ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HỒNG CHUNG

THƠ LÒ CAO NHUM

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2015

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ HỒNG CHUNG

THƠ LÒ CAO NHUM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ HỒNG MY

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội

dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và chưa

từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.

Thái Nguyên ngày tháng năm 2015

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn i

Nguyễn Thị Hồng Chung

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

MỤC LỤC ........................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ ............................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 5

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ................................................ 5

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6

6. Dự kiến đóng góp của luận văn ....................................................................... 6

7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 7

NỘI DUNG .......................................................................................................... 8

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THƠ DÂN TỘC THÁI VIỆT NAM

THỜI KỲ HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ LÒ CAO NHUM ..................... 8

1.1. Khái quát về thơ dân tộc Thái Việt Nam thời kỳ hiện đại ........................... 8

1.2. Giới thiệu về nhà thơ Lò Cao Nhum .......................................................... 12

1.2.1. Quê hương và gia đình nhà thơ ............................................................... 12

1.2.2. Con người ................................................................................................ 14

1.2. Giới thiệu về hành trình thơ Lò Cao Nhum ................................................ 15

Chương 2. CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH

TRONG THƠ LÒ CAO NHUM .......................................................... 18

2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Lò Cao Nhum .............................................. 18

2.1.1. Khái niệm cảm hứng chủ đạo .................................................................. 18

2.1.2. Cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương đất nước ........................................ 19

2.1.3. Tự hào về con người miền núi ................................................................. 27

2.1.4. Ngợi ca, tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc Thái và đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ii

bào miền núi Tây Bắc .............................................................................. 38

2.2. Nhân vật trữ tình ......................................................................................... 49

2.2.1. Khái niệm nhân vật trữ tình ..................................................................... 49

2.2.2. Nhân vật trữ tình mạnh mẽ, phóng khoáng ............................................. 50

2.2.3. Nhân vật trữ tình suy tư, hoài niệm ......................................................... 54

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ LÒ CAO NHUM ............... 66

3.1. Thơ Lò Cao Nhum giàu biểu tượng ........................................................... 66

3.2. Thể thơ tự do chiếm ưu thế ......................................................................... 79

3.3. Ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ của đồng bào miền núi ........................... 84

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 93

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng:

Bảng 3.1. Tổng hợp các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ Lò

Cao Nhum ........................................................................................ 67

Bảng 3.2. Thống kê thể thơ sử dụng trong các tập thơ của Lò Cao Nhum .......... 79

Bảng 3.3. Thống kê thể thơ sử dụng trong tập thơ Rượu núi .......................... 80

Biểu đồ:

Biểu đồ 3.1. Số lần sử dụng các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong

thơ Lò Cao Nhum ........................................................................ 67

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ sử dụng các thể thơ ............................................................ 79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii

Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ sử dụng các thể thơ trong tập thơ Rượu núi ....................... 80

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, văn học viết dân tộc

thiểu số Việt Nam đã có những bước phát triển tích cực và đạt được những

thành tựu đáng khích lệ. Ngày càng nhiều tác giả người dân tộc thiểu số có tác

phẩm hay được bạn đọc đón nhận, chất lượng tác phẩm ngày một ổn định hơn.

Các thể loại văn học đạt được thành tựu là truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ…

Nằm trong dòng chảy thơ dân tộc thiểu số nói chung, thơ dân tộc Thái

không ngừng phát triển; nhiều tác giả, tác phẩm đã được “ghi danh” trong nền

thơ Việt Nam hiện đại: Cầm Biêu với Ngọn lửa không tắt (2001); Vương

Trung với Sóng Nậm Rốm (1979); Lò Cao Nhum với Soi gương núi (1997),

Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn (2001), Gốc trời (2009), Rượu núi

(2010)… Trong đó, Lò Cao Nhum là một trong số những tác giả tiêu biểu.

Là một cây bút thơ dân tộc Thái, Lò Cao Nhum đem đến cho bạn đọc

những bài thơ mang dấu ấn riêng. Thơ ông mang phong vị vùng núi Tây Bắc,

đặc biệt là phong vị đồng bào dân tộc Thái. Đó là những vẻ đẹp hùng vĩ và thơ

mộng của núi rừng Tây Bắc, là vẻ đẹp văn hóa Thái gắn liền với những lễ hội ở

Bản Lác, Mai Châu nơi ông sống; đó là những cảm nhận của một tâm hồn thiết

tha với văn hóa quê hương trong thời kỳ đổi mới, là những trải nghiệm của tác

giả trên mọi miền của Tổ quóc thân yêu...Đến với thơ Lò Cao Nhum, người đọc

cảm nhận được nhiều điều thú vị, hấp dẫn, sâu sắc về quê hương, đất nước; về

truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc Thái; về vẻ đẹp

tâm hồn nhà thơ.

Là một giáo viên môn Ngữ văn đang giảng dạy ở Hòa Bình, nơi nhà thơ

Lò Cao Nhum đang sống và sáng tác, tác giả luận văn mong muốn qua đề tài

nghiên cứu góp phần giới thiệu thơ Lò Cao Nhum và cuộc sống, văn hóa của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đồng bào dân tộc Thái và đồng bào miền núi cao Tây Bắc với công chúng độc

1

giả. Đồng thời, chọn đề tài nghiên cứu cụ thể một tác giả văn học dân tộc thiểu

số địa phương, luận văn còn hướng tới mục đích giúp cho việc giảng dạy văn

học địa phương ở Hòa Bình có hiệu quả hơn; mang đến cho các em học sinh

tình cảm gắn bó, tự hào về quê hương.

2. Lịch sử vấn đề

Lò Cao Nhum bắt đầu sáng tác thơ từ những năm bảy mươi của thế kỷ hai

mươi. Ông có thơ đăng báo đầu tiên là chùm thơ ba bài trên Tạp chí Văn nghệ

Hà Sơn Bình, số tháng 8 năm 1980 (Những tâm tư gặp mưa; Một sớm mùa

gặt; Em về Piềng Lướng). Ngay sau khi ra mắt, chùm thơ đầu tay này đã tạo

được sự chú ý với bạn đọc. Cũng trên tạp chí Văn nghệ Hà Sơn Bình, số tháng

9 năm 1980, tác giả Vũ Tuấn Anh (Viện Văn học Việt Nam) đã có bài viết giới

thiệu về hai chùm thơ của hai tác giả trẻ Lò Cao Nhum và Đinh Nam Khương

(Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam). Khi đó, Lò Cao Nhum là một nhà thơ trẻ,

mới bước chân vào “làng” văn nghệ. Bài giới thiệu của Vũ Tuấn Anh về chùm

thơ ba bài của Lò Cao Nhum đã có ý nghĩa động viên rất lớn đối với nhà thơ

dân tộc Thái đến từ Hòa Bình này.

Năm 1996, nhà thơ Lò Cao Nhum in tập thơ Rượu núi. Sau đó một năm,

năm 1997, trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam số tháng 4, nhà thơ

Nguyễn Đức Mậu đã có bài viết giới thiệu về bài thơ Rượu núi, khẳng định sự

độc đáo “cả về ý lẫn tình” của bài thơ: “Toàn bộ bài thơ Rượu núi được viết

bằng bút pháp giản dị, giàu chất dân tộc. Phải chăng Rượu núi là thứ rượu

chan chứa tình đời, tình người, và chính những câu thơ hay trong bài cũng là

men rượu chắt ra từ cuộc sống? Trong cuộc thi truyện ngắn và thơ năm 1996

do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức, bài thơ Rượu núi đã giành được vị trí

xứng đáng trong số các giải thưởng, thực sự là một đóng góp độc đáo cả về ý

lẫn tình” [dẫn theo 25]. Đến nay Rượu núi vẫn là một trong những bài thơ hay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhất của Lò Cao Nhum. Bằng “con mắt xanh”, Nguyễn Đức Mậu đã giúp cho

2

sắc màu, hương vị của bài thơ Rượu núi lan toả đến bạn đọc, bắc chiếc cầu nối

đưa Rượu núi của Lò cao Nhum đến với người yêu thơ.

Năm 2000, ngay sau khi Lò Cao Nhum in tập thơ Sàn trăng, nhà thơ

Trần Quốc Thực đã viết bài giới thiệu tập thơ Sàn Trăng với nhan đề: Lò Cao

Nhum trên Sàn trăng in trên báo Văn nghệ dân tộc miền núi của Hội nhà văn

Việt Nam. Nhà thơ Trần Quốc Thực đã cảm nhận được sự gắn bó của Lò Cao

Nhum với quê hương miền núi và đặc điểm ngòi bút Lò Cao Nhum trong cách

diễn đạt, thể hiện cảm xúc: “Muốn tìm gặp Sàn trăng của Lò Cao Nhum, dứt

khoát phải đi qua vùng Rẻo cao Pù Bin rồi. Gian khổ là cái chắc. Ở đấy có sấm

rền bất chợt, có gió lành gió độc, có mưa như khóc, có củi ướt khói bay đỏ mắt, có

cái nết lầm lỳ của người miền núi và cái tình Pù Bin bền như củi lửa bốn mùa...

Rõ ràng ngay từ đầu, Lò Cao Nhum đã không hề có ý định thi vị hóa con người và

cảnh vật quê hương mình. Cái nếp ngay thẳng của người miền núi đã tạo cho anh

có cách cảm xúc và diễn đạt khúc triết, có độ nén riêng trong thơ” [31].

Năm 2011, trong cuốn Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện

đại - Một số đặc điểm, Lò Cao Nhum được nhắc đến với các tập thơ: Giọt sao

trở về (1995), Rượu núi (1996), Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn

(2001), Lò Cao Nhum được xếp vào hàng các nhà thơ trẻ sau năm 1975 đến

nay với nét “trẻ trung, sôi nổi, hồn nhiên và giàu sức sáng tạo” [34]. Trong

công trình nghiên cứu này, Lò Cao Nhum mặc dù chưa được giới thiệu như

một tác giả tiêu biểu, song thơ ông được nhìn nhận dưới góc độ phê bình văn

học với những nhận xét thỏa đáng. Điều đó đã giúp cho quá trình nghiên cứu

thơ Lò Cao Nhum có điểm tựa chắc chắn.

Ngoài những bài viết về thơ Lò Cao Nhum kể trên, chúng tôi còn tham

khảo những bài viết về thơ Lò Cao Nhum đăng tải trên website. Tác giả Đỗ

Thu Huyền (Viện Văn học) với bài viết Lò Cao Nhum tình bền củi lửa đã có

cái nhìn khái quát về 7 tập thơ của Lò Cao Nhum: “Qua 7 tập thơ (Giọt sao trở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

về (1995), Rượu núi (1996), Soi gương núi (1997), Sàn trăng (2000), Theo

3

lời hát về nguồn (2001), Gốc trời (2009), Rượu núi - thơ chọn lọc, (2010)

người đọc tưởng như khó nắm bắt ngay phong cách thơ Lò Cao Nhum nhưng

chính qua sự thoạt tiên rời rạc, pha tạp ấy chúng ta tìm được sự nhất quán, đấy

là mạch cảm xúc của một con người lúc nào cũng khát khao khám phá và

chiêm nghiệm” [12]. Bài viết của Đỗ Thu Huyền tập trung khám phá phong

cách thơ Lò Cao Nhum. Tác giả đã nhận thấy từ thơ Lò Cao Nhum cốt cách của

một con người “nâng niu, trân trọng” văn hoá Thái “trong từng câu chữ, hình

Nhà thơ Bùi Việt Phương trên website Văn học quê nhà có bài viết Nét

ảnh và giọng điệu” [12].

mới trong thơ Lò Cao Nhum. Tác giả bài viết đã khẳng định hồn thơ của Lò

Cao Nhum: “Cái tên Lò Cao Nhum bấy lâu nay đã bị “đóng đinh” vào Rượu

núi, bởi rượu núi hay bằng rượu núi?... Không phải vì rượu núi đã cạn vì tiếp

sau tiếng vang đó anh vẫn có Nóc nhà ta có hoa khau cút, Sàn trăng, Lời

tháng giêng… mà bởi trong thơ của chàng thi sĩ Thái đã xuất hiện những

hướng nghĩ khác, những suy tư cật vấn” [26]. Bùi Việt Phương đã nhận thấy,

sau Rượu núi, Lò Cao Nhum đã có những bài thơ đặc sắc khác, với những

hướng suy tư “cật vấn” hơn.

Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum tác giả luận văn nhận thấy,

các ý kiến viết về thơ Lò Cao Nhum nhìn chung thống nhất, nhiều bài có những

điểm chung trong nhận xét. Các bài viết nói trên đã khẳng định những ‘nét

riêng” trong thơ Lò Cao Nhum: thơ ông mang cốt cách của một con người yêu

dân tộc mình tha thiết với những tin tưởng, lạc quan; hồn thơ gắn bó tha thiết

với quê hương miền núi với những khao khát khám phá, chiêm nghiệm; bút

pháp thơ giản dị, diễn đạt khúc triết, có độ nén trong thơ.

Tuy nhiên, các bài viết về thơ Lò Cao Nhum chủ yếu nhằm giới thiệu khái

quát về thơ ông; hoặc cảm nhận, phê bình về một số bài thơ cụ thể. Cho đến

nay, chưa có một công trình chuyên sâu nào nghiên cứu toàn bộ sáng tác của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhà thơ Lò Cao Nhum.

4

Hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu về thơ Lò Cao Nhum sẽ tiếp tục được

mở rộng, đi sâu trong công trình nghiên cứu này; từ đó có được bức chân dung

hoàn chỉnh hơn về một nhà thơ dân tộc Thái trong diện mạo thơ dân tộc thiểu

số Việt Nam hiện đại.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích của đề tài

Nghiên cứu đặc điểm thơ Lò Cao Nhum; đánh giá đóng góp của nhà thơ

đối với sự phát triển của thơ dân tộc Thái nói riêng và thơ ca dân tộc thiểu số nói

chung; làm tài liệu giảng dạy văn học địa phương tại các trường trên địa bàn tỉnh

Hòa Bình; vận dụng vào nghiên cứu, phát triển văn hoá, văn học địa phương.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu về nhà thơ Lò Cao Nhum và những yếu tố ảnh hưởng đến

sáng tác thơ của ông.

- Làm rõ đặc điểm cơ bản về nội dung, nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum.

- Kết luận, đánh giá về những đóng góp của nhà thơ Lò Cao Nhum trong

sự phát triển của thơ dân tộc Thái hiện đại, khẳng định được vị trí của nhà thơ

trong nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

- Đề xuất việc vận dụng kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các tập thơ in chung và

riêng của nhà thơ Lò Cao Nhum; cụ thể là bảy tập thơ sau:

1. Giọt sao trở về, Thơ, Hội VHNT Hòa Bình, 1995.

2. Rượu núi, Thơ, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 1996.

3. Mùa hoa chuông, Thơ in chung 3 tác giả, Sở VHTT Hòa Bình, 1997.

4. Sàn trăng, Thơ, Hội VHNT Hòa Bình, 2000.

5. Theo lời hát về nguồn, Thơ, Hội VHNT Hòa Bình, 2001.

6. Gốc trời, Thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2009.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

7. Rượu núi, Thơ chọn, Nhà xuất bản Văn học, 2010.

5

Trong quá trình triển khai làm luận văn, tác giả mở rộng phạm vi nghiên

cứu đến các thể loại khác của Lò Cao Nhum (ký, dịch) và so sánh, đối chiếu

với tác phẩm của một số nhà thơ dân tộc thiểu số khác.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các

phương pháp nghiên cứu cơ bản như sau:

5.1. Phương pháp nghiên cứu tác giả văn học

Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum; lý giải

những tác động của hoàn cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa dân tộc, thiên nhiên,

cuộc sống, con người tới khát vọng sáng tạo của nhà thơ.

5.2. Phương pháp khảo sát, thống kê

Luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát, thống kê làm căn cứ để

phân tích, đánh giá các nội dung nghiên cứu, giúp cho việc triển khai các luận

điểm, luận cứ được sáng tỏ.

5.3. Phương pháp phân tích

Phương pháp này được sử dụng để phân tích đặc điểm nội dung và nghệ

thuật thơ Lò Cao Nhum; từ đó, tổng hợp, khái quát những đóng góp của Lò Cao

Nhum đối với văn học địa phương Hòa Bình - Tây Bắc nói riêng và văn học dân

tộc thiểu số nói chung.

5.4. Phương pháp so sánh

Cùng với việc phân tích những nét mới trong nội dung và nghệ thuật

trong thơ Lò Cao Nhum, tác giả luận văn tiến hành so sánh, đối chiếu với một

số tác phẩm của một số nhà thơ dân tộc thiểu số khác nhằm khẳng định vị trí,

tìm ra nét chung và nét riêng trong thơ Lò Cao Nhum so với các cây bút dân tộc

thiểu số khác, nhất là đối với các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam.

6. Dự kiến đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

lý giải những tác động của hoàn cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa dân tộc, thiên

6

nhiên, cuộc sống, con người tới khát vọng sáng tạo của nhà thơ; phân tích

những đặc điểm nội dung và nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum; góp phần khẳng

định vị trí và những đóng góp của Lò Cao Nhum trong sự phát triển của thơ ca

dân tộc thiểu số hiện đại.

Đề tài nghiên cứu về thơ Lò Cao Nhum đóng góp thêm cho việc nghiên

cứu thơ dân tộc Thái và nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa khích lệ, thúc đẩy sáng tác của các tác giả là

người dân tộc thiểu số của tỉnh Hòa Bình nói riêng và vùng núi cao Tây Bắc

nói chung.

Từ năm học 2008 - 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Công văn số

5977/BGD&ĐT-GDTrH ngày 07/7/2008, về việc hướng dẫn thực hiện nội

dung giáo dục địa phương ở cấp THCS và cấp THPT; Năm học 2015 - 2016,

Sở GD&ĐT Hòa Bình có công văn số 1649/SGD&ĐT-TrH ngày 10/9/1015 về

việc hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục địa phương cấp THCS, THPT (Phụ

lục 1). Cả hai văn bản nói trên đều thống nhất hướng dẫn thực hiện nội dung

giáo dục địa phương đối với các nhà trường là “cần tham khảo các tài liệu về

văn hoá, ngôn ngữ, tác phẩm văn học sáng tác về đề tài địa phương hoặc tác

giả người địa phương”. Như vậy, luận văn Thơ Lò Cao Nhum sẽ cung cấp

thêm một tư liệu khoa học đáng tin cậy; góp phần làm phong phú thêm tài liệu

nghiên cứu, giảng dạy, học tập văn học địa phương trong các nhà trường ở tỉnh

Hòa Bình.

7. Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm có ba phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận. Phần Nội dung

được triển khai theo ba chương:

Chương 1: Khái quát về thơ dân tộc Thái Việt Nam thời kỳ hiện đại và

nhà thơ Lò Cao Nhum.

Chương 2: Cảm hứng chủ đạo và nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum.

7

NỘI DUNG

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ THƠ DÂN TỘC THÁI VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI

VÀ NHÀ THƠ LÒ CAO NHUM

1.1. Khái quát về thơ dân tộc Thái Việt Nam thời kỳ hiện đại

Hòa chung sự phát triển của nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời

kỳ hiện đại, văn học dân tộc Thái ngày một phát triển và có được nhiều thành

công. Trong đó, thơ là một trong những thể loại kết tinh được nhiều thành tựu

nhất, thể hiện ở sự phát triển của lực lượng sáng tác, chất lượng tác phẩm, nội

dung phản ánh và hình thức nghệ thuật.

Từ trước năm 1945, thơ ca dân tộc Thái chủ yếu là các tác phẩm văn học

dân gian như truyện thơ Xống chụ xon xao, Khun lú - Nàng ủa, Tản chụ xiết

sương… Tác phẩm được cho là đóng vai trò là bước chuyển tiếp giữa thơ ca

dân gian và thơ dân tộc Thái hiện đại là Lời hát nền Văn Hoan của nghệ nhân

Ngần Văn Hoan: “Lời hát nền Văn Hoan đã đóng vai trò là bước chuyển tiếp

giữa thơ ca dân gian và thơ ca dân tộc Thái hiện đại, chuẩn bị những tiền đề

quan trọng để hình thành và phát triển thơ ca dân tộc Thái hiện đại nói riêng

và thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại Việt Nam nói chung” [dẫn theo 32, tr.60].

Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, được Đảng và Nhà nước đặc

biệt quan tâm, văn học dân tộc thiểu số không ngừng phát triển và nhanh chóng

khẳng định vị thế của mình. Thơ ca dân tộc Thái hiện đại cũng giữ một vai trò

quan trọng trong sự phát triển thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại nói chung.

Đội ngũ các nhà thơ dân tộc Thái phát triển nhanh, số lượng tác phẩm ngày

một phong phú, nhiều cây bút đã đạt được những thành công đáng ghi nhận. Ban

đầu, bạn đọc chỉ mới biết đến một số tên tuổi như Cầm Biêu, Lương Quy Nhân,

Hoàng Nó. Thế hệ các nhà thơ trưởng thành sau đó gồm có Vương Trung, Lò Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Cậy, La Quán Miên… Sau năm 1975 có thêm nhiều tác giả trẻ sớm khẳng định

8

được tên tuổi như Lò Vũ Vân, Lò Cao Nhum, Cầm Bá Lai, Cà Thị Hoàn, Lò

Ngọc Duyên… Cho đến nay, đội ngũ các nhà thơ dân tộc Thái hiện đại ngày một

trưởng thành; sáng tác ngày càng phong phú, đa dạng và hấp dẫn.

Cầm Biêu, Lương Quy Nhân, Hoàng Nó… là lớp các nhà thơ dân tộc

Thái thuộc thế hệ đầu tiên. Họ đều sinh vào những năm hai mươi của thế kỷ

XX: Cầm Biêu (1920 - 1998), Lương Quy Nhân (1926 - 1996), Hoàng Nó (sinh

năm 1925); đều bắt đầu sáng tác từ sau Cách mạng tháng Tám. Người cho ra

mắt tập thơ đầu tay sớm nhất là Lương Quy Nhân với tập Cán bộ với dân

mường (1947). Người có số lượng sáng tác nhiều nhất là Cầm Biêu với 09 tác

phẩm (Thơ ca Hạn Khuống (1957), Hạn Khuống (1992), Cầu văn bản

(1982), Ánh hồng Điện Biên (1984), Thơ cưới xin và lên nhà mới (1992),

Bản Mường nhớ ơn (1994), Ngọn lửa không tắt - Peo Phầy mì mọt

(1995)…). Nhà thơ Hoàng Nó từ khi cầm bút cho đến năm 1993 đã xuất bản 05

tác phẩm (Diễn ca khu tự trị (1954), Lòng dân miền núi (1957), Chị công

nhân cầu đường (1957), Tiếng hát mường hoa lan (1987), Vượt sông Đà

(1993). Lớp nhà thơ này là những người đầu tiên vượt mọi khó khăn mở ra con

đường đưa thơ dân tộc Thái đến với đến với thơ hiện đại Việt Nam.

Lớp các nhà thơ trưởng thành sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

(1954) cũng đã đem đến cho thơ dân tộc Thái nhiều thành công. Nhà thơ

Vương Trung (1938 - 2012) ngoài viết tiểu thuyết, dịch thơ cổ, nghiên cứu sử

thi, đã sáng tác các tập thơ: Ing-Éng (thơ tiếng dân tộc và dịch tiếng phổ thông,

1967); Sóng Nậm Rốm (thơ, 1979). Nhà thơ Lò Văn Cậy (sinh năm 1928)

được bạn đọc biết đến với tác phẩm thơ Hạt muối hạt tình (1986). Thời gian

này, các nhà thơ lớp trước vẫn tiếp tục sáng tác. Lương Quy Nhân (sinh năm

1926) đã xuất bản khá nhiều tác phẩm như Cán bộ với dân Mường (tập thơ

chữ Thái, khu tự trị Thái - Mèo xuất bản 1947), Hoa đang nở (tập thơ chữ Thái

cho thiếu nhi, khu tự trị Tây Bắc xuất bản 1961), Thơ Lương Qui Nhân (tuyển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thơ, Khu tự trị Tây Bắc xuất bản 1960), Biên giới lòng người (Nhà xuất bản

9

Văn hóa Dân tộc, Hà Nội), Hoa trời (Hội Văn nghệ Lai Châu xuất bản 1987),

Độ dày của tình yêu (thơ song ngữ, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc Hà Nội

1994). Sự tiếp nối và kế tục giữa các lớp nhà thơ đã góp phần khẳng định sự

trưởng thành của thơ dân tộc Thái.

Đặc biệt, sau năm 1975 xuất hiện thêm nhiều nhà thơ trẻ, có nhiều tác

phẩm xuất sắc. Tiêu biểu có Lò Vũ Vân (sinh năm 1943) với Lời cây sáo ôi

(2001), Vòng xòe và sao xa; Cầm Bá Lai (1950 - 1988) có tập Hoa và nắng;

Lò Cao Nhum với 7 tập thơ Giọt sao trở về (1995), Rượu núi (1996), Soi

gương núi (1997), Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn (2001), Gốc trời

(2009), Rượu núi - thơ chọn lọc (2010).

Các nhà thơ dân tộc Thái dù có những điểm khác nhau về thời đại, vùng

miền, nghề nghiệp, học vấn… nhưng cội nguồn và văn hóa dân tộc đã bồi đắp

nên những hồn thơ dung dị, giàu lòng nhân ái, yêu thiên nhiên, quê hương làng

bản, yêu văn hóa dân tộc mình.

Nguồn cảm hứng vô tận tạo nên hồn thơ Thái đặc sắc là thiên nhiên

hùng vĩ, nên thơ; những phong tục, tập quán đậm đà bản sắc dân tộc; những

con người chất phác hồn hậu giàu tình cảm, đặc biệt là người con gái Thái

khỏe mạnh, đảm đang, xinh đẹp, khéo léo, dịu dàng.

Một trong những đặc trưng dễ nhận thấy trong thơ của các nhà thơ dân tộc

Thái là ở sự gắn bó, yêu mến đến đắm say thiên nhiên hùng vĩ, nên thơ của quê

hương. Đến với thơ ca dân tộc Thái ta có thể bắt gặp những đỉnh núi cao hùng vĩ,

những cánh đồng cỏ xanh mướt nối tiếp nhau đến tận chân trời, những con gió

quen thuộc nhiều vẻ nhưng thân thương gần gũi trong thơ Lương Quy Nhân:

“Gió về đây, gió ơi!

Mong gió hãy về mát mẻ

Gió giong đường thuyền, gió ruổi đường xe

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Gió lướt đường trời xanh cao, gió ơi!...

10

…Đã làm gió, gió đừng giận dữ

Gió giận dữ lửa sẽ cháy tàn

Đã làm gió, gió đừng gắt gỏng

Gió gắt gỏng tim người sẽ đau”

(Gió - Nhà xuất bản Giáo dục 2005)

Các nhà thơ dân tộc Thái luôn có nguồn cảm hứng đặc biệt trước vẻ đẹp

nguyên sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Những hình ảnh ruộng bậc thang

như bắc đến tận trời, những cánh đồng lúa chín vàng ẩn hiện trong sương sớm,

những cao nguyên đồng cỏ xanh mướt tới tận chân trời hay màu trắng tinh

khiết của hoa Ban rừng quyến rũ… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn các

nhà thơ; đồng thời, hiện thực cuộc sống, tình yêu, lao động sản xuất, phong tục

tập quán, văn hóa… cũng đi vào thơ. Đọc thơ ca Thái thời kỳ hiện đại, “chúng

ta có thể hình dung ra một cách cụ thể và sinh động cảnh sắc thiên nhiên, con

người, cùng những nếp sinh hoạt cũng như những phong tục tập quán đậm đà

bản sắc của người Thái, thấu hiểu được thế giới tâm hồn vốn rất phong phú

của người Thái” [33, tr.294].

Thơ dân tộc Thái vừa kết tinh, kế thừa những đặc trưng của thơ dân gian

Thái, vừa có tính hiện đại. Trong quá trình phát triển, các nhà thơ Thái đã phát

hiện và khẳng định “thần thái”, “hồn vía”, bản sắc và tầm vóc dân tộc mình.

Sự trưởng thành về đội ngũ và chất lượng sáng tác của thơ dân tộc Thái

được tác giả Trần Thị Việt Trung khẳng định trong công trình nghiên cứu Bản

sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại: “Có thể thấy, số

lượng các tác phẩm thơ Thái ngày càng nhiều và chất lượng các tác phẩm ngày

càng được nâng cao. Nhiều bài thơ của các tác giả dân tộc Thái được bạn đọc

yêu mến, thừa nhận; nhiều tác phẩm, tập thơ được trao những giải thưởng có

uy tín như: Ngọn lửa không tắt (Cầm Biêu) - đạt Giải A của Uỷ ban toàn quốc

Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam 1995, Hoa và nắng (Cầm Bá Lai) được trao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

giải B của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 1997;

11

Rượu núi của Lò Cao Nhum đạt giải C cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ quân

đội, Giải A Giải thưởng văn học nghệ thuật Hoà Bình 50 năm, (1998)... Đó

không chỉ là sự thừa nhận về chất lượng nghệ thuật của thơ ca Thái mà còn là

sự khẳng định vị trí cũng như những đóng góp của thơ Thái đối với nền thơ ca

dân tộc Việt Nam hiện đại” [33, tr.238].

Có thể nói, môi trường thơ ca với nhiều vẻ đẹp của đồng bào dân tộc

Thái đã giúp tâm hồn Lò Cao Nhum ủ ấp, chưng cất và kết tinh được chất men

say độc đáo trong thơ.

1.2. Giới thiệu về nhà thơ Lò Cao Nhum

1.2.1. Quê hương và gia đình nhà thơ

Lò Cao Nhum người dân tộc Thái, quê ở Mai Châu, Hòa Bình; sinh ngày

09 tháng 06 năm 1955, tại một một bản nhỏ bên núi Khọ Pha, nơi ông bà ngoại

nhà thơ sơ tán thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

Người Thái ở Mai Châu có cội nguồn từ vùng đất Mường Hước Pước

Khà tức là miền Bắc Hà thuộc tỉnh Lào Cai ngày nay, theo dọc sông Hồng rẽ

sang sông Đà, rồi tới lập nghiệp ở vùng Mộc Châu, vùng Mường Khoòng,

Thanh Hóa và vùng Mai Châu Hòa Bình tính đến nay được khoảng trên dưới

700 năm, tức vào khoảng đầu thế kỷ XIV.

Mai Châu là con đường tơ lụa giao lưu buôn bán giữa người Kinh ở Thăng

Long - Hà Nội, người Mường ở tỉnh Hòa Bình, người Thái ở các tỉnh Sơn La, Hòa

Bình, Thanh Hóa với các tộc người Lào ở đất nước Triệu Voi. Con đường đó từ

kinh đô Thăng Long - Hà Nội theo thuyền buôn lên chợ Bờ tới chợ Suối Rút và đi

đường bộ vào Mai Châu, sang Quan Hóa lên Mường Lát và sang Lào.

Bản Chác Lác (tức bản Lác ngày nay) đã có tên trong gia phả này ngay

khi người Thái đặt chân đến mường Mùn khai phá mở mang đất đai cư trú và

sinh sống. Bản Chác Lác nằm thuộc vùng trung tâm của mường Mùn, cũng là

trung tâm các Tạo mường cư trú. Mặt khác, thung lũng mường Mùn được bao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

bọc bởi các dãy núi cao. Bởi vậy, văn hóa cổ truyền Thái ở bản Lác cũng như

12

của mường Mùn nói chung rất đậm đặc sắc thái, khác với một số vùng tiếp giáp

các nền văn hóa khác như đã nói trên.

Lò Cao Nhum gắn bó với quê hương Tây Bắc. Dấu ấn quê hương in rõ

nét trong thơ ông từ các hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên Tây Bắc như đá

núi, rừng cây, dòng sông, mây, gió, tiếng chim hót, mặt trời... đến những phong

tục tập quán như tục bắt vợ, tục ở rể của người Thái, tục cúng thần linh ngày

mùa (Bắt vợ, Sàn trăng…); những lễ hội quen thuộc của bản làng quê hương

qua đêm múa xòe, lễ khuộng mùa (Đêm xòe và múa lăm vông, Đêm mường

Bui, Tung còn…); những sinh hoạt trong lao động sản xuất như phát nương,

làm rẫy, đan phên, dựng nhà, chống sàn, sửa gác (Bàn tay, Trên bờ lúa…);

những vật dụng, đồ dùng, những hình ảnh quen thuộc của người Thái như nhà

sàn, cầu thang, bếp lửa, hoa khau cút, vò rượu cần… (Sàn trăng, Nóc nhà ta có

hoa khau cút…).

Ngoài quê hương, những yếu tố từ gia đình cũng có ảnh hưởng lớn đến

sự nghiệp sáng tác của nhà thơ. Ông nội của Lò Cao Nhum sinh ra trong một

gia đình nghèo tại bản Tòng (xã Tòng Đậu, Mai Châu, Hòa Bình). Người cha

Lò Cao Nhum sinh năm 1931 tại bản Lác, xã Chiềng Châu, Mai Châu, Hòa

Bình. Từ thuở niên thiếu, ông đã nhanh chóng hòa nhập vào các phong trào

cách mạng như tham gia giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám tại

huyện, tham gia du kích kháng chiến chống Pháp tại địa phương, tham gia Ban

quản trị Hợp tác xã và nhiều năm là Bí thư Chi bộ bản Lác.

Trong cảm nhận của nhà thơ Lò Cao Nhum, ông nội và người cha của

nhà thơ là hai con người vừa bình dị, vừa phi thường. Hình ảnh ông nội và

người cha của nhà thơ đã trở đi trở lại nhiều lần với nhiều xúc cảm khác nhau,

đôi chỗ nó sáng lên như những hình ảnh đẹp (Ông nội tôi khai sinh miền đất).

Lò Cao Nhum mồ côi mẹ từ năm lên hai tuổi, có lẽ vì thế mà trong thơ

ông, bạn đọc luôn cảm nhận một nỗi khát khao tình mẹ đến cháy bỏng. Nỗi khát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

khao ấy khiến hình ảnh về người mẹ có khi được chuyển hóa thành người phụ nữ

13

nói chung, hay hình ảnh người bà, người vợ… Dù là hình ảnh nào thì người phụ

nữ trong thơ ông luôn là người tận tâm với gia đình, đảm đang, giỏi giang, tháo

vát, ân cần, tận tụy, thủy chung… (Mưa, Bà đi tàu thủy xuôi sông Đà…).

Gia đình và quê hương, là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến con

đường văn chương của nhà thơ. Nó vừa là động lực thôi thúc, vừa là nguồn

cảm hứng, vừa là đề tài, vừa là chất liệu đầy ắp và tiềm tàng những hình ảnh,

hình tượng, cách suy nghĩ, cách triết lý mộc mạc mà sâu sắc của người Thái.

1.2.2. Con người

Nhà thơ Lò Cao Nhum là một người giàu nghị lực, luôn khao khát vươn

lên trong cuộc sống. Ông mồ côi mẹ từ nhỏ nhưng không chịu chấp nhận sự

thua thiệt của số phận. Lớn lên gặp thời chiến tranh ác liệt ở cả hai miền Nam

Bắc đang tạm thời chia cắt nên việc học hành của ông bị đứt đoạn liên tục. Mặc

dù vậy, ông vẫn luôn phấn đấu học hỏi không ngừng. Năm 16 tuổi (1971), nhà

thơ nhập ngũ theo lệnh tổng động viên, gia nhập lực lượng Công an nhân dân

vũ trang của tỉnh. Những năm này, rồi về sau nữa, theo các vị trí công việc

khác nhau, Lò Cao Nhum phải nỗ lực củng cố bồi bổ thêm kiến thức của mình

bằng cách theo học các lớp tại chức, các lớp bồi dưỡng như sư phạm, công an,

kế toán, văn hóa...

Trong hành trình phấn đấu không ngừng, nhà thơ Lò Cao Nhum đã tích

cực tham gia vào các hoạt động văn hóa văn nghệ và đạt được nhiều thành

công. Tháng 1 năm 2001, Lò Cao Nhum trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt

Nam. Ngoài ra, ông còn là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Văn

nghệ dân gian Việt Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số

Việt Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật Hòa Bình… Lò Cao Nhum từng đi

nhiều nơi, đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau và có nhiều đóng góp tích

cực. Ông từng là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình các

nhiệm kỳ 2,3,4; Ủy viên Ban Thường vụ Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhiệm kỳ 4; Ủy viên Ban văn học dân tộc miền núi Hội Nhà văn Việt Nam

14

nhiệm kỳ 7; Ủy viên Ban Kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ 8; Trưởng

phòng Biên tập, Thư ký tòa soạn báo Văn nghệ Hòa Bình...

Mặc dù đã trải nhiều nghề khác nhau, nhưng với Lò Cao Nhum, niềm

đam mê lớn nhất của ông vẫn là thơ. Với ông, làm thơ trước hết là để sẻ chia

tâm tư tình cảm với mọi người. Nhà thơ khao khát sẻ chia những vần thơ của

mình với bạn đọc mọi miền đất nước. Trong sâu thẳm tâm hồn mình, nhà thơ

luôn nặng trĩu một nỗi lòng với văn hóa Thái. Ông tâm sự: “Tôi viết khi nào

cần viết, cần nói ra. Viết tự nhiên theo giọng của mình, tức là cách nghĩ cách

cảm của người Thái miền núi. Viết được như vậy tôi cho là thành công” (ghi

trực tiếp).

Với những trải nghiệm cuộc sống và niềm say mê tìm hiểu, sáng tác văn

học, Lò Cao Nhum đã có những thành công nhất định trên hành trình lao động

nghệ thuật. Ông đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong văn học dân tộc

Thái nói riêng và trong văn học dân tộc thiểu số nói chung.

1.2. Giới thiệu về hành trình thơ Lò Cao Nhum

Lò Cao Nhum ngoài sáng tác thơ còn viết ký, dịch, sưu tầm, khảo cứu.

Tác phẩm của ông gồm nhiều thể loại:

Ký: Phiên chợ hoa văn, Hội Văn học nghệ thuật Hòa Bình, 2005;

Sưu tầm, dịch dân ca ca Thái: Dân ca Thái Mai Châu, Sở Văn hóa

Thông tin Hà Sơn Bình, 1991; Lời hát trong lễ hôi Chá Chiêng, Nhà xuất bản

Văn hóa dân tộc, 2001;

Khảo cứu: Bếp lửa trong đời sống người Thái, Nhà xuất bản Văn hóa

dân tộc, 2008.

Tuy nhiên, Lò Cao Nhum say mê nhất vẫn là thơ. Ông làm thơ từ trước

những năm 80 của thế kỷ XX, đến nay đã xuất bản 07 tập thơ.

Năm 1995, ông in tập thơ đầu tay Giọt sao trở về. Tập thơ gồm 31 bài, in

ở Nhà xuất bản Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình. Tập thơ đầu tay này bao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

gồm các bài thơ ông sáng tác từ năm 1981 đến năm 1995. Xuyên suốt tập thơ là

15

cái nhìn của một con người dần trưởng thành. Bắt đầu là một chàng trai trẻ đi

xa về cảm thấy xao xuyến trước tình cảm của người thân, làng xóm, và niềm

hạnh phúc lớn lao khi được làm cha: “Cúi hôn gót chân con làm bố” (Trở lại

nhà sàn). Bài thơ kết thúc tập thơ là cái nhìn của một người đàn ông từng trải,

nặng trĩu tâm sự với những đổi thay, vấp ngã của cuộc đời. Giọt sao trở về tuy

chưa gây được nhiều chú ý của bạn đọc nhưng đã đánh dấu sự thành công bước

đầu của một nhà thơ trẻ.

Năm 1996, Lò Cao Nhum in tập Rượu núi. Tập thơ này gồm 34 bài

(trong đó có 33 bài là sáng tác mới, 01 bài được chỉnh sửa và in lại - Ngã ba

suối). Một số bài thơ trong tập Rượu núi đã nhận được những giải thưởng có

giá trị: Hai bài thơ Chiều núi, Ngã ba suối đã nhận được giải thưởng Chùm thơ

hay trong năm, báo Văn nghệ Trẻ, 1996. Sau đó, với bài thơ Rượu núi, Lò Cao

Nhum được tặng giải C cuộc thi Thơ của Tạp chí Văn nghệ quân đội 1996 - 1997.

Đến tập thơ Rượu núi, bạn đọc cảm nhận rõ một Lò Cao Nhum như “thăng hoa”

hơn khi viết về quê hương, bạn bè và những người thân. Ông đã có những câu thơ

rất xuất sắc: “Ngửa bàn tay cũng da/ Úp bàn tay cũng thịt”, “Rượu nhà tôi/ Ủ từ

sắc lá rừng gai/ Chắt từ củ mài hốc đá/ Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài/ … Đã

uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà say” (Rượu núi) hay “Mỗi

ngày tôi một ban mai/ Trồng một tia nắng/ Gặt chùm nụ cười chín rực” (Ban

mai)… Có thể nói, với tập thơ Rượu núi, Lò Cao Nhum đã đánh dấu một bước

tiến quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của mình đó là khẳng định được tài

năng thơ của mình trước công chúng.

Trong khoảng hơn chục năm sau này, Lò Cao Nhum vẫn miệt mài sáng

tác. Ông đã ra mắt bạn đọc các tập thơ: Mùa hoa chuông (10 bài), Thơ in

chung 3 tác giả, Sở Văn hóa Thông tin Hòa Bình, 1997; Sàn trăng (37 bài),

Thơ, Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình, 2000; Theo lời hát về nguồn (53 bài),

Thơ, Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình, 2001; Gốc trời (56 bài), Thơ, Nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

xuất bản Hội Nhà văn, 2009. Năm 2010, Lò Cao Nhum tuyển chọn các sáng

16

tác của mình in thành một tập với nhan đề Rượu núi (gồm 143 bài in tại Nhà

xuất bản Văn học, 2010). Với những tập thơ này, Lò Cao Nhum đã nhận được

các giải thưởng: tập thơ Gốc trời được nhận giải B của Hội Văn học Nghệ

thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2010; tập thơ Sàn trăng (cùng với

Rượu núi), được nhận giải A giải thưởng Văn học Hòa Bình 5 năm, 10 năm…

của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình. Xuyên suốt các tập thơ, bạn đọc vẫn gặp

một con người có tâm hồn giản dị, có trái tim thiết tha với tình yêu quê hương

đất nước, nhưng với một cái nhìn của con người từng trải hơn, suy tư chiêm

nghiệm nhiều hơn.

Ngoài các giải thưởng về thơ, Lò Cao Nhum còn được nhận các giải

thưởng về ký và khảo cứu: Tập khảo cứu Bếp lửa trong đời sống người Thái đã

đem đến cho ông giải C của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt

Nam năm 2009; với tập ký Phiên chợ hoa văn, Lò Cao Nhum được nhận giải A

giải thưởng Văn học Hòa Bình 10 năm của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình.

Trên hành trình nghệ thuật, Lò Cao Nhum vẫn miệt mài sáng tạo. Giờ

đây, ở độ tuổi ngoài 60, khi không còn vướng bận nhiều với công việc và

những lo toan trong cuộc sống, Lò Cao Nhum đi nhiều hơn. Đến mỗi vùng trời

khác nhau của tổ quốc, nhà thơ đều tìm thấy cho mình những cảm xúc thơ tươi

mới. Các tác phẩm mới ra đời bồi đắp thêm cho những thành công của nhà thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trong hành trình sáng tác thơ.

17

Chương 2

CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH

TRONG THƠ LÒ CAO NHUM

2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Lò Cao Nhum

2.1.1. Khái niệm cảm hứng chủ đạo

Cảm hứng thường được hiểu là trạng thái tâm tư đặc biệt khi sức chú ý

được tập trung cao độ, kết hợp với cảm xúc mãnh liệt, tạo điều kiện để óc

tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả. Cảm hứng là hứng thú sáng tạo

nói chung và sáng tạo văn học nói riêng.

Hê Ghen và Bêlinxki đều dùng từ “cảm hứng”: “để chỉ trạng thái hưng

phấn cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà

họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt ngồn từ lý tưởng xã hội của nhà

văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại” [8].

Hêghen cho rằng: “Cảm hứng chủ đạo là biểu hiện tâm hồn người nghệ sĩ

say mê, thâm nhập vào bản chất của đối tượng, trở thành tương ứng với nó, gần

như là xuyên suốt vào nó. Theo ông, cảm hứng chủ đạo cần được xem như là

một sản phẩm của “một tinh thần phong phú và hoàn thiện, một cá tính mà

trong đó tất cả những năng lực bản thể phổ quát đều được thực hiện” [8].

Bêlinxki quan niệm: “Trong những tác phẩm thi ca đích thực, tư tưởng

không phải là một khái niệm trừu tượng, được diễn tả một cách giáo điều, mà

nó tạo thành linh hồn tỏa vào trong tác phẩm, giống như ánh sáng chiếu vào

pha lê. Tư tưởng trong sáng tạo thi ca - đó chính là cảm hứng… Cảm hứng là

sự thiết tha và nhiệt tình nống cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó” [8].

Từ những quan điểm trên, Bêlinxki đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu cảm

hứng chủ đạo của nhà văn trong tác phẩm để tìm hiểu đặc điểm sáng tác của

nhà văn ấy “Công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên của người phê bình là giải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đoán cảm hứng chủ đạo của tác phẩm” [8].

18

Giáo sư Trần Đình Sử đưa ra quan điểm về cảm hứng: Cảm hứng là một

tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một ham muốn tích cực đưa đến hành

động. Điều quan trọng là cần nhận ra cảm hứng như một lớp nội dung đặc thù

của tác phẩm văn học. Cảm hứng trong tác phẩm, trước hết là niềm say mê

khẳng định chân lý, tư tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa,

tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với nhân vật chính diện, là sự phê phán,

tố cáo các thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cảm hứng chủ đạo là: “Trạng thái tình

cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư

tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những

người tiếp nhận tác phẩm” [8, tr.44].

Đây là khái niệm công cụ dược sử dụng để nghiên cứu cảm hứng chủ

đạo trong thơ Lò Cao Nhum. Theo chúng tôi, khái niệm này cho phép người

nghiên cứu xác định được những nội dung cơ bản sau:

- Cảm hứng chủ đạo gắn liền với tình cảm của tác giả về đối tượng sáng

tác ở mức độ mãnh liệt, say đắm. Tình cảm ấy có được do tác động của ngoại

cảnh và yếu tố nội sinh.

- Cảm hứng chủ đạo gắn với tư tưởng xác định, có tác động lan truyền

cảm xúc đến người đọc.

Vận dụng khái niệm đó, có thể xác định được cảm hứng chủ đạo trong

thơ Lò Cao Nhum là cảm hứng về quê hương đất nước, là tình yêu tha thiết với

thiên nhiên, phong tục tập quán, tình yêu văn hóa dân tộc Thái cùng sự gắn bó

chân thành với cuộc sống giản dị, con người mộc mạc của quê hương.

2.1.2. Cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương đất nước

Cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương, đất nước trong thơ của Lò Cao Nhum

được hòa vào từng bài thơ như một lẽ tự nhiên trong tâm hồn nhà thơ. Vì sao

khi viết về quê hương, tâm hồn Lò Cao Nhum lại rất tự nhiên, phóng khoáng và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

giàu tình cảm đến thế? Tìm hiểu thơ Lò Cao Nhum, chúng tôi nhận thấy cảm

19

xúc về thiên nhiêm trong thơ ông được thăng hoa bởi sự kết hợp cả yếu tố

ngoại cảnh và yếu tố nội sinh.

Yếu tố ngoại cảnh tạo nên cảm hứng về thiên nhiên trong thơ Lò Cao

Nhum là trước hết là vẻ đẹp của quê hương nhà thơ. Quê hương của Lò Cao

Nhum ở bản Lác, Mai Châu, Hòa Bình. Đây là nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên.

Sau này, khi ông trưởng thành, làm nhiều công việc khác nhau nhưng đó vẫn là

nơi nhà thơ gắn bó. Dù có đi đâu xa, cuối tuần ông vẫn trở về nhà, ngồi trên

chiếc bàn nhỏ của mình để sáng tác. Cho đến tận bây giờ ông vẫn giữ nếp sống

ấy. Có thể nói, cả đời nhà thơ đều gắn bó thân thiết với ngôi nhà, bản làng nơi

ông sinh sống. Bản thân Lò Cao Nhum rất tự hào về quê hương mình. Nơi đó

có ông nội nhà thơ - Người đã khai sinh ra một miền đất. Nơi đó có gia đình

yêu quý của ông - Một gia đình có truyền thống yêu nước lâu đời. Hơn nữa,

Bản Lác, Mai Châu, Hòa Bình nói riêng và Tây Bắc nói chung là một vùng đất

tuyệt đẹp. Thiên nhiên và cuộc sống con người vùng Tây Bắc đã đi vào các tác

phẩm thơ văn của Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải, Chế Lan Viên, Quang

Dũng… Đến nay, vùng đất này vẫn giữ được vẻ hùng vĩ, thơ mộng và đắm say

lòng người của nó. Chính vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống nơi đây đã là

nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Lò Cao Nhum.

Lò Cao Nhum có được cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước

không phải chỉ từ vùng đất Tây Bắc. Mà cảm hứng này được trải dài khắp mọi

miền tổ quốc. Là một người yêu thích trải nghiệm, dù đi đến đâu, trên những vùng

đất khác nhau của tổ quốc nhà thơ đều tìm thấy những rung động tình cảm, sự gần

gũi thân thương của thiên nhiên, văn hóa và con người Việt Nam. Có lẽ, đây là cội

nguồn sâu xa, bền chặt của tình yêu quê hương đất nước trong thơ Lò Cao Nhum.

Cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước mà Lò Cao Nhum có

được ngoài yếu tố ngoại cảnh còn có cả yếu tố nội sinh. Hay nói khác đi, cảm

hứng ấy xuất phát từ chính trái tim và con người của tác giả. Lò Cao Nhum là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhà thơ có tâm hồn nghệ sĩ, yêu vẻ đẹp thiên nhiên, say mê văn học dân gian

20

của người Thái, trong đó có các điệu khắp của người Thái Mai Châu. Ông yêu

văn nghệ, thích hát những điệu khắp của quê mình…Chính những yếu tố nội

sinh đã tạo nên tình cảm gắn bó máu thịt; lòng tự hào, tự tôn dân tộc; những

rung động chân thành trong thơ của Lò Cao Nhum khi viết về quê hương đất

nước.

Cảm hứng ngợi ca, tự hào về quê hương đất nước trong thơ Lò Cao Nhum

được biểu hiện chủ yếu ở hai nội dung chính: ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, tự

hào về cuộc sống và con người miền núi. Khi viết về thiên nhiên, Lò Cao

Nhum chủ yếu dành nhiều tình cảm cho thiên nhiên miền núi hùng vĩ, thơ

mộng. Khi viết về con người miền núi, nhà thơ chủ yếu ngợi ca vẻ đẹp của con

người với những phẩm chất đáng quý trọng: anh dũng, thủy chung, tình nghĩa

chăm chỉ, chịu thương chịu khó…

Quê hương đi vào thơ Lò Cao Nhum phong phú, đa dạng và tạo được dấu

ấn riêng. Ông soi chiếu quê hương từ những góc nhìn khác nhau tạo nên một

thế giới hình ảnh phong phú, sinh động, vừa có độ rộng, vừa có chiều sâu. Cảm

hứng về quê núi được hiện lên qua các hình ảnh về thiên nhiên gần gũi với con

người miền núi. Về cảnh vật, có các hình ảnh như: núi (Núi, Chiều núi...), suối

(Ngã ba suối), trăng (Trăng, Chiều núi, Sàn trăng...), ruộng bậc thang (Lên

Thung Khe), nhà sàn (Trở lại nhà sàn, Cây củi giữ lửa nhà sàn, Khói

chiều)...; về âm thanh có: những câu hát, lời ca, tiếng khèn (Gặp khèn, lời

khèn...), tiếng chim hót (Tiếng chim xanh)...

Đặc biệt, qua việc đặt tên các tập thơ, các bài thơ ta cũng nhận thấy cảm

hứng mãnh liệt và say đắm của nhà thơ về quê hương. Cách đặt tên các tập thơ

của Lò Cao Nhum thể hiện cảm hứng về quê hương rõ nét: Giọt sao trở về,

Rượu núi, Sàn trăng, Theo lời hát về nguồn... Tên các tập thơ này đều gợi

cảm hứng về cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống con người nơi núi rừng. Tên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

các bài thơ trong mỗi tập thơ cũng thể hiện rõ cảm hứng của nhà thơ.

21

Khảo sát tên các bài thơ trong ba tập thơ tiêu biểu của Lò Cao Nhum,

chúng tôi thấy nhiều bài có tên gợi cảm hứng về quê hương núi rừng của nhà

thơ. Cụ thể như sau:

STT Tập thơ Tên các bài thơ

Trở lại nhà sàn, Bếp lửa nhà ta, Gặp khèn, Lời khèn, Giọt

1 Giọt sao trở về sao trở về, Cây Sằm Pùng, Chiều núi, Tung còn, Tình

nương, Tiếng suối, Hoa văn mặt phà, Ngã ba suối...

Rượu núi, Bếp lửa nhà ta, Bà đi tàu thủy xuôi sông Đà,

2 Rượu núi Đêm xòe và múa lăm vông, Lên Thung Khe, Bức vẽ

trai bản, Chiều núi, Núi, Người trên núi...

Ở rẻo cao Pù Bin, Cây củi giữ lửa nhà sàn, Mảnh nương

trên đồi, Sàn trăng, Bắt vợ, Thuyền độc mộc, Chiều hồ

Sòng Sỹ, Rừng nguyên sinh, Sương Sông Đà, Dưới bóng 3 Sàn Trăng

xanh của mường, Guồng nước, Hòa Bình ơi nghìn năm

đưa nôi, Nhớ Lạc Thủy, Theo lời hát về nguồn...

Lò Cao Nhum say đắm vẻ đẹp của thiên nhiên miền núi, đặc biệt là miền

núi Tây Bắc. Ở thời kỳ kháng chiến, trong tiềm thức của những người ít nhất

một lần ngang qua Tây Bắc, thiên nhiên Tây Bắc như có gì đó hoang sơ, dữ

dội. Cảm nhận ban đầu của người “miền xuôi” lên “miền ngược” đó là thiên

nhiên Tây Bắc dữ dội “rừng thiêng nước độc”, “Nước Sơn La, ma Hòa Bình”.

Tuy nhiên, thiên nhiên quê hương trong thơ Lò Cao Nhum mang vẻ đẹp thật trữ

tình, thơ mộng, gần gũi, thân thương:

“Hoà Bình ơi nghìn năm đưa nôi

Núi thoả thích nằm co, nằm duỗi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mây Lũng Vân bồng bềnh nâng gối

22

Đệm bông lau trải miền dốc Cun”

(Hòa Bình ơi nghìn năm đưa nôi)

Nếu ai đến đỉnh núi Cun Pheo (Mai Châu, Hòa Bình) hay đến Lũng

Vân (Tân Lạc, Hòa Bình) vào buổi sáng sớm trong một ngày đẹp trời thì chắc

chắn sẽ bị thiên nhiên nơi đây làm cho mê hoặc. Những dãy núi “nằm co, nằm

duỗi” những con dốc trải dài như một dải lụa được bao phủ bởi một lớp mây

bồng bềnh, lúc ẩn lúc hiện. Vẻ đẹp thơ mộng ấy mang lại cho con người cảm

giác hiền hòa, hạnh phúc hơn; muốn sống một cuộc sống gần gũi hơn với

thiên nhiên.

Vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên trong thơ Lò Cao Nhum được khắc họa

với nhiều hình ảnh, đường nét quyến rũ. Tất cả hòa quyện với nhau tạo thành

bức tranh huyền ảo:

“Làng với suối giữa lòng thung núi

Mà đường về thì vắt ngang mây

Đứng trên cao thấy hàng cau như vẫy

Như người về đêm ngất ngả say”.

(Về những làng cau)

Trong khung cảnh núi rừng, tiếng chim thánh thót, ngọn gió trong lành

khiến lòng người “dào dạt” lạ thường:

“Chim hót ngôi sao lặn

Chim ca mặt trời lên

Gió reo vui đầu bãi

Gió say lượn cuối nguồn

Rừng xanh bao la gió

Đồi xanh bát ngát chim

Không gian chẳng im lìm

Khiến lòng tôi dào dạt”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Tiếng chim xanh)

23

Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp của quê hương Tây Bắc, Lò Cao Nhum còn

trải lòng mình với mọi miền đất nước qua những dòng thơ ngợi ca thiên nhiên

gắn liền với những địa danh lịch sử, văn hóa, từ Sapa, Lạng Sơn, Tam Đảo…

đến Kon Tum, Bến Tre, Phan Rang, Vũng Tàu, Cà Mau… Tác giả Đỗ Thu

Huyền (Viện Văn học) trong bài viết: Thơ Lò Cao Nhum - Tình bền củi lửa:

cũng đã cảm nhận: “Không chỉ viết về quê hương mình, Lò Cao Nhum còn

dành nhiều vần thơ trải lòng với những miền quê của đất nước: Sa Pa, Lạng

Sơn, Huế, Tam Đảo, Cà Mau, Nha Trang, Bến Tre... Mỗi nơi anh đến là một

ghi dấu những kỉ niệm và ẩn sau đó lại một triết lý. Thiên nhiên đẹp mà dữ dội,

còn con người âm thầm bền bỉ trong Rừng đước Cà Mau, mạnh mẽ, kiên cường

trong nắng nẻ, bão gió Phan Xi Păng: Cười vọng núi/ Múa nghiêng rừng/ Yêu

cháy lá ngón (Phác họa Phan Xi Păng)...” [dẫn theo 24].

Khi đến Sa Pa, Lò Cao Nhum đặc biệt ấn tượng với dãy núi Phan Xi Păng

hùng vĩ với tâm thế con người của núi rừng từng trải với “Sương mù”, “bão gió

xoáy giật”, “mưa lở núi”, “nắng nẻ nương” (Phác họa Phan Xi Păng). Cách

cảm nhận thiên nhiên mạnh mẽ ấy đã làm cho thơ của Lò Cao Nhum thêm

“chất núi rừng” rắn rỏi một cách tự nhiên.

Đến Lạng Sơn, Lò Cao Nhum cảm nhận đây là một thành phố có nét

đẹp cổ kính xen lẫn sự bừng nở phồn thực của đô thị mới (Chấm phá Lạng

Sơn). Sang Tam Đảo, nơi nổi tiếng với thời tiết đẹp, không khí trong lành,

nhà thơ đặc biệt ấn tượng với thiên nhiên, khí hậu nơi đây. Cảm nhận về thời

tiết Tam Đảo như một người phụ nữ muộn chồng cũng là một phát hiện đặc

biệt của nhà thơ.“Bà chị muộn chồng” (Thời tiết Tam Đảo) nên tính khí thất

thường, nhưng chính điều đó lại là một ấn tượng khó phai đối với bất kể ai

ngang qua vùng đất này.

Đến với mảnh đất Nam bộ, mỗi nhà thơ có một suy nghĩ và cảm nhận khác

nhau. Cùng đến Kon Tum, nhà thơ Văn Công Hùng cảm nhận vẻ đẹp thiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhiên nơi đây dịu dàng, đầy tâm trạng vừa “thao thức”, “chập chờn”, vừa

24

“huyền bí”, “cổ tích”. Còn Lò Cao Nhum lại mạnh mẽ, cồn cào “gắng gỏi níu

giữ” những giá trị văn hóa, di tích cổ xưa bằng cảm xúc “cuồn cuộn”, “nuối

tiếc”. Đến Bến Tre, lại là một cảm giác lạc lõng, như đi tìm một giá trị truyền

thống ngàn xưa với những chiến công anh hùng của dân tộc (Một chiều chưa

gặp Bến Tre). Đến Phan Rang, Lò Cao Nhum trầm tư chiêm nghiệm những tòa

thành tháp cổ kính nổi tiếng được “dát nắng lên sườn tháp cổ” (Thành tháp

cổ). Đến vùng biên giới Việt - Cam Pu Chia, bằng quan sát tinh tế của mình,

nhà thơ mượn hình ảnh cây thốt nốt để nhấn mạnh tình hữu nghị, đoàn kết của

hai dân tộc một cách ý vị, tự nhiên (Cây thốt nốt giữa mùa biên giới).

Đến với Vũng Tàu, Lò Cao Nhum cảm nhận được sự mát mẻ của

những con gió thổi từ biển xanh mang không khí trong lành vào đất liền. Ở

đây, nhà thơ ấn tượng với những tòa cao ốc tươi tắn sắc màu, những cánh

chim hòa bình và tình yêu đôi lứa:

“Vũng Tàu nắng

Vũng Tàu gió

Nắng trời xanh và chim bồ câu…

Cao ốc khoe đủ mọi dáng màu

Ban công biếc bồ câu hội tụ

Đàn chim bay lướt trên ghế đôi

Người bãi biển lấy cớ tình tự”

(Bồ câu bay xanh trời thành phố)

Vương Trung (1938 - 2012, Hội Nhà văn Việt Nam), một nhà thơ dân

tộc Thái, sống tại Sơn La, khi đến Vũng Tàu ông đã có một cảm nhận giao hòa,

gần gũi giữa hai miền đất nước:

“Tôi từ Sơn La đến Vũng Tàu

Mênh mông biển cả vui chào đón

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Người hai miền núi - biển hòa nhau

25

Nơi bãi cát mịn biển giao đất…

Mặt trời, mặt trăng mọc từ biển…

Mặt trời mặt trăng dậy từ non

Núi rừng đội trời lên cao vút

Biển kéo trời sà thấp tỏa xa”

(Hồn núi - biển)

Vương Trung và Lò Cao Nhum cùng là nhà thơ dân tộc Thái vùng Tây

Bắc. Vương Trung thuộc lớp nhà thơ của thế hệ trước, còn Lò Cao Nhum là

nhà thơ thuộc thế hệ sau. Khi đọc hai bài thơ “Rừng đước Cà Mau” và “Ngọn

đất Cà Mau” của hai nhà thơ, bạn đọc cảm nhận như có một sự nối tiếp về cảm

xúc giữa hai thế hệ. Dù viết bằng những hình thức khác nhau, nhưng cả hai nhà

thơ đã có cùng một nguồn cảm xúc dạt dào, say đắm với vẻ đẹp của vùng biển

Vũng Tàu. Điều này thêm phần khẳng định cảm xúc ngợi ca quê hương đất

nước của Lò Cao Nhum được tiếp nối tự nhiên từ các nhà thơ lớp trước.

Cảm xúc ngợi ca đất nước trong thơ Lò Cao Nhum thể hiện rất rõ trong

việc đặt tên các bài thơ. Nhiều bài thơ của ông có tên gắn liền với các địa danh:

Phác họa Phan Xi Păng, Chấm phá Lạng Sơn, Thời tiết Tam Đảo, Một chiều

chưa gặp Bến Tre, Cây thốt nốt giữa mùa biên giới, Rừng đước Cà Mau…

Lò Cao Nhum cùng các nhà thơ dân tộc Thái và các nhà thơ Việt Nam hiện đại

vẽ nên ấm bản đồ đất nước bằng thơ. Từ nơi địa đầu của Tổ quốc cho đến đất

Mũi Cà Mau, nơi nào trên đất nước Việt Nam cũng là một vùng đất đẹp. Vẻ

đẹp ấy như ngày càng được tô thắm trên những trang thơ của các nhà thơ mang

tâm hồn Việt.

Cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảm hứng về quê hương

đất nước của Lò Cao Nhum không chỉ mang ý nghĩa tình cảm gắn bó máu thịt,

những rung động chân thành của tâm hồn ông với quê hương đất nước mà còn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc và tình cảm yêu nước thiết tha của nhà thơ.

26

Đọc toàn bộ sáng tác của Lò Cao Nhum ta có thể nhận thấy dù đi đâu, về đâu,

dù đến với vùng đất nào của Tổ quốc, Lò Cao Nhum luôn có cảm xúc mãnh liệt

với thiên nhiên. Nhà thơ cũng mượn thiên nhiên để bộc lộ suy nghĩ, tâm sự và

tình cảm của mình với quê hương, đất nước thân yêu .

2.1.3. Tự hào về con người miền núi

Không chỉ viết về thiên nhiên, Lò Cao Nhum còn dành những trang thơ

thể hiện lòng tự hào về con người miền núi với những phẩm chất đáng quý:

đoàn kết cộng đồng, gan lỳ trước thử thách của thiên nhiên, thủy chung trong

tình cảm vợ chồng, tình nghĩa với anh em họ mạc, làng bản...

Thể hiện niềm tự hào về con người miền núi, Lò Cao Nhum đã dùng

hình tượng “Vòng xòe” để ngợi ca tinh thần đoàn kết: “Vòng xoè…/ Đượm

nồng sải dọc vạn năm/ Bền bỉ dưỡng nuôi sự sống loài người.../ Kề vai nhau/

Xòe ngàn năm vạn thuở/ Dắt tay nhau kết dính lẽ đất trời/ Nào trẻ, già, trai,

gái muôn người/ Nào xóm trên, dưới mường mọi nơi/ Hãy cầm tay, hãy dắt tay/

Xòe cùng đồi, cùng núi/ Sánh cùng sao, cùng trăng/ Bền cùng trời, cùng đất”./

(Vòng xòe). Chiếc vòng xòe như một vật gắn kết cộng đồng theo sải dọc của

thời gian “vạn năm”. Từ khi có “Ngọn lửa thủa hồng hoang” đã có chiếc

“vòng xòe”. Chiếc vòng xòe ấy giúp con người “kề vai nhau”, “dắt tay nhau”,

“Xòe cùng đồi, cùng núi/ Sánh cùng sao, cùng trăng/ Bền cùng trời, cùng đất”.

Viết về tình đoàn kết, Lò Cao Nhum không hô hào như một bài ca chính trị mà

chỉ dùng giọng điệu, từ ngữ rất nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu sắc, ý nhị. Bài

thơ là một lời ngợi ca về sức mạnh của dân tộc ta. Trải qua bao thăng trầm của

lịch sử, một trong những điều khiến ta có thể chiến thắng được mọi kẻ thù

chính là tinh thần đoàn kết. Chỉ bằng hình tượng chiếc vòng xòe, Lò Cao Nhum

đã khái quát được sức mạnh của truyền thống cố kết cộng đồng dân tộc chính là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tinh thần đoàn kết.

27

Là một người con của núi rừng Tây Bắc, Lò Cao Nhum thấu hiểu sự gắn

bó sinh tồn giữa con người với thiên nhiên. Trong thơ Lò Cao Nhum, thiên

nhiên không đối lập với con người mà luôn hòa hợp, gắn bó, “nâng tầm” con

người lên cao hơn. Sự “nâng tầm” ấy thể hiện trước tiên ở tư thế chủ động của

con người trước thiên nhiên. Con người luôn luôn xuất hiện cùng thiên nhiên,

dù thiên nhiên có khắc nghiệt đến đâu thì bản lĩnh con người vẫn vượt lên trên

tất cả:

“Phan Xi Păng

Sương mù quần đảo bay

Bão tố xoáy giật thổi

Mưa lở núi

Nắng nẻ nương”

(Phác họa Phan Xi Păng)

Chỉ có những ai đã từng gắn bó với núi rừng mới hiểu được cái khắc

nghiệt của thiên nhiên “mưa lở núi”, “nắng nẻ nương” là như thế nào. Mặc dù

vậy, con người vẫn chủ động trước thiên nhiên, thể hiện bản lĩnh của mình

trước muôn vàn thử thách:

“Đàn ông khoác súng kíp trên lưng

Cắp cán rìu bên sườn

Bước sải dài trên núi...

Lầm lũi ngang ngạnh...

...Người Phan Xi Păng

Dạng chân trên chóp núi”

(Phác họa Phan Xi Păng)

Với ý chí và nghị lực phi thường, con người mền núi hiện lên trong bài thơ

với tư thế chủ động đón nhận những khó khăn thử thách do thiên nhiên đem lại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Vì thế, dù trong điều kiện nào thì con người cũng vẫn cảm thấy “thiên niên

28

không khắc khổ”... Đó chính là phẩm chất dũng cảm của con người miền núi

mà họ được thừa hưởng từ truyền thống cha ông: “Vác rìu từ bé/ Nên săn cánh

tay/ Leo núi sớm ngày/ Nên chân chắc cột/ Tóc quen bay ngược/ Gió thốc lướt

qua/ Bắp dao nghiêng sườn/ Chĩa về phía trước/ Chống trụ hai chân/ Đạp lên

vai núi/ Núi muốn nhô lên/ Chân như ấn xuống” (Trai bản). Chàng trai của bản

mang vẻ đẹp của núi rừng, vạm vỡ, ngang tàng. Vẻ đẹp ấy mang dấu ấn của lao

động sản xuất, mang vóc dáng của con người sánh vai cùng trời đất, không chịu

khuất phục trước thiên nhiên và hoàn cảnh sống, con người khỏe mạnh, mang

vẻ đẹp của tự nhiên.

Trong thơ Lò Cao Nhum, con người miền núi thật đẹp, thật anh hùng. Vẻ

đẹp anh hùng của người miền núi rất phong phú. Họ anh hùng trong chiến đấu

và trong lao động sản xuất. Trong lao động sản xuất họ được ngợi ca cả ở thể

lực và trí lực:

“Người hùng, người gan

Cột lim, cột nghiến

Kết đan phên sào, phên giậu

Chắn bão, ngăn giông

Xua mây, đuổi nắng

Che mầm xanh không héo quắt

Chắn mùa vàng không lở xuống thung sâu”

(Vòng xòe)

Đã là người anh hùng thì phải có chí lực, không chỉ khỏe mạnh như “cột

lim, cột nghiến”, không chỉ là “người gan” mà còn phải biết “Chắn bão, ngăn

giông/ Xua mây, đuổi nắng” và hơn nữa cũng phải là người hiểu biết, giàu kinh

nghiệm để “Che mầm xanh không héo quắt/ Chắn mùa vàng không lở xuống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thung sâu”.

29

Con người miền núi trong thơ Lò Cao Nhum rất giàu tình cảm, thủy

chung, yêu thương hết mình:

“Cười vọng núi

Múa nghiêng rừng

Yêu cháy lá ngón

Nhớ mòn vẹt lưỡi khèn”

(Phác họa Phan Xi Păng)

Cách miêu tả tình yêu và nỗi nhớ thật đặc biệt, ta chưa gặp cách miêu tả sự

mãnh liệt trong tình yêu ở một nhà thơ nào lại độc đáo như vậy: “Yêu cháy lá

ngón/ Nhớ mòn vẹt lưỡi khèn”. Cảm hứng tự hào về quê hương đã giúp Lò cao

Nhum sáng tạo được những câu thơ thật xuất sắc khi nói về phẩm chất tình cảm

đặc trưng của con người miền núi: chân thật và mãnh liệt.

Nói về người miền núi, Lò Cao Nhum không chỉ nói đến những chàng trai

anh hùng đại điện cho sức mạnh của cộng đồng. Thơ ông còn xuất hiện sự có

mặt của người ông, người bà, người cha, người mẹ, người vợ, người chồng…

Trong tiềm thức của Lò Cao Nhum, ông nội đóng một vai trò rất quan

trọng trong cuộc đời của mình. Bài thơ Ông nội tôi khai sinh ra miền đất đã

nói rõ điều đó. Nhà thơ đã từng tâm sự: "Tôi ấp ủ hình ảnh về ông nội tôi, một

ông nội trầm tư và lầm lỳ trước mọi công việc, chẳng hề nghe ông kêu ca mỏi

mệt bao giờ. Có lẽ ông quen nghèo khổ từ tuổi nhỏ. Ông không được học hành,

mười ba tuổi đã phải đi chăn trâu cho nhà Tạo phìa vì bố ông bị phạt vạ do đốt

tổ ong làm cháy một gốc cây to trong đống tha ma của mường mà không có bạc

nộp. Tạo phìa cưới cho ông một người cũng làm phiên nhà Tạo người bản Lác.

Từ đó, hết phiên nợ phạt, ông ở lại bản Lác quê vợ, mở đầu dòng họ Lò ở đây.

Hình ảnh nhỏ thân yêu ấy gợi tôi nghĩ đến thân phận tộc người Thái ở mường

Mùn, đã có một lịch sử gian nan thiên di tìm đất, trụ lại khai khẩn bằng mồ hôi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

máu và nước mắt suốt chiều dài 7 thế kỷ để có một thung lũng Mai Châu trù

30

phú và thơ mộng như ngày nay. Bài thơ Ông nội tôi khai sinh ra miền đất ban

đầu tôi viết với ý nghĩ đơn giản là để lưu giữ lại hình ảnh người ông thân yêu

của tôi đã đi xa, nhưng sau do tác hợp thêm những ám ảnh về thân phận một

dân tộc, lại nữa với chức năng của thơ, tôi đã đẩy từ hình ảnh cụ thể về ông nội

thành hình tượng của tứ thơ” [Ghi trực tiếp].

Bài thơ Ông nội tôi khai sinh ra miền đất đã được hoàn chỉnh tại trại sáng

tác do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tổ chức tại Bến Tre

năm 2006 và được nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã chọn in trên tạp chí THƠ của

Hội nhà văn Việt Nam.

Hình ảnh người bà cũng rất sâu đậm trong thơ Lò Cao Nhum. Khi viết về

người bà, ông đã dành hết tình cảm thương yêu nhất:

“Bà ơi thương bà đêm giêng lạnh

Đệm bông lau cháu trải bà nằm

… Sàn bương lạnh thấm chân tê tái

Lửa hồng từ tinh mơ bà nhen”

(Cây củi giữ lửa nhà sàn)

Một bài thơ khác của Lò Cao Nhum viết về hình ảnh người bà - bài thơ

Bà đi tàu thủy xuôi sông Đà cũng đem đến cho bạn đọc một tình cảm đặc biệt.

Đọc bài thơ ta được gợi nhớ về cuộc đời khó nhọc, tần tảo sớm hôm của bà:

“Tám mươi năm chưa một giấc thảnh thơi/ Cuộc đời lắm nẻo/ Qua thác ghềnh

lắt léo/ Nước mắt rơi muốn vắt kiệt nguồn”. Cái khéo léo của Lò Cao Nhum là

ở chỗ, ông đã thể hiện tình cảm của người cháu qua sự cảm thông thấu hiểu về

bà. Người cháu hiểu được rằng “Tám mươi năm đằng đẵng” trên đầu “đội

nặng mây trắng”. Thế mà khi theo con tàu về xuôi “nếp mặt bà lượn mãi tươi

vui”, “lòng dạt dào tận chốn biển xa”, “gặp nụ cười trên môi móm mém/ Ngỡ

ánh sáng rạng hồng dải đất ngàn năm”. Phải là người giàu tình cảm, tinh tế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

mới có thể nhìn thấy được nỗi khắc khổ thể hiện trên khuôn mặt trở thành

31

những “nếp sóng tươi vui”, nghe thấy được niềm vui trong lòng trở thành tiếng

“dạt dào” của sóng vươn “tận chốn biển xa”.

Khác với các nhà thơ nữ, những vần thơ viết cho con của các nhà thơ nam

bao giờ cũng bộc lộ sự từng trải chứ không chỉ là sự vỗ về yêu thương. Nhà thơ

Dương Khâu Luông (dân tộc Tày) khuyên con gái hãy thể hiện là người có sức

mạnh, có bản lĩnh trước sóng gió cuộc đời: “Con hãy học cây nghiến, cây lim/

Gập ghềnh đá vẫn đứng lên kiêu hãnh/ Đón khí trời nuôi lá xanh cây/ Cành

vươn cao vẫy gió chín tầng mây”. Nhà Thơ Y Phương (dân tộc Tày) trong

“Nói với con” cũng viết: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong

thung không chê thung nghèo đói.../ Người đồng mình thô sơ da thịt/ Chẳng

mấy ai nhỏ bé đâu con.../ Con ơi tuy thô sơ da thịt/ Lên đường/ Không bao giờ

nhỏ bé được/ Nghe con” ... Đó là lời tâm sự của những người cha dành cho con

về lòng tự tôn dân tộc. Còn Lò Cao Nhum nói với con bằng tâm sự của người

cha qua những trải nghiệm thấm thía từ những vấp ngã của cuộc đời:

“Rồi ngày mai con xuống núi

Ngỡ ngàng

Đất rộng, trời thấp

Bước đầu tiên

Con vấp gót chân mình

Ngày mai con xuống núi

Cùng tay nải hành trang đầu tiên

Đi như suối chảy về với biển

Chớ quên mạch đá cội nguồn”.

(Rồi ngày mai con đi)

Nhà thơ gửi gắm tới người con những bài học đầu đời quý giá, có thể ra

biển lớn nhưng không được quên cội nguồn bởi nơi ấy là dân tộc, nơi hoa khau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cút mãi mãi trên nóc nhà như một tín hiệu thiêng liêng:

32

“Nóc nhà ta có hoa khau cút

Nhận ra anh em

Nhận ra họ hàng

Nhận ra đồng tộc

Khi nóc nhà có hoa khau cút

Chớ lạ đi, lạ về

Chớ quên nóc nhà có hoa khau cút”.

(Nóc nhà ta có hoa khau cút)

Thơ Lò Cao Nhum không có nhiều bài về tình yêu đôi lứa. Thơ tình của ông

cũng ít nói về nhớ nhung hò hẹn giữa “anh” và “em”. Đọng lại nhất là những vần

thơ tình với hình ảnh người phụ nữ gần gụi, thân thương. Đấy là người vợ gìn

giữ ngọn lửa hồng ấm áp, xua tan băng giá biên phòng trong Bếp lửa nhà ta:

“Sàn đầu bản/ Có thiếu phụ nhớ chồng/ Trăng/ Vô tình/ Mặc sức sáng/ Gió lay

lay cây bương/ Như ai thở dài/ Bóng lá đậu mặt sàn cửa sổ/ Chị gối đầu lên

đệm bông lau/ Núi nằm nghiêng đằng đông/ Rồi lại/ Núi nằm nghiêng đằng

tây/ Con trở giấc/ Chị kéo vào vỗ vỗ/ Rồi vươn dậy/ Lấy áo chồng/ Dịu dàng

đắp ủ giấc mơ”/ (Áo chồng). Nhà thơ Lò Ngân Sủn cũng đã từng cảm nhận:

“Bài thơ Áo chồng nói về nỗi niềm thương nhớ chồng của một người vợ: Thấy

trăng sáng trách trăng vô tình, nghe gió lay cây bương tưởng tiếng thở dài,

đêm nằm con trở giấc, chị kéo con vào sát mình vỗ vỗ… Đó là những cử chỉ,

hành động thông thường của một người mẹ. Nhưng ở đây lại có cái gì đó như

một bất ngờ được bật ra từ nỗi nhớ, nên chị mới liền “vươn dậy” để “Lấy áo

chồng/ Dịu dàng đắp ủ giấc mơ…” Có cảm giác, cả một chuỗi dài đằng đẵng

những ngày tháng nhớ nhung, đợi chờ đều được dồn tụ vào đây, vào sự “vươn

dậy”, vào chiếc áo chồng, vào sự dịu dàng để đắp ủ giấc mơ cho đứa con, cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cả sự nhớ nhung, đợi chờ ở hai đầu xa cách biệt ly” [dẫn theo 24, tr.15].

33

Người phụ nữ trong thơ Lò Cao Nhum hiện lên giản dị và đẹp. Đó là vẻ

đẹp của tấm lòng, của sự khéo léo. Trong dân ca Thái, sự khéo léo của đôi bàn

tay người phụ nữ được ngợi ca bằng những chất liệu quen thuộc và thủ pháp

phóng đại:

“Đụng vào khung cửi vải thành hoa.

Tung nắm tấm thành ra đàn gà.

Khua cái chầy hoa ra gạo trắng.

Đụng vào cỏ thì cỏ chết nắng.

Vuốt lên lúa, bụi lúa ra bông”

Hình ảnh đôi bàn tay người phụ nữ trong thơ Lò Cao Nhum cần mẫn,

chăm chỉ, khéo léo, giỏi giang: “Bàn tay đan/ Thành bông thành vải/ Trải hoa

văn bốn vách nhà sàn/ Bàn tay gieo/ Ra trái ra cơm/ Râm ran riếng chống sàn,

sửa gác/ Bàn tay nắm/ Bò lang ngựa đỏ/ Vó khua tung tóe sương chiều/ Bàn tay

xòe/ Ánh bạc, ánh vàng/ Bàn tay ôm/ Mười ngón hôn nhau qua biển núi” (Bàn

tay). Sử dụng hình ảnh “bàn tay” để ca ngợi sức lao động của con người không

phải đến Lò Cao Nhum mới có. Nhà thơ Hoàng Trung Thông trong Bài ca vỡ

đất (1948) cũng đã từng khẳng định: “Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người,

sỏi đá cũng thành cơm”. Hình ảnh “bàn tay” tượng trưng cho sức lao động của

con người, con người có khả năng cải tạo thiên nhiên để tạo lập cuộc sống ấm

no, hạnh phúc. Trong bài thơ Bàn tay Lò Cao Nhum đã sử dụng hình ảnh “bàn

tay” với nhiều động tác khác nhau: “bàn tay đan”, “bàn tay gieo”, “bàn tay

nắm”, “bàn tay xòe”... để khắc họa đất nước trong xây dựng cuộc sống mới

phải bắt đầu từ những điều bình thường nhất: “thành bông thành vải”, “ra trái

ra cơm”, “ánh bạc, ánh vàng”... Tất cả của cải vật chất và tinh thần của nhân

loại từ trước tới nay đều do bàn tay, khối óc của con người sáng tạo ra. Con

người biết trồng trọt, chăn nuôi, biết dựng nhà, dựng cửa, biết chế tạo ra công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cụ lao động và những vật dụng cần thiết… để cuộc sống văn minh, tiến bộ hơn.

34

Như đã trình bày ở trên, nhà thơ Lò Cao Nhum có một cuộc sống vất vả,

khó khăn từ nhỏ. Mẹ ông mất sớm, lớn lên trong thời kỳ chiến tranh của đất

nước đang đi vào giai đoạn ác liệt nhất. Con đường học vấn của nhà thơ bị đứt

đoạn, ông đã từng phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Chính sự từng trải của Lò

Cao Nhum đã đem đến cho thơ ông những kiến thức phong phú về nhiều ngành

nghề khác nhau. Là một nhà thơ nhưng Lò Cao Nhum lại hiểu sâu sắc về nghề

kế toán. Ông nhận thấy làm kế toán là làm một nghề cần đến nhiều trí lực, tuy

không ra đồng cầy cấy nhưng cầm bút viết cũng giống như cày một thửa ruộng:

“Người kế toán nghiêng mình/ Ngọn bút chạy như lưỡi cày lật đất”, “Nắn nót

từng con số như ra đồng cóp nhặt từng bông/ Tay thước kẻ ngắm dọc, gióng

ngang/ Như uốn thẳng rộng dài đường mương, bờ thửa”, “Cấy trí lực vào

trang giấy thành bông/ Một vết mực giây cũng làm mây hoen ố/ Giọt mồ hôi

cũng thể hóa mưa giông” (Trang giấy và ngọn đèn) Lò Cao nhum cứ diễn tả

mộc mạc thế thôi. Không lên gân lên cốt, không đao to búa lớn mà chân chất,

bình dị nhưng vẫn sâu sắc, khéo léo để bạn đọc cảm nhận được cảm xúc tự hào

về một đất nước có truyền thống bốn nghìn năm lịch sử.

Hình ảnh những con người miền núi trong cảm xúc thơ của Lò Cao

Nhum mang vẻ đẹp giản dị, giàu tình cảm, thủy chung, yêu thương hết mình.

Điều đặc biệt ở họ là mang trong mình phẩm chất dũng cảm, trước thiên

nhiên dữ dội và hoàn cảnh sống khó khăn, con người miền núi đã vượt lên để

sinh tồn và phát triển.

Khi viết về cuộc sống con người miền núi, Lò Cao Nhum khái quát

thành một bức tranh sống động. Bức tranh ấy có sự chuyển động từ đói nghèo

tăm tối đi đến ấm no hạnh phúc, có Đảng và Cách mạng.

Cuộc sống của đồng bào miền núi được Lò Cao Nhum khái quát ở ba

mức độ:

“Ở trên núi có bấy nhiêu hộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Một phần ba giàu có đỏ rừng…

35

Một phần ba mới giàu nửa chừng…

Còn lại một phần ba liêu xiêu…

(Người trên núi)

Bài thơ Người trên núi phản ánh chân thực cuộc sống của người miền núi.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ dành một khổ thơ đầu nói đến sự “giàu có đỏ rừng”.

Mới đọc khổ thơ đầu người ta dễ có thể cảm nhận cuộc sống con người nơi đây

thật ấm no hạnh phúc, thật sung túc đủ đầy. Nhưng đọc đến khổ thơ thứ hai và

thứ ba, người đọc như xót xa, cảm thông với những khó khăn, nhọc nhằn mà

người dân miền núi phải trải qua. Những lo toan trong cuộc sống dường như là

nỗi lo thường trực: “Vừa ăn vừa dụm sinh dè sẻn/ Vừa làm vừa nghĩ ngày mai

đến/ Khách đi khỏi vợ ngồi cạo niêu”. Chưa hết, một phần ba nữa còn khó

khăn, gian khổ hơn nhiều: “Còn lại một phần ba liêu xiêu/ Gió tháng tám tốc cả

lên rừng/ Đã thế sự nghèo đuổi tận cùng/ Cáo hay bắt trứng gà kẻ khó”.

Những câu thơ gợi sự cảm thông chia sẻ, gợi những xót xa cho những nhọc

nhằn của cuộc sống người dân nơi đây. Đúng như nhà thơ Bùi Việt Phương

viết: “Người vợ nào ngồi cạo niêu, người khách nào vừa đi khỏi và bóng dáng

ông chồng đâu đó? Cái đói chưa xa nhưng cái no đâu đã gần tầm tay nên bức

tranh làng bản cứ loang lổ như thế. Ngổn ngang của ngày những vùng nông

thôn đổi mới, những mới - cũ đan xen đúng như cách gọi (giầu nửa chừng). Tất

cả tựa như vết dao cứa vào tâm hồn những nhà thơ của các vùng miền dân tộc.

Trách nhiệm cộng đồng, sứ mệnh cầm bút, ý thức tự cường… đang từng ngày

thúc giục họ phải lên tiếng” [26].

Tuy vậy, người “trên núi” không vì thế mà đầu hàng, lùi bước. Họ là những

con người bản lĩnh, lạc quan. Cùng với sự đổi thay của đất nước, họ đã biết vươn

lên đi từ đói nghèo tăm tối đến hạnh phúc ấm no có Đảng và cách mạng:

“Những con mắt nhìn xa rộng, những bàn tay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Vun cho cây xanh màu ấm áp

36

Đấy là giọt mồ hôi ông cha bồi đắp

Đấy là nắng hồng và năm cánh sao”

(Dưới bóng xanh của mường)

Cho đến nay, mặc dù còn khó khăn, nhưng cuộc sống của người dân

miền núi đã đổi thay, đã ấm no, hạnh phúc hơn nhiều:

“Nhà lên tầng mặc áo tổ ong

Giữa phố huyện xòe bông hoa mật

Cột cờ đỏ - đóm ai vừa thắp

Màu đỏ cờ từ đất đỏ lên”

(Lên Thung Khe)

Bức tranh quê hương trong bài thơ bừng lên sức sống của một ngày mới tự

do, no ấm.

Khái quát hình ảnh đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng

cuộc sống mới, Lò Cao Nhum nhận thấy trong nhịp điệu cuộc sống hôm nay có

những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc:

“Xe ngựa

Vút ra từ thành cổ

Cầu Đông Kinh ưỡn ngực

Kỳ Lừa giăng nhịp ca dao”

(Chấm phá Lạng Sơn)

Sự trưởng thành, hay những thành quả đạt được của đất nước hôm nay là

một phần do ta được hưởng thành quả của cha ông để lại. Trong hình ảnh của

một thị xã mới “rạo rực”, “bừng nở”, “nồng nàn” đã có giá trị truyền thống

của dân tộc đó là những giá trị vật chất được gợi lên từ hình ảnh trang nghiêm

của “thành cổ”. Giá trị tinh thần không thể thiếu ấy được gìn giữ trong những

câu “ca dao” truyền lại từ bao đời.

Cùng với các nhà thơ dân tộc thiểu số khác, Lò Cao Nhum đã thêm những

nét vẽ về quê hương, dù không có nhiều điều mới lạ, song nó cũng góp phần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

làm cho bức tranh quê hương trong thơ dân tộc thiểu số thêm phong phú. Lò

37

Cao Nhum không có ý định vẽ một bức tranh toàn cảnh rực rỡ nhiều màu sắc

với tất cả các vùng quê khác nhau. Ông chỉ điểm một vài nét nổi bật về những

nơi ông đã đi qua. Còn lại, ông chú tâm ngợi ca vẻ đẹp của Hòa Bình, Tây Bắc

với tình yêu tha thiết thiên nhiên, con người và cuộc sống nơi đây.

Đến với thơ Lò Cao Nhum người đọc được khám phá cảm xúc, tâm lý

của một nhà thơ người dân tộc thiểu số không chỉ “ăn đời ở kiếp” với núi rừng

Tây Bắc mà còn đến với nhiều vùng đất mới lạ. Khi thì ngỡ ngàng trước những

khung cảnh nước trời mênh mang của biển cả, khi lại gần gũi thân quen với núi

rừng Đông Bắc, khi suy tư chiêm nghiệm như luyến tiếc hay xót xa một giá trị

văn hóa cổ kính qua những lớp trầm tích đang chịu sự thách thức của thời

gian... Dù đi đến miền đất nào thì hồn thơ Lò Cao Nhum vẫn tha thiết tình yêu

quê hương đất nước, tự hào về những cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ,

những địa danh lịch sử, văn hóa của dân tộc; trân trọng những con người cần cù

chịu khó, nỗ lực vượt lên trên hoàn cảnh để thay đổi cuộc sống từ đói nghèo

tăm tối đi đến hạnh phúc ấm no.

2.1.4. Ngợi ca, tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc Thái và đồng bào

miền núi Tây Bắc

2.1.4.1. Ngợi ca tự hào về phong tục tập quán của đồng bào miền núi Tây Bắc

Lò Cao Nhum rất yêu dân tộc mình, đặc biệt là tâm hồn dân tộc Thái

được truyền lại từ ngàn đời. Qua bao thế hệ, con người Thái đã chắt lọc tinh

hoa, bản sắc văn hóa truyền thống. Đến nay, họ vẫn giữ được những sinh hoạt

văn hóa giá trị mà ông cha họ truyền lại. Đó là những hội hè, những trò chơi

dân gian, hay những điệu múa uyển chuyển:

“Tháng giêng reo về náo nức

Mùa hội hè trống chiêng

Như lòng anh bung biêng

Ôm lời chim về núi”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Lời tháng giêng)

38

Lò Cao Nhum trân trọng những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian qua

trò chơi như tung còn: “Cột tre mùa xuân/ Vòng mặt trời mùa xuân/ Dải còn

chấp chới./ Còn anh thêu tua hoa/ Kết chỉ thắm/ Bay đi xem ý mùa xuân/ Ngỏ

lời mùa nắng./ Còn rơi sang tháng tám/ Xin buộc chỉ lành/ Đậu vào tháng

giêng/ Vòng bạc anh trao gửi” (Tung còn).

Trong cuộc sống, không có gì có thể gắn kết tình cảm của con người

mạnh mẽ và bền vững bằng lao động sản xuất. Bởi vì, trong lao động sản xuất,

con người sẽ hiểu nhau hơn, dễ thông cảm, đồng cảm, sẻ chia khó khăn gian

khổ, cùng nhau vượt qua nhiều thử thách của cuộc sống. Lò Cao Nhum dành

những trang thơ của mình ngợi ca tình hữu nghị hòa bình giữa Việt Nam với

các nước anh em. Nhà thơ đã ca ngợi tình hữu nghị hòa bình giữa hai dân tộc

Việt Nam - Căm Pu Chia qua những hình ảnh gắn bó trong lao động sản xuất:

“Chàng trai Căm Pu Chia ruộng bên buông cày

Cô gái Nam bộ bên này ngơi tay gieo sạ

Dưới vòm râm thốt nốt

Rôm rả mùa màng”

(Cây thốt nốt giữa bờ biên giới)

Năm 1972, trên đường đi công tác, Hoàng thân Xu-Pha-Nu-Vông, đã

nghỉ đêm tại bản Lác (Mai Châu - Hòa Bình). Nơi đây, văn hóa, tâm hồn con

người dân tộc Thái được gìn giữ bao đời đã tỏa sáng, hòa quyện, sánh vai với

nước Lào anh em. Bài thơ Đêm xòe múa lăm vông đã ca ngợi tình hữu nghị

hòa bình giữa hai nước Việt Nam - Lào qua giao lưu văn hóa:

“Tôi múa lăm vông, anh cũng giỏi múa xòe

Chân nhún nhảy tay mềm uốn lượn.

Hai dân tộc sánh vai cùng vạn dặm

Nhún nhảy nhịp đời tay lại cầm tay”

(Đêm xòe và múa lăm vông)

Lò Cao Nhum có cách riêng để ngợi ca văn hóa dân tộc mình. Nhà thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

không liệt kê toàn bộ những hoạt động văn hóa diễn ra, cũng không kể về nó

39

như một sự kiện ấn tượng nổi bật. Nhà thơ gợi tả sự nhịp nhàng hòa quyện của

hai điệu múa tượng trưng cho văn hóa của hai dân tộc Việt - Lào: điệu múa xòe

của dân tộc Thái (Việt Nam) và điệu múa lăm vông nổi tiếng của dân tộc Lào

anh em. Trong men say tình cảm, trong nhịp nhún nhảy của đêm vũ hội, “anh”

và “tôi” không hề bỡ ngỡ, vụng về mà dường như sự hòa kết giữa hai điệu múa

đã có tự bao giờ “Hai dân tộc sánh vai cùng vạn dặm”. Không chỉ thế, bài thơ

còn như một lời khẳng định về tình hữu nghị hòa bình giữa hai nước sẽ mãi

được gắn kết nghìn năm: “Mai anh về tôi giữ điệu lăm vông/ Gieo trong tim

mọc cây rừng cây núi/ Rừng Pú Luông chắn bão dồn vững chai/ Giữ hiền hòa

những điệu múa nghìn năm”. Cách viết của Lò Cao Nhum là thế, không khiên

cưỡng, không vụng về, rất tự nhiên và tràn đầy cảm xúc.

Ngợi ca tự hào phong tục tập quán tốt đẹp, Lò Cao Nhum tập trung ngợi

ca những mỹ tục của dân tộc Thái về ẩm thực, kiến trúc, lễ hội.

Lò Cao Nhum dịch dân ca Thái Dân ca Thái Mai Châu (1991), Lời hát

trong lễ hội Chá Chiêng (2001). Cảm hứng sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch là

điều kiện tốt giúp ông am hiểu hơn về vốn văn hóa dân gian dân tộc Thái, hỗ

trợ cho cảm hứng thơ thêm nảy nở, phát triển.

Bài thơ Rượu núi, Lò Cao Nhum đã diễn tả chất núi rừng quê hương một

cách xuất sắc. Câu chữ giản dị, sự dồn nén cảm xúc trong từng câu chữ khiến

cho bài thơ đầy ám ảnh:

"Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến.

Ngửa bàn tay cũng da

Úp bàn tay cũng thịt”.

Quê hương ông là nơi chiếc “chiếu đan bằng tia mặt trời”, con người

chắt chiu bát rượu trăng rằm với ngọt - chua - cay - đắng:

“Ủ từ lá sắc rừng gai

Chắt từ củ mài hốc đá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài”

40

Người Hòa Bình thường có câu nói truyền miệng “Nhất Bi, nhì Vang, tam

Thàng, tứ Động”. Đó là sự sắp xếp có dụng ý về vị trí quan trọng của đơn vị

hành chính “mường” từ thủa xa xưa. Hàng năm, các “mường” này thường tổ

chức lễ hội sinh hoạt văn hóa cộng đồng để bảo tồn văn hóa của dân tộc mình.

Tác giả khắc họa một lễ hội Khuộng mùa của Mường Vang Hòa Bình. “Lễ

Khuộng mùa thầm thĩ đất mường Vang” gợi văn hóa lễ hội truyền thống của

mường Vang:

“Lễ Khuộng mùa

Sinh ra lời đẹp tiếng lành

Sinh ra văn hóa

Trường tồn dân gian”

(Đêm mường Bui)

Ngợi ca, tự hào những truyền thống của văn hóa Thái cũng là một cảm

hứng tiêu biểu trong thơ Lò Cao Nhum.

Chiếc vòng xòe là biểu tượng tự hào của người Thái, nó như là một vật

thiêng gắn bó với đời sống vật chất và tinh thần người Thái, nó là vật thiêng

xuất hiện từ lâu đời cùng tổ tiên người Thái. Chiếc vòng xòe gắn liền với hình

ảnh bếp lửa, tự hào về chiếc vòng xòe cũng là tự hào về hơi ấm của bếp lửa:

“Vòng xòe

Ngọn lửa xanh

Ngọn lửa vàng

Ngọn lửa thủa hồng hoang

Bập bùng hoa cà hoa cải

Ngôi nhà đốm lửa

Âm ỉ cùng gió hú

Đượm nồng sải dọc vạn năm

Bền bỉ dưỡng nuôi sự sống loài người”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Vòng xòe)

41

Chiếc vòng xòe ấy tự tay người Thái làm nên, nó gắn bó với cuộc sống

của họ từ xa xưa. Bài thơ Vòng xòe như một câu chuyện kể về sự xuất hiện của

chiếc vòng xòe, qua câu chuyện ấy người đọc hiểu và chiêm nghiệm sâu sắc về

sức mạnh đoàn kết cộng đồng:

“Anh vào ruột núi

Tìm đá khơi than

Nung vàng tôi bạc

Uốn nhẫn luyện vòng

Vòng bạc trao duyên

Vòng bạc như vòng xòe

Kết đoàn vòng tay vòng mắt

Kết đoàn cộng đồng mường bản

Bền dai như ngọn lửa mặt trời”

(Vòng xòe)

Bài thơ nói về một sự tích sinh động về sự đẻ đất đẻ mường và cố kết

cộng đồng linh thiêng, bền chặt. Múa xòe - phong tục đẹp của người Thái được

Lò Cao Nhum truyền tải trong đó những thông điệp về tình yêu thương, đoàn

kết của cộng đồng, làng bản.

Ẩm thực của người Thái có nhiều món được xếp vào hàng ẩm thực độc

đáo, như thịt gà nấu măng chua, cá hấp lá vả, xôi đủ các màu… Trong các món

ăn của người Thái, các món ăn được chế biến từ cá được cho là món ăn quan

trọng nhất (có lẽ do người Thái thường sống ven sông, suối). Trong đó, rượu là

thứ men say không thể thiếu trong ẩm thực hàng ngày và trong các lễ hội của

người Thái. Rượu có một vai trò rất đặc biệt trong các bữa ăn, hơn nữa nó cũng

có vai trò đặc biệt trong giao tiếp bản, mường, gia đình, bè bạn. Thường khách

đến chơi nhà, thay bằng việc mang nước chè ra mời, chủ nhà tỏ lòng mến

khách bằng những chén rượu thơm được cất lên từ men lá của rừng hay được

ngâm từ những cây thuốc quý. Đất Mai Châu, Hòa Bình có một loại rượu nổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tiếng đó là rượu Mai Hạ. Nếu ai đã từng được nếm qua thì chắc chắn không

42

thể nào quên vị của nó. Và nếu đã từng được uống rượu Mai Hạ tại Mai Châu

thì đó chắc chắn là một kỷ niệm đáng nhớ trong đời. Sở dĩ nó có hương vị đặc

biệt như thế là vì nó được ủ từ một loại men lá trên rừng, nguyên liệu từ ngũ

cốc trồng trên nương và được chưng cất từ bàn tay tần tảo của những người

phụ nữ Thái. Khi bạn đến chơi nhà, thường người ta mời bạn lên nhà, mời rượu

ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Nhưng trong bài thơ Rượu núi, chủ nhà lại

chọn một nơi rất độc đáo để tiếp bạn:

“Bạn đến

Mời ngồi xếp bằng tròn trên núi

Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời”

(Rượu núi)

Cách chọn một không gian uống rượu thật lãng mạn - một không gian vũ

trụ. Và sau khi đã giới thiệu cái men say của rượu núi, tác giả buông một câu

mời thật hào phóng: “Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà

say”. Đã là khách đến nhà uống rượu thì với lòng hiếu khách của chủ nhà,

người được mời thường sẽ không thể từ chối.

Với Rượu núi, Lò Cao Nhum nâng tầm tình bạn và thổi vào văn hóa

uống rượu vùng cao cả thi vị của trời đất. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu cũng đã

viết về “Rượu núi”: “Lò Cao Nhum giới thiệu về rượu núi bằng chi tiết và hình

ảnh rất thật: Ủ từ lá sắc rừng gai/ Chắt từ vủ mài hốc đá/ Vợ tôi nấu thơm từ lửa

đỏ đêm dài,… tuy nhiên tác giả không dừng lại ở chi tiết, hình ảnh, anh có

những câu nói cái “cay”, cái “đắng” của rượu thật đột biến” [dẫn theo 24].

Ngoài ca ngợi lễ hội, ẩm thực của dân tộc mình, trong những bài thơ của

mình Lò Cao Nhum, người đọc còn thấy xuất hiện hình ảnh nhà sàn, kiến trúc

nhà ở truyền thống của người Thái. Nhà nghiên cứu Trần Thị Việt Trung viết:

“Trong thơ Thái thời kỳ hiện đại, hình ảnh nhà sàn xuất hiện rất nhiều. Vì

nhà sàn có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống sinh hoạt của người

Thái, đó là ngôi nhà thân yêu của bao gia đình, gia tộc; là nơi con trai đan

lát, thổi khèn, con gái quay xa, dệt vải, thêu thùa…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chân bước lên thang…

43

Trải thảm mời trầu…

Mời rượu đánh cồng…

Tiếng khèn, tiếng sáo

Lời hát cất lên…

Mẫu váy, mẫu thêu

Sắc màu, họa tiết…

(Xa quê - La Quán Miên)

Không những thế, nhà sàn còn là biểu tượng văn hóa, tâm linh của người

Thái… Nhà sàn của người Thái là một công trình kiến trúc đẹp, hòa đồng với

thiên nhiên, đất trời cùng vạn vật…” (Thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện đại).

Không phải chỉ có dân tộc Thái mới ở nhà sàn, tuy nhiên hình tượng nhà

sàn hiện lên trong thơ Lò Cao nhum có gì đó rất gần gũi, thân thương. Lò Cao

Nhum không có dụng ý đặc tả nhà sàn để giới thiệu về kiến trúc nhà ở của dân

tộc mình, mà hình ảnh nhà sàn đi vào thơ ông như một dấu ấn từ cảm xúc về

quê hương nhà sàn khi thì đầy ắp tiếng reo vui nhộn:

“Nóc nhà sàn

Vỡ òa

Tiếng cầu thang rộn rã”

(Tiếng hát trên cao)

Nhà sàn gắn bó với kỷ niệm tình yêu đôi lứa. Có lúc âm thanh của“sàn

bương” làm cho chàng trai thẹn thùng khi đến tìm người yêu:

“Đáng ghét cái sàn bương

Bước nhẹ nhàng “cót két”

Nhón khẽ sàn càng run”

(Sàn trăng)

Nhà sàn là nơi trở về của con người sau bao sóng gió, trải nghiệm của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cuộc đời (Trở lại nhà sàn)

44

Ngoài những trang thơ ca ngợi những nét đẹp văn hóa Thái, Lò Cao

Nhum cũng đã dành một phần nhỏ trang thơ của mình để châm biếm những hủ

tục vẫn còn đâu đó trong cộng đồng người Thái. Trong văn hóa của người Thái,

vai trò của lễ hội rất quan trọng. Đó là những sinh hoạt văn hóa tinh thần của

cộng đồng nhằm gắn kết dân tộc. Và trong những lễ hội ấy, yếu tố tâm linh

luôn đóng một vai trò rất quan trọng. Tập tục cúng lễ là những nghi thức quan

trọng trong đời sống người Thái. Trong những nghi thức cúng lễ ấy, nhân vật

trung tâm là người thầy cúng mà người Thái gọi là thầy Mùn. Trong thơ của

mình, Lò Cao Nhum đã phản ánh điều này một cách khéo léo như một sự châm

biếm nhẹ nhàng về hủ tục của người Thái nói chung. Lò Cao Nhum đã châm

biếm hủ tục qua hình ảnh “chiếc áo sặc sỡ của thầy Mùn” như một vật hoán dụ

biểu trưng cho quyền lực của thần linh. Đó là chiếc áo quý mà ông trời, đấng

tối cao ban tặng cho thầy Mùn:

“Chiếc áo sặc sỡ

Tua đỏ, diềm xanh

Nào lấp lánh viền bạc

Nào lấp ló ánh vàng...

...Chiếc áo sặc sỡ của ông Then

Tặng thầy Mùn

Làm người cứu nhân độ thế”

Thầy Mùn được ông trời trao cho sứ mạng cứu nhân độ thế nên thầy

Mùn dường như có quyền lực rất bí ẩn:

“Làm quả bưởi rợn gai

Quả muỗm rụng non

Cụp cả đuôi con bò

Con bò vừa chạy vừa ngoái nhìn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chiếc áo sặc sỡ”

45

Dù người đời có tin hay không tin vào pháp thuật của thầy Mùn, nhưng

nếu ai đã một lần được chứng kiến buổi cúng lễ của người Thái, thì đều không

thể quên chiếc áo sặc sỡ của thầy Mùn:

“Không biết thần linh

Chẳng hay ma quỷ

Đâu tường pháp thuật

Chỉ biết cõi trần này

Có chiếc áo thầy Mùn sặc sỡ”

(Chiếc áo sặc sỡ của thầy Mùn)

Yêu quý, tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc Thái, Lò Cao Nhum

ngợi ca tâm hồn dân tộc, những sinh hoạt văn hóa dân gian, những phong tục

tập quán tốt đẹp, ẩm thực, kiến trúc, lễ hội của dân tộc mình. Bên cạnh đó, nhà

thơ cũng dành một góc nhỏ trong thơ để phản ánh những hủ tục lạc hậu còn tồn

tại cho đến ngày nay.

2.1.4.2. Ngợi ca, tự hào về truyền thống văn học quý báu của dân tộc Thái

Trước tiên, nhà thơ Ngợi ca tự hào về tinh hoa văn học dân gian của

người Thái. Nhà thơ Lò Cao Nhum từng trăn trở: “Nhưng bắt đầu từ nửa sau

thế kỷ XX trở lại đây, văn hóa bản sắc truyền thống cũng đã ngày càng bị mai

một, xáo trộn. Trong khi tiếng nói còn giữ được khoảng 60% nguyên âm, thì

chữ viết đã hoàn toàn bị loại khỏi đời sống người Thái (chỉ nói riêng vùng

mường Mùn). Các sinh hoạt văn hóa xưa như lễ hội, hát kể mo, hát khắp (dân

ca trữ tình), các trò chơi dân gian v.v... gần như bị thay thế hoặc biến mất

hoàn toàn. Thế hệ sinh ra từ nửa sau thế kỷ XX đến nay hoàn toàn hòa nhập

vào những cuộc biến đổi sâu sắc đó. Tôi lớn lên hoàn toàn không biết chữ

Thái. Ngày nhỏ còn nghe đâu đó trong đám cưới một vài người ngẫu hứng hát

Khắp tua (hát đối đáp giao duyên), nhưng hầu như chưa đủ nhập vào tâm hồn

mình. Sau này sưu tầm lại những lời hát đó mới thấy nó hay và có giá trị tinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thần rất nhiều” (ghi trực tiếp).

46

Có lẽ vì thế, khi đọc thơ của Lò Cao Nhum, người đọc nhận thấy có chất

dân gian của người Thái. Chất dân gian ấy thể hiện sự ảnh hưởng của truyện

thơ, ca dao dân ca Thái.

Bài thơ Theo lời hát về nguồn được viết một cách giản dị, nhưng từng

câu, từng chữ đều thể hiện một bản lĩnh mạnh mẽ của con người khát khao

quay về nguồn cuội:

“Tôi đi

Cây lim mọc vào xương

Cây nghiến chui vào thớ

Sông bể cuộn trào sóng trong tim”

Theo lời hát về nguồn gồm có sáu bài thơ ngắn. Sáu bài thơ này như một

câu chuyện dài kể về cuộc đời của một người đàn ông ra đi từ thời còn trẻ, sau

mỗi lần trở về là một bài học kinh nghiệm khác nhau. Lò Cao Nhum đưa chất

tâm tình, cách diễn đạt và ngôn ngữ kể chuyện, biện pháp liệt kê của truyện thơ

dân gian vào trong sáng tác.

Bên cạnh cảm hứng ngợi ca tự hào về tinh hoa văn học dân gian của người

Thái, Lò Cao Nhum ngợi ca tự hào về nếp sống tình nghĩa, nhân ái, vị tha của

dân tộc Thái.

Lò Cao Nhum được bạn đọc yêu mến là từ sự chân thành, mộc mạc, những

tình cảm rung động rất đời thường, bình dị. Khi gặp trực tiếp nhà thơ ở ngoài

đời người ta sẽ cảm nhận ngay Lò Cao Nhum là người điềm tĩnh, hiền lành, ít

nói. Những tình cảm bạn đọc bắt gặp trong thơ ông cũng giống như con người

ngoài đời thực của ông vậy. Nhà thơ luôn tự hào về truyền thống tình nghĩa,

nhân ái, vị tha của đồng bào dân tộc Thái.

Lò Cao Nhum ngợi ca nếp sống cộng đồng trong sinh hoạt của người

Thái. Trong lao động sản xuất, những lúc mệt nhọc, người dân miền núi thường

ca hát hay kể chuyện vui để quên đi nỗi vất vả thường ngày:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“Đi gánh lúa giải lao trên bờ lúa

47

Ống điếu cày truyền tay rôm rả

Bông lúa vàng lơi lả

Không dứt khơi chuyện mùa màng”

(Trên bờ lúa)

Trong những câu chuyện “rôm rả” của họ, thường là chuyện về đồng

ruộng, mùa màng tốt tươi. Đó chính là lời ngợi ca về mảnh đất thân yêu họ

sống, ngợi ca về phẩm chất yêu đời, lạc quan của những con người quê núi.

Vì rất yêu văn hóa dân gian, Lò Cao Nhum trăn trở, khắc khoải về những

giá trị văn hóa của dân tộc mình bị mai một. Lò Cao Nhum tâm sự: “Bắt đầu từ

nửa sau thế kỷ XX trở lại đây, văn hóa bản sắc truyền thống cũng đã ngày càng

bị mai một, xáo trộn. Các sinh hoạt văn hóa xưa như lễ hội, hát kể mo, hát

khắp, các trò chơi dân gian,... gần như bị thay thế hoặc biến mất hoàn toàn”.

Trong bài Gặp khèn ông viết:

“Cây khèn tóc bạc liêu xiêu

Thả lời tha thiết dặt dìu trao ai?...

Bấy lâu ngủ đến im lìm

Khèn ơi sao nỡ lặn chìm gió bay”.

(Gặp khèn)

Ngợi ca, tự hào về vốn văn hóa, văn học quý báu của dân tộc Thái bao

nhiêu, Lò Cao Nhum có những khắc khoải về sự mai một của văn hóa dân gian

Thái bấy nhiêu. Nỗi lòng khắc khoải ấy cũng là xuất phát từ tấm lòng tha thiết

với nét đẹp văn hóa của dân tộc.

Đối với Lò Cao Nhum, ngoài việc làm thơ, ông còn thích sưu tầm, dịch

dân ca Thái, khảo cứu văn hóa Thái. Những công việc này đã đem đến cho ông

nhiều hiểu biết hơn về văn hóa dân tộc Thái, về phong tục tập quán, và đặc biệt

là nguồn gốc của người Thái, những vùng đất khác nhau mà người Thái sinh

sống. Trong những tài liệu mà ông đọc được, ông đặc biệt quan tâm tới những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ghi chép về những vùng đất di cư của người Thái, những giao thoa văn hóa mà

48

người Thái chịu ảnh hưởng. Đấy chính là những lí do vì sao trong thơ của ông

thường nhắc đến những chiến công lập đất, dựng mường, khai sinh miền đất.

Dù không có nhiều bài thơ trực tiếp ngợi ca, tự hào về những chiến công của

đồng bào Thái trong quá khứ nhưng bạn đọc đều có thể cảm nhận cảm hứng

này qua cách nói gán tiếp từ nhiều bài thơ khác nhau.

Cảm hứng ngợi ca, tự hào về quê hương đất nước đã đem lại những

thành công đáng kể trong thơ ca Lò Cao Nhum. Đọc thơ Lò Cao Nhum bạn đọc

như được hòa mình trong cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng của vùng núi

Tây Bắc, tận hưởng những giây phút tuyệt vời trong sinh hoạt văn hóa dân gian

truyền thống, đặc biệt là điệu múa xòe uyển chuyển, nhịp nhàng. Đọc thơ Lò

Cao Nhum, bạn đọc như được tiếp xúc, trải nghiệm cùng những con người

miền núi anh dũng, gan lì, thủy chung, tình nghĩa... Tất cả như cùng tạo thành

cảm hứng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Lò Cao Nhum.

2.2. Nhân vật trữ tình

2.2.1. Khái niệm nhân vật trữ tình

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Nhân vật trữ tình là con người “đồng

dạng” của tác giả - nhà thơ hiện ra từ văn bản của kết cấu trữ tình (một chùm

thơ) như một con người có đường nét hay một vai sống động có số phận cá

nhân xác định hay có thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi có cả nét vẽ chân dung

mặc dù không bao giờ đạt tới đặc điểm của một nhân vật như trong tác phẩm

tự sự hay kịch” [8].

Nhân vật trữ tình không chỉ là đối tượng để nhà thơ miêu tả mà còn là đối

tượng thể hiện những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về lẽ sống

và con người được thể hiện trong tác phẩm. Phần lớn nhân vật trữ tình xuất

hiện với tư cách là những tình cảm, tâm trạng, suy tư... của chính bản thân nhà

thơ. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân

của tác giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

có thể tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo

49

qui luật điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể coi đây là những nhân

vật trữ tình nhập vai.

Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum là hiện thân của chính tác giả.

Tuy nhiên, ở một số bài thơ, nhà thơ đã tưởng tượng, hóa thân, nhập vai vào

đối tượng để bộc lộ cảm xúc của mình. Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao

Nhum có cách xưng hô phong phú, linh hoạt. Có khi xưng “tôi” (Ông nội tôi

khai sinh miền đất, Chiều hồ Sòng Sĩ, Một chiều chưa gặp Bến Tre...), có khi

xưng “ta” (Lên Thung Khe). Cũng có khi tác giả không dùng đại từ nhân xưng

mà chọn cách xưng danh riêng như trong bài Núi: “Núi sánh vai trùng trùng,

điệp điệp, giăng trường thành biên giới non sông. Người miền núi ta mang vóc

núi. Khi hoạn nạn biển trời thét gọi, trái núi dạng chân bám đất lành”. Trong

bài thơ, tác giả không dùng các đại từ tôi, ta, anh... mà tự xưng: “Người miền

núi ta mang vóc núi”. Cách viết này tạo được độ rộng (người miền núi nói

chung) và chiều sâu (nhận thức sâu sắc về nguồn gốc, con người của mình) của

nhân vật trữ tình. Cũng với cách thể hiện nhân vật trữ tình như thế, trong bài

thơ Ở rẻo cao Pù Bin nhà thơ viết: “Người Pù Bin lầm lỳ như núi/ Cao xanh

trên sương gió, nắng mưa/ Người rẻo cao tình bền củi lửa/ Râm ran cháy nỏ

suốt bốn mùa”. Nhân vật trữ tình trong bài thơ tự xưng là “người Pù Bin”,

“Người rẻo cao”. Hay trong bài Tiếng hát trên cao, nhân vật trữ tình là

“Người núi cao”: “Lên núi cao chỉ có gói cơm/ Người núi cao không đeo thanh

gươm”.. Dù nhân vật trữ tình là hiện thân của tác giả hay tác giả nhập vai thì

đều mang tâm sự, là ý thức của nhà thơ về cuội nguồn, gốc rễ của mình. Nhân

vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum có hai đặc điểm nổi bật, vừa đối lập, vừa

hòa nhập: mạnh mẽ phóng khoáng và hoài niệm, suy tư.

2.2.2. Nhân vật trữ tình mạnh mẽ, phóng khoáng

Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum mạnh mẽ, phóng

khoáng trước thiên nhiên dữ dội, trong những thử thách khắc nghiệt của chiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tranh và cuộc sống, trong quan hệ với bạn bè, anh em bốn phương...Tính chất

50

mạnh mẽ, phóng khoáng thể hiện ở tính tình rộng rãi, không chịu gò bó theo

khuôn khổ nào, không bị trói buộc bởi những điều vụn vặt, tầm thường.

Phẩm chất mạnh mẽ, phóng khoáng của nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao

Nhum trước hết thể hiện ở sự chủ động của con người trước thiên nhiên dữ dội:

“Cười vọng núi

Múa nghiêng rừng

Yêu cháy lá ngón

Nhớ mòn vẹt lưỡi khèn

Người Phan Xi Păng

Dạng chân trên chóp núi”

(Phác họa Phan Xi Păng)

Trước thiên nhiên dữ dội “Mưa lở núi/ Nắng nẻ nương” con người không

chịu khuất phục. Hơn nữa, lại “bước sải dài”, tự tin, chủ động, đến mức “lầm lũi

ngang ngạnh”. Điều đáng quý ở đây là dù thiên nhiên không chiều theo lòng

người, khắc nghiệt như thế nhưng nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn thể hiện

được sự hào sảng, phóng khoáng của mình: “Cười vọng núi/ Múa nghiêng

rừng/ Yêu cháy lá ngón/ Nhớ mòn vẹt lưỡi khèn”. Nhà thơ đã gợi tả rất xuất sắc

về đặc trưng phẩm chất con người miền núi: rộng rãi, phóng khoáng và không

chịu gò bó, ép buộc dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Cũng chất mạnh mẽ, phóng khoáng, Pờ Sảo Mìn trong Người con trai

Pa Dí viết:

Con trai người Pa Dí

Mắt một mí, tóc đen, mũi tẹt, da vàng

Dáng ngang tàng vẻ quẫy đạp trần gian”

(Người con trai Pa Dí)

Viết về người con trai dân tộc mình, Pờ Sảo Mìn khắc họa chất miền núi

ở vẻ “ngang tàng”, “quẫy đạp trần gian” nhưng lại rất hiền lành, giàu tình

cảm, sự rộng rãi trong quan hệ bạn bè bốn phương. Còn Lò Cao Nhum trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Bức vẽ trai bản lại nhấn mạnh tính chất mạnh mẽ, phóng khoáng toát ra từ

51

tư thế hiên ngang, chủ động vượt qua mọi thử thách từ thiên nhiên và khó

khăn trong cuộc sống:

“Tóc quen bay ngược

Gió thốc lướt qua

Bắp dao nghiêng sườn

Chĩa về phía trước.

Chống trụ hai chân

Đạp lên vai núi

Núi muốn nhô lên

Chân như ấn xuống”

(Bức vẽ trai bản)

Con người coi cái dữ dội của thiên nhiên chỉ “nhẹ tựa lông hồng”. “gió

thốc” mà chỉ “lướt qua”, điều đó “quen” rồi, chỉ làm cho tóc “bay ngược”,

còn con người thì vẫn “Bắp dao nghiêng sườn/ Chĩa về phía trước”. Con người

trong tư thế chiến thắng thiên nhiên, bắt thiên nhiên phải khuất phục, cúi đầu.

Trong quan hệ với bạn bè anh em bốn phương, người miền núi trong thơ

Pờ Sảo Mìn có chiều hướng ngoại: “Đến chín phương đất là chín phương bè

bạn/ Tới mười phương trời là mười phương thương nhớ”. Còn nhân vật trữ tình

trong thơ Lò Cao Nhum có chiều hướng nội. Khi khách đến nhà, gia chủ luôn

luôn là người hiếu khách, không bao giờ tính toán thiệt hơn: Nếu ai đã đến chơi

với gia đình người dân tộc Thái thì ắt hẳn sẽ cảm nhận được rất rõ, người dân

miền núi nói chung, người Thái nói riêng, họ rất thật thà, thường không so đo

tính toán thiệt hơn. Khách dù lạ hay quen, cũng đều được đối đãi thật lòng:

“Bạn đến

Mời ngồi xếp bằng tròn trên núi

Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Rượu nhà tôi

52

Rượu buộc chỉ cổ tay

Thắp lửa tình chiêng, tình trống”

(Rượu núi)

Chất mạnh mẽ, phóng khoáng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Rượu

núi được thể hiện trước tiên ở không gian uống rượu: “Mời ngồi xếp bằng tròn

trên núi/ Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời”. Tác giả chọn không gian trên cao,

gần gũi với thiên nhiên, được sưởi ấm bằng tia mặt trời. Cách mở đầu bài thơ

như thế đã gợi ấn tượng tốt đẹp về một “gia chủ” hào phóng, tính tình rộng rãi:

“Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà say”. Với những câu

thơ này, Lò Cao Nhum đã nâng vị trí của nhân vật trữ tình lên một tầm vóc

mới, tầm vóc của vũ trụ.

Ở bài thơ Ở dẻo cao Pù Bin, nhân vật trữ tình đã có cách ứng biến với

khó khăn rất linh hoạt. Trước “sấm rền bất chợt” không thể có một giấc ngủ

trưa an lành, con người không thể hiện thái độ hoảng sợ hay bực bội. Trước

điều kiện khắc nghiệt của khí hậu: “có gió lành, gió độc/ Đan xen châm da

thịt người…/ Đêm gió hú buốt vào cơn sốt” vậy mà người Pù Bin lại chỉ cần

“chờ nắng hửng lên thôi”.

Bài thơ Theo lời hát về nguồn, là một câu chuyện kể gồm sáu khúc về

hành trình “tôi” đi tìm “tôi”. Nhân vật trữ tình là một chàng trai của núi, có một

hành trình dài đi tìm “tôi” - “bản lai diện mục” của mình. Chất mạnh mẽ, phóng

khoáng thể hiện ở vẻ đẹp con người của núi: “Tôi đi/ Cây lim mọc vào xương/

Cây nghiến chui vào thớ/ Sông bể cuộn trào sóng trong tim”; trong lao động

sản xuất niềm vui vượt lên trên khó khăn vất vả: “Trườn lên ngọn sóng trùng

dương… Dân vạn chài ngậm nắng trong nụ cười/ Trộn gió vào giọng hát/ Hơi

thở có bão táp/ Ánh mắt có biển sâu”; chọn một cách sống tốt, chân thực và có

ý nghĩa: “Chớ vung lời cật nứa/ Cật nứa sắc rạch lá chuối rụng rơi/ Chớ nung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

dùi đỏ/ Chọc xiên tai ấm trà”; tự tin trước cách ứng xử khôn ngoan với người

53

đời: “Được lòng gấu sẽ không mất lòng hổ/ Được lòng nỏ sẽ không mất lòng

sóc/ Phải lòng nước tự vui lòng cá/ Phải lòng nà khắc đẹp lòng lúa”.

Như vậy, rõ ràng chất mạnh mẽ, phóng khoáng của nhân vật trữ tình

trong thơ Lò Cao Nhum được thể hiện trong tư thế hiên ngang, chủ động của

con người trước thiên nhiên dữ dội; trong quan hệ bạn bè anh em bốn phương

luôn tận tình, không tính toán so đo; trong giao tiếp với cộng đồng luôn chân

tình, cởi mở; đối với bản thân mình, luôn tự tin với sức mạnh thể chất, sức

mạnh tinh thần và biết gìn giữ phẩm chất quý giá vốn được thừa hưởng từ dân

tộc, quê hương mình.

2.2.3. Nhân vật trữ tình suy tư, hoài niệm

Ngoài chất mạnh mẽ, phóng khoáng, nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao

Nhum còn thường suy tư, hoài niệm.

Chất suy tư làm nên tính hiện đại trong thơ Lò Cao Nhum. Thơ Lò Cao

Nhum không phải chỉ để giãi bày, không phải chỉ để cảm, mà còn để suy nghĩ,

chiêm nghiệm. Lò Cao Nhum là một trong những nhà thơ dân tộc thiểu số có

nhiều câu thơ mang tính khái quát triết lí. Các câu thơ của ông không chỉ làm

người đọc thỏa mãn nhu cầu về cảm xúc mà còn đáp ứng nhu cầu về trí tuệ.

Đúng theo quan niệm của của Chế Lan Viên, làm thơ phải có ý cho người ta

nghĩ, có hình cho người ta thấy, có tình cho người ta xúc động.

Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum suy tư về những quan hệ phức

tạp của đời tư trước những thử thách, khổ đau, vấp ngã, những chiêm nghiệm

trước mất mát, khó khăn trong tình yêu, gia đình, họ tộc; Cũng có khi là những

suy tư chiêm nghiệm về thiên chức của nhà thơ với tư cách người nghệ sĩ.

Với những thử thách trước khổ đau, vấp ngã của bi kịch đời tư, nhà thơ viết:

“Từng lên mây lạc gió

Từng cưỡi sóng nhầm luồng

Trước ngó, sau trông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Đến ngã ba còn dùng dằng tơ nhện.

54

Nhưng, ngã ba

Có con đường ngắn nhất

Con đường sáng suốt

Mở lối cho bàn chân chai lỳ”

(Trước ngã ba)

Bài thơ như một sự chiêm nghiệm, một khoảnh khắc suy tư về những ngã

rẽ trong cuộc đời. Cũng có khi con đường đi là đúng, cũng có lúc con đường đi

“nhầm luồng”. Những khi ấy, con người ta thường hay do dự “dùng dằng tơ

nhện”. Nhưng rồi con người ta cũng sẽ tự tin mà bước tiếp vì đó là “con đường

sáng suốt/ Mở lối cho bàn chân chai lỳ”.

Đôi khi, trái tim nhà thơ vô cùng nhạy cảm, tới mức chỉ cầm hòn sỏi trên

tay mà cũng có thể suy tư ngay về một kiếp người “long đong”, một số phận

“nghèo hèn”:

“Biết là sâu thẳm mênh mông

Tầm nhìn của núi, tầm trông của trời

Tầm lao thuyền của biển khơi

Cũng từ sỏi đá này thôi kết thành”

(Sỏi đá)

Từ một dáng núi, ngọn cỏ, nhà thơ suy tư về con người:

“Soi núi

Xem rễ triệu năm luồn mấy tầng hóa thạch

Trước sừng sững chon von dáng vươn

Ôi mình

Ngọn cỏ”

(Soi gương núi)

Đứng trước núi, trước sự trường tồn của núi “triệu năm”, “hóa thạch”,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

con người chỉ là “ngọn cỏ” nhỏ bé, hữu hạn. So sánh cuộc đời con người với

55

núi không phải để thấy con người nhỏ bé đi, mà để thấy ý thức của nhà thơ về

cái hữu hạn của đời người từ đó sống tốt hơn, có trách nhiệm hơn.

Là một người cha yêu thương con hết mực, trong những lời khuyên dạy,

Lò Cao Nhum không quên dặn con điều hay lẽ thiệt mà ông đã chiêm nghiệm

từ cuộc đời:

“Rồi ngày mai con xuống núi...

Bước đầu tiên

Con vấp gót chân mình...

Gặp phố phường ngã bảy, ngã mười

Gặp lòng người đỏ, vàng, đen, trắng

Mỗi lần vấp, một bước đi

Sẽ sực nhớ người thầy trên núi”

(Rồi ngày mai con đi)

Qua lời dạy con, Lò Cao Nhum đã bộc lộ suy tư của mình trước cuộc đời.

Cuộc đời muôn ngã rẽ, có những ngã rẽ thật khó khăn. Con người cũng muôn

hình muôn vẻ, nhận diện chính xác được con người cũng thật khó. Vấp ngã trên

đường đời là điều không thể tránh, những lúc như thế, “con” hãy lắng nghe tim

mình, hãy tìm đến “người thầy trên núi”, “con” sẽ vượt qua tất cả. Lời dặn con

của nhân vật trữ tình còn bộc lộ niềm tin đối với “người thầy trên núi” - cũng

là nhân vật trữ tình của bài thơ.

Lò Cao Nhum đi nhiều nơi, đi đến chân trời góc bể. Đi đến những cao

nguyên ngút ngàn đá và gió của Hà Giang, đến Kon Tum, Đắc Lắc, Mũi Cà

Mau... Mỗi nơi đến là một trải nghiệm khác nhau. Những trải nghiệm ấy đã

mang đến cho nhà thơ nhiều trăn trở, suy tư về cuộc sống đời thường. Theo lời

hát về nguồn như một câu chuyện kể về những chuyến đi của chàng trai phố

núi tới những miền đất lạ. Đọc bài thơ người đọc như thấy rõ những suy tư

chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời sau những lần trải nghiệm trong thực tế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cuộc sống. Chàng trai ra đi đem theo văn hóa xứ xở mình qua những lời dạy

56

của “Núi”. Khi trở về, những bài học buồn vui, về lẽ sống ở đời là tất cả những

gì anh có được.

Lần đi thứ nhất, chàng trai mang theo tuổi thanh xuân và tất cả sức mạnh

của một chàng trai mang tầm vóc của núi rừng:

“Tôi đi

Cây lim mọc vào xương

Cây nghiến chui vào thớ

Sông bể cuộn trào sóng trong tim”

Chàng trai đem theo một lời dặn của núi:

“Nếu vợ anh bé nhỏ

Hãy cúi xuống với nàng”

Đó là lời dặn về tình nghĩa thủy chung, cách ứng xử trong tình cảm gia

đình. Hãy trân trọng người bạn đời của mình dù nàng “bé nhỏ” thế nào. Thế

nhưng qua bao trải nghiệm, thỏa chí bốn phương:

“Mới mẻ trời xanh

Tung tăng nơi vì sao trong nhất

Ngụp lặn thiên hà”

Khi quay trở về, chàng trai bẽ bàng nhận ra:

“Tôi bì bạch trở về

Con vịt đất”

Cứ như vậy, mỗi lần chàng trai ra đi là một sự trưởng thành dần lên, những

trải nghiệm cũng lớn dần. Mỗi lần đi, chàng trai đều mang theo lời dặn của núi:

“Núi nghiêng vào tận cửa... Dặn rằng: Người có mường, sơn dương có hang”,

“Hổ vằn ngoài da/ Người vằn trong bụng”, “Miền xuôi, miền ngược/ Chân

thang sát, góc nhà kề”... Đó là những lời dặn dò về tình cảm cội nguồn (Bài II),

về lẽ nhân thế, biết lường trước những khó khăn trên dòng đời (Bài III), dặn dò

“cái nghĩa sinh tồn” của con người chính là “Chân thang sát, góc nhà kề”, là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tình cảm quê hương (Bài IV), dặn dò về cách ứng xử của con người trong cuộc

57

sống (Bài V) và dặn dò về giữ gìn cách sống của con người miền núi, sống

chân thật, tình nghĩa (BàiVI):

“Nghiện thuốc mặt trời hay

Ngoại tình mặt trời biết

Không gói được lửa khói

Hiển nhiên như quy luật muôn đời”

Tuy vậy, không phải lúc nào lời dạy cũng đúng. Có lần chàng ra đi với lời

dặn: “Được lòng gấu thì mất lòng hổ/ Được lòng nỏ thì mất lòng sóc” nhưng

qua bao trải nghiệm, chàng trai đem bài ca của biển khơi trở về nguồn cuội của

mình với một tâm thế thuần hậu, nhân hòa: “Được lòng gấu sẽ không mất lòng

hổ/ Được lòng nỏ sẽ không mất lòng sóc”. Qua nhiều trải nghiệm, chàng trai

hiểu được rằng, có những điều như một lẽ phải hiển nhiên, nhưng lại có những

điều đúng với nơi này lại không đúng với nơi khác. Chỉ khi trải qua những trải

nghiệm thực sự, con người mới tìm được lẽ phải.

Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum còn suy tư trước những mất mát,

khó khăn trong tình yêu, gia đình, họ tộc.

Tình yêu đầu không đến được với nhau nhưng cũng không dễ gì mất đi

trong trái tim, đấy là tình yêu trong sáng và đích thực:

“Chỉ lạ điều xưa nay

Tiêu nghìn vàng không nhớ

Hoa buổi đầu chớm nở

Gió day dứt trọn đời”.

(Thơ tặng người hôm qua)

Lò Cao Nhum nhìn bằng cái nhìn của dân tộc mình, nghĩ từ cách nghĩ của

dân tộc mình để từ đó suy tư về một đời lam lũ của ông bà rồi khái quát và tìm

ra ý nghĩa của cuộc sống:

Đời còn rách tháng ba ngày tám

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chuôi thuổng nắm mòn như eo lưng

58

Mái đầu gùi lằn chai củ sắn

Miếng vá in lưng áo

...Miếng vá dịu dàng bàn tay

Giống mảnh nương vuông vắn trên đồi…

Bát cơm vơi dâng đầy chiu chắt

Những mảnh nương vá đắp

Cuộc sống dài chưa dễ lành nguyên.

(Mảnh nương trên đồi)

So sánh mảnh nương trên đồi giống miếng vá trên lưng áo ông bà, cách so

sánh này hết sức độc đáo. Nhưng đó chỉ là cái cớ để nhân vật trữ tình bộc lộ

những ngẫm ngợi về cuộc sống quê hương.

Từ những suy tư, chiêm nghiệm được bộc lộ trong thơ Lò Cao Nhum, ta

thấy ẩn đằng sau đó là những triết lí của tác giả về số phận con người, về lẽ

sống và cái chết, về những may mắn, khổ đau và bất hạnh của cuộc đời mỗi

con người.

Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum có lúc suy tư về thiên chức của

nhà thơ với tư cách người nghệ sĩ. Những suy tư chiêm nghiệm ấy chính là nỗi

niềm đau đáu, trăn trở thường trực của chính nhà thơ. Điều này thể hiện nhà thơ

là một con người làm nghệ thuật có ý thức, có tâm với nghề.

Trước tiên, Lò Cao Nhum suy tư về thiên chức của nhà thơ:

“Đời người chuỗi tháng năm

Như dây cườm óng ánh

Thời gian leo toà ốc

Vòng xoắn đến đỉnh cao.

Da hiện dần dấu chim

Nếp nghĩ càng thêm mới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Xuân không biết dừng lại

59

Nếu ta thừa hiến dâng”

(Đếm tuổi)

Ông cho rằng, đã là nhà thơ thì trọn đời phải “hiến dâng” cho thơ. Thời

gian trong cuộc đời mỗi con người như “leo tòa ốc”, tuổi càng ngày càng lên

cao, trên da ngày càng xuất hiện nhiều dấu “chân chim”, “nếp nghĩ càng thêm

mới”, tuổi xuân của con người trôi qua ngày càng nhanh, không biết dừng lại.

Vì thế, nhà thơ sống trên đời là phải biết hiến dâng cuộc đời cho thơ.

Nhà thơ sinh ra trên đời làm gì:

“Nằm cắn bút ao ước mùa hoa

Muốn nước nguồn ngày đêm thông mạch

Muốn ý thơ của mình trên sách

Sinh sôi như đất đẹp, trứng tròn”

(Không đề)

Nhà thơ bày tỏ quan điểm của mình về trách nhiệm của nhà thơ. Sinh ra

trên đời, làm thơ cũng chỉ mong cảm hứng dồi dào, sức sáng tác như nước

nguồn ngày đêm thông mạch, ý thơ thực sự hay, có giá trị, được bạn đọc công

nhận và quan trọng hơn cả là những trang thơ phải chịu được thử thách khắc

nghiệt của thời gian, phải tồn tại được trong lòng người đọc, được người đọc

chấp nhận và yêu mến.

Người làm thơ như một cây nến, khi thắp sáng cho mọi người là tự đốt

cháy mình:

“Căn phòng tôi mở vuông ô cửa

Sao Bắc, sao Nam nháy mắt ghé vào

Tặng tôi những câu thơ cây nến

Tôi tặng mọi người cây nến đời tôi”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Căn phòng tôi)

60

Lò Cao Nhum là nhà thơ có ý thức về nghề nghiệp của mình. Ông suy tư

về sứ mệnh của nhà thơ:

“Ban mai

Tôi mở cửa

Nâng mặt trời lên

Đón mặt trời vào…

Sau lưng tôi

Những cánh chim uể oải cọng rơm dáng chiều

Bóng mây vương nghiêng triền núi

Tôi gom về, ấp ủ

Sớm mai mở cửa

Nâng mặt trời lên

Đón mặt trời vào”

(Ban mai)

Nhà thơ có sứ mệnh cao cả là nâng bước ban mai, sưởi ấm trái tim muôn

loài, xua tan bao mệt mỏi băng giá của đêm tối. Làm thơ chính là làm công

việc có ý nghĩa, đem mặt trời đến sưởi ấm tâm hồn con người. Để làm được

điều này, nhà thơ phải là người có trái tim lớn, có tài năng, luôn ý thức được

sứ mệnh và trách nhiệm của mình.

Nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum thường hoài niệm về những kỷ

niệm tuổi thơ, những kỷ niệm của tình yêu, về những người thân đã khuất; cũng

có khi hoài niệm về những tinh hoa văn hóa của dân tộc đã có phần mai một dần.

Có những lúc trong cuộc sống tấp nập, con người thường nhớ về những kỷ

niệm tuổi thơ. Đó là những khoảng lặng cần thiết và quý giá. Với Lò Cao

Nhum, kỷ niệm tuổi thơ của ông gắn liền với hương dứa thơm cùng với những

“vì sao vấn vít sàn nứa” được sưởi ấm cùng “đám cỏ khô đầu núi”:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“Có một mồi lửa

61

Thổi vào đám cỏ khô đầu núi

Bập bùng, bập bùng

Tinh luyện những vì sao không biết lặn…

Trời xa

Đâu rồi sàn nứa?

Hãy mở ngỏ cho ta một cửa

Từ buổi hương bay mùa dứa ngọt ngào

Buổi vòm trời sao thắp trong sao”

(Mùa dứa)

Có người coi những kỷ niệm tuổi thơ như một giấc mơ đẹp, có người lại

coi nó như một ác mộng xảy ra. Ký ức tuổi thơ của những đứa trẻ miền núi có

thể là ấn tượng về những món ăn đời thường nhưng rất trẻ con, như ăn hoa

mâm xôi, quả sung, quả vả, có khi là một ngọn bông lau non hay thân cây ngô

trên nương… Với Lò Cao Nhum, ông đặc biệt ấn tượng mùi hương thơm ngọt

lành của dứa. Người dân miền núi khi lớn lên cũng thường nhớ về những trò

chơi dân gian như đánh đáo, ném còn, chơi cù hay là những ống bơ bò bỏ than

đỏ và một chút lá khô vào quay quay cho chúng cháy thành những đốm lửa…

Lò Cao Nhum nhớ về những đám lửa đốt ở đầu núi, nơi tụ tập đám trẻ con

trong làng chơi các trò chơi dân gian.

Kỷ niệm tuổi thơ có khi bất chợt ùa về cùng với những viên đá cuội nhiều

màu sắc mà thủa nhỏ thường chơi:

“Bất chợt mùa xuân

Tôi vùng dậy, nhảy ba bậc cầu thang, bươn bả lao ra nơi ngã ba suối

Mùn. Tôi ôm bờ suối lay lay: Suối ơi dậy, suối ơi thức, chỉ cho tôi đâu hòn

cuội trắng lăn từ bản Nhót đến, hòn cuội đỏ lăn từ bản Tòng về. Tôi căng

mười làn mi, ngóng chằm chằm vào bờ cát. Những hạt cát lấp lánh như triệu

triệu vì sao”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Ngã ba suối Mùn)

62

Như đã nói, Lò Cao Nhum là nhà thơ rất yêu bản sắc văn hóa dân tộc

mình. Ông thường nhớ về những tinh hoa văn hóa đẹp đẽ của dân tộc mình rồi

luyến tiếc, xót xa vì những giá trị tốt đẹp ấy đang ngày càng mai một dần.

Trong ký ức của mình, nhà thơ đặc biệt nhớ về tiếng khèn. Đó là âm thanh đặc

trưng của người đồng bào miền núi. Tiếng khèn đã đi vào các tác phẩm nghệ

thuật rất nhiều, nhất là trong thơ ca, tiếng khèn như là một biểu tượng của

người miền núi. Lò Cao Nhum nhắc đến tiếng khèn như là một giá trị văn hóa

tinh thần quý giá của dân tộc. Tiếng khèn có mặt trong những câu chuyện tình

yêu của những đôi trai gái:

“Bờ xa gửi gió bắc sang

Tâm tình bằng tiếng mênh mang khèn bè

Sương giăng, giăng nhớ, giăng thề

Lời thương dắt díu tụ về trong tim.

Bấy lâu ngủ đến im lìm

Khèn ơi sao nỡ lặn chìm gió bay?”

(Gặp khèn)

Lò Cao Nhum không viết nhiều về những người thân đã khuất. Nhưng

khi đã viết thì lại gây ấn tượng rất mạnh vì những ký ức về họ:

“Thế hệ tôi chưa xa thế hệ ông

Nhưng cũng không còn gặp ông nữa

Ông khai khẩn đất đai và ông đã về hòa với đất…

Nơi ông từng đứng gan lỳ suốt dọc triền mưa gió

Nghe mạch đất râm ran

Vọng điều linh thiêng

Hỡi mọi sinh linh mặt đất

Trong ta trú ngụ một Thành Hoàng”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Ông nội tôi khai sinh miền đất)

63

Ông nội của Lò Cao Nhum là một trong những người đầu tiên có công lập

bản của họ Lò tại Mai Châu, Hòa Bình. Nhà thơ vốn rất quý và kính yêu ông

nội mình. Dù ông nội của nhà thơ đã mất, nhưng những ký ức về ông vẫn là

nguồn động viên tinh thần vô cùng quý giá đối với nhà thơ. Nhà thơ đã từng

tâm sự: “Bài thơ Ông nội tôi khai sinh miền đất ban đầu tôi viết với ý nghĩ

đơn giản là để lưu giữ lại hình ảnh người ông thân yêu của tôi đã đi xa, nhưng

sau do tác hợp thêm những ám ảnh về thân phận một dân tộc, lại nữa với chức

năng của thơ, tôi đã đẩy từ hình ảnh cụ thể về ông nội thành hình tượng của tứ

thơ” [Ghi trực tiếp]. Có lẽ tứ thơ về ông nội đã được Lò Cao Nhum ấp ủ từ rất

lâu rồi, có khi từ lúc tác giả biết có ông nội trong cõi đời này. Điều ông nội khai

sinh miền đất có thể tác giả đã biết từ những năm tháng niên thiếu qua lời kể

của người già hay qua chính ông nội kể lại. Vậy mà cho đến tận tháng năm này,

khi bản thân nhà thơ đã trở thành ông ngoại, nhà thơ mới kể ra, mới nói những

điều sâu kín, thiêng liêng về ông nội: “Thế hệ tôi chưa xa thế hệ ông/ Nhưng

cũng không còn gặp ông nữa/ Ông khai khẩn đất đai và ông đã về hòa với

đất”. Không phải chỉ là tự hào mà còn là lòng biết ơn về tất cả những gì ông

nội đã tạo dựng. Những ký ức về ông nội đã trở thành một “Thành Hoàng”.

Lò Cao Nhum mồ côi mẹ từ nhỏ, lên 2 tuổi thì mẹ mất do bạo bệnh. Ông

lớn lên bằng nguồn sữa của các cô các dì cả bên nội và bên ngoại. Có lẽ vì thế,

trong thơ Lò Cao Nhum bạn đọc luôn bắt gặp một tình cảm rất đặc biệt khi ông

viết về “mẹ”:

“Mẹ rưng rưng chiều bếp

Tìm đốm than soi lòng mưa ngâu

Đứa ra trận chờn vờn tấm ảnh

Nén hương thầm: Con trú mưa đâu?”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Mưa)

64

Cũng có khi là tình cảm thiết tha ấm cúng về người “bà”:

“Bà ơi, thương bà đêm giêng lạnh Đệm bông lau cháu trải bà nằm Bà còn ủ lửa vùi tro giữ Lửa hồng đủ giữ ấm bà không?”

(Cây củi giữ lửa nhà sàn)

Trong những miền hồi ức của mình, nhà thơ còn dành những trang thơ viết về những kỷ niệm tình yêu. Đó là những lời tỏ tình, hứa hẹn trong tình yêu. Khi tình yêu đã chớm nở, “anh” khéo léo ướm hỏi “em”, chỉ mong “em” nhận lời. Nhưng đợi mãi, hết “mùa nắng” sang “tháng tám”, hết “mùa xuân”, sang “mùa đông” mà “anh” vẫn chưa nhận được câu trả lời. Vì thế “anh” buông lời trách móc khéo léo “Lẽ nào em hỡi/ Cứ đan dệt mùa đông” (Tung còn). Đó là cảm giác giá lạnh, khổ đau khi tình yêu đầu đời bị tan vỡ (Khi em lên xe hoa); Hay nhà thơ viết về những luyến tiếc của một mối tình không thành (Thơ tặng người hôm qua, Trở lại xóm Chùa); Cũng có khi là cảm xúc đầu tiên khi chàng trai theo cô gái về ở rể được tác giả vẽ bằng nét bút vừa tươi tắn, sinh động vừa đằm thắm, thiết tha (Bếp lửa nhà ta)... Đọc thơ viết về tình yêu của Lò Cao Nhum, ta không bắt gặp cái thiết tha, rạo rực của tình yêu đầu tuổi mới lớn, ta cũng không bắt gặp tình cảm mãnh liệt, đam mê của những chàng trai, cô gái si tình. Đọc thơ ông, ta thường bắt gặp những tình cảm chân thành, ý nhị của con người trưởng thành, trầm tư, sâu sắc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Cảm hứng quê hương đất nước trong thơ Lò Cao Nhum phong phú, đa dạng với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, ngợi ca con người miền núi chân thành, mộc mạc, yêu quý tự hào vùng đất giàu bản sắc văn hóa Thái. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ ông biểu hiện rất phong phú. Khi thì mạnh mẽ, phóng khoáng trước thiên nhiên dữ dội, trước những ác liệt của chiến tranh, trong thử thách của đời thường. Khi nhân vật trữ tình suy tư chiêm nghiệm trước cuộc sống khó khăn của đời thường, trước những quan hệ phức tạp của con người hay những đổi thay của cuộc đời. Khi lại hoài niệm về những kỷ niệm của tình yêu, những người thân đã khuất... Tất cả như hòa quyện với nhau làm nên chất thơ mộc mạc, chân thành, gần gũi mà sâu sắc của thơ Lò Cao Nhum.

65

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ LÒ CAO NHUM

3.1. Thơ Lò Cao Nhum giàu biểu tượng

Theo Từ điển Tiếng Việt: "Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình

thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại

trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt" [25, tr.66].

Như vậy, biểu tượng là những hình ảnh của những sự vật, hiện tượng của

thế giới xung quanh, được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy

ra trước đó, được giữ lại trong ý thức hay là những hình ảnh mới được hình

thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trước. Biểu tượng không phải hoàn

toàn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau khi đã được tri giác. Tuy

nhiên, những hình ảnh đó cũng không hoàn toàn là kết quả chủ quan xuất phát

từ những hoạt động tâm trí của chủ thể. Biểu tượng là hiện tượng chủ quan của

đối tượng về hiện tượng khách quan đã được tri giác từ trước.

Thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số nói chung thường có những biểu

tượng giống nhau như biểu tượng về “đất”, “nước” và “lửa”. Tuy nhiên nét đặc

sắc của từng nhà thơ lại thể hiện ở hệ thống biểu tượng mẫu gốc và nghĩa phái

sinh. Thơ của nhà thơ Lò Cao Nhum có hệ thống biểu tượng phong phú. Chúng

tôi tiến hành thống kê toàn bộ sáng tác thơ của Lò Cao Nhum và nhận thấy,

một số hình ảnh nhà thơ thường dùng, được lặp đi lặp lại nhiều lần, đó là “núi”,

“biển”, “sông”, “suối”, “lửa” và “rượu” (phụ luc 2). Trong số các hình ảnh mà

nhà thơ thường dùng, có ba hình ảnh đặc sắc, xuất hiện với tần xuất lớn, có

nhiều dụng ý nghệ thuật, mang ý nghĩa biểu tượng, đó là các hình ảnh “núi”,

“lửa” và “rượu”.

Chúng tôi tiến hành khảo sát hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tập thơ của Lò Cao Nhum và thu được các kết quả như sau:

66

Bảng 3.1. Tổng hợp các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ Lò Cao Nhum

STT Hình ảnh Số lần xuất hiện

1 Núi 120

2 Lửa 33

3 Rượu 20

Biểu đồ 3.1. Số lần sử dụng các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng

trong thơ Lò Cao Nhum

* Biểu tượng Núi:

Qua Biểu đồ thể hiện số lần sử dụng các biểu tượng trong thơ, có thể

nhận thấy biểu tượng được Lò Cao Nhum sử dụng nhiều nhất là “núi”. Biểu

tượng “núi” xuất hiện trong nhiều bài thơ (53/143 bài). Trong một bài thơ, số

lần sử dụng biểu tượng “núi” cao hơn các biểu tượng khác. Bài sử dụng nhiều

nhất là bài Theo Lời hát về nguồn - 18 lần. Số lần nhà thơ sử dụng biểu tượng

“núi” nhiều nhất (120 lần).

Sự xuất hiện biểu tượng “núi” trong thơ Lò Cao Nhum có nhiều nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhân. Trước tiên, núi là nơi người Thái chủ yếu sinh sống, vì thế núi rất gần gũi

67

và thân thiết với người dân tộc Thái. Thứ hai, để khắc họa tính chất “miền núi”

thì việc sử dụng biểu tượng “núi” sẽ tạo ra hiệu quả cao. Việc sử dụng biểu

tượng “núi” nhiều lần đã tạo cho người đọc một ấn tượng riêng, đây cũng là

một cách nhấn mạnh chất “miền núi” của nhà thơ.

Lãnh thổ Việt Nam có ba phần tư diện tích là đồi núi, vì thế núi có một vai

trò rất quan trọng trong đời sống của con người. Nó vừa có ý nghĩa về nơi cư

trú lại vừa có ý nghĩa tâm linh. Đối với người Tây Bắc, núi vừa là nơi sinh

sống, vừa là nơi che chở, núi gắn bó mật thiết với đời sống vật chất cũng như

tinh thần của con người. Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới: “Ý nghĩa

tượng trưng của núi có nhiều mặt, vừa là chiều cao vừa là điểm trung tâm...

Núi là nơi Trời và đất gặp nhau... Núi cũng thể hiện những khái niệm về tính

ổn định, bất di bất dịch và đôi khi cả về tính thanh khiết... Một đỉnh núi vươn

lên trời cao không chỉ là một họa tiết đẹp trong tranh, nó còn tượng tưng cho

nơi cư trú của các thần mặt trời, cho các đức tính cao đẹp của tâm hồn, cho

chức năng siêu ý thức của các sức sống” [14, tr. 699].

Lò Cao Nhum có một tình cảm rất đặc biệt dành cho núi:

“Núi vút lên khao khát xanh và thắm đỏ hết mình màu nuôi

nấng... Núi phun lửa căm hờn đen ngòm cả một mảng trời... Núi

dịu dàng múa ca với gió tháng giêng, nhưng cũng biết gầm gừ vặn

mình chọi giông bão... Núi sánh vai trùng trùng, điệp điệp, giăng

trường thành biên giới non sông.... Khi hoạn nạn biển trời thét

gọi, trái núi dạng chân bám đất lành”

(Núi)

Trong con mắt của nhà thơ, núi không chỉ là thiên nhiên đẹp mà còn giàu

sức sống bởi “thắm màu nuôi nấng”, núi có tính cách: có lúc mạnh mẽ, “căm

hờn”, có lúc lại “dịu dàng múa ca”, có lúc lại “gầm gừ vặn mình chọi bão

giông”. Tình cảm của Lò Cao Nhum với núi rất đa dạng. Có khi núi là đối

tượng để nhà thơ ngợi ca, cũng có khi lại là bầu bạn để tâm sự. Sâu thẳm trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tâm hồn mình, Lò Cao Nhum coi núi như tâm giao.

68

Núi như chở che cuộc sống của con người:

“Làng với suối giữa lòng thung núi

Mà đường về thì vắt ngang mây

Đứng trên cao thấy hàng cau như vẫy

Như người về đêm ngất ngả say”

(Về những hàng cau)

Bài thơ miêu tả quê hương của Lò Cao Nhum, đó là Bản Lác, Mai Châu,

Hòa Bình. Ai đã đến Mai Châu vào mùa hè, buổi sớm mai của những hôm trời

nắng đẹp, đứng trên đỉnh đèo Thung Khe, nhìn xuống thị trấn Mai Châu thì

không thể không trầm trồ về cảnh đẹp của vùng đất này. Thung lũng Mai Châu

như được ôm gọn vào lòng bởi những dãy núi cao vút. Con đường đèo Thung

Khe như một dải lụa, vắt ngang những đám mây bồng bềnh trắng muốt. Cảnh

đẹp hút hồn du khách. Lò Cao Nhum đã bắt được cái hồn của cảnh vật: “Làng

với suối giữa lòng thung núi”. Hình tượng “núi” như chở che, bao bọc cho

cuộc sống của con người. Nhà thơ thổi hồn vào núi, tạo cảm giác bình yên,

hạnh phúc cho quê hương.

Trong bài thơ Vòng xòe, núi là nơi gắn kết con người với thiên nhiên:

“Hãy cầm tay, hãy dắt tay

Xòe cùng đồi, cùng núi

Sánh cùng sao, cùng trăng

Bền cùng trời, cùng đất”

(Vòng xòe)

Núi không chỉ chứng kiến mọi hoạt động của con người mà dường như núi

còn tham gia vào nhịp sống ấy. Mỗi điệu khèn, mỗi lời ca đều vang vọng vào

lòng của núi. Núi đã trở thành một phần hồn cốt quan trọng đối với con người.

Mọi niềm vui, mọi nỗi buồn, núi luôn là “người đồng hành” thân thiết.

Núi là nơi thử thách bản lĩnh của con người. Bắt đầu là thử thách khát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

khao sinh tồn:

69

“Bắt đầu là gồng gánh núi non

Ở trong núi có mồ hôi của đá

Trong đá kết tinh nỗi khổ

Nỗi khổ ủ niềm khát khao”

(Ông nội tôi khai sinh miền đất)

Cuộc sống càng khó khăn bao nhiêu, con người càng khát khao sinh tồn

bấy nhiêu. Núi vừa là thử thách, vừa là nỗi khổ mà con người phải chịu đựng,

phải trải qua: “Ở trong núi có mồ hôi của đá/ Trong đá kết tinh nỗi khổ”.

Nhưng với sức sống bền bỉ và nghị lực phi thường của mình, con người đã biến

nỗi khổ ấy thành “niềm khát khao”. Núi càng cao bao nhiêu thì khát khao của

con người càng lớn bấy nhiêu.

Sống với núi, con người phải thích nghi để sinh tồn. Vượt qua bao thử

thách, con người miền núi trong thơ Lò Cao Nhum lại trở nên đẹp hơn, bản lĩnh

hơn. Núi trong Bức vẽ trai bản không chỉ mang nghĩa thực mà nó như được

nhân hóa lên, trở thành đối tượng thử thách con người, nâng con người lên một

tầm cao mới, tầm cao của vũ trụ:

“Chống trụ hai chân

Đạp lên vai núi

Núi muốn nhô lên

Chân như ấn xuống”

(Bức vẽ trai bản)

Núi có khi được nhân hóa như một người thầy, người mẹ, như một người

từng trải mang hồn cốt của núi để người đi xa không đánh mất phẩm chất con

người. Núi dặn dò người con trai của núi:

“Ngày tôi đi

Núi nghiêng vào tận cửa

Vỗ vai tôi nơi chân cầu thang

Dặn rằng:

“Nếu vợ anh bé nhỏ

Hãy cúi xuống với nàng”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Theo lời hát về nguồn)

70

Đó là bài học về tình cảm gia đình. Mỗi lần ra đi, người con trai của núi

đều được núi ghé vai dặn dò. Khi thì dặn dò về tình cảm cội nguồn “Miền xuôi,

miền ngược/ Chân thang sát, góc nhà kề”, khi thì dặn dò về lẽ nhân thế, trong

cuộc sống phải biết lường trước những khó khăn của cuộc đời “Hổ vằn ngoài

da/ Người vằn ttong bụng”, khi lại dặn dò về tình cảm quê hương, cách đối

nhân xử thế... Núi trong bài thơ Theo lời hát về nguồn được nhân hóa trở thành

người mẹ, người thầy, một người từng trải mang hồn cốt của núi để người đi xa

không đánh mất phẩm chất con người, đủ bản lĩnh, đủ khôn khéo để vượt qua

tất cả khó khăn, sóng gió của cuộc đời.

Lò Cao Nhum một đời sống với núi nên nhân vật trữ tình trong các bài thơ

của ông thường trong tâm thế gần gũi, thân thiết với núi, núi luôn cận kề, sát vai

với con người. Còn nhà thơ Võ Sa Hà (Hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân

tộc thiểu số Việt Nam, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam), khi viết về núi, ông

thường viết với tâm thế của một người con xa quê lâu ngày gặp lại. Võ Sa Hà là

một nhà thơ người Kinh, quê gốc ở Bắc Ninh, sinh ra và lớn lên tại Cao Bằng,

khi đã trưởng thành, ông lập nghiệp và sinh sống ở Thái Nguyên. Đối với Võ Sa

Hà, Cao Bằng là mảnh đất gắn bó máu thịt với ông, và vì thế, quê núi ấy đã trở

thành hồn cốt tâm hồn ông. Thơ Võ Sa Hà cũng đậm chất miền núi, hình ảnh

ngọn núi hiện ra với tầm vóc vũ trụ mang sắc thái huyền thoại, kì vĩ:

“Những quả núi cao ngửa mặt nhìn trời

Vẫn vững chãi qua ngút ngàn sóng gió

Người thương đất nên từng mỏm đá

Dù giặc dã bao lần vẫn ôm đất không đi”

(Khúc hát quê hương)

Cũng có khi núi non chất chứa những kỷ niệm đẹp đẽ:

“Anh đã từng cõng em lên núi

Núi Sa Hà mờ xanh...

Anh đã từng hát cho em nghe

Bài hát của gió rền, núi nghiêng, sông cuộn”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Anh khóc)

71

Tuy nhiên, biểu tượng núi trong thơ Võ Sa Hà được nói đến trong tâm thế

của một nhà thơ người xa núi muốn trở về quê núi. Còn trong thơ Lò Cao

Nhum, biểu tượng “Núi” được thể hiện đậm đặc trong tâm thế của một người

dân tộc thiểu số “ăn đời ở kiếp” với núi rừng.

Như vậy, hình ảnh núi trong thơ Lò Cao Nhum được nhắc đến thường

trực, núi hiện ra tự nhiên như hơi thở của con người. Không cần phải dày công

chọn lọc, cũng không cần phải sắp đặt cầu kỳ. Núi cứ trở đi trở lại và trở thành

biểu tượng “Núi” trong thơ ông một cách tự nhiên. Trong thơ Lò Cao Nhum,

hình ảnh núi xuất hiện với nhiều ý nghĩa. Núi vừa là cảnh vật, vừa là con

người. Núi chứa đựng hồn cốt của con người, hồn cốt của quê hương. Núi là

nơi con người sinh ra và lớn lên, núi là nơi trở về sau bao chuyến đi trải

nghiệm. Núi có khi huyền bí như một vị thần, có khi được nhân hóa như một

người mẹ, như một người thầy dặn dò, dõi theo, nhắc nhở, tin tưởng người con

trên các bước đường của cuộc đời. Núi như một người bạn để con người tâm

sự, sẻ chia. Núi dường như chứng kiến tất cả hoạt động của con người. Biểu

tượng “Núi” có nhiều ý nghĩa, đặc sắc, tạo ra nét riêng của thơ Lò Cao Nhum.

* Biểu tượng Lửa:

Giống như núi, lửa cũng là hình ảnh được sử dụng nhiều trong thơ ca. Thơ

của các nhà thơ dân tộc thiểu số nói chung thường sử dụng hình ảnh lửa như

một biểu tượng. Thơ Lò Cao Nhum cũng vậy, hình ảnh “lửa” trở đi trở lại trong

thơ ông, với nhiều dụng ý nghệ thuật và trở thành hình ảnh giàu ý nghĩa biểu

tượng. Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, lửa mang ý nghĩa như sau:

“Theo Kinh dịch, lửa ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè, trái tim... Như

mặt trời bằng những tia sáng của nó, lửa bằng những ngọn lửa tượng trưng

cho hoạt động đem lại sự sinh sản dồi dào, tẩy uế và soi sáng...” [14, tr.545].

Biểu tượng “Lửa” trong thơ Lò Cao Nhum được sử dụng cả ở nghĩa gốc và

nghĩa phái sinh. Mẫu gốc là “lửa”, nghĩa phái sinh là “mặt trời”, “bếp lửa”,

“than hồng”, “ngọn đèn”, “ánh đuốc”… Các hình ảnh của nghĩa phái sinh được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

sử dụng trong các bài thơ một cách tự nhiên.

72

Bài thơ Vòng xòe, hình ảnh lửa được sử dụng theo mẫu gốc:

“Ngọn lửa xanh

Ngọn lửa vàng

Ngọn lửa thủa hồng hoang

Bập bùng hoa cà hoa cải

Ngôi nhà đốm lửa

Âm ỉ cùng gió hú

(Vòng xòe)

“Ngọn lửa” được quan sát và ghi nhớ với nhiều màu sắc khác nhau

“xanh”, “vàng”, ngọn lửa xuất hiện từ “thủa hồng hoang”, ngọn lửa vẫn “bập

bùng” cháy như dưỡng nuôi sự sống loài người. Nhà thơ nhận thức rằng, “ngôi

nhà” chính là nơi lưu giữ ngọn lửa cho loài người. Lưu giữ ngọn lửa như gìn

giữ sinh tồn của con người. Dù là “âm ỉ” nhưng sức bền của nó có thể kéo dài

vạn năm.

Biểu tượng “Lửa” được sử dụng ở nghĩa phái sinh trong thơ Lò Cao

Nhum cũng rất phong phú. Có khi là “bếp lửa” của mẹ:

“Mẹ rưng rưng chiều bếp

Tìm đốm than soi lòng mưa ngâu

Đứa ra trận chờn vờn tấm ảnh

Nén hương thầm con trú mưa đâu?”

(Mưa)

Hình ảnh “bếp lửa” trong bài thơ này được sử dụng với ý nghĩa soi sáng

cho sự sống của con người. Người mẹ “rưng rưng” vì đứa con yêu thương, ý

nghĩa sự tồn tại của mẹ, ra trận và đã không trở về. Nay chỉ còn mình mẹ, xót

xa trước “nén hương thầm” và “chờn vờn tấm ảnh” lòng mẹ đau khổ, chỉ biết

“tìm đốm than” trong “chiều bếp” để tiếp tục sống qua ngày. Bằng cách nói

giản dị, lắng đọng, nhà thơ đã chạm đến tình cảm sâu thẳm trong tâm hồn con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

người đó là tình mẫu tử.

73

Hình ảnh bếp lửa được tác giả đặc tả trong bài thơ Bếp lửa nhà ta:

“Bếp nhà ta là bếp của em

Ngọn lửa của anh ngày đi ở rể...

Mẹ gùi củi lẩn vào sương giá

Nuôi bếp nhà khuya ngọn lửa chập chờn...

Ôi bếp lửa nhà ta chật hẹp

Một khoang tròn ấm áp nhà trong

Nơi đầu núi lửa reo tí tách

Cũng đủ tan băng giá biên phòng”

(Bếp lửa nhà ta)

Đối với đồng bào dân tộc Thái, bếp lửa có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Bếp lửa vừa là nơi nấu nướng của người phụ nữ, vừa là nơi dành cho gia chủ

tiếp khách. Tùy từng điều kiện của từng gia đình. Nếu gia đình người Thái nào

có điều kiện khá giả, trong nhà có thể có hai bếp. Một bếp dành để tiếp khách ở

gian ngoài, một bếp dành nấu nướng ở gian trong. Bếp lửa của người Thái

dường như không bao giờ tắt, lúc nào cũng được “thêm củi” để giữ hơi ấm cho

nhà sàn. Dường như mọi người trong gia đình đều có những kỉ niệm, có trách

nhiệm đối với bếp lửa: “Bếp nhà ta là bếp của em/ Ngọn lửa của anh.../ Mẹ gùi

củi lẩn vào sương giá”. Bếp lửa trở thành hình ảnh của gia đình, quê hương; là

tình mẹ, tình em đối với người chiến sĩ biên phòng.

Biểu tượng “Lửa” trong thơ Lò Cao Nhum còn được sử dụng với nhiều ý

nghĩa khác nhau. Có khi là ngọn đèn khuya bầu bạn:

“Trang giấy trắng vuông vuông mặt đồng

Ngọn đèn khuya làm mặt trời thao thức”

(Trang giấy và ngọn đèn)

Là hình ảnh mặt trời thiên nhiên chiếu sáng niềm lạc quan của con người:

“Trời rộng thoáng trên đầu con chim chao lượn

Mặt trời hừng phía cuối sông kia”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Bà đi tàu thủy xuôi sông Đà)

74

Cũng có khi là ngọn duốc soi đường cho con người vượt qua tăm tối:

“Đêm mơ màng

Nghe râm ran đất hát

Những đàn ông

Khiêng kiệu về Khụ Mụ

Ánh đuốc chập chờn

Ánh mắt thần linh”

(Đêm mường Bui)

Có thể nhận thấy, biểu tượng “Lửa” được sử dụng trong thơ Lò Cao Nhum

rất linh hoạt, đa dạng. Có khi được sử dụng là nghĩa gốc, có khi được sử dụng

là nghĩa phái sinh. Nhưng dù sử dụng với ý nghĩa như thế nào cũng đều nói lên

ý nghĩa quan trọng của lửa trong đời sống của đồng bào dân tộc Thái và trong

tâm hồn nhà thơ.

* Biểu tượng Rượu:

Trong thơ Lò Cao Nhum, biểu tượng Rượu không xuất hiện với tần xuất

lớn, nhưng lại nhiều ý nghĩa. So với các biểu tượng khác, biểu tượng Rượu xuất

hiện với tần xuất ít hơn nhưng lại tạo được ý nghĩa độc đáo. Không phải ngẫu

nhiên mà Lò Cao Nhum đặt tên cho tập thơ chọn lọc của mình là Rượu núi. Lò

Cao Nhum không nhiều lần nhắc đến “rượu” nhưng mỗi khi nhắc đến thì

“rượu” đều mang một ý nghĩa đặc sắc.

Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, biểu tượng Rượu được hiểu

như sau: “Rượu như là biểu tượng của tri thức và khai tâm... Trong truyền

thống Kinh Thánh, rượu thoạt tiên là dấu hiệu và biểu tượng của niềm vui...

Rượu là thức uống của các thần linh” [14, tr.788]. Trong thơ Lò Cao Nhum,

biểu tượng Rượu cũng được hiểu theo các ý nghĩa đó.

Lò Cao Nhum khi viết về “rượu” rất có duyên. Cái “duyên” ấy thể hiện ở

cách nói đến “rượu”. Không ồn ào nhưng rất sâu sắc, không phô trương nhưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

lại rất “đẹp”. Trong bài thơ Rượu núi, Lò Cao Nhum giới thiệu:

75

“Rượu nhà tôi

Ủ từ sắc lá rừng gai

Chắt từ củ mài hốc đá

Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài”

Cách giới thiệu “Rượu nhà tôi” rất riêng, bằng các động từ “ủ”, “chắt”,

“nấu”, Lò Cao Nhum tạo ấn tượng cẩn thận, khéo léo từ đôi bàn tay người vợ

đảm đang. Nét riêng của “rượu núi” là được ủ từ “sắc lá rừng gai”, “chắt từ

củ mài hốc đá”, rồi từ cách nấu rượu “lửa đỏ đêm dài”. Cách giới thiệu như

thế gợi sự tò, gợi nỗi nhớ và gợi sự trân trọng, nâng niu trong tình cảm của “gia

chủ”. Cũng chính vì thế, “rượu nhà tôi” cũng có vị rất riêng:

“Rượu nhà tôi

Có ngọt mật ong vách đá

Có chua măng ướp chum vò

Có cay của bạn tình cắn nhầm hạt ớt

Có đắng của em chồng phải lòng chị dâu”

Đã có nhiều nhà thơ viết về rượu, nhưng chưa có ai viết về vị của rượu

theo cách riêng như Lò Cao Nhum. Nhà thơ diễn tả vị của rượu bằng tình cảm

của con người miền núi. Có “ngọt”, có “chua”, có “cay”, có “đắng”, nhưng các

vị ngọt, chua, cay, đắng ấy không phải là các vị thông thường, mà được cảm

nhận bằng các trạng thái tình cảm của con người: “...cay của bạn tình cắn

nhầm hạt ớt/... đắng của em chồng phải lòng chị dâu”.

Theo cách giải thích trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới: “Rượu

thoạt tiên là dấu hiệu và biểu tượng của niềm vui”, rượu trong bài thơ Rượu

núi của Lò Cao Nhum cũng mang ý nghĩa như thế:

“Rượu nhà tôi

Rượu buộc chỉ cổ tay

Thắp lửa tình chiêng, tình trống

Đã uống vắt kiệt chum mà uống

Đã say đổ tràn tình mà say”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Rượu núi)

76

“Rượu buộc chỉ cổ tay” xuất phát từ phong tục buộc chỉ cổ tay của người

Thái: “Sợi chỉ còn là biểu trưng của lòng hiếu khách, sức mạnh đoàn kết cộng

đồng. Đối với cộng đồng người Thái, gia đình nào có khách đến chơi đều coi

đó là một điều may mắn…. Khách xa đến thăm, cùng với chủ nhà tâm đầu ý

hợp thường được chủ nhà buộc chỉ cổ tay kết nghĩa anh em. Trong bữa rượu

tiếp khách, sau khi cạn chén rượu nhỏ, chủ nhà chân thành chúc cho tình bền

chặt, mạnh khỏe” [17]. Như vậy, “rượu buộc chỉ cổ tay” ở đây được hiểu theo

nghĩa uống rượu và cầu chúc may mắn cho mọi người, đặc biệt là khách đến

chơi nhà. Với ý nghĩa như thế, trong những vũ diệu “xòe” của người Thái, cùng

với những âm thanh của “chiêng”, “trống” cả khách và gia chủ đều rất hào

sảng, phóng khoáng và vui vẻ: “Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ

tràn tình mà say”. Nhất là lại uống rượu trong một không gian rất độc đáo:

“Mời ngồi xếp bằng tròn trên núi/ Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời” thì không

thể không hết mình được.

Trong thơ của mình, Lò Cao Nhum nhiều lần nhắc đến “Rượu cần”, đây

là một loại rượu đặc sản của người miền núi. Đối với dân tộc Thái, rượu cần là

một loại đồ uống không thể thiếu trong các ngày lễ tết, nhất là trong các lễ hội

truyền thống của dân tộc. Sở dĩ nó có vai trò quan trọng như thế là vì rượu cần

là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, hữu nghị. Bài thơ Đêm xòe và múa lăm

vông đã nói đến tình đoàn kết hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Lào, trong đó

“rượu cần thơm” là cái cớ để bộc tình cảm của tình bạn giao hữu. Rượu cần

còn được nhắc đến trong nhiều bài thơ khác như: Lẽ sinh tồn, Về những hàng

cau, Nóc nhà ta có hoa khau cút, Hòa Bình ơi nghìn năm đưa nôi… Trong

hai bài thơ Đêm rượu ở Đồng Tâm và Quán chiều, rượu được nhắc đến như

một thứ “men say” giúp cho tình bạn thêm thắm thiết.

Không phải ngẫu nhiên mà Lò Cao Nhum đặt tên cho tập thơ chọn lọc của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

mình là Rượu núi. Khi hỏi trực tiếp nhà thơ về hình tượng “rượu” trong bài thơ

77

Rượu núi, Lò Cao Nhum đã chia sẻ: “Tôi mượn hình tượng rượu để nói về văn

hóa Thái. Giới thiệu về nét đẹp văn hóa dân tộc Thái là đam mê của tôi” [Ghi

trực tiếp]. Như vậy, hình tượng “rượu” trong các bài thơ là dụng ý nghệ thuật

của Lò Cao Nhum.

Hình tượng “rượu” có tần số xuất hiện nhiều, có dụng ý nghệ thuật và có

ý nghĩa lớn. Nhà thơ đã mượn hình tượng “rượu” để giới thiệu về văn hóa dân

tộc Thái, con người, cách sống và tình cảm đồng bào Thái. Rượu đã trở thành

biểu tượng độc đáo trong thơ Lò Cao Nhum.

Trong số các bài thơ của Lò cao Nhum, có hai bài thơ tác giả sử dụng kết

hợp ba biểu tượng “núi”, “rượu” và “lửa” cùng một lúc và đạt được hiệu quả

nghệ thuật cao, đó là bài thơ Vòng xòe và bài Rượu núi. Đây cũng là hai bài

thơ đặc sắc của tác giả, được bạn đọc yêu thích:

“Bạn đến

Mời ngồi xếp bằng tròn trên núi

Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời…

Rượu nhà tôi

Ủ từ sắc lá rừng gai

Chắt từ củ mài hốc đá

Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài”

(Rượu núi)

Một loại rượu đặc biệt được nấu thơm từ đôi bàn tay khéo léo của người

phụ nữ. Loại rượu đặc biệt ấy được đem ra tiếp bạn trong một không gian cũng

rất đặc biệt: “Ngồi xếp bằng tròn trên núi/ Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời”.

Như vậy, ta có thể nhận thấy, thơ Lò Cao Nhum sử dụng hiệu quả ba

biểu tượng “Núi”, “Lửa”, “Rượu”. Các biểu tượng này được sử dụng rất phong

phú, linh hoạt, gần gũi với cuộc sống của đồng bào miền núi. Việc sử dụng hệ

thống biểu tượng này như khắc họa vào tâm trí người đọc chất “miền núi” một

cách tự nhiên, không khiên cưỡng. Đồng thời cũng nhờ vào hệ thống các biểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tượng này, thơ Lò Cao Nhum giàu chất suy tư và hiện đại hơn.

78

3.2. Thể thơ tự do chiếm ưu thế

Lò Cao Nhum sử dụng nhiều thể loại thơ, trong đó có các thể thơ tự do và

thể thơ truyền thống. Chúng tôi khảo sát bảy tập thơ của nhà thơ Lò Cao Nhum

và thu được kết quả như sau:

Bảng 3.2. Thống kê thể thơ sử dụng trong các tập thơ của Lò Cao Nhum

Rượu núi (34)

Sàn trăng (37)

Gốc trời (56)

Tổng số (221)

Giọt sao trở về (31 bài)

Mùa hoa chuông (10)

Theo lời hát về nguồn (53)

Thể thơ

TS

TL

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số bài

Số bài

Số bài

Số bài

Số bài

Số bài

Thơ tự do

23

74.19

25

73.53

8

80.0

20

54.05

39

73.58

40

71.43

155

70.14

Thơ 7 chữ

2

6.45

3

8.82

0

0.0

11

29.73

7

13.21

7

12.50

30

13.57

Thơ 6 chữ

1

3.23

0

0.00

0

0.0

1

2.70

1

1.89

2

3.57

5

2.26

Thơ 5 chữ

0

0.00

4

11.76

1

10.0

4

10.81

5

9.43

6

10.71

20

9.05

Thơ 4 chữ

1

3.23

2

5.88

1

10.0

1

2.70

1

1.89

1

1.79

7

3.17

4

0

0.00

0

0.0

0

0.00

0

0.00

0

0.00

4

1.81

Thơ lục bát

12.90

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ sử dụng các thể thơ

Trong quá trình khảo sát thơ Lò Cao Nhum chúng tôi nhận thấy rằng,

trong các tập thơ có hiện tượng tuyển chọn lặp lại các bài thơ đã in. Có nhiều

bài thơ được in ở nhiều tập thơ khác nhau nên chúng tôi khảo sát toàn bộ sáng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tác thơ của Lò Cao Nhum tính đến thời điểm Lò Cao Nhum in xong tập “Rượu

79

núi” và nhận thấy: Tính từ năm 1995 đến năm 2010, tức là từ khi Lò cao Nhum

bắt đầu có thơ đăng báo đến khi nhà thơ tuyển chọn các bài tiêu biểu để in

thành tập thơ Rượu núi tuyển chọn, thì số lượng các bài thơ mà nhà thơ sáng

tác là 146 bài (phụ lục 3). Trong đó, tổng số bài thơ trong tập Rượu núi chọn

lọc là 143 bài. Như vậy, để nhận định về thể thơ chiếm ưu thế trong các sáng

tác của Lò Cao Nhum, chúng tôi khảo sát riêng tập thơ “Rượu núi” và thu

được kết quả như sau.

Bảng 3.3. Thống kê thể thơ sử dụng trong tập thơ Rượu núi

STT

Thể thơ

Số lượng bài

Tỷ lệ

1. Thơ tự do 103 72,03%

2. Thơ 7 chữ 16 11,19%

3. Thơ 6 chữ 02 1,39%

4. Thơ 5 chữ 12 8,12%

5. Thơ 4 chữ 06 4,19%

6. Thơ lục bát 04 2,79%

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ sử dụng các thể thơ trong tập thơ Rượu núi

80

Quan sát cả hai biểu đồ tỷ lệ sử dụng các thể thơ ta thấy, thể thơ Lò Cao

Nhum thường dùng nhất là thể thơ tự do, thể thơ ít dùng nhất là thể thơ 6 chữ,

các thể thơ còn lại ít sử dụng hơn.

Thể thơ 7 chữ là loại tác giả dùng nhiều. Tổng số sử dụng thể thơ này là

16 bài (chiếm tỷ lệ: 11,19%). Những bài thơ được làm theo thể thơ 7 chữ

thường là những bài giàu cảm xúc hoài niệm. Nhân vật trữ tình thường suy tư,

chiêm nghiệm về cuộc sống, con người hay một kỷ niệm đã qua trong qúa khứ,

cũng có khi phản ánh một thực tại đau xót nào đó gợi một sự cảm thông, chia

sẻ từ phía bạn đọc. Một trong những bài thơ hay nhất trong sự thành công ở thể

thơ này là bài thơ Tình xanh:

“Vò rượu cần chéo tay ngày cưới

Bao năm trời vẫn ủ ấp thơm

Màn ngày ấy thoảng hương ngày ấy

Diềm hoa văn rực rỡ giăng hàng.

Ai kia màu áo thắm xanh rừng

Đôi nạng nhảy rưng rưng lỡ nhịp

Chị rộn ràng vấp chân bậc cửa

Đỡ anh về khép trọn tình xanh”.

(Tình xanh)

Ở thể thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ theo thống kê, thể loại tác giả sử

dụng nhiều là thể thơ 7 chữ (16 bài), thơ 5 chữ (12 bài), thấp nhất là thể thơ lục

bát (04 bài).

Sáng tác thơ ở thể 4 chữ, 5 chữ tác giả thường khắc họa hình tượng nhân

vật trữ tình mạnh mẽ, phóng khoáng với cảm hứng ngợi ca thiên nhiên và con

người miền núi. Tiêu biểu là bài Bức vẽ trai bản:

“Vác rìu từ bé

Nên săn cánh tay

Leo núi sớm ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nên chân chắc cột.

81

Tóc quen bay ngược

Gió thốc lướt qua

Bắp dao nghiêng sườn

Chĩa về phía trước”

(Bức vẽ trai bản)

Cũng có bài ở thể thơ 5 chữ khắc họa hình tượng nhân vật trữ tình suy tư,

chiêm nghiệm, hồi cố về tình cảm đầu đời không thành. Tiêu biểu là bài Thơ

tặng người hôm qua:

“Không thể gọi người xưa

Vì ngày mai còn nhớ

Không thể gọi ngày cũ

Bởi tình nào đã xa.

Mà thời hoa là hoa

Đến mùa nở cứ nở

Hương chắt chiu cho quả

Ai hái trái vườn xưa?”

(Thơ tặng người hôm qua)

Tác giả ít sử dụng thể thơ 6 chữ. Tổng cộng có 02 bài, trong đó tiêu biểu là

bài thơ Phía mặt trời:

“Tiếc gì người với người thương

Mà hun hút mãi con đường

Tiếc gì người với người yêu

Mà giăng ghềnh thác cheo leo.

Sá gì sương mây gió nắng

Nên đường đã lở thác cao

Còn đi lối quanh nẻo vắng

Khi em còn phía mặt trời”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Phía mặt trời)

82

Một số nhà thơ dân tộc thiểu số thử sức với thể thơ lục bát nhưng có thể

thấy, nhà thơ đứng với thể loại này không nhiều. Lò Cao Nhum không viết

nhiều thể thơ lục bát, toàn bộ tập thơ Rượu núi có 04 bài, tuy nhiên dù ít nhưng

nhà thơ đã có những câu lục bát ấn tượng:

“Biết là sâu thẳm mênh mông

Tầm nhìn của núi, tầm trông của trời

Tầm lao thuyền của biển khơi

Cũng từ sỏi đá này thôi kết thành.

(Sỏi đá)

Qua nghiên cứu về việc sử dụng các thể thơ của Lò Cao Nhum ở trên,

chúng tôi nhận thấy, Lò Cao Nhum ưa thích và có sở trường ở thể thơ tự do. Có

lẽ ông yêu thích thể thơ này là vì đặc trưng của thể thơ có thể là điều kiện tốt

giúp nhà thơ thể hiện tâm hồn phóng khoáng, chuyển tải được những cảm

hứng rộng mở, phong phú. Tổng số bài Lò Cao Nhum sử dụng thể thơ tự do là

103 bài. Một số bài thơ được nhiều bạn đọc yêu thích hơn cả tiêu biểu cho thể

loại thơ này như: Vòng xòe, Ông nội tôi khai sinh miền đất, Theo lời hát về

nguồn, Rượu núi, Chiều núi,... Thể thơ tự do đem lại nhiều ưu thế cho nhà

thơ khi sáng tác. Trước tiên là cảm xúc thơ trôi chảy, cách diển đạt tự nhiên,

không khiên cưỡng, không gò bó. Nhịp thơ dài ngắn khác nhau khiến âm

hưởng câu thơ linh hoạt, có lúc mạnh mẽ, phóng khoáng, có lúc suy tư, chiêm

nghiệm. Số chữ trong các câu thơ không đều nhau. Có bài có nhiều câu thơ

chỉ có hai tiếng (Đáy giếng), có bài câu thơ dài ra mãi trở thành câu thơ văn

xuôi (Núi). Có khi ngay trong một bài thơ, có cả câu thơ hai tiếng, ba tiếng,

bốn tiếng, năm tiếng, sáu tiếng, tám tiếng, chín tiếng:

“Ban mai

Tôi mở cửa

Nâng mặt trời lên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Đón mặt trời vào…

83

Phơi những luống cày nhịp thở

Trải phập phồng vô tận…

Mỗi ngày tôi một ban mai

Trồng một tia nắng

Giặt chùm nụ cười chín rực

Trước tia hoàng hôn lởn vởn cánh đồng…

Những cánh chim uể oải cọng rơm dáng chiều”

(Ban mai)

Việc sử dụng linh hoạt số tiếng ở các câu thơ trong bài thơ này tạo ra

nhịp điệu linh hoạt, nhằm diễn tả cuộc sống nhộn nhịp của một ngày mới với

nhiều cảm xúc khác nhau. Nhà thơ muốn diễn tả sự bền bỉ của con người

trong niềm tin, hy vọng vào những đổi thay tốt đẹp của cuộc sống: “Mỗi ngày

tôi một ban mai/ Trồng một tia nắng”.

Thể thơ tự do cũng là thể thơ truyền thống của dân tộc Thái. Trong văn

học dân gian Thái, các tác phẩm truyện thơ, ca dao, dân ca Thái cũng thường

được sáng tác bằng thể thơ tự do. Khi được hỏi trực tiếp về lí do vì sao nhà thơ

Lò Cao Nhum hay sử dụng thể thơ truyền thống, nhà thơ đã chia sẻ: “Tôi sử

dụng chủ yếu thể thơ tự do vì đây là cách diễn đạt quen thuộc của văn học dân

gian Thái, nhất là truyện thơ và dân ca Thái. Hơn nữa, với thể thơ này, tôi có

thể tự do, phóng khoáng hơn trong việc thể hiện cảm xúc của mình” (ghi trực

tiếp). Lò Cao Nhum có ý thức phát huy truyền thống văn học văn học dân tộc

và phát huy sở trường của mình để tạo nên nhũng bài thơ đặc sắc, mang dấu ấn

cá tính sáng tạo của nhà thơ.

3.3. Ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ của đồng bào miền núi

Thơ Lò Cao Nhum không cầu kỳ trong cách diễn đạt. Ông thường diễn đạt

chân thật, đúng theo bản chất vốn có của mình, nhà thơ đã gợi được chất miền

núi sâu đậm qua từng câu chữ. Ngôn ngữ thơ Lò Cao Nhum giản dị, cách dùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

từ mộc mạc, nhiều bài thơ sử dụng những câu chữ giản đơn nhưng lại gợi

84

nhiều cảm xúc, vừa mạnh mẽ, phóng khoáng, vừa suy tư, chiêm nghiệm. Để

diễn tả cái mộc mạc, đơn sơ của người miền núi tác giả viết:

“Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến

Ngửa bàn tay cũng da

Úp bàn tay cũng thịt”

(Rượu núi)

Chỉ cần diễn đạt giản dị như thế, Lò Cao Nhum đã gợi được tình cảm quý

mến, trân trọng của người đọc về con người miền núi nói chung. Cách diễn đạt

ấy đã góp phần tạo nét riêng đậm “chất miền núi” của nhà thơ.

Lò Cao Nhum diễn tả chất phóng khoáng của con người miền núi:

“Đã uống vắt kiệt chum mà uống

Đã say đổ tràn tình mà say”

(Rượu núi)

Bằng cách diễn đạt tự nhiên, hai câu thơ tạo cho người đọc một cảm giác

gần gũi, thân thiện, nhiệt tình, hiếu khách của chủ nhà. Đúng với đặc trưng con

người miền núi.

“Cái bắt tay chặt như thắt nút

Nụ cười không bao giờ khép

Đêm sâu thẳm còn vẳng dài câu hát:

"Lên núi cao chỉ có gói cơm

Người núi cao không đeo thanh gươm!"

(Tiếng hát trên cao)

Với cách diễn đạt tự nhiên “Cái bắt tay chặt như thắt nút/ Nụ cười không

bao giờ khép” người đọc cảm nhận như một câu nói bình thường trong giao

tiếp hàng ngày nhưng lại để lại cảm xúc sâu xa và ý nghĩa sâu sắc. Người miền

núi luôn luôn cởi mở tấm lòng, chân thành trong các mối quan hệ bởi “Người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

núi cao không đeo thanh gươm”.

85

Khi có khách đến nhà, gia chủ cởi mở hào phóng với tấm lòng trong sáng của

mình. Khi khách đi, chủ nhà tiễn chân ra cầu thang và không quên dặn khách:

“Miếng thịt gà măng chua thành câu ca

Rằng của vườn của bếp

Chớ lạ đi, lạ về

Chớ quên nóc nhà có hoa khau cút”

(Nóc nhà ta có hoa khau cút)

Như đã nói ở trên, chính Lò Cao Nhum cũng đã trình bày quan điểm sáng

tác của mình: “Viết tự nhiên theo giọng của mình, tức là cách nghĩ cách cảm

của người Thái miền núi… Ngôn ngữ chuyển tải của tôi là chữ tiếng Việt”. Có

một số nhà thơ, để khắc họa “chất miền núi”, họ đã vay mượn một số từ ngữ

của người miền núi. Còn Lò Cao Nhum, không cần phải vay mượn khiên

cưỡng, vì thứ ngôn ngữ ấy đã sẵn có trong con người ông rồi. Có lẽ nó đã chảy

trong huyết mạch ông từ khi ông được sinh ra nên ngôn ngữ thơ ông mang ồn

cốt” dân tộc một cách tự nhiên. Tính dân tộc ấy được tạo thành từ cách diễn

đạt, từ hệ thống từ loại đặc sắc, các biện pháp tu từ thường dùng.

Các biện pháp tu từ nhà thơ thường sử dụng trong thơ cũng mang đặc

điểm của ngôn ngữ của người miền núi. Lò Cao Nhum thường dùng ẩn dụ hình

tượng hoặc ẩn dụ tu từ làm phương tiện diễn đạt có giá trị hình tượng, có sức

biểu cảm. Ví dụ “hoa na” là ẩn dụ hình tượng: “Hoa na/ Chẳng lấy gì làm

đẹp/ Để con ong tía/ Ngày ngày đến đậu/ Lại bay/ Nhưng rồi sẽ có một ngày/

Sẽ có/ Hoa na rụng/ Để con ong tía/ Chớp chớp đôi cánh mỏng/ Phân vân/ Như

đánh mất / Điều gì” (Hoa na). TS Đỗ Thu Huyền (Viện Văn học) đã nhận xét:

“Lối ẩn dụ nhiều lúc phát huy tác dụng một cách tối đa. Bởi thế nhiều bài thơ

của anh mang ý nghĩa triết lý sâu sắc. Thế mạnh của thơ Lò Cao Nhum còn ở

việc gửi gắm những triết lý” [13].

Biện pháp tu từ so sánh được nhà thơ Lò Cao Nhum sử dụng nhiều hơn cả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nhà thơ so sánh mảnh nương trên đồi giống miếng vá trên lưng áo ông bà:

86

“Miếng vá in lưng áo” giống mảnh nương vuông vắn trên đồi. Nhưng đấy là

cái cớ để bộc lộ những ngẫm ngợi về cuộc sống quê hương:

“Miếng vá dịu dàng bàn tay

Bát cơm vơi dâng đầy chiu chắt

Những mảnh nương vá đắp

Cuộc sống dài chưa dễ lành nguyên”

(Mảnh nương trên đồi)

Biện pháp tu từ so sánh làm cho cảm hứng ngợi ca của tác giả thêm rõ nét

hơn. Gợi tả những con người vui tính, hiếu khách, trọng ân tình tác giả viết:

“Cái bắt tay chặt như thắt nút/ Nụ cười không bao giờ khép”. Nhà thơ ngợi ca

quê hương, những con người lao động, mà hình ảnh hạt lúa là kết tinh đẹp

nhất, trọn vẹn nhất:

“Ta sinh ra trên đất dưới trời

Như hạt lúa là mẹ

Sữa cho đời không cạn

Như hạt lúa là con

Buồn vui quấn quýt nối mùa

Như hạt lúa là bạc, bạc không thể sánh

Như hạt lúa là vàng, vàng có thể bỏ

Hạt lúa tỏ như ngàn sao

Muôn vàn đời lấp lánh”.

(Cây lúa)

Lò Cao Nhum còn thường sử dụng thủ pháp phóng đại trong thơ. Thủ

pháp phóng đại được tác giả sử dụng khi muốn thể hiện tính cách ngang tàng

của con người miền núi phóng khoáng, mạnh mẽ. Trong dân ca Thái, đôi bàn

tay người phụ nữ thường được ngợi ca bằng những chất liệu quen thuộc và thủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

pháp phóng đại:

87

“Đụng vào khung cửi vải thành hoa.

Tung nắm tấm thành ra đàn gà.

Khua cái chầy hoa ra gạo trắng.

Đụng vào cỏ thì cỏ chết nắng.

Vuốt lên lúa, bụi lúa ra bông”.

Lò Cao Nhum cũng sử dụng thủ pháp phóng đại khi viết về bàn tay lao

động tượng trưng cho cốt cách của người miền núi:

“Bàn tay gieo

Ra trái, ra cơm

Râm ran tiếng chống sàn, sửa gác…

Bàn tay ôm

Mười ngón hôn nhau qua biển núi”.

(Bàn tay)

Bên cạnh những bài thơ, những câu thơ hay, độc đáo, tạo được nhiều ấn

tượng cho độc giả, ta cũng cần nhìn nhận một cách khách quan, một số câu

thơ của Lò Cao Nhum còn quá mộc mạc, chưa thực sự chau chuốt. Như

trong bài thơ Ơi mình, muốn diễn tả sự vất vả, lam lũ, đức hy sinh của người

vợ, nhà thơ viết:

“Chiều vác đầy cối nước

Đồ cơm khuya cho bữa hôm mai

Thìa canh qua lưỡi còn nghẹn

Nựng con lời hát nửa chừng”

(Ơi mình)

Câu thơ chưa gợi được nhiều cảm xúc cho người đọc. Tuy nhiên, như TS

Đỗ Thu Huyền (Viện Văn học) đã nhận ra, thơ Lò Cao Nhum mang ý nghĩa

triết lý sâu sắc, “điều này tuy có lúc khiến thơ anh hơi khiên cưỡng và đôi chỗ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“làm màu” nhưng đa phần tạo được hiệu ứng tốt” [13].

88

Tìm hiểu hệ thống các biểu tượng, thể thơ, ngôn ngữ thơ Lò Cao Nhum, ta

càng cảm nhận rõ hơn cốt cách của một con người yêu dân tộc mình tha thiết

với những tin tưởng, lạc quan. Cốt cách ấy phần nhiều được tạo nên bởi tính

dân tộc. Chất dân tộc trong thơ ông thể hiện ở hệ thống các biểu tượng thường

dùng và các ý nghĩa phái sinh của các biểu tượng ấy. Các biểu tượng “núi’,

“lửa”, “rượu” gần gũi với cuộc sống của con người nói chung, nhưng khi được

chuyển hóa vào các nghĩa phái sinh thì các nghĩa phái sinh ấy lại gần gũi với

cuộc sống của con người miền núi. Cốt cách con người yêu dân tộc mình còn

thể hiện ở lối diễn đạt trong thơ của ông. Không cần phải hùng hồn, lên gân, lên

cốt. Tính chất anh hùng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc vẫn được khẳng định, nó ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trong từng câu chữ, hình ảnh và giọng điệu vốn có của nhà thơ.

89

KẾT LUẬN

Nhà thơ Lò Cao Nhum là một gương mặt tiêu biểu của thơ ca dân tộc

Thái nói riêng, của thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung. Việc

nghiên cứu, phân tích đánh giá những đặc trưng thơ Lò Cao Nhum, từ đó khẳng

định đóng góp của ông vào thành tựu của Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam

hiện đại vừa có ý nghĩa lí luận vừa có ý nghĩa thực tiễn.

Thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu một số phương diện

nổi bật trong thế giới nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum: cảm hứng nghệ thuật và

hình tượng nhân vật trữ tình, hệ thống biểu tượng nghệ thuật, ngôn ngữ thơ và

các thể thơ trong thơ của nhà thơ dân tộc Thái này.

Ngợi ca quê hương, đất nước, con người, yêu quý, tự hào về truyền

thống văn hóa của dân tộc Thái và đồng bào miền núi Tây Bắc là cảm hứng chủ

đạo xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Lò Cao Nhum. Nhà thơ đã thể hiện sinh

động vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống con người miền núi bằng những vần thơ

giàu cảm xúc nhưng rất mộc mạc, chân thành. Nhân vật trữ tình được biểu hiện

linh hoạt, sinh động. Có lúc mạnh mẽ, phóng khoáng, có khi suy tư, hoài niệm.

Nét đẹp đậm chất miền núi trong thơ Lò Cao Nhum không phải chỉ được

thể hiện trong nội dung thơ mà còn thể hiện ở phương diện nghệ thuật. Nghệ

thuật thơ thể hiện ở việc sử dụng linh hoạt thể thơ tự do truyền thống mà nhà

thơ được thừa hưởng từ văn học dân gian Thái. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi

với ngôn ngữ của đồng bào miền núi. Sự giản dị ấy được thể hiện trong cách

dùng từ, cách diễn đạt thẳng thắn, bộc trực; giọng thơ mộc mạc, chân thành,

gần gũi với ngôn ngữ đời sống hàng ngày của người dân tộc miền núi. Các biện

pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, phóng đại… được sử dụng hợp lí, sáng tạo. Hệ thống

biểu tượng trong thơ ông độc đáo và sâu sắc, cách sử dụng biểu tượng tạo hiệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

quả nghệ thuật cao.

90

Thơ Lò Cao Nhum vừa có chất truyền thống vừa có tính hiện đại. Chất

truyền thống và tính hiện đại hòa quyện vào nhau trong cách nghĩ, cách cảm,

cách diễn đạt trong thơ. Suốt một chặng đường thơ miệt mài, Lò Cao Nhum đã

khẳng định một chỗ đứng riêng trong thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam. Dù bút

pháp sáng tác không hoàn toàn mới lạ nhưng thơ ông toát lên phong thái đầy tự

tin. Lò Cao Nhum đã khẳng định được vị trí và đóng góp của mình trong nền

thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nhiều bài thơ hay của ông được người

đọc yêu quý, trân trọng.

Có thể khẳng định Lò Cao Nhum là một cây bút có nội lực sáng tác

mạnh. Sau tập thơ Rượu núi chọn lọc (2010) đến nay, Lò Cao Nhum cũng đã

sáng tác được nhiều bài thơ mới, tuy chưa in thành tập nhưng mỗi bài thơ ra đời

đều được bạn đọc đón nhận tích cực. Hiện nay, dù đã vào tuổi “lục tuần” nhưng

Lò Cao Nhum vẫn đang bền bỉ sáng tác, say mê khám phá vẻ đẹp của quê

hương, đất nước; tìm hiểu những nét đẹp của cuộc sống và con người; từ đó suy

tư, chiêm nghiệm, tìm cảm hứng mới cho thơ. Cũng cần nhìn nhận một cách

khách quan, bên cạnh những thành công, thơ Lò Cao Nhum còn có những giới

hạn nhất định trong cách thể nghiệm hình thức mới cho thơ. Bên cạnh những

câu thơ tài hoa có những câu thơ còn thô mộc, chưa được gia công nhiều về

nghệ thuật (mặc dù hạn chế đó không làm ảnh hưởng đến chỗ đứng, vị thế của

nhà thơ cũng như lòng mến mộ của độc giả). Hy vọng, tâm hồn nhà thơ Lò Cao

Nhum vẫn giữ được thứ men say kì diệu của Rượu núi, tiếp tục có nhiều thành

công hơn nữa trên hành trình thơ.

Với công trình nghiên cứu này, tác giả luận văn đề xuất sử dụng kết quả

nghiên cứu làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy văn học địa phương trong

nhà trường tại tỉnh Hòa Bình. Từ năm học 2008 trở lại đây, khi Bộ Giáo dục và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Đào tạo có công văn hướng dẫn thực hiện việc giảng dạy văn học địa phương

91

tại các trường Trung học Phổ thông, Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình cũng đã

có hướng dẫn thực hiện đối với các trường trong tỉnh. Nhưng trong quá trình

thực hiện, các trường phổ thông gặp những khó khăn nhất định. Một trong

những khó khăn lớn nhất đó là nguồn tài liệu tham khảo để giáo viên làm căn

cứ giảng dạy còn đang thiếu rất nhiều. Vì thế, đề tài Thơ Lò Cao Nhum sẽ góp

phần làm phong phú lượng tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh.

Đối với các em học sinh, qua học tập, tìm hiểu thơ Lò Cao Nhum, các

em sẽ có hiểu biết về một nhà thơ dân tộc Thái ngay trên mảnh đất các em hằng

gắn bó, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt là niềm tự hào về

truyền thống văn hóa, cuộc sống, con người thiểu số vùng cao.

Hiện nay, tại tỉnh Hòa Bình có một số tác giả sáng tác đạt được những

thành tựu nhất định nhưng chưa được nghiên cứu một cách toàn diện. Vì vậy,

hướng tiếp cận đối tượng nghiên cứu của đề tài cũng có thể được vận dụng để

nghiên cứu chân dung văn học của các tác giả dân tộc thiểu số trong tỉnh Hòa

Bình và các tác giả dân tộc thiểu số khác trong nền văn học hiện đại Việt Nam.

Việc nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum không chỉ nhằm tôn vinh giá trị và

đóng góp của thơ ông với nền thơ hiện đại Việt Nam mà còn góp phần lí giải,

làm sáng tỏ tính truyền thống và tính hiện đại, trong sáng tác của các nhà thơ

dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó chúng tôi mong muốn góp thêm một ý kiến về

vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống trong văn học hiện đại, trong bối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cảnh hội nhập văn hóa hiện nay.

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

2.

3. 4. 5.

6.

7.

8.

9.

Nông Quốc Bình, Cao Duy Sơn, Hoàng Tuấn Cư (2007), Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới, Nxb Văn hóa dân tộc. Huy Cận (1994), Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Minh Đức chủ biên (2001), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. Hà Minh Đức chủ biên (2008), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học (tập II), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Lò Ngọc Duyên (sưu tầm - biên soạn) (2002), Tâm tình người yêu (Tản chụ - Xiết xương), trường ca dân tộc Thái, Nxb Văn hóa dân tộc. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1996), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, trang 44. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, TPHCM Nguyễn Văn Hòa (2011), Dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin.

10. Hội văn học Nghệ thuật Hòa Bình (2010), 20 năm văn học Hòa Bình

(1991 - 2010), Nxb Hội nhà văn.

11. Đỗ Thị Thu Huyền (2003), “Tình hình nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số trên tạp chí Nghiên cứu văn học từ 1960 đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, phê bình và lịch sử văn học, số 11.

12. Đỗ Thị Thu Huyền (2012), Lò Cao Nhum Tình bền củi lửa, phongdiep.net

đăng ngày 27/9/2012.

13. Đỗ Thị Thu Huyền (2014), Thơ dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc thành tựu

14.

và triển vọng, website: Khoa Ngữ văn Đại học Tây Bắc. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, tr. 699.

15. Lê Đình Kỵ, Phương Lựu (1983), Cơ sở lý luận văn học (tập III), Nxb

Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

16. Nguyễn Văn Lộc (2010), Nghiên cứu bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hóa một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb Đại học Thái Nguyên. 17. Nét mới trong thơ Lò Cao Nhum, website Văn học quê nhà, đăng ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

9/1/2015.

93

18. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa.

19. Lò Cao Nhum (1996), Rượu núi, Thơ, Nxb Văn hóa dân tộc. 20. Lò Cao Nhum (1997), Soi gương núi, Thơ, Sở Văn hóa Thông tin Hòa Bình. 21. Lò Cao Nhum (2000), Sàn trăng, Thơ, Hội văn học Nghệ thuật Hòa Bình. 22. Lò Cao Nhum (2001), Theo lời hát về nguồn, Thơ, Nxb Văn hóa dân tộc. 23. Lò Cao Nhum (2009), Gốc trời, Thơ, Nxb Hội nhà văn. 24. Lò Cao Nhum (2010), Rượu núi, Thơ chọn lọc, Nxb văn học. 25. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng. 26. Bùi Việt Phương (2015), Nét mới trong thơ Lò Cao Nhum, Web Văn học

quê nhà, 9-01-2015.

27. Trần Đình Sử (2008), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục. 28. Tạp chí Văn nghệ Hà Sơn Bình, số tháng 8 năm 1980 29. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (2012), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn

hóa dân tộc.

30. Trần Quốc Thực (2000), Lò Cao Nhum Trên sàn trăng, Báo văn nghệ

Dân tộc miền núi, Hội nhà văn Việt Nam.

31. Trần Thị Việt Trung (2010), Bản sắc dân tộc trong Thơ các dân tộc thiểu

số Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.

33.

32. Trần Thị Việt Trung (2013), Nghiên cứu, lí luận phê bình Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Diện mạo và đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên. Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo (2011), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại - một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên, tr.172.

34. Trường Đại học Tây Bắc (2014), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia

“Ngôn ngữ và Văn học vùng Tây Bắc”, Nxb Đại học Sư phạm.

35. Từ điển tiếng việt (2000), Nxb Giáo dục. 36. Lò Vũ Vân (2010), Văn hóa dân gian người Thái vùng Mộc Châu, Phù

Yên, Bắc Yên, tỉnh Sơn La, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

37. Văn nghệ Hà Sơn Bình, số tháng 9 năm 1980, năm 1997, trên báo Văn

nghệ của Hội nhà văn Việt Nam số tháng 4.

38. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học vấn đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

và suy nghĩ, NXB Giáo dục, TPHCM.

94