ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ HỒNG CHUNG
THƠ LÒ CAO NHUM
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ HỒNG CHUNG
THƠ LÒ CAO NHUM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ HỒNG MY
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và chưa
từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Thái Nguyên ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn i
Nguyễn Thị Hồng Chung
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
MỤC LỤC ........................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ ............................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 5
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6
6. Dự kiến đóng góp của luận văn ....................................................................... 6
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 7
NỘI DUNG .......................................................................................................... 8
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THƠ DÂN TỘC THÁI VIỆT NAM
THỜI KỲ HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ LÒ CAO NHUM ..................... 8
1.1. Khái quát về thơ dân tộc Thái Việt Nam thời kỳ hiện đại ........................... 8
1.2. Giới thiệu về nhà thơ Lò Cao Nhum .......................................................... 12
1.2.1. Quê hương và gia đình nhà thơ ............................................................... 12
1.2.2. Con người ................................................................................................ 14
1.2. Giới thiệu về hành trình thơ Lò Cao Nhum ................................................ 15
Chương 2. CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH
TRONG THƠ LÒ CAO NHUM .......................................................... 18
2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Lò Cao Nhum .............................................. 18
2.1.1. Khái niệm cảm hứng chủ đạo .................................................................. 18
2.1.2. Cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương đất nước ........................................ 19
2.1.3. Tự hào về con người miền núi ................................................................. 27
2.1.4. Ngợi ca, tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc Thái và đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ii
bào miền núi Tây Bắc .............................................................................. 38
2.2. Nhân vật trữ tình ......................................................................................... 49
2.2.1. Khái niệm nhân vật trữ tình ..................................................................... 49
2.2.2. Nhân vật trữ tình mạnh mẽ, phóng khoáng ............................................. 50
2.2.3. Nhân vật trữ tình suy tư, hoài niệm ......................................................... 54
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ LÒ CAO NHUM ............... 66
3.1. Thơ Lò Cao Nhum giàu biểu tượng ........................................................... 66
3.2. Thể thơ tự do chiếm ưu thế ......................................................................... 79
3.3. Ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ của đồng bào miền núi ........................... 84
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 93
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng:
Bảng 3.1. Tổng hợp các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ Lò
Cao Nhum ........................................................................................ 67
Bảng 3.2. Thống kê thể thơ sử dụng trong các tập thơ của Lò Cao Nhum .......... 79
Bảng 3.3. Thống kê thể thơ sử dụng trong tập thơ Rượu núi .......................... 80
Biểu đồ:
Biểu đồ 3.1. Số lần sử dụng các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong
thơ Lò Cao Nhum ........................................................................ 67
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ sử dụng các thể thơ ............................................................ 79
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ sử dụng các thể thơ trong tập thơ Rượu núi ....................... 80
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, văn học viết dân tộc
thiểu số Việt Nam đã có những bước phát triển tích cực và đạt được những
thành tựu đáng khích lệ. Ngày càng nhiều tác giả người dân tộc thiểu số có tác
phẩm hay được bạn đọc đón nhận, chất lượng tác phẩm ngày một ổn định hơn.
Các thể loại văn học đạt được thành tựu là truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ…
Nằm trong dòng chảy thơ dân tộc thiểu số nói chung, thơ dân tộc Thái
không ngừng phát triển; nhiều tác giả, tác phẩm đã được “ghi danh” trong nền
thơ Việt Nam hiện đại: Cầm Biêu với Ngọn lửa không tắt (2001); Vương
Trung với Sóng Nậm Rốm (1979); Lò Cao Nhum với Soi gương núi (1997),
Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn (2001), Gốc trời (2009), Rượu núi
(2010)… Trong đó, Lò Cao Nhum là một trong số những tác giả tiêu biểu.
Là một cây bút thơ dân tộc Thái, Lò Cao Nhum đem đến cho bạn đọc
những bài thơ mang dấu ấn riêng. Thơ ông mang phong vị vùng núi Tây Bắc,
đặc biệt là phong vị đồng bào dân tộc Thái. Đó là những vẻ đẹp hùng vĩ và thơ
mộng của núi rừng Tây Bắc, là vẻ đẹp văn hóa Thái gắn liền với những lễ hội ở
Bản Lác, Mai Châu nơi ông sống; đó là những cảm nhận của một tâm hồn thiết
tha với văn hóa quê hương trong thời kỳ đổi mới, là những trải nghiệm của tác
giả trên mọi miền của Tổ quóc thân yêu...Đến với thơ Lò Cao Nhum, người đọc
cảm nhận được nhiều điều thú vị, hấp dẫn, sâu sắc về quê hương, đất nước; về
truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc Thái; về vẻ đẹp
tâm hồn nhà thơ.
Là một giáo viên môn Ngữ văn đang giảng dạy ở Hòa Bình, nơi nhà thơ
Lò Cao Nhum đang sống và sáng tác, tác giả luận văn mong muốn qua đề tài
nghiên cứu góp phần giới thiệu thơ Lò Cao Nhum và cuộc sống, văn hóa của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đồng bào dân tộc Thái và đồng bào miền núi cao Tây Bắc với công chúng độc
1
giả. Đồng thời, chọn đề tài nghiên cứu cụ thể một tác giả văn học dân tộc thiểu
số địa phương, luận văn còn hướng tới mục đích giúp cho việc giảng dạy văn
học địa phương ở Hòa Bình có hiệu quả hơn; mang đến cho các em học sinh
tình cảm gắn bó, tự hào về quê hương.
2. Lịch sử vấn đề
Lò Cao Nhum bắt đầu sáng tác thơ từ những năm bảy mươi của thế kỷ hai
mươi. Ông có thơ đăng báo đầu tiên là chùm thơ ba bài trên Tạp chí Văn nghệ
Hà Sơn Bình, số tháng 8 năm 1980 (Những tâm tư gặp mưa; Một sớm mùa
gặt; Em về Piềng Lướng). Ngay sau khi ra mắt, chùm thơ đầu tay này đã tạo
được sự chú ý với bạn đọc. Cũng trên tạp chí Văn nghệ Hà Sơn Bình, số tháng
9 năm 1980, tác giả Vũ Tuấn Anh (Viện Văn học Việt Nam) đã có bài viết giới
thiệu về hai chùm thơ của hai tác giả trẻ Lò Cao Nhum và Đinh Nam Khương
(Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam). Khi đó, Lò Cao Nhum là một nhà thơ trẻ,
mới bước chân vào “làng” văn nghệ. Bài giới thiệu của Vũ Tuấn Anh về chùm
thơ ba bài của Lò Cao Nhum đã có ý nghĩa động viên rất lớn đối với nhà thơ
dân tộc Thái đến từ Hòa Bình này.
Năm 1996, nhà thơ Lò Cao Nhum in tập thơ Rượu núi. Sau đó một năm,
năm 1997, trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam số tháng 4, nhà thơ
Nguyễn Đức Mậu đã có bài viết giới thiệu về bài thơ Rượu núi, khẳng định sự
độc đáo “cả về ý lẫn tình” của bài thơ: “Toàn bộ bài thơ Rượu núi được viết
bằng bút pháp giản dị, giàu chất dân tộc. Phải chăng Rượu núi là thứ rượu
chan chứa tình đời, tình người, và chính những câu thơ hay trong bài cũng là
men rượu chắt ra từ cuộc sống? Trong cuộc thi truyện ngắn và thơ năm 1996
do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức, bài thơ Rượu núi đã giành được vị trí
xứng đáng trong số các giải thưởng, thực sự là một đóng góp độc đáo cả về ý
lẫn tình” [dẫn theo 25]. Đến nay Rượu núi vẫn là một trong những bài thơ hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhất của Lò Cao Nhum. Bằng “con mắt xanh”, Nguyễn Đức Mậu đã giúp cho
2
sắc màu, hương vị của bài thơ Rượu núi lan toả đến bạn đọc, bắc chiếc cầu nối
đưa Rượu núi của Lò cao Nhum đến với người yêu thơ.
Năm 2000, ngay sau khi Lò Cao Nhum in tập thơ Sàn trăng, nhà thơ
Trần Quốc Thực đã viết bài giới thiệu tập thơ Sàn Trăng với nhan đề: Lò Cao
Nhum trên Sàn trăng in trên báo Văn nghệ dân tộc miền núi của Hội nhà văn
Việt Nam. Nhà thơ Trần Quốc Thực đã cảm nhận được sự gắn bó của Lò Cao
Nhum với quê hương miền núi và đặc điểm ngòi bút Lò Cao Nhum trong cách
diễn đạt, thể hiện cảm xúc: “Muốn tìm gặp Sàn trăng của Lò Cao Nhum, dứt
khoát phải đi qua vùng Rẻo cao Pù Bin rồi. Gian khổ là cái chắc. Ở đấy có sấm
rền bất chợt, có gió lành gió độc, có mưa như khóc, có củi ướt khói bay đỏ mắt, có
cái nết lầm lỳ của người miền núi và cái tình Pù Bin bền như củi lửa bốn mùa...
Rõ ràng ngay từ đầu, Lò Cao Nhum đã không hề có ý định thi vị hóa con người và
cảnh vật quê hương mình. Cái nếp ngay thẳng của người miền núi đã tạo cho anh
có cách cảm xúc và diễn đạt khúc triết, có độ nén riêng trong thơ” [31].
Năm 2011, trong cuốn Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện
đại - Một số đặc điểm, Lò Cao Nhum được nhắc đến với các tập thơ: Giọt sao
trở về (1995), Rượu núi (1996), Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn
(2001), Lò Cao Nhum được xếp vào hàng các nhà thơ trẻ sau năm 1975 đến
nay với nét “trẻ trung, sôi nổi, hồn nhiên và giàu sức sáng tạo” [34]. Trong
công trình nghiên cứu này, Lò Cao Nhum mặc dù chưa được giới thiệu như
một tác giả tiêu biểu, song thơ ông được nhìn nhận dưới góc độ phê bình văn
học với những nhận xét thỏa đáng. Điều đó đã giúp cho quá trình nghiên cứu
thơ Lò Cao Nhum có điểm tựa chắc chắn.
Ngoài những bài viết về thơ Lò Cao Nhum kể trên, chúng tôi còn tham
khảo những bài viết về thơ Lò Cao Nhum đăng tải trên website. Tác giả Đỗ
Thu Huyền (Viện Văn học) với bài viết Lò Cao Nhum tình bền củi lửa đã có
cái nhìn khái quát về 7 tập thơ của Lò Cao Nhum: “Qua 7 tập thơ (Giọt sao trở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
về (1995), Rượu núi (1996), Soi gương núi (1997), Sàn trăng (2000), Theo
3
lời hát về nguồn (2001), Gốc trời (2009), Rượu núi - thơ chọn lọc, (2010)
người đọc tưởng như khó nắm bắt ngay phong cách thơ Lò Cao Nhum nhưng
chính qua sự thoạt tiên rời rạc, pha tạp ấy chúng ta tìm được sự nhất quán, đấy
là mạch cảm xúc của một con người lúc nào cũng khát khao khám phá và
chiêm nghiệm” [12]. Bài viết của Đỗ Thu Huyền tập trung khám phá phong
cách thơ Lò Cao Nhum. Tác giả đã nhận thấy từ thơ Lò Cao Nhum cốt cách của
một con người “nâng niu, trân trọng” văn hoá Thái “trong từng câu chữ, hình
Nhà thơ Bùi Việt Phương trên website Văn học quê nhà có bài viết Nét
ảnh và giọng điệu” [12].
mới trong thơ Lò Cao Nhum. Tác giả bài viết đã khẳng định hồn thơ của Lò
Cao Nhum: “Cái tên Lò Cao Nhum bấy lâu nay đã bị “đóng đinh” vào Rượu
núi, bởi rượu núi hay bằng rượu núi?... Không phải vì rượu núi đã cạn vì tiếp
sau tiếng vang đó anh vẫn có Nóc nhà ta có hoa khau cút, Sàn trăng, Lời
tháng giêng… mà bởi trong thơ của chàng thi sĩ Thái đã xuất hiện những
hướng nghĩ khác, những suy tư cật vấn” [26]. Bùi Việt Phương đã nhận thấy,
sau Rượu núi, Lò Cao Nhum đã có những bài thơ đặc sắc khác, với những
hướng suy tư “cật vấn” hơn.
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum tác giả luận văn nhận thấy,
các ý kiến viết về thơ Lò Cao Nhum nhìn chung thống nhất, nhiều bài có những
điểm chung trong nhận xét. Các bài viết nói trên đã khẳng định những ‘nét
riêng” trong thơ Lò Cao Nhum: thơ ông mang cốt cách của một con người yêu
dân tộc mình tha thiết với những tin tưởng, lạc quan; hồn thơ gắn bó tha thiết
với quê hương miền núi với những khao khát khám phá, chiêm nghiệm; bút
pháp thơ giản dị, diễn đạt khúc triết, có độ nén trong thơ.
Tuy nhiên, các bài viết về thơ Lò Cao Nhum chủ yếu nhằm giới thiệu khái
quát về thơ ông; hoặc cảm nhận, phê bình về một số bài thơ cụ thể. Cho đến
nay, chưa có một công trình chuyên sâu nào nghiên cứu toàn bộ sáng tác của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhà thơ Lò Cao Nhum.
4
Hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu về thơ Lò Cao Nhum sẽ tiếp tục được
mở rộng, đi sâu trong công trình nghiên cứu này; từ đó có được bức chân dung
hoàn chỉnh hơn về một nhà thơ dân tộc Thái trong diện mạo thơ dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu đặc điểm thơ Lò Cao Nhum; đánh giá đóng góp của nhà thơ
đối với sự phát triển của thơ dân tộc Thái nói riêng và thơ ca dân tộc thiểu số nói
chung; làm tài liệu giảng dạy văn học địa phương tại các trường trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình; vận dụng vào nghiên cứu, phát triển văn hoá, văn học địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về nhà thơ Lò Cao Nhum và những yếu tố ảnh hưởng đến
sáng tác thơ của ông.
- Làm rõ đặc điểm cơ bản về nội dung, nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum.
- Kết luận, đánh giá về những đóng góp của nhà thơ Lò Cao Nhum trong
sự phát triển của thơ dân tộc Thái hiện đại, khẳng định được vị trí của nhà thơ
trong nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
- Đề xuất việc vận dụng kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các tập thơ in chung và
riêng của nhà thơ Lò Cao Nhum; cụ thể là bảy tập thơ sau:
1. Giọt sao trở về, Thơ, Hội VHNT Hòa Bình, 1995.
2. Rượu núi, Thơ, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 1996.
3. Mùa hoa chuông, Thơ in chung 3 tác giả, Sở VHTT Hòa Bình, 1997.
4. Sàn trăng, Thơ, Hội VHNT Hòa Bình, 2000.
5. Theo lời hát về nguồn, Thơ, Hội VHNT Hòa Bình, 2001.
6. Gốc trời, Thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2009.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
7. Rượu núi, Thơ chọn, Nhà xuất bản Văn học, 2010.
5
Trong quá trình triển khai làm luận văn, tác giả mở rộng phạm vi nghiên
cứu đến các thể loại khác của Lò Cao Nhum (ký, dịch) và so sánh, đối chiếu
với tác phẩm của một số nhà thơ dân tộc thiểu số khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cơ bản như sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu tác giả văn học
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum; lý giải
những tác động của hoàn cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa dân tộc, thiên nhiên,
cuộc sống, con người tới khát vọng sáng tạo của nhà thơ.
5.2. Phương pháp khảo sát, thống kê
Luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát, thống kê làm căn cứ để
phân tích, đánh giá các nội dung nghiên cứu, giúp cho việc triển khai các luận
điểm, luận cứ được sáng tỏ.
5.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp này được sử dụng để phân tích đặc điểm nội dung và nghệ
thuật thơ Lò Cao Nhum; từ đó, tổng hợp, khái quát những đóng góp của Lò Cao
Nhum đối với văn học địa phương Hòa Bình - Tây Bắc nói riêng và văn học dân
tộc thiểu số nói chung.
5.4. Phương pháp so sánh
Cùng với việc phân tích những nét mới trong nội dung và nghệ thuật
trong thơ Lò Cao Nhum, tác giả luận văn tiến hành so sánh, đối chiếu với một
số tác phẩm của một số nhà thơ dân tộc thiểu số khác nhằm khẳng định vị trí,
tìm ra nét chung và nét riêng trong thơ Lò Cao Nhum so với các cây bút dân tộc
thiểu số khác, nhất là đối với các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
lý giải những tác động của hoàn cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa dân tộc, thiên
6
nhiên, cuộc sống, con người tới khát vọng sáng tạo của nhà thơ; phân tích
những đặc điểm nội dung và nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum; góp phần khẳng
định vị trí và những đóng góp của Lò Cao Nhum trong sự phát triển của thơ ca
dân tộc thiểu số hiện đại.
Đề tài nghiên cứu về thơ Lò Cao Nhum đóng góp thêm cho việc nghiên
cứu thơ dân tộc Thái và nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa khích lệ, thúc đẩy sáng tác của các tác giả là
người dân tộc thiểu số của tỉnh Hòa Bình nói riêng và vùng núi cao Tây Bắc
nói chung.
Từ năm học 2008 - 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Công văn số
5977/BGD&ĐT-GDTrH ngày 07/7/2008, về việc hướng dẫn thực hiện nội
dung giáo dục địa phương ở cấp THCS và cấp THPT; Năm học 2015 - 2016,
Sở GD&ĐT Hòa Bình có công văn số 1649/SGD&ĐT-TrH ngày 10/9/1015 về
việc hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục địa phương cấp THCS, THPT (Phụ
lục 1). Cả hai văn bản nói trên đều thống nhất hướng dẫn thực hiện nội dung
giáo dục địa phương đối với các nhà trường là “cần tham khảo các tài liệu về
văn hoá, ngôn ngữ, tác phẩm văn học sáng tác về đề tài địa phương hoặc tác
giả người địa phương”. Như vậy, luận văn Thơ Lò Cao Nhum sẽ cung cấp
thêm một tư liệu khoa học đáng tin cậy; góp phần làm phong phú thêm tài liệu
nghiên cứu, giảng dạy, học tập văn học địa phương trong các nhà trường ở tỉnh
Hòa Bình.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có ba phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận. Phần Nội dung
được triển khai theo ba chương:
Chương 1: Khái quát về thơ dân tộc Thái Việt Nam thời kỳ hiện đại và
nhà thơ Lò Cao Nhum.
Chương 2: Cảm hứng chủ đạo và nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum.
7
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THƠ DÂN TỘC THÁI VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
VÀ NHÀ THƠ LÒ CAO NHUM
1.1. Khái quát về thơ dân tộc Thái Việt Nam thời kỳ hiện đại
Hòa chung sự phát triển của nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời
kỳ hiện đại, văn học dân tộc Thái ngày một phát triển và có được nhiều thành
công. Trong đó, thơ là một trong những thể loại kết tinh được nhiều thành tựu
nhất, thể hiện ở sự phát triển của lực lượng sáng tác, chất lượng tác phẩm, nội
dung phản ánh và hình thức nghệ thuật.
Từ trước năm 1945, thơ ca dân tộc Thái chủ yếu là các tác phẩm văn học
dân gian như truyện thơ Xống chụ xon xao, Khun lú - Nàng ủa, Tản chụ xiết
sương… Tác phẩm được cho là đóng vai trò là bước chuyển tiếp giữa thơ ca
dân gian và thơ dân tộc Thái hiện đại là Lời hát nền Văn Hoan của nghệ nhân
Ngần Văn Hoan: “Lời hát nền Văn Hoan đã đóng vai trò là bước chuyển tiếp
giữa thơ ca dân gian và thơ ca dân tộc Thái hiện đại, chuẩn bị những tiền đề
quan trọng để hình thành và phát triển thơ ca dân tộc Thái hiện đại nói riêng
và thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại Việt Nam nói chung” [dẫn theo 32, tr.60].
Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, được Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm, văn học dân tộc thiểu số không ngừng phát triển và nhanh chóng
khẳng định vị thế của mình. Thơ ca dân tộc Thái hiện đại cũng giữ một vai trò
quan trọng trong sự phát triển thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại nói chung.
Đội ngũ các nhà thơ dân tộc Thái phát triển nhanh, số lượng tác phẩm ngày
một phong phú, nhiều cây bút đã đạt được những thành công đáng ghi nhận. Ban
đầu, bạn đọc chỉ mới biết đến một số tên tuổi như Cầm Biêu, Lương Quy Nhân,
Hoàng Nó. Thế hệ các nhà thơ trưởng thành sau đó gồm có Vương Trung, Lò Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Cậy, La Quán Miên… Sau năm 1975 có thêm nhiều tác giả trẻ sớm khẳng định
8
được tên tuổi như Lò Vũ Vân, Lò Cao Nhum, Cầm Bá Lai, Cà Thị Hoàn, Lò
Ngọc Duyên… Cho đến nay, đội ngũ các nhà thơ dân tộc Thái hiện đại ngày một
trưởng thành; sáng tác ngày càng phong phú, đa dạng và hấp dẫn.
Cầm Biêu, Lương Quy Nhân, Hoàng Nó… là lớp các nhà thơ dân tộc
Thái thuộc thế hệ đầu tiên. Họ đều sinh vào những năm hai mươi của thế kỷ
XX: Cầm Biêu (1920 - 1998), Lương Quy Nhân (1926 - 1996), Hoàng Nó (sinh
năm 1925); đều bắt đầu sáng tác từ sau Cách mạng tháng Tám. Người cho ra
mắt tập thơ đầu tay sớm nhất là Lương Quy Nhân với tập Cán bộ với dân
mường (1947). Người có số lượng sáng tác nhiều nhất là Cầm Biêu với 09 tác
phẩm (Thơ ca Hạn Khuống (1957), Hạn Khuống (1992), Cầu văn bản
(1982), Ánh hồng Điện Biên (1984), Thơ cưới xin và lên nhà mới (1992),
Bản Mường nhớ ơn (1994), Ngọn lửa không tắt - Peo Phầy mì mọt
(1995)…). Nhà thơ Hoàng Nó từ khi cầm bút cho đến năm 1993 đã xuất bản 05
tác phẩm (Diễn ca khu tự trị (1954), Lòng dân miền núi (1957), Chị công
nhân cầu đường (1957), Tiếng hát mường hoa lan (1987), Vượt sông Đà
(1993). Lớp nhà thơ này là những người đầu tiên vượt mọi khó khăn mở ra con
đường đưa thơ dân tộc Thái đến với đến với thơ hiện đại Việt Nam.
Lớp các nhà thơ trưởng thành sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1954) cũng đã đem đến cho thơ dân tộc Thái nhiều thành công. Nhà thơ
Vương Trung (1938 - 2012) ngoài viết tiểu thuyết, dịch thơ cổ, nghiên cứu sử
thi, đã sáng tác các tập thơ: Ing-Éng (thơ tiếng dân tộc và dịch tiếng phổ thông,
1967); Sóng Nậm Rốm (thơ, 1979). Nhà thơ Lò Văn Cậy (sinh năm 1928)
được bạn đọc biết đến với tác phẩm thơ Hạt muối hạt tình (1986). Thời gian
này, các nhà thơ lớp trước vẫn tiếp tục sáng tác. Lương Quy Nhân (sinh năm
1926) đã xuất bản khá nhiều tác phẩm như Cán bộ với dân Mường (tập thơ
chữ Thái, khu tự trị Thái - Mèo xuất bản 1947), Hoa đang nở (tập thơ chữ Thái
cho thiếu nhi, khu tự trị Tây Bắc xuất bản 1961), Thơ Lương Qui Nhân (tuyển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thơ, Khu tự trị Tây Bắc xuất bản 1960), Biên giới lòng người (Nhà xuất bản
9
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội), Hoa trời (Hội Văn nghệ Lai Châu xuất bản 1987),
Độ dày của tình yêu (thơ song ngữ, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc Hà Nội
1994). Sự tiếp nối và kế tục giữa các lớp nhà thơ đã góp phần khẳng định sự
trưởng thành của thơ dân tộc Thái.
Đặc biệt, sau năm 1975 xuất hiện thêm nhiều nhà thơ trẻ, có nhiều tác
phẩm xuất sắc. Tiêu biểu có Lò Vũ Vân (sinh năm 1943) với Lời cây sáo ôi
(2001), Vòng xòe và sao xa; Cầm Bá Lai (1950 - 1988) có tập Hoa và nắng;
Lò Cao Nhum với 7 tập thơ Giọt sao trở về (1995), Rượu núi (1996), Soi
gương núi (1997), Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn (2001), Gốc trời
(2009), Rượu núi - thơ chọn lọc (2010).
Các nhà thơ dân tộc Thái dù có những điểm khác nhau về thời đại, vùng
miền, nghề nghiệp, học vấn… nhưng cội nguồn và văn hóa dân tộc đã bồi đắp
nên những hồn thơ dung dị, giàu lòng nhân ái, yêu thiên nhiên, quê hương làng
bản, yêu văn hóa dân tộc mình.
Nguồn cảm hứng vô tận tạo nên hồn thơ Thái đặc sắc là thiên nhiên
hùng vĩ, nên thơ; những phong tục, tập quán đậm đà bản sắc dân tộc; những
con người chất phác hồn hậu giàu tình cảm, đặc biệt là người con gái Thái
khỏe mạnh, đảm đang, xinh đẹp, khéo léo, dịu dàng.
Một trong những đặc trưng dễ nhận thấy trong thơ của các nhà thơ dân tộc
Thái là ở sự gắn bó, yêu mến đến đắm say thiên nhiên hùng vĩ, nên thơ của quê
hương. Đến với thơ ca dân tộc Thái ta có thể bắt gặp những đỉnh núi cao hùng vĩ,
những cánh đồng cỏ xanh mướt nối tiếp nhau đến tận chân trời, những con gió
quen thuộc nhiều vẻ nhưng thân thương gần gũi trong thơ Lương Quy Nhân:
“Gió về đây, gió ơi!
Mong gió hãy về mát mẻ
Gió giong đường thuyền, gió ruổi đường xe
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Gió lướt đường trời xanh cao, gió ơi!...
10
…Đã làm gió, gió đừng giận dữ
Gió giận dữ lửa sẽ cháy tàn
Đã làm gió, gió đừng gắt gỏng
Gió gắt gỏng tim người sẽ đau”
(Gió - Nhà xuất bản Giáo dục 2005)
Các nhà thơ dân tộc Thái luôn có nguồn cảm hứng đặc biệt trước vẻ đẹp
nguyên sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Những hình ảnh ruộng bậc thang
như bắc đến tận trời, những cánh đồng lúa chín vàng ẩn hiện trong sương sớm,
những cao nguyên đồng cỏ xanh mướt tới tận chân trời hay màu trắng tinh
khiết của hoa Ban rừng quyến rũ… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn các
nhà thơ; đồng thời, hiện thực cuộc sống, tình yêu, lao động sản xuất, phong tục
tập quán, văn hóa… cũng đi vào thơ. Đọc thơ ca Thái thời kỳ hiện đại, “chúng
ta có thể hình dung ra một cách cụ thể và sinh động cảnh sắc thiên nhiên, con
người, cùng những nếp sinh hoạt cũng như những phong tục tập quán đậm đà
bản sắc của người Thái, thấu hiểu được thế giới tâm hồn vốn rất phong phú
của người Thái” [33, tr.294].
Thơ dân tộc Thái vừa kết tinh, kế thừa những đặc trưng của thơ dân gian
Thái, vừa có tính hiện đại. Trong quá trình phát triển, các nhà thơ Thái đã phát
hiện và khẳng định “thần thái”, “hồn vía”, bản sắc và tầm vóc dân tộc mình.
Sự trưởng thành về đội ngũ và chất lượng sáng tác của thơ dân tộc Thái
được tác giả Trần Thị Việt Trung khẳng định trong công trình nghiên cứu Bản
sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại: “Có thể thấy, số
lượng các tác phẩm thơ Thái ngày càng nhiều và chất lượng các tác phẩm ngày
càng được nâng cao. Nhiều bài thơ của các tác giả dân tộc Thái được bạn đọc
yêu mến, thừa nhận; nhiều tác phẩm, tập thơ được trao những giải thưởng có
uy tín như: Ngọn lửa không tắt (Cầm Biêu) - đạt Giải A của Uỷ ban toàn quốc
Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam 1995, Hoa và nắng (Cầm Bá Lai) được trao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
giải B của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 1997;
11
Rượu núi của Lò Cao Nhum đạt giải C cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ quân
đội, Giải A Giải thưởng văn học nghệ thuật Hoà Bình 50 năm, (1998)... Đó
không chỉ là sự thừa nhận về chất lượng nghệ thuật của thơ ca Thái mà còn là
sự khẳng định vị trí cũng như những đóng góp của thơ Thái đối với nền thơ ca
dân tộc Việt Nam hiện đại” [33, tr.238].
Có thể nói, môi trường thơ ca với nhiều vẻ đẹp của đồng bào dân tộc
Thái đã giúp tâm hồn Lò Cao Nhum ủ ấp, chưng cất và kết tinh được chất men
say độc đáo trong thơ.
1.2. Giới thiệu về nhà thơ Lò Cao Nhum
1.2.1. Quê hương và gia đình nhà thơ
Lò Cao Nhum người dân tộc Thái, quê ở Mai Châu, Hòa Bình; sinh ngày
09 tháng 06 năm 1955, tại một một bản nhỏ bên núi Khọ Pha, nơi ông bà ngoại
nhà thơ sơ tán thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Người Thái ở Mai Châu có cội nguồn từ vùng đất Mường Hước Pước
Khà tức là miền Bắc Hà thuộc tỉnh Lào Cai ngày nay, theo dọc sông Hồng rẽ
sang sông Đà, rồi tới lập nghiệp ở vùng Mộc Châu, vùng Mường Khoòng,
Thanh Hóa và vùng Mai Châu Hòa Bình tính đến nay được khoảng trên dưới
700 năm, tức vào khoảng đầu thế kỷ XIV.
Mai Châu là con đường tơ lụa giao lưu buôn bán giữa người Kinh ở Thăng
Long - Hà Nội, người Mường ở tỉnh Hòa Bình, người Thái ở các tỉnh Sơn La, Hòa
Bình, Thanh Hóa với các tộc người Lào ở đất nước Triệu Voi. Con đường đó từ
kinh đô Thăng Long - Hà Nội theo thuyền buôn lên chợ Bờ tới chợ Suối Rút và đi
đường bộ vào Mai Châu, sang Quan Hóa lên Mường Lát và sang Lào.
Bản Chác Lác (tức bản Lác ngày nay) đã có tên trong gia phả này ngay
khi người Thái đặt chân đến mường Mùn khai phá mở mang đất đai cư trú và
sinh sống. Bản Chác Lác nằm thuộc vùng trung tâm của mường Mùn, cũng là
trung tâm các Tạo mường cư trú. Mặt khác, thung lũng mường Mùn được bao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bọc bởi các dãy núi cao. Bởi vậy, văn hóa cổ truyền Thái ở bản Lác cũng như
12
của mường Mùn nói chung rất đậm đặc sắc thái, khác với một số vùng tiếp giáp
các nền văn hóa khác như đã nói trên.
Lò Cao Nhum gắn bó với quê hương Tây Bắc. Dấu ấn quê hương in rõ
nét trong thơ ông từ các hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên Tây Bắc như đá
núi, rừng cây, dòng sông, mây, gió, tiếng chim hót, mặt trời... đến những phong
tục tập quán như tục bắt vợ, tục ở rể của người Thái, tục cúng thần linh ngày
mùa (Bắt vợ, Sàn trăng…); những lễ hội quen thuộc của bản làng quê hương
qua đêm múa xòe, lễ khuộng mùa (Đêm xòe và múa lăm vông, Đêm mường
Bui, Tung còn…); những sinh hoạt trong lao động sản xuất như phát nương,
làm rẫy, đan phên, dựng nhà, chống sàn, sửa gác (Bàn tay, Trên bờ lúa…);
những vật dụng, đồ dùng, những hình ảnh quen thuộc của người Thái như nhà
sàn, cầu thang, bếp lửa, hoa khau cút, vò rượu cần… (Sàn trăng, Nóc nhà ta có
hoa khau cút…).
Ngoài quê hương, những yếu tố từ gia đình cũng có ảnh hưởng lớn đến
sự nghiệp sáng tác của nhà thơ. Ông nội của Lò Cao Nhum sinh ra trong một
gia đình nghèo tại bản Tòng (xã Tòng Đậu, Mai Châu, Hòa Bình). Người cha
Lò Cao Nhum sinh năm 1931 tại bản Lác, xã Chiềng Châu, Mai Châu, Hòa
Bình. Từ thuở niên thiếu, ông đã nhanh chóng hòa nhập vào các phong trào
cách mạng như tham gia giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám tại
huyện, tham gia du kích kháng chiến chống Pháp tại địa phương, tham gia Ban
quản trị Hợp tác xã và nhiều năm là Bí thư Chi bộ bản Lác.
Trong cảm nhận của nhà thơ Lò Cao Nhum, ông nội và người cha của
nhà thơ là hai con người vừa bình dị, vừa phi thường. Hình ảnh ông nội và
người cha của nhà thơ đã trở đi trở lại nhiều lần với nhiều xúc cảm khác nhau,
đôi chỗ nó sáng lên như những hình ảnh đẹp (Ông nội tôi khai sinh miền đất).
Lò Cao Nhum mồ côi mẹ từ năm lên hai tuổi, có lẽ vì thế mà trong thơ
ông, bạn đọc luôn cảm nhận một nỗi khát khao tình mẹ đến cháy bỏng. Nỗi khát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
khao ấy khiến hình ảnh về người mẹ có khi được chuyển hóa thành người phụ nữ
13
nói chung, hay hình ảnh người bà, người vợ… Dù là hình ảnh nào thì người phụ
nữ trong thơ ông luôn là người tận tâm với gia đình, đảm đang, giỏi giang, tháo
vát, ân cần, tận tụy, thủy chung… (Mưa, Bà đi tàu thủy xuôi sông Đà…).
Gia đình và quê hương, là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến con
đường văn chương của nhà thơ. Nó vừa là động lực thôi thúc, vừa là nguồn
cảm hứng, vừa là đề tài, vừa là chất liệu đầy ắp và tiềm tàng những hình ảnh,
hình tượng, cách suy nghĩ, cách triết lý mộc mạc mà sâu sắc của người Thái.
1.2.2. Con người
Nhà thơ Lò Cao Nhum là một người giàu nghị lực, luôn khao khát vươn
lên trong cuộc sống. Ông mồ côi mẹ từ nhỏ nhưng không chịu chấp nhận sự
thua thiệt của số phận. Lớn lên gặp thời chiến tranh ác liệt ở cả hai miền Nam
Bắc đang tạm thời chia cắt nên việc học hành của ông bị đứt đoạn liên tục. Mặc
dù vậy, ông vẫn luôn phấn đấu học hỏi không ngừng. Năm 16 tuổi (1971), nhà
thơ nhập ngũ theo lệnh tổng động viên, gia nhập lực lượng Công an nhân dân
vũ trang của tỉnh. Những năm này, rồi về sau nữa, theo các vị trí công việc
khác nhau, Lò Cao Nhum phải nỗ lực củng cố bồi bổ thêm kiến thức của mình
bằng cách theo học các lớp tại chức, các lớp bồi dưỡng như sư phạm, công an,
kế toán, văn hóa...
Trong hành trình phấn đấu không ngừng, nhà thơ Lò Cao Nhum đã tích
cực tham gia vào các hoạt động văn hóa văn nghệ và đạt được nhiều thành
công. Tháng 1 năm 2001, Lò Cao Nhum trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam. Ngoài ra, ông còn là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Việt Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật Hòa Bình… Lò Cao Nhum từng đi
nhiều nơi, đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau và có nhiều đóng góp tích
cực. Ông từng là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình các
nhiệm kỳ 2,3,4; Ủy viên Ban Thường vụ Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhiệm kỳ 4; Ủy viên Ban văn học dân tộc miền núi Hội Nhà văn Việt Nam
14
nhiệm kỳ 7; Ủy viên Ban Kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ 8; Trưởng
phòng Biên tập, Thư ký tòa soạn báo Văn nghệ Hòa Bình...
Mặc dù đã trải nhiều nghề khác nhau, nhưng với Lò Cao Nhum, niềm
đam mê lớn nhất của ông vẫn là thơ. Với ông, làm thơ trước hết là để sẻ chia
tâm tư tình cảm với mọi người. Nhà thơ khao khát sẻ chia những vần thơ của
mình với bạn đọc mọi miền đất nước. Trong sâu thẳm tâm hồn mình, nhà thơ
luôn nặng trĩu một nỗi lòng với văn hóa Thái. Ông tâm sự: “Tôi viết khi nào
cần viết, cần nói ra. Viết tự nhiên theo giọng của mình, tức là cách nghĩ cách
cảm của người Thái miền núi. Viết được như vậy tôi cho là thành công” (ghi
trực tiếp).
Với những trải nghiệm cuộc sống và niềm say mê tìm hiểu, sáng tác văn
học, Lò Cao Nhum đã có những thành công nhất định trên hành trình lao động
nghệ thuật. Ông đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong văn học dân tộc
Thái nói riêng và trong văn học dân tộc thiểu số nói chung.
1.2. Giới thiệu về hành trình thơ Lò Cao Nhum
Lò Cao Nhum ngoài sáng tác thơ còn viết ký, dịch, sưu tầm, khảo cứu.
Tác phẩm của ông gồm nhiều thể loại:
Ký: Phiên chợ hoa văn, Hội Văn học nghệ thuật Hòa Bình, 2005;
Sưu tầm, dịch dân ca ca Thái: Dân ca Thái Mai Châu, Sở Văn hóa
Thông tin Hà Sơn Bình, 1991; Lời hát trong lễ hôi Chá Chiêng, Nhà xuất bản
Văn hóa dân tộc, 2001;
Khảo cứu: Bếp lửa trong đời sống người Thái, Nhà xuất bản Văn hóa
dân tộc, 2008.
Tuy nhiên, Lò Cao Nhum say mê nhất vẫn là thơ. Ông làm thơ từ trước
những năm 80 của thế kỷ XX, đến nay đã xuất bản 07 tập thơ.
Năm 1995, ông in tập thơ đầu tay Giọt sao trở về. Tập thơ gồm 31 bài, in
ở Nhà xuất bản Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình. Tập thơ đầu tay này bao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
gồm các bài thơ ông sáng tác từ năm 1981 đến năm 1995. Xuyên suốt tập thơ là
15
cái nhìn của một con người dần trưởng thành. Bắt đầu là một chàng trai trẻ đi
xa về cảm thấy xao xuyến trước tình cảm của người thân, làng xóm, và niềm
hạnh phúc lớn lao khi được làm cha: “Cúi hôn gót chân con làm bố” (Trở lại
nhà sàn). Bài thơ kết thúc tập thơ là cái nhìn của một người đàn ông từng trải,
nặng trĩu tâm sự với những đổi thay, vấp ngã của cuộc đời. Giọt sao trở về tuy
chưa gây được nhiều chú ý của bạn đọc nhưng đã đánh dấu sự thành công bước
đầu của một nhà thơ trẻ.
Năm 1996, Lò Cao Nhum in tập Rượu núi. Tập thơ này gồm 34 bài
(trong đó có 33 bài là sáng tác mới, 01 bài được chỉnh sửa và in lại - Ngã ba
suối). Một số bài thơ trong tập Rượu núi đã nhận được những giải thưởng có
giá trị: Hai bài thơ Chiều núi, Ngã ba suối đã nhận được giải thưởng Chùm thơ
hay trong năm, báo Văn nghệ Trẻ, 1996. Sau đó, với bài thơ Rượu núi, Lò Cao
Nhum được tặng giải C cuộc thi Thơ của Tạp chí Văn nghệ quân đội 1996 - 1997.
Đến tập thơ Rượu núi, bạn đọc cảm nhận rõ một Lò Cao Nhum như “thăng hoa”
hơn khi viết về quê hương, bạn bè và những người thân. Ông đã có những câu thơ
rất xuất sắc: “Ngửa bàn tay cũng da/ Úp bàn tay cũng thịt”, “Rượu nhà tôi/ Ủ từ
sắc lá rừng gai/ Chắt từ củ mài hốc đá/ Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài/ … Đã
uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà say” (Rượu núi) hay “Mỗi
ngày tôi một ban mai/ Trồng một tia nắng/ Gặt chùm nụ cười chín rực” (Ban
mai)… Có thể nói, với tập thơ Rượu núi, Lò Cao Nhum đã đánh dấu một bước
tiến quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của mình đó là khẳng định được tài
năng thơ của mình trước công chúng.
Trong khoảng hơn chục năm sau này, Lò Cao Nhum vẫn miệt mài sáng
tác. Ông đã ra mắt bạn đọc các tập thơ: Mùa hoa chuông (10 bài), Thơ in
chung 3 tác giả, Sở Văn hóa Thông tin Hòa Bình, 1997; Sàn trăng (37 bài),
Thơ, Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình, 2000; Theo lời hát về nguồn (53 bài),
Thơ, Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình, 2001; Gốc trời (56 bài), Thơ, Nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
xuất bản Hội Nhà văn, 2009. Năm 2010, Lò Cao Nhum tuyển chọn các sáng
16
tác của mình in thành một tập với nhan đề Rượu núi (gồm 143 bài in tại Nhà
xuất bản Văn học, 2010). Với những tập thơ này, Lò Cao Nhum đã nhận được
các giải thưởng: tập thơ Gốc trời được nhận giải B của Hội Văn học Nghệ
thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2010; tập thơ Sàn trăng (cùng với
Rượu núi), được nhận giải A giải thưởng Văn học Hòa Bình 5 năm, 10 năm…
của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình. Xuyên suốt các tập thơ, bạn đọc vẫn gặp
một con người có tâm hồn giản dị, có trái tim thiết tha với tình yêu quê hương
đất nước, nhưng với một cái nhìn của con người từng trải hơn, suy tư chiêm
nghiệm nhiều hơn.
Ngoài các giải thưởng về thơ, Lò Cao Nhum còn được nhận các giải
thưởng về ký và khảo cứu: Tập khảo cứu Bếp lửa trong đời sống người Thái đã
đem đến cho ông giải C của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam năm 2009; với tập ký Phiên chợ hoa văn, Lò Cao Nhum được nhận giải A
giải thưởng Văn học Hòa Bình 10 năm của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình.
Trên hành trình nghệ thuật, Lò Cao Nhum vẫn miệt mài sáng tạo. Giờ
đây, ở độ tuổi ngoài 60, khi không còn vướng bận nhiều với công việc và
những lo toan trong cuộc sống, Lò Cao Nhum đi nhiều hơn. Đến mỗi vùng trời
khác nhau của tổ quốc, nhà thơ đều tìm thấy cho mình những cảm xúc thơ tươi
mới. Các tác phẩm mới ra đời bồi đắp thêm cho những thành công của nhà thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trong hành trình sáng tác thơ.
17
Chương 2
CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH
TRONG THƠ LÒ CAO NHUM
2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Lò Cao Nhum
2.1.1. Khái niệm cảm hứng chủ đạo
Cảm hứng thường được hiểu là trạng thái tâm tư đặc biệt khi sức chú ý
được tập trung cao độ, kết hợp với cảm xúc mãnh liệt, tạo điều kiện để óc
tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả. Cảm hứng là hứng thú sáng tạo
nói chung và sáng tạo văn học nói riêng.
Hê Ghen và Bêlinxki đều dùng từ “cảm hứng”: “để chỉ trạng thái hưng
phấn cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà
họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt ngồn từ lý tưởng xã hội của nhà
văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại” [8].
Hêghen cho rằng: “Cảm hứng chủ đạo là biểu hiện tâm hồn người nghệ sĩ
say mê, thâm nhập vào bản chất của đối tượng, trở thành tương ứng với nó, gần
như là xuyên suốt vào nó. Theo ông, cảm hứng chủ đạo cần được xem như là
một sản phẩm của “một tinh thần phong phú và hoàn thiện, một cá tính mà
trong đó tất cả những năng lực bản thể phổ quát đều được thực hiện” [8].
Bêlinxki quan niệm: “Trong những tác phẩm thi ca đích thực, tư tưởng
không phải là một khái niệm trừu tượng, được diễn tả một cách giáo điều, mà
nó tạo thành linh hồn tỏa vào trong tác phẩm, giống như ánh sáng chiếu vào
pha lê. Tư tưởng trong sáng tạo thi ca - đó chính là cảm hứng… Cảm hứng là
sự thiết tha và nhiệt tình nống cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó” [8].
Từ những quan điểm trên, Bêlinxki đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu cảm
hứng chủ đạo của nhà văn trong tác phẩm để tìm hiểu đặc điểm sáng tác của
nhà văn ấy “Công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên của người phê bình là giải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đoán cảm hứng chủ đạo của tác phẩm” [8].
18
Giáo sư Trần Đình Sử đưa ra quan điểm về cảm hứng: Cảm hứng là một
tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một ham muốn tích cực đưa đến hành
động. Điều quan trọng là cần nhận ra cảm hứng như một lớp nội dung đặc thù
của tác phẩm văn học. Cảm hứng trong tác phẩm, trước hết là niềm say mê
khẳng định chân lý, tư tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa,
tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với nhân vật chính diện, là sự phê phán,
tố cáo các thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cảm hứng chủ đạo là: “Trạng thái tình
cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư
tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những
người tiếp nhận tác phẩm” [8, tr.44].
Đây là khái niệm công cụ dược sử dụng để nghiên cứu cảm hứng chủ
đạo trong thơ Lò Cao Nhum. Theo chúng tôi, khái niệm này cho phép người
nghiên cứu xác định được những nội dung cơ bản sau:
- Cảm hứng chủ đạo gắn liền với tình cảm của tác giả về đối tượng sáng
tác ở mức độ mãnh liệt, say đắm. Tình cảm ấy có được do tác động của ngoại
cảnh và yếu tố nội sinh.
- Cảm hứng chủ đạo gắn với tư tưởng xác định, có tác động lan truyền
cảm xúc đến người đọc.
Vận dụng khái niệm đó, có thể xác định được cảm hứng chủ đạo trong
thơ Lò Cao Nhum là cảm hứng về quê hương đất nước, là tình yêu tha thiết với
thiên nhiên, phong tục tập quán, tình yêu văn hóa dân tộc Thái cùng sự gắn bó
chân thành với cuộc sống giản dị, con người mộc mạc của quê hương.
2.1.2. Cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương đất nước
Cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương, đất nước trong thơ của Lò Cao Nhum
được hòa vào từng bài thơ như một lẽ tự nhiên trong tâm hồn nhà thơ. Vì sao
khi viết về quê hương, tâm hồn Lò Cao Nhum lại rất tự nhiên, phóng khoáng và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
giàu tình cảm đến thế? Tìm hiểu thơ Lò Cao Nhum, chúng tôi nhận thấy cảm
19
xúc về thiên nhiêm trong thơ ông được thăng hoa bởi sự kết hợp cả yếu tố
ngoại cảnh và yếu tố nội sinh.
Yếu tố ngoại cảnh tạo nên cảm hứng về thiên nhiên trong thơ Lò Cao
Nhum là trước hết là vẻ đẹp của quê hương nhà thơ. Quê hương của Lò Cao
Nhum ở bản Lác, Mai Châu, Hòa Bình. Đây là nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên.
Sau này, khi ông trưởng thành, làm nhiều công việc khác nhau nhưng đó vẫn là
nơi nhà thơ gắn bó. Dù có đi đâu xa, cuối tuần ông vẫn trở về nhà, ngồi trên
chiếc bàn nhỏ của mình để sáng tác. Cho đến tận bây giờ ông vẫn giữ nếp sống
ấy. Có thể nói, cả đời nhà thơ đều gắn bó thân thiết với ngôi nhà, bản làng nơi
ông sinh sống. Bản thân Lò Cao Nhum rất tự hào về quê hương mình. Nơi đó
có ông nội nhà thơ - Người đã khai sinh ra một miền đất. Nơi đó có gia đình
yêu quý của ông - Một gia đình có truyền thống yêu nước lâu đời. Hơn nữa,
Bản Lác, Mai Châu, Hòa Bình nói riêng và Tây Bắc nói chung là một vùng đất
tuyệt đẹp. Thiên nhiên và cuộc sống con người vùng Tây Bắc đã đi vào các tác
phẩm thơ văn của Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải, Chế Lan Viên, Quang
Dũng… Đến nay, vùng đất này vẫn giữ được vẻ hùng vĩ, thơ mộng và đắm say
lòng người của nó. Chính vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống nơi đây đã là
nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Lò Cao Nhum.
Lò Cao Nhum có được cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước
không phải chỉ từ vùng đất Tây Bắc. Mà cảm hứng này được trải dài khắp mọi
miền tổ quốc. Là một người yêu thích trải nghiệm, dù đi đến đâu, trên những vùng
đất khác nhau của tổ quốc nhà thơ đều tìm thấy những rung động tình cảm, sự gần
gũi thân thương của thiên nhiên, văn hóa và con người Việt Nam. Có lẽ, đây là cội
nguồn sâu xa, bền chặt của tình yêu quê hương đất nước trong thơ Lò Cao Nhum.
Cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước mà Lò Cao Nhum có
được ngoài yếu tố ngoại cảnh còn có cả yếu tố nội sinh. Hay nói khác đi, cảm
hứng ấy xuất phát từ chính trái tim và con người của tác giả. Lò Cao Nhum là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhà thơ có tâm hồn nghệ sĩ, yêu vẻ đẹp thiên nhiên, say mê văn học dân gian
20
của người Thái, trong đó có các điệu khắp của người Thái Mai Châu. Ông yêu
văn nghệ, thích hát những điệu khắp của quê mình…Chính những yếu tố nội
sinh đã tạo nên tình cảm gắn bó máu thịt; lòng tự hào, tự tôn dân tộc; những
rung động chân thành trong thơ của Lò Cao Nhum khi viết về quê hương đất
nước.
Cảm hứng ngợi ca, tự hào về quê hương đất nước trong thơ Lò Cao Nhum
được biểu hiện chủ yếu ở hai nội dung chính: ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, tự
hào về cuộc sống và con người miền núi. Khi viết về thiên nhiên, Lò Cao
Nhum chủ yếu dành nhiều tình cảm cho thiên nhiên miền núi hùng vĩ, thơ
mộng. Khi viết về con người miền núi, nhà thơ chủ yếu ngợi ca vẻ đẹp của con
người với những phẩm chất đáng quý trọng: anh dũng, thủy chung, tình nghĩa
chăm chỉ, chịu thương chịu khó…
Quê hương đi vào thơ Lò Cao Nhum phong phú, đa dạng và tạo được dấu
ấn riêng. Ông soi chiếu quê hương từ những góc nhìn khác nhau tạo nên một
thế giới hình ảnh phong phú, sinh động, vừa có độ rộng, vừa có chiều sâu. Cảm
hứng về quê núi được hiện lên qua các hình ảnh về thiên nhiên gần gũi với con
người miền núi. Về cảnh vật, có các hình ảnh như: núi (Núi, Chiều núi...), suối
(Ngã ba suối), trăng (Trăng, Chiều núi, Sàn trăng...), ruộng bậc thang (Lên
Thung Khe), nhà sàn (Trở lại nhà sàn, Cây củi giữ lửa nhà sàn, Khói
chiều)...; về âm thanh có: những câu hát, lời ca, tiếng khèn (Gặp khèn, lời
khèn...), tiếng chim hót (Tiếng chim xanh)...
Đặc biệt, qua việc đặt tên các tập thơ, các bài thơ ta cũng nhận thấy cảm
hứng mãnh liệt và say đắm của nhà thơ về quê hương. Cách đặt tên các tập thơ
của Lò Cao Nhum thể hiện cảm hứng về quê hương rõ nét: Giọt sao trở về,
Rượu núi, Sàn trăng, Theo lời hát về nguồn... Tên các tập thơ này đều gợi
cảm hứng về cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống con người nơi núi rừng. Tên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
các bài thơ trong mỗi tập thơ cũng thể hiện rõ cảm hứng của nhà thơ.
21
Khảo sát tên các bài thơ trong ba tập thơ tiêu biểu của Lò Cao Nhum,
chúng tôi thấy nhiều bài có tên gợi cảm hứng về quê hương núi rừng của nhà
thơ. Cụ thể như sau:
STT Tập thơ Tên các bài thơ
Trở lại nhà sàn, Bếp lửa nhà ta, Gặp khèn, Lời khèn, Giọt
1 Giọt sao trở về sao trở về, Cây Sằm Pùng, Chiều núi, Tung còn, Tình
nương, Tiếng suối, Hoa văn mặt phà, Ngã ba suối...
Rượu núi, Bếp lửa nhà ta, Bà đi tàu thủy xuôi sông Đà,
2 Rượu núi Đêm xòe và múa lăm vông, Lên Thung Khe, Bức vẽ
trai bản, Chiều núi, Núi, Người trên núi...
Ở rẻo cao Pù Bin, Cây củi giữ lửa nhà sàn, Mảnh nương
trên đồi, Sàn trăng, Bắt vợ, Thuyền độc mộc, Chiều hồ
Sòng Sỹ, Rừng nguyên sinh, Sương Sông Đà, Dưới bóng 3 Sàn Trăng
xanh của mường, Guồng nước, Hòa Bình ơi nghìn năm
đưa nôi, Nhớ Lạc Thủy, Theo lời hát về nguồn...
Lò Cao Nhum say đắm vẻ đẹp của thiên nhiên miền núi, đặc biệt là miền
núi Tây Bắc. Ở thời kỳ kháng chiến, trong tiềm thức của những người ít nhất
một lần ngang qua Tây Bắc, thiên nhiên Tây Bắc như có gì đó hoang sơ, dữ
dội. Cảm nhận ban đầu của người “miền xuôi” lên “miền ngược” đó là thiên
nhiên Tây Bắc dữ dội “rừng thiêng nước độc”, “Nước Sơn La, ma Hòa Bình”.
Tuy nhiên, thiên nhiên quê hương trong thơ Lò Cao Nhum mang vẻ đẹp thật trữ
tình, thơ mộng, gần gũi, thân thương:
“Hoà Bình ơi nghìn năm đưa nôi
Núi thoả thích nằm co, nằm duỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Mây Lũng Vân bồng bềnh nâng gối
22
Đệm bông lau trải miền dốc Cun”
(Hòa Bình ơi nghìn năm đưa nôi)
Nếu ai đến đỉnh núi Cun Pheo (Mai Châu, Hòa Bình) hay đến Lũng
Vân (Tân Lạc, Hòa Bình) vào buổi sáng sớm trong một ngày đẹp trời thì chắc
chắn sẽ bị thiên nhiên nơi đây làm cho mê hoặc. Những dãy núi “nằm co, nằm
duỗi” những con dốc trải dài như một dải lụa được bao phủ bởi một lớp mây
bồng bềnh, lúc ẩn lúc hiện. Vẻ đẹp thơ mộng ấy mang lại cho con người cảm
giác hiền hòa, hạnh phúc hơn; muốn sống một cuộc sống gần gũi hơn với
thiên nhiên.
Vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên trong thơ Lò Cao Nhum được khắc họa
với nhiều hình ảnh, đường nét quyến rũ. Tất cả hòa quyện với nhau tạo thành
bức tranh huyền ảo:
“Làng với suối giữa lòng thung núi
Mà đường về thì vắt ngang mây
Đứng trên cao thấy hàng cau như vẫy
Như người về đêm ngất ngả say”.
(Về những làng cau)
Trong khung cảnh núi rừng, tiếng chim thánh thót, ngọn gió trong lành
khiến lòng người “dào dạt” lạ thường:
“Chim hót ngôi sao lặn
Chim ca mặt trời lên
Gió reo vui đầu bãi
Gió say lượn cuối nguồn
Rừng xanh bao la gió
Đồi xanh bát ngát chim
Không gian chẳng im lìm
Khiến lòng tôi dào dạt”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Tiếng chim xanh)
23
Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp của quê hương Tây Bắc, Lò Cao Nhum còn
trải lòng mình với mọi miền đất nước qua những dòng thơ ngợi ca thiên nhiên
gắn liền với những địa danh lịch sử, văn hóa, từ Sapa, Lạng Sơn, Tam Đảo…
đến Kon Tum, Bến Tre, Phan Rang, Vũng Tàu, Cà Mau… Tác giả Đỗ Thu
Huyền (Viện Văn học) trong bài viết: Thơ Lò Cao Nhum - Tình bền củi lửa:
cũng đã cảm nhận: “Không chỉ viết về quê hương mình, Lò Cao Nhum còn
dành nhiều vần thơ trải lòng với những miền quê của đất nước: Sa Pa, Lạng
Sơn, Huế, Tam Đảo, Cà Mau, Nha Trang, Bến Tre... Mỗi nơi anh đến là một
ghi dấu những kỉ niệm và ẩn sau đó lại một triết lý. Thiên nhiên đẹp mà dữ dội,
còn con người âm thầm bền bỉ trong Rừng đước Cà Mau, mạnh mẽ, kiên cường
trong nắng nẻ, bão gió Phan Xi Păng: Cười vọng núi/ Múa nghiêng rừng/ Yêu
cháy lá ngón (Phác họa Phan Xi Păng)...” [dẫn theo 24].
Khi đến Sa Pa, Lò Cao Nhum đặc biệt ấn tượng với dãy núi Phan Xi Păng
hùng vĩ với tâm thế con người của núi rừng từng trải với “Sương mù”, “bão gió
xoáy giật”, “mưa lở núi”, “nắng nẻ nương” (Phác họa Phan Xi Păng). Cách
cảm nhận thiên nhiên mạnh mẽ ấy đã làm cho thơ của Lò Cao Nhum thêm
“chất núi rừng” rắn rỏi một cách tự nhiên.
Đến Lạng Sơn, Lò Cao Nhum cảm nhận đây là một thành phố có nét
đẹp cổ kính xen lẫn sự bừng nở phồn thực của đô thị mới (Chấm phá Lạng
Sơn). Sang Tam Đảo, nơi nổi tiếng với thời tiết đẹp, không khí trong lành,
nhà thơ đặc biệt ấn tượng với thiên nhiên, khí hậu nơi đây. Cảm nhận về thời
tiết Tam Đảo như một người phụ nữ muộn chồng cũng là một phát hiện đặc
biệt của nhà thơ.“Bà chị muộn chồng” (Thời tiết Tam Đảo) nên tính khí thất
thường, nhưng chính điều đó lại là một ấn tượng khó phai đối với bất kể ai
ngang qua vùng đất này.
Đến với mảnh đất Nam bộ, mỗi nhà thơ có một suy nghĩ và cảm nhận khác
nhau. Cùng đến Kon Tum, nhà thơ Văn Công Hùng cảm nhận vẻ đẹp thiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhiên nơi đây dịu dàng, đầy tâm trạng vừa “thao thức”, “chập chờn”, vừa
24
“huyền bí”, “cổ tích”. Còn Lò Cao Nhum lại mạnh mẽ, cồn cào “gắng gỏi níu
giữ” những giá trị văn hóa, di tích cổ xưa bằng cảm xúc “cuồn cuộn”, “nuối
tiếc”. Đến Bến Tre, lại là một cảm giác lạc lõng, như đi tìm một giá trị truyền
thống ngàn xưa với những chiến công anh hùng của dân tộc (Một chiều chưa
gặp Bến Tre). Đến Phan Rang, Lò Cao Nhum trầm tư chiêm nghiệm những tòa
thành tháp cổ kính nổi tiếng được “dát nắng lên sườn tháp cổ” (Thành tháp
cổ). Đến vùng biên giới Việt - Cam Pu Chia, bằng quan sát tinh tế của mình,
nhà thơ mượn hình ảnh cây thốt nốt để nhấn mạnh tình hữu nghị, đoàn kết của
hai dân tộc một cách ý vị, tự nhiên (Cây thốt nốt giữa mùa biên giới).
Đến với Vũng Tàu, Lò Cao Nhum cảm nhận được sự mát mẻ của
những con gió thổi từ biển xanh mang không khí trong lành vào đất liền. Ở
đây, nhà thơ ấn tượng với những tòa cao ốc tươi tắn sắc màu, những cánh
chim hòa bình và tình yêu đôi lứa:
“Vũng Tàu nắng
Vũng Tàu gió
Nắng trời xanh và chim bồ câu…
Cao ốc khoe đủ mọi dáng màu
Ban công biếc bồ câu hội tụ
Đàn chim bay lướt trên ghế đôi
Người bãi biển lấy cớ tình tự”
(Bồ câu bay xanh trời thành phố)
Vương Trung (1938 - 2012, Hội Nhà văn Việt Nam), một nhà thơ dân
tộc Thái, sống tại Sơn La, khi đến Vũng Tàu ông đã có một cảm nhận giao hòa,
gần gũi giữa hai miền đất nước:
“Tôi từ Sơn La đến Vũng Tàu
Mênh mông biển cả vui chào đón
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Người hai miền núi - biển hòa nhau
25
Nơi bãi cát mịn biển giao đất…
Mặt trời, mặt trăng mọc từ biển…
Mặt trời mặt trăng dậy từ non
Núi rừng đội trời lên cao vút
Biển kéo trời sà thấp tỏa xa”
(Hồn núi - biển)
Vương Trung và Lò Cao Nhum cùng là nhà thơ dân tộc Thái vùng Tây
Bắc. Vương Trung thuộc lớp nhà thơ của thế hệ trước, còn Lò Cao Nhum là
nhà thơ thuộc thế hệ sau. Khi đọc hai bài thơ “Rừng đước Cà Mau” và “Ngọn
đất Cà Mau” của hai nhà thơ, bạn đọc cảm nhận như có một sự nối tiếp về cảm
xúc giữa hai thế hệ. Dù viết bằng những hình thức khác nhau, nhưng cả hai nhà
thơ đã có cùng một nguồn cảm xúc dạt dào, say đắm với vẻ đẹp của vùng biển
Vũng Tàu. Điều này thêm phần khẳng định cảm xúc ngợi ca quê hương đất
nước của Lò Cao Nhum được tiếp nối tự nhiên từ các nhà thơ lớp trước.
Cảm xúc ngợi ca đất nước trong thơ Lò Cao Nhum thể hiện rất rõ trong
việc đặt tên các bài thơ. Nhiều bài thơ của ông có tên gắn liền với các địa danh:
Phác họa Phan Xi Păng, Chấm phá Lạng Sơn, Thời tiết Tam Đảo, Một chiều
chưa gặp Bến Tre, Cây thốt nốt giữa mùa biên giới, Rừng đước Cà Mau…
Lò Cao Nhum cùng các nhà thơ dân tộc Thái và các nhà thơ Việt Nam hiện đại
vẽ nên ấm bản đồ đất nước bằng thơ. Từ nơi địa đầu của Tổ quốc cho đến đất
Mũi Cà Mau, nơi nào trên đất nước Việt Nam cũng là một vùng đất đẹp. Vẻ
đẹp ấy như ngày càng được tô thắm trên những trang thơ của các nhà thơ mang
tâm hồn Việt.
Cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảm hứng về quê hương
đất nước của Lò Cao Nhum không chỉ mang ý nghĩa tình cảm gắn bó máu thịt,
những rung động chân thành của tâm hồn ông với quê hương đất nước mà còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc và tình cảm yêu nước thiết tha của nhà thơ.
26
Đọc toàn bộ sáng tác của Lò Cao Nhum ta có thể nhận thấy dù đi đâu, về đâu,
dù đến với vùng đất nào của Tổ quốc, Lò Cao Nhum luôn có cảm xúc mãnh liệt
với thiên nhiên. Nhà thơ cũng mượn thiên nhiên để bộc lộ suy nghĩ, tâm sự và
tình cảm của mình với quê hương, đất nước thân yêu .
2.1.3. Tự hào về con người miền núi
Không chỉ viết về thiên nhiên, Lò Cao Nhum còn dành những trang thơ
thể hiện lòng tự hào về con người miền núi với những phẩm chất đáng quý:
đoàn kết cộng đồng, gan lỳ trước thử thách của thiên nhiên, thủy chung trong
tình cảm vợ chồng, tình nghĩa với anh em họ mạc, làng bản...
Thể hiện niềm tự hào về con người miền núi, Lò Cao Nhum đã dùng
hình tượng “Vòng xòe” để ngợi ca tinh thần đoàn kết: “Vòng xoè…/ Đượm
nồng sải dọc vạn năm/ Bền bỉ dưỡng nuôi sự sống loài người.../ Kề vai nhau/
Xòe ngàn năm vạn thuở/ Dắt tay nhau kết dính lẽ đất trời/ Nào trẻ, già, trai,
gái muôn người/ Nào xóm trên, dưới mường mọi nơi/ Hãy cầm tay, hãy dắt tay/
Xòe cùng đồi, cùng núi/ Sánh cùng sao, cùng trăng/ Bền cùng trời, cùng đất”./
(Vòng xòe). Chiếc vòng xòe như một vật gắn kết cộng đồng theo sải dọc của
thời gian “vạn năm”. Từ khi có “Ngọn lửa thủa hồng hoang” đã có chiếc
“vòng xòe”. Chiếc vòng xòe ấy giúp con người “kề vai nhau”, “dắt tay nhau”,
“Xòe cùng đồi, cùng núi/ Sánh cùng sao, cùng trăng/ Bền cùng trời, cùng đất”.
Viết về tình đoàn kết, Lò Cao Nhum không hô hào như một bài ca chính trị mà
chỉ dùng giọng điệu, từ ngữ rất nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu sắc, ý nhị. Bài
thơ là một lời ngợi ca về sức mạnh của dân tộc ta. Trải qua bao thăng trầm của
lịch sử, một trong những điều khiến ta có thể chiến thắng được mọi kẻ thù
chính là tinh thần đoàn kết. Chỉ bằng hình tượng chiếc vòng xòe, Lò Cao Nhum
đã khái quát được sức mạnh của truyền thống cố kết cộng đồng dân tộc chính là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tinh thần đoàn kết.
27
Là một người con của núi rừng Tây Bắc, Lò Cao Nhum thấu hiểu sự gắn
bó sinh tồn giữa con người với thiên nhiên. Trong thơ Lò Cao Nhum, thiên
nhiên không đối lập với con người mà luôn hòa hợp, gắn bó, “nâng tầm” con
người lên cao hơn. Sự “nâng tầm” ấy thể hiện trước tiên ở tư thế chủ động của
con người trước thiên nhiên. Con người luôn luôn xuất hiện cùng thiên nhiên,
dù thiên nhiên có khắc nghiệt đến đâu thì bản lĩnh con người vẫn vượt lên trên
tất cả:
“Phan Xi Păng
Sương mù quần đảo bay
Bão tố xoáy giật thổi
Mưa lở núi
Nắng nẻ nương”
(Phác họa Phan Xi Păng)
Chỉ có những ai đã từng gắn bó với núi rừng mới hiểu được cái khắc
nghiệt của thiên nhiên “mưa lở núi”, “nắng nẻ nương” là như thế nào. Mặc dù
vậy, con người vẫn chủ động trước thiên nhiên, thể hiện bản lĩnh của mình
trước muôn vàn thử thách:
“Đàn ông khoác súng kíp trên lưng
Cắp cán rìu bên sườn
Bước sải dài trên núi...
Lầm lũi ngang ngạnh...
...Người Phan Xi Păng
Dạng chân trên chóp núi”
(Phác họa Phan Xi Păng)
Với ý chí và nghị lực phi thường, con người mền núi hiện lên trong bài thơ
với tư thế chủ động đón nhận những khó khăn thử thách do thiên nhiên đem lại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Vì thế, dù trong điều kiện nào thì con người cũng vẫn cảm thấy “thiên niên
28
không khắc khổ”... Đó chính là phẩm chất dũng cảm của con người miền núi
mà họ được thừa hưởng từ truyền thống cha ông: “Vác rìu từ bé/ Nên săn cánh
tay/ Leo núi sớm ngày/ Nên chân chắc cột/ Tóc quen bay ngược/ Gió thốc lướt
qua/ Bắp dao nghiêng sườn/ Chĩa về phía trước/ Chống trụ hai chân/ Đạp lên
vai núi/ Núi muốn nhô lên/ Chân như ấn xuống” (Trai bản). Chàng trai của bản
mang vẻ đẹp của núi rừng, vạm vỡ, ngang tàng. Vẻ đẹp ấy mang dấu ấn của lao
động sản xuất, mang vóc dáng của con người sánh vai cùng trời đất, không chịu
khuất phục trước thiên nhiên và hoàn cảnh sống, con người khỏe mạnh, mang
vẻ đẹp của tự nhiên.
Trong thơ Lò Cao Nhum, con người miền núi thật đẹp, thật anh hùng. Vẻ
đẹp anh hùng của người miền núi rất phong phú. Họ anh hùng trong chiến đấu
và trong lao động sản xuất. Trong lao động sản xuất họ được ngợi ca cả ở thể
lực và trí lực:
“Người hùng, người gan
Cột lim, cột nghiến
Kết đan phên sào, phên giậu
Chắn bão, ngăn giông
Xua mây, đuổi nắng
Che mầm xanh không héo quắt
Chắn mùa vàng không lở xuống thung sâu”
(Vòng xòe)
Đã là người anh hùng thì phải có chí lực, không chỉ khỏe mạnh như “cột
lim, cột nghiến”, không chỉ là “người gan” mà còn phải biết “Chắn bão, ngăn
giông/ Xua mây, đuổi nắng” và hơn nữa cũng phải là người hiểu biết, giàu kinh
nghiệm để “Che mầm xanh không héo quắt/ Chắn mùa vàng không lở xuống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thung sâu”.
29
Con người miền núi trong thơ Lò Cao Nhum rất giàu tình cảm, thủy
chung, yêu thương hết mình:
“Cười vọng núi
Múa nghiêng rừng
Yêu cháy lá ngón
Nhớ mòn vẹt lưỡi khèn”
(Phác họa Phan Xi Păng)
Cách miêu tả tình yêu và nỗi nhớ thật đặc biệt, ta chưa gặp cách miêu tả sự
mãnh liệt trong tình yêu ở một nhà thơ nào lại độc đáo như vậy: “Yêu cháy lá
ngón/ Nhớ mòn vẹt lưỡi khèn”. Cảm hứng tự hào về quê hương đã giúp Lò cao
Nhum sáng tạo được những câu thơ thật xuất sắc khi nói về phẩm chất tình cảm
đặc trưng của con người miền núi: chân thật và mãnh liệt.
Nói về người miền núi, Lò Cao Nhum không chỉ nói đến những chàng trai
anh hùng đại điện cho sức mạnh của cộng đồng. Thơ ông còn xuất hiện sự có
mặt của người ông, người bà, người cha, người mẹ, người vợ, người chồng…
Trong tiềm thức của Lò Cao Nhum, ông nội đóng một vai trò rất quan
trọng trong cuộc đời của mình. Bài thơ Ông nội tôi khai sinh ra miền đất đã
nói rõ điều đó. Nhà thơ đã từng tâm sự: "Tôi ấp ủ hình ảnh về ông nội tôi, một
ông nội trầm tư và lầm lỳ trước mọi công việc, chẳng hề nghe ông kêu ca mỏi
mệt bao giờ. Có lẽ ông quen nghèo khổ từ tuổi nhỏ. Ông không được học hành,
mười ba tuổi đã phải đi chăn trâu cho nhà Tạo phìa vì bố ông bị phạt vạ do đốt
tổ ong làm cháy một gốc cây to trong đống tha ma của mường mà không có bạc
nộp. Tạo phìa cưới cho ông một người cũng làm phiên nhà Tạo người bản Lác.
Từ đó, hết phiên nợ phạt, ông ở lại bản Lác quê vợ, mở đầu dòng họ Lò ở đây.
Hình ảnh nhỏ thân yêu ấy gợi tôi nghĩ đến thân phận tộc người Thái ở mường
Mùn, đã có một lịch sử gian nan thiên di tìm đất, trụ lại khai khẩn bằng mồ hôi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
máu và nước mắt suốt chiều dài 7 thế kỷ để có một thung lũng Mai Châu trù
30
phú và thơ mộng như ngày nay. Bài thơ Ông nội tôi khai sinh ra miền đất ban
đầu tôi viết với ý nghĩ đơn giản là để lưu giữ lại hình ảnh người ông thân yêu
của tôi đã đi xa, nhưng sau do tác hợp thêm những ám ảnh về thân phận một
dân tộc, lại nữa với chức năng của thơ, tôi đã đẩy từ hình ảnh cụ thể về ông nội
thành hình tượng của tứ thơ” [Ghi trực tiếp].
Bài thơ Ông nội tôi khai sinh ra miền đất đã được hoàn chỉnh tại trại sáng
tác do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tổ chức tại Bến Tre
năm 2006 và được nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã chọn in trên tạp chí THƠ của
Hội nhà văn Việt Nam.
Hình ảnh người bà cũng rất sâu đậm trong thơ Lò Cao Nhum. Khi viết về
người bà, ông đã dành hết tình cảm thương yêu nhất:
“Bà ơi thương bà đêm giêng lạnh
Đệm bông lau cháu trải bà nằm
… Sàn bương lạnh thấm chân tê tái
Lửa hồng từ tinh mơ bà nhen”
(Cây củi giữ lửa nhà sàn)
Một bài thơ khác của Lò Cao Nhum viết về hình ảnh người bà - bài thơ
Bà đi tàu thủy xuôi sông Đà cũng đem đến cho bạn đọc một tình cảm đặc biệt.
Đọc bài thơ ta được gợi nhớ về cuộc đời khó nhọc, tần tảo sớm hôm của bà:
“Tám mươi năm chưa một giấc thảnh thơi/ Cuộc đời lắm nẻo/ Qua thác ghềnh
lắt léo/ Nước mắt rơi muốn vắt kiệt nguồn”. Cái khéo léo của Lò Cao Nhum là
ở chỗ, ông đã thể hiện tình cảm của người cháu qua sự cảm thông thấu hiểu về
bà. Người cháu hiểu được rằng “Tám mươi năm đằng đẵng” trên đầu “đội
nặng mây trắng”. Thế mà khi theo con tàu về xuôi “nếp mặt bà lượn mãi tươi
vui”, “lòng dạt dào tận chốn biển xa”, “gặp nụ cười trên môi móm mém/ Ngỡ
ánh sáng rạng hồng dải đất ngàn năm”. Phải là người giàu tình cảm, tinh tế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mới có thể nhìn thấy được nỗi khắc khổ thể hiện trên khuôn mặt trở thành
31
những “nếp sóng tươi vui”, nghe thấy được niềm vui trong lòng trở thành tiếng
“dạt dào” của sóng vươn “tận chốn biển xa”.
Khác với các nhà thơ nữ, những vần thơ viết cho con của các nhà thơ nam
bao giờ cũng bộc lộ sự từng trải chứ không chỉ là sự vỗ về yêu thương. Nhà thơ
Dương Khâu Luông (dân tộc Tày) khuyên con gái hãy thể hiện là người có sức
mạnh, có bản lĩnh trước sóng gió cuộc đời: “Con hãy học cây nghiến, cây lim/
Gập ghềnh đá vẫn đứng lên kiêu hãnh/ Đón khí trời nuôi lá xanh cây/ Cành
vươn cao vẫy gió chín tầng mây”. Nhà Thơ Y Phương (dân tộc Tày) trong
“Nói với con” cũng viết: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong
thung không chê thung nghèo đói.../ Người đồng mình thô sơ da thịt/ Chẳng
mấy ai nhỏ bé đâu con.../ Con ơi tuy thô sơ da thịt/ Lên đường/ Không bao giờ
nhỏ bé được/ Nghe con” ... Đó là lời tâm sự của những người cha dành cho con
về lòng tự tôn dân tộc. Còn Lò Cao Nhum nói với con bằng tâm sự của người
cha qua những trải nghiệm thấm thía từ những vấp ngã của cuộc đời:
“Rồi ngày mai con xuống núi
Ngỡ ngàng
Đất rộng, trời thấp
Bước đầu tiên
Con vấp gót chân mình
Ngày mai con xuống núi
Cùng tay nải hành trang đầu tiên
Đi như suối chảy về với biển
Chớ quên mạch đá cội nguồn”.
(Rồi ngày mai con đi)
Nhà thơ gửi gắm tới người con những bài học đầu đời quý giá, có thể ra
biển lớn nhưng không được quên cội nguồn bởi nơi ấy là dân tộc, nơi hoa khau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cút mãi mãi trên nóc nhà như một tín hiệu thiêng liêng:
32
“Nóc nhà ta có hoa khau cút
Nhận ra anh em
Nhận ra họ hàng
Nhận ra đồng tộc
Khi nóc nhà có hoa khau cút
Chớ lạ đi, lạ về
Chớ quên nóc nhà có hoa khau cút”.
(Nóc nhà ta có hoa khau cút)
Thơ Lò Cao Nhum không có nhiều bài về tình yêu đôi lứa. Thơ tình của ông
cũng ít nói về nhớ nhung hò hẹn giữa “anh” và “em”. Đọng lại nhất là những vần
thơ tình với hình ảnh người phụ nữ gần gụi, thân thương. Đấy là người vợ gìn
giữ ngọn lửa hồng ấm áp, xua tan băng giá biên phòng trong Bếp lửa nhà ta:
“Sàn đầu bản/ Có thiếu phụ nhớ chồng/ Trăng/ Vô tình/ Mặc sức sáng/ Gió lay
lay cây bương/ Như ai thở dài/ Bóng lá đậu mặt sàn cửa sổ/ Chị gối đầu lên
đệm bông lau/ Núi nằm nghiêng đằng đông/ Rồi lại/ Núi nằm nghiêng đằng
tây/ Con trở giấc/ Chị kéo vào vỗ vỗ/ Rồi vươn dậy/ Lấy áo chồng/ Dịu dàng
đắp ủ giấc mơ”/ (Áo chồng). Nhà thơ Lò Ngân Sủn cũng đã từng cảm nhận:
“Bài thơ Áo chồng nói về nỗi niềm thương nhớ chồng của một người vợ: Thấy
trăng sáng trách trăng vô tình, nghe gió lay cây bương tưởng tiếng thở dài,
đêm nằm con trở giấc, chị kéo con vào sát mình vỗ vỗ… Đó là những cử chỉ,
hành động thông thường của một người mẹ. Nhưng ở đây lại có cái gì đó như
một bất ngờ được bật ra từ nỗi nhớ, nên chị mới liền “vươn dậy” để “Lấy áo
chồng/ Dịu dàng đắp ủ giấc mơ…” Có cảm giác, cả một chuỗi dài đằng đẵng
những ngày tháng nhớ nhung, đợi chờ đều được dồn tụ vào đây, vào sự “vươn
dậy”, vào chiếc áo chồng, vào sự dịu dàng để đắp ủ giấc mơ cho đứa con, cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cả sự nhớ nhung, đợi chờ ở hai đầu xa cách biệt ly” [dẫn theo 24, tr.15].
33
Người phụ nữ trong thơ Lò Cao Nhum hiện lên giản dị và đẹp. Đó là vẻ
đẹp của tấm lòng, của sự khéo léo. Trong dân ca Thái, sự khéo léo của đôi bàn
tay người phụ nữ được ngợi ca bằng những chất liệu quen thuộc và thủ pháp
phóng đại:
“Đụng vào khung cửi vải thành hoa.
Tung nắm tấm thành ra đàn gà.
Khua cái chầy hoa ra gạo trắng.
Đụng vào cỏ thì cỏ chết nắng.
Vuốt lên lúa, bụi lúa ra bông”
Hình ảnh đôi bàn tay người phụ nữ trong thơ Lò Cao Nhum cần mẫn,
chăm chỉ, khéo léo, giỏi giang: “Bàn tay đan/ Thành bông thành vải/ Trải hoa
văn bốn vách nhà sàn/ Bàn tay gieo/ Ra trái ra cơm/ Râm ran riếng chống sàn,
sửa gác/ Bàn tay nắm/ Bò lang ngựa đỏ/ Vó khua tung tóe sương chiều/ Bàn tay
xòe/ Ánh bạc, ánh vàng/ Bàn tay ôm/ Mười ngón hôn nhau qua biển núi” (Bàn
tay). Sử dụng hình ảnh “bàn tay” để ca ngợi sức lao động của con người không
phải đến Lò Cao Nhum mới có. Nhà thơ Hoàng Trung Thông trong Bài ca vỡ
đất (1948) cũng đã từng khẳng định: “Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người,
sỏi đá cũng thành cơm”. Hình ảnh “bàn tay” tượng trưng cho sức lao động của
con người, con người có khả năng cải tạo thiên nhiên để tạo lập cuộc sống ấm
no, hạnh phúc. Trong bài thơ Bàn tay Lò Cao Nhum đã sử dụng hình ảnh “bàn
tay” với nhiều động tác khác nhau: “bàn tay đan”, “bàn tay gieo”, “bàn tay
nắm”, “bàn tay xòe”... để khắc họa đất nước trong xây dựng cuộc sống mới
phải bắt đầu từ những điều bình thường nhất: “thành bông thành vải”, “ra trái
ra cơm”, “ánh bạc, ánh vàng”... Tất cả của cải vật chất và tinh thần của nhân
loại từ trước tới nay đều do bàn tay, khối óc của con người sáng tạo ra. Con
người biết trồng trọt, chăn nuôi, biết dựng nhà, dựng cửa, biết chế tạo ra công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cụ lao động và những vật dụng cần thiết… để cuộc sống văn minh, tiến bộ hơn.
34
Như đã trình bày ở trên, nhà thơ Lò Cao Nhum có một cuộc sống vất vả,
khó khăn từ nhỏ. Mẹ ông mất sớm, lớn lên trong thời kỳ chiến tranh của đất
nước đang đi vào giai đoạn ác liệt nhất. Con đường học vấn của nhà thơ bị đứt
đoạn, ông đã từng phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Chính sự từng trải của Lò
Cao Nhum đã đem đến cho thơ ông những kiến thức phong phú về nhiều ngành
nghề khác nhau. Là một nhà thơ nhưng Lò Cao Nhum lại hiểu sâu sắc về nghề
kế toán. Ông nhận thấy làm kế toán là làm một nghề cần đến nhiều trí lực, tuy
không ra đồng cầy cấy nhưng cầm bút viết cũng giống như cày một thửa ruộng:
“Người kế toán nghiêng mình/ Ngọn bút chạy như lưỡi cày lật đất”, “Nắn nót
từng con số như ra đồng cóp nhặt từng bông/ Tay thước kẻ ngắm dọc, gióng
ngang/ Như uốn thẳng rộng dài đường mương, bờ thửa”, “Cấy trí lực vào
trang giấy thành bông/ Một vết mực giây cũng làm mây hoen ố/ Giọt mồ hôi
cũng thể hóa mưa giông” (Trang giấy và ngọn đèn) Lò Cao nhum cứ diễn tả
mộc mạc thế thôi. Không lên gân lên cốt, không đao to búa lớn mà chân chất,
bình dị nhưng vẫn sâu sắc, khéo léo để bạn đọc cảm nhận được cảm xúc tự hào
về một đất nước có truyền thống bốn nghìn năm lịch sử.
Hình ảnh những con người miền núi trong cảm xúc thơ của Lò Cao
Nhum mang vẻ đẹp giản dị, giàu tình cảm, thủy chung, yêu thương hết mình.
Điều đặc biệt ở họ là mang trong mình phẩm chất dũng cảm, trước thiên
nhiên dữ dội và hoàn cảnh sống khó khăn, con người miền núi đã vượt lên để
sinh tồn và phát triển.
Khi viết về cuộc sống con người miền núi, Lò Cao Nhum khái quát
thành một bức tranh sống động. Bức tranh ấy có sự chuyển động từ đói nghèo
tăm tối đi đến ấm no hạnh phúc, có Đảng và Cách mạng.
Cuộc sống của đồng bào miền núi được Lò Cao Nhum khái quát ở ba
mức độ:
“Ở trên núi có bấy nhiêu hộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Một phần ba giàu có đỏ rừng…
35
Một phần ba mới giàu nửa chừng…
Còn lại một phần ba liêu xiêu…
(Người trên núi)
Bài thơ Người trên núi phản ánh chân thực cuộc sống của người miền núi.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ dành một khổ thơ đầu nói đến sự “giàu có đỏ rừng”.
Mới đọc khổ thơ đầu người ta dễ có thể cảm nhận cuộc sống con người nơi đây
thật ấm no hạnh phúc, thật sung túc đủ đầy. Nhưng đọc đến khổ thơ thứ hai và
thứ ba, người đọc như xót xa, cảm thông với những khó khăn, nhọc nhằn mà
người dân miền núi phải trải qua. Những lo toan trong cuộc sống dường như là
nỗi lo thường trực: “Vừa ăn vừa dụm sinh dè sẻn/ Vừa làm vừa nghĩ ngày mai
đến/ Khách đi khỏi vợ ngồi cạo niêu”. Chưa hết, một phần ba nữa còn khó
khăn, gian khổ hơn nhiều: “Còn lại một phần ba liêu xiêu/ Gió tháng tám tốc cả
lên rừng/ Đã thế sự nghèo đuổi tận cùng/ Cáo hay bắt trứng gà kẻ khó”.
Những câu thơ gợi sự cảm thông chia sẻ, gợi những xót xa cho những nhọc
nhằn của cuộc sống người dân nơi đây. Đúng như nhà thơ Bùi Việt Phương
viết: “Người vợ nào ngồi cạo niêu, người khách nào vừa đi khỏi và bóng dáng
ông chồng đâu đó? Cái đói chưa xa nhưng cái no đâu đã gần tầm tay nên bức
tranh làng bản cứ loang lổ như thế. Ngổn ngang của ngày những vùng nông
thôn đổi mới, những mới - cũ đan xen đúng như cách gọi (giầu nửa chừng). Tất
cả tựa như vết dao cứa vào tâm hồn những nhà thơ của các vùng miền dân tộc.
Trách nhiệm cộng đồng, sứ mệnh cầm bút, ý thức tự cường… đang từng ngày
thúc giục họ phải lên tiếng” [26].
Tuy vậy, người “trên núi” không vì thế mà đầu hàng, lùi bước. Họ là những
con người bản lĩnh, lạc quan. Cùng với sự đổi thay của đất nước, họ đã biết vươn
lên đi từ đói nghèo tăm tối đến hạnh phúc ấm no có Đảng và cách mạng:
“Những con mắt nhìn xa rộng, những bàn tay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Vun cho cây xanh màu ấm áp
36
Đấy là giọt mồ hôi ông cha bồi đắp
Đấy là nắng hồng và năm cánh sao”
(Dưới bóng xanh của mường)
Cho đến nay, mặc dù còn khó khăn, nhưng cuộc sống của người dân
miền núi đã đổi thay, đã ấm no, hạnh phúc hơn nhiều:
“Nhà lên tầng mặc áo tổ ong
Giữa phố huyện xòe bông hoa mật
Cột cờ đỏ - đóm ai vừa thắp
Màu đỏ cờ từ đất đỏ lên”
(Lên Thung Khe)
Bức tranh quê hương trong bài thơ bừng lên sức sống của một ngày mới tự
do, no ấm.
Khái quát hình ảnh đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng
cuộc sống mới, Lò Cao Nhum nhận thấy trong nhịp điệu cuộc sống hôm nay có
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
“Xe ngựa
Vút ra từ thành cổ
Cầu Đông Kinh ưỡn ngực
Kỳ Lừa giăng nhịp ca dao”
(Chấm phá Lạng Sơn)
Sự trưởng thành, hay những thành quả đạt được của đất nước hôm nay là
một phần do ta được hưởng thành quả của cha ông để lại. Trong hình ảnh của
một thị xã mới “rạo rực”, “bừng nở”, “nồng nàn” đã có giá trị truyền thống
của dân tộc đó là những giá trị vật chất được gợi lên từ hình ảnh trang nghiêm
của “thành cổ”. Giá trị tinh thần không thể thiếu ấy được gìn giữ trong những
câu “ca dao” truyền lại từ bao đời.
Cùng với các nhà thơ dân tộc thiểu số khác, Lò Cao Nhum đã thêm những
nét vẽ về quê hương, dù không có nhiều điều mới lạ, song nó cũng góp phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
làm cho bức tranh quê hương trong thơ dân tộc thiểu số thêm phong phú. Lò
37
Cao Nhum không có ý định vẽ một bức tranh toàn cảnh rực rỡ nhiều màu sắc
với tất cả các vùng quê khác nhau. Ông chỉ điểm một vài nét nổi bật về những
nơi ông đã đi qua. Còn lại, ông chú tâm ngợi ca vẻ đẹp của Hòa Bình, Tây Bắc
với tình yêu tha thiết thiên nhiên, con người và cuộc sống nơi đây.
Đến với thơ Lò Cao Nhum người đọc được khám phá cảm xúc, tâm lý
của một nhà thơ người dân tộc thiểu số không chỉ “ăn đời ở kiếp” với núi rừng
Tây Bắc mà còn đến với nhiều vùng đất mới lạ. Khi thì ngỡ ngàng trước những
khung cảnh nước trời mênh mang của biển cả, khi lại gần gũi thân quen với núi
rừng Đông Bắc, khi suy tư chiêm nghiệm như luyến tiếc hay xót xa một giá trị
văn hóa cổ kính qua những lớp trầm tích đang chịu sự thách thức của thời
gian... Dù đi đến miền đất nào thì hồn thơ Lò Cao Nhum vẫn tha thiết tình yêu
quê hương đất nước, tự hào về những cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ,
những địa danh lịch sử, văn hóa của dân tộc; trân trọng những con người cần cù
chịu khó, nỗ lực vượt lên trên hoàn cảnh để thay đổi cuộc sống từ đói nghèo
tăm tối đi đến hạnh phúc ấm no.
2.1.4. Ngợi ca, tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc Thái và đồng bào
miền núi Tây Bắc
2.1.4.1. Ngợi ca tự hào về phong tục tập quán của đồng bào miền núi Tây Bắc
Lò Cao Nhum rất yêu dân tộc mình, đặc biệt là tâm hồn dân tộc Thái
được truyền lại từ ngàn đời. Qua bao thế hệ, con người Thái đã chắt lọc tinh
hoa, bản sắc văn hóa truyền thống. Đến nay, họ vẫn giữ được những sinh hoạt
văn hóa giá trị mà ông cha họ truyền lại. Đó là những hội hè, những trò chơi
dân gian, hay những điệu múa uyển chuyển:
“Tháng giêng reo về náo nức
Mùa hội hè trống chiêng
Như lòng anh bung biêng
Ôm lời chim về núi”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Lời tháng giêng)
38
Lò Cao Nhum trân trọng những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian qua
trò chơi như tung còn: “Cột tre mùa xuân/ Vòng mặt trời mùa xuân/ Dải còn
chấp chới./ Còn anh thêu tua hoa/ Kết chỉ thắm/ Bay đi xem ý mùa xuân/ Ngỏ
lời mùa nắng./ Còn rơi sang tháng tám/ Xin buộc chỉ lành/ Đậu vào tháng
giêng/ Vòng bạc anh trao gửi” (Tung còn).
Trong cuộc sống, không có gì có thể gắn kết tình cảm của con người
mạnh mẽ và bền vững bằng lao động sản xuất. Bởi vì, trong lao động sản xuất,
con người sẽ hiểu nhau hơn, dễ thông cảm, đồng cảm, sẻ chia khó khăn gian
khổ, cùng nhau vượt qua nhiều thử thách của cuộc sống. Lò Cao Nhum dành
những trang thơ của mình ngợi ca tình hữu nghị hòa bình giữa Việt Nam với
các nước anh em. Nhà thơ đã ca ngợi tình hữu nghị hòa bình giữa hai dân tộc
Việt Nam - Căm Pu Chia qua những hình ảnh gắn bó trong lao động sản xuất:
“Chàng trai Căm Pu Chia ruộng bên buông cày
Cô gái Nam bộ bên này ngơi tay gieo sạ
Dưới vòm râm thốt nốt
Rôm rả mùa màng”
(Cây thốt nốt giữa bờ biên giới)
Năm 1972, trên đường đi công tác, Hoàng thân Xu-Pha-Nu-Vông, đã
nghỉ đêm tại bản Lác (Mai Châu - Hòa Bình). Nơi đây, văn hóa, tâm hồn con
người dân tộc Thái được gìn giữ bao đời đã tỏa sáng, hòa quyện, sánh vai với
nước Lào anh em. Bài thơ Đêm xòe múa lăm vông đã ca ngợi tình hữu nghị
hòa bình giữa hai nước Việt Nam - Lào qua giao lưu văn hóa:
“Tôi múa lăm vông, anh cũng giỏi múa xòe
Chân nhún nhảy tay mềm uốn lượn.
Hai dân tộc sánh vai cùng vạn dặm
Nhún nhảy nhịp đời tay lại cầm tay”
(Đêm xòe và múa lăm vông)
Lò Cao Nhum có cách riêng để ngợi ca văn hóa dân tộc mình. Nhà thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
không liệt kê toàn bộ những hoạt động văn hóa diễn ra, cũng không kể về nó
39
như một sự kiện ấn tượng nổi bật. Nhà thơ gợi tả sự nhịp nhàng hòa quyện của
hai điệu múa tượng trưng cho văn hóa của hai dân tộc Việt - Lào: điệu múa xòe
của dân tộc Thái (Việt Nam) và điệu múa lăm vông nổi tiếng của dân tộc Lào
anh em. Trong men say tình cảm, trong nhịp nhún nhảy của đêm vũ hội, “anh”
và “tôi” không hề bỡ ngỡ, vụng về mà dường như sự hòa kết giữa hai điệu múa
đã có tự bao giờ “Hai dân tộc sánh vai cùng vạn dặm”. Không chỉ thế, bài thơ
còn như một lời khẳng định về tình hữu nghị hòa bình giữa hai nước sẽ mãi
được gắn kết nghìn năm: “Mai anh về tôi giữ điệu lăm vông/ Gieo trong tim
mọc cây rừng cây núi/ Rừng Pú Luông chắn bão dồn vững chai/ Giữ hiền hòa
những điệu múa nghìn năm”. Cách viết của Lò Cao Nhum là thế, không khiên
cưỡng, không vụng về, rất tự nhiên và tràn đầy cảm xúc.
Ngợi ca tự hào phong tục tập quán tốt đẹp, Lò Cao Nhum tập trung ngợi
ca những mỹ tục của dân tộc Thái về ẩm thực, kiến trúc, lễ hội.
Lò Cao Nhum dịch dân ca Thái Dân ca Thái Mai Châu (1991), Lời hát
trong lễ hội Chá Chiêng (2001). Cảm hứng sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch là
điều kiện tốt giúp ông am hiểu hơn về vốn văn hóa dân gian dân tộc Thái, hỗ
trợ cho cảm hứng thơ thêm nảy nở, phát triển.
Bài thơ Rượu núi, Lò Cao Nhum đã diễn tả chất núi rừng quê hương một
cách xuất sắc. Câu chữ giản dị, sự dồn nén cảm xúc trong từng câu chữ khiến
cho bài thơ đầy ám ảnh:
"Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến.
Ngửa bàn tay cũng da
Úp bàn tay cũng thịt”.
Quê hương ông là nơi chiếc “chiếu đan bằng tia mặt trời”, con người
chắt chiu bát rượu trăng rằm với ngọt - chua - cay - đắng:
“Ủ từ lá sắc rừng gai
Chắt từ củ mài hốc đá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài”
40
Người Hòa Bình thường có câu nói truyền miệng “Nhất Bi, nhì Vang, tam
Thàng, tứ Động”. Đó là sự sắp xếp có dụng ý về vị trí quan trọng của đơn vị
hành chính “mường” từ thủa xa xưa. Hàng năm, các “mường” này thường tổ
chức lễ hội sinh hoạt văn hóa cộng đồng để bảo tồn văn hóa của dân tộc mình.
Tác giả khắc họa một lễ hội Khuộng mùa của Mường Vang Hòa Bình. “Lễ
Khuộng mùa thầm thĩ đất mường Vang” gợi văn hóa lễ hội truyền thống của
mường Vang:
“Lễ Khuộng mùa
Sinh ra lời đẹp tiếng lành
Sinh ra văn hóa
Trường tồn dân gian”
(Đêm mường Bui)
Ngợi ca, tự hào những truyền thống của văn hóa Thái cũng là một cảm
hứng tiêu biểu trong thơ Lò Cao Nhum.
Chiếc vòng xòe là biểu tượng tự hào của người Thái, nó như là một vật
thiêng gắn bó với đời sống vật chất và tinh thần người Thái, nó là vật thiêng
xuất hiện từ lâu đời cùng tổ tiên người Thái. Chiếc vòng xòe gắn liền với hình
ảnh bếp lửa, tự hào về chiếc vòng xòe cũng là tự hào về hơi ấm của bếp lửa:
“Vòng xòe
Ngọn lửa xanh
Ngọn lửa vàng
Ngọn lửa thủa hồng hoang
Bập bùng hoa cà hoa cải
Ngôi nhà đốm lửa
Âm ỉ cùng gió hú
Đượm nồng sải dọc vạn năm
Bền bỉ dưỡng nuôi sự sống loài người”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Vòng xòe)
41
Chiếc vòng xòe ấy tự tay người Thái làm nên, nó gắn bó với cuộc sống
của họ từ xa xưa. Bài thơ Vòng xòe như một câu chuyện kể về sự xuất hiện của
chiếc vòng xòe, qua câu chuyện ấy người đọc hiểu và chiêm nghiệm sâu sắc về
sức mạnh đoàn kết cộng đồng:
“Anh vào ruột núi
Tìm đá khơi than
Nung vàng tôi bạc
Uốn nhẫn luyện vòng
Vòng bạc trao duyên
Vòng bạc như vòng xòe
Kết đoàn vòng tay vòng mắt
Kết đoàn cộng đồng mường bản
Bền dai như ngọn lửa mặt trời”
(Vòng xòe)
Bài thơ nói về một sự tích sinh động về sự đẻ đất đẻ mường và cố kết
cộng đồng linh thiêng, bền chặt. Múa xòe - phong tục đẹp của người Thái được
Lò Cao Nhum truyền tải trong đó những thông điệp về tình yêu thương, đoàn
kết của cộng đồng, làng bản.
Ẩm thực của người Thái có nhiều món được xếp vào hàng ẩm thực độc
đáo, như thịt gà nấu măng chua, cá hấp lá vả, xôi đủ các màu… Trong các món
ăn của người Thái, các món ăn được chế biến từ cá được cho là món ăn quan
trọng nhất (có lẽ do người Thái thường sống ven sông, suối). Trong đó, rượu là
thứ men say không thể thiếu trong ẩm thực hàng ngày và trong các lễ hội của
người Thái. Rượu có một vai trò rất đặc biệt trong các bữa ăn, hơn nữa nó cũng
có vai trò đặc biệt trong giao tiếp bản, mường, gia đình, bè bạn. Thường khách
đến chơi nhà, thay bằng việc mang nước chè ra mời, chủ nhà tỏ lòng mến
khách bằng những chén rượu thơm được cất lên từ men lá của rừng hay được
ngâm từ những cây thuốc quý. Đất Mai Châu, Hòa Bình có một loại rượu nổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tiếng đó là rượu Mai Hạ. Nếu ai đã từng được nếm qua thì chắc chắn không
42
thể nào quên vị của nó. Và nếu đã từng được uống rượu Mai Hạ tại Mai Châu
thì đó chắc chắn là một kỷ niệm đáng nhớ trong đời. Sở dĩ nó có hương vị đặc
biệt như thế là vì nó được ủ từ một loại men lá trên rừng, nguyên liệu từ ngũ
cốc trồng trên nương và được chưng cất từ bàn tay tần tảo của những người
phụ nữ Thái. Khi bạn đến chơi nhà, thường người ta mời bạn lên nhà, mời rượu
ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Nhưng trong bài thơ Rượu núi, chủ nhà lại
chọn một nơi rất độc đáo để tiếp bạn:
“Bạn đến
Mời ngồi xếp bằng tròn trên núi
Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời”
(Rượu núi)
Cách chọn một không gian uống rượu thật lãng mạn - một không gian vũ
trụ. Và sau khi đã giới thiệu cái men say của rượu núi, tác giả buông một câu
mời thật hào phóng: “Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà
say”. Đã là khách đến nhà uống rượu thì với lòng hiếu khách của chủ nhà,
người được mời thường sẽ không thể từ chối.
Với Rượu núi, Lò Cao Nhum nâng tầm tình bạn và thổi vào văn hóa
uống rượu vùng cao cả thi vị của trời đất. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu cũng đã
viết về “Rượu núi”: “Lò Cao Nhum giới thiệu về rượu núi bằng chi tiết và hình
ảnh rất thật: Ủ từ lá sắc rừng gai/ Chắt từ vủ mài hốc đá/ Vợ tôi nấu thơm từ lửa
đỏ đêm dài,… tuy nhiên tác giả không dừng lại ở chi tiết, hình ảnh, anh có
những câu nói cái “cay”, cái “đắng” của rượu thật đột biến” [dẫn theo 24].
Ngoài ca ngợi lễ hội, ẩm thực của dân tộc mình, trong những bài thơ của
mình Lò Cao Nhum, người đọc còn thấy xuất hiện hình ảnh nhà sàn, kiến trúc
nhà ở truyền thống của người Thái. Nhà nghiên cứu Trần Thị Việt Trung viết:
“Trong thơ Thái thời kỳ hiện đại, hình ảnh nhà sàn xuất hiện rất nhiều. Vì
nhà sàn có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống sinh hoạt của người
Thái, đó là ngôi nhà thân yêu của bao gia đình, gia tộc; là nơi con trai đan
lát, thổi khèn, con gái quay xa, dệt vải, thêu thùa…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chân bước lên thang…
43
Trải thảm mời trầu…
Mời rượu đánh cồng…
Tiếng khèn, tiếng sáo
Lời hát cất lên…
Mẫu váy, mẫu thêu
Sắc màu, họa tiết…
(Xa quê - La Quán Miên)
Không những thế, nhà sàn còn là biểu tượng văn hóa, tâm linh của người
Thái… Nhà sàn của người Thái là một công trình kiến trúc đẹp, hòa đồng với
thiên nhiên, đất trời cùng vạn vật…” (Thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện đại).
Không phải chỉ có dân tộc Thái mới ở nhà sàn, tuy nhiên hình tượng nhà
sàn hiện lên trong thơ Lò Cao nhum có gì đó rất gần gũi, thân thương. Lò Cao
Nhum không có dụng ý đặc tả nhà sàn để giới thiệu về kiến trúc nhà ở của dân
tộc mình, mà hình ảnh nhà sàn đi vào thơ ông như một dấu ấn từ cảm xúc về
quê hương nhà sàn khi thì đầy ắp tiếng reo vui nhộn:
“Nóc nhà sàn
Vỡ òa
Tiếng cầu thang rộn rã”
(Tiếng hát trên cao)
Nhà sàn gắn bó với kỷ niệm tình yêu đôi lứa. Có lúc âm thanh của“sàn
bương” làm cho chàng trai thẹn thùng khi đến tìm người yêu:
“Đáng ghét cái sàn bương
Bước nhẹ nhàng “cót két”
Nhón khẽ sàn càng run”
(Sàn trăng)
Nhà sàn là nơi trở về của con người sau bao sóng gió, trải nghiệm của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cuộc đời (Trở lại nhà sàn)
44
Ngoài những trang thơ ca ngợi những nét đẹp văn hóa Thái, Lò Cao
Nhum cũng đã dành một phần nhỏ trang thơ của mình để châm biếm những hủ
tục vẫn còn đâu đó trong cộng đồng người Thái. Trong văn hóa của người Thái,
vai trò của lễ hội rất quan trọng. Đó là những sinh hoạt văn hóa tinh thần của
cộng đồng nhằm gắn kết dân tộc. Và trong những lễ hội ấy, yếu tố tâm linh
luôn đóng một vai trò rất quan trọng. Tập tục cúng lễ là những nghi thức quan
trọng trong đời sống người Thái. Trong những nghi thức cúng lễ ấy, nhân vật
trung tâm là người thầy cúng mà người Thái gọi là thầy Mùn. Trong thơ của
mình, Lò Cao Nhum đã phản ánh điều này một cách khéo léo như một sự châm
biếm nhẹ nhàng về hủ tục của người Thái nói chung. Lò Cao Nhum đã châm
biếm hủ tục qua hình ảnh “chiếc áo sặc sỡ của thầy Mùn” như một vật hoán dụ
biểu trưng cho quyền lực của thần linh. Đó là chiếc áo quý mà ông trời, đấng
tối cao ban tặng cho thầy Mùn:
“Chiếc áo sặc sỡ
Tua đỏ, diềm xanh
Nào lấp lánh viền bạc
Nào lấp ló ánh vàng...
...Chiếc áo sặc sỡ của ông Then
Tặng thầy Mùn
Làm người cứu nhân độ thế”
Thầy Mùn được ông trời trao cho sứ mạng cứu nhân độ thế nên thầy
Mùn dường như có quyền lực rất bí ẩn:
“Làm quả bưởi rợn gai
Quả muỗm rụng non
Cụp cả đuôi con bò
Con bò vừa chạy vừa ngoái nhìn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chiếc áo sặc sỡ”
45
Dù người đời có tin hay không tin vào pháp thuật của thầy Mùn, nhưng
nếu ai đã một lần được chứng kiến buổi cúng lễ của người Thái, thì đều không
thể quên chiếc áo sặc sỡ của thầy Mùn:
“Không biết thần linh
Chẳng hay ma quỷ
Đâu tường pháp thuật
Chỉ biết cõi trần này
Có chiếc áo thầy Mùn sặc sỡ”
(Chiếc áo sặc sỡ của thầy Mùn)
Yêu quý, tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc Thái, Lò Cao Nhum
ngợi ca tâm hồn dân tộc, những sinh hoạt văn hóa dân gian, những phong tục
tập quán tốt đẹp, ẩm thực, kiến trúc, lễ hội của dân tộc mình. Bên cạnh đó, nhà
thơ cũng dành một góc nhỏ trong thơ để phản ánh những hủ tục lạc hậu còn tồn
tại cho đến ngày nay.
2.1.4.2. Ngợi ca, tự hào về truyền thống văn học quý báu của dân tộc Thái
Trước tiên, nhà thơ Ngợi ca tự hào về tinh hoa văn học dân gian của
người Thái. Nhà thơ Lò Cao Nhum từng trăn trở: “Nhưng bắt đầu từ nửa sau
thế kỷ XX trở lại đây, văn hóa bản sắc truyền thống cũng đã ngày càng bị mai
một, xáo trộn. Trong khi tiếng nói còn giữ được khoảng 60% nguyên âm, thì
chữ viết đã hoàn toàn bị loại khỏi đời sống người Thái (chỉ nói riêng vùng
mường Mùn). Các sinh hoạt văn hóa xưa như lễ hội, hát kể mo, hát khắp (dân
ca trữ tình), các trò chơi dân gian v.v... gần như bị thay thế hoặc biến mất
hoàn toàn. Thế hệ sinh ra từ nửa sau thế kỷ XX đến nay hoàn toàn hòa nhập
vào những cuộc biến đổi sâu sắc đó. Tôi lớn lên hoàn toàn không biết chữ
Thái. Ngày nhỏ còn nghe đâu đó trong đám cưới một vài người ngẫu hứng hát
Khắp tua (hát đối đáp giao duyên), nhưng hầu như chưa đủ nhập vào tâm hồn
mình. Sau này sưu tầm lại những lời hát đó mới thấy nó hay và có giá trị tinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thần rất nhiều” (ghi trực tiếp).
46
Có lẽ vì thế, khi đọc thơ của Lò Cao Nhum, người đọc nhận thấy có chất
dân gian của người Thái. Chất dân gian ấy thể hiện sự ảnh hưởng của truyện
thơ, ca dao dân ca Thái.
Bài thơ Theo lời hát về nguồn được viết một cách giản dị, nhưng từng
câu, từng chữ đều thể hiện một bản lĩnh mạnh mẽ của con người khát khao
quay về nguồn cuội:
“Tôi đi
Cây lim mọc vào xương
Cây nghiến chui vào thớ
Sông bể cuộn trào sóng trong tim”
Theo lời hát về nguồn gồm có sáu bài thơ ngắn. Sáu bài thơ này như một
câu chuyện dài kể về cuộc đời của một người đàn ông ra đi từ thời còn trẻ, sau
mỗi lần trở về là một bài học kinh nghiệm khác nhau. Lò Cao Nhum đưa chất
tâm tình, cách diễn đạt và ngôn ngữ kể chuyện, biện pháp liệt kê của truyện thơ
dân gian vào trong sáng tác.
Bên cạnh cảm hứng ngợi ca tự hào về tinh hoa văn học dân gian của người
Thái, Lò Cao Nhum ngợi ca tự hào về nếp sống tình nghĩa, nhân ái, vị tha của
dân tộc Thái.
Lò Cao Nhum được bạn đọc yêu mến là từ sự chân thành, mộc mạc, những
tình cảm rung động rất đời thường, bình dị. Khi gặp trực tiếp nhà thơ ở ngoài
đời người ta sẽ cảm nhận ngay Lò Cao Nhum là người điềm tĩnh, hiền lành, ít
nói. Những tình cảm bạn đọc bắt gặp trong thơ ông cũng giống như con người
ngoài đời thực của ông vậy. Nhà thơ luôn tự hào về truyền thống tình nghĩa,
nhân ái, vị tha của đồng bào dân tộc Thái.
Lò Cao Nhum ngợi ca nếp sống cộng đồng trong sinh hoạt của người
Thái. Trong lao động sản xuất, những lúc mệt nhọc, người dân miền núi thường
ca hát hay kể chuyện vui để quên đi nỗi vất vả thường ngày:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
“Đi gánh lúa giải lao trên bờ lúa
47
Ống điếu cày truyền tay rôm rả
Bông lúa vàng lơi lả
Không dứt khơi chuyện mùa màng”
(Trên bờ lúa)
Trong những câu chuyện “rôm rả” của họ, thường là chuyện về đồng
ruộng, mùa màng tốt tươi. Đó chính là lời ngợi ca về mảnh đất thân yêu họ
sống, ngợi ca về phẩm chất yêu đời, lạc quan của những con người quê núi.
Vì rất yêu văn hóa dân gian, Lò Cao Nhum trăn trở, khắc khoải về những
giá trị văn hóa của dân tộc mình bị mai một. Lò Cao Nhum tâm sự: “Bắt đầu từ
nửa sau thế kỷ XX trở lại đây, văn hóa bản sắc truyền thống cũng đã ngày càng
bị mai một, xáo trộn. Các sinh hoạt văn hóa xưa như lễ hội, hát kể mo, hát
khắp, các trò chơi dân gian,... gần như bị thay thế hoặc biến mất hoàn toàn”.
Trong bài Gặp khèn ông viết:
“Cây khèn tóc bạc liêu xiêu
Thả lời tha thiết dặt dìu trao ai?...
Bấy lâu ngủ đến im lìm
Khèn ơi sao nỡ lặn chìm gió bay”.
(Gặp khèn)
Ngợi ca, tự hào về vốn văn hóa, văn học quý báu của dân tộc Thái bao
nhiêu, Lò Cao Nhum có những khắc khoải về sự mai một của văn hóa dân gian
Thái bấy nhiêu. Nỗi lòng khắc khoải ấy cũng là xuất phát từ tấm lòng tha thiết
với nét đẹp văn hóa của dân tộc.
Đối với Lò Cao Nhum, ngoài việc làm thơ, ông còn thích sưu tầm, dịch
dân ca Thái, khảo cứu văn hóa Thái. Những công việc này đã đem đến cho ông
nhiều hiểu biết hơn về văn hóa dân tộc Thái, về phong tục tập quán, và đặc biệt
là nguồn gốc của người Thái, những vùng đất khác nhau mà người Thái sinh
sống. Trong những tài liệu mà ông đọc được, ông đặc biệt quan tâm tới những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ghi chép về những vùng đất di cư của người Thái, những giao thoa văn hóa mà
48
người Thái chịu ảnh hưởng. Đấy chính là những lí do vì sao trong thơ của ông
thường nhắc đến những chiến công lập đất, dựng mường, khai sinh miền đất.
Dù không có nhiều bài thơ trực tiếp ngợi ca, tự hào về những chiến công của
đồng bào Thái trong quá khứ nhưng bạn đọc đều có thể cảm nhận cảm hứng
này qua cách nói gán tiếp từ nhiều bài thơ khác nhau.
Cảm hứng ngợi ca, tự hào về quê hương đất nước đã đem lại những
thành công đáng kể trong thơ ca Lò Cao Nhum. Đọc thơ Lò Cao Nhum bạn đọc
như được hòa mình trong cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng của vùng núi
Tây Bắc, tận hưởng những giây phút tuyệt vời trong sinh hoạt văn hóa dân gian
truyền thống, đặc biệt là điệu múa xòe uyển chuyển, nhịp nhàng. Đọc thơ Lò
Cao Nhum, bạn đọc như được tiếp xúc, trải nghiệm cùng những con người
miền núi anh dũng, gan lì, thủy chung, tình nghĩa... Tất cả như cùng tạo thành
cảm hứng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Lò Cao Nhum.
2.2. Nhân vật trữ tình
2.2.1. Khái niệm nhân vật trữ tình
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Nhân vật trữ tình là con người “đồng
dạng” của tác giả - nhà thơ hiện ra từ văn bản của kết cấu trữ tình (một chùm
thơ) như một con người có đường nét hay một vai sống động có số phận cá
nhân xác định hay có thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi có cả nét vẽ chân dung
mặc dù không bao giờ đạt tới đặc điểm của một nhân vật như trong tác phẩm
tự sự hay kịch” [8].
Nhân vật trữ tình không chỉ là đối tượng để nhà thơ miêu tả mà còn là đối
tượng thể hiện những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về lẽ sống
và con người được thể hiện trong tác phẩm. Phần lớn nhân vật trữ tình xuất
hiện với tư cách là những tình cảm, tâm trạng, suy tư... của chính bản thân nhà
thơ. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân
của tác giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
có thể tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo
49
qui luật điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể coi đây là những nhân
vật trữ tình nhập vai.
Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum là hiện thân của chính tác giả.
Tuy nhiên, ở một số bài thơ, nhà thơ đã tưởng tượng, hóa thân, nhập vai vào
đối tượng để bộc lộ cảm xúc của mình. Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao
Nhum có cách xưng hô phong phú, linh hoạt. Có khi xưng “tôi” (Ông nội tôi
khai sinh miền đất, Chiều hồ Sòng Sĩ, Một chiều chưa gặp Bến Tre...), có khi
xưng “ta” (Lên Thung Khe). Cũng có khi tác giả không dùng đại từ nhân xưng
mà chọn cách xưng danh riêng như trong bài Núi: “Núi sánh vai trùng trùng,
điệp điệp, giăng trường thành biên giới non sông. Người miền núi ta mang vóc
núi. Khi hoạn nạn biển trời thét gọi, trái núi dạng chân bám đất lành”. Trong
bài thơ, tác giả không dùng các đại từ tôi, ta, anh... mà tự xưng: “Người miền
núi ta mang vóc núi”. Cách viết này tạo được độ rộng (người miền núi nói
chung) và chiều sâu (nhận thức sâu sắc về nguồn gốc, con người của mình) của
nhân vật trữ tình. Cũng với cách thể hiện nhân vật trữ tình như thế, trong bài
thơ Ở rẻo cao Pù Bin nhà thơ viết: “Người Pù Bin lầm lỳ như núi/ Cao xanh
trên sương gió, nắng mưa/ Người rẻo cao tình bền củi lửa/ Râm ran cháy nỏ
suốt bốn mùa”. Nhân vật trữ tình trong bài thơ tự xưng là “người Pù Bin”,
“Người rẻo cao”. Hay trong bài Tiếng hát trên cao, nhân vật trữ tình là
“Người núi cao”: “Lên núi cao chỉ có gói cơm/ Người núi cao không đeo thanh
gươm”.. Dù nhân vật trữ tình là hiện thân của tác giả hay tác giả nhập vai thì
đều mang tâm sự, là ý thức của nhà thơ về cuội nguồn, gốc rễ của mình. Nhân
vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum có hai đặc điểm nổi bật, vừa đối lập, vừa
hòa nhập: mạnh mẽ phóng khoáng và hoài niệm, suy tư.
2.2.2. Nhân vật trữ tình mạnh mẽ, phóng khoáng
Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum mạnh mẽ, phóng
khoáng trước thiên nhiên dữ dội, trong những thử thách khắc nghiệt của chiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tranh và cuộc sống, trong quan hệ với bạn bè, anh em bốn phương...Tính chất
50
mạnh mẽ, phóng khoáng thể hiện ở tính tình rộng rãi, không chịu gò bó theo
khuôn khổ nào, không bị trói buộc bởi những điều vụn vặt, tầm thường.
Phẩm chất mạnh mẽ, phóng khoáng của nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao
Nhum trước hết thể hiện ở sự chủ động của con người trước thiên nhiên dữ dội:
“Cười vọng núi
Múa nghiêng rừng
Yêu cháy lá ngón
Nhớ mòn vẹt lưỡi khèn
Người Phan Xi Păng
Dạng chân trên chóp núi”
(Phác họa Phan Xi Păng)
Trước thiên nhiên dữ dội “Mưa lở núi/ Nắng nẻ nương” con người không
chịu khuất phục. Hơn nữa, lại “bước sải dài”, tự tin, chủ động, đến mức “lầm lũi
ngang ngạnh”. Điều đáng quý ở đây là dù thiên nhiên không chiều theo lòng
người, khắc nghiệt như thế nhưng nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn thể hiện
được sự hào sảng, phóng khoáng của mình: “Cười vọng núi/ Múa nghiêng
rừng/ Yêu cháy lá ngón/ Nhớ mòn vẹt lưỡi khèn”. Nhà thơ đã gợi tả rất xuất sắc
về đặc trưng phẩm chất con người miền núi: rộng rãi, phóng khoáng và không
chịu gò bó, ép buộc dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Cũng chất mạnh mẽ, phóng khoáng, Pờ Sảo Mìn trong Người con trai
Pa Dí viết:
Con trai người Pa Dí
Mắt một mí, tóc đen, mũi tẹt, da vàng
Dáng ngang tàng vẻ quẫy đạp trần gian”
(Người con trai Pa Dí)
Viết về người con trai dân tộc mình, Pờ Sảo Mìn khắc họa chất miền núi
ở vẻ “ngang tàng”, “quẫy đạp trần gian” nhưng lại rất hiền lành, giàu tình
cảm, sự rộng rãi trong quan hệ bạn bè bốn phương. Còn Lò Cao Nhum trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Bức vẽ trai bản lại nhấn mạnh tính chất mạnh mẽ, phóng khoáng toát ra từ
51
tư thế hiên ngang, chủ động vượt qua mọi thử thách từ thiên nhiên và khó
khăn trong cuộc sống:
“Tóc quen bay ngược
Gió thốc lướt qua
Bắp dao nghiêng sườn
Chĩa về phía trước.
Chống trụ hai chân
Đạp lên vai núi
Núi muốn nhô lên
Chân như ấn xuống”
(Bức vẽ trai bản)
Con người coi cái dữ dội của thiên nhiên chỉ “nhẹ tựa lông hồng”. “gió
thốc” mà chỉ “lướt qua”, điều đó “quen” rồi, chỉ làm cho tóc “bay ngược”,
còn con người thì vẫn “Bắp dao nghiêng sườn/ Chĩa về phía trước”. Con người
trong tư thế chiến thắng thiên nhiên, bắt thiên nhiên phải khuất phục, cúi đầu.
Trong quan hệ với bạn bè anh em bốn phương, người miền núi trong thơ
Pờ Sảo Mìn có chiều hướng ngoại: “Đến chín phương đất là chín phương bè
bạn/ Tới mười phương trời là mười phương thương nhớ”. Còn nhân vật trữ tình
trong thơ Lò Cao Nhum có chiều hướng nội. Khi khách đến nhà, gia chủ luôn
luôn là người hiếu khách, không bao giờ tính toán thiệt hơn: Nếu ai đã đến chơi
với gia đình người dân tộc Thái thì ắt hẳn sẽ cảm nhận được rất rõ, người dân
miền núi nói chung, người Thái nói riêng, họ rất thật thà, thường không so đo
tính toán thiệt hơn. Khách dù lạ hay quen, cũng đều được đối đãi thật lòng:
“Bạn đến
Mời ngồi xếp bằng tròn trên núi
Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Rượu nhà tôi
52
Rượu buộc chỉ cổ tay
Thắp lửa tình chiêng, tình trống”
(Rượu núi)
Chất mạnh mẽ, phóng khoáng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Rượu
núi được thể hiện trước tiên ở không gian uống rượu: “Mời ngồi xếp bằng tròn
trên núi/ Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời”. Tác giả chọn không gian trên cao,
gần gũi với thiên nhiên, được sưởi ấm bằng tia mặt trời. Cách mở đầu bài thơ
như thế đã gợi ấn tượng tốt đẹp về một “gia chủ” hào phóng, tính tình rộng rãi:
“Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà say”. Với những câu
thơ này, Lò Cao Nhum đã nâng vị trí của nhân vật trữ tình lên một tầm vóc
mới, tầm vóc của vũ trụ.
Ở bài thơ Ở dẻo cao Pù Bin, nhân vật trữ tình đã có cách ứng biến với
khó khăn rất linh hoạt. Trước “sấm rền bất chợt” không thể có một giấc ngủ
trưa an lành, con người không thể hiện thái độ hoảng sợ hay bực bội. Trước
điều kiện khắc nghiệt của khí hậu: “có gió lành, gió độc/ Đan xen châm da
thịt người…/ Đêm gió hú buốt vào cơn sốt” vậy mà người Pù Bin lại chỉ cần
“chờ nắng hửng lên thôi”.
Bài thơ Theo lời hát về nguồn, là một câu chuyện kể gồm sáu khúc về
hành trình “tôi” đi tìm “tôi”. Nhân vật trữ tình là một chàng trai của núi, có một
hành trình dài đi tìm “tôi” - “bản lai diện mục” của mình. Chất mạnh mẽ, phóng
khoáng thể hiện ở vẻ đẹp con người của núi: “Tôi đi/ Cây lim mọc vào xương/
Cây nghiến chui vào thớ/ Sông bể cuộn trào sóng trong tim”; trong lao động
sản xuất niềm vui vượt lên trên khó khăn vất vả: “Trườn lên ngọn sóng trùng
dương… Dân vạn chài ngậm nắng trong nụ cười/ Trộn gió vào giọng hát/ Hơi
thở có bão táp/ Ánh mắt có biển sâu”; chọn một cách sống tốt, chân thực và có
ý nghĩa: “Chớ vung lời cật nứa/ Cật nứa sắc rạch lá chuối rụng rơi/ Chớ nung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
dùi đỏ/ Chọc xiên tai ấm trà”; tự tin trước cách ứng xử khôn ngoan với người
53
đời: “Được lòng gấu sẽ không mất lòng hổ/ Được lòng nỏ sẽ không mất lòng
sóc/ Phải lòng nước tự vui lòng cá/ Phải lòng nà khắc đẹp lòng lúa”.
Như vậy, rõ ràng chất mạnh mẽ, phóng khoáng của nhân vật trữ tình
trong thơ Lò Cao Nhum được thể hiện trong tư thế hiên ngang, chủ động của
con người trước thiên nhiên dữ dội; trong quan hệ bạn bè anh em bốn phương
luôn tận tình, không tính toán so đo; trong giao tiếp với cộng đồng luôn chân
tình, cởi mở; đối với bản thân mình, luôn tự tin với sức mạnh thể chất, sức
mạnh tinh thần và biết gìn giữ phẩm chất quý giá vốn được thừa hưởng từ dân
tộc, quê hương mình.
2.2.3. Nhân vật trữ tình suy tư, hoài niệm
Ngoài chất mạnh mẽ, phóng khoáng, nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao
Nhum còn thường suy tư, hoài niệm.
Chất suy tư làm nên tính hiện đại trong thơ Lò Cao Nhum. Thơ Lò Cao
Nhum không phải chỉ để giãi bày, không phải chỉ để cảm, mà còn để suy nghĩ,
chiêm nghiệm. Lò Cao Nhum là một trong những nhà thơ dân tộc thiểu số có
nhiều câu thơ mang tính khái quát triết lí. Các câu thơ của ông không chỉ làm
người đọc thỏa mãn nhu cầu về cảm xúc mà còn đáp ứng nhu cầu về trí tuệ.
Đúng theo quan niệm của của Chế Lan Viên, làm thơ phải có ý cho người ta
nghĩ, có hình cho người ta thấy, có tình cho người ta xúc động.
Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum suy tư về những quan hệ phức
tạp của đời tư trước những thử thách, khổ đau, vấp ngã, những chiêm nghiệm
trước mất mát, khó khăn trong tình yêu, gia đình, họ tộc; Cũng có khi là những
suy tư chiêm nghiệm về thiên chức của nhà thơ với tư cách người nghệ sĩ.
Với những thử thách trước khổ đau, vấp ngã của bi kịch đời tư, nhà thơ viết:
“Từng lên mây lạc gió
Từng cưỡi sóng nhầm luồng
Trước ngó, sau trông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Đến ngã ba còn dùng dằng tơ nhện.
54
Nhưng, ngã ba
Có con đường ngắn nhất
Con đường sáng suốt
Mở lối cho bàn chân chai lỳ”
(Trước ngã ba)
Bài thơ như một sự chiêm nghiệm, một khoảnh khắc suy tư về những ngã
rẽ trong cuộc đời. Cũng có khi con đường đi là đúng, cũng có lúc con đường đi
“nhầm luồng”. Những khi ấy, con người ta thường hay do dự “dùng dằng tơ
nhện”. Nhưng rồi con người ta cũng sẽ tự tin mà bước tiếp vì đó là “con đường
sáng suốt/ Mở lối cho bàn chân chai lỳ”.
Đôi khi, trái tim nhà thơ vô cùng nhạy cảm, tới mức chỉ cầm hòn sỏi trên
tay mà cũng có thể suy tư ngay về một kiếp người “long đong”, một số phận
“nghèo hèn”:
“Biết là sâu thẳm mênh mông
Tầm nhìn của núi, tầm trông của trời
Tầm lao thuyền của biển khơi
Cũng từ sỏi đá này thôi kết thành”
(Sỏi đá)
Từ một dáng núi, ngọn cỏ, nhà thơ suy tư về con người:
“Soi núi
Xem rễ triệu năm luồn mấy tầng hóa thạch
Trước sừng sững chon von dáng vươn
Ôi mình
Ngọn cỏ”
(Soi gương núi)
Đứng trước núi, trước sự trường tồn của núi “triệu năm”, “hóa thạch”,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
con người chỉ là “ngọn cỏ” nhỏ bé, hữu hạn. So sánh cuộc đời con người với
55
núi không phải để thấy con người nhỏ bé đi, mà để thấy ý thức của nhà thơ về
cái hữu hạn của đời người từ đó sống tốt hơn, có trách nhiệm hơn.
Là một người cha yêu thương con hết mực, trong những lời khuyên dạy,
Lò Cao Nhum không quên dặn con điều hay lẽ thiệt mà ông đã chiêm nghiệm
từ cuộc đời:
“Rồi ngày mai con xuống núi...
Bước đầu tiên
Con vấp gót chân mình...
Gặp phố phường ngã bảy, ngã mười
Gặp lòng người đỏ, vàng, đen, trắng
Mỗi lần vấp, một bước đi
Sẽ sực nhớ người thầy trên núi”
(Rồi ngày mai con đi)
Qua lời dạy con, Lò Cao Nhum đã bộc lộ suy tư của mình trước cuộc đời.
Cuộc đời muôn ngã rẽ, có những ngã rẽ thật khó khăn. Con người cũng muôn
hình muôn vẻ, nhận diện chính xác được con người cũng thật khó. Vấp ngã trên
đường đời là điều không thể tránh, những lúc như thế, “con” hãy lắng nghe tim
mình, hãy tìm đến “người thầy trên núi”, “con” sẽ vượt qua tất cả. Lời dặn con
của nhân vật trữ tình còn bộc lộ niềm tin đối với “người thầy trên núi” - cũng
là nhân vật trữ tình của bài thơ.
Lò Cao Nhum đi nhiều nơi, đi đến chân trời góc bể. Đi đến những cao
nguyên ngút ngàn đá và gió của Hà Giang, đến Kon Tum, Đắc Lắc, Mũi Cà
Mau... Mỗi nơi đến là một trải nghiệm khác nhau. Những trải nghiệm ấy đã
mang đến cho nhà thơ nhiều trăn trở, suy tư về cuộc sống đời thường. Theo lời
hát về nguồn như một câu chuyện kể về những chuyến đi của chàng trai phố
núi tới những miền đất lạ. Đọc bài thơ người đọc như thấy rõ những suy tư
chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời sau những lần trải nghiệm trong thực tế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cuộc sống. Chàng trai ra đi đem theo văn hóa xứ xở mình qua những lời dạy
56
của “Núi”. Khi trở về, những bài học buồn vui, về lẽ sống ở đời là tất cả những
gì anh có được.
Lần đi thứ nhất, chàng trai mang theo tuổi thanh xuân và tất cả sức mạnh
của một chàng trai mang tầm vóc của núi rừng:
“Tôi đi
Cây lim mọc vào xương
Cây nghiến chui vào thớ
Sông bể cuộn trào sóng trong tim”
Chàng trai đem theo một lời dặn của núi:
“Nếu vợ anh bé nhỏ
Hãy cúi xuống với nàng”
Đó là lời dặn về tình nghĩa thủy chung, cách ứng xử trong tình cảm gia
đình. Hãy trân trọng người bạn đời của mình dù nàng “bé nhỏ” thế nào. Thế
nhưng qua bao trải nghiệm, thỏa chí bốn phương:
“Mới mẻ trời xanh
Tung tăng nơi vì sao trong nhất
Ngụp lặn thiên hà”
Khi quay trở về, chàng trai bẽ bàng nhận ra:
“Tôi bì bạch trở về
Con vịt đất”
Cứ như vậy, mỗi lần chàng trai ra đi là một sự trưởng thành dần lên, những
trải nghiệm cũng lớn dần. Mỗi lần đi, chàng trai đều mang theo lời dặn của núi:
“Núi nghiêng vào tận cửa... Dặn rằng: Người có mường, sơn dương có hang”,
“Hổ vằn ngoài da/ Người vằn trong bụng”, “Miền xuôi, miền ngược/ Chân
thang sát, góc nhà kề”... Đó là những lời dặn dò về tình cảm cội nguồn (Bài II),
về lẽ nhân thế, biết lường trước những khó khăn trên dòng đời (Bài III), dặn dò
“cái nghĩa sinh tồn” của con người chính là “Chân thang sát, góc nhà kề”, là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tình cảm quê hương (Bài IV), dặn dò về cách ứng xử của con người trong cuộc
57
sống (Bài V) và dặn dò về giữ gìn cách sống của con người miền núi, sống
chân thật, tình nghĩa (BàiVI):
“Nghiện thuốc mặt trời hay
Ngoại tình mặt trời biết
Không gói được lửa khói
Hiển nhiên như quy luật muôn đời”
Tuy vậy, không phải lúc nào lời dạy cũng đúng. Có lần chàng ra đi với lời
dặn: “Được lòng gấu thì mất lòng hổ/ Được lòng nỏ thì mất lòng sóc” nhưng
qua bao trải nghiệm, chàng trai đem bài ca của biển khơi trở về nguồn cuội của
mình với một tâm thế thuần hậu, nhân hòa: “Được lòng gấu sẽ không mất lòng
hổ/ Được lòng nỏ sẽ không mất lòng sóc”. Qua nhiều trải nghiệm, chàng trai
hiểu được rằng, có những điều như một lẽ phải hiển nhiên, nhưng lại có những
điều đúng với nơi này lại không đúng với nơi khác. Chỉ khi trải qua những trải
nghiệm thực sự, con người mới tìm được lẽ phải.
Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum còn suy tư trước những mất mát,
khó khăn trong tình yêu, gia đình, họ tộc.
Tình yêu đầu không đến được với nhau nhưng cũng không dễ gì mất đi
trong trái tim, đấy là tình yêu trong sáng và đích thực:
“Chỉ lạ điều xưa nay
Tiêu nghìn vàng không nhớ
Hoa buổi đầu chớm nở
Gió day dứt trọn đời”.
(Thơ tặng người hôm qua)
Lò Cao Nhum nhìn bằng cái nhìn của dân tộc mình, nghĩ từ cách nghĩ của
dân tộc mình để từ đó suy tư về một đời lam lũ của ông bà rồi khái quát và tìm
ra ý nghĩa của cuộc sống:
Đời còn rách tháng ba ngày tám
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chuôi thuổng nắm mòn như eo lưng
58
Mái đầu gùi lằn chai củ sắn
Miếng vá in lưng áo
...Miếng vá dịu dàng bàn tay
Giống mảnh nương vuông vắn trên đồi…
Bát cơm vơi dâng đầy chiu chắt
Những mảnh nương vá đắp
Cuộc sống dài chưa dễ lành nguyên.
(Mảnh nương trên đồi)
So sánh mảnh nương trên đồi giống miếng vá trên lưng áo ông bà, cách so
sánh này hết sức độc đáo. Nhưng đó chỉ là cái cớ để nhân vật trữ tình bộc lộ
những ngẫm ngợi về cuộc sống quê hương.
Từ những suy tư, chiêm nghiệm được bộc lộ trong thơ Lò Cao Nhum, ta
thấy ẩn đằng sau đó là những triết lí của tác giả về số phận con người, về lẽ
sống và cái chết, về những may mắn, khổ đau và bất hạnh của cuộc đời mỗi
con người.
Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum có lúc suy tư về thiên chức của
nhà thơ với tư cách người nghệ sĩ. Những suy tư chiêm nghiệm ấy chính là nỗi
niềm đau đáu, trăn trở thường trực của chính nhà thơ. Điều này thể hiện nhà thơ
là một con người làm nghệ thuật có ý thức, có tâm với nghề.
Trước tiên, Lò Cao Nhum suy tư về thiên chức của nhà thơ:
“Đời người chuỗi tháng năm
Như dây cườm óng ánh
Thời gian leo toà ốc
Vòng xoắn đến đỉnh cao.
Da hiện dần dấu chim
Nếp nghĩ càng thêm mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Xuân không biết dừng lại
59
Nếu ta thừa hiến dâng”
(Đếm tuổi)
Ông cho rằng, đã là nhà thơ thì trọn đời phải “hiến dâng” cho thơ. Thời
gian trong cuộc đời mỗi con người như “leo tòa ốc”, tuổi càng ngày càng lên
cao, trên da ngày càng xuất hiện nhiều dấu “chân chim”, “nếp nghĩ càng thêm
mới”, tuổi xuân của con người trôi qua ngày càng nhanh, không biết dừng lại.
Vì thế, nhà thơ sống trên đời là phải biết hiến dâng cuộc đời cho thơ.
Nhà thơ sinh ra trên đời làm gì:
“Nằm cắn bút ao ước mùa hoa
Muốn nước nguồn ngày đêm thông mạch
Muốn ý thơ của mình trên sách
Sinh sôi như đất đẹp, trứng tròn”
(Không đề)
Nhà thơ bày tỏ quan điểm của mình về trách nhiệm của nhà thơ. Sinh ra
trên đời, làm thơ cũng chỉ mong cảm hứng dồi dào, sức sáng tác như nước
nguồn ngày đêm thông mạch, ý thơ thực sự hay, có giá trị, được bạn đọc công
nhận và quan trọng hơn cả là những trang thơ phải chịu được thử thách khắc
nghiệt của thời gian, phải tồn tại được trong lòng người đọc, được người đọc
chấp nhận và yêu mến.
Người làm thơ như một cây nến, khi thắp sáng cho mọi người là tự đốt
cháy mình:
“Căn phòng tôi mở vuông ô cửa
Sao Bắc, sao Nam nháy mắt ghé vào
Tặng tôi những câu thơ cây nến
Tôi tặng mọi người cây nến đời tôi”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Căn phòng tôi)
60
Lò Cao Nhum là nhà thơ có ý thức về nghề nghiệp của mình. Ông suy tư
về sứ mệnh của nhà thơ:
“Ban mai
Tôi mở cửa
Nâng mặt trời lên
Đón mặt trời vào…
Sau lưng tôi
Những cánh chim uể oải cọng rơm dáng chiều
Bóng mây vương nghiêng triền núi
Tôi gom về, ấp ủ
Sớm mai mở cửa
Nâng mặt trời lên
Đón mặt trời vào”
(Ban mai)
Nhà thơ có sứ mệnh cao cả là nâng bước ban mai, sưởi ấm trái tim muôn
loài, xua tan bao mệt mỏi băng giá của đêm tối. Làm thơ chính là làm công
việc có ý nghĩa, đem mặt trời đến sưởi ấm tâm hồn con người. Để làm được
điều này, nhà thơ phải là người có trái tim lớn, có tài năng, luôn ý thức được
sứ mệnh và trách nhiệm của mình.
Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum thường hoài niệm về những kỷ
niệm tuổi thơ, những kỷ niệm của tình yêu, về những người thân đã khuất; cũng
có khi hoài niệm về những tinh hoa văn hóa của dân tộc đã có phần mai một dần.
Có những lúc trong cuộc sống tấp nập, con người thường nhớ về những kỷ
niệm tuổi thơ. Đó là những khoảng lặng cần thiết và quý giá. Với Lò Cao
Nhum, kỷ niệm tuổi thơ của ông gắn liền với hương dứa thơm cùng với những
“vì sao vấn vít sàn nứa” được sưởi ấm cùng “đám cỏ khô đầu núi”:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
“Có một mồi lửa
61
Thổi vào đám cỏ khô đầu núi
Bập bùng, bập bùng
Tinh luyện những vì sao không biết lặn…
Trời xa
Đâu rồi sàn nứa?
Hãy mở ngỏ cho ta một cửa
Từ buổi hương bay mùa dứa ngọt ngào
Buổi vòm trời sao thắp trong sao”
(Mùa dứa)
Có người coi những kỷ niệm tuổi thơ như một giấc mơ đẹp, có người lại
coi nó như một ác mộng xảy ra. Ký ức tuổi thơ của những đứa trẻ miền núi có
thể là ấn tượng về những món ăn đời thường nhưng rất trẻ con, như ăn hoa
mâm xôi, quả sung, quả vả, có khi là một ngọn bông lau non hay thân cây ngô
trên nương… Với Lò Cao Nhum, ông đặc biệt ấn tượng mùi hương thơm ngọt
lành của dứa. Người dân miền núi khi lớn lên cũng thường nhớ về những trò
chơi dân gian như đánh đáo, ném còn, chơi cù hay là những ống bơ bò bỏ than
đỏ và một chút lá khô vào quay quay cho chúng cháy thành những đốm lửa…
Lò Cao Nhum nhớ về những đám lửa đốt ở đầu núi, nơi tụ tập đám trẻ con
trong làng chơi các trò chơi dân gian.
Kỷ niệm tuổi thơ có khi bất chợt ùa về cùng với những viên đá cuội nhiều
màu sắc mà thủa nhỏ thường chơi:
“Bất chợt mùa xuân
Tôi vùng dậy, nhảy ba bậc cầu thang, bươn bả lao ra nơi ngã ba suối
Mùn. Tôi ôm bờ suối lay lay: Suối ơi dậy, suối ơi thức, chỉ cho tôi đâu hòn
cuội trắng lăn từ bản Nhót đến, hòn cuội đỏ lăn từ bản Tòng về. Tôi căng
mười làn mi, ngóng chằm chằm vào bờ cát. Những hạt cát lấp lánh như triệu
triệu vì sao”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Ngã ba suối Mùn)
62
Như đã nói, Lò Cao Nhum là nhà thơ rất yêu bản sắc văn hóa dân tộc
mình. Ông thường nhớ về những tinh hoa văn hóa đẹp đẽ của dân tộc mình rồi
luyến tiếc, xót xa vì những giá trị tốt đẹp ấy đang ngày càng mai một dần.
Trong ký ức của mình, nhà thơ đặc biệt nhớ về tiếng khèn. Đó là âm thanh đặc
trưng của người đồng bào miền núi. Tiếng khèn đã đi vào các tác phẩm nghệ
thuật rất nhiều, nhất là trong thơ ca, tiếng khèn như là một biểu tượng của
người miền núi. Lò Cao Nhum nhắc đến tiếng khèn như là một giá trị văn hóa
tinh thần quý giá của dân tộc. Tiếng khèn có mặt trong những câu chuyện tình
yêu của những đôi trai gái:
“Bờ xa gửi gió bắc sang
Tâm tình bằng tiếng mênh mang khèn bè
Sương giăng, giăng nhớ, giăng thề
Lời thương dắt díu tụ về trong tim.
Bấy lâu ngủ đến im lìm
Khèn ơi sao nỡ lặn chìm gió bay?”
(Gặp khèn)
Lò Cao Nhum không viết nhiều về những người thân đã khuất. Nhưng
khi đã viết thì lại gây ấn tượng rất mạnh vì những ký ức về họ:
“Thế hệ tôi chưa xa thế hệ ông
Nhưng cũng không còn gặp ông nữa
Ông khai khẩn đất đai và ông đã về hòa với đất…
Nơi ông từng đứng gan lỳ suốt dọc triền mưa gió
Nghe mạch đất râm ran
Vọng điều linh thiêng
Hỡi mọi sinh linh mặt đất
Trong ta trú ngụ một Thành Hoàng”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Ông nội tôi khai sinh miền đất)
63
Ông nội của Lò Cao Nhum là một trong những người đầu tiên có công lập
bản của họ Lò tại Mai Châu, Hòa Bình. Nhà thơ vốn rất quý và kính yêu ông
nội mình. Dù ông nội của nhà thơ đã mất, nhưng những ký ức về ông vẫn là
nguồn động viên tinh thần vô cùng quý giá đối với nhà thơ. Nhà thơ đã từng
tâm sự: “Bài thơ Ông nội tôi khai sinh miền đất ban đầu tôi viết với ý nghĩ
đơn giản là để lưu giữ lại hình ảnh người ông thân yêu của tôi đã đi xa, nhưng
sau do tác hợp thêm những ám ảnh về thân phận một dân tộc, lại nữa với chức
năng của thơ, tôi đã đẩy từ hình ảnh cụ thể về ông nội thành hình tượng của tứ
thơ” [Ghi trực tiếp]. Có lẽ tứ thơ về ông nội đã được Lò Cao Nhum ấp ủ từ rất
lâu rồi, có khi từ lúc tác giả biết có ông nội trong cõi đời này. Điều ông nội khai
sinh miền đất có thể tác giả đã biết từ những năm tháng niên thiếu qua lời kể
của người già hay qua chính ông nội kể lại. Vậy mà cho đến tận tháng năm này,
khi bản thân nhà thơ đã trở thành ông ngoại, nhà thơ mới kể ra, mới nói những
điều sâu kín, thiêng liêng về ông nội: “Thế hệ tôi chưa xa thế hệ ông/ Nhưng
cũng không còn gặp ông nữa/ Ông khai khẩn đất đai và ông đã về hòa với
đất”. Không phải chỉ là tự hào mà còn là lòng biết ơn về tất cả những gì ông
nội đã tạo dựng. Những ký ức về ông nội đã trở thành một “Thành Hoàng”.
Lò Cao Nhum mồ côi mẹ từ nhỏ, lên 2 tuổi thì mẹ mất do bạo bệnh. Ông
lớn lên bằng nguồn sữa của các cô các dì cả bên nội và bên ngoại. Có lẽ vì thế,
trong thơ Lò Cao Nhum bạn đọc luôn bắt gặp một tình cảm rất đặc biệt khi ông
viết về “mẹ”:
“Mẹ rưng rưng chiều bếp
Tìm đốm than soi lòng mưa ngâu
Đứa ra trận chờn vờn tấm ảnh
Nén hương thầm: Con trú mưa đâu?”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Mưa)
64
Cũng có khi là tình cảm thiết tha ấm cúng về người “bà”:
“Bà ơi, thương bà đêm giêng lạnh Đệm bông lau cháu trải bà nằm Bà còn ủ lửa vùi tro giữ Lửa hồng đủ giữ ấm bà không?”
(Cây củi giữ lửa nhà sàn)
Trong những miền hồi ức của mình, nhà thơ còn dành những trang thơ viết về những kỷ niệm tình yêu. Đó là những lời tỏ tình, hứa hẹn trong tình yêu. Khi tình yêu đã chớm nở, “anh” khéo léo ướm hỏi “em”, chỉ mong “em” nhận lời. Nhưng đợi mãi, hết “mùa nắng” sang “tháng tám”, hết “mùa xuân”, sang “mùa đông” mà “anh” vẫn chưa nhận được câu trả lời. Vì thế “anh” buông lời trách móc khéo léo “Lẽ nào em hỡi/ Cứ đan dệt mùa đông” (Tung còn). Đó là cảm giác giá lạnh, khổ đau khi tình yêu đầu đời bị tan vỡ (Khi em lên xe hoa); Hay nhà thơ viết về những luyến tiếc của một mối tình không thành (Thơ tặng người hôm qua, Trở lại xóm Chùa); Cũng có khi là cảm xúc đầu tiên khi chàng trai theo cô gái về ở rể được tác giả vẽ bằng nét bút vừa tươi tắn, sinh động vừa đằm thắm, thiết tha (Bếp lửa nhà ta)... Đọc thơ viết về tình yêu của Lò Cao Nhum, ta không bắt gặp cái thiết tha, rạo rực của tình yêu đầu tuổi mới lớn, ta cũng không bắt gặp tình cảm mãnh liệt, đam mê của những chàng trai, cô gái si tình. Đọc thơ ông, ta thường bắt gặp những tình cảm chân thành, ý nhị của con người trưởng thành, trầm tư, sâu sắc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Cảm hứng quê hương đất nước trong thơ Lò Cao Nhum phong phú, đa dạng với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, ngợi ca con người miền núi chân thành, mộc mạc, yêu quý tự hào vùng đất giàu bản sắc văn hóa Thái. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ ông biểu hiện rất phong phú. Khi thì mạnh mẽ, phóng khoáng trước thiên nhiên dữ dội, trước những ác liệt của chiến tranh, trong thử thách của đời thường. Khi nhân vật trữ tình suy tư chiêm nghiệm trước cuộc sống khó khăn của đời thường, trước những quan hệ phức tạp của con người hay những đổi thay của cuộc đời. Khi lại hoài niệm về những kỷ niệm của tình yêu, những người thân đã khuất... Tất cả như hòa quyện với nhau làm nên chất thơ mộc mạc, chân thành, gần gũi mà sâu sắc của thơ Lò Cao Nhum.
65
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ LÒ CAO NHUM
3.1. Thơ Lò Cao Nhum giàu biểu tượng
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình
thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại
trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt" [25, tr.66].
Như vậy, biểu tượng là những hình ảnh của những sự vật, hiện tượng của
thế giới xung quanh, được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy
ra trước đó, được giữ lại trong ý thức hay là những hình ảnh mới được hình
thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trước. Biểu tượng không phải hoàn
toàn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau khi đã được tri giác. Tuy
nhiên, những hình ảnh đó cũng không hoàn toàn là kết quả chủ quan xuất phát
từ những hoạt động tâm trí của chủ thể. Biểu tượng là hiện tượng chủ quan của
đối tượng về hiện tượng khách quan đã được tri giác từ trước.
Thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số nói chung thường có những biểu
tượng giống nhau như biểu tượng về “đất”, “nước” và “lửa”. Tuy nhiên nét đặc
sắc của từng nhà thơ lại thể hiện ở hệ thống biểu tượng mẫu gốc và nghĩa phái
sinh. Thơ của nhà thơ Lò Cao Nhum có hệ thống biểu tượng phong phú. Chúng
tôi tiến hành thống kê toàn bộ sáng tác thơ của Lò Cao Nhum và nhận thấy,
một số hình ảnh nhà thơ thường dùng, được lặp đi lặp lại nhiều lần, đó là “núi”,
“biển”, “sông”, “suối”, “lửa” và “rượu” (phụ luc 2). Trong số các hình ảnh mà
nhà thơ thường dùng, có ba hình ảnh đặc sắc, xuất hiện với tần xuất lớn, có
nhiều dụng ý nghệ thuật, mang ý nghĩa biểu tượng, đó là các hình ảnh “núi”,
“lửa” và “rượu”.
Chúng tôi tiến hành khảo sát hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tập thơ của Lò Cao Nhum và thu được các kết quả như sau:
66
Bảng 3.1. Tổng hợp các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ Lò Cao Nhum
STT Hình ảnh Số lần xuất hiện
1 Núi 120
2 Lửa 33
3 Rượu 20
Biểu đồ 3.1. Số lần sử dụng các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng
trong thơ Lò Cao Nhum
* Biểu tượng Núi:
Qua Biểu đồ thể hiện số lần sử dụng các biểu tượng trong thơ, có thể
nhận thấy biểu tượng được Lò Cao Nhum sử dụng nhiều nhất là “núi”. Biểu
tượng “núi” xuất hiện trong nhiều bài thơ (53/143 bài). Trong một bài thơ, số
lần sử dụng biểu tượng “núi” cao hơn các biểu tượng khác. Bài sử dụng nhiều
nhất là bài Theo Lời hát về nguồn - 18 lần. Số lần nhà thơ sử dụng biểu tượng
“núi” nhiều nhất (120 lần).
Sự xuất hiện biểu tượng “núi” trong thơ Lò Cao Nhum có nhiều nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhân. Trước tiên, núi là nơi người Thái chủ yếu sinh sống, vì thế núi rất gần gũi
67
và thân thiết với người dân tộc Thái. Thứ hai, để khắc họa tính chất “miền núi”
thì việc sử dụng biểu tượng “núi” sẽ tạo ra hiệu quả cao. Việc sử dụng biểu
tượng “núi” nhiều lần đã tạo cho người đọc một ấn tượng riêng, đây cũng là
một cách nhấn mạnh chất “miền núi” của nhà thơ.
Lãnh thổ Việt Nam có ba phần tư diện tích là đồi núi, vì thế núi có một vai
trò rất quan trọng trong đời sống của con người. Nó vừa có ý nghĩa về nơi cư
trú lại vừa có ý nghĩa tâm linh. Đối với người Tây Bắc, núi vừa là nơi sinh
sống, vừa là nơi che chở, núi gắn bó mật thiết với đời sống vật chất cũng như
tinh thần của con người. Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới: “Ý nghĩa
tượng trưng của núi có nhiều mặt, vừa là chiều cao vừa là điểm trung tâm...
Núi là nơi Trời và đất gặp nhau... Núi cũng thể hiện những khái niệm về tính
ổn định, bất di bất dịch và đôi khi cả về tính thanh khiết... Một đỉnh núi vươn
lên trời cao không chỉ là một họa tiết đẹp trong tranh, nó còn tượng tưng cho
nơi cư trú của các thần mặt trời, cho các đức tính cao đẹp của tâm hồn, cho
chức năng siêu ý thức của các sức sống” [14, tr. 699].
Lò Cao Nhum có một tình cảm rất đặc biệt dành cho núi:
“Núi vút lên khao khát xanh và thắm đỏ hết mình màu nuôi
nấng... Núi phun lửa căm hờn đen ngòm cả một mảng trời... Núi
dịu dàng múa ca với gió tháng giêng, nhưng cũng biết gầm gừ vặn
mình chọi giông bão... Núi sánh vai trùng trùng, điệp điệp, giăng
trường thành biên giới non sông.... Khi hoạn nạn biển trời thét
gọi, trái núi dạng chân bám đất lành”
(Núi)
Trong con mắt của nhà thơ, núi không chỉ là thiên nhiên đẹp mà còn giàu
sức sống bởi “thắm màu nuôi nấng”, núi có tính cách: có lúc mạnh mẽ, “căm
hờn”, có lúc lại “dịu dàng múa ca”, có lúc lại “gầm gừ vặn mình chọi bão
giông”. Tình cảm của Lò Cao Nhum với núi rất đa dạng. Có khi núi là đối
tượng để nhà thơ ngợi ca, cũng có khi lại là bầu bạn để tâm sự. Sâu thẳm trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tâm hồn mình, Lò Cao Nhum coi núi như tâm giao.
68
Núi như chở che cuộc sống của con người:
“Làng với suối giữa lòng thung núi
Mà đường về thì vắt ngang mây
Đứng trên cao thấy hàng cau như vẫy
Như người về đêm ngất ngả say”
(Về những hàng cau)
Bài thơ miêu tả quê hương của Lò Cao Nhum, đó là Bản Lác, Mai Châu,
Hòa Bình. Ai đã đến Mai Châu vào mùa hè, buổi sớm mai của những hôm trời
nắng đẹp, đứng trên đỉnh đèo Thung Khe, nhìn xuống thị trấn Mai Châu thì
không thể không trầm trồ về cảnh đẹp của vùng đất này. Thung lũng Mai Châu
như được ôm gọn vào lòng bởi những dãy núi cao vút. Con đường đèo Thung
Khe như một dải lụa, vắt ngang những đám mây bồng bềnh trắng muốt. Cảnh
đẹp hút hồn du khách. Lò Cao Nhum đã bắt được cái hồn của cảnh vật: “Làng
với suối giữa lòng thung núi”. Hình tượng “núi” như chở che, bao bọc cho
cuộc sống của con người. Nhà thơ thổi hồn vào núi, tạo cảm giác bình yên,
hạnh phúc cho quê hương.
Trong bài thơ Vòng xòe, núi là nơi gắn kết con người với thiên nhiên:
“Hãy cầm tay, hãy dắt tay
Xòe cùng đồi, cùng núi
Sánh cùng sao, cùng trăng
Bền cùng trời, cùng đất”
(Vòng xòe)
Núi không chỉ chứng kiến mọi hoạt động của con người mà dường như núi
còn tham gia vào nhịp sống ấy. Mỗi điệu khèn, mỗi lời ca đều vang vọng vào
lòng của núi. Núi đã trở thành một phần hồn cốt quan trọng đối với con người.
Mọi niềm vui, mọi nỗi buồn, núi luôn là “người đồng hành” thân thiết.
Núi là nơi thử thách bản lĩnh của con người. Bắt đầu là thử thách khát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
khao sinh tồn:
69
“Bắt đầu là gồng gánh núi non
Ở trong núi có mồ hôi của đá
Trong đá kết tinh nỗi khổ
Nỗi khổ ủ niềm khát khao”
(Ông nội tôi khai sinh miền đất)
Cuộc sống càng khó khăn bao nhiêu, con người càng khát khao sinh tồn
bấy nhiêu. Núi vừa là thử thách, vừa là nỗi khổ mà con người phải chịu đựng,
phải trải qua: “Ở trong núi có mồ hôi của đá/ Trong đá kết tinh nỗi khổ”.
Nhưng với sức sống bền bỉ và nghị lực phi thường của mình, con người đã biến
nỗi khổ ấy thành “niềm khát khao”. Núi càng cao bao nhiêu thì khát khao của
con người càng lớn bấy nhiêu.
Sống với núi, con người phải thích nghi để sinh tồn. Vượt qua bao thử
thách, con người miền núi trong thơ Lò Cao Nhum lại trở nên đẹp hơn, bản lĩnh
hơn. Núi trong Bức vẽ trai bản không chỉ mang nghĩa thực mà nó như được
nhân hóa lên, trở thành đối tượng thử thách con người, nâng con người lên một
tầm cao mới, tầm cao của vũ trụ:
“Chống trụ hai chân
Đạp lên vai núi
Núi muốn nhô lên
Chân như ấn xuống”
(Bức vẽ trai bản)
Núi có khi được nhân hóa như một người thầy, người mẹ, như một người
từng trải mang hồn cốt của núi để người đi xa không đánh mất phẩm chất con
người. Núi dặn dò người con trai của núi:
“Ngày tôi đi
Núi nghiêng vào tận cửa
Vỗ vai tôi nơi chân cầu thang
Dặn rằng:
“Nếu vợ anh bé nhỏ
Hãy cúi xuống với nàng”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Theo lời hát về nguồn)
70
Đó là bài học về tình cảm gia đình. Mỗi lần ra đi, người con trai của núi
đều được núi ghé vai dặn dò. Khi thì dặn dò về tình cảm cội nguồn “Miền xuôi,
miền ngược/ Chân thang sát, góc nhà kề”, khi thì dặn dò về lẽ nhân thế, trong
cuộc sống phải biết lường trước những khó khăn của cuộc đời “Hổ vằn ngoài
da/ Người vằn ttong bụng”, khi lại dặn dò về tình cảm quê hương, cách đối
nhân xử thế... Núi trong bài thơ Theo lời hát về nguồn được nhân hóa trở thành
người mẹ, người thầy, một người từng trải mang hồn cốt của núi để người đi xa
không đánh mất phẩm chất con người, đủ bản lĩnh, đủ khôn khéo để vượt qua
tất cả khó khăn, sóng gió của cuộc đời.
Lò Cao Nhum một đời sống với núi nên nhân vật trữ tình trong các bài thơ
của ông thường trong tâm thế gần gũi, thân thiết với núi, núi luôn cận kề, sát vai
với con người. Còn nhà thơ Võ Sa Hà (Hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân
tộc thiểu số Việt Nam, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam), khi viết về núi, ông
thường viết với tâm thế của một người con xa quê lâu ngày gặp lại. Võ Sa Hà là
một nhà thơ người Kinh, quê gốc ở Bắc Ninh, sinh ra và lớn lên tại Cao Bằng,
khi đã trưởng thành, ông lập nghiệp và sinh sống ở Thái Nguyên. Đối với Võ Sa
Hà, Cao Bằng là mảnh đất gắn bó máu thịt với ông, và vì thế, quê núi ấy đã trở
thành hồn cốt tâm hồn ông. Thơ Võ Sa Hà cũng đậm chất miền núi, hình ảnh
ngọn núi hiện ra với tầm vóc vũ trụ mang sắc thái huyền thoại, kì vĩ:
“Những quả núi cao ngửa mặt nhìn trời
Vẫn vững chãi qua ngút ngàn sóng gió
Người thương đất nên từng mỏm đá
Dù giặc dã bao lần vẫn ôm đất không đi”
(Khúc hát quê hương)
Cũng có khi núi non chất chứa những kỷ niệm đẹp đẽ:
“Anh đã từng cõng em lên núi
Núi Sa Hà mờ xanh...
Anh đã từng hát cho em nghe
Bài hát của gió rền, núi nghiêng, sông cuộn”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Anh khóc)
71
Tuy nhiên, biểu tượng núi trong thơ Võ Sa Hà được nói đến trong tâm thế
của một nhà thơ người xa núi muốn trở về quê núi. Còn trong thơ Lò Cao
Nhum, biểu tượng “Núi” được thể hiện đậm đặc trong tâm thế của một người
dân tộc thiểu số “ăn đời ở kiếp” với núi rừng.
Như vậy, hình ảnh núi trong thơ Lò Cao Nhum được nhắc đến thường
trực, núi hiện ra tự nhiên như hơi thở của con người. Không cần phải dày công
chọn lọc, cũng không cần phải sắp đặt cầu kỳ. Núi cứ trở đi trở lại và trở thành
biểu tượng “Núi” trong thơ ông một cách tự nhiên. Trong thơ Lò Cao Nhum,
hình ảnh núi xuất hiện với nhiều ý nghĩa. Núi vừa là cảnh vật, vừa là con
người. Núi chứa đựng hồn cốt của con người, hồn cốt của quê hương. Núi là
nơi con người sinh ra và lớn lên, núi là nơi trở về sau bao chuyến đi trải
nghiệm. Núi có khi huyền bí như một vị thần, có khi được nhân hóa như một
người mẹ, như một người thầy dặn dò, dõi theo, nhắc nhở, tin tưởng người con
trên các bước đường của cuộc đời. Núi như một người bạn để con người tâm
sự, sẻ chia. Núi dường như chứng kiến tất cả hoạt động của con người. Biểu
tượng “Núi” có nhiều ý nghĩa, đặc sắc, tạo ra nét riêng của thơ Lò Cao Nhum.
* Biểu tượng Lửa:
Giống như núi, lửa cũng là hình ảnh được sử dụng nhiều trong thơ ca. Thơ
của các nhà thơ dân tộc thiểu số nói chung thường sử dụng hình ảnh lửa như
một biểu tượng. Thơ Lò Cao Nhum cũng vậy, hình ảnh “lửa” trở đi trở lại trong
thơ ông, với nhiều dụng ý nghệ thuật và trở thành hình ảnh giàu ý nghĩa biểu
tượng. Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, lửa mang ý nghĩa như sau:
“Theo Kinh dịch, lửa ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè, trái tim... Như
mặt trời bằng những tia sáng của nó, lửa bằng những ngọn lửa tượng trưng
cho hoạt động đem lại sự sinh sản dồi dào, tẩy uế và soi sáng...” [14, tr.545].
Biểu tượng “Lửa” trong thơ Lò Cao Nhum được sử dụng cả ở nghĩa gốc và
nghĩa phái sinh. Mẫu gốc là “lửa”, nghĩa phái sinh là “mặt trời”, “bếp lửa”,
“than hồng”, “ngọn đèn”, “ánh đuốc”… Các hình ảnh của nghĩa phái sinh được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
sử dụng trong các bài thơ một cách tự nhiên.
72
Bài thơ Vòng xòe, hình ảnh lửa được sử dụng theo mẫu gốc:
“Ngọn lửa xanh
Ngọn lửa vàng
Ngọn lửa thủa hồng hoang
Bập bùng hoa cà hoa cải
Ngôi nhà đốm lửa
Âm ỉ cùng gió hú
(Vòng xòe)
“Ngọn lửa” được quan sát và ghi nhớ với nhiều màu sắc khác nhau
“xanh”, “vàng”, ngọn lửa xuất hiện từ “thủa hồng hoang”, ngọn lửa vẫn “bập
bùng” cháy như dưỡng nuôi sự sống loài người. Nhà thơ nhận thức rằng, “ngôi
nhà” chính là nơi lưu giữ ngọn lửa cho loài người. Lưu giữ ngọn lửa như gìn
giữ sinh tồn của con người. Dù là “âm ỉ” nhưng sức bền của nó có thể kéo dài
vạn năm.
Biểu tượng “Lửa” được sử dụng ở nghĩa phái sinh trong thơ Lò Cao
Nhum cũng rất phong phú. Có khi là “bếp lửa” của mẹ:
“Mẹ rưng rưng chiều bếp
Tìm đốm than soi lòng mưa ngâu
Đứa ra trận chờn vờn tấm ảnh
Nén hương thầm con trú mưa đâu?”
(Mưa)
Hình ảnh “bếp lửa” trong bài thơ này được sử dụng với ý nghĩa soi sáng
cho sự sống của con người. Người mẹ “rưng rưng” vì đứa con yêu thương, ý
nghĩa sự tồn tại của mẹ, ra trận và đã không trở về. Nay chỉ còn mình mẹ, xót
xa trước “nén hương thầm” và “chờn vờn tấm ảnh” lòng mẹ đau khổ, chỉ biết
“tìm đốm than” trong “chiều bếp” để tiếp tục sống qua ngày. Bằng cách nói
giản dị, lắng đọng, nhà thơ đã chạm đến tình cảm sâu thẳm trong tâm hồn con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
người đó là tình mẫu tử.
73
Hình ảnh bếp lửa được tác giả đặc tả trong bài thơ Bếp lửa nhà ta:
“Bếp nhà ta là bếp của em
Ngọn lửa của anh ngày đi ở rể...
Mẹ gùi củi lẩn vào sương giá
Nuôi bếp nhà khuya ngọn lửa chập chờn...
Ôi bếp lửa nhà ta chật hẹp
Một khoang tròn ấm áp nhà trong
Nơi đầu núi lửa reo tí tách
Cũng đủ tan băng giá biên phòng”
(Bếp lửa nhà ta)
Đối với đồng bào dân tộc Thái, bếp lửa có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Bếp lửa vừa là nơi nấu nướng của người phụ nữ, vừa là nơi dành cho gia chủ
tiếp khách. Tùy từng điều kiện của từng gia đình. Nếu gia đình người Thái nào
có điều kiện khá giả, trong nhà có thể có hai bếp. Một bếp dành để tiếp khách ở
gian ngoài, một bếp dành nấu nướng ở gian trong. Bếp lửa của người Thái
dường như không bao giờ tắt, lúc nào cũng được “thêm củi” để giữ hơi ấm cho
nhà sàn. Dường như mọi người trong gia đình đều có những kỉ niệm, có trách
nhiệm đối với bếp lửa: “Bếp nhà ta là bếp của em/ Ngọn lửa của anh.../ Mẹ gùi
củi lẩn vào sương giá”. Bếp lửa trở thành hình ảnh của gia đình, quê hương; là
tình mẹ, tình em đối với người chiến sĩ biên phòng.
Biểu tượng “Lửa” trong thơ Lò Cao Nhum còn được sử dụng với nhiều ý
nghĩa khác nhau. Có khi là ngọn đèn khuya bầu bạn:
“Trang giấy trắng vuông vuông mặt đồng
Ngọn đèn khuya làm mặt trời thao thức”
(Trang giấy và ngọn đèn)
Là hình ảnh mặt trời thiên nhiên chiếu sáng niềm lạc quan của con người:
“Trời rộng thoáng trên đầu con chim chao lượn
Mặt trời hừng phía cuối sông kia”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Bà đi tàu thủy xuôi sông Đà)
74
Cũng có khi là ngọn duốc soi đường cho con người vượt qua tăm tối:
“Đêm mơ màng
Nghe râm ran đất hát
Những đàn ông
Khiêng kiệu về Khụ Mụ
Ánh đuốc chập chờn
Ánh mắt thần linh”
(Đêm mường Bui)
Có thể nhận thấy, biểu tượng “Lửa” được sử dụng trong thơ Lò Cao Nhum
rất linh hoạt, đa dạng. Có khi được sử dụng là nghĩa gốc, có khi được sử dụng
là nghĩa phái sinh. Nhưng dù sử dụng với ý nghĩa như thế nào cũng đều nói lên
ý nghĩa quan trọng của lửa trong đời sống của đồng bào dân tộc Thái và trong
tâm hồn nhà thơ.
* Biểu tượng Rượu:
Trong thơ Lò Cao Nhum, biểu tượng Rượu không xuất hiện với tần xuất
lớn, nhưng lại nhiều ý nghĩa. So với các biểu tượng khác, biểu tượng Rượu xuất
hiện với tần xuất ít hơn nhưng lại tạo được ý nghĩa độc đáo. Không phải ngẫu
nhiên mà Lò Cao Nhum đặt tên cho tập thơ chọn lọc của mình là Rượu núi. Lò
Cao Nhum không nhiều lần nhắc đến “rượu” nhưng mỗi khi nhắc đến thì
“rượu” đều mang một ý nghĩa đặc sắc.
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, biểu tượng Rượu được hiểu
như sau: “Rượu như là biểu tượng của tri thức và khai tâm... Trong truyền
thống Kinh Thánh, rượu thoạt tiên là dấu hiệu và biểu tượng của niềm vui...
Rượu là thức uống của các thần linh” [14, tr.788]. Trong thơ Lò Cao Nhum,
biểu tượng Rượu cũng được hiểu theo các ý nghĩa đó.
Lò Cao Nhum khi viết về “rượu” rất có duyên. Cái “duyên” ấy thể hiện ở
cách nói đến “rượu”. Không ồn ào nhưng rất sâu sắc, không phô trương nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
lại rất “đẹp”. Trong bài thơ Rượu núi, Lò Cao Nhum giới thiệu:
75
“Rượu nhà tôi
Ủ từ sắc lá rừng gai
Chắt từ củ mài hốc đá
Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài”
Cách giới thiệu “Rượu nhà tôi” rất riêng, bằng các động từ “ủ”, “chắt”,
“nấu”, Lò Cao Nhum tạo ấn tượng cẩn thận, khéo léo từ đôi bàn tay người vợ
đảm đang. Nét riêng của “rượu núi” là được ủ từ “sắc lá rừng gai”, “chắt từ
củ mài hốc đá”, rồi từ cách nấu rượu “lửa đỏ đêm dài”. Cách giới thiệu như
thế gợi sự tò, gợi nỗi nhớ và gợi sự trân trọng, nâng niu trong tình cảm của “gia
chủ”. Cũng chính vì thế, “rượu nhà tôi” cũng có vị rất riêng:
“Rượu nhà tôi
Có ngọt mật ong vách đá
Có chua măng ướp chum vò
Có cay của bạn tình cắn nhầm hạt ớt
Có đắng của em chồng phải lòng chị dâu”
Đã có nhiều nhà thơ viết về rượu, nhưng chưa có ai viết về vị của rượu
theo cách riêng như Lò Cao Nhum. Nhà thơ diễn tả vị của rượu bằng tình cảm
của con người miền núi. Có “ngọt”, có “chua”, có “cay”, có “đắng”, nhưng các
vị ngọt, chua, cay, đắng ấy không phải là các vị thông thường, mà được cảm
nhận bằng các trạng thái tình cảm của con người: “...cay của bạn tình cắn
nhầm hạt ớt/... đắng của em chồng phải lòng chị dâu”.
Theo cách giải thích trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới: “Rượu
thoạt tiên là dấu hiệu và biểu tượng của niềm vui”, rượu trong bài thơ Rượu
núi của Lò Cao Nhum cũng mang ý nghĩa như thế:
“Rượu nhà tôi
Rượu buộc chỉ cổ tay
Thắp lửa tình chiêng, tình trống
Đã uống vắt kiệt chum mà uống
Đã say đổ tràn tình mà say”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Rượu núi)
76
“Rượu buộc chỉ cổ tay” xuất phát từ phong tục buộc chỉ cổ tay của người
Thái: “Sợi chỉ còn là biểu trưng của lòng hiếu khách, sức mạnh đoàn kết cộng
đồng. Đối với cộng đồng người Thái, gia đình nào có khách đến chơi đều coi
đó là một điều may mắn…. Khách xa đến thăm, cùng với chủ nhà tâm đầu ý
hợp thường được chủ nhà buộc chỉ cổ tay kết nghĩa anh em. Trong bữa rượu
tiếp khách, sau khi cạn chén rượu nhỏ, chủ nhà chân thành chúc cho tình bền
chặt, mạnh khỏe” [17]. Như vậy, “rượu buộc chỉ cổ tay” ở đây được hiểu theo
nghĩa uống rượu và cầu chúc may mắn cho mọi người, đặc biệt là khách đến
chơi nhà. Với ý nghĩa như thế, trong những vũ diệu “xòe” của người Thái, cùng
với những âm thanh của “chiêng”, “trống” cả khách và gia chủ đều rất hào
sảng, phóng khoáng và vui vẻ: “Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ
tràn tình mà say”. Nhất là lại uống rượu trong một không gian rất độc đáo:
“Mời ngồi xếp bằng tròn trên núi/ Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời” thì không
thể không hết mình được.
Trong thơ của mình, Lò Cao Nhum nhiều lần nhắc đến “Rượu cần”, đây
là một loại rượu đặc sản của người miền núi. Đối với dân tộc Thái, rượu cần là
một loại đồ uống không thể thiếu trong các ngày lễ tết, nhất là trong các lễ hội
truyền thống của dân tộc. Sở dĩ nó có vai trò quan trọng như thế là vì rượu cần
là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, hữu nghị. Bài thơ Đêm xòe và múa lăm
vông đã nói đến tình đoàn kết hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Lào, trong đó
“rượu cần thơm” là cái cớ để bộc tình cảm của tình bạn giao hữu. Rượu cần
còn được nhắc đến trong nhiều bài thơ khác như: Lẽ sinh tồn, Về những hàng
cau, Nóc nhà ta có hoa khau cút, Hòa Bình ơi nghìn năm đưa nôi… Trong
hai bài thơ Đêm rượu ở Đồng Tâm và Quán chiều, rượu được nhắc đến như
một thứ “men say” giúp cho tình bạn thêm thắm thiết.
Không phải ngẫu nhiên mà Lò Cao Nhum đặt tên cho tập thơ chọn lọc của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mình là Rượu núi. Khi hỏi trực tiếp nhà thơ về hình tượng “rượu” trong bài thơ
77
Rượu núi, Lò Cao Nhum đã chia sẻ: “Tôi mượn hình tượng rượu để nói về văn
hóa Thái. Giới thiệu về nét đẹp văn hóa dân tộc Thái là đam mê của tôi” [Ghi
trực tiếp]. Như vậy, hình tượng “rượu” trong các bài thơ là dụng ý nghệ thuật
của Lò Cao Nhum.
Hình tượng “rượu” có tần số xuất hiện nhiều, có dụng ý nghệ thuật và có
ý nghĩa lớn. Nhà thơ đã mượn hình tượng “rượu” để giới thiệu về văn hóa dân
tộc Thái, con người, cách sống và tình cảm đồng bào Thái. Rượu đã trở thành
biểu tượng độc đáo trong thơ Lò Cao Nhum.
Trong số các bài thơ của Lò cao Nhum, có hai bài thơ tác giả sử dụng kết
hợp ba biểu tượng “núi”, “rượu” và “lửa” cùng một lúc và đạt được hiệu quả
nghệ thuật cao, đó là bài thơ Vòng xòe và bài Rượu núi. Đây cũng là hai bài
thơ đặc sắc của tác giả, được bạn đọc yêu thích:
“Bạn đến
Mời ngồi xếp bằng tròn trên núi
Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời…
Rượu nhà tôi
Ủ từ sắc lá rừng gai
Chắt từ củ mài hốc đá
Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài”
(Rượu núi)
Một loại rượu đặc biệt được nấu thơm từ đôi bàn tay khéo léo của người
phụ nữ. Loại rượu đặc biệt ấy được đem ra tiếp bạn trong một không gian cũng
rất đặc biệt: “Ngồi xếp bằng tròn trên núi/ Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời”.
Như vậy, ta có thể nhận thấy, thơ Lò Cao Nhum sử dụng hiệu quả ba
biểu tượng “Núi”, “Lửa”, “Rượu”. Các biểu tượng này được sử dụng rất phong
phú, linh hoạt, gần gũi với cuộc sống của đồng bào miền núi. Việc sử dụng hệ
thống biểu tượng này như khắc họa vào tâm trí người đọc chất “miền núi” một
cách tự nhiên, không khiên cưỡng. Đồng thời cũng nhờ vào hệ thống các biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tượng này, thơ Lò Cao Nhum giàu chất suy tư và hiện đại hơn.
78
3.2. Thể thơ tự do chiếm ưu thế
Lò Cao Nhum sử dụng nhiều thể loại thơ, trong đó có các thể thơ tự do và
thể thơ truyền thống. Chúng tôi khảo sát bảy tập thơ của nhà thơ Lò Cao Nhum
và thu được kết quả như sau:
Bảng 3.2. Thống kê thể thơ sử dụng trong các tập thơ của Lò Cao Nhum
Rượu núi (34)
Sàn trăng (37)
Gốc trời (56)
Tổng số (221)
Giọt sao trở về (31 bài)
Mùa hoa chuông (10)
Theo lời hát về nguồn (53)
Thể thơ
TS
TL
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Số bài
Số bài
Số bài
Số bài
Số bài
Số bài
Thơ tự do
23
74.19
25
73.53
8
80.0
20
54.05
39
73.58
40
71.43
155
70.14
Thơ 7 chữ
2
6.45
3
8.82
0
0.0
11
29.73
7
13.21
7
12.50
30
13.57
Thơ 6 chữ
1
3.23
0
0.00
0
0.0
1
2.70
1
1.89
2
3.57
5
2.26
Thơ 5 chữ
0
0.00
4
11.76
1
10.0
4
10.81
5
9.43
6
10.71
20
9.05
Thơ 4 chữ
1
3.23
2
5.88
1
10.0
1
2.70
1
1.89
1
1.79
7
3.17
4
0
0.00
0
0.0
0
0.00
0
0.00
0
0.00
4
1.81
Thơ lục bát
12.90
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ sử dụng các thể thơ
Trong quá trình khảo sát thơ Lò Cao Nhum chúng tôi nhận thấy rằng,
trong các tập thơ có hiện tượng tuyển chọn lặp lại các bài thơ đã in. Có nhiều
bài thơ được in ở nhiều tập thơ khác nhau nên chúng tôi khảo sát toàn bộ sáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tác thơ của Lò Cao Nhum tính đến thời điểm Lò Cao Nhum in xong tập “Rượu
79
núi” và nhận thấy: Tính từ năm 1995 đến năm 2010, tức là từ khi Lò cao Nhum
bắt đầu có thơ đăng báo đến khi nhà thơ tuyển chọn các bài tiêu biểu để in
thành tập thơ Rượu núi tuyển chọn, thì số lượng các bài thơ mà nhà thơ sáng
tác là 146 bài (phụ lục 3). Trong đó, tổng số bài thơ trong tập Rượu núi chọn
lọc là 143 bài. Như vậy, để nhận định về thể thơ chiếm ưu thế trong các sáng
tác của Lò Cao Nhum, chúng tôi khảo sát riêng tập thơ “Rượu núi” và thu
được kết quả như sau.
Bảng 3.3. Thống kê thể thơ sử dụng trong tập thơ Rượu núi
STT
Thể thơ
Số lượng bài
Tỷ lệ
1. Thơ tự do 103 72,03%
2. Thơ 7 chữ 16 11,19%
3. Thơ 6 chữ 02 1,39%
4. Thơ 5 chữ 12 8,12%
5. Thơ 4 chữ 06 4,19%
6. Thơ lục bát 04 2,79%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ sử dụng các thể thơ trong tập thơ Rượu núi
80
Quan sát cả hai biểu đồ tỷ lệ sử dụng các thể thơ ta thấy, thể thơ Lò Cao
Nhum thường dùng nhất là thể thơ tự do, thể thơ ít dùng nhất là thể thơ 6 chữ,
các thể thơ còn lại ít sử dụng hơn.
Thể thơ 7 chữ là loại tác giả dùng nhiều. Tổng số sử dụng thể thơ này là
16 bài (chiếm tỷ lệ: 11,19%). Những bài thơ được làm theo thể thơ 7 chữ
thường là những bài giàu cảm xúc hoài niệm. Nhân vật trữ tình thường suy tư,
chiêm nghiệm về cuộc sống, con người hay một kỷ niệm đã qua trong qúa khứ,
cũng có khi phản ánh một thực tại đau xót nào đó gợi một sự cảm thông, chia
sẻ từ phía bạn đọc. Một trong những bài thơ hay nhất trong sự thành công ở thể
thơ này là bài thơ Tình xanh:
“Vò rượu cần chéo tay ngày cưới
Bao năm trời vẫn ủ ấp thơm
Màn ngày ấy thoảng hương ngày ấy
Diềm hoa văn rực rỡ giăng hàng.
Ai kia màu áo thắm xanh rừng
Đôi nạng nhảy rưng rưng lỡ nhịp
Chị rộn ràng vấp chân bậc cửa
Đỡ anh về khép trọn tình xanh”.
(Tình xanh)
Ở thể thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ theo thống kê, thể loại tác giả sử
dụng nhiều là thể thơ 7 chữ (16 bài), thơ 5 chữ (12 bài), thấp nhất là thể thơ lục
bát (04 bài).
Sáng tác thơ ở thể 4 chữ, 5 chữ tác giả thường khắc họa hình tượng nhân
vật trữ tình mạnh mẽ, phóng khoáng với cảm hứng ngợi ca thiên nhiên và con
người miền núi. Tiêu biểu là bài Bức vẽ trai bản:
“Vác rìu từ bé
Nên săn cánh tay
Leo núi sớm ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nên chân chắc cột.
81
Tóc quen bay ngược
Gió thốc lướt qua
Bắp dao nghiêng sườn
Chĩa về phía trước”
(Bức vẽ trai bản)
Cũng có bài ở thể thơ 5 chữ khắc họa hình tượng nhân vật trữ tình suy tư,
chiêm nghiệm, hồi cố về tình cảm đầu đời không thành. Tiêu biểu là bài Thơ
tặng người hôm qua:
“Không thể gọi người xưa
Vì ngày mai còn nhớ
Không thể gọi ngày cũ
Bởi tình nào đã xa.
Mà thời hoa là hoa
Đến mùa nở cứ nở
Hương chắt chiu cho quả
Ai hái trái vườn xưa?”
(Thơ tặng người hôm qua)
Tác giả ít sử dụng thể thơ 6 chữ. Tổng cộng có 02 bài, trong đó tiêu biểu là
bài thơ Phía mặt trời:
“Tiếc gì người với người thương
Mà hun hút mãi con đường
Tiếc gì người với người yêu
Mà giăng ghềnh thác cheo leo.
Sá gì sương mây gió nắng
Nên đường đã lở thác cao
Còn đi lối quanh nẻo vắng
Khi em còn phía mặt trời”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Phía mặt trời)
82
Một số nhà thơ dân tộc thiểu số thử sức với thể thơ lục bát nhưng có thể
thấy, nhà thơ đứng với thể loại này không nhiều. Lò Cao Nhum không viết
nhiều thể thơ lục bát, toàn bộ tập thơ Rượu núi có 04 bài, tuy nhiên dù ít nhưng
nhà thơ đã có những câu lục bát ấn tượng:
“Biết là sâu thẳm mênh mông
Tầm nhìn của núi, tầm trông của trời
Tầm lao thuyền của biển khơi
Cũng từ sỏi đá này thôi kết thành.
(Sỏi đá)
Qua nghiên cứu về việc sử dụng các thể thơ của Lò Cao Nhum ở trên,
chúng tôi nhận thấy, Lò Cao Nhum ưa thích và có sở trường ở thể thơ tự do. Có
lẽ ông yêu thích thể thơ này là vì đặc trưng của thể thơ có thể là điều kiện tốt
giúp nhà thơ thể hiện tâm hồn phóng khoáng, chuyển tải được những cảm
hứng rộng mở, phong phú. Tổng số bài Lò Cao Nhum sử dụng thể thơ tự do là
103 bài. Một số bài thơ được nhiều bạn đọc yêu thích hơn cả tiêu biểu cho thể
loại thơ này như: Vòng xòe, Ông nội tôi khai sinh miền đất, Theo lời hát về
nguồn, Rượu núi, Chiều núi,... Thể thơ tự do đem lại nhiều ưu thế cho nhà
thơ khi sáng tác. Trước tiên là cảm xúc thơ trôi chảy, cách diển đạt tự nhiên,
không khiên cưỡng, không gò bó. Nhịp thơ dài ngắn khác nhau khiến âm
hưởng câu thơ linh hoạt, có lúc mạnh mẽ, phóng khoáng, có lúc suy tư, chiêm
nghiệm. Số chữ trong các câu thơ không đều nhau. Có bài có nhiều câu thơ
chỉ có hai tiếng (Đáy giếng), có bài câu thơ dài ra mãi trở thành câu thơ văn
xuôi (Núi). Có khi ngay trong một bài thơ, có cả câu thơ hai tiếng, ba tiếng,
bốn tiếng, năm tiếng, sáu tiếng, tám tiếng, chín tiếng:
“Ban mai
Tôi mở cửa
Nâng mặt trời lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Đón mặt trời vào…
83
Phơi những luống cày nhịp thở
Trải phập phồng vô tận…
Mỗi ngày tôi một ban mai
Trồng một tia nắng
Giặt chùm nụ cười chín rực
Trước tia hoàng hôn lởn vởn cánh đồng…
Những cánh chim uể oải cọng rơm dáng chiều”
(Ban mai)
Việc sử dụng linh hoạt số tiếng ở các câu thơ trong bài thơ này tạo ra
nhịp điệu linh hoạt, nhằm diễn tả cuộc sống nhộn nhịp của một ngày mới với
nhiều cảm xúc khác nhau. Nhà thơ muốn diễn tả sự bền bỉ của con người
trong niềm tin, hy vọng vào những đổi thay tốt đẹp của cuộc sống: “Mỗi ngày
tôi một ban mai/ Trồng một tia nắng”.
Thể thơ tự do cũng là thể thơ truyền thống của dân tộc Thái. Trong văn
học dân gian Thái, các tác phẩm truyện thơ, ca dao, dân ca Thái cũng thường
được sáng tác bằng thể thơ tự do. Khi được hỏi trực tiếp về lí do vì sao nhà thơ
Lò Cao Nhum hay sử dụng thể thơ truyền thống, nhà thơ đã chia sẻ: “Tôi sử
dụng chủ yếu thể thơ tự do vì đây là cách diễn đạt quen thuộc của văn học dân
gian Thái, nhất là truyện thơ và dân ca Thái. Hơn nữa, với thể thơ này, tôi có
thể tự do, phóng khoáng hơn trong việc thể hiện cảm xúc của mình” (ghi trực
tiếp). Lò Cao Nhum có ý thức phát huy truyền thống văn học văn học dân tộc
và phát huy sở trường của mình để tạo nên nhũng bài thơ đặc sắc, mang dấu ấn
cá tính sáng tạo của nhà thơ.
3.3. Ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ của đồng bào miền núi
Thơ Lò Cao Nhum không cầu kỳ trong cách diễn đạt. Ông thường diễn đạt
chân thật, đúng theo bản chất vốn có của mình, nhà thơ đã gợi được chất miền
núi sâu đậm qua từng câu chữ. Ngôn ngữ thơ Lò Cao Nhum giản dị, cách dùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
từ mộc mạc, nhiều bài thơ sử dụng những câu chữ giản đơn nhưng lại gợi
84
nhiều cảm xúc, vừa mạnh mẽ, phóng khoáng, vừa suy tư, chiêm nghiệm. Để
diễn tả cái mộc mạc, đơn sơ của người miền núi tác giả viết:
“Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến
Ngửa bàn tay cũng da
Úp bàn tay cũng thịt”
(Rượu núi)
Chỉ cần diễn đạt giản dị như thế, Lò Cao Nhum đã gợi được tình cảm quý
mến, trân trọng của người đọc về con người miền núi nói chung. Cách diễn đạt
ấy đã góp phần tạo nét riêng đậm “chất miền núi” của nhà thơ.
Lò Cao Nhum diễn tả chất phóng khoáng của con người miền núi:
“Đã uống vắt kiệt chum mà uống
Đã say đổ tràn tình mà say”
(Rượu núi)
Bằng cách diễn đạt tự nhiên, hai câu thơ tạo cho người đọc một cảm giác
gần gũi, thân thiện, nhiệt tình, hiếu khách của chủ nhà. Đúng với đặc trưng con
người miền núi.
“Cái bắt tay chặt như thắt nút
Nụ cười không bao giờ khép
Đêm sâu thẳm còn vẳng dài câu hát:
"Lên núi cao chỉ có gói cơm
Người núi cao không đeo thanh gươm!"
(Tiếng hát trên cao)
Với cách diễn đạt tự nhiên “Cái bắt tay chặt như thắt nút/ Nụ cười không
bao giờ khép” người đọc cảm nhận như một câu nói bình thường trong giao
tiếp hàng ngày nhưng lại để lại cảm xúc sâu xa và ý nghĩa sâu sắc. Người miền
núi luôn luôn cởi mở tấm lòng, chân thành trong các mối quan hệ bởi “Người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
núi cao không đeo thanh gươm”.
85
Khi có khách đến nhà, gia chủ cởi mở hào phóng với tấm lòng trong sáng của
mình. Khi khách đi, chủ nhà tiễn chân ra cầu thang và không quên dặn khách:
“Miếng thịt gà măng chua thành câu ca
Rằng của vườn của bếp
Chớ lạ đi, lạ về
Chớ quên nóc nhà có hoa khau cút”
(Nóc nhà ta có hoa khau cút)
Như đã nói ở trên, chính Lò Cao Nhum cũng đã trình bày quan điểm sáng
tác của mình: “Viết tự nhiên theo giọng của mình, tức là cách nghĩ cách cảm
của người Thái miền núi… Ngôn ngữ chuyển tải của tôi là chữ tiếng Việt”. Có
một số nhà thơ, để khắc họa “chất miền núi”, họ đã vay mượn một số từ ngữ
của người miền núi. Còn Lò Cao Nhum, không cần phải vay mượn khiên
cưỡng, vì thứ ngôn ngữ ấy đã sẵn có trong con người ông rồi. Có lẽ nó đã chảy
trong huyết mạch ông từ khi ông được sinh ra nên ngôn ngữ thơ ông mang ồn
cốt” dân tộc một cách tự nhiên. Tính dân tộc ấy được tạo thành từ cách diễn
đạt, từ hệ thống từ loại đặc sắc, các biện pháp tu từ thường dùng.
Các biện pháp tu từ nhà thơ thường sử dụng trong thơ cũng mang đặc
điểm của ngôn ngữ của người miền núi. Lò Cao Nhum thường dùng ẩn dụ hình
tượng hoặc ẩn dụ tu từ làm phương tiện diễn đạt có giá trị hình tượng, có sức
biểu cảm. Ví dụ “hoa na” là ẩn dụ hình tượng: “Hoa na/ Chẳng lấy gì làm
đẹp/ Để con ong tía/ Ngày ngày đến đậu/ Lại bay/ Nhưng rồi sẽ có một ngày/
Sẽ có/ Hoa na rụng/ Để con ong tía/ Chớp chớp đôi cánh mỏng/ Phân vân/ Như
đánh mất / Điều gì” (Hoa na). TS Đỗ Thu Huyền (Viện Văn học) đã nhận xét:
“Lối ẩn dụ nhiều lúc phát huy tác dụng một cách tối đa. Bởi thế nhiều bài thơ
của anh mang ý nghĩa triết lý sâu sắc. Thế mạnh của thơ Lò Cao Nhum còn ở
việc gửi gắm những triết lý” [13].
Biện pháp tu từ so sánh được nhà thơ Lò Cao Nhum sử dụng nhiều hơn cả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nhà thơ so sánh mảnh nương trên đồi giống miếng vá trên lưng áo ông bà:
86
“Miếng vá in lưng áo” giống mảnh nương vuông vắn trên đồi. Nhưng đấy là
cái cớ để bộc lộ những ngẫm ngợi về cuộc sống quê hương:
“Miếng vá dịu dàng bàn tay
Bát cơm vơi dâng đầy chiu chắt
Những mảnh nương vá đắp
Cuộc sống dài chưa dễ lành nguyên”
(Mảnh nương trên đồi)
Biện pháp tu từ so sánh làm cho cảm hứng ngợi ca của tác giả thêm rõ nét
hơn. Gợi tả những con người vui tính, hiếu khách, trọng ân tình tác giả viết:
“Cái bắt tay chặt như thắt nút/ Nụ cười không bao giờ khép”. Nhà thơ ngợi ca
quê hương, những con người lao động, mà hình ảnh hạt lúa là kết tinh đẹp
nhất, trọn vẹn nhất:
“Ta sinh ra trên đất dưới trời
Như hạt lúa là mẹ
Sữa cho đời không cạn
Như hạt lúa là con
Buồn vui quấn quýt nối mùa
Như hạt lúa là bạc, bạc không thể sánh
Như hạt lúa là vàng, vàng có thể bỏ
Hạt lúa tỏ như ngàn sao
Muôn vàn đời lấp lánh”.
(Cây lúa)
Lò Cao Nhum còn thường sử dụng thủ pháp phóng đại trong thơ. Thủ
pháp phóng đại được tác giả sử dụng khi muốn thể hiện tính cách ngang tàng
của con người miền núi phóng khoáng, mạnh mẽ. Trong dân ca Thái, đôi bàn
tay người phụ nữ thường được ngợi ca bằng những chất liệu quen thuộc và thủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
pháp phóng đại:
87
“Đụng vào khung cửi vải thành hoa.
Tung nắm tấm thành ra đàn gà.
Khua cái chầy hoa ra gạo trắng.
Đụng vào cỏ thì cỏ chết nắng.
Vuốt lên lúa, bụi lúa ra bông”.
Lò Cao Nhum cũng sử dụng thủ pháp phóng đại khi viết về bàn tay lao
động tượng trưng cho cốt cách của người miền núi:
“Bàn tay gieo
Ra trái, ra cơm
Râm ran tiếng chống sàn, sửa gác…
Bàn tay ôm
Mười ngón hôn nhau qua biển núi”.
(Bàn tay)
Bên cạnh những bài thơ, những câu thơ hay, độc đáo, tạo được nhiều ấn
tượng cho độc giả, ta cũng cần nhìn nhận một cách khách quan, một số câu
thơ của Lò Cao Nhum còn quá mộc mạc, chưa thực sự chau chuốt. Như
trong bài thơ Ơi mình, muốn diễn tả sự vất vả, lam lũ, đức hy sinh của người
vợ, nhà thơ viết:
“Chiều vác đầy cối nước
Đồ cơm khuya cho bữa hôm mai
Thìa canh qua lưỡi còn nghẹn
Nựng con lời hát nửa chừng”
(Ơi mình)
Câu thơ chưa gợi được nhiều cảm xúc cho người đọc. Tuy nhiên, như TS
Đỗ Thu Huyền (Viện Văn học) đã nhận ra, thơ Lò Cao Nhum mang ý nghĩa
triết lý sâu sắc, “điều này tuy có lúc khiến thơ anh hơi khiên cưỡng và đôi chỗ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
“làm màu” nhưng đa phần tạo được hiệu ứng tốt” [13].
88
Tìm hiểu hệ thống các biểu tượng, thể thơ, ngôn ngữ thơ Lò Cao Nhum, ta
càng cảm nhận rõ hơn cốt cách của một con người yêu dân tộc mình tha thiết
với những tin tưởng, lạc quan. Cốt cách ấy phần nhiều được tạo nên bởi tính
dân tộc. Chất dân tộc trong thơ ông thể hiện ở hệ thống các biểu tượng thường
dùng và các ý nghĩa phái sinh của các biểu tượng ấy. Các biểu tượng “núi’,
“lửa”, “rượu” gần gũi với cuộc sống của con người nói chung, nhưng khi được
chuyển hóa vào các nghĩa phái sinh thì các nghĩa phái sinh ấy lại gần gũi với
cuộc sống của con người miền núi. Cốt cách con người yêu dân tộc mình còn
thể hiện ở lối diễn đạt trong thơ của ông. Không cần phải hùng hồn, lên gân, lên
cốt. Tính chất anh hùng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc vẫn được khẳng định, nó ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trong từng câu chữ, hình ảnh và giọng điệu vốn có của nhà thơ.
89
KẾT LUẬN
Nhà thơ Lò Cao Nhum là một gương mặt tiêu biểu của thơ ca dân tộc
Thái nói riêng, của thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung. Việc
nghiên cứu, phân tích đánh giá những đặc trưng thơ Lò Cao Nhum, từ đó khẳng
định đóng góp của ông vào thành tựu của Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại vừa có ý nghĩa lí luận vừa có ý nghĩa thực tiễn.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu một số phương diện
nổi bật trong thế giới nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum: cảm hứng nghệ thuật và
hình tượng nhân vật trữ tình, hệ thống biểu tượng nghệ thuật, ngôn ngữ thơ và
các thể thơ trong thơ của nhà thơ dân tộc Thái này.
Ngợi ca quê hương, đất nước, con người, yêu quý, tự hào về truyền
thống văn hóa của dân tộc Thái và đồng bào miền núi Tây Bắc là cảm hứng chủ
đạo xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Lò Cao Nhum. Nhà thơ đã thể hiện sinh
động vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống con người miền núi bằng những vần thơ
giàu cảm xúc nhưng rất mộc mạc, chân thành. Nhân vật trữ tình được biểu hiện
linh hoạt, sinh động. Có lúc mạnh mẽ, phóng khoáng, có khi suy tư, hoài niệm.
Nét đẹp đậm chất miền núi trong thơ Lò Cao Nhum không phải chỉ được
thể hiện trong nội dung thơ mà còn thể hiện ở phương diện nghệ thuật. Nghệ
thuật thơ thể hiện ở việc sử dụng linh hoạt thể thơ tự do truyền thống mà nhà
thơ được thừa hưởng từ văn học dân gian Thái. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi
với ngôn ngữ của đồng bào miền núi. Sự giản dị ấy được thể hiện trong cách
dùng từ, cách diễn đạt thẳng thắn, bộc trực; giọng thơ mộc mạc, chân thành,
gần gũi với ngôn ngữ đời sống hàng ngày của người dân tộc miền núi. Các biện
pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, phóng đại… được sử dụng hợp lí, sáng tạo. Hệ thống
biểu tượng trong thơ ông độc đáo và sâu sắc, cách sử dụng biểu tượng tạo hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
quả nghệ thuật cao.
90
Thơ Lò Cao Nhum vừa có chất truyền thống vừa có tính hiện đại. Chất
truyền thống và tính hiện đại hòa quyện vào nhau trong cách nghĩ, cách cảm,
cách diễn đạt trong thơ. Suốt một chặng đường thơ miệt mài, Lò Cao Nhum đã
khẳng định một chỗ đứng riêng trong thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam. Dù bút
pháp sáng tác không hoàn toàn mới lạ nhưng thơ ông toát lên phong thái đầy tự
tin. Lò Cao Nhum đã khẳng định được vị trí và đóng góp của mình trong nền
thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nhiều bài thơ hay của ông được người
đọc yêu quý, trân trọng.
Có thể khẳng định Lò Cao Nhum là một cây bút có nội lực sáng tác
mạnh. Sau tập thơ Rượu núi chọn lọc (2010) đến nay, Lò Cao Nhum cũng đã
sáng tác được nhiều bài thơ mới, tuy chưa in thành tập nhưng mỗi bài thơ ra đời
đều được bạn đọc đón nhận tích cực. Hiện nay, dù đã vào tuổi “lục tuần” nhưng
Lò Cao Nhum vẫn đang bền bỉ sáng tác, say mê khám phá vẻ đẹp của quê
hương, đất nước; tìm hiểu những nét đẹp của cuộc sống và con người; từ đó suy
tư, chiêm nghiệm, tìm cảm hứng mới cho thơ. Cũng cần nhìn nhận một cách
khách quan, bên cạnh những thành công, thơ Lò Cao Nhum còn có những giới
hạn nhất định trong cách thể nghiệm hình thức mới cho thơ. Bên cạnh những
câu thơ tài hoa có những câu thơ còn thô mộc, chưa được gia công nhiều về
nghệ thuật (mặc dù hạn chế đó không làm ảnh hưởng đến chỗ đứng, vị thế của
nhà thơ cũng như lòng mến mộ của độc giả). Hy vọng, tâm hồn nhà thơ Lò Cao
Nhum vẫn giữ được thứ men say kì diệu của Rượu núi, tiếp tục có nhiều thành
công hơn nữa trên hành trình thơ.
Với công trình nghiên cứu này, tác giả luận văn đề xuất sử dụng kết quả
nghiên cứu làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy văn học địa phương trong
nhà trường tại tỉnh Hòa Bình. Từ năm học 2008 trở lại đây, khi Bộ Giáo dục và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Đào tạo có công văn hướng dẫn thực hiện việc giảng dạy văn học địa phương
91
tại các trường Trung học Phổ thông, Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình cũng đã
có hướng dẫn thực hiện đối với các trường trong tỉnh. Nhưng trong quá trình
thực hiện, các trường phổ thông gặp những khó khăn nhất định. Một trong
những khó khăn lớn nhất đó là nguồn tài liệu tham khảo để giáo viên làm căn
cứ giảng dạy còn đang thiếu rất nhiều. Vì thế, đề tài Thơ Lò Cao Nhum sẽ góp
phần làm phong phú lượng tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh.
Đối với các em học sinh, qua học tập, tìm hiểu thơ Lò Cao Nhum, các
em sẽ có hiểu biết về một nhà thơ dân tộc Thái ngay trên mảnh đất các em hằng
gắn bó, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt là niềm tự hào về
truyền thống văn hóa, cuộc sống, con người thiểu số vùng cao.
Hiện nay, tại tỉnh Hòa Bình có một số tác giả sáng tác đạt được những
thành tựu nhất định nhưng chưa được nghiên cứu một cách toàn diện. Vì vậy,
hướng tiếp cận đối tượng nghiên cứu của đề tài cũng có thể được vận dụng để
nghiên cứu chân dung văn học của các tác giả dân tộc thiểu số trong tỉnh Hòa
Bình và các tác giả dân tộc thiểu số khác trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Việc nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum không chỉ nhằm tôn vinh giá trị và
đóng góp của thơ ông với nền thơ hiện đại Việt Nam mà còn góp phần lí giải,
làm sáng tỏ tính truyền thống và tính hiện đại, trong sáng tác của các nhà thơ
dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó chúng tôi mong muốn góp thêm một ý kiến về
vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống trong văn học hiện đại, trong bối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cảnh hội nhập văn hóa hiện nay.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3. 4. 5.
6.
7.
8.
9.
Nông Quốc Bình, Cao Duy Sơn, Hoàng Tuấn Cư (2007), Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới, Nxb Văn hóa dân tộc. Huy Cận (1994), Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Minh Đức chủ biên (2001), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. Hà Minh Đức chủ biên (2008), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học (tập II), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Lò Ngọc Duyên (sưu tầm - biên soạn) (2002), Tâm tình người yêu (Tản chụ - Xiết xương), trường ca dân tộc Thái, Nxb Văn hóa dân tộc. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1996), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, trang 44. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, TPHCM Nguyễn Văn Hòa (2011), Dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin.
10. Hội văn học Nghệ thuật Hòa Bình (2010), 20 năm văn học Hòa Bình
(1991 - 2010), Nxb Hội nhà văn.
11. Đỗ Thị Thu Huyền (2003), “Tình hình nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số trên tạp chí Nghiên cứu văn học từ 1960 đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, phê bình và lịch sử văn học, số 11.
12. Đỗ Thị Thu Huyền (2012), Lò Cao Nhum Tình bền củi lửa, phongdiep.net
đăng ngày 27/9/2012.
13. Đỗ Thị Thu Huyền (2014), Thơ dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc thành tựu
14.
và triển vọng, website: Khoa Ngữ văn Đại học Tây Bắc. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, tr. 699.
15. Lê Đình Kỵ, Phương Lựu (1983), Cơ sở lý luận văn học (tập III), Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
16. Nguyễn Văn Lộc (2010), Nghiên cứu bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hóa một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb Đại học Thái Nguyên. 17. Nét mới trong thơ Lò Cao Nhum, website Văn học quê nhà, đăng ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
9/1/2015.
93
18. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa.
19. Lò Cao Nhum (1996), Rượu núi, Thơ, Nxb Văn hóa dân tộc. 20. Lò Cao Nhum (1997), Soi gương núi, Thơ, Sở Văn hóa Thông tin Hòa Bình. 21. Lò Cao Nhum (2000), Sàn trăng, Thơ, Hội văn học Nghệ thuật Hòa Bình. 22. Lò Cao Nhum (2001), Theo lời hát về nguồn, Thơ, Nxb Văn hóa dân tộc. 23. Lò Cao Nhum (2009), Gốc trời, Thơ, Nxb Hội nhà văn. 24. Lò Cao Nhum (2010), Rượu núi, Thơ chọn lọc, Nxb văn học. 25. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng. 26. Bùi Việt Phương (2015), Nét mới trong thơ Lò Cao Nhum, Web Văn học
quê nhà, 9-01-2015.
27. Trần Đình Sử (2008), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục. 28. Tạp chí Văn nghệ Hà Sơn Bình, số tháng 8 năm 1980 29. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (2012), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn
hóa dân tộc.
30. Trần Quốc Thực (2000), Lò Cao Nhum Trên sàn trăng, Báo văn nghệ
Dân tộc miền núi, Hội nhà văn Việt Nam.
31. Trần Thị Việt Trung (2010), Bản sắc dân tộc trong Thơ các dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.
33.
32. Trần Thị Việt Trung (2013), Nghiên cứu, lí luận phê bình Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Diện mạo và đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên. Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo (2011), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại - một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên, tr.172.
34. Trường Đại học Tây Bắc (2014), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia
“Ngôn ngữ và Văn học vùng Tây Bắc”, Nxb Đại học Sư phạm.
35. Từ điển tiếng việt (2000), Nxb Giáo dục. 36. Lò Vũ Vân (2010), Văn hóa dân gian người Thái vùng Mộc Châu, Phù
Yên, Bắc Yên, tỉnh Sơn La, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
37. Văn nghệ Hà Sơn Bình, số tháng 9 năm 1980, năm 1997, trên báo Văn
nghệ của Hội nhà văn Việt Nam số tháng 4.
38. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
và suy nghĩ, NXB Giáo dục, TPHCM.
94