãi để rồi gặp gỡ với tinh thần của phê bình
sinh thái hiện đại.
100
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Văn Nguyên. (1994). Trúc. In trong Học tập thơ văn Nguyễn Trãi. Hà Nội: Nxb
Giáo dục.
Đặng Thanh Lê. (1980). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Nguyễn Trãi và đề tài
thiên nhiên trong dòng văn học yêu nước Việt Nam (tr. 686-696). Hà Nội: Nhà
xuất bản Giáo dục.
Đỗ Văn Hiểu. (2012). Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển. Truy cập
ngày 18/11/2018 từ https://phebinhvanhoc.com.vn/phe-binh-sinh-thai-coi-
nguon-va-su-phat-trien-phan-1-2.
Đỗ Văn Hiểu. (2014). Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang
tính cách tân. Truy cập ngày 18/11/2018 từ http:// tapchisonghuong.com.vn/
tap-chi/c273/n11088/Phe-binh-sinh-thai-khuynh-huong-nghien-cuu-van-hoc-
mang-tinh-cach-tan.html.
Đỗ Văn Hiểu. (2016). Tính “khả dụng” của phê bình sinh thái. Truy cập ngày
17/12/2018 từ https://dovanhieu.wordpress.com/ 2016/09/15/tinh-kha-dung-
cua-phe-binh-sinh-thai/.
Đoàn Thị Thu Vân. (1996). Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam
thế kỷ X – thế kỷ XIV. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Văn học và Trung tâm nghiên
cứu Quốc học.
Đoàn Thị Thu Vân. (2001). Tiếp cận thơ văn Nguyễn Trãi. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb
Trẻ, Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học.
Đoàn Thị Thu Vân. (2015). Con người nhân văn trên thi đàn Việt Nam sơ kỳ trung
đại. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
Đoàn Thị Thu Vân. (chủ biên). (2009). Văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỷ X –
cuối thế kỷ XIX). Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Giáo dục.
Hải Ngọc. (2017). “Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học” của Karen
Thornber. Truy cập ngày 08/01/2019 từ http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/ly-luan-va-phe-binh-van-hoc/6289-
nh%E1%BB%AFng-t%C6%B0%C6%A1ng-lai-c%E1%BB%A7a-
101
ph%C3%AA-b%C3%ACnh-sinh-th%C3%A1i-v%C3%A0-v%C4%83n-
h%E1%BB%8Dc.html.
Hoài Thanh. (1980). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Một vài nét về con người
Nguyễn Trãi qua thơ Nôm (tr. 697-717). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Hoàng Tố Mai. (chủ biên). (2017). Phê bình sinh thái là gì?. Hà Nội: Nxb Hội
Nhà văn.
Hồng Dương Nguyễn Văn Hai. (2010). Sát – na vô thường. Truy cập trang ngày
3/1/2019 từ https://thuvienhoasen.org/a6865/sat-na-vo-thuong.
Lê Bảo. (1998). Nguyễn Trãi, nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông. Hà
Nội: Nxb Giáo dục.
Lê Thị Thảo. (2015). Tìm hiểu thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập
của Nguyễn Trãi từ góc nhìn sinh thái. Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa
Việt Nam. Trường Đại học Thái Nguyên.
Lê Trí Viễn – Đoàn Thị Thu Vân. (1994). Tùng. In trong Học tập thơ văn Nguyễn
Trãi. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Nguyễn Hữu Sơn. (2001). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Hà Nội: Nxb
Giáo dục.
Nguyễn Hữu Sơn. (1995). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Về con người cá
nhân trong thơ Nguyễn Trãi (tr. 729-736). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Nguyễn Thị Tịnh Thy. (2017). Rừng khô, suối cạn, biển độc…và văn chương. TP
Huế: Nxb Khoa học xã hội.
Nguyễn Thiên Thụ. (1973). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Thiên nhiên trong
thơ Nguyễn Trãi (tr. 668-679). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Nguyễn Văn Hoàn. (1980). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Địa vị của Nguyễn
Trãi trong quá trình phát triển của lịch sử văn học Việt Nam (tr. 947-955). Hà
Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Mai Trân. (1962). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Tình yêu thiên nhiên trong
thơ Nguyễn Trãi (tr. 648-667). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Phạm Thị Ngọc Hoa. (2012). Thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi – Quan
niệm thẩm mỹ và phương thức nghệ thuật. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện
102
Khoa học xã hội. Truy cập ngày 4/6/2018 từ http:// luanan.nlv.gov.vn/
luanan?a=d&d=TTcFlGvJCrnq2012&e=-------vi-20--1--img-txIN-------.
Phạm Thị Ngọc Hoa. (2016). “Quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Trãi trong Quốc âm
thi tập”. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Quy Nhơn, Tập 10, Số 3 (2016),
51-57.
Phạm Thị Ngọc Trầm. (2002). Xây dựng đạo đức sinh thái – một trách nhiệm xã hội
của con người đối với tự nhiên. Truy cập ngày 18/2/2019 từ http://
philosophy.vass.gov.vn/ nghien-cuu-theo-chuyen-de/KHCN-MT/Xay-dung-
dao-duc-sinh-thai-mot-trach-nhiem-xa-hoi-cua-con-nguoi-doi-voi-tu-nhien-
663.html.
Phạm Thế Ngũ. (1997). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Quốc âm thi tập (tr.
638-647). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Quảng Trí. (2012). Khái niệm thời gian trong Phật giáo của Thích Hạnh Tuấn. Truy
cập ngày 2/1/2019 từ https://thuvienhoasen.org/a13504/khai-niem-thoi-gian-
trong-phat-giao-thich-hanh-tuan.
Trần Đình Sử. (2015). Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện
nay. Truy cập ngày 11/8/2018 từ http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-
muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/phe-binh-sinh-thai-tinh-than-
trong-nghien-cuu-van-hoc-hien-nay.
Trần Đình Sử. (1997). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Con người cá nhân
trong thơ Nôm Nguyễn Trãi (tr. 729-736). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Nguyễn Ngọc Vương. (1997). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Nhà tư tưởng và
nhà nghệ sĩ trong Quốc âm thi tập (tr. 737-764). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo
dục.
Trần Thị Ánh Nguyệt – Lê Lưu Oanh. (2016). Con người và tự nhiên trong văn
xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái. Vĩnh Phúc: Nxb
Giáo dục.
Trần Thị Ánh Nguyệt. (2014). Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi
trường của Cheryll Glofelty. Truy cập ngày 25/12/2018 từ http://
103
tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c310/n16166/Nghien-cuu-van-hoc-trong-
thoi-dai-khung-hoang-moi-truong.html.
Trần Thị Kim Phướng. (2017). Con người và thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi và
Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới góc nhìn sinh thái. Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và
Văn hóa Việt Nam. Trường Đại học Văn Hiến.
Xuân Diệu. (1980). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Quốc âm thi tập, tác phẩm
mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam (tr. 587-637). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo
dục.