BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------------

Đào Duy Tùng

TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC TP. HỒ CHÍ MINH – 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------------

ĐÀO DUY TÙNG

TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. DƯ NGỌC NGÂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được

sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trong tổ bộ môn Ngôn

ngữ khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô trong tổ bộ môn Ngôn

ngữ khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt là những

thầy cô đã tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập tại trường.

Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Dư Ngọc Ngân đã dành rất

nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận

văn.

Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Sư

phạm TP. Hồ Chí Minh, Phòng sau đại học đã tạo rất nhiều điều kiện để tôi học tập

và hoàn thành tốt khóa học.

Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn quý anh, chị học viên cùng lớp, các đồng

nghiệp đã động viên, ủng hộ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học và làm

luận văn.

Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình

và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong

nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2012

Tác giả

LỜI CAM ĐOAN

Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, thu thập số liệu và viết luận văn,

người viết đã tham khảo nhiều tài liệu và có ghi chú rõ ràng nguồn trích dẫn. Do

vậy, ngoài những trích dẫn được ghi xuất xứ, tôi xin cam đoan rằng toàn bộ những

nội dung và số liệu trong luận văn này do tôi tự khảo sát, nghiên cứu và thực hiện.

Tác giả

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục

DẪN NHẬP ............................................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ............................. 8

1.1. Từ gốc Hán và từ Hán Việt ............................................................................................ 8

1.2. Phân biệt cách đọc Hán Việt, yếu tố gốc Hán, tiếng Hán Việt, từ Hán Việt ................ 11

1.3. Khái niệm và nhận diện từ ngữ Hán Việt ..................................................................... 13

1.4. Phân loại từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt .................................................................. 20

1.4.1. Từ Hán Việt ............................................................................................................... 20

1.4.2. Ngữ cố định Hán Việt ............................................................................................... 22

1.5. Sự khác biệt giữa từ ngữ Hán Việt và từ ngữ thuần Việt đẳng nghĩa........................... 23

1.5.1. Về sắc thái ý nghĩa .................................................................................................... 23

1.5.2. Về sắc thái biểu cảm .................................................................................................. 24

1.5.3. Về màu sắc phong cách ............................................................................................. 24

1.6. Khái quát về ca dao Nam Bộ ........................................................................................ 24

1.6.1. Ca dao Nam Bộ ......................................................................................................... 25

1.6.2. Ngôn ngữ ca dao Nam Bộ ......................................................................................... 25

1.7. Tiểu kết ......................................................................................................................... 28

Chương 2. TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ TRÊN BÌNH DIỆN

NGÔN NGỮ............................................................................................................................ 29

2.1. Đặc điểm về ngữ âm của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ ................................ 29

2.1.1. Từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm toàn dân .................................................................. 29

2.1.2. Từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm phương ngữ hóa ...................................................... 29

2.1.3. Từ ngữ Hán Việt có hai âm đọc Hán Việt ................................................................. 31

2.2. Đặc điểm về cấu tạo – ngữ pháp của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ .............. 32

2.2.1. Từ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ ............................................................................ 32

2.2.1.1. Từ đơn Hán Việt ..................................................................................................... 32

2.2.1.2. Từ ghép Hán Việt ................................................................................................... 33

2.2.2. Ngữ cố định Hán Việt trong ca dao Nam Bộ ............................................................ 40

2.2.2.1. Ngữ định danh Hán Việt ........................................................................................ 40

2.2.2.2. Thành ngữ Hán Việt ............................................................................................... 40

2.3. Ngữ nghĩa của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ ................................................ 43

2.3.1. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình yêu quê hương đất nước ................................................... 43

2.3.2. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình yêu nam nữ ....................................................................... 44

2.3.3. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình cảm gia đình ..................................................................... 44

2.3.4. Từ ngữ Hán Việt chỉ quan niệm về thế giới, về đạo đức, về cuộc sống, về con người

của người Nam Bộ ............................................................................................................... 46

2.4. Tiểu kết ......................................................................................................................... 48

Chương 3. TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ TRÊN BÌNH DIỆN SỬ

DỤNG ...................................................................................................................................... 50

3.1. Tần số xuất hiện của từ ngữ Hán Việt trong quyển Ca dao dân ca Nam Bộ (có so sánh

với Ca dao Nam Trung Bộ và Ca dao Việt Nam) ................................................................ 50

3.2. Vị trí của từ ngữ Hán Việt trong bài ca dao Nam Bộ ................................................... 54

3.3. Chức năng tạo văn bản của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ ............................. 56

3.3.1. Chức năng làm dẫn ngữ trong bài ca dao .................................................................. 56

3.3.2. Chức năng tạo nội dung chính cho bài ca dao ........................................................... 63

3.4. Giá trị sử dụng của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ ......................................... 65

3.4.1. Từ ngữ Hán Việt tạo sắc thái trang trọng cho ca dao Nam Bộ .................................. 66

3.4.2. Từ ngữ Hán Việt tạo sắc thái trang nhã cho ca dao Nam Bộ .................................... 68

3.4.3. Từ ngữ Hán Việt làm tăng tính khái quát và trừu tượng cho ca dao Nam Bộ ........... 69

3.4.4. Từ ngữ Hán Việt làm tăng tính hàm súc cho ca dao Nam Bộ ................................... 71

3.4.5. Từ ngữ Hán Việt làm tăng tính thuyết phục cho ca dao Nam Bộ ............................. 82

3.4.6. Từ ngữ Hán Việt có tác dụng gieo vần, tạo nhịp cho ca dao Nam Bộ ...................... 84

3.5. Dùng từ Hán Việt đơn tiết trong ca dao Nam Bộ ......................................................... 86

3.6. Tiểu kết ......................................................................................................................... 87

KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 89

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 92

TÀI LIỆU KHẢO SÁT .......................................................................................................... 98

PHỤ LỤC

1

DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài

Ca dao là một thể loại của văn học dân gian Việt Nam, là những sáng tác trữ

tình nói lên cảm xúc của con người trong cuộc sống. Mỗi bài ca dao là một tác

phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ, do đó ngôn ngữ ca dao cũng được nghiên cứu ở

nhiều góc độ khác nhau. Ở Việt Nam, miền nào cũng có ca dao, ca dao của mỗi

miền lại có đặc điểm riêng mà rõ nhất là về ngôn ngữ, điều này làm nên tính đặc

trưng của ca dao được sưu tầm ở các vùng miền khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam.

Ca dao Nam Bộ là ca dao của người Việt được sưu tầm ở Nam Bộ nên nó

mang đặc điểm của vùng đất Nam Bộ, trong đó có việc sử dụng từ ngữ của người

dân nơi đây. Ngôn ngữ của ca dao Nam Bộ thường được nói đến là tính chất mộc

mạc, giản dị trong cách sử dụng từ ngữ. Tuy nhiên khảo sát ca dao Nam Bộ, chúng

tôi nhận thấy có một hiện tượng là việc sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt trong không

ít bài ca dao. Điều này cũng đã được đề cập đến trong một vài công trình nghiên

cứu về Việt ngữ học, tuy nhiên mới chỉ ở mức độ khảo sát ban đầu.

Tìm hiểu từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi không khỏi thắc

mắc tại sao Nam Bộ là vùng đất mới nhưng ca dao Nam Bộ lại sử dụng nhiều từ

ngữ Hán Việt đến như vậy. Việc sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt như vậy có đem lại

hiệu quả nghệ thuật gì không, hay đó chỉ là một sự ngẫu hứng, tùy tiện về cách dùng

từ ngữ trong ca dao Nam Bộ? Những từ ngữ Hán Việt được sử dụng trong ca dao

Nam Bộ có những đặc trưng gì về ngữ âm, cấu tạo, ngữ pháp, ngữ nghĩa so với từ

ngữ Hán Việt trong vốn từ vựng toàn dân, trong ca dao Việt Nam nói chung và ca

dao các vùng miền khác nói riêng? Đó là những vấn đề thú vị, cần được đi sâu

nghiên cứu. Vì lẽ đó chúng tôi đã chọn vấn đề Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam

Bộ làm đề tài nghiên cứu của luận văn cao học.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Ca dao Nam Bộ xuất hiện cùng với lịch sử khẩn hoang Nam Bộ vào khoảng

thế kỷ XVII. Tuy nhiên, cái mốc khởi đầu của công việc sưu tầm về ca dao Nam Bộ

lại bắt đầu vào khoảng cuối thế kỷ XIX – năm 1888. Theo Huỳnh Ngọc Trảng: “Sáu

2

“câu hát” được Trương Vĩnh Ký công bố ngay trên số đầu tiên của bộ Micellanées

(Imprimerie Commerciale Rey Curiol, 1888) có thể được coi là cái mốc khởi đầu

của công việc sưu tầm ca dao Nam Bộ” [75; tr.5]. Cũng theo tác giả: “Ngoài các

“câu hát” trong Miscellanée (1888) và những câu “tục diêu” dẫn chứng trong bộ

“Đại Nam Quốc âm tự vị” (1895) thì cuốn “Câu hát An Nam” của Trương Minh

(Ký?) xuất bản ở Sài Gòn, năm 1886 có thể coi là sưu tập ca dao – dân ca Nam Bộ

đầu tiên. Kế đó, sưu tập câu hát góp – Recueill de Chanson populaires (xuất bản lần

đầu năm 1897, tái bản lần thứ tư, 1910) của Huỳnh Tịnh Của là sưu tập đáng chú ý

khác” [75; tr.5].

“Đầu thế kỷ XX, cùng với các ấn phẩm thơ, tuồng, truyện, tích (mà đa phần

là “bổn cũ soạn lại” và dịch ra quốc ngữ, các tài liệu Hán Nôm) các sưu tập ca dao

cũng được xuất bản ngày càng nhiều hơn” [75; tr.5].

Cuối thế kỷ XX cuốn Ca dao dân ca Nam Bộ được tập thể tác giả: Bảo Định

Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị sưu tầm và được xuất bản

năm 1984. Có thể nói đây là một công trình có giá trị, đặc biệt đối với những người

quan tâm đến ca dao – dân ca Nam Bộ.

Đến nay, việc sưu tầm và nghiên cứu ca dao Nam Bộ đạt những thành tựu

đáng khích lệ, mặc dù chúng ta biết rằng rõ ràng là những gì mà chúng ta sưu tầm

được là một phần quá ít ỏi so với những gì đã bị thời gian xóa mờ.

Trong suốt thời gian qua, ca dao Nam Bộ là đối tượng nghiên cứu của nhiều

nhà nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Từ đó, ca dao Nam Bộ đã từng bước

được khám phá và khẳng định vị trí của mình trong kho tàng văn học dân gian Việt

Nam.

Nghiên cứu ca dao từ phương diện ngôn ngữ đã có các công trình, bài báo

của các tác giả như: “Phương ngữ và ca dao dân ca địa phương” (Trên cứ liệu của

phương ngữ và ca dao dân ca các tỉnh phía Nam) của Trịnh Sâm (Tạp chí Văn học

số 5 – 1986). Trong bài viết, tác giả “coi phương ngữ như điều kiện sống còn của ca

dao dân ca” và nêu một số dấu hiệu mà tác giả gọi là “đặc trưng của phương ngữ

trong ca dao dân ca địa phương” [54; tr.422-423]. Cái đặc trưng của ca dao dân ca ở

3

các tỉnh phía Nam chính là ở phương ngữ, thế nhưng nhiều công trình sưu tầm, biên

soạn lại muốn vươn tới một ngôn ngữ thống nhất, nên có phần chủ quan trong việc

chỉnh sửa ngôn từ. Đứng trước thực trạng này, tác giả bài nghiên cứu viết: “Nếu

như các công trình biên soạn trên bình diện cả nước (…), về mặt ngôn ngữ, phần

lớn được biên soạn theo phương ngữ Bắc thì trong các tập sách xuất bản ở các tỉnh

phía Nam sau 1975, các yếu tố phương ngữ tuy chưa bị gạt hết, nhưng thái độ đối

xử với nó hết sức dè dặt, ở đôi chỗ do công tác sưu tầm biên soạn chưa chu đáo, các

nhà làm sách lại gán ghép theo cách nghĩ, cách nói của các phương ngữ khác, và

đặc biệt thu nạp khá lớn số lượng ca dao dân ca vốn không phải của địa phương

mình” [54; tr.423]. Tác giả cũng chỉ ra một số biến thể ngữ âm trong phương ngữ

miền Nam nếu đặt vào vị trí tương ứng thì cách gieo vần sẽ khá hoàn chỉnh, làm

tăng thêm giá trị nghệ thuật của câu ca dao dân ca lên rất nhiều. Không dừng lại ở

đó, tác giả bài viết còn chỉ ra sắc thái riêng của ngữ khí từ trong ca dao dân ca các

miền khác nhau và nêu ra biến thể ngữ âm trong cách phát âm của từng miền trong

ca dao dân ca; các tên gọi, sự vật, hiện tượng mới có ở vùng này không có ở vùng

khác; các tên gọi khác nhau của các phương ngữ đối với cùng một sự vật hiện

tượng; yếu tố chỉ địa danh trong các phương ngữ.

Trong bài viết “Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ địa danh trong ca dao Nam

Bộ” (Tạp chí Văn hóa dân gian số 4 – 1999), tác giả Trần Văn Nam đã khảo sát

1000 lời ca dao trong Ca dao dân ca Nam Bộ và kết quả thu được là “111 lần từ

riêng chỉ địa danh xuất hiện” [44; tr.49]. Những tên riêng gồm các loại: “Những địa

danh thuộc địa lý Nam Bộ (…); những địa danh cách xa vùng địa lý Nam Bộ (…)

và những địa danh gắn với điển tích và lịch sử Trung Quốc cổ đại” [44; tr.49]. Theo

tác giả, các từ chỉ địa danh trong ca dao Nam Bộ là có ý nghĩa biểu trưng: “Nam

Vang trong ca dao Nam Bộ là một nơi xa xôi, là biểu trưng cho sự ngăn cách dài

lâu. Một khi người tình đi Nam Vang có nghĩa là chia phôi, là sầu ly biệt” [44;

tr.49]. Tác giả còn cho rằng: “Trong ca dao Nam Bộ, những tên riêng gắn với địa

danh thuộc Trung Hoa cổ đại hoàn toàn có ý nghĩa biểu trưng. Những tên riêng này

luôn xuất hiện với cấu trúc sóng đôi (cấu trúc song song)” [44; tr.53]. Cũng trên Tạp

4

chí Văn hóa dân gian số 6 – 2003, tác giả Trần Văn Nam còn có bài“Điển tích trong

ca dao Nam Bộ: tiếp nhận và cách tân”. Tác giả viết: “Điển tích trong ca dao Nam

Bộ là bằng chứng của việc văn học viết tác động, ảnh hưởng trở lại đối với văn học

dân gian. Về mặt thi pháp, ca dao Nam Bộ đã tiếp thu một đặc điểm thi pháp của

thơ Việt Nam trung đại. Về mặt sử dụng, ca dao Nam Bộ dùng câu chữ, những điển

tích đã từng xuất hiện trong thơ bác học, những hình tượng nhân vật trong các

truyện thơ của dân tộc” [45; tr.22]. Tác giả nêu lên vai trò của các nhà Nho trong

việc sáng tác, đưa điển tích lấy từ sách kinh điển của Nho giáo, sách chữ Hán nói

chung. Giới bình dân đã tiếp thu lại những điển tích đó ở những nhà Nho. Tác giả

bài viết nhấn mạnh: “Ở Nam Bộ, không hiếm những ông lão không đọc được Hán

Việt, không đọc được ngay cả quốc ngữ nhưng vẫn thuộc lòng những câu nói trong

Luận ngữ, Mạnh Tử, Đạo đức kinh… Điều này còn được chứng minh qua thực tế

khảo sát ca dao Nam Bộ. Trong ca dao Nam Bộ có một lượng khá lớn thành ngữ

Hán hoặc là một dòng thơ Hán Việt” [45; tr.22]. Đặc trưng của việc sử dụng điển

tích trong ca dao Nam Bộ chính là ở sự tiếp nhận và cách tân, một số điển tích

Trung Hoa đi vào ca dao Nam Bộ đã được bình dân hóa và biểu trưng hóa rất hay,

rất Nam Bộ.

Nguyễn Phương Châm với bài “Từ gốc Hán, Điển tích Hán trong ca dao

người Việt ở Nam Bộ” (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 6 – 2001) đã mang đến cho

người đọc một cái nhìn sơ lược về lớp từ gốc Hán và điển tích Hán được sử dụng

trong ca dao Nam Bộ. Từ việc khảo sát từ gốc Hán, điển tích Hán trong ca dao

người Việt ở Nam Bộ, tác giả cho rằng: “Từ gốc Hán xuất hiện nhiều đã làm cho ca

dao Nam Bộ có cái vẻ trang trọng ở hình thức”; “từ gốc Hán đã làm phong phú

thêm ngôn ngữ của tình yêu đôi lứa, làm đẹp thêm, thiêng liêng hơn thứ tình cảm

vốn đã rất được trân trọng này” [9; tr.54]. Về điển tích, tác giả viết: “Tuy tần số

xuất hiện không cao nhưng những điển cố điển tích Hán đã thêm một lần minh

chứng cho nhận định người Nam Bộ ưa sử dụng Hán ngữ và còn lưu giữ được nhiều

vốn từ đó trong ca dao. Điển cố điển tích Hán thường được lấy từ các câu chuyện

cổ, các tích cổ của Hán” [9; tr.56]. Từ đó tác giả đi đến nhận định: “Nhìn chung, sự

5

xuất hiện tương đối nhiều của từ gốc Hán, điển cố điển tích Hán đã khiến cho ca

dao người Việt Nam Bộ mang màu sắc Nho học” [9; tr.56]. Ngoài ra thì tác giả bài

viết cũng lý giải việc ca dao Nam Bộ sử dụng nhiều từ gốc Hán và điển tích Hán là

do thành phần sáng tác đa dạng, trong đó có những người am tường Hán học; do sự

cộng cư giữa người Việt và người Hoa trên đất Nam Bộ; do người Nam Bộ tiến

hành vào buổi ban đầu sử dụng chữ quốc ngữ dịch các tác phẩm văn học lịch sử

Hán ra tiếng Việt; do lịch sử và do tâm lý, ý thức của người Nam Bộ.

Nghiên cứu “Các từ đa tiết phương ngữ Nam Bộ trong ca dao, dân ca”

(Ngôn ngữ & đời sống, số 8, 2011), tác giả Trần Đức Hùng đã thống kê từ địa

phương trong ca dao dân ca Nam Bộ. Qua đó tác giả đưa ra bảy mô hình cấu tạo từ

đa tiết địa phương Nam Bộ, trong đó có ba mô hình cấu tạo từ láy và hai mô hình

cấu tạo từ ghép. Tác giả kết luận: “Từ những mô hình trên, chúng tôi thấy các từ đa

tiết phương ngữ Nam Bộ cũng được tạo ra từ các kiểu quan hệ tạo từ láy và từ ghép

trong tiếng Việt nhưng khác các từ đa tiết trong ngôn ngữ toàn dân là thành phần

các yếu tố và kiểu quan hệ liên kết tạo từ giữa các yếu tố đó…” [27; tr.37].

Trên đây là một số bài viết về ca dao Nam Bộ về mặt ngôn ngữ, do thời gian

và điều kiện sách vở có hạn nên chúng tôi có thể không điểm hết được lịch sử

nghiên cứu ca dao Nam Bộ. Nhưng qua những gì mà chúng tôi đã đọc được, có thể

nói rằng việc nghiên cứu từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ là một vấn đề chưa

được nghiên cứu sâu và có hệ thống. Tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của

các tác giả đi trước, người viết luận văn cố gắng nghiên cứu từ ngữ Hán Việt trong

ca dao Nam Bộ một cách có hệ thống về mặt ngôn ngữ.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng luận văn nghiên cứu là từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ.

Phạm vi nghiên cứu là cấu tạo, đặc điểm ngữ âm, ngữ nghĩa và hiệu quả sử dụng

của lớp từ ngữ này trong ca dao Nam Bộ.

4. Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, luận văn hướng vào

những mục đích cụ thể sau:

6

Bằng việc thống kê từ ngữ Hán Việt được sử dụng trong ca dao Nam Bộ,

người viết khái quát bức tranh về từ ngữ Hán Việt được sử dụng trong ca dao Nam

Bộ về cấu tạo, các đặc điểm ngữ âm, ngữ nghĩa và cách sử dụng. Trên cơ sở đó,

luận văn phân tích, nhận xét về hiệu quả của việc sử dụng từ ngữ Hán Việt trong ca

dao Nam Bộ.

Qua đó luận văn cũng chỉ ra rằng từ ngữ Hán Việt không chỉ xuất hiện trong

văn học viết mà còn xuất hiện cả trong văn học truyền khẩu (văn học dân gian).

5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

5.1. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành được đề tài này, người viết đã sử dụng các phương pháp sau:

(i) Phương pháp thống kê ngôn ngữ học: Dựa vào tác phẩm Ca dao dân ca

Nam Bộ, luận văn thống kê các từ ngữ Hán Việt được sử dụng theo một số tiêu chí

đã được định hướng.

(ii) Phương pháp so sánh: Để thấy được đặc điểm của việc dùng từ ngữ Hán

Việt trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi đã so sánh ngôn ngữ ca dao Nam Bộ với ngôn

ngữ ca dao các vùng miền khác như Bắc Bộ, Trung Bộ. Ngoài ra, luận văn còn đối

chiếu từ ngữ Hán Việt với từ ngữ thuần Việt đẳng nghĩa về giá trị sử dụng.

(iii) Phương pháp miêu tả: Luận văn miêu tả những ý nghĩa của số liệu thu

thập được thông qua kết quả thống kê, khảo sát.

Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số phương pháp, thủ pháp bổ trợ khác

nữa khi cần thiết như thủ pháp phân tích; phương pháp khái quát, tổng hợp…

5.2. Nguồn ngữ liệu

Nguồn ngữ liệu nghiên cứu được khảo sát, thống kê trong sách Ca dao dân

ca Nam Bộ của tập thể tác giả: Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh,

Bùi Mạnh Nhị do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1984.

6. Ý nghĩa của đề tài

Ý nghĩa lý luận: Luận văn đề cập đến một lớp từ ngữ vay mượn đặc sắc

trong tiếng Việt được sử dụng không chỉ trong văn học viết mà còn trong cả văn học

7

dân gian, qua đó góp phần tìm hiểu ngôn ngữ ca dao nói chung và ngôn ngữ ca dao

Nam Bộ nói riêng.

Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài làm sáng rõ về ngôn ngữ ca dao Nam Bộ và góp

phần khẳng định việc sử dụng ngôn ngữ bác học vào trong thể loại văn học dân gian

một cách khéo léo, vừa phải, hợp lí sẽ mang lại hiệu quả nghệ thuật cao.

Đề tài nghiên cứu này sẽ có đóng góp nhất định trong việc tìm hiểu từ ngữ

Hán Việt và việc giảng dạy văn học dân gian (phần ca dao dân ca) trong nhà trường.

7. Bố cục luận văn

Luận văn gồm dẫn nhập, nội dung chính và kết luận.

Phần nội dung chính của luận văn được cấu trúc thành 3 chuơng:

Trong chương 1, luận văn trình bày những cơ sở lý luận về từ ngữ Hán Việt

như: phân biệt từ gốc Hán và từ Hán Việt; phân biệt cách đọc Hán Việt, yếu tố gốc

Hán, tiếng Hán Việt, từ Hán Việt; trình bày khái niệm, cách nhận diện và phân loại

từ ngữ Hán Việt; nêu ra một vài khác biệt giữa từ ngữ Hán Việt với từ ngữ thuần

Việt đẳng nghĩa; ngoài ra, trong chương này luận văn cũng trình bày khái quát về ca

dao Nam Bộ và ngôn ngữ ca dao Nam Bộ.

Trong chương 2, luận văn miêu tả, phân tích đặc điểm của từ ngữ Hán Việt

trong ca dao Nam Bộ ở các khía cạnh: đặc điểm về ngữ âm, đặc điểm về cấu tạo –

ngữ pháp và các phạm trù nghĩa biểu hiện chủ yếu của từ ngữ Hán Việt.

Trong chương 3, luận văn khảo sát, phân tích đặc điểm sử dụng của từ ngữ

Hán Việt trong ca dao Nam Bộ: về tần số sử dụng, vị trí và chức năng sử dụng của

từ ngữ Hán Việt và giá trị sử dụng của từ ngữ Hán Việt.

8

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ

CÓ LIÊN QUAN

Để thực hiện đề tài này, trước hết cần xác định rõ một số khái niệm liên quan

sẽ được sử dụng trong luận văn. Trên cơ sở trình bày kết quả nghiên cứu của những

công trình đi trước, người viết đi đến lựa chọn những quan niệm làm cơ sở cho việc

thực hiện đề tài này.

1.1. Từ gốc Hán và từ Hán Việt

Trong một công trình nghiên cứu về Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt, Lê

Đình Khẩn viết: “Có thể nói, trong lãnh vực nghiên cứu lớp từ vựng gốc Hán trong

tiếng Việt, Maspéro và Vương Lực là những người xứng đáng được ghi công đầu.

Kết quả nghiên cứu của hai ông đã tạo cơ sở cho các nhà Việt ngữ học Việt Nam

sau này” [36; tr.5-6]. Theo Lê Đình Khẩn: “…Có lẽ ông (Maspéro) là người đầu

tiên tiến hành thống kê và công bố số lượng từ Hán trong tiếng Việt. Với tỉ lệ 60%

từ Hán trong tiếng Việt, ông đã tưởng tiếng Việt là một nhánh của cái gốc Hán Tạng

[36; tr.5]. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Vương Lực, nhà Hán ngữ học người

Trung Quốc góp phần đặt nền móng cho việc nghiên cứu lớp từ vựng gốc Hán trong

tiếng Việt. Kết hợp các cứ liệu lịch sử với các ngữ liệu về tiếng Hán, tiếng Việt,

Vương Lực đã chia từ Hán (từ đơn) trong tiếng Việt ra thành ba loại gọi là Hán Việt

cổ, Hán Việt và Hán Việt Việt hóa.

Ở Việt Nam, Nguyễn Tài Cẩn với công trình Nguồn gốc và quá trình hình

thành cách đọc Hán – Việt (1979) đã chia cách đọc Hán – Việt thành: cách đọc Hán

– Việt cổ (tiền Hán – Việt), cách đọc Hán – Việt đời Đường (cách này còn lưu lại

cho đến nay và gọi là cách đọc Hán Việt), cách đọc Hán – Việt Việt hóa và cách

đọc Hán – Việt thông qua một phương ngữ Hán.

Hiện nay, các nhà Việt ngữ học có nhiều cách lý giải khác nhau về từ gốc

Hán và từ Hán Việt. Trước hết, với tư cách là thuật ngữ ngôn ngữ học, từ Hán Việt

được giải thích là: “Từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, đã nhập hệ vào hệ

thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và

ngữ nghĩa của tiếng Việt; còn gọi là từ Việt gốc Hán. Ví dụ: chính phủ, quốc gia,

9

giang sơn, nhân dân, tổ quốc, xã tắc” [76; tr.369]. Như vậy, theo lời giải thích của

các tác giả Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học thì từ Hán Việt và từ gốc

Hán là một. Nguyễn Ngọc San cũng nhận định: “Lúc đầu nhiều người còn cho rằng

từ Việt gốc Hán chỉ bao gồm từ Hán Việt” [53; tr.141]. Nhưng, theo một số nhà

nghiên cứu khác thì từ Hán Việt và từ gốc Hán có sự phân biệt nhau.

Nguyễn Ngọc San [53] không đồng nhất từ gốc Hán và từ Hán Việt, các từ

gốc Hán được tác giả chia thành ba loại: từ tiền Hán Việt, từ Hán Việt và từ Hán

Việt hóa. Như vậy, theo tác giả thì từ Hán Việt chỉ là một bộ phận của từ gốc Hán.

Nguyễn Văn Tu căn cứ vào ngữ âm và thời gian du nhập đã phân biệt 3 loại

từ gốc Hán: từ Hán cổ, từ gốc Hán mượn của đời Đường và từ gốc Hán đã Việt hóa.

Trong đó, từ gốc Hán mượn của đời Đường chính là từ Hán Việt: “Những từ gốc

Hán mà người ta thường gọi là từ Hán Việt gồm một hệ thống những từ Hán cần

thiết cho việc giao tế lúc đó nhất là trong ngôn ngữ viết” [71; tr.282].

Cũng căn cứ vào thời gian du nhập, Đỗ Hữu Châu chia quá trình thâm nhập

của tiếng Hán thành hai thời kỳ: thời kỳ trước và thời kỳ sau cuộc đô hộ của triều

đại nhà Đường. Tác giả cho rằng: “Các từ Hán thâm nhập vào tiếng Việt vào thời kỳ

trước được phát âm theo hệ thống ngữ âm Hán cổ, khác với hệ thống ngữ âm Hán

Việt thâm nhập vào thời kỳ sau… Những từ Hán thâm nhập vào tiếng Việt từ cuộc

đô hộ của nhà Đường thì được phát âm căn bản như âm Hán Việt hiện nay [8;

tr.225].

Nguyễn Thiện Giáp phân từ ngữ gốc Hán thành 2 loại: các từ ngữ gốc Hán

đọc theo âm Hán – Việt (gọi tắt là từ Hán Việt) và các từ ngữ gốc Hán không đọc

theo âm Hán – Việt. Tác giả lập luận: “Vì người ta có thể đọc tất cả các chữ Hán (cổ

đại cũng như hiện đại) theo cách đọc Hán – Việt cho nên cần phân biệt từ gốc Hán

trong tiếng Việt và các từ Hán đọc theo âm Hán Việt” [19; tr.242]. Từ Hán Việt hay

từ gốc Hán đều là cách đọc chữ Hán của người Việt, tuy nhiên cách đọc đó được

hình thành ở các giai đoạn khác nhau trong lịch sử.

Các tác giả Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt “chia quá trình tiếp xúc Hán –

Việt thành hai giai đoạn lớn: một là giai đoạn từ đầu Công nguyên đến đầu đời

10

Đường (đầu thế kỷ VIII); hai là giai đoạn từ đời Đường (thế kỷ VIII – thế kỷ X) trở

về sau. Hai lần tiếp xúc lớn này cung cấp cho từ vựng tiếng Việt hai nguồn từ gốc

Hán mà như trước nay vẫn quen gọi là từ Hán cổ và từ Hán – Việt” [11; tr.213-214].

Ngoài ra, có một nhóm được du nhập vào tiếng Việt thông qua con đường khẩu ngữ

của những người nói phương ngữ tiếng Hán như: xì dầu, mì chính, vằn thắn, xá xíu,

sủi cảo, lẩu lục tào xá, tào phớ, chí ma phù, bát bảo lường xà… cũng được các tác

giả gọi là những từ gốc Hán.

Trong công trình Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nguyễn Văn Khang chia từ

ngoại lai thành: từ mượn Hán, từ mượn tiếng Pháp và từ tiếng Anh sử dụng trong

tiếng Việt. Từ mượn Hán được phân chia theo các góc nhìn khác nhau: (i) từ góc độ

cội nguồn, (ii) theo dòng thời gian của sự vay mượn, (iii) từ góc độ con đường vay

mượn, (iv) từ góc độ đồng hóa, (v) từ góc độ sử dụng và (vi) từ góc độ chức năng.

Cách phân chia phổ biến là theo dòng thời gian của sự vay mượn, Nguyễn Văn

Khang viết: “Theo dòng thời gian của sự vay mượn có thể tách từ mượn Hán thành

ba loại: từ tiền Hán Việt, từ Hán Việt và từ hậu Hán Việt [32; tr.92].

Tác giả Lê Đình Khẩn [36] trong công trình Từ vựng gốc Hán trong tiếng

Việt, từ góc độ lịch sử cũng đã chia từ gốc Hán trong tiếng Việt thành: từ tiền Hán

Việt, từ Hán Việt và từ hậu Hán Việt.

Diệp Quang Ban thì lại cho rằng: “Không phải mọi từ mượn từ tiếng Hán

đều là từ Hán Việt. Từ Hán Việt nói ở đây là từ mượn gốc Hán và đọc theo âm Hán

Việt. Như vậy là, những từ mượn từ tiếng Hán trước đời Đường như: buồng, buồm,

ngà, đìa, chém. v.v… và những từ mượn theo con đường khẩu ngữ (nói theo âm

Trung Quốc bây giờ) như: tài xế, mì chính, vằn thắn… không được coi là từ Hán

Việt” [Diệp Quang Ban (chủ biên) (1999), TiếngViệt 6 nâng cao, Nxb GD, HN, tr.

36 (dẫn theo Đặng Đức Siêu [56; tr. 9-10]).

Trần Trí Dõi [15] trong Giáo trình Lịch sử tiếng Việt cũng phân chia từ gốc

Hán trong tiếng Viêt thành: từ cổ Hán – Việt hay Hán – Việt cổ, từ Hán – Việt, từ

Hán – Việt Việt hóa.

11

Như vậy, hầu hết các tác giả đều phân biệt từ gốc Hán và từ Hán Việt, từ

Hán Việt chỉ là một bộ phận của từ gốc Hán là quan điểm được đông đảo các nhà

nghiên cứu đồng tình.

Các từ gốc Hán nói chung và từ Hán Việt nói riêng có vị trí rất quan trọng

trong từ vựng tiếng Việt. Về mặt số lượng, chúng chiếm hơn phân nửa tổng số từ

trong tiếng Việt (khoảng 60%); về mặt chất lượng, chúng tham gia vào mọi lĩnh vực

giao tiếp của đời sống người Việt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học,

pháp luật, y học, ngoại giao…Vì thế lớp từ này luôn được sự quan tâm thích đáng

đối với các nhà nghiên cứu, tìm hiểu về tiếng Việt.

Ngoài hai cách hiểu nêu trên về từ gốc Hán và từ Hán Việt, trong Việt ngữ học

hiện nay còn có một số khái niệm như cách đọc Hán – Việt, từ Hán Việt, tiếng Hán

Việt, yếu tố gốc Hán… cũng chưa có sự thống nhất, gây không ít khó khăn cho

người học.

1.2. Phân biệt cách đọc Hán Việt, yếu tố gốc Hán, tiếng Hán Việt, từ Hán Việt

Cách đọc Hán Việt thường được giải thích là cách đọc chữ Hán ở Việt Nam,

theo lối đọc riêng của người Việt. Theo Nguyễn Tài Cẩn: “Cách đọc Hán – Việt là

một cách đọc vốn bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Đường, mà cụ thể là

Đường âm dạy ở Giao Châu vào giai đoạn bao gồm khoảng hai thế kỷ VIII, IX;

nhưng cách đọc theo Đường Âm đó, sau khi Việt Nam giành được độc lập, đã dần

dần biến dạng đi, dưới tác động của quy luật ngữ âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt,

tách xa hẳn cách đọc của người Hán để trở thành một cách đọc riêng biệt của người

Việt và những người thuộc khu vực văn hóa Việt. Đây là một cách đọc tạo thành hệ

thống, nghĩa là trên lý thuyết có thể dùng để đọc toàn bộ kho tàng các ký hiệu văn

tự Hán, với khả năng gần như cách đọc của bản thân người Hán; nhưng đây lại là

một cách đọc độc lập, có đặc trưng riêng, chức năng riêng và có cả một lịch sử diễn

biến của riêng mình” [5; tr.14-15].

Yếu tố gốc Hán là những yếu tố đã được du nhập vào trong tiếng Việt, những

yếu tố này có thể liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với văn tự Hán. Chẳng hạn, “những

yếu tố người Việt có thể liên hệ trực tiếp ngay với một chữ Hán như 國quốc, 家 gia,

12

山 sơn, 水 thủy, hay những yếu tố không gây ra sự liên hệ như thế, ví dụ mùa (vốn

do vụ mà ra), gần (vốn do cận mà ra), hoặc mỳ chính (vốn do vị tinh mà ra) v.v.” [5;

tr.15].

Như vậy, nếu khái niệm cách đọc Hán Việt nặng về ngữ âm thì khái niệm

yếu tố gốc Hán nặng về từ vựng; yếu tố gốc Hán là yếu tố mà người Việt mượn từ

tiếng Hán, nhưng những yếu tố đó lại không trực tiếp liên quan gì đến cách đọc Hán

Việt. Nguyễn Tài Cẩn chia yếu tố gốc Hán làm ba trường hợp: (i) Trường hợp

mượn trước cách đọc Hán Việt như mùa, mùi, buồng, buồm… (ii) Trường hợp

mượn đời Đường, cùng một lần với cách đọc Hán – Việt, nhưng sau diễn biến theo

một con đường khác với cách đọc Hán – Việt. Ví dụ gan, gần, vốn, ván… (iii)

Trường hợp mượn thông qua một phương ngữ tiếng Hán, ví dụ, mỳ chính, cắc, lú

bú... [5; tr.16].

Yếu tố Hán Việt là những yếu tố mượn từ tiếng Hán, nhưng đó là những yếu

tố được mượn thông qua cách đọc Hán Việt, chẳng hạn, 山 sơn, 水 thủy, 國 quốc,

前 tiền, 後 hậu v.v.

Xét về mặt ngữ pháp, có thể chia các yếu tố Hán Việt thành trường hợp chỉ

là tiếng, nhưng không phải là từ (chẳng hạn: quốc, gia, sơn, thủy) và trường hợp

vừa là tiếng, vừa là từ (chẳng hạn: tuyết, cao, học).

Tiếng Hán Việt là đơn vị dùng để cấu tạo từ Hán Việt, nó không đứng một

mình, cũng không độc lập tham gia cấu tạo câu, chẳng hạn: quốc, gia, sơn, thủy v.v.

Từ Hán Việt là đơn vị có thể dùng độc lập và trực tiếp dùng để cấu tạo câu. Nhưng

do đặc điểm loại hình, tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính nên đa phần tiếng

thường trùng với từ, chẳng hạn, xuân, hạ, thu, đông, tuyết, cao, học v.v. Đây là vấn

đề còn đang gây tranh cãi trong tiếng Việt.

Như vậy, cách đọc Hán Việt là khái niệm nặng về ngữ âm, là cách đọc chữ

Hán của người Việt, do đó nó liên quan trực tiếp đến văn tự Hán. Yếu tố gốc Hán là

khái niệm nặng về từ vựng, nó có thể liên quan trực tiếp đến cách đọc chữ Hán của

người Việt, cũng có thể không liên quan gì đến văn tự Hán (như trên đã nói). Khác

với yếu tố gốc Hán, yếu tố Hán Việt là những yếu tố mượn thông qua cách đọc Hán

13

Việt. Điểm giống nhau giữa yếu tố Hán Việt và cách đọc Hán Việt là đều liên quan

đến văn tự Hán. Tiếng Hán Việt và từ Hán Việt nằm trong yếu tố Hán Việt, xét về

mặt ngữ pháp.

1.3. Khái niệm và nhận diện từ ngữ Hán Việt

1.3.1. Khái niệm từ ngữ Hán Việt

Bàn về từ Hán Việt, Nguyễn Văn Khang đã nhận định thật xác đáng rằng:

“Cho đến nay, khái niệm “từ Hán Việt” dường như mới chỉ được xác định về mặt lí

thuyết mà vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ trong thực tế và đó cũng là lí do giải thích vì

sao việc xác định một danh sách từ Hán Việt cụ thể vẫn chưa thể thực hiện được”

[32; tr.99]. Thật vậy, từ ngữ Hán Việt thường được hiểu chung chung là từ ngữ vay

mượn của tiếng Hán, nhưng lại phát âm theo cách phát âm Hán Việt, lối phát âm

riêng của người Việt. Nhưng trên thực tế, chưa có cơ sở khoa học nào chứng minh

được hệ thống ngữ âm lịch sử của tiếng Việt và tiếng Hán, cho nên khái niệm từ

Hán Việt vẫn mang tính ước đoán.

Có một điều cần khẳng định là từ ngữ Hán Việt nói riêng và từ ngữ gốc Hán

nói chung đã được chú ý nghiên cứu từ mấy chục năm trở lại đây và đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng. Ở đây cần phân biệt một số khái niệm: từ tiền Hán Việt

(từ Hán cổ), từ Hán Việt, từ Hán Việt Việt hóa, từ truyền khẩu gốc Hán.

Từ tiền Hán Việt hay còn gọi là từ Hán cổ là những từ gốc Hán du nhập vào

Việt Nam từ trước đời Đường chủ yếu thông qua con đường khẩu ngữ và được du

nhập một cách lẻ tẻ, chưa có hệ thống. Về mặt âm đọc, từ tiền Hán Việt được mô

phỏng theo âm Hán Thượng cổ. Ở giai đoạn này, hệ thống tiếng Việt còn thiếu từ

ngữ biểu đạt nên từ tiền Hán Việt được Việt hóa cao độ để bù đắp vào chỗ thiếu hụt

trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Và cũng chính vì chúng được Việt hóa cao độ

nên dần dần người Việt hiện đại không còn nhận ra được nguồn gốc vay mượn của

chúng, xem chúng là những từ thuần Việt. Chúng cũng giữ vai trò quan trọng trong

hệ thống từ vựng tiếng Việt, được người Việt sử dụng rộng rãi, phổ biến. Chẳng

hạn, những từ như buồng, buồm, bùa, bụt, mùa, mây v.v.

14

Còn về từ Hán Việt, Nguyễn Ngọc San cho rằng: “Khác với từ tiền Hán

Việt được du nhập một cách lẻ tẻ và đọc mô phỏng theo âm Hán Thượng cổ, lớp từ

Hán Việt được du nhập một cách ồ ạt và tạo thành một hệ thống ngữ âm riêng. Âm

Hán Việt là âm đọc của tất cả các từ Hán được Việt hóa theo một con đường như

nhau, xuất phát điểm của nó là âm Hán Trung cổ ở các thế kỉ VIII, IX, trước thời tự

chủ ít lâu. Âm này được Việt hóa từ đầu thời tự chủ (thế kỉ X) khi tiếng Hán đã mất

tính cách là một sinh ngữ nên tuân theo những quy luật ngữ âm tiếng Việt và phụ

thuộc vào bộ máy cấu âm của người Việt” [53; tr.155].

Trong công trình Văn phạm Việt Nam (Giản dị và thực dụng), Bùi Đức Tịnh

[62] đã nêu một cách hiểu đơn giản hơn về từ Hán Việt như sau: “Có thể định nghĩa

một cách giản dị rằng tiếng Hán Việt là những tiếng Hán phát âm theo lối Việt. Ban

đầu nó là những chữ Hán mà khi học trong sách Trung Hoa, các nhà tri thức nước ta

đọc trại đi theo giọng Việt...”.

Hầu hết các tác giả đều thống nhất từ Hán Việt là lớp từ tiếng Việt mượn

tiếng Hán, đọc theo âm Hán Việt. Cách đọc này có từ đời Đường, là kết quả trực

tiếp của sự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng Trung Quốc đời Đường, với tiếng Việt

cùng thời điểm. Sau đời Đường, hầu hết các từ mượn Hán qua con đường sách vở

được người Việt đọc theo cách này và đi vào kho từ vựng tiếng Việt được coi là từ

Hán Việt.

Từ Hán Việt Việt hóa, xét về mặt thời điểm hình thành thì chúng xuất hiện

sau từ Hán Việt, sau khi âm Hán Việt hình thành và trở nên một hệ thống ngữ âm

tương đối ổn định thì trong tiếng Việt vẫn tiếp tục xảy ra những sự biến đổi ngữ âm.

Những biến đổi này không tác động đồng loạt vào tất cả những bộ phận của âm Hán

Việt, vì hệ thống ngữ âm Hán Việt lúc này đã ổn định, nên chỉ tác động vào những

đơn vị lẻ tẻ. Các từ Hán Việt khi nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt đã chịu sự

tác động của quy luật biến đổi ngữ âm của tiếng Việt. Vì vậy, khiến một số từ đã

thay đổi diện mạo của mình, không giống với dạng ngữ âm Hán Việt ban đầu nữa.

Dạng ngữ âm Hán Việt của từ có khi vẫn tồn tại trong tiếng Việt, tạo nên những cặp

15

từ song song tồn tại. Chẳng hạn, những cặp từ như các – gác, can – gan, đao – dao,

đình – dừng, lực – sức v.v.

Từ gốc Hán mô phỏng theo phương ngữ Trung Quốc (còn gọi là từ truyền

khẩu gốc Hán), lớp từ này được du nhập vào tiếng Việt chủ yếu bằng con đường

khẩu ngữ của những người nói phương ngữ tiếng Hán. Loại này có số lượng ít,

không thành hệ thống, không mang tính phổ thông, chẳng hạn, bò bía, xí quách, xì

dầu, cháo quẩy, thèo lèo, lạp xưởng, xương xáo, số dách, mỳ chính, tàu hủ, há cảo.

Như vậy, có thể nói rằng từ ngữ Hán Việt là từ ngữ được đọc theo âm Hán

Việt, xuất phát điểm là âm Hán Trung cổ ở các thế kỉ VIII, IX đọc theo âm chuẩn ở

Trường An lúc bấy giờ. Không nên nói rằng từ ngữ Hán Việt là từ Việt gốc Hán,

điều này đúng nhưng chưa đủ, vì từ ngữ Hán Việt còn bao gồm cả những từ vốn

không phải là gốc Hán, mà do người Hán mượn một ngôn ngữ khác, rồi người Việt

vay mượn lại và đọc theo âm Hán Việt như các từ Hán Việt khác. Chẳng hạn,

những từ như trường hợp, kinh tế, cộng hòa có nguồn gốc từ tiếng Nhật Bản; phật,

nát bàn, Di Lặc có nguồn gốc từ tiếng Phạn. Ngoài ra, từ ngữ Hán Việt còn bao

gồm những từ do người Việt tạo ra nhưng sử dụng yếu tố cấu tạo có nguồn gốc

Hán, chẳng hạn, y sĩ, đại đội, tiểu đoàn, thiếu tá.

1.3.2. Nhận diện từ ngữ Hán Việt

Từ ngữ Hán Việt chiếm số lượng rất lớn trong hệ thống từ vựng tiếng Việt,

song việc nhận diện chúng lại là một việc làm không đơn giản. Sau khi du nhập vào

tiếng Việt, từ ngữ Hán hầu hết đều có sự biến đổi ở những mức độ khác nhau: “Với

nhiều dáng vẻ, chúng đã xen lẫn vào trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, rất nhiều

trường hợp khó có thể phân định ranh giới giữa từ ngoại lai và từ vốn có” [36;

tr.59]. Tiếng Việt và tiếng Hán đều là những ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính. Nét

tương đồng về mặt loại hình cộng thêm sự Việt hóa cao độ đã làm cho những đơn vị

vay mượn Hán nhanh chóng nhập hệ vào hệ thống tiếng Việt, gây không ít trở ngại

cho việc xác định ranh giới rạch ròi.

Nhận diện từ ngữ Hán Việt là thao tác đầu tiên nhưng lại rất quan trọng trước

khi muốn đưa ra bất cứ nhận định nào về các đơn vị này. Các nhà nghiên cứu

16

thường dựa vào chữ Hán và âm đọc Hán Việt làm xuất phát điểm để nhận diện từ

ngữ Hán Việt. Đây là cách làm mang tính phương pháp luận để xem xét các từ ngữ

Hán Việt trong các văn bản tiếng Việt, bao gồm cả văn bản Hán – Nôm lẫn văn bản

Latinh hóa. Theo Lê Đình Khẩn: “Đối với văn bản viết bằng chữ Nôm thì thao tác

này, nói chung, tương đối thuận lợi. Còn đối với loại văn bản đã Latinh hóa, tức là

văn bản chữ quốc ngữ, thì còn phải thêm một bước khác, bước “phục nguyên”,

bước “quy đổi” các âm tiết, các “tiếng” ra dạng viết ban đầu của nó, dạng viết mà

chủ yếu qua đó tiếng Việt đã vay mượn được từ Hán: chữ Hán. Nói cách khác, âm

đọc Hán Việt và chữ Hán có thể xem là dấu hiệu ban đầu để nhận biết phần lớn từ

gốc Hán” [36; tr.62-63]. Tuy nhiên, khi du nhập vào tiếng Việt, cái cấu trúc một thể

ba ngôi vốn có trong tiếng Hán: âm, hình, nghĩa không còn nữa. Tiếng Việt chỉ

mượn âm, nhưng âm cũng rất đa dạng, nghĩa cũng được mở rộng, thu hẹp, biến đổi

rất phong phú; đặc biệt, những từ mượn của tiếng Hán trong tiếng Việt hiện nay đều

không mượn hình. Từ một thể ba ngôi trong ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích

không còn nguyên dạng, do đó trên thực tế, nhận diện từ ngữ Hán Việt là rất khó

khăn. Càng khó khăn hơn đối với đại đa số những người không am tường chữ Hán.

Vì vậy, ngoài sự hiểu biết ít ỏi về vốn từ Hán Việt được học trong nhà trường,

người học phải xuất phát từ cảm thức ngôn ngữ để nhận diện từ ngữ Hán Việt như

đề xuất của tác giả Phan Ngọc (1992). Tác giả “đi tìm cái ấn tượng Hán Việt trong

tâm hồn tôi” (tr.9) và cho rằng: “Người bình thường nói năng và viết lách không hề

quan tâm đến lịch sử. Anh ta nói và viết dựa vào cái cảm thức ngôn ngữ của mình.

Anh ta cảm thấy từ này thuần Việt, từ kia Hán Việt, từ này dễ hiểu, từ kia khó hiểu,

từ này nghe sang trọng, từ kia nghe quá mộc mạc, từ này nghe kêu, từ kia ít âm

hưởng nghe không kêu, từ này nghe buồn, từ kia nghe vui v.v… Những ấn tượng ấy

rất mơ hồ, nhưng có thực” [48; tr.9-10]. Cách đề xuất của Phan Ngọc mang tính

cảm tính nhiều hơn là khoa học, bởi đây là mẹo.

Tác giả Lê Anh Hiền cho rằng: “Cho đến nay, gần như chưa có một tiêu chí

nào để có thể giúp phân biệt được từ Hán Việt với từ thuần Việt, trừ khi chỉ nói

chung chung “từ Hán Việt là một từ mượn của tiếng Hán”. Tác giả còn khẳng định:

17

Nói chung, đối với những người không có chút hiểu biết gì về chữ Hán mà yêu cầu

họ chỉ ra từ nào là từ Hán Việt là một việc rất khó” (dẫn theo Nguyễn Đức Tồn [69;

tr.45]. Tác giả cũng đã nêu một số mặt biểu hiện của từ Hán Việt giúp nhận biết từ

Hán Việt trong dòng ngữ lưu như sau:

1. Về ý nghĩa: từ Hán Việt là những từ tiếng Việt thường phải được giải

nghĩa thì mới hiểu chúng một cách thấu đáo. Ví dụ, đồng bào: người cùng ruột thịt

với nhau (cùng một bọc sinh ra) v.v…

2. Về mặt cấu tạo: theo đặc điểm cấu tạo danh từ của tiếng Hán thì yếu tố

phụ đặt trước yếu tố chính, ngược với trật tự cấu tạo từ tiếng Việt. Thí dụ: mĩ nhân

(mĩ: đẹp, nhân: người).

3. Về phương diện ngữ cảm: các từ Hán Việt thường có sắc thái trang trọng,

tao nhã (xem Nguyễn Đức Tồn [69; tr.45-46]).

Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn: “2 trong số 3 tiêu chí nêu trên để nhận diện

từ Hán Việt thuộc về nội dung ngữ nghĩa của từ. Còn tiêu chí cấu tạo từ thì chỉ áp

dụng được cho danh từ mà không áp dụng được cho động từ (có cấu trúc động + bổ

kiểu như: ái quốc, thất tình v.v.) [69; tr.46].

Trong bài viết của mình, với mục đích giúp cho học sinh nhận diện và phân

biệt được các tiếng Hán Việt nói chung, từ đơn Hán Việt nói riêng với các tiếng và

từ đơn thuần Việt, Nguyễn Đức Tồn đã chủ trương dựa vào đặc điểm cấu tạo âm

thanh (tức là các kết hợp âm có trong chúng). Từ đó, tác giả phân thành ba loại như

sau:

“Loại thứ 1: Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở các tiếng (hoặc từ đơn) Hán

Việt:

Bất cứ tiếng nào trong tiếng Việt có chứa các kết hợp âm sau đây thì đều là

tiếng Hán Việt (hoặc từ đơn Hán Việt).

- uyên (trừ ngoại lệ nguyền, chuyền, chuyện), thí dụ: duyên, tuyên, quyến v.v.

- uyết, thí dụ tuyệt, quyết, tuyết, tuyệt, thuyết v.v.

- ưu, thí dụ: cửu, cừu, cứu, bưu, bửu, ngưu v.v.

- uy, thí dụ: tuy, tùy, tủy, túy, quý, quỷ, quy v.v.

18

Câu văn để ghi nhớ giúp nhận diện tiếng (hoặc từ đơn) Hán Việt:

nguyện quyết cứu nguy

Bất cứ tiếng (hoặc từ đơn) nào có chứa vần của 4 từ trong câu trên dù có âm

đầu hoặc mang thanh điệu nào cũng đều là Hán Việt, trừ một vài ngoại lệ.

Loại thứ 2: Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở tiếng (hoặc từ đơn thuần Việt):

- Mọi tiếng có kết hợp âm ết đều là thuần Việt (trừ ngoại lệ: kết là Hán Việt).

- Mọi tiếng có kết hợp âm ưng đều là thuần Việt (ngoại trừ ưng, ứng, ngưng

là Hán Việt).

Những tiếng nào có âm đầu là [r] thì đều là thuần Việt

Thí dụ ro, rò, rỉ, rả, rẻ v.v.

Loại thứ 3: Các cấu tạo âm thanh có ở cả tiếng Hán Việt lẫn tiếng thuần

Việt:

Thí dụ: Đối với kết hợp “âm”:

- tâm, tẩm cẩm, lâm: Hán Việt

- lầm, bầm, gấm, lấm v.v.: thuần Việt” [69; tr.48-49].

Ngoài ra, đối với trường hợp các tiếng (hoặc từ đơn) có chứa những kết hợp

âm có thể là Hán Việt hoặc thuần Việt thì dùng 3 ba tiêu chí mà Lê Anh Hiền nêu ở

trên để nhận diện. Tác giả Nguyễn Đức Tồn còn đưa ra một thủ pháp khác nữa là:

“Một tiếng nếu đứng riêng một mình thì rất khó xác định là thuần Việt hay Hán

Việt. Để xác định ta thử tìm xem có từ ghép Hán Việt nào trong thành phần có chứa

tiếng đó hay không. Nếu tìm được thì tiếng được chứa trong từ ghép Hán Việt ấy

cũng chính là Hán Việt” [69; tr.48-49].

Đối với các từ song tiết là từ ghép Hán Việt, Nguyễn Đức Tồn đưa ra hai tiêu

chí:

- trật tự yếu tố: yếu tố chính đứng sau yếu tố phụ: hải quân, không phận,

chiến thuyền v.v.

- ý nghĩa của từ khái quát, trang trọng (so với từ thuần Việt nếu có). Thí dụ:

Để xác định tiếng phận là Hán Việt hay thuần Việt, chúng ta thấy kết hợp âm ân có

cả trong tiếng Hán Việt lẫn tiếng thuần Việt cho nên buộc ta phải dùng quy tắc cấu

19

tạo từ. Do ta tìm được trong từ vựng tiếng Việt có từ hải phận (hoặc không phận),

trật tự các yếu tố phụ + chính, cho nên hải phận, không phận là những từ Hán Việt.

Từ đây có thể rút ra kết luận rằng phận là tiếng Hán Việt [69; tr.49].

Nhận diện từ Hán Việt nói chung, từ ngoại lai nói riêng, Phan Ngọc chỉ thừa

nhận từ từ song tiết trở lên. Tác giả Viết: “Bất kỳ âm tiết nào có thể hoạt động làm

thành từ đơn tiết đều được xem là từ thuần Việt. Nói khác đi, theo cảm thức ngôn

ngữ của người Việt, nghe một từ đơn tiết thì ngay lập tức người Việt cấp cho nó

danh hiệu từ thuần Việt, sự phân biệt giữa thuần Việt với Hán Việt hay ngoại lai chỉ

bắt đầu từ từ song tiết trở lên mà thôi” [48; tr.10-11]. Tác giả còn khẳng định rằng:

“Khi chúng tôi nói hễ là từ đơn tiết thì đó là từ thuần Việt tức là chúng tôi công thức

hóa: Từ đơn tiết (hình thức) = thuần Việt (nội dung) [48; tr.11].

Đối với các từ đa tiết Hán Việt, tác giả lấy căn cứ “dễ hiểu hay khó hiểu” để

nhận diện chúng còn là từ Hán Việt hay đã thành từ Việt nhờ hai tiêu chí là: 1) vị trí của âm tiết Hán Việt đứng trước tổ hợp là âm tiết A hay âm tiết B1 và 2) trật tự -

cấu trúc tổ hợp ngược hay xuôi (tức là, nói về các tổ hợp chính phụ có kết hợp theo

kiểu AB – xuôi hay BA – ngược). Cụ thể:

Những từ Hán Việt có công thức AA và AB theo trật tự của tiếng Việt (trật

tự xuôi) sẽ được coi là từ thuần Việt, chẳng hạn: chúc thọ, hung bạo, độc ác; đối

ngoại, thông minh, tài năng.

Những từ Hán Việt có công thức AA và BA theo trật tự ngược sẽ được coi là

từ Hán Việt, chẳng hạn: dân tình, tà thuật, chủ quyền; tổ quốc, tự nhiên, học giả,

động lực, hiền thê.

Phan Ngọc nhận diện từ Hán Việt chỉ căn cứ vào hai tiêu chí trật tự cú pháp

1 Phan ngọc cho rằng trong tiếng Việt có 4 loại âm tiết, tác giả ký hiệu là A, B, C, D: - A là những âm tiết tự do, những âm tiết này làm từ độc lập như: gà, cỏ, sắc, già, cũ, mỏng… - B là những âm tiết không tự do và không đơn nhất, đây là những âm tiết tự mình không phải là từ độc

lập nhưng có thể được dùng để cấu tạo một loạt từ như: thiên tạo ra các từ thiên mệnh, thiên định…

- C là các âm tiết không tự do, đơn nhất và không láy âm như: a trong: a-xít, a-men, a-di-đà; qué, dả,

tom, pheo trong gà qué, cỏ dả, già tom, tre pheo…

- D là âm tiết không tự do, đơn nhất, láy âm như: xỏ, chóc, đai, nhẽo trong xin xỏ, chim chóc, đất đai,

nhạt nhẽo…

và dễ hiểu hay khó hiểu là chưa thật thỏa đáng. Tiêu chí dễ hiểu hay khó hiểu khá

20

mơ hồ. Thêm vào đó, nhận diện từ ngữ Hán Việt không chỉ căn cứ vào tiêu chí ngữ

pháp, ngữ nghĩa mà còn phải có sự kết hợp về mặt ngữ âm và phong cách.

1.4. Phân loại từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt

Dựa vào cấu trúc, từ ngữ Hán Việt được phân thành hai loại lớn: từ và ngữ cố

định Hán Việt.

1.4.1. Từ Hán Việt

Căn cứ vào phương thức cấu tạo, từ Hán Việt chia thành hai loại: từ Hán

Việt đơn tiết và từ Hán Việt đa tiết. Từ Hán Việt đơn tiết hay còn gọi là từ đơn Hán

Việt, từ Hán Việt đa tiết bao gồm từ ghép và từ láy Hán Việt.

1.4.1.1. Từ đơn Hán Việt

Từ đơn Hán Việt là những từ có một từ tố do một âm tiết có nghĩa, độc lập

tạo nên, chúng có khả năng hoạt động độc lập trong câu. Do đặc điểm loại hình mà

trong tiếng Việt nhiều từ đơn Hán Việt thường có ranh giới trùng với âm tiết (tiếng),

do đó chúng vừa là từ vừa là đơn vị cấu tạo từ và cấu tạo câu. Chẳng hạn, những từ

như: nhân, nghĩa, đạo, tình, hiếu, hòa, trung, khuyết, sinh, sầu v.v.

1.4.1.2. Từ ghép Hán Việt

Từ ghép là khái niệm được hầu hết các nhà Việt ngữ học công nhận, nhưng

bên cạnh đó vẫn có một số tác giả nghi ngờ hoặc không chấp nhận khái niệm này.

Bởi theo các tác giả này, tiếng là từ, các đơn vị lớn hơn tiếng (từ ghép, từ láy) được

gọi là ngữ.

Cách phân loại từ ghép tiếng Việt tuy có khác nhau giữa các nhà Việt ngữ

học nhưng họ đều có điểm chung là tính đến mối quan hệ giữa các thành tố. Căn cứ

vào quan hệ giữa các thành tố, từ ghép được chia thành từ ghép đẳng lập (từ ghép

song song, từ ghép liên hợp) và từ ghép chính phụ.

a. Từ ghép Hán Việt đẳng lập

“Từ ghép đẳng lập còn được gọi là từ ghép láy nghĩa, từ ghép nghĩa, từ ghép

song song, từ ghép hợp nghĩa, từ ghép kết hợp, từ ghép nghĩa liên hợp, v.v. Đó là

loại từ ghép được tạo thành bởi các thành tố đồng loại, theo quan hệ bình đẳng, để

biểu thị ý nghĩa khái quát, tổng hợp và trừu tượng; trật tự của các thành tố không

21

chặt chẽ lắm. Cũng có thể nói, chúng là những từ tổ (ngữ) đã được từ vựng hóa”

[36; tr.146]. Trong từ ghép đẳng lập, về quan hệ ngữ pháp, các yếu tố có vai trò ngữ

pháp ngang nhau; xét về ý nghĩa, các yếu tố hoặc là đồng nghĩa, gần nghĩa, trái

nghĩa hoặc là cùng có liên quan với nhau trong một trường nghĩa nhất định.

Cơ chế chung của từ ghép đẳng lập thường là nghĩa của cả từ ghép rộng hơn,

khái quát hơn so với nghĩa của các thành tố cộng lại. Chẳng hạn, giang sơn có nghĩa

chỉ miền đất đai, trong quan hệ với dân tộc làm chủ và sống trên đó; nhân nghĩa có

nghĩa là lòng thương người và tôn trọng lẽ phải, điều phải v.v. Nhìn chung, các yếu

tố cấu thành từ ghép Hán Việt đẳng lập thường thấy là: (i) Từ ghép Hán Việt đẳng

lập có nghĩa tương đồng như: thổ địa, ẩn tàng; (ii) Từ ghép Hán Việt đẳng lập có

nghĩa tương quan như: giang sơn, sơn thủy, sơn hà, huynh đệ, phụ mẫu; (iii) Từ

ghép Hán Việt đẳng lập có nghĩa tương phản như: sinh tử, thủy chung, thị phi.

b. Từ ghép Hán Việt chính phụ

Nếu từ ghép Hán Việt đẳng lập là loại từ ghép được tạo ra bằng hai thành tố

Hán Việt theo quan hệ ngang nhau về kết cấu cũng như ý nghĩa thì từ ghép Hán

Việt chính phụ ngược lại. Đây là kiểu từ ghép được cấu tạo bởi một thành tố chính

và một thành tố phụ. Thành tố chính đóng vai trò là nòng cốt, trung tâm, thành tố

phụ đóng vai trò hạn định, bổ sung, trần thuật hoặc chi phối. Chính nhờ nghĩa hạn

định, bổ sung, trần thuật hoặc chi phối mà nghĩa của cả từ ghép trở nên cụ thể hơn.

Chẳng hạn, từ ghép quốc ngữ gồm có hai thành tố: thành tố ngữ chỉ ngôn ngữ nói

chung, không hạn định; thành tố quốc mang nghĩa hạn định, chỉ về quốc gia. Nhờ

vậy, nó tạo cho cả từ ghép có nghĩa chuyên biệt hóa: chỉ tiếng nói chung của một

quốc gia.

Dựa vào quan hệ giữa các thành tố, từ ghép Hán Việt chính phụ được chia

thành: (i) từ ghép Hán Việt chính phụ có quan hệ hạn định: quốc ngữ, quý nhân, quý

vật, hiền thê; (ii) từ ghép Hán Việt chính phụ có quan hệ bổ sung: thuyết phục,

thuyết hàng, thuyết khách; (iii) từ ghép Hán Việt chính phụ có quan hệ trần thuật:

địa chấn, dân chúng; (iv) từ ghép Hán Việt chính phụ có quan hệ chi phối: quản

nhiệm, quản sự, trực tính.

22

1.4.2. Ngữ cố định Hán Việt

Ngữ thường được hiểu là “hai hay nhiều từ kết hợp lại thành một nhóm theo

một số phương thức nhất định, song chưa diễn đạt được một ý trọn vẹn, gọi là ngữ

(còn gọi là cụm từ, đoản ngữ, phiến ngữ hay từ tổ) [7; tr.228]. Ngữ thường được

chia ra thành hai loại: ngữ tự do và ngữ không tự do (ngữ cố định). “Ngữ tự do bao

gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập của tất cả các thực từ tạo thành ngữ; mối liên hệ

cú pháp của các yếu tố trong ngữ tự do là mối liên hệ linh hoạt và có sức sản sinh

(kiểu như đọc sách). Còn trong ngữ không tự do thì tính độc lập về mặt từ vựng của

một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị mất và ý nghĩa từ vựng của ngữ trở nên

giống như ý nghĩa của một từ riêng biêt (…)” [76; tr.176-177].

Trong luận văn này, ngữ được giới hạn trong ngữ cố định Hán Việt bao gồm:

ngữ định danh và thành ngữ Hán Việt.

Theo Nguyễn Thiện Giáp: “Ngữ định danh là những cụm từ biểu thị các sự

vật, hiện tượng hay khái niệm nào đó của thực tế. Nó bao gồm những cụm từ

thường được gọi là từ ghép như: xe đạp, máy tiện, cá vàng, cà chua, áo dài v.v… và

những cụm từ thường được gọi là ngữ cố định như đường đồng mức, phương nằm

ngang, máy hơi nước v.v…” [19; tr.70].

Các tác giả Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt đã chia cụm từ cố định trong

tiếng Việt thành hai loại: ngữ cố định và thành ngữ. Trong đó, ngữ cố định tiếp tục

được phân thành: ngữ cố định định danh và quán ngữ. Theo các tác giả này, tên gọi

ngữ cố định định danh chưa thật sự chặt chẽ: “Tên gọi này chúng ta tạm dùng (vì nó

chưa thật chặt về nội dung) để chỉ những đơn vị vốn ổn định về cấu trúc và ý nghĩa

hơn các quán ngữ rất nhiều, nhưng lại chưa có được ý nghĩa mang tính hình tượng

như thành ngữ” [11; tr.162]. Chẳng hạn: quân sư quạt mo, mắt ốc nhồi, mắt bồ câu,

má bánh đúc, tóc rễ tre, kỷ luật sắt v.v…, thực chất đó là những cụm từ cố định,

định danh, gọi tên sự vật.

Chúng tôi tiếp thu nội hàm khái niệm ngữ cố định định danh của các tác giả

Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt và khái niệm ngữ định danh của Nguyễn Thiện

23

Giáp nhưng chỉ ở vế sau, nghĩa là những cụm từ cố định nhưng chưa phải là thành

ngữ.

Do đó, trong luận văn này, những trường hợp mà lâu nay ngữ pháp truyền

thống gọi là từ ghép như: ái ân, nhân hậu, nhân đạo, phu thê v.v…, chúng tôi vẫn

giữ nguyên tên gọi; còn những trường hợp như đạo cang thường, nghĩa cang

thường, thủy chung như nhứt v.v..., chúng tôi gọi là ngữ định danh.

Thành ngữ là “cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo

thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác tổng số ý nghĩa của các thành

tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đen và hoạt động như một từ riêng biệt ở

trong câu” [76; tr.271]. Cũng như thành ngữ thuần Việt, thành ngữ Hán Việt có kết

cấu chặt chẽ và ổn định, có chức năng định danh và được tái hiện trong lời nói.

Nghĩa của thành ngữ Hán Việt là nghĩa khái quát của các thành tố, mang tính biểu

trưng và gợi tả. Đó là các thành ngữ như: quân tử nhất ngôn, họa phúc vô môn, họa

hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm v.v…

1.5. Sự khác biệt giữa từ ngữ Hán Việt và từ ngữ thuần Việt đẳng nghĩa

Từ đẳng nghĩa là hiện tượng hai yếu tố ngôn ngữ ngang nghĩa nhau nhưng lại

khác nhau về nguồn gốc. Từ Hán Việt và từ thuần Việt được gọi là đẳng nghĩa khi

chúng cùng biểu thị những sự vật, hiện tượng, hành động, tính chất tương đương

nhau. Chẳng hạn, huynh đệ (Hán Việt) = anh em (thuần Việt), phụ mẫu (Hán Việt)

= cha mẹ (thuần Việt) v.v…

Nếu trong ngôn ngữ có hiện tượng hai từ đồng nghĩa hoàn toàn sẽ xảy ra

hiện tượng “tranh chấp”, chúng sẽ loại trừ, triệt tiêu nhau, nếu sử dụng từ này thì

không sử dụng từ kia. Tuy nhiên, để cùng song tồn, chúng phải cạnh tranh nhau về

nhiều mặt: sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu cảm và màu sắc phong cách.

1.5.1. Về sắc thái ý nghĩa

Từ ngữ Hán Việt thường có sắc thái ý nghĩa trừu tượng. Chẳng hạn, thảo

mộc, sơn hà, giang sơn, thiên địa v.v…

Từ ngữ thuần Việt thường có sắc thái ý nghĩa cụ thể hơn. Chẳng hạn, cỏ cây,

núi sông, sông núi, trời đất v.v…

24

Sự khác nhau này khiến cho từ ngữ Hán Việt mang tính chất tĩnh tại, không

sinh động, gợi hình. Trong khi đó, do có sắc thái ý nghĩa cụ thể nên từ ngữ thuần

Việt mang tính chất sinh động, gợi hình.

1.5.2. Về sắc thái biểu cảm

Đại bộ phận từ ngữ Hán Việt có sắc thái biểu cảm dương tính. Chẳng hạn,

hảo tâm, nhân ái, hy sinh, phát biểu, phu thê, hiền thê v.v…

Đại bộ phận từ ngữ thuần Việt có sắc thái biểu cảm trung tính hoặc âm tính.

Chẳng hạn, lòng tốt, thương người, bỏ mạng, nói, vợ chồng, vợ hiền v.v…

1.5.3. Về màu sắc phong cách

Từ ngữ Hán Việt thường được dùng trong giao tiếp mang tính nghi thức. Một

số từ ngữ Hán Việt do chỉ xuất hiện ở giao tiếp mang tính nghi thức hoặc ít xuất

hiện trong giao tiếp không mang tính nghi thức nên có tính chất cổ kính, không

thông dụng. Chẳng hạn, phụ mẫu, phu nhân, phu quân, mẫu thân, mẫu từ v.v…

Từ ngữ thuần Việt nhìn chung được dùng nhiều trong các phong cách ngôn

ngữ và đặc biệt là trong phong cách khẩu ngữ nên có màu sắc đa phong cách và

mang tính thông dụng. Chẳng hạn, cha mẹ, vợ, chồng, mẹ v.v…

Giữa từ ngữ Hán Việt và từ ngữ thuần Việt đẳng nghĩa có sự đối lập về đặc

điểm tu từ rất rõ. Bên cạnh đó, từ ngữ Hán Việt do có sắc thái ý nghĩa trừu tượng,

khái quát, sắc thái biểu cảm dương tính nên thường đem đến cho ta những khái

niệm tĩnh tại, không sắc màu cụ thể, thiếu sự vận động, mang hình ảnh của thế giới

ý niệm. Do đó, lớp từ này rất thích hợp khi miêu tả những gì ngưng đọng, cổ xưa.

Trái lại, từ ngữ thuần Việt được dùng để tả những cái cụ thể, chân thực, sinh động

như bản thân của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Chính vì vậy mà

trong sáng tác thơ văn, các nghệ sĩ ngôn từ phải biết lựa chọn từ ngữ thích hợp,

đúng chỗ để đem lại hiệu quả nghệ thuật cao nhất, phát huy hết giá trị của ngôn từ.

1.6. Khái quát về ca dao Nam Bộ

Ca dao Nam Bộ là một hình thức thể hiện của văn hóa tinh thần, là tư tưởng,

tình cảm, ý nghĩ trung thực của người dân Nam Bộ, thậm chí ngay cả những người

dân không biết chữ. Đặc sắc của ca dao Nam Bộ vì thế là phản ánh được đời sống

25

vật chất, tinh thần của con người, là nơi ẩn chứa đầy đủ nhất về tâm tư tình cảm và

khát vọng của những con người đi mở đất và những lớp người kế tiếp nhau trên

mảnh đất Nam Bộ mà không có quyền lực nào có thể ngăn cản được. Nằm trong hệ

thống ca dao Việt Nam, ca dao Nam Bộ cũng có những điểm chung và khu biệt so

với ca dao cả nước.

1.6.1. Ca dao Nam Bộ

Nằm trong hệ thống văn học dân gian Việt Nam và là một bộ phận quan

trọng của ca dao Việt Nam, ca dao Nam Bộ là một bộ phận của văn học dân gian

được sưu tầm ở vùng đất Nam Bộ. Đây là những sáng tác nghệ thuật được truyền

miệng, được lưu truyền ở vùng đất Nam Bộ. Nghĩa là nó có thể được nhân dân sáng

tác trong suốt mấy thế kỷ qua trên vùng đất mới. Song, nó còn là vốn văn hóa cổ

truyền được cất giữ trong trí nhớ của những người đi mở cõi từ các địa phương khác

nhau tụ họp về đây. Nói đơn giản hơn, nó là tác phẩm nghệ thuật truyền miệng được

sưu tầm, ghi chép từ chính những người hiện đang sinh sống trong vùng truyền lại.

Trong đó, bộ phận cốt lõi nhất là những lời ca dao được sáng tác trên mảnh đất Nam

Bộ. Nó thể hiện được lời ăn tiếng nói, tâm tư tình cảm của người Nam Bộ cùng với

những nét đặc thù của vùng đất mới được hình thành và phát triển song song với

lịch sử khai phá và sự phát triển về văn hóa xã hội trên chính mảnh đất này.

1.6.2. Ngôn ngữ ca dao Nam Bộ

Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên và rất quan trọng để tạo nên một tác phẩm nghệ

thuật ngôn từ. Nói đến ca dao Nam Bộ không thể không nói đến ngôn ngữ ca dao

Nam Bộ. Ngôn ngữ cũng là lĩnh vực rất quan trọng để xem xét sắc thái địa phương.

Phương ngữ Nam Bộ hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử khai hoang

vùng đất Nam Bộ. Phương ngữ Nam Bộ là phương ngữ của vùng đất Nam Bộ. Nó

thể hiện cách nói, cách sử dụng từ ngữ, kiểu phát âm riêng của người Nam Bộ.

Phương ngữ Nam Bộ còn là nơi chứa đựng các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán,

sinh hoạt xã hội của con người và vùng đất Nam Bộ.

26

Tìm hiểu phương ngữ Nam Bộ được thể hiện qua ca dao Nam Bộ là một

cách nhằm khẳng định thêm tính độc đáo, sắc sảo, phong phú và đa dạng của người

Nam Bộ xưa trong việc sử dụng lời ăn tiếng nói của mình.

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện trong ca dao Nam Bộ là sự biến âm của ngôn

ngữ toàn dân và một số từ chuyên dụng ở Nam Bộ mới hiểu. Người Nam Bộ nói ở

bển, ở trển, dìa, đờn, hổ ngươi,.... chứ không nói ở bên đó, ở trên đó, về, xấu hổ

(mắc cỡ).

Chẳng hạn:

Ở trển xuống đây cách năm bảy đám ruộng đồng

Muốn ghé thăm anh một chút, sợ cô bác nói gái tầm chồng em hổ ngươi.

Ca dao Nam Bộ còn sử dụng nhiều từ ngữ mang tính phương ngữ khác như:

mốc thích, chơm bơm, tùm lum, lui cui lúc cúc,...

- Con cò nó mổ con lươn

Bớ chị ghe lườn muốn tía tui hông

Tía tui lịch sự quá chừng

Cái lưng mốc thích, cái đầu chơm bơm.

- Gió đưa bụi chuối tùm lum

Má dữ như hùm ai dám làm dâu.

- Lui cui lúc cúc (lút cút) xúc con cá sặt mồi

Lên doi xuống vịnh lần hồi nuôi nhau.

Người Nam Bộ tất phải nói theo cách Nam Bộ. Có lẽ một trong những giọng

của họ là theo cách bộc trực, ngang tàng, phóng túng:

Con ếch ngồi dựa gốc bưng,

Nó kêu cái “quệt” biểu ưng cho rồi.

Trong hoàn cảnh tự tình với nhau, đôi khi họ không dùng những từ hoa mỹ,

không nói những từ chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, mà chỉ nói một cách mộc mạc,

bình dân, cốt sao bày tỏ được lòng mình:

Anh về em nắm vạt áo em la làng

Phải bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em.

27

Tuy nhiên cần khẳng định rằng, không phải ca dao Nam Bộ không có những

bài có lối nói trau chuốt như ca dao Bắc hay Trung Bộ. Ca dao Nam Bộ không thiếu

những câu óng ả, chải chuốt, nhưng mức độ và liều lượng của những trường hợp

này không nhiều. Trong cách biểu đạt như vậy, ngôn ngữ của ca dao Nam Bộ

Trông lên chữ ứ

thường biểu hiện ở sự nhỏ nhẹ, hiền lành, ngộ nghĩnh, dễ thương:

Ngó xuống chữ ư

Anh thương em, thủng thẳng em ừ

Anh đừng thương vội, phụ mẫu từ nghĩa em.

Phương ngữ Nam Bộ ra đời tuy có muộn hơn so với phương ngữ của các

vùng khác, nhưng không vì thế mà nó nghèo nàn, hời hợt, mà trái lại nó rất đa dạng,

phong phú và sâu lắng. Nó chứa đựng các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán cùng

tính cách của con người Nam Bộ. Phương ngữ Nam Bộ không chỉ đơn thuần là

khẩu ngữ của người Nam Bộ mà nó đã bước vào văn học nghệ thuật với một tư thế

rất đường hoàng. Những câu ca dao Nam Bộ vừa dẫn trên là một minh chứng cho

điều này.

Ngoài việc sử dụng phương ngữ, ca dao Nam Bộ còn dùng khá nhiều từ ngữ

Hán Việt.

Chẳng hạn:

Trai tứ chiếng, gái giang hồ,

Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên.

Hay:

Thủy để ngư thiên biên nhạn,

Cao khả xạ hề, để khả điếu,

Chỉ xích nhơn tâm bất khả phòng,

E sao lòng lại đổi lòng

Nhiều người tham bưởi chê bòng lắm anh.

28

Không chỉ sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt, ca dao Nam Bộ còn sử dụng

nhiều biến thể từ ngữ Hán Việt, đây là nét độc đáo trong cách dùng từ ngữ của ca

dao Nam Bộ.

1.7. Tiểu kết

Từ ngữ Hán Việt là các từ ngữ gốc Hán được đọc theo âm Hán Việt. Âm

Hán Việt là âm đọc của tất cả các từ ngữ Hán của người Việt, lấy xuất phát điểm là

âm Hán Trung cổ ở các thế kỷ VIII, IX (ứng với thời kỳ triều đại nhà Đường, Trung

Quốc). Quá trình Việt hóa này trải qua hàng mấy thế kỷ mới hình thành ra âm Hán

Việt ngày nay.

Từ ngữ Hán Việt có những đặc điểm riêng về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp

và phong cách. Dựa vào đó ta có thể nhận diện được từ ngữ Hán Việt và phân biệt

được với từ ngữ thuần Việt đẳng nghĩa.

Trong giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp mang tính nghi thức, từ ngữ Hán Việt

được sử dụng rất nhiều. Sở dĩ từ ngữ Hán Việt được dùng nhiều là bởi cũng giống

như Nhật Bản và Hàn Quốc, tiếng Việt có khoảng trên 60% (có tài liệu còn cho

rằng khoảng 70%) từ ngữ Hán Việt.

Ca dao Nam Bộ nói riêng, ca dao cả nước nói chung sử dụng từ ngữ Hán

Việt là điều dễ hiểu. Từ ngữ Hán Việt cũng là lớp từ ngữ nằm trong hệ thống từ

vựng tiếng Việt, chiếm số lượng nhiều hơn từ ngữ thuần Việt, nên dù ít hay nhiều

nó cũng được sử dụng là tất yếu. Thêm vào đó, người Nam Bộ nói riêng, người Việt

Nam nói chung, họ nói theo thói quen, theo kinh nghiệm: tri kỳ sở nhiên bất tri kỳ

sở dĩ nhiên (biết nó là thế nhưng không biết tại sao nó lại là thế). Thế nên, từ ngữ

Hán Việt được sử dụng ít nhiều khác nhau cũng là do thói quen, kinh nghiệm, vốn

sống v.v…, của mỗi người, mỗi vùng khác nhau.

29

Chương 2. TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ

TRÊN BÌNH DIỆN NGÔN NGỮ

Trong chương này, luận văn trình bày đặc điểm của từ ngữ Hán Việt trong ca

dao Nam Bộ ở ba góc độ: ngữ âm, cấu tạo - ngữ pháp và ngữ nghĩa.

2.1. Đặc điểm về ngữ âm của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ

Xét về mặt ngữ âm, từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ tồn tại ở 3 dạng:

từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm toàn dân, từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm phương ngữ

hóa và từ ngữ Hán Việt có hai vỏ ngữ âm (hai cách đọc Hán Việt).

2.1.1. Từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm toàn dân

Đây là loại từ ngữ có âm đọc Hán Việt dựa trên cách đọc Hán Việt theo ngữ

âm chuẩn của toàn dân; về cách viết, chúng được viết theo các quy tắc ghi hệ thống

các âm vị của tiếng Việt hiện đại (chúng tôi dựa vào cách chú âm trong các từ điển

tường giải từ ngữ Hán Việt). Đó là các từ như: đạo, nghĩa, nhân, đạo nghĩa, nhân

nghĩa, nhân đạo, nhân hậu, nhật nguyệt, quân tử nhất ngôn v.v…

2.1.2. Từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm phương ngữ hóa

Từ ngữ Hán Việt phương ngữ hóa là từ ngữ Hán Việt được phát âm theo

phương ngữ Nam Bộ. Theo thống kê của chúng tôi, trong ca dao Nam Bộ có tất cả

12 yếu tố Hán Việt có biến thể ngữ âm địa phương (phương ngữ hóa), những yếu tố

này vừa là từ (từ đơn) vừa là yếu tố cấu tạo từ và ngữ. Đó là các yếu tố như:

chính / chánh - chánh tà

sinh / sanh - sanh tử, sanh thành, sanh dưỡng, thập tử nhất sanh

thịnh / thạnh - thạnh suy, thạnh thời

nhân / nhơn - nhơn hậu, nhơn đạo, nhơn tình, nhơn nghĩa, nhơn ngãi, nhơn

ngỡi, tri nhơn tri diện bất tri tâm

nhất / nhứt - quân tử nhứt ngôn, thủy chung như nhứt

nhật / nhựt - nhựt nguyệt, nhứt nhựt vãng lai

nho / nhu

hồng / hường - hường nhan

phong / phuông - tiên phuông

30

trọng / trượng - tình thâm ngỡi trượng

nghĩa / ngãi, ngỡi - ngãi nhơn, ngỡi nhơn, tình thâm ngỡi trượng

quý / quới - quyền quới

Yếu tố Hán Việt phương ngữ hóa xuất hiện ở cả từ đơn tiết, từ song tiết và

thành ngữ Hán Việt; số lượng và tần số sử dụng cụ thể như sau:

Đối tượng thống kê Số lượng Tần số sử dụng Tỉ lệ %

Từ đơn tiết 8 61 12, 1%

Từ song tiết 32 87 48, 5%

Thành ngữ 26 34 39, 4%

Tổng số 66 182 100%

Hiện tượng phương ngữ hóa từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ có thể do

ba nguyên nhân chính. Nguyên nhân thường thấy nhất là do thói quen nói sao viết

vậy của người Nam Bộ. Nguyên nhân thứ hai là do kỵ húy mà một số từ ngữ Hán

Việt được nói và viết trại đi, chẳng hạn, tên tước và miếu hiệu của Nguyễn Phúc

Thái (1648-1691) là Anh Tôn Hiếu Nghĩa nên nghĩa phải gọi là ngãi; tên tước của

Nhân quận công Nguyễn Phúc Lan nên nhân phải đọc trại thành nhơn; hồng phải

nói trại thành hường vì kỵ húy Hồng Nhậm, tức vua Tự Đức v.v. Cuối cùng là do

cách gieo vần, tạo nhịp mà một số từ ngữ biến đổi cho phù hợp với yêu cầu vần

nhịp, chẳng hạn như:

Chiều chiều vịt lội ao sen,

Tình cờ gặp lại người quen tôi chào,

Chào cô trước mũi tiên phuông,

Chào cô sau lái mặt vuông chữ điền,

Người nào là vợ Vân Tiên?

Cho tôi biết để chào liền chị dâu.

Người nào người ngỡi tôi đâu?

Nói cho tôi biết để gởi câu ân tình.

Từ tiên phong trong câu lục của bài ca dao trên biến âm thành tiên phuông để

đáp ứng yêu cầu gieo vần (uông) trong câu bát ở dưới.

31

Như vậy, dù là lý do nào đi chăng nữa thì những từ ngữ Hán Việt vừa nêu

cũng đã trở thành đặc sản ngôn ngữ của người Nam Bộ. Những từ ngữ này xuất

hiện nhiều trong ca dao Nam Bộ mà ít hoặc không xuất hiện ở ca dao các miền

khác, vì vậy mà chúng tôi gọi đây là từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm phương ngữ

hóa.

2.1.3. Từ ngữ Hán Việt có hai âm đọc Hán Việt

Ngoài việc sử dụng từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm phương ngữ hóa, ca dao

Nam Bộ còn sử dụng một số từ ngữ Hán Việt có hai âm đọc Hán Việt cùng tồn tại,

chẳng hạn như các yếu tố: hoàng/ huỳnh, khang/ khương, phúc/ phước, vũ/ võ, hoa/

huê, tùng/ tòng v.v… Cũng như trong từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm phương ngữ

hóa, yếu tố Hán Việt có hai âm đọc Hán Việt xuất hiện ở cả từ đơn tiết, từ song tiết

và thành ngữ Hán Việt. Cụ thể như sau:

TỪ NGỮ HÁN VIỆT Số lượng Tần số sử dụng Tỉ lệ %

Từ đơn tiết 6 19 9, 7%

Từ song tiết 37 81 59, 7%

Thành ngữ 19 31 30, 6%

Tổng số 62 131 100%

Sở dĩ từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ có hai cách đọc Hán Việt khác

nhau song song cùng tồn tại là do tập tục kỵ húy. Chẳng hạn, Đoan quốc công

Nguyễn Hoàng, thủy tổ của triều Nguyễn sau này, âm húy là Hoàng, nên các âm

hoàng đọc và nói chệch thành huỳnh, chữ hoàng và huỳnh cùng có chung chữ viết,

chỉ khác âm đọc; khang phải nói chệch thành khương vì kiêng húy Lê Khang (đời

thứ hai dòng Lê Trừ) và Hiếu Khang hoàng đế (cha vua Gia Long); phúc phải nói

trại thành phước là vì tên đệm của các vua nhà Nguyễn là Phúc (Nguyễn Phúc Ánh

– Gia Long; Nguyễn Phúc Thì – Tự Đức); âm vũ nói trại là võ vì kiêng húy vua Lê

Huyền Tông (Duy Vũ ), có lẽ cũng vì vậy mà có âm vũ môn bên cạnh võ môn; hoa

phải nói trại thành huê vì tên húy của quý phi Hồ Thị Hoa v.v…

Ca dao Nam Bộ có nhiều hiện tượng nói trại, tạo nên lớp từ biến âm đa dạng

trong lời nói của người Nam Bộ. Họ không nói nghĩa mà nói ngãi/ ngỡi; nhơn ngãi,

32

nhơn ngỡi thay cho nhân nghĩa; nhơn đạo, nhơn hậu thay cho nhân đạo, nhân hậu.

Nguyên nhân thì có nhiều: vì kiêng huý, thói quen nói sao viết vậy, hoặc đơn thuần

chỉ để hiệp vần cho thơ v.v...

2.2. Đặc điểm về cấu tạo – ngữ pháp của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ

Xét về đặc điểm cấu tạo, từ ngữ Hán Việt được chia thành hai loại: từ và

ngữ. Về đặc điểm ngữ pháp, tức là dựa vào ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và

khả năng đảm nhiệm chức vụ cú pháp trong hoạt động kết hợp của từ trong ngữ lưu,

từ ngữ Hán Việt được chia thành các từ loại khác nhau.

2.2.1. Từ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ

Từ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ tồn tại ở ba dạng: từ đơn, từ ghép và từ

láy. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, từ láy Hán Việt xuất hiện rất ít, bên

cạnh đó vấn đề từ láy nói chung và từ láy Hán Việt nói riêng là một vấn đề đang còn

bỏ ngỏ nên luận văn không bàn đến vấn đề này.

2.2.1.1. Từ đơn Hán Việt

Trong 727 từ ngữ thống kê được trong ca dao Nam Bộ có 88 từ đơn Hán Việt,

chiếm tỉ lệ 12, 1%. Đây là tỉ lệ không cao, nhưng tần số xuất hiện của một số từ lại

khá cao, chẳng hạn, từ thiếp xuất hiện 44 lần, từ nghĩa xuất hiện 55 lần (chưa kể các

biến thể của nó), từ sầu xuất hiện 71 lần v.v…

Xét về ý nghĩa khái quát, về khả năng kết hợp và khả năng đảm nhiệm chức vụ

cú pháp trong hoạt động kết hợp của từ trong ngữ lưu, có thể chia từ đơn Hán Việt

trong ca dao Nam Bộ thành năm loại: từ đơn Hán Việt là danh từ, từ đơn Hán Việt

là động từ, từ đơn Hán Việt là tính từ, từ đơn Hán Việt là số từ và từ đơn Hán Việt

là kết từ.

a. Từ đơn Hán Việt là danh từ: ân, bể, châu, chiếu, dương, điền, đạo, họa,

hổ, kiều (cầu), lệ/ lụy, long, môn, nghĩa/ ngãi/ ngỡi, nguyệt, nhân/ nhơn, nhu,

phụng, quy, sơn, hữu, tả, tâm, thi, thiếp, thủy, tình, vi (vây).

Các từ đơn Hán Việt danh từ trong ca dao Nam Bộ đều có nghĩa chỉ sự vật và

khái niệm trừu tượng.

b. Từ đơn Hán Việt là động từ: ái, đáo, hiệp, hồi, luỵ, mãi, mãn, ngộ, ngự,

33

nhẫn, phụ, sinh/ sanh, tầm, tế, thác, thệ, thọ, trầm, triệu, trượng (trọng), tử,

vãn, vong, tòng/ tùng.

Các từ đơn Hán Việt động từ trong ca dao Nam Bộ đều có nghĩa chỉ hoạt

động và trạng thái.

c. Từ đơn Hán Việt là tính từ: an, bạch, bần, cận, côi, đồng, đơn, góa,

hiếu, hòa, kép, phú, quý, sầu, thanh, trung, trường, viễn.

Các từ đơn Hán Việt tính từ trong ca dao Nam Bộ đều có nghĩa chỉ tính chất.

d. Từ đơn Hán Việt là số từ: nhứt, nhì, tam, thiên.

e. Từ đơn Hán Việt là phụ từ: dĩ.

Trong các từ loại kể trên, từ đơn Hán Việt là danh từ chiếm tỉ lệ nhiều nhất,

từ đơn Hán Việt là kết từ chiếm tỉ lệ thấp nhất, chỉ có 1 từ, kế đến là từ đơn Hán

Việt số từ chỉ có 4 từ.

2.2.1.2. Từ ghép Hán Việt

Từ ghép chiếm số lượng nhiều nhất trong tổng số từ ngữ Hán Việt trong ca

dao Nam Bộ: 507 từ, tần số xuất hiện là 1029 lượt, chiếm tỉ lệ 69, 7%.

a. Từ ghép Hán Việt nhìn từ tiêu chí ngữ nghĩa

Xét từ tiêu chí ngữ nghĩa, từ ghép Hán Việt trong ca dao Nam Bộ được chia

thành hai loại: từ ghép hợp nghĩa và từ ghép phân nghĩa.

a1. Từ ghép Hán Việt hợp nghĩa

Từ ghép hợp nghĩa hay còn gọi là từ ghép hội nghĩa, từ ghép phối nghĩa. Từ

ghép Hán Việt hợp nghĩa, xét về quan hệ ngữ pháp chính là từ ghép đẳng lập. Trong

từ ghép hợp nghĩa, các yếu tố kết hợp với nhau phải là những yếu tố có nghĩa biểu

thị khái niệm thuộc cùng một phạm trù (có quan hệ gần nghĩa, đồng nghĩa hoặc trái

nghĩa). Từ ghép hợp nghĩa có quá trình tổ chức lại các yếu tố ngữ nghĩa theo quy

tắc nhất định để tạo thành nghĩa hoàn chỉnh cao hơn. Sự hợp nghĩa có quy tắc nhất

định, vì thế đối với những từ có cùng cơ cấu ta có thể áp dụng chung quy tắc giải

thích nghĩa.

Từ ghép hợp nghĩa có đặc điểm quan trọng là nghĩa của từng thành tố phối

hợp với nhau, hợp lại với nhau tạo ra ý nghĩa chung của cả từ ghép. Nghĩa chung

34

của cả từ ghép bằng hoặc khái quát hơn nghĩa riêng của các thành tố cộng lại. Đó là

các từ như: dưỡng nuôi, nuôi dưỡng, đàm tiếu, đệ huynh, giang hà, giang hồ, giang

san/ giang sơn, nghĩa nhân/ ngãi nhân/ ngãi nhơn/ nghĩa nhơn/ ngỡi nhân, nhân

nghĩa/ nhân ngãi/ nhân ngỡi/ nhơn ngãi/ nhơn nghĩa, nghĩa tình, nhật nguyệt, phu

phụ, phu thê, phụ mẫu, phụ tử, sơn cước, sơn hà, sơn khê, sơn lâm, thủy hỏa, tiền

tài, tình nghĩa, ái ân, hiệp tan, hợp tan, nhớ thương, sanh tử, tử sanh, thạnh suy,

chính tà, hiếu trung, phú quý, quyền quý/ quyền quới, thị phi, thủy chung, xung khắc

v.v…

Chẳng hạn, từ giang sơn có nghĩa rộng hơn, khái quát hơn nghĩa của các

thành tố cộng lại. Giang là sông, sơn là núi. Sông và núi tượng trưng cho lãnh thổ

của dân tộc sống và làm chủ trên đó, nên giang sơn có nghĩa là đất nước. Giang sơn

còn có nghĩa chỉ tất cả những gì mình có. Như vậy, nghĩa của giang sơn khái quát

hơn nghĩa của giang + sơn.

Từ phu phụ có nghĩa là chồng vợ, trường hợp này nghĩa của phu phụ bằng

nghĩa của phu + phụ.

a2. Từ ghép Hán Việt phân nghĩa

Từ ghép phân nghĩa, xét về quan hệ ngữ pháp còn gọi là từ ghép chính phụ.

Từ ghép Hán Việt phân nghĩa có một yếu tố chỉ loại sự vật, hiện tượng lớn, yếu tố

còn lại có tác dụng phân chia loại sự vật, hoạt động, đặc trưng lớn thành những loại

sự vật, hoạt động, đặc trưng cụ thể. Đó là các từ như: gia cang, gia đàng/ gia

đường, gia tài, hành khách, hiền thê, học trò, hữu duyên, khách du, lê viên, loan

phòng, ngư phủ, nho sĩ, nữ nhân, nữ phòng, song thân, trượng phu, tư tình, an bài,

an giấc, an tình, hồi hương, hồi quân, phụ nghĩa, phụ tình, bạc nghĩa, bạc phận,

bạc tình, đa tình, vô phúc, vô phước, vô tình, vô tội, vô ý v.v...

Căn cứ vào yếu tố mang nghĩa chỉ loại và yếu tố có tác dụng phân nghĩa, có

thể chia từ ghép Hán Việt phân nghĩa thành hai loại: từ ghép Hán Việt phân nghĩa

có yếu tố chỉ loại đứng trước và từ ghép Hán Việt phân nghĩa có yêu tố chỉ loại

đứng sau:

35

Từ ghép Hán Việt phân nghĩa có yếu tố chỉ loại đứng trước: phụ nghĩa, phụ

tình, bạc nghĩa, bạc phận, bạc tình, sầu ái, sầu tư, vô phúc, vô phước, vô tình, vô

tội, vô ý v.v...

Từ ghép Hán Việt phân nghĩa có yếu tố chỉ loại đứng sau: hành khách, hiền

thê, học trò, lê viên, loan phòng, ngư phủ, nho sĩ, nữ nhân, nữ phòng v.v...

Như vậy, xét về quan hệ nghĩa giữa các thành tố trong từ ghép, nếu các thành

tố kết hợp lại tạo ra nghĩa khái quát ta có từ ghép hợp nghĩa; nếu các thành tố kết

hợp với nhau mà một thành tố mang nghĩa khái quát, thành tố còn lại phân chia hạn

định thành tố mang nghĩa khái quát ta có từ ghép phân nghĩa. Từ ghép hợp nghĩa và

từ ghép phân nghĩa chính là từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ theo cách phân

loại dựa trên tiêu chí cấu tạo.

b. Từ ghép Hán Việt nhìn từ tiêu chí cấu tạo

Dựa vào đặc điểm cấu tạo của các thành tố về mặt cú pháp, từ ghép Hán Việt

được chia thành hai loại: từ ghép Hán Việt đẳng lập và từ ghép Hán Việt chính phụ.

b1. Từ ghép Hán Việt đẳng lập

Từ ghép Hán Việt đẳng lập là loại từ ghép được tạo thành bởi các yếu tố

đồng loại, theo quan hệ bình đẳng, ngang nhau về mặt ngữ pháp. Đó là các từ như:

cang thường, cốt nhục, danh vọng, dung nhan, duyên nợ, duyên tình, đệ huynh,

giang hà, giang hồ, giang sơn/ giang san, kim thạch, loan phụng, nghĩa nhơn/ ngãi

nhân/ ngãi nhơn/ ngỡi nhân, nhân nghĩa/ nhân ngãi/ nhân ngỡi/ nhơn ngãi/ nhơn

nghĩa, nghĩa lý, nghĩa tình, nguyệt hoa, nhân tình/ nhơn tình, nhật nguyệt/ nhựt

nguyệt, nhơn đạo, phu phụ, phu thê, phụ mẫu, phụ tử, phụng loan, sơn cước, sơn

hà, sơn khê, sơn lâm, thủy hỏa, tiền tài, tình nghĩa, trí tài, ái ân, ân ái, biệt ly,

dưỡng nuôi, nuôi dưỡng, đàm tiếu, hiệp hòa, hiệp tan/ hợp tan, ly biệt, nhớ thương,

oán hận, oán thù, sanh tử, tử sanh, thác vong, thạnh suy, bần cùng, bình an, bình

yên, chính tà, cơ cực, cơ hàn, hiếu hạnh, hiếu trung, phú quý, quyền quý/ quyền

quới, thị phi, thịnh trị, thủy chung, xung khắc v.v…

36

b2. Từ ghép Hán Việt chính phụ

Từ ghép Hán Việt chính phụ là loại từ ghép được tạo thành bởi một thành tố

chính và một thành tố phụ, giữa thành tố chính và thành tố phụ có quan hệ phụ

thuộc một chiều, thành tố phụ phụ thuộc vào thành tố chính. Đó là các từ như: âm

cung, âm phủ, ấu tử, bắc đẩu tinh, bộ hành, bổn phận, căn duyên, căn nguyên, căn

phần, chí sĩ, cô hồn, cô phòng, dân phu, diêm đình, gia cang, gia đàng/ gia đường,

gia tài, hành khách, hiền thê, hỏa lò, học trò, khách du, lê viên, liệt nữ, loan phòng,

ngư phủ, nho sĩ, nữ nhân, nữ phòng, nữ thanh, phòng hạnh, phòng huỳnh, phòng

loan, phu quân, quốc ngữ, tân hôn, thạch lân, thâm ý, thiên đình, thiên lý mã, thục

nữ, trượng phu, tứ diện, tứ giăng, tứ hải, tứ linh, tứ phía, tứ phương, tứ quý, tứ sắc,

an bài, an giấc, an tình, hồi hương, hồi quân, hội ngộ, đồng tâm, đồng thân, vô cớ,

vô duyên, vô giá, vô nghì, vô phúc, vô phước, vô tình, vô tội, vô ý v.v...

Từ ghép Hán Việt chính phụ được chia thành hai loại: từ ghép chính phụ Hán

Việt có thành tố phụ đứng trước, thành tố chính đứng sau và từ ghép chính phụ Hán

việt có thành tố chính đứng trước, thành tố phụ đứng sau.

Từ ghép Hán Việt chính phụ có cấu tạo phụ trước chính sau là loại từ ghép

Hán Việt mà yếu tố đứng sau là yếu tố chính (chỉ sự vật chính), yếu tố đứng trước

hạn định yếu tố đứng sau. Đây là loại từ ghép có cấu tạo tiêu biểu theo Hán ngữ

nhưng lại ngược với trật tự cú pháp tiếng Việt. Chẳng hạn, các từ như: ấu tử, bắc

đẩu tinh, bộ hành, bổn phận, chí sĩ, cô hồn, cô phòng, gia tài, hành khách, hiền thê,

hỏa lò, học trò, lê viên, liệt nữ, ngư phủ, nho sĩ, nữ nhân, nữ phòng, quốc ngữ, tân

hôn, thạch lân, thiên đình, thiên lý mã, thục nữ, trượng phu.

Từ ghép Hán Việt chính phụ có cấu tạo chính trước phụ sau là loại từ ghép

mà các yếu tố cấu tạo nên nó theo trật tự thuận của ngữ pháp tiếng Việt. Đó là các

từ như: căn duyên, căn nguyên, căn phần, hồi hương, hồi quân, đồng tâm, đồng

thân, vô cớ, vô duyên, vô giá, vô nghì, vô phúc, vô phước, vô tình, vô tội, vô ý.

37

c. Từ ghép Hán Việt nhìn từ tiêu chí ngữ pháp

Về khả năng hoạt động ngữ pháp, từ ghép Hán Việt được chia thành ba loại:

từ ghép Hán Việt là danh từ, từ ghép Hán Việt là động từ và từ ghép Hán Việt là

tính từ.

c1. Từ ghép Hán Việt là danh từ

Từ ghép Hán Việt là danh từ là những từ được cấu tạo bởi hai yếu tố vốn là

danh từ đơn tiết Hán Việt, trong ca dao Nam Bộ, chúng cũng xuất hiện với tư cách

là những danh từ ghép Hán Việt. Đây là từ loại chiếm số lượng nhiều nhất so với

các từ loại khác trong ca dao Nam Bộ. Đó là các từ như: am tự, anh hào, anh hùng,

âm cung, âm phủ, ân tình, ấu tử, ba đào, bá hộ, bá quan, ban sơ, bắc đẩu tinh, biệt

tài, bình phong, bổn phận, cang thường, cao ly, ngưu hoàng, căn duyên, căn

nguyên, căn phần, chí sĩ, cô hồn, cô phòng, công lao, công tử, cốt nhục, cơ đồ, cơ

nghiệp, cửu chương, cửu lý hương, cửu trùng đài, danh lợi, danh vọng, dặm trường,

dân phu, diêm đình, dung nhan, dương gian, dương trần, duyên nợ, duyên tình, đệ

huynh, đồng bào, đồng nội, đức hạnh, gia cang, gia đàng, gia đường, gia tài, giá

thú, giang hà, giang hồ, giang sơn/ giang san, giang tân, hành khách, hiền thê, hình

dung, hiệp cẩn, hỏa lò, hoạn lộ, học trò, hồng nhan/ hường nhan, huê tình, huỳnh

tuyền, keo sơn, kim lang, kim ngân, kim ngọc, kim thạch, kỷ cang, ký lục, lê viên, lễ

nghi, liệt nữ, loan châu, loan phòng, loan phụng, lương duyên, mẫu đơn, mẫu thân,

mẫu từ, mưu kế, nam nhi, nam tử, ngãi nhân/ ngãi nhơn/ nghĩa nhơn/ ngỡi nhân,

nghĩa lý, nghĩa tình, ngọc hoàng, ngũ luân, ngũ sắc, nguyệt bạch, nguyệt hoa, ngư

phủ, ngư thủy, ngưu hoàng, nhan sắc, nhân hiền, nhân nghĩa/ nhân ngãi/ nhân

ngỡi/ nhơn ngãi/ nhơn nghĩa, nhân tình/ nhơn tình, nhật nguyệt/ nhựt nguyệt, nhi

nữ, nho sĩ, nhơn đạo, nữ nhân, nữ nhi, nữ phòng, oai linh, oanh ương, ô mã, ô

thước, phàm trần, phật thủ, phòng hạnh, phòng huỳnh, phòng loan, phu phụ, phu

quân, phu thê, phụ mẫu, phụ tử, phụng hoàng/ phượng hoàng, phụng loan, quả báo,

quan khách, quân tử, quý nương, quốc ngữ, quý nhân, quý vật, sính nghi, song loan,

song thân, sơn cước, sơn hà, sơn khê, sơn lâm, sơn trường, sui gia, tam cấp, tam

38

công, tam tòng/ tam tùng, tao khang/ tao khương/ tào khương, tạo hoá, tâm sự, tâm

tình, tân hôn, thạch lân, thâm ý, thế gian, thế sự, thế thường, thiên đình, thiên hạ,

thiên lý mã, thiên tào, thục địa, thục nữ, thư bộ, thượng uyển, thủy hỏa, thủy tinh,

thuyền quyên, tiền nhật/ tiền nhựt, tiền tài, tình ái, tình chung, tình nghĩa, tình

thương, tọa đăng, tri âm, tri kỷ, trí tài, trượng phu, tùng giả, tư tình, từ đường, từ

mẫu, tứ bề, tứ chiếng, tứ diện, tứ giăng, tứ hải, tứ linh, tứ phía, tứ phương, tứ quý,

tứ sắc, tứ túc, tự nhiên, vạn lý lân, văn chương, văn minh, vân vi, vận hạn, võ môn,

xạ hương, yến anh v.v…

Tất cả những từ trên, ý nghĩa ngữ pháp đều bộc lộ rõ ràng, không cần dựa

vào ngữ cảnh cũng có thể biết đó là danh từ. Tuy nhiên, có ba trường hợp phải dựa

vào ngữ cảnh mới biết được, đó là các từ: công phu, gian lao và gian nan.

Tiếng Việt là loại hình ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính, không biến đổi về mặt

hình thái. Do không có những chỉ tố hình thái để phân định từ loại, nên để biết được

từ loại của từ tiếng Việt phải dựa vào khả năng kết hợp của chúng. Từ công phu,

gian lao và gian nan có thể là danh từ hoặc tính từ. Đây là hiện tượng mà các nhà

ngôn ngữ học gọi là nhất từ đa loại. Từ ghép Hán Việt công phu, nếu là danh từ thì

có nghĩa công sức và thì giờ bỏ ra, thường là nhiều, để làm việc gì (mất nhiều công

phu); nếu là tính từ có nghĩa là rất kĩ lưỡng, độc đáo, mất nhiều công sức (chiếc tủ

được chạm trổ rất công phu). Trong ca dao Nam Bộ, từ công phu được dùng với

nghĩa của từ loại danh từ:

Lên chùa thấy Phật muốn tu,

Về nhà thấy mẹ, công phu chưa đền.

Từ gian lao có nghĩa là những nỗi khó khăn gian khổ (nói khái quát), trong

ca dao Nam Bộ nó được dùng với nghĩa của từ loại danh từ:

Miễn bậu chịu ừ, qua chẳng từ lao khổ,

Dẫu đăng sơn tróc hổ hay quá hải đồ long,

Trước sau giữ trọn một lòng,

Gian lao chi sá, anh quyết cùng theo em.

39

Tương tự, từ gian nan có nghĩa là ở trong cảnh ngộ gặp nhiều khó khăn phải

vượt qua cũng được dùng với từ loại danh từ trong ca dao Nam Bộ.

c2. Từ ghép Hán Việt là động từ

Từ ghép Hán Việt là động từ là những từ được cấu tạo bởi hai yếu tố vốn là

động từ đơn tiết Hán Việt, trong ca dao Nam Bộ, chúng cũng xuất hiện với tư cách

là những động từ ghép Hán Việt. Đây là từ loại chiếm số lượng nhiều thứ hai sau

danh từ. Đó là các từ: ái ân, ân ái, an bài, an giấc, an vui, báo hiếu, biệt ly, bộ

hành, cầu hôn, cầu thân, chia ly, chiêm bao, chung tình, cưu mang, dưỡng dục,

dưỡng nuôi, đa mang, đàm tiếu, đăng sơn, đầu thai, đoái hoài, đối diện, giải sầu,

giao duyên, giao hòa, giao hoan, giao ngãi, giao ngôn, giao ước, giáp mặt, hiệp

hòa, hiệp tan/ hợp tan, hoài vọng, hoạn dưỡng, hồi hương, hồi quân, hội ngộ, huyễn

hoặc, kết duyên, kết nghĩa/ kết ngãi, lâm nguy, lập nghiệp, lưu lạc, lưu luyến, lưu

tồn, lưu truyền, ly biệt, mưu tính, ngao du, nhớ thương, niêm phong, nuôi dưỡng,

oán hận, oán thù, phân giải, phân ly, phân tình, phân trần, phụ bạc, phụ nghĩa, phụ

phàng, phụ tình, phụng dưỡng, phụng thờ, quá giang, quyến luyến, sa cơ, sanh

dưỡng, sinh thành/ sanh thành, sanh tử, tử sanh, tái thế, thác vong, thạnh suy, thất

kinh, thất thế, thoái hồi, thối lui, thối nan, thông ngôn, thủ tiết, tố hộ, trang điểm,

tung hoành, tự ải, tương trợ, tương tư, ưu phiền, vãng lai, vần vũ, vấn vương, vinh

quy, vu quy, vương vất, xuất giá v.v…

c3. Từ ghép Hán Việt là tính từ

Từ ghép Hán Việt là tính từ là những từ được cấu tạo bởi hai yếu tố vốn là

tính từ đơn tiết Hán Việt, trong ca dao Nam Bộ, chúng cũng xuất hiện với tư cách là

những tính từ ghép Hán Việt. Đây là từ loại chiếm số lượng nhiều thứ ba sau danh

từ và động từ. Đó là các từ: anh dũng, ảo não, bạc nghĩa, bạc phận, bạc tình, bần

cùng, bất hiếu, bình an, bình yên, cao cường, cần mẫn, chính chuyên, chính tà, cô

đơn, cơ cực, cơ hàn, đa tình, đoạn trường, độc địa, đôn hậu, đồng tâm, hằng hà

(hằng hà sa số), hiểm nghèo, hiểm nguy, hiền lương, hiển vinh, hiệp ý, hiếu hạnh,

hồ đồ, huyên thiên, hữu tình, hữu ý, khôi hài, khốn nạn, lạc loài, lao khổ, lịch sự,

linh thiêng, lỡ thời, mãn kiếp, minh bạch, mồ côi, mỹ miều, nan phân, nhãn tiền,

40

nhân hậu/ nhơn hậu, nhu mì, oai hùng, phì nhiêu, phiền não, phong lưu, phũ phàng,

phú quý, quyền quý/ quyền quới, sầu ái, sầu bi, sầu muộn, sầu não, sầu tư, song

toàn, tận tình, thảm sầu, thanh tân, thâm trầm, thất tình, thị phi, thịnh trị, thông

minh, thơ ấu, thuần hậu, thủy chung, tiên phuông, tội nghiệp, trứ danh, u uất, vinh

hiển, vinh huê, vô cớ, vô duyên, vô giá, vô phúc, vô phước, vô tình, vô tội, vô ý, xung

khắc, yểu điệu v.v...

2.2.2. Ngữ cố định Hán Việt trong ca dao Nam Bộ

Ngữ cố định Hán Việt – đơn vị từ vựng tương đương với từ Hán việt trong ca

dao Nam Bộ tồn tại ở hai dạng: ngữ định danh Hán Việt và thành ngữ Hán Việt.

2.2.2.1. Ngữ định danh Hán Việt

Ngữ định danh Hán Việt là những ngữ cố định có chức năng định danh, gọi

tên thuần túy các sự vật, hiện tượng, khái niệm trong thực tế khách quan. Đó là

những ngữ như: căn nợ keo sơn, công nghệ nông tang, duyên kim cải, duyên kỳ ngộ,

duyên tiền định, đăng sơn tróc hổ, định đôi can lệ, đạo cang thường, đạo phu thê,

đạo tao khương, khách chương đài, kiếp tái sanh, kinh thương mãi mại, kinh thương

phản mại, ngãi duyên trần, nghĩa cang thường/ ngãi cang thường, nghĩa chung tình,

nghĩa phu thê, nghĩa tao khang/ ngãi tao khang, nguyện lệ tình thâm, nguyệt sơn

đài, nhạc cầu hoàng, nhập hải tróc long, nhị nhân đối khẩu giao hòa, nhứt nhựt

vãng lai, nội thượng lâm, quá hải đồ long, quang minh trí huệ, tam niên nhũ bộ,

tang chế mãn nguyền, trướng án bố vi, xứ đế thành đô v.v...

Nhìn chung, ngữ định danh Hán Việt trong ca dao Nam Bộ có sự ổn định cả về

cấu trúc lẫn ngữ nghĩa, nhưng không có tính thành ngữ. Đây cũng chính là đặc điểm

làm nên sự khác biệt giữa ngữ định danh và thành ngữ.

2.2.2.2. Thành ngữ Hán Việt

Thành ngữ vốn là các cụm từ tự do được dùng lặp đi lặp lại trong đời sống

hàng ngày hoặc xuất hiện từ nhiều nguồn khác nhau trong các sách văn ngôn, các

truyện tích, đã được cố định hóa, mang tính chặt chẽ, sẵn có, bắt buộc và mang tính

xã hội giống như từ.

41

a. Thành ngữ Hán Việt nhìn từ sự biểu trưng hóa về nghĩa

Xét về tính biểu trưng, thành ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ được chia

thành hai loại: thành ngữ Hán Việt có tính biểu trưng thấp và thành ngữ Hán Việt có

tính biểu trưng cao.

a1. Thành ngữ Hán Việt có tính biểu trưng thấp

Thành ngữ Hán Việt có tính biểu trưng thấp là thành ngữ mà ý nghĩa của

chúng còn liên hệ khá rõ với ý nghĩa của các thành tố cấu tạo; các sắc thái bình giá,

cảm xúc kèm theo thấp. Đó là các thành ngữ như: tham sắc mê tình, tự cổ chí kim,

bách niên giai ngẫu, cải tử hườn sinh, nghinh tân yểm cựu, tình thương ngãi nhớ,

hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng v.v...

a2. Thành ngữ Hán Việt có tính biểu trưng cao

Thành ngữ Hán Việt có tính biểu trưng cao là thành ngữ mà ý nghĩa của

chúng không còn liên hệ đủ rõ với ý nghĩa của các thành tố cấu tạo; các sắc thái

bình giá, cảm xúc kèm theo là rất cao. Nghĩa của thành ngữ không còn là phép cộng

đơn thuần nghĩa của các thành tố mà là sự khái quát hóa nghĩa của các thành tố

mang tính gợi cảm cao. Đó là các thành ngữ như: đồng thanh tương ứng, đồng khí

tương cầu (những người cùng có tâm hồn, chí hướng, sở thích giống nhau, dễ gần

gũi tìm đến nhau, để ủng hộ nhau, cùng nhau mưu việc), họa hổ họa bì nan họa cốt,

tri nhơn tri diện bất tri tâm (khó mà hiểu được lòng dạ con người) v.v…

b. Thành ngữ Hán Việt xét về mặt cấu tạo

Xét về cấu trúc, thành ngữ Hán Việt được chia thành hai loại: thành ngữ Hán

Việt giữ nguyên cấu trúc ngữ pháp của đơn vị gốc và thành ngữ Hán Việt thay đổi

chữ và vị trí chữ của đơn vị gốc.

b1. Thành ngữ Hán Việt giữ nguyên cấu trúc ngữ pháp của đơn vị gốc:

đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu 同聲相應, 同氣相求; quân tử nhất

ngôn 君子一言; họa phước vô môn 禍福無門.

b2. Thành ngữ Hán Việt thay đổi chữ và vị trí chữ của đơn vị gốc: cửu tử

nhất sinh 九死一生 (thành ngữ Hán) - Thập tử nhất sinh 十 死一生 (thành ngữ

Hán Việt), khởi tử hồi sanh 起死回生 (thành ngữ Hán) – cải tử hoàn (hườn) sinh

42

改死還生 (thành ngữ Hán Việt), bách niên giai lão(thành ngữ Hán) 百年皆老 – bách niên giai ngẫu (thành ngữ Hán Việt), họa phước vô môn 禍福無門 (thành ngữ Hán) – bạc phước vô môn (thành ngữ Hán Việt), tiến thoái lưỡng nan 進退兩難 (thành ngữ Hán) – thối dị tấn nan (thành ngữ Hán Việt). c. Thành ngữ Hán Việt xét về mặt cú pháp

Xét về mặt quan hệ cú pháp, thành ngữ Hán Việt được chia thành ba loại:

thành ngữ Hán Việt có cấu trúc chính – phụ (bao gồm danh ngữ, động ngữ, tính

ngữ), thành ngữ Hán Việt có cấu trúc chủ - vị và thành ngữ Hán Việt với hai vế

được sắp xếp cân đối có quan hệ đẳng lập.

c1. Thành ngữ Hán Việt có cấu trúc chính – phụ

- Thành ngữ Hán Việt có cấu trúc danh ngữ: nhất gia trọn nghì, nhơn

(nhân) tình trí tri.

- Thành ngữ Hán Việt có cấu trúc động ngữ: họa hổ họa bì nan họa cốt,

tri nhơn tri diện bất tri tâm, nhập sơn tầm hổ dị, khai khẩu cốc nhơn nan.

- Thành ngữ Hán Việt có cấu trúc tính ngữ: thủy chung như nhứt, bạc

phước vô môn, họa phước vô môn.

c2. Thành ngữ Hán Việt có cấu trúc chủ - vị: hổ tử lưu bì, hiền thần phải

trạch quân nhi sự, dương cầm còn trạch mộc nhi thê, đại mộc lưu giang bất đắc hồi

cố dã.

c3. Thành ngữ Hán Việt với hai vế được sắp xếp cân đối có quan hệ

đẳng lập: nam thanh nữ tú, tình thâm ngỡi trượng, tình thương ngãi nhớ, sơn băng

thủy kiệt, nhất mã lưỡng cương, nhứt phu lưỡng phụ, thập tử nhất sanh.

Bên cạnh các loại thành ngữ kể trên, ca dao Nam Bộ còn có loại thành ngữ

được cấu tạo đan xen Hán Việt và phi Hán Việt như: đăng sơn tìm hổ, đạo chồng

nghĩa vợ, đạo nghĩa vợ chồng, ghi xương khắc cốt, ham chữ phú phụ bạc chữ bần,

ham phú phụ hèn, tình mặn nghĩa nồng, tình xưa nghĩa cũ, từ cổ chí kim, xương rụi

cốt tàn, cốt rã xương mòn, nhứt ngôn trúng vạn ngôn dụng, nhứt ngôn bất trúng thì

vạn sự bất thành. Có thể nói, đây là thành ngữ mang tính sáng tạo và được Việt hóa

cao độ trong ca dao Nam Bộ.

43

2.3. Ngữ nghĩa của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ

Các phạm trù nghĩa biểu hiện chủ yếu của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam

Bộ xuất hiện ở những dạng sau:

2.3.1. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình yêu quê hương đất nước

Đây là một trong những chủ đề hàng đầu của ca dao. Trong ca dao Nam Bộ,

có khoảng hơn mười từ ngữ Hán Việt được dùng để nói về chủ đề này: bình yên,

đồng bào, giang san/ giang sơn, lưu thú, lưu tồn, mỹ miều, oai hùng, oai linh, sơn

cước, sơn hà, sơn khê, sơn lâm, trứ danh.

Yêu quê hương đất nước là đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ vững chủ quyền

dân tộc, làm cho nước nhà yên ổn:

Con ơi con ngủ cho say,

Cha con đi giết sạch loài Lang – Sa.

Lớn lên con nối chí cha,

Ra đi giết giặc nước nhà bình yên.

Bình yên có nghĩa là yên ổn, nước nhà không loạn lạc.

Người xưa cho rằng: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Câu nói này

có nghĩa là nước nhà lúc hưng thịnh hay lúc suy vong, một người dân thường cũng

phải có trách nhiệm lo lắng. Ca dao Nam Bộ đã phát huy tinh thần yêu quê hương

đất nước thể hiện ở trách nhiệm với quốc gia, dân tộc:

Làm trai đứng ở trên đời,

Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta.

Ghé vai gánh đỡ sơn hà,

Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu.

Sơn hà được hoán dụ theo kiểu lấy bộ phận chỉ toàn thể. Sơn là núi, hà là

sông. Theo Bửu Kế: “Trong một nước không nơi nào là không có sông núi nên hai

chữ sơn hà dùng để chỉ đất đai trong một nước” [30; tr.1614].

Yêu quê hương đất nước còn là biết tự hào, ca ngợi địa danh, cảnh đẹp của

quê hương:

Lịch thay địa phận Trà Ôn,

44

Miếu ông Điền Bát lưu tồn ngày nay.

Lưu tồn có nghĩa là còn lại mãi mãi.

Trong ca dao Nam Bộ, những từ ngữ Hán Việt nói về tình yêu quê hương đất

nước ít hơn so với từ ngữ Hán Việt nói về tình yêu nam nữ, tình cảm gia đình (tình

cảm vợ chồng, tình cảm cha mẹ - con cái) và từ ngữ Hán Việt nói về các vấn đề xã

hội khác.

2.3.2. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình yêu nam nữ

Đề tài về tình yêu đôi lứa và khát vọng tình cảm luôn luôn là đề tài lớn nhất,

phong phú và đa dạng nhất trong thơ ca từ cổ chí kim cũng như trong ca dao. Vì thế,

có rất nhiều từ ngữ Hán Việt thể hiện chủ đề này: ái ân, ân tình, bạc tình, lương

duyên, chung tình, hữu tình, thủy chung, căn duyên tiền định, hữu duyên thiên lý

ngộ, vô duyên bạc phận, thủy chung như nhứt, bách niên giai ngẫu v.v…

Những từ ngữ Hán Việt chỉ tình yêu nam nữ có thể chia thành những nhóm

nhỏ - ứng với các giai đoạn khác nhau trong tình yêu:

Tỏ tình: duyên tình, hữu tình, hữu duyên, hữu ý, lương duyên, căn (i)

duyên, căn duyên tiền định, hữu duyên thiên lý ngộ.

(ii) Giận hờn, trách móc: bạc tình, bạc nghĩa/ bạc ngãi, bạc phận, phụ

bạc, phụ nghĩa, phụ tình, vô duyên, hữu nhãn vô châu.

(iii) Thương nhớ, sầu, ly biệt: biệt ly, ly biệt, chia ly, hiệp tan/ hợp tan,

thảm sầu, thảm tình, sầu ái, thất tình, tương tư, tương hội, ưu phiền.

(iv) Thề nguyền, ước hẹn thủy chung: chung tình, tình chung, chung hiệp,

thủy chung, thủy chung như nhứt, bách niên giai ngẫu.

Cầu hôn: cầu thân, cầu hôn, giá thú, giao duyên, giao hoan, sính nghi, (v)

định đôi can lệ.

2.3.3. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình cảm gia đình

Tình yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình là ba nội

dung lớn trong ca dao Nam Bộ. Vì thế, đây là những chủ đề có rất nhiều từ ngữ biểu

thị. Trong nhóm từ ngữ Hán Việt chỉ tình cảm gia đình có thể chia thành hai tiểu

45

loại chủ yếu: từ ngữ Hán Việt chỉ tình cảm vợ chồng và từ ngữ Hán Việt chỉ tình

cảm cha mẹ - con cái.

2.3.3.1. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình cảm vợ chồng

Ca dao Nam Bộ rất coi trọng đạo làm người, ba điều cơ bản thường được

nhắc đến là trung, hiếu và tình. Những từ ngữ Hán Việt diễn tả tình cảm vợ chồng

trong Ca dao Nam Bộ như: giao hòa, hiền thê, hiệp cẩn, phu phụ, phu quân, phu

thê, tân hôn, vu quy, xuất giá, đạo phu thê, đạo chồng nghĩa vợ, đạo nghĩa vợ

chồng, đạo phu thê, đạo tao khang, nghĩa tao khang, xuất giá tòng phu, chi tử vu

quy, nhất mã lưỡng cương, nhứt phu lưỡng phụ, thủy chung như nhứt.

2.3.3.2. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình cảm cha mẹ - con cái

Từ ngữ Hán Việt nói về tình cảm cha mẹ - con cái trong Ca dao Nam Bộ bao

gồm các từ ngữ như: ấu tử, báo hiếu, bất hiếu, bổn phận, cốt nhục, cưu mang,

dưỡng dục, dưỡng nuôi, hiếu hạnh, hoài thai, hoạn dưỡng, mẫu thân, mẫu từ, mồ

côi, nuôi dưỡng, phụ mẫu, phụ tử, phụng dưỡng, phụng thờ, sanh dưỡng, sinh

thành/ sanh thành, song thân, thơ ấu, từ mẫu, tam niên nhũ bộ, cửu tự cù lao, báo

bổ sanh thành, bất tôn giáo hóa v.v...

Trong những từ ngữ vừa nêu, có thể chia thành những nhóm sau:

Từ ngữ chỉ cha mẹ - con cái: phụ mẫu, mẫu thân, mẫu từ, từ mẫu, (i)

song thân, phụ tử, cốt nhục, đệ huynh, ấu tử.

Từ ngữ chỉ công lao khó nhọc của cha mẹ đối với con cái: cưu mang, (ii)

dưỡng dục, dưỡng nuôi, nuôi dưỡng, hoài thai, hoạn dưỡng, sanh dưỡng,

sinh thành/ sanh thành, tam niên nhũ bộ, cửu tự cù lao.

(iii) Từ ngữ Hán Việt chỉ sự đền đáp công ơn của con cái đối với cha mẹ:

báo hiếu, bất hiếu, bổn phận, hiếu hạnh, phụng dưỡng, phụng thờ, báo bổ

sanh thành.

Ca dao Nam Bộ sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt nói về tình cảm cha mẹ - con

cái là có nguyên do chứ không phải ngẫu nhiên. Tình cảm cha mẹ - con cái là tình

cảm thiêng liêng mà dân gian muốn gửi gắm vào ca dao, để vun đắp, bồi dưỡng nó.

46

Cha mẹ có công sanh thành, nuôi dưỡng; con cái phải có bổn phận báo đáp, phụng

dưỡng. Đó cũng chính là đạo làm người ở đời.

Từ phụ mẫu xuất hiện 56 lần trong các bài ca dao khác nhau, đây là từ nằm

trong nhóm những từ có tần số xuất hiện cao nhất trong ca dao Nam Bộ. Mặc dù đã

có từ thuần Việt cha mẹ, mẹ nhưng ca dao Nam Bộ lại rất hay sử dụng từ Hán Việt

phụ mẫu, song thân, mẫu thân, mẫu từ, từ mẫu. Sử dụng từ ngữ Hán Việt đẳng

nghĩa là lựa chọn nhằm tạo sự đa dạng cho cách diễn đạt trong ca dao Nam Bộ.

Ngoài ba nội dung lớn đã được trình bày trên, từ ngữ Hán Việt trong ca dao

Nam Bộ còn thể hiện một số nội dung khác.

2.3.4. Từ ngữ Hán Việt chỉ quan niệm về thế giới, về đạo đức, về cuộc

sống, về con người của người Nam Bộ

2.3.4.1. Từ ngữ Hán Việt biểu thị khái niệm, quan niệm về đạo nghĩa

Coi trọng đạo nghĩa là một đặc điểm đáng quý trong tính cách của người

Việt nói chung và người Việt Nam Bộ nói riêng. Trọng đạo nghĩa là biết làm việc

phải đạo, biết xả thân cứu người, biết hy sinh vì người khác, biết làm những điều

hợp với đạo lý làm người. Trong ca dao Nam Bộ có sự xuất hiện của khá nhiều từ

ngữ Hán Việt biểu thị các khái niệm, quan niệm về đạo nghĩa như: đạo, nghĩa,

nhân, hiếu, trung, đạo nghĩa, nghĩa nhân, nhân đạo, hiếu hạnh, ngũ luân, tam cang,

ngũ thường, cang thường v.v… Có một điều thú vị là từ nghĩa nhân, nhân nghĩa và

các biến thể nhơn nghĩa, nghĩa nhơn, ngãi nhơn, nhơn ngãi, ngãi nhân, nhân ngãi,

nhân ngỡi, ngỡi nhân xuất hiện 46 lần. Đây là minh chứng cụ thể về tinh thần trọng

nhân nghĩa của người Nam Bộ.

Những khái niệm, quan niệm về đạo nghĩa trong ca dao Nam Bộ không chỉ

bó hẹp trong một mối quan hệ nào, mà nó bao trùm lên tất cả các mối quan hệ khác

nhau trong xã hội. Vì vậy, từ ngữ Hán Việt biểu thị khái niệm, quan niệm về đạo

nghĩa cũng có thể được chia thành:

Đạo nghĩa trong quan hệ ứng xử xã hội: nghĩa nhân, nhân nghĩa, tam (i)

tòng, tứ đức, tam cang ngũ thường, kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, lâm nguy

bất cứu mạc anh hùng, tiền tài như phấn thổ, nghĩa trọng tợ thiên kim.

47

(ii) Đạo nghĩa trong quan hệ gia đình: hiếu, nghĩa, cưu mang, hoài thai,

sinh thành, dưỡng dục, đạo phu thê, nghĩa phu thê, đạo tao khang, nghĩa tao

khang, cửu tự cù lao, tam niên nhũ bộ.

2.3.4.2. Từ ngữ Hán Việt chỉ thế giới thực và thế giới tâm linh

Ảnh hưởng quan niệm Đông phương về cuộc đời của con người, người Việt

nói chung và người Nam Bộ nói riêng thường tin rằng ngoài thế giới thực, con

người còn có một thế giới khác, thuộc phạm trù tâm linh của con người. Trong ca

dao Nam Bộ, có khá nhiều từ ngữ Hán Việt chỉ các khái niệm về thế giới thực và

thế giới tâm linh của con người như: dương gian, dương trần, phàm trần, tái thế,

tạo hoá, thế gian, thế sự, thế thường, thiên hạ, âm cung, âm phủ, diêm đình, đầu

thai, huỳnh tuyền, ngọc hoàng, thiên đình, thiên tào, tiền định v.v…

2.3.4.3. Từ ngữ Hán Việt chỉ công danh – sự nghiệp, tiền tài, danh vọng,

tình cảnh

Nhóm từ ngữ chỉ công danh – sự nghiệp, tiền tài, danh vọng, tình cảnh xuất

hiện rải rác trong ca dao Nam Bộ như: cơ cực, cơ đồ, cơ hàn, cơ nghiệp, danh hư,

danh lợi, danh thơm, danh vọng, gia tài, hiểm nghèo, hiểm nguy, hiển vinh, hoạnh

tài, khổ lao, lao khổ, khốn nạn, lâm nguy, lâm thân, lập nghiệp, lỡ thời, lỡ vận,

phong lưu, phú quý, quyền quý/ quyền quới, quý vật, quý nhân, sa cơ, thạnh suy,

thạnh thời, thâm trầm, thịnh trị, thối lui, thối nan, tiền tài, vinh hiển, vinh huê, vinh

quy v.v…

2.3.4.4. Từ ngữ Hán Việt chỉ phẩm chất của trung trinh liệt nữ, quân tử

anh hùng

Trong xã hội xưa, đàn ông phải là người có khí phách anh hùng, đầu đội trời,

chân đạp đất; phụ nữ phải là người chính chuyên, là trung trinh liệt nữ. Những từ

ngữ Hán Việt diễn tả phẩm chất tốt đẹp của họ trong ca dao Nam Bộ như: anh dũng,

anh hào, anh hùng, chí sĩ, chính chuyên, đôn hậu, đức hạnh, hiền lương, lịch sự, liệt

nữ, nhân hiền, nho sĩ, nhu mì, nữ thanh, quân tử, quý nương, thủ tiết, thuần hậu,

thục nữ, thuyền quyên, trí huệ, trí tài, trực tiết, trượng phu v.v…

48

Cần thấy rằng, trên đây không phải là những nhóm nghĩa hoàn toàn tách biệt

nhau, khi xét ở góc độ này thì chúng thuộc về nhóm nghĩa này nhưng khi xét ở góc

độ khác thì chúng lại thuộc về nhóm nghĩa khác, chẳng hạn, ngữ đạo phu thê vừa

thuộc nhóm nghĩa chỉ tình cảm vợ chồng, vừa thuộc nhóm nghĩa chỉ quan hệ đạo

nghĩa. Từ ngữ Hán Việt nằm trong nhóm nghĩa chỉ tình cảm gia đình và quan hệ

đạo nghĩa trong ca dao Nam Bộ nổi trội hơn so với từ ngữ Hán Việt trong các nhóm

nghĩa khác. Ca dao Nam Bộ nói nhiều đến giá trị tình cảm gia đình, đạo nghĩa, nhân

nghĩa, là những khái niệm vốn có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên cũng

cần khẳng định rằng các quan niệm về nhân sinh, đạo đức trong ca dao Nam Bộ

không chỉ chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa mà nó còn là truyền thống quý

báu bao đời của người Việt Nam nói chung và người Nam Bộ nói riêng.

2.4. Tiểu kết

Từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt được xem là lớp đơn vị mở. Cho đến nay

vẫn chưa có một con số thống kê chính xác nào về lớp từ ngữ này (ngoài số thống

kê khoảng hơn 60% của Henri Maspéro) trong tiếng Việt. Sự hình thành của lớp từ

ngữ Hán Việt chính là kết quả của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, văn hóa Hán – Việt

diễn ra hàng ngàn năm trong lịch sử, điều đó vẫn được tiếp tục cho đến ngày nay.

Trên đây là bức tranh chung về từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ về các

đặc điểm ngữ âm, cấu tạo – ngữ pháp và ngữ nghĩa. Về đặc điểm ngữ âm, từ ngữ

Hán Việt trong ca dao Nam Bộ tồn tại ở ba dạng: từ ngữ Hán Việt có âm đọc Hán

Việt toàn dân, từ ngữ Hán Việt có âm đọc Hán Việt phương ngữ hóa và từ ngữ Hán

Việt có hai âm đọc Hán Việt song song cùng tồn tại trong tiếng Việt. Những cách

đọc Hán Việt xuất hiện ở từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ có nhiều nguyên

nhân khác nhau, trong đó phải kể đến các nguyên nhân: kỵ húy, nói sao viết vậy và

nguyên nhân về gieo vần nên phải ép vận. Về ngữ nghĩa, các phạm trù nghĩa biểu

hiện chủ yếu trong ca dao Nam Bộ là nói về tình yêu quê hương đất nước, tình yêu

nam nữ, tình cảm gia đình và quan niệm về thế giới, về đạo đức, về cuộc sống, về

con người của người Nam Bộ, trong đó nổi bật nhất là nhóm từ ngữ nói về tình cảm

gia đình và quan niệm sống theo chuẩn mực đạo nghĩa của người Nam Bộ. Ở

49

chương tiếp theo, chúng tôi sẽ phân tích giá trị sử dụng của lớp từ ngữ Hán Việt để

thấy rõ hơn về sự đóng góp của lớp từ ngữ này trong tiếng Việt nói chung và trong

ca dao Nam Bộ nói riêng.

50

Chương 3. TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM

BỘ TRÊN BÌNH DIỆN SỬ DỤNG

Từ ngữ Hán Việt được sử dụng thường tạo thêm một số sắc thái ngữ nghĩa

hoặc sắc thái phong cách cho ca dao Nam Bộ, tuy nhiên, đôi chỗ lại làm mất đi cái

chất riêng vốn có của thể loại sáng tác bình dân này. Vì thế, trong chương này, luận

văn đi vào khảo sát cách thức vận dụng từ ngữ Hán Việt và giá trị sử dụng của từ

ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ.

3.1. Tần số xuất hiện của từ ngữ Hán Việt trong quyển Ca dao dân ca Nam

Bộ (có so sánh với Ca dao Nam Trung Bộ và Ca dao Việt Nam)

Ca dao Việt Nam nói chung, ca dao các vùng miền khác nói riêng đều có

dùng từ ngữ Hán và điển cố điển tích Hán. Khảo sát từ ngữ Hán Việt trong các cuốn

ca dao được sưu tầm ở các địa phương khác nhau sẽ thấy rõ điều này.

Theo thống kê của Nguyễn Phương Châm: “Trong cuốn Hát ví đồng bằng

Hà Bắc có 691 lời thì có 22 lời có từ gốc Hán và điển tích Hán chiếm 3,1%. Trong

cuốn Hát phường vải có 1771 lời thì có 145 lời sử dụng từ gốc Hán và điển tích Hán

chiếm 8,1%. Đất Nghệ An, mảnh đất nho học nổi tiếng của các ông đồ Nghệ, của

các cuộc hát ví, hát đối nhuốm màu Hán học nên tỷ lệ trên vượt hơn hẳn so với xứ

Bắc. Trong Ca dao dân ca Nam Bộ có 1858 lời thì có 281 lời dùng từ gốc Hán và

điển tích Hán, chiếm gần 10%. Trong 281 lời đó nhiều nhất là các lời ca dao về tình

yêu đôi lứa, ít nhất là chủ đề về quê hương đất nước (chỉ có 3 lời)” [9; tr.54]. Từ kết

quả thống kê của Nguyễn Phương Châm, có thể thấy rằng ca dao được sưu tầm ở

Nam Bộ sử dụng nhiều từ gốc Hán và điển tích Hán hơn ca dao được sưu tầm ở Bắc

Bộ và Trung Bộ.

So sánh từ ngữ Hán Việt trong Ca dao Nam Bộ với từ ngữ Hán Việt trong Ca

dao Nam Trung Bộ và từ ngữ Hán Việt trong Ca dao Việt Nam, chúng tôi thấy rằng

Ca dao Nam Bộ sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt nhất và tần số sử dụng cao nhất. Ca dao Nam Bộ2 có 1207/1858 bài sử dụng từ ngữ Hán Việt, chiếm tỉ lệ 65%; Ca dao

2 Ca dao dân ca Nam Bộ (1984), Bảo Định Giang - Nguyễn Tấn Phát - Trần Tấn Vĩnh - Bùi Mạnh Nhị, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.

51

Việt Nam3 có 360/1238 bài sử dụng từ ngữ Hán Việt, chiếm tỉ lệ 29, 1%; Ca dao Nam Trung Bộ4 có 495/1650 bài sử dụng từ ngữ Hán Việt, chiếm tỉ lệ 30%. Sau đây

là bảng số liệu thống kê cụ thể:

Đối tượng thống kê Số lượng Tần số sử dụng Tỉ lệ %

Từ đơn 88 446 12, 1%

Từ ghép 507 1029 69, 7% Ca dao Ngữ định danh 51 66 7 % Nam Bộ Thành ngữ 81 101 11, 2%

Tổng số 727 1655 100%

Từ đơn 44 158 13, 4%

Từ ghép 250 369 76, 2% Ca dao Ngữ định danh 18 18 5, 5% Việt Nam Thành ngữ 16 19 4, 9%

Tổng số 328 564 100%

Từ đơn 47 89 10, 8%

Từ ghép 326 568 74, 6% Ca dao Ngữ định danh 24 28 5, 5% Nam Trung Bộ Thành ngữ 40 57 9, 1%

Tổng số 437 742 100%

Nhìn vào bảng thống kê trên có thể thấy từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam

Bộ (từ đơn, từ ghép, ngữ định danh và thành ngữ) nhiều hơn hẳn về số lượng và tần

số sử dụng so với Ca dao Nam Trung Bộ và Ca dao Việt Nam. Nhận xét về hiện

tượng Ca dao Nam Bộ sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt hơn hẳn ca dao các miền

khác, Nguyễn Xuân Kính đã từng cho rằng đây là một “nghịch lý”, bởi lẽ Nho học ở

Nam Bộ bắt đầu muộn và kết thúc sớm hơn (bắt đầu từ giữa thế kỷ XVIII kết thúc

khoảng năm 1862 – khoa thi Hương cuối cùng) so với Nho học ở miền Bắc và miền

Trung. Nguyễn Xuân Kính [31] đã nhận xét xác đáng khi cho rằng đó chính là

“nghịch lý”: Ca dao ở vùng có truyền thống tiếp thu Nho học và văn học Trung

3 Ca dao Việt Nam (2007), Ngọc Quang, Nxb Văn hóa – Thông tin. 4 Ca dao Nam Trung Bộ (1999), Thạch Phương – Ngô Quang Hiển, Nxb Khoa học xã hội.

52

Quốc lâu hơn, sớm hơn lại không dùng nhiều từ ngữ Hán Việt và điển tích văn học

Trung Quốc.

Khảo sát từ ngữ Hán Việt trong ba tác phẩm Ca dao Nam Bộ, Ca dao Nam

Trung Bộ và Ca dao Việt Nam chúng tôi thấy có rất nhiều bài giống nhau. Có khi

giống nhau hoàn toàn về mặt câu chữ hoặc chỉ khác nhau ở một hai chữ:

Trăm năm giữ vẹn chữ tòng,

Sống sao thác vậy một chồng mà thôi.

(CDVN, tr. 126)

Trăm năm, giữ vẹn chữ tòng,

Sống sao thác vậy một lòng mà thôi.

(CDNTB, tr.285)

Trăm năm giữ vẹn chữ tòng,

Sống sao thác vậy một chồng mà thôi.

(CDNB, tr.453)

Ca dao Nam Bộ có rất nhiều bài hoặc giống với Ca dao Việt Nam hoặc giống

với Ca dao Nam Trung Bộ. Ca dao Nam Bộ có nhiều bài giống với Ca dao Việt

Nam:

Cái vòng danh lợi cong cong,

Kẻ mong ra khỏi, người trông chui vào.

(CDNB, tr.476)

Cái vòng danh lợi cong cong,

Kẻ hòng ra khỏi, người mong chui vào.

(CDVN, tr.214)

Cũng cùng là một bài ca dao, Ca dao Việt Nam có ba câu:

Ngó lên chữ ứ,

Ngó xuống chữ ư.

Anh đừng thương vội phụ mẫu từ nghĩa em.

(CDVN, tr.184)

Ca dao Nam Bộ có bốn câu:

53

Ngó lên chữ ứ,

Ngó xuống chữ ư,

Anh thương em thủng thẳng em ừ,

Anh đừng thương vội phụ mẫu từ nghĩa em.

(CDVN, tr.332)

Ca dao Nam Bộ cũng có rất nhiều bài giống với Ca dao Nam Trung Bộ:

Chữ rằng chi tử vu quy,

Làm thân con gái phải đi theo chồng.

(CDNB, tr.432)

Chữ rằng: Chi tử vu quy

Làm thân con gái phải đi theo chồng.

(CDNTB, tr.148, 265)

Có một điều đặc biệt là Ca dao Việt Nam không có bài nào sử dụng những

dòng thơ toàn bằng từ ngữ Hán Việt, trong khi đó Ca dao Nam Bộ và Ca dao Nam

Trung Bộ có rất nhiều bài kiểu như vậy:

Họa hổ, họa bì, nan họa cốt,

Tri nhơn, tri diện, bất tri tâm.

May không chút nữa em lầm,

Khoai lang khô xắt lát, tưởng nhân sâm bên Tàu.

(CDNB, tr.296)

Họa hổ họa bì nan họa cốt,

Tri nhân tri diện bất tri tâm.

May không chút nữa thì lầm,

Củ khoai lang mà em ngỡ cao ly sâm bên Tàu.

(CDNTB, tr.274)

Ca dao là một thể loại của văn học dân gian, do đặc điểm nội dung và hình

thức ngắn gọn, có vần, dễ nhớ nên ca dao luôn được nhân dân truyền miệng từ thế

hệ này sang thế hệ khác. Chính vì thế, ca dao luôn được trau chuốt mà vẫn giữ được

cái hồn, cái cấu trúc ban đầu mặc dù có thay đổi một vài từ khi được truyền miệng ở

54

các địa phương khác nhau. Hơn nữa, sự di cư từ miền này đến miền khác không chỉ

là sự di cư về mặt con người địa lý mà còn cả về con người văn hóa, trong đó có

vốn ca dao đã ăn sâu trong tiềm thức của họ.

3.2. Vị trí của từ ngữ Hán Việt trong bài ca dao Nam Bộ

Phần lớn từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ được sử dụng xen lẫn vào

các dòng thơ, không kể dòng lục hay dòng bát, dòng đầu hay dòng cuối bài ca dao.

Trong nhiều trường hợp, từ ngữ Hán Việt đã chi phối bài ca dao rất nhiều về kết

cấu, vần nhịp:

Niềm kim thạch nghĩa cù lao

Bên tình bên hiếu ở sao cho tuyền.

Bài ca dao xuất hiện bốn từ Hán Việt: kim thạch, cù lao, tình, hiếu. Hai từ

ghép và hai từ đơn Hán Việt xuất hiện ở hai vị trí đối nhau trong câu lục và câu bát.

Niềm kim thạch đối với nghĩa cù lao. “Kim thạch có nghĩa là vàng đá, mà vàng và

đá là hai thứ cứng rắn, vững bền nên được dùng để ví với sự vững chãi, trung

thành” [30; tr.916], sự thủy chung trong tình yêu; còn cù lao chỉ công lao khó nhọc

của cha mẹ, do chữ Kinh Thi: cửu tự cù lao gồm: sinh (sinh đẻ), cúc (nâng đỡ), phủ

(vỗ về), xúc (cho bú), trưởng (nuôi cho lớn, trưởng thành), dục (dạy dỗ), cố (trông

nom, quan tâm đến), phục (chăm sóc, dạy bảo), phúc (bảo vệ). Kim thạch biểu trưng

cho chữ tình, cù lao biểu trưng cho chữ hiếu (ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao:

thương xót thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc). Qua hình ảnh biểu trưng đó, bài ca dao

nói rằng chữ tình và chữ hiếu đều quan trọng đối với con người, cần giữ cho trọn

vẹn cả hai.

Cửu tự cù lao còn được Việt hóa thành chín chữ cù lao và được vận dụng để

gieo vần, tạo nhịp điệu, nói lên lòng biết ơn thành kính của con cái đối với cha mẹ:

Thương thay chín chữ cù lao

Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình.

Hai ngữ Hán Việt xuất hiện ở cuối câu lục (chín chữ cù lao) và đầu câu bát

(tam niên nhũ bộ) đã làm cho bài ca dao có sự đối ý giữa hai dòng thơ. Chín chữ cù

lao (cửu tự cù lao) như đã nói ở trên là chỉ công lao khó nhọc của cha mẹ đối với

55

con cái; còn tam niên nhũ bộ chỉ ba năm cho bú, ẵm bồng, có nghĩa cũng chỉ về

công lao nuôi dưỡng khó nhọc của cha mẹ đối với con cái. Hai ngữ Hán Việt làm

cho bài ca dao có sự đối nhau về ý, đồng thời tạo sắc thái trang trọng cho bài ca dao.

Có thể thấy Chữ cù lao (cửu tự cù lao) là một ngữ tương đối phổ biến trong

ngôn ngữ văn chương tiếng Việt. Cụm từ này xuất hiện trong không ít những tác

phẩm văn học viết: Duyên hội ngộ, đức cù lao (Kiều); Thương thay cửu tự cù lao

(Lục Vân Tiên).

Trong bài ca dao với hai câu lục bát sau đây, ba từ Hán Việt xuất hiện ở ba vị

trí khác nhau đã tạo ra sự cân đối về hình thức, về nội dung trong một dòng thơ và

còn góp phần gieo vần cho dòng thơ tiếp theo:

Trai tứ chiếng, gái giang hồ,

Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên.

Trong ngữ cảnh trên, từ giang hồ được hiểu là chỉ những người đi phiêu lưu

nay đây mai đó; còn tứ chiếng chỉ “người khắp bốn phương, khắp mọi nơi, không

thuần nhất về mặt thành phần, trong quan hệ với cư dân sở tại” [52; tr.1109]. Bài ca

dao nói rõ về thành phần cư dân Nam Bộ, những người đến từ khắp mọi miền đất

nước, nhưng trên mảnh đất Nam Bộ trù phú họ có thể lập nên cơ đồ. Ba từ Hán Việt

với hai câu lục bát đã thể hiện ý nghĩa của bài ca dao. Những lớp người khai hoang

mở đất, khai thiên phá thạch này gặp nhau trên mảnh đất xa xôi cuối cùng của tổ

quốc, và tình yêu làm đất lạ hóa quê hương, họ đã làm nên sự nghiệp, cơ đồ vững

chắc nơi đây.

Nếu ở những bài ca dao lục bát trên, từ ngữ Hán Việt xuất hiện ở giữa câu,

cuối câu thì bài ca dao sau đây với hai dòng thơ bảy chữ, từ ngữ Hán Việt lại xuất

hiện ở đầu hai dòng thơ:

Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,

Đấng anh hùng đừng oán mới nên.

Ca dao Nam Trung Bộ cũng có bài tương tự:

Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,

Đấng anh hùng đừng oán mới hay.

56

Thế mạnh của thể thơ bảy chữ là ở sự bình đối giữa các câu thơ. Sự xuất hiện

của hai từ Hán Việt trượng phu và anh hùng đã góp phần tạo nên kết cấu chặt chẽ

của bài ca dao về vần nhịp và số âm tiết. Trong Đằng văn công hạ của Mạnh Tử có

viết rằng: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi

vị đại trượng phu 富貴不能淫, 貧賤不能移, 威武不能屈, 此之謂大丈夫 (Đằng

văn công hạ 滕文公下). Giàu sang không mê hoặc được, nghèo khó không dời đổi

được, sức mạnh không khuất phục được, như thế gọi là bậc đại trượng phu. Như

vậy, trượng phu có nghĩa chỉ người đàn ông chí khí hiên ngang, bất khuất, còn anh

hùng chỉ người tài giỏi xuất chúng trong thiên hạ.

Từ ngữ Hán Việt không chỉ xuất hiện xen lẫn trong những bài ca dao lục bát,

những bài ca dao với thể bảy chữ mà chúng còn được dùng xen lẫn cả trong những

bài ca dao với thể tự do:

Anh gặp em vừa mừng vừa hỏi,

Phụ mẫu ở nhà mạnh giỏi hay không ?

Tại gia đàng phụ mẫu em cũng được bình an,

Em xin hỏi lại: phụ mẫu của bạn lang thế nào ?

Qua sự phân tích trên có thể nói rằng, từ ngữ Hán Việt được sử dụng rất linh

hoạt trong các dòng thơ với các thể thơ khác nhau trong ca dao Nam Bộ. Sự xuất

hiện của từ ngữ Hán Việt ở những vị trí khác nhau đã làm cho những bài ca dao trở

nên ít đơn điệu hơn trong cách biểu đạt.

3.3. Chức năng tạo văn bản của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ

Xuất hiện trong các văn bản ca dao Nam Bộ, từ ngữ Hán Việt có nhiều chức

năng khác nhau, trong đó chủ yếu là hai chức năng sau: chức năng làm dẫn ngữ và

chức năng chính trong việc biểu thị ý nghĩa của bài ca dao.

3.3.1. Chức năng làm dẫn ngữ trong bài ca dao

Dẫn ngữ là phương thức dùng điển tích, thành ngữ, tục ngữ, các câu thơ, ý

văn có giá trị tiêu biểu để dẫn vào nội dung của bài ca dao, làm cho nội dung diễn

đạt thêm phần sinh động và biểu cảm, nó có thể gợi hàm ngôn, thể hiện năng lực

diễn đạt của chủ thể sáng tạo.

57

Dẫn ngữ trong ca dao Nam Bộ xuất hiện ở ba dạng chủ yếu: dẫn ngữ điển

tích, dẫn ngữ thành ngữ tục ngữ và dẫn ngữ thơ văn.

Dẫn ngữ điển tích là cách dùng tên các nhân vật, sự kiện, truyền thuyết lịch

sử, địa danh; dùng các câu trong kinh sách v.v…, để vận dụng liên tưởng ngữ nghĩa

ở một bối cảnh ngôn ngữ nhất định nhằm tạo ra tính biểu trưng. Chẳng hạn, bài ca

dao sau đây lấy chuyện triều đình Trung Quốc làm đề tài:

Tiền Đường, hậu Tống

Tam Quốc, Châu Do

Anh không thương em nói chuyện đưa đò

Cũng như Đát Kỷ qua phò Trụ vương.

Do điển tích không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, nên chúng

tôi chỉ tìm hiểu hai loại dẫn ngữ: dẫn ngữ thành ngữ, tục ngữ và dẫn ngữ thơ văn

trong ca dao Nam Bộ.

a. Dẫn ngữ thành ngữ, tục ngữ

Dẫn ngữ thành ngữ, tục ngữ xuất hiện trong ca dao Nam Bộ chủ yếu là ở

nguyên dạng, tạo thuận lợi cho việc nắm bắt nội dung diễn đạt và việc lĩnh hội bản

chất nội dung của bài ca dao:

Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình,

Mặt chưa thấy mặt mà tình đã thương.

Thành ngữ văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình (nghe tên, nghe tiếng mà chưa thấy

người, thấy mặt) đóng vai trò là dẫn ngữ để tác giả dân gian muốn nói ý sau: mặt

chưa thấy mặt mà tình đã thương.

Tương tự bài ca dao sau đây, phần dẫn ngữ và phần sau có ý nghĩa tương tự

nhau:

Mục bất kiến, nhĩ tằng văn,

Thấy em có nghĩa mấy trăng anh cũng chờ.

Mục bất kiến, nhĩ tằng văn có nghĩa là mắt chưa thấy nhưng tai đã nghe cho

nên biết em là người nghĩa nên bao lâu anh cũng chờ.

58

Dẫn ngữ họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm trong bài ca

dao sau không chỉ có tác dụng gieo vần mà còn là một triết lý mang đậm nhân sinh

quan của tác giả dân gian:

Họa hổ họa bì nan họa cốt

Tri nhân tri diện bất tri tâm

May không chút nữa em lầm

Khoai lang khô xắt lát, tưởng nhân sâm bên Tàu.

Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm có nghĩa là vẽ hổ vẽ

da thì dễ, vẽ xương thì khó, biết người, biết mặt nhưng khó biết lòng dạ của họ cũng

như khoai lang khô xắt lát, tưởng nhân sâm bên Tàu. Những bài ca dao kiểu này

thực chất là hình thức mà tác giả dân gian vận dụng ngữ liệu chữ Hán rồi sau đó giải

thích ý nghĩa của câu thơ Hán ngữ bằng cách nói tương đương.

Ca dao Nam Bộ có những bài mà hình thức khá đặc biệt: phần dẫn ngữ là

thành ngữ Hán Việt, phần cuối phát triển ý của dẫn ngữ:

Minh quân, tương tế tao phùng dị,

Tài tử, giai nhân tế ngộ nan.

Trời xui anh gặp bạn vàng,

Một lời phải nghĩa muôn ngàn khó mua.

Ca dao Nam Bộ còn có những bài dùng dẫn ngữ không có liên quan gì đến

phần dưới của bài ca dao, chúng chỉ có tác dụng đưa vần cho câu thơ phía dưới:

Kiến bất thủ nhi tầm thiên lý,

Thấy miệng em cười hữu ý anh thương.

Chúng tôi cho rằng, bài ca dao sau đây phần dẫn ngữ ngoài việc gieo vần thì

chúng không có tác dụng gì, bởi không có sự liên hệ ý nghĩa giữa dẫn ngữ và phần

sau đó:

Bần cư náo thị vô nhơn vấn,

Phú tại thâm sơn hữu viễn thân.

Anh với em chút nữa thì gần,

Tại ba với má bẻ cần tháo dây.

59

Hay:

Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã,

Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng.

Nàng còn nghĩ phận chữ tùng,

Thì trao dây xích buộc vòng vào đâu?

Dẫn ngữ Bần cư náo thị vô nhơn vấn, Phú tại thâm sơn hữu viễn thân vốn

nguyên từ câu Bần cư náo thị vô nhân vấn, Phú tại sơn lâm hữu khách tầm có nghĩa

là nghèo mà sống giữa đô thị cũng chẳng ai hỏi tới, giàu mà sống nơi rừng núi cũng

có người tìm tới. Ý nghĩa của dẫn ngữ không liên quan đến ý nghĩa phần sau của bài

ca dao. Hay dẫn ngữ Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng

có nghĩa là thấy điều nghĩa không làm không phải là người dũng cảm, thấy nguy

nan không cứu không phải là anh hùng. Dẫn ngữ này cũng không có sự liên hệ về

nghĩa với phần sau đó.

Có thể nói, những bài ca dao mà phần dẫn ngữ không liên quan đến phần

dưới là những trường hợp vận dụng chữ Hán chưa đạt hiệu quả, bởi vì xét kĩ nội

dung của phần dẫn ngữ và phần sau không có mối liên hệ ngữ nghĩa với nhau.

Trong kho tàng ca dao người Việt cũng có hiện tượng dùng dẫn ngữ:

Kì mã phùng Bá Nhạc,

Bàng điểu ngộ lam phong.

(Ngựa hay gặp được Bá Nhạc - người giỏi xem tướng ngựa,

Chim đại bàng gặp được gió núi)

Qua muốn tường dạ đó đục trong,

Cho hay thuyền bưởi dạ bòng thuyền quyên.

Ca dao xứ Huế cũng có bài tương tự:

Nhất ngôn ký xuất

Tứ mã nan truy

Người đời ai có dại chi

Khúc sông eo hẹp phải tùy khúc sông.

60

Dẫn ngữ thành ngữ Hán Việt Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy có nghĩa là:

“Hết sức thận trọng trong nói năng, trước khi nói phải cân nhắc, suy nghĩ, bởi khi

nói ra rồi thì không có cách nào rút lại được, ví như một lời nói ra, dù có bốn ngựa

cũng khó mà đuổi kịp” [77; tr.108]. Đúng như Ưng Luận đã nhận xét, chúng “chỉ

dùng để đưa vần cho hai câu dưới chứ không có liên hệ gì với ý nghĩa cả” (Dẫn

theo Nguyễn Xuân Kính - Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với thơ ca dân

gian người Việt, Bài viết tham gia Hội thảo Văn học chữ Hán và Văn hóa dân gian

châu Á do Trường Đại học Thành Công (Đài Loan) tổ chức năm 2007).

Còn đây là bài ca dao xứ Nghệ:

Kì sơn, kì thủy, kì phùng

Lạ non, lạ nước, lạ lùng gặp nhau

Tri nhân, tri diện, tri tâm Kháp người, kháp mặt, kháp tri âm với nường.

Dẫn ngữ trong dòng thứ nhất (đã được dòng thứ hai dịch nghĩa) và dòng thứ

ba (nghĩa là: Biết người, biết mặt, biết lòng) là dẫn ngữ Hán Việt, còn kháp (ở dòng

thứ tư) là tiếng địa phương, có nghĩa là gặp.

Theo thống kê của chúng tôi, ca dao Nam Bộ có 33 bài dùng dẫn ngữ, cách

dùng dẫn ngữ Hán Việt cũng là hình thức chuyển tải ý nghĩa những câu chữ Hán ra

một nghĩa dễ hiểu hơn với tầng lớp bình dân. Những bài ca dao này tuy có sự

chuyển tải về ý nghĩa ra từ ngữ thuần Việt nhưng thật ra thì vẫn rất khó hiểu đối với

đa số người dân không am hiểu chữ Hán; bởi ngoài những câu châm ngôn phổ biến

mang tính kinh điển thì vẫn có những câu mang tính triết lý sâu xa.

Bỏ qua những hạn chế của việc sử dụng dẫn ngữ, có thể nói rằng, ca dao các

miền nói chung, ca dao Nam Bộ nói riêng sử dụng phương tiện dẫn ngữ đã làm cho

nội dung diễn đạt thêm hàm súc, giàu hình tượng, tạo ra được hiệu quả thẩm mỹ

trong diễn đạt, làm nổi bật lên được nội dung tư tưởng cu3a bài ca dao.

b. Dẫn ngữ thơ văn, sách vở

Ngoài việc sử dụng dẫn ngữ là điển tích, thành ngữ, ca dao Nam Bộ còn sử

dụng dẫn ngữ được mượn từ những câu thơ, ý thơ, các câu trong kinh sách để diễn

61

đạt nội dung. Tuy nhiên, việc xác định nội dung được diễn đạt là những câu thơ,

đoạn văn nào là điều không phải bao giờ cũng thực hiện được. Do đó, tiền giả định

và sự liên tưởng là rất quan trọng để xác định nội dung được diễn đạt trong dẫn ngữ

được xuất phát từ đâu.

Chúng ta đã biết trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du có câu:

Sầu đong càng lắc càng đầy,

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê! (câu 247-248)

Trong ca dao Nam Bộ lại có bài:

Nhứt nhựt bất kiến như tam nguyệt hề,

Thăm em chút xíu anh về,

Kẻo mà trăng lặn tứ bề khó trông.

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê hay nhứt nhựt bất kiến như tam nguyệt hề là

hình thức tập cổ của câu Nhất nhật bất kiến như tam thu hề (một ngày không thấy

mặt, lâu như ba năm) trong Kinh Thi. Bài Tử Khâm (áo chàng) trong Kinh Thi có

đoạn viết: …Khiêu hề thoát hề/ Tại thành khuyết hề/ Nhất nhật bất kiến/ Như tam

nguyệt hề. Tạm dịch là: …Em nhẹ nhàng nhẩy lên/ Lầu trên thành/ Một ngày không

thấy chàng/ Như ba tháng. Dẫn ngữ nhứt nhựt bất kiến như tam nguyệt hề trong bài

ca dao trên ngoài chức năng dùng để đưa vần cho hai câu dưới còn có sự liên hệ về

ý nghĩa với phần sau đó ở mức độ nhất định.

Bên cạnh việc sử dụng dẫn ngữ toàn bằng từ ngữ Hán Việt trong một, hai

dòng mở đầu bài ca dao, ca dao Nam Bộ còn sử dụng từ ngữ thuần Việt trước khi

đưa dẫn ngữ:

Chữ rằng chi tử vu quy,

Làm thân con gái phải đi theo chồng.

Trong Ca dao Nam Trung Bộ có hai bài giống hoàn toàn về câu chữ với bài

ca dao Nam Bộ trên, chỉ khác sau chữ rằng có dấu hai chấm:

Chữ rằng: Chi tử vu quy

Làm thân con gái phải đi theo chồng.

(CDNTB, tr.148 & tr.265)

62

Chi tử vu quy vốn xuất phát từ Kinh Thi, trong Kinh Thi, bài Đào yêu (Chu

Nam) có câu:

Đào chi yêu yêu

Chước chước kì hoa

Chi tử vu quy

Nghi kì thất gia

Nghĩa là: Cây đào tơ xanh mơn mởn, hoa đỏ hồng rực rỡ - Cô ấy về nhà

chồng, hòa hợp với gia đình nhà chồng của cô.

Dẫn ngữ họa phúc vô môn trong bài ca dao sau là mượn trong Minh Tâm Bảo

Giám:

Chữ rằng họa phúc vô môn,

Tìm giàu thì dễ, tìm khôn khó tìm.

Trong Ca dao Việt Nam cũng có bài giống hoàn toàn về câu chữ với bài ca

dao Nam Bộ trên, chỉ khác về dấu phẩy ở câu sau:

Chữ rằng họa phúc vô môn,

Tìm giàu thì dễ tìm khôn khó tìm.

(CDVN, tr.65)

Ca dao Nam Trung Bộ cũng có bài tương tự:

Chữ rằng: “Họa phước vô môn”

Tìm giàu thì dễ, tìm khôn khó tìm.

(CDNTB, tr.294)

Thành ngữ họa phúc (phước) vô môn vốn xuất phát trong Minh tâm bảo

giám, ở thiên Thiện kế có câu: Thái Thượng cảm ứng thiên viết: “họa phúc vô môn,

duy nhân tự triệu. Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình (Thiên Thái Thượng cảm ứng

viết rằng: “Điều họa hay điều phước đều không có cửa vào, do tự người ta mời tới.

Sự báo ứng của điều thiện, điều ác giống như bóng theo hình”). Còn theo Nguyễn

Như Ý (chủ biên) thì họa phúc vô môn có nghĩa là: Tai họa hay hạnh phúc thường

là do chính bản thân mình gây ra, mang đến [77; tr.62].

63

Như vậy, ca dao Nam Bộ và ca dao các miền khác sử dụng dẫn ngữ mượn từ

những câu thơ, ý thơ, các câu trong kinh sách vào trong bài ca dao với tác dụng gieo

vần, dẫn vào nội dung chính của bài ca dao, có thể làm tăng tính hàm súc, tính hình

tượng cho bài ca dao.

Trong các dẫn ngữ được sử dụng, hình thức không có sự phức tạp, chúng

cũng không được sử dụng đan xen nhiều loại dẫn ngữ trong một bài ca dao, mỗi bài

thường chỉ sử dụng một dẫn ngữ điển tích, thành ngữ hoặc thơ văn nên chỉ cần hiểu

chúng là có thể lĩnh hội được ý nghĩa của bài ca dao.

Trong ca dao Nam Bộ mà luận văn khảo sát, thường mỗi dẫn ngữ chỉ được

sử dụng một lần, có ngoại lệ là một dẫn ngữ được dùng 3 lần (Họa hổ, họa bì, nan

họa cốt, tri nhân, tri diên, bất tri tâm). Điều đáng nói là, chủ thể sáng tạo đã linh

hoạt tạo ra cho dẫn ngữ những sắc thái nghĩa mới theo cách hiểu dân dã chứ không

hoàn toàn còn theo ý nghĩa ban đầu vốn có của nó, nói cách khác, dẫn ngữ đã được

bình dân hóa.

3.3.2. Chức năng tạo nội dung chính cho bài ca dao

Ca dao Nam Bộ không chỉ sử dụng một, hai hoặc ba dòng thơ Hán Việt làm

dẫn ngữ mà còn có một số bài sử dụng phần lớn là từ ngữ Hán Việt và những từ ngữ

này đóng vai trò chính trong việc tạo ra nội dung của bài ca dao, từ ngữ thuần Việt

chỉ trong vai trò là liên kết, đưa đẩy:

Nhứt ngôn trúng, vạn ngôn dụng

Nhứt ngôn bất trúng thì vạn sự bất thành

Anh đừng có năng thuyết bất năng hành mà hại em.

Dẫn ngữ Nhứt ngôn trúng, vạn ngôn dụng, nhứt ngôn bất trúng (thì) vạn sự

bất thành có nghĩa liên quan đến nghĩa chung của bài ca dao, cho nên nó cùng với

ngữ Hán Việt năng thuyết bất năng hành tạo ra nội dung chính cho bài ca dao.

Bài ca dao trên có ba dòng, 26 tiếng, chỉ có 7 tiếng là từ ngữ thuần Việt, còn

lại 19 tiếng là từ ngữ Hán Việt. Bài ca dao có nghĩa là một lời nói đúng thì muôn

ngàn lời có tác dụng, còn một lời không đúng thì muôn việc không thành, và dường

64

như biết được chân lý ấy, ngưòi con gái mới nói rằng anh đừng có năng nói không

năng làm mà hại em.

Hay bài ca dao sau đây cũng dùng chủ yếu là Hán ngữ:

Lộ bất hành bất đáo,

Chung bất đả bất minh.

Lâu nay tôi chắc biết ý mình,

Ngày nay minh bạch nhơn tình trí tri.

Cũng giống như bài ca dao đã nêu trước đó, dẫn ngữ Lộ bất hành bất đáo,

chung bất đả bất minh ngoài chức năng làm dẫn ngữ, nó còn cùng với từ ngữ Hán

Việt minh mạch, nhơn tình trí tri tạo nội dung chính cho bài ca dao.

Bài ca dao trên có bốn dòng gồm 24 tiếng chỉ có 8 tiếng là từ ngữ thuần Việt

còn lại 16 tiếng là từ ngữ Hán Việt. Bài ca dao ý nói: đường không đi thì không thể

đến nơi, chuông không đánh thì không kêu cũng như lâu nay tôi có chắc biết ý mình

đâu, ngày nay mọi việc đã sáng tỏ tôi mới biết rõ được.

Trong bài ca dao sau, từ ngữ Hán Việt cũng đóng vai trò chính:

Hiền thần phải trạch quân nhi sự,

Dương cầm còn trạch mộc nhi thê.

Bài ca dao có hai câu gồm 14 tiếng trong đó có 12 tiếng là từ ngữ Hán Việt

và chỉ có 2 tiếng là từ thuần Việt. Hai từ thuần Việt còn và phải là hai từ có tác

dụng liên kết ý hai vế của một câu thơ trong bài ca dao. Bài ca dao có nghĩa là: Hiền

thần phải chọn vua mà phụng thờ, chim chóc phải chọn cây mà đậu.

Theo khảo sát của chúng tôi, những bài ca dao mà từ ngữ Hán Việt đóng vai

trò chính, từ ngữ thuần Việt chỉ có tác dụng nối kết, đưa đẩy là không nhiều. Những

bài ca dao như trên, chúng tôi tin chắc rằng ít phổ biến, bởi nó khó hiểu với đông

đảo tầng lớp bình dân. Những bài ca dao này cũng có thể do những ông đồ, những

nguời đã qua cửa Khổng sân Trình hay những ông quan đã cáo quan về ở ẩn sáng

tác, hay do một tầng lớp am hiểu nho học nào đó tham gia vào những cuộc vui đối

đáp sáng tác ra. Đây là những bài ca dao mang đậm màu sắc nho học, mà không

phải những người có hiểu biết nho học thì khó lòng hiểu được ý nghĩa của nó.

65

Hát đối đáp là một loại hình sinh hoạt văn nghệ tự túc lành mạnh của nhân

dân. Nó phần nào thỏa mãn được nhu cầu sinh hoạt tinh thần của nhiều người nên

thu hút nhiều sự tham gia của các tầng lớp khác nhau. Không chỉ người dân lao

động, các nhà nho vãn thời, các thầy đồ, các vị quan đã hoàn dân về ở ẩn, các sĩ tử

đều tham gia góp phần làm cho không khí càng thêm sôi động. Tham gia hát đối

đáp, có người vì niềm đam mê thật sự, có người muốn lấp một chỗ trống trong tâm

hồn, muốn giải khuây cùng thời cuộc tăm tối, có người muốn thử tài mình, tài người

để so đo cao thấp, có người vì học hỏi v.v… Có lẽ vì thế mà những bài ca dao mang

đậm triết lý, những bài ca dao sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt đã ra đời và có mặt

trong kho tàng ca dao người Việt nói chung và ca dao Nam Bộ nói riêng.

Cũng cần nói thêm rằng, đa phần tầng lớp bình dân không biết chữ Hán,

không hiểu từ ngữ Hán Việt, nhưng những bài ca dao mà phần lớn được cấu tạo

bằng từ ngữ Hán Việt vẫn tồn tại, vẫn được lưu truyền là do đặc thù truyền miệng

của văn học dân gian. Vì truyền miệng mà nhiều người không biết chữ, không đọc

được văn bản nhưng vẫn thuộc làu làu nhiều thơ ca dân gian và vẫn hiểu được nội

dung của chúng.

3.4. Giá trị sử dụng của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ

Cái hay, cái độc đáo của việc sử dụng từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ

chính là ở giá trị biểu đạt: từ ngữ Hán Việt được dùng đúng lúc, đúng chỗ đã tạo

cho ca dao Nam Bộ có sắc thái trang trọng, tao nhã, khái quát và trừu tượng. Từ ngữ

Hán Việt còn làm tăng tính hàm súc, tính thuyết phục cho bài ca dao. Ngoài ra từ

ngữ Hán Việt còn có tác dụng gieo vần, tạo nhịp cho bài ca dao.

Trải qua quá trình lựa chọn, cải biên và vận dụng kéo dài hàng ngàn năm, lớp

từ ngữ Hán Việt đã trở thành một bộ phận hữu cơ không thể thiếu trong tiếng Việt

và được sử dụng để thể hiện sắc thái ngữ nghĩa, sắc thái tu từ trong các phong cách

chức năng khác nhau. Hiện nay, trong vốn từ vựng tiếng Việt còn tồn tại hàng loạt

cặp từ Hán Việt và thuần Việt đẳng nghĩa và được dùng song song với nhau, nhưng

khác nhau về sắc thái phong cách. Sắc thái của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam

66

Bộ thể hiện ở ba đặc điểm cơ bản: i) sắc thái trang trọng, ii) sắc thái tao nhã, iii) sắc

thái khái quát và trừu tượng.

3.4.1. Từ ngữ Hán Việt tạo sắc thái trang trọng cho ca dao Nam Bộ

Trong ca dao Nam Bộ, từ ngữ Hán Việt xuất hiện nhiều có thể tạo ra sắc thái

trang trọng cho bài ca dao. Một số từ ngữ Hán Việt được lựa chọn thay thế từ thuần

Việt đẳng nghĩa vì sắc thái trang trọng mà chúng gợi ra: phụ mẫu, phụ tử, mẫu thân,

song thân, mẫu từ, từ mẫu, sinh thành, phu phụ, phu thê, hiền thê, phu quân, vu quy,

xuất giá, cốt nhục, gia đàng/ gia đường, gia cang v.v…

Trong những trường hợp có từ đẳng nghĩa như trong bài ca dao sau đây, từ

ngữ Hán Việt góp phần làm cho ca dao Nam Bộ có thêm sự trang trọng về hình thức

và nội dung:

Anh gặp em vừa mừng vừa hỏi

Phụ mẫu ở nhà có mạnh giỏi hay không?

Tại gia đàng phụ mẫu em cũng được bình an

Em xin hỏi lại phụ mẫu của bạn lang thế nào?

Nếu làm một phép thử, thay thế từ Hán Việt phụ mẫu thành cha mẹ, gia đàng

thành nhà, bình an thành mạnh khỏe thì sắc thái trang trọng của bài ca dao sẽ bị

giảm sút đáng kể.

Bài ca dao sau đây là lời của một cô gái về nỗi gia cảnh đơn chiếc của mình

cùng với tấm lòng thương nhớ, thành kính, biết ơn của con cái đối với cha mẹ. Nội

dung ý nghĩa này được thể hiện qua bốn dòng ca dao, trong đó các từ mẫu thân, vô

đệ, vô huynh rõ ràng đã mang đến sắc thái trang trọng cho bài ca dao.

Em rầu nỗi mẫu thân mất sớm,

Chữ nhớ thương đau ốm một mình,

Phận em vô đệ, vô huynh,

Không nơi nương dựa, cui cút một mình, bớ anh.

Như vậy, trong những cảnh huống trang trọng, nghiêm trang, các tác giả dân

gian đã lựa chọn, sử dụng từ ngữ Hán Việt thay cho từ ngữ thuần Việt vì các từ ngữ

này có thể mang lại hiệu quả nghệ thuật cao.

67

Ngoài ra, một số từ ngữ lịch sử như quân tử, thiếp, trượng phu… cũng được

dùng để tạo nên sắc thái trang trọng. Từ ngữ lịch sử là những từ ngữ chỉ những đối

tượng không còn tồn tại trong xã hội hiện đại. Những từ ngữ này thường được dùng

để tái hiện lại những giai đoạn lịch sử trước đó. Tuy nhiên, những từ ngữ Hán Việt

này được tác giả dân gian Nam Bộ sử dụng không nhằm mục đích tạo ra sắc thái cổ

kính, chỉ vì trong những cuộc hát đối đáp cần phải lựa chọn từ ngữ xưng hô, nên

những từ ngữ này được lựa chọn.

Trách lòng quân tử bạc tình,

Gieo neo cho thiếp một mình biển Đông.

Quân tử (君子) theo quan niệm của Nho giáo xưa là người có nhân cách cao

thượng, đối lập với tiểu nhân là người có nhân cách thấp hèn. Quân tử còn là từ phụ

nữ dùng để gọi tôn người chồng, người yêu hoặc người đàn ông nói chung. Từ thiếp

vốn có hai nghĩa: 1. Nàng hầu, vợ lẽ trong các gia đình giàu sang thời phong kiến.

Như tam thê tứ thiếp (三妻四妾) lắm vợ nhiều nàng hầu. 2. Từ người phụ nữ ngày

trước dùng để tự xưng một cách khiêm nhường khi nói với chồng hoặc với người

đàn ông nói chung. Từ quân tử và thiếp trong ca dao Nam Bộ đều được dùng với

nghĩa thứ hai, tức là dùng để xưng gọi, tạo ra sắc thái trang trọng trong giao tiếp.

Từ trượng phu trong bài ca dao sau chỉ người đàn ông có khí phách, theo

quan niệm của xã hội phong kiến:

Làm trai đứng ở trên đời,

Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta.

Ghé vai gánh đỡ sơn hà,

Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu.

Các sắc thái ngữ nghĩa có được của từ ngữ Hán Việt nói trên là đặt trong thế

đối lập với từ ngữ thuần Việt, và chính sự đối lập với từ ngữ thuần Việt là nguyên

nhân làm cho nó có sắc thái ngữ nghĩa hay tu từ vốn không có khi ở trong tiếng

Hán.

68

3.4.2. Từ ngữ Hán Việt tạo sắc thái trang nhã cho ca dao Nam Bộ

Trong giao tiếp, từ ngữ Hán Việt được dùng thay thế cho từ ngữ thuần Việt

đẳng nghĩa trong trường hợp từ ngữ thuần Việt gây cảm giác thô tục, khiếm nhã,

cách dùng thay thế này còn gọi là uyển ngữ. Uyển ngữ là phương thức nói giảm

nhẹ, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng dễ làm xúc phạm, làm khó chịu.

Ca dao Nam Bộ dùng từ ngữ Hán Việt cũng với mục đích như vậy. Trong một

số bài ca dao Nam Bộ, những từ ngữ Hán Việt được sử dụng có thể tạo sắc thái trang

nhã (làm giảm nhẹ ý nghĩa) trong những ngữ cảnh nhất định:

Bước đi ba bước lại ngừng,

Tuổi em còn bé xin đừng nguyệt hoa.

Từ nguyệt hoa trong bài ca dao trên là uyển ngữ chỉ quan hệ trai gái không

đứng đắn. Chủ thể phát ngôn trong bài ca dao trên là nam giới, đây có thể là một lời

trách hay lời khuyên nhưng không gây ra sự suỗng sã, thô thiển, sự giận dữ đối với

người tiếp nhận mà vẫn thể hiện được cái ý tứ của người nói nhờ sắc thái trang nhã

mà từ Hán Việt đem lại.

Từ loan phòng và ngữ bất khả viển vông trong bài ca dao sau là một lời từ

chối rất điệu nghệ của cô gái:

Cây gie cây bần ngã,

Bất khả viển vông,

Tới đây em nói cho anh vừa lòng,

Em đây có chốn loan phòng đã lâu.

Bất khả viển vông có nghĩa là không thể thực hiện được vì không thiết thực,

hết sức xa rời thực tế. Bất khả viển vông trong bài ca dao trên có nghĩa là không thể

được. Chàng trai không thể tiến tới với cô gái vì cô gái đã kết hôn (chốn loan phòng

có nghĩa là phòng ngủ của vợ chồng (thường có tấm màn thêu chim loan – một

giống chim cái). Thay vì cô gái nói cô đã có chồng và từ chối thẳng thừng chàng

trai, điều đó có thể gây cảm giác hụt hẫng, khó chịu cho chàng trai, thì trái lại, cô đã

dùng cách nói giảm nhẹ qua từ ngữ Hán Việt bất khả viển vông và loan phòng để

thể hiện sự từ chối khéo léo tình cảm của chàng trai.

69

Từ hồng nhan trong bài ca dao sau đây cũng được dùng thật hợp lý:

Bậu ra ngắm bóng bậu coi,

Hồng nhan chi bậu mà đòi cửa cao.

Hồng nhan có nghĩa là gương mặt có đôi má hồng, tức là chỉ người con gái

đẹp. Cô gái được nói đến (theo tác giả bài ca dao) không phải là một cô gái đẹp.

Nếu tác giả bài ca dao nói thẳng sẽ thành một lời chê khiếm nhã, cho nên giải pháp

nói tránh dựa vào ngữ cảnh mà vẫn thể hiện được dụng ý của người nói là cả một

nghệ thuật. Chê xấu nhưng không khiếm nhã, vẫn giữ được hòa khí trong giao tiếp.

Từ xa xưa ông cha ta hình dung lời nói như một thứ sản phẩm, một thứ công

cụ dễ kiếm, dễ tìm trong tầm tay của mỗi người. Do đó, nếu nằm trong khả năng

của mình thì không có lý do gì lại không lựa chọn những từ ngữ hoa mĩ phù hợp với

từng đối tượng, hoàn cảnh, với sắc thái tình cảm để đạt hiệu quả giao tiếp tối ưu. Ca

dao Nam Bộ có nhiều bài sử dụng từ ngữ Hán Việt đúng lúc, đúng chỗ đã đem lại

sắc thái trang trọng và tao nhã trong giao tiếp.

3.4.3. Từ ngữ Hán Việt làm tăng tính khái quát và trừu tượng cho ca dao

Nam Bộ

Một trong những đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ Hán Việt là tính khái quát,

trừu tượng cao. Vì thế các từ ngữ Hán Việt rất thích hợp cho việc trình bày những

khái niệm, những quan niệm về cuộc sống, quan hệ xã hội, quan hệ gia đình…

Trong ca dao Nam Bộ, các từ ngữ Hán Việt biểu thị khái niệm, quan niệm về

đạo nghĩa như: đạo, nghĩa, nhân, hiếu, trung, hòa, đạo nghĩa, nghĩa nhân, nhân

đạo, nhân hậu, hiếu hạnh, ngũ luân, tam cang, ngũ thường, cang thường v.v…; từ

ngữ Hán Việt chỉ thế giới thực và thế giới tâm linh: dương gian, dương trần, phàm

trần, tái thế, tạo hoá, thế gian, thế sự, thế thường, thiên hạ, âm cung, âm phủ, diêm

đình, đầu thai, huỳnh tuyền, ngọc hoàng, thiên đình v.v...; từ ngữ Hán Việt chỉ công

danh – sự nghiệp, tiền tài, danh vọng, tình cảnh: cơ cực, cơ đồ, cơ hàn, cơ nghiệp,

danh lợi, danh vọng, gia tài, hiểm nghèo, hiểm nguy, hiển vinh, khổ lao, khốn nạn,

lâm nguy, lâm thân, lập nghiệp, lỡ thời, lỡ vận, phong lưu, phú quý, quyền quý, sa

cơ, thạnh suy, thạnh thời, thâm trầm, thịnh trị, vinh hiển, vinh quy v.v…; từ ngữ

70

Hán Việt chỉ phẩm chất của trung trinh liệt nữ, quân tử anh hùng: anh dũng, anh

hào, anh hùng, chí sĩ, chính chuyên, đôn hậu, đức hạnh, hiền lương, lịch sự, nhu mì,

thủ tiết, thuần hậu, thục nữ, thuyền quyên, trượng phu v.v… đều là những từ ngữ có

sắc thái khái quát và trừu tượng.

Đạo nào bằng đạo phu thê,

Tay ấp má kề sanh tử có nhau.

Đạo 道 theo cách giải thích của Bửu Kế: “Đường đi. Đường lối. Lẽ phải. Từ

chung chỉ về tôn giáo nào đó” [30; tr.522]. Từ điển tiếng Việt cho rằng đạo là: “1.

Đường lối, nguyên tắc mà con người có bổn phận giữ gìn và tuân theo trong cuộc

sống xã hội; thường theo quan niệm cũ. 2. Nội dung học thuật của một học thuyết

được tôn sùng ngày xưa. 3. Tổ chức tôn giáo. 4. Đạo Thiên Chúa (nói tắt)” [52;

tr.311]. Đạo phu thê là đạo vợ chồng, là nguyên tắc mà hai người (vợ - chồng) có

bổn phận giữ gìn và tuân theo trong cuộc sống gia đình, xã hội.

Từ nhân ngãi (nhân nghĩa) và cang thường trong bài ca dao sau cũng có sắc

thái khái quát và trừu tượng:

Qua không ham rộng ruộng lớn vườn,

Ham vì nhân ngãi, cang thường mà thôi.

Nhân ngãi (nghĩa) có nghĩa là lòng thương người và tôn trọng lẽ phải, điều

phải. Cang thường (cương thường) là đạo thường của người gồm: tam cương 三綱

(quân thần, phụ tử, phu phụ 君臣, 父子, 夫婦) và ngũ thường 五常 (nhân, nghĩa, lễ,

trí, tín 仁義禮智信).

Đạo, nhân nghĩa, cang thường là những khái niệm trừu tượng theo quan

niệm Nho giáo. Khi được vận dụng vào trong ca dao Nam Bộ, những khái niệm

mang đậm triết lý này không còn siêu hình hay mang tính chất kinh viện nữa, mà nó

đã được dân gian hóa, bình dân hóa chỉ lẽ phải ở đời mà con người có trách nhiệm

phải noi theo.

Qua sự phân tích trên có thể nói rằng, một từ ngữ Hán Việt không chỉ có một

sắc thái ngữ nghĩa mà có thể có nhiều sắc thái ngữ nghĩa đan xen, trong các ví dụ đã

71

dẫn, để làm nổi bật từng sắc thái điển hình nên chúng tôi chỉ phân tích những giá trị

nổi bật nhất mà chúng đem lại.

3.4.4. Từ ngữ Hán Việt làm tăng tính hàm súc cho ca dao Nam Bộ

Hàm súc là hình thức diễn đạt cô đọng, ngắn gọn với một lượng ngôn từ hạn

hẹp nhưng chứa đựng bên trong nhiều ý nghĩa sâu sắc. Tính hàm súc trong ca dao

còn thể hiện ở dung lượng lớn những ý nghĩ, tình cảm mà chủ thể không nói ra,

nhưng người tiếp nhận có thể tự mình suy ra được. Ở đây, tính hàm súc của văn

chương là sự súc tích cô đọng, là lời chật, ý rộng, lời đã hết mà ý vô cùng, để lại

nhiều dư vị trong lòng đối tượng tiếp nhận.

Trong ca dao Nam Bộ, tính hàm súc của từ ngữ Hán Việt thể hiện ở hai nội

dung nổi bật nhất là: tình yêu nam nữ và quan niệm về đạo nghĩa.

* Đề tài về tình yêu đôi lứa và khát vọng tình cảm luôn luôn là đề tài lớn

nhất, phong phú và đa dạng nhất trong thơ ca nói chung và trong ca dao Nam Bộ

nói riêng. Để diễn đạt nội dung này, ca dao Nam Bộ đã sử dụng rất nhiều từ ngữ

Hán Việt nhằm góp phần khắc họa thêm những cung bậc tình cảm của tình yêu đôi

lứa và làm tăng tính hàm súc trong cách thể hiện. Từ ngữ Hán Việt làm tăng tính

hàm súc cho ca dao Nam Bộ trong quan hệ tình yêu nam nữ ở những lời tỏ tình,

những lời giận hờn, trách móc và những lời thề nguyền, ước hẹn thủy chung.

a. Những lời tỏ tình

Bên cạnh những lời tỏ tình mộc mạc, giản dị, ca dao Nam Bộ còn có những

lời tỏ tình thâm trầm, sâu lắng, ý vị và trang trọng. Chính từ ngữ Hán Việt đóng vai

trò chủ yếu trong việc tạo ra những sắc thái ngữ nghĩa này:

Bâng khuâng bát ngát câu hát hữu tình,

Căn duyên tiền định, hai đứa mình gặp nhau.

Cái thi vị của lời tỏ tình chính là ở từ hữu tình và ngữ căn duyên tiền định.

Căn duyên là mối dây ràng buộc được định bởi cái nghiệp của mỗi người. Tiền

định: sắp đặt sẵn từ trước. Căn duyên tiền định là duyên có gốc rễ và đã được sắp

đặt từ kiếp trước. Căn duyên tiền định còn là thuyết số mệnh theo đó mọi sự đều

được an bài sẵn.

72

Có thể coi từ ngữ Hán Việt hữu tình và căn duyên tiền định là điểm nhấn, là

nhãn tự trong bài ca dao. Tính hàm súc của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ

thể hiện ở sự không thể chuyển dịch ra từ ngữ thuần Việt đẳng nghĩa. Từ hữu tình

phải diễn giải thành một ngữ tự do: có tình cảm (với nhau); ngữ cố định căn duyên

tiền định cũng phải diễn giải thành một ngữ tự do, thậm chí là câu, tùy theo cách

chuyển dịch của mỗi người: duyên có gốc rễ và đã được sắp đặt từ kiếp trước. Từ

ngữ Hán Việt trong bài ca dao đã đáp ứng nhu cầu về mặt thi pháp thơ ca: lời ít ý

nhiều, ý tại ngôn ngoại, tạo sự hàm súc cho bài ca dao.

Còn đây là lời tỏ tình rất thông minh của chàng trai:

Dạo chơi quán Sở, lầu Tề,

Hữu duyên thiên lý ngộ, ai dè gặp em.

Thành ngữ Hán Việt hữu duyên thiên lý ngộ vốn nguyên từ câu: Hữu duyên

thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng, nghĩa là có duyên thì

nghìn dặm xa cũng năng gặp nhau, vô duyên (với nhau) thì dù có đối diện nhau

cũng coi là không gặp [77; tr.65].

Thành ngữ cải biên hữu duyên thiên lý ngộ tuy đã được rút gọn nhưng đối

tượng tiếp nhận vẫn hiểu ý nghĩa vốn có của nó nhờ tiền giả định, nên giá trị truyền

tải nghĩa không bị giảm sút. Ở câu đầu của bài ca dao, tác giả dân gian đã sử dụng

điển tích Sở, Tề biểu trưng cho sự xa cách để nói nên cái duyên kỳ ngộ của chàng

trai đối với cô gái: dạo chơi ở những nơi xa xôi cách trở như vậy mà ai dè cũng gặp

em, thật là hữu duyên thiên lý ngộ. Đó là một lời tỏ tình rất khôn khéo và điệu nghệ.

Qua sự phân tích trên có thể thấy rằng, từ ngữ Hán Việt được dùng đúng lúc,

đúng chỗ trong ca dao Nam Bộ làm cho lời tỏ tình mượt mà hơn, đằm thắm hơn và

tạo ra hiệu quả giao tiếp cao hơn.

b. Những lời giận hờn, trách móc

Trong thực tế, nội dung liên quan đến hành động giận hờn, trách móc là rất

đa dạng, nhưng thường thiên về sự tổn thất về tình cảm lẫn tổn thất về vật chất. Tuy

vậy, trong ca dao Nam Bộ, nội dung của hành động giận hờn, trách móc đối với

người nói thường là tổn thất về tình cảm. Người gánh chịu hậu quả tổn thất là người

73

nói, ngôi thứ nhất, còn vai gây ra sự tổn thất lại có nhiều đối tượng khác nhau. Các

nội dung trong hành động trách cũng khá đa dạng, tuy nhiên, có thể quy về các nội

dung sau: nữ trách nam phụ tình, bạc tình, trách vụng suy tính, trách sự lường gạt

trong tình yêu; nam trách nữ; tự trách mình; trách các tác nhân gây trở ngại khác

v.v… Do khuôn khổ luận văn có giới hạn, chúng tôi không chia những lời giận hờn,

trách móc một cách chi tiết như vậy mà chỉ phân tích một số bài tiêu biểu để thấy

được giá trị hàm súc của từ ngữ Hán Việt.

Giận hờn, trách móc cũng là một trong những cung bậc tình cảm của tình yêu

đôi lứa. Xu hướng chung của những bài ca dao sử dụng những từ ngữ thuần Việt là

đều gợi ra cái được biểu đạt một cách sinh động, cụ thể. Trái lại, xu hướng của

những bài ca dao có sử dụng từ ngữ Hán Việt lại không gợi ra hình ảnh cụ thể, sinh

động như vậy. Cái hình ảnh của sự vật dường như chìm vào trong, ẩn vào trong, ta

phải giải thích, liên tưởng mới có thể thấy được.

Trong ca dao Nam Bộ, những từ ngữ Hán Việt vì vậy đã làm cho những lời

trách móc người yêu trở nên ý vị hơn, sâu sắc hơn, không lộ liễu nhưng lại bộc lộ

niềm nuối tiếc, xót xa cho sự nhầm lẫn của người yêu:

Bình tích thủy đựng bông hoa lý

Chén chung vàng đựng nhụy bông ngâu

Trách ai làm trai hữu nhãn vô châu

Chim oanh không bắn bắn con chim sâu đậu nhành tùng.

Hàm ý của bài ca dao đặt ở ngữ hữu nhãn vô châu, nghĩa đen là có mắt mà

không có con ngươi, ý nói người con trai không phân biệt được người tốt kẻ xấu.

Ca dao Nam Bộ còn trách kẻ bạc tình, không chung thủy:

Trách lòng quân tử bạc tình,

Gieo neo cho thiếp một mình biển Đông.

Quân tử trong bài ca dao là ai? Theo Bửu Kế, quân tử có bốn nghĩa: (1)

Người có tài đức. Khúc Lễ trong Kinh Lễ viết: “Bác văn cường thức nhi nhượng,

đôn thiện hạnh nhi bất đãi vị chi quân tử” (Biết rộng hiểu nhiều mà khiêm cung,

đôn đốc nết thiện không ngừng ấy là quân tử). (2) Người có địa vị. Thiên Nhan

74

Uyên trong Luận Ngữ: “Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo” (Địa vị của

người quân tử như gió, địa vị kẻ tiểu nhân như cỏ). (3) Vợ gọi chồng. Thiên Chu

Nam trong Kinh Thi: “Vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung” (Chưa thấy chồng, lo

lắng trong lòng). (4) Gọi cha đã mất (Cũng như Tiên nhân) [30; tr.1526]. Quân tử

trong ca dao Nam Bộ là từ mà phụ nữ dùng để gọi tên người chồng, người yêu hoặc

người đàn ông nói chung. Còn bạc tình là phụ tình, không giữ trọn mối tình, lòng dạ

không chung thủy. Đây là lời trách móc của cô gái đối với chàng trai mà mình yêu

thương.

Trong ca dao Nam Bộ, người phụ nữ còn tự than thở, trách móc cho duyên,

phận của mình. Dưới chế độ cũ, người phụ nữ có khi không thể đạt được lòng mong

muốn, ước nguyện của mình trong tình duyên nên đành trách duyên số, trách phận

hèn. Phận là một khái niệm thường dùng trong Phật giáo đã trở thành triết lý để giải

thích cho cuộc đời sướng khổ của người con gái, có khi dùng thân phận. Nhưng khi

dùng phận, ca dao thường nghiêng về số phận không may mắn.

Trong ca dao, nhân vật nữ sử dụng hành động trách hướng đến nội dung phổ

biến nhất là trách phận hèn, hoặc trách tại duyên phận, duyên số:

Trách hường nhan

Vô duyên bạc phận

Duyên nợ gần không đặng xứng đôi.

Xưa nay, những phụ nữ có nhan sắc lại thường là những người bạc mệnh,

người xưa thường nói hồng nhan bạc mệnh (hồng nhan bạc phận) hay hồng nhan

đa truân. Hường nhan trong bài ca dao là biến âm của hồng nhan, hồng có nghĩa là

màu đỏ, còn nhan có nghĩa là vẻ mặt, dáng mặt; hồng nhan dùng để chỉ người phụ

nữ đẹp. Vô duyên là không có được mối dây ràng buộc từ kiếp trước. Do đó, Vô

duyên là không có duyên với nhau. Bạc phận có nghĩa là số phận gặp những điều

chẳng may. Vì thế, cô gái trong bài ca dao đã trách cho cái sự hồng nhan nhưng vô

duyên bạc phận của mình.

Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ đã làm cho những lời trách móc trở

nên nhẹ nhàng, ý vị, thâm trầm, sâu lắng hơn nhưng để lại dư âm trong lòng người.

75

Về mặt phong cách, từ ngữ Hán Việt đã làm cho lời trách móc không thô thiển,

không cần phải đao to búa lớn, nhưng vẫn làm cho người nghe phải suy nghĩ, trăn

trở bởi cái sắc thái tao nhã và tầng ý nghĩa hàm ẩn trong đó. Về mặt sử dụng, từ ngữ

Hán Việt đáp ứng yêu cầu về hình thức diễn đạt: ngắn gọn, cô đọng nhưng chứa

đựng bên trong nhiều ý sâu sắc.

c. Những lời thể nguyền, ước hẹn thủy chung

Chung thủy cũng là tiếng nói nổi bật trong ca dao Nam Bộ về đề tài tình yêu

đôi lứa. Đó là tiếng nói đề cao, ngợi ca lòng thủy chung, lên án thói bạc tình, bạc

nghĩa của loại người được chim bẻ ná, được cá quên nơm. Chung thủy vốn là đặc

trưng của tình yêu Việt Nam, có khác chăng là do điều kiện, hoàn cảnh sống, do

tâm lý và tính cách, mà con người của mỗi miền có cách thể hiện riêng. Ca dao

Nam Bộ đã tô bồi thêm cho đức tính cao đẹp đó bằng thứ ngôn ngữ riêng, mộc mạc

và dân dã.

Lòng chung thủy là điểm tựa của niềm tin, đồng thời là nguồn lực tăng thêm

sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Cũng nói về những lời thề nguyền,

ước hẹn cho sự thủy chung của tình yêu đôi lứa, ca dao Nam Bộ có những bài sử

dụng nhiều từ ngữ Hán Việt làm cho cùng một đề tài nhưng có những cách nói khác

nhau với những sắc thái khác nhau, tạo sự phong phú trong cách biểu đạt. Đó là

những từ ngữ như: chung tình, nghĩa chung tình, thủy chung, thủy chung như nhứt,

bách niên giai ngẫu v.v…

Lời ước hẹn chung tình trăm năm cùng nhau, cho dù sông cạn đá mòn, cho

dù trời đất gặp nhau nhưng tình yêu của họ vẫn không thay đổi:

Trăm năm ước hẹn chung tình,

Trên trời dưới đất chỉ mình với ta.

Hay:

Anh đây lên thác xuống ghềnh,

Đá mòn sông cạn quyết chung tình với em.

Từ chung tình có nghĩa là tình yêu dành cho một người duy nhất.

76

Hay đó còn là lời nguyện ước trước sau vẫn một lòng, vẫn có tình cảm gắn

bó không thay đổi, được thể hiện qua từ thủy chung:

Bậu đừng nghe tiếng thị phi,

Thủy chung anh giữ vẹn, trọn nghì sắt son.

Ca dao Nam Bộ còn sử dụng thành ngữ bách niên giai ngẫu, thủy chung như

nhứt để làm tăng giá trị biểu đạt cho lời nguyện ước:

- Ngọc trầm thủy thượng anh ơi,

Bách niên giai ngẫu ở đời với em.

- Nước còn quyện cát làm doi,

Huống chi ta chẳng tài bồi lấy nhau.

Tay cầm dĩa muối sàng rau,

Thủy chung như nhứt sang giàu mặc ai.

Thành ngữ bách niên giai ngẫu là biến thể của bách niên giai lão có nghĩa là

chung sống hòa hợp, hạnh phúc, trọn đời bên nhau. Thành ngữ này dùng trong ca

dao Nam Bộ còn có nghĩa là một lời nguyện ước thầm chúc cho hai người (anh và

em) sống bền chặt bên nhau suốt đời của chủ thể sáng tác ra bài ca dao này. Còn

thủy chung như nhứt là biến thể của thủy chung như nhất có nghĩa là trước sau như

một, trong hoàn cảnh nào cũng không thay lòng đổi dạ.

Sự có mặt của những từ ngữ Hán Việt làm cho nội dung của bài ca dao trở

nên cô đọng, súc tích hơn. Từ ngữ Hán Việt được sử dụng một cách đơn giản, dễ

hiểu, và có thể nói nhiều bài đã đạt đến trình độ lời ít ý nhiều.

Bên cạnh những từ ngữ Hán Việt thể hiện sự hàm súc trong đề tài tình yêu

nam nữ, ca dao Nam Bộ còn sử dụng từ ngữ Hán Việt thể hiện sự hàm súc trong

quan niệm về đạo làm người.

* Đạo là đường lối, nguyên tắc mà con người có bổn phận giữ gìn và tuân

theo trong cuộc sống xã hội. Đạo làm người, theo Nguyễn Nghĩa Dân: “Đó là con

đường, là quy luật, là nguyên tắc mà con người có bổn phận phải giữ gìn và tuân

theo trong quan hệ với chính mình, với xã hội và tự nhiên” [13; tr.14]. Đạo làm

77

người trong ca dao Nam Bộ được xác định cụ thể là đạo làm cha mẹ, đạo làm con

cái, đạo vợ chồng, đạo của người quân tử, đạo làm công dân.

Đạo làm người trong ca dao Nam Bộ là tấm gương phản ánh phong tục Việt

Nam nói chung, phong tục Nam Bộ nói riêng dưới dạng tư tưởng đạo đức, lối sống,

bảo tồn cái tốt, loại trừ, phê phán cái xấu đưa xã hội phát triển ngày càng tốt đẹp

hơn.

Ca dao Nam Bộ về đạo làm người chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn của

Nho giáo và Phật giáo do tầng lớp trí thức làm chức năng sáng tác, đúc kết và

truyền bá. Phần lớn tư tưởng về đạo làm người trong ca dao Nam Bộ được đúc kết

dưới hình thức từ ngữ Hán Việt kiểu: Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, lâm nguy bất

cứu mạc anh hùng, tam cang ngũ thường, cang thường, đạo cang thường, nghĩa

cang thường, tam tòng, tứ đức, ngũ luân, đạo tao khang, nghĩa tao khang, đạo phu

thê, nghĩa phu thê, xuất giá tòng phu, quân tử nhất ngôn, tam niên nhũ bộ, cửu tự

cù lao v.v…, nội dung về đạo làm người đã được dân gian hóa, được truyền miệng

thành tư tưởng đạo đức trong ứng xử giữa người với người trong xã hội.

Theo khảo sát của chúng tôi, ca dao Nam Bộ có 727 từ ngữ Hán Việt khác

nhau, tần số xuất hiện là 1655 lượt, trong đó có 133 từ ngữ Hán Việt chỉ đạo làm

người, chiếm tỉ lệ 18, 3%, tần số xuất hiện là 465/1655 lượt, chiếm tỉ lệ 28, 1%. Từ

ngữ Hán Việt chỉ đạo làm người được sử dụng nhiều và tần số cao hơn hẳn các

nhóm từ ngữ Hán Việt khác trong ca dao Nam Bộ, chẳng hạn từ nghĩa (ngỡi) xuất

hiện 60 lần, chung tình 25 lần, nghĩa nhân (nhân nghĩa, ngãi nhân, ngãi nhơn,

nghĩa nhơn, ngỡi nhân, nhân ngãi, nhân ngỡi, nhơn ngãi, nhơn nghĩa) xuất hiện 46

lần, quân tử 22 lần, cang thường 21 lần, đạo cang thường và nghĩa cang thường 11

lần, đạo phu thê 2 lần, nghĩa phu thê 6 lần, tao khang 11 lần, đạo tao khang 2 lần,

nghĩa tao khang 6 lần v.v…

Đạo làm người trong quan hệ ứng xử xã hội là đạo lý nhân nghĩa; đạo của

người quân tử là ngũ luân: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; đạo của người phụ nữ là tam

tòng, tứ đức; đạo làm người trong quan hệ con cái đối với cha mẹ, anh em trong gia

đình là hiếu đễ, trong quan hệ vợ chồng là hòa thuận, thủy chung.

78

a. Đạo làm người trong quan hệ ứng xử xã hội

a1. Đạo làm người trong ca dao Nam Bộ trước hết là đạo lý nhân nghĩa:

“Thấy điều nghĩa không làm, không phải là người dũng cảm; thấy nguy nan

không cứu, không phải là anh hùng”.

Nhân và nghĩa vốn có nguồn gốc từ Nho học, là tư tưởng mang giá trị nhân

văn sâu sắc. Đạo nhân nghĩa du nhập vào Việt Nam, được vận dụng sáng tạo phù

hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng. Theo Nguyễn

Trãi, cái gốc của nhân nghĩa là ở yên dân: “Việc nhân nghĩa cốt để yên dân”

(Nguyễn Trãi – Bình Ngô đại cáo). Theo Hồ Chí Minh, nhân nghĩa là phẩm chất

của đạo đức cách mạng, Người nêu rõ: “Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp

đỡ”, là “chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ”, là “không

tham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền”. Người cũng nêu: “Nghĩa là

ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy”, là “thấy việc phải thì làm, thấy

việc phải thì nói”, là “không sợ người ta phê bình mình mà phê bình người khác

cũng luôn luôn đúng đắn” (Hồ Chí Minh bàn về giáo dục (1990), Nxb Giáo dục, II,

tr.64-65, dẫn theo Nguyễn Nghĩa Dân [13; tr.18-19)].

Đạo làm người trong quan hệ ứng xử xã hội được thể hiện trong ca dao Nam

Bộ là biết làm việc đạo nghĩa, biết xả thân cứu người, biết hy sinh vì người khác,

biết làm những điều hợp với đạo lý làm người:

Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã,

Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng.

Nàng còn nghĩ phận chữ tùng,

Thì trao dây xích buộc vòng vào đâu?

Trong quan hệ ứng xử xã hội ở Nam Bộ, đạo lý nhân nghĩa bao giờ cũng

được coi trọng. Trong quan hệ với tiền tài thì nhân nghĩa bao giờ cũng ở vị trí thứ

nhất, bởi nhận thức và đạo lý khái quát bao giờ cũng là “Trọng nghĩa khinh tài”:

Tiền tài như phấn thổ,

Nghĩa trọng tợ thiên kim

Con le le mấy thuở chết chìm

79

Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi.

Hai câu thơ Hán Việt: Tiền tài như phấn thổ, Nghĩa trọng tợ thiên kim ý nói

tiền tài như bùn đất, nghĩa đáng quý như ngàn vàng. Phấn thổ (bùn đất) biểu trưng

cho cái tầm thường và thiên kim (ngàn vàng) biểu trưng cho cái cao quý. Đây là bài

ca dao tiêu biểu cho đạo lý trọng nghĩa khinh tài của người Nam Bộ.

a2. Đạo làm người được thể hiện trong ca dao Nam Bộ còn là các mối

quan hệ mang tính “công thức” trong xã hội phong kiến: “Tam cang ngũ

thường”, “tam tòng tứ đức”, là “ngũ luân”.

Tam cang ngũ thường là tư tưởng của Nho giáo gồm có tam cang và ngũ

thường. Tam cang là ba điều đạo trọng là: quân thần cang (giềng mối vua tôi), phụ

tử cang (giềng mối cha con) và phu thê cang (giềng mối chồng vợ). Ngũ thường

gồm: nhân (lòng thương người mến vật), nghĩa (cư xử theo đạo lý, lẽ phải), lễ (phép

tắc tốt đẹp trong xử thế), trí (năng lực hiểu biết), tín (tin tưởng). Tam cang ngũ

thường tất cả gồm tám chữ, chia làm hai phần trọng yếu là tam cang (trung, hiếu,

nghĩa) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Ca dao Nam Bộ đã dân gian hóa tam

cang ngũ thường thành nghĩa cang thường chỉ tình cảm vợ chồng rất độc đáo:

Màn rồng một bức giăng ngang,

Tôi với mình trời định, tam cang ngũ thường.

Mình về thưa lại thung đường,

Qua đây gá nghĩa cang thường với em.

Tam tòng theo lễ giáo phong kiến chính là ba điều mà người phụ nữ phải

theo: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử:

Tam tòng sách hãy còn ghi,

Bé nương cha mẹ lớn thì theo anh.

Ngũ luân là năm thứ bậc đối đãi theo đạo thường của con người đối với xã

hội và gia đình gồm: 1) Quân thần: vua tôi (Vua phải minh, thần phải trung). 2) Phụ

tử: cha con (Cha phải từ, con phải hiếu). 3) Phu phụ: chồng vợ (Chồng trọn nghĩa,

vợ trọn trinh). 4) Huynh đệ: anh em (Anh em như thể chân tay). 5) Bằng hữu: bạn

bè (Phải lấy tín thành mà đối đãi nhau). Đức Khổng Tử cho ngũ luân là ngũ đạt

80

đạo, tức là năm con đường vĩnh hằng, không thay đổi. Ca dao Nam Bộ khẳng định

rằng:

Làm người phải biết ngũ luân,

Nếu mà thiếu một mười phân thẹn thuồng.

Ca dao Nam Bộ rất coi trọng các mối quan hệ đạo nghĩa mang tính khuôn

mẫu trong xã hội phong kiến nhưng không cứng nhắc mà đã Việt hóa, dân gian hóa

cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam.

b. Đạo làm người trong quan hệ gia đình

Trong gia đình, cha mẹ có công sinh thành, nuôi dưỡng con cái; con cái có

bổn phận phụng dưỡng, thờ kính cha mẹ; trong quan hệ vợ chồng là hòa thuận, thủy

chung.

b1. Đạo làm cha mẹ

Ca dao Nam Bộ về đạo làm người đã ghi lại thiên chức và tình cảm của

người mẹ như cưu mang, hoài thai, sinh thành, sanh dưỡng, dưỡng dục, cửu tự cù

lao, tam niên nhũ bộ.

Công lao nuôi dưỡng khó nhọc của người mẹ được thể hiện trong ca dao

Nam Bộ qua cách nhìn nhận của dân gian là rất đáng trân trọng:

Thương thay chín chữ cù lao

Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình.

Chín chữ cù lao do chữ kinh thi cửu tự cù lao gồm: sinh, cúc (đùm bọc), phủ

(vỗ về), súc (nuôi nấng), trưởng (bồi bổ cho khôn lớn), dục (dạy bảo), cố (theo dõi),

phục (khuyên răn), phúc (che chở); tam niên nhũ bộ có nghĩa chỉ ba năm cho bú,

ẵm bồng. Bài ca dao như một lời tri ân của dân gian đối với công lao khó nhọc của

cha mẹ.

b2. Đạo làm con

Đạo làm người trong ca dao Nam Bộ nêu bật truyền thống hiếu thảo của con

cái đối với cha mẹ. Hiếu thảo là hết lòng phụng dưỡng, thờ kính cha mẹ. Trong

truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo hiếu được xem như một chuẩn mực bao trùm

để định giá đạo đức của một con người.

81

Bổn phận con cái phải phụng dưỡng cha mẹ, đền đáp công ơn người đã sinh

thành và nuôi dưỡng ta khôn lớn:

Nên thì lập kiểng trồng hoa,

Chẳng nên đá kiểng trồng cà dái dê.

Chẳng nên thiếp trở lộn về,

Dưỡng nuôi từ mẫu, trọn bề hiếu trung.

Chữ hiếu đôi lúc cũng thắng chữ tình:

Ơn hoài thai như biển,

Ngãi dưỡng dục tợ sông.

Em nguyền ở vậy không chồng,

Lo nuôi cha mẹ hết lòng đạo con.

Khi cha mẹ mất thì phải có bổn phận phụng thờ:

Công cha ba năm tình thâm lai láng,

Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang.

Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,

Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn,

Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ.

b3. Đạo vợ chồng

Đạo vợ chồng là phu phụ hảo hợp: vợ chồng tương hợp, hài hòa. Chồng cư

xử với vợ là đạo, mà vợ sống với chồng là nghĩa, cái đạo nghĩa đó làm cho vợ

chồng hòa hợp, thủy chung, ràng buộc cả hai cho tới răng long đầu bạc.

Ngoài chữ trung, chữ hiếu, ca dao Nam Bộ còn rất coi trọng chữ tình, đối với

người dân Nam Bộ, đạo phu thê, nghĩa phu thê là rất đáng trân trọng:

Đạo nào bằng đạo phu thê,

Tay ấp má kề sanh tử có nhau.

Hay: Đèn nào cao bằng đèn Sở Thượng,

Nghĩa nào trượng bằng nghĩa phu thê.

82

Có thể nói rằng, ca dao Nam Bộ tiếp thu những lý thuyết, triết lý về đạo đức

nhưng đã bình dân hóa chúng để đáp ứng với nhu cầu thực tại. Vì thế, cách nói rất

rõ ràng, dễ hiểu mà không hề có chút giáo điều, kinh viện hay siêu hình nào.

Những từ ngữ Hán Việt mà chúng tôi đã phân tích ở trên phần lớn là những

từ ngữ chỉ quan hệ đạo nghĩa như: nghĩa, nhân nghĩa, tam tòng, ngũ luân, cang

thường, tam cang ngũ thường v.v… Ca dao Nam Bộ nói nhiều đến đạo làm người có

giá trị to lớn trong việc truyền thụ tư tưởng, đạo đức, lối sống, thuần phong mĩ tục.

Ca dao Nam Bộ đề cao các giá trị đạo đức, coi trọng đạo nghĩa, đề cao đức tính thủy

chung trong quan hệ vợ chồng, đề cao phẩm chất của quân tử, anh hùng, trung trinh

liệt nữ v.v... Ca dao Nam Bộ nói nhiều đến đạo làm người có tác dụng nâng cao

nhận thức và hành động về đạo nhân nghĩa, cách xử thế có tình có lý để sống và

hành động theo đạo đức truyền thống của dân tộc.

Coi trọng đạo làm người không phải là mang nặng tính phong kiến, người

Việt Nam Bộ là những người tứ chiếng, đến từ các vùng miền khác nhau của tổ

quốc. Họ là những người vì những lí do khác nhau phải rời bỏ quê hương để vào

Nam khai khẩn,…Do vậy, họ phải luôn nhắc nhở nhau cái gốc đạo nghĩa để chống

lại với những cám dỗ, những điều dễ khiến người ta bị sa ngã, hư thân. Cho nên ta

thấy, việc những bài ca dao Nam Bộ nói riêng và ca dao các vùng miền khác nói

chung nhắc nhiều đến đạo làm người là một hiện tượng tự nhiên và cần thiết. Thêm

vào đó, người dân đi khẩn hoang buổi đầu gặp rất nhiều khó khăn, thử thách, họ

phải đương đầu với rừng thiêng, nước độc, thú bầy,… họ luôn phải sống trong cảnh

đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt để sinh tồn, họ phải luôn trau dồi tinh thần

thượng võ, tinh thần thượng võ ấy cần phải dựa trên cái gốc đạo nghĩa để khỏi trở

thành manh động hay tàn bạo.

3.4.5. Từ ngữ Hán Việt làm tăng tính thuyết phục cho ca dao Nam Bộ

Một trong những lý do làm nên tính thuyết phục cho ca dao Nam Bộ là sự có

mặt của các từ ngữ Hán Việt. Từ ngữ Hán Việt, đặc biệt là những thành ngữ, ngữ

định danh Hán Việt (có khi xuất hiện trong những câu tục ngữ, châm ngôn Hán

Việt...) có nội dung khái quát, hàm súc, nêu những khái niệm quen thuộc, những

83

câu nói được dẫn trong sách vở làm tăng độ tin cậy trong lập luận của tác giả dân

gian.

Những từ Hán Việt chỉ các mối quan hệ mang tính công thức trong xã hội

phong kiến: tam tòng, ngũ luân, tam cang ngũ thường,... và những thành ngữ Hán

Việt có nguồn gốc từ sách vở, được lưu truyền trong dân gian như họa phước vô

môn, họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm,... được vận dụng làm

cho người nghe, người đọc dễ dàng tiếp nhận nội dung ý nghĩa của bài ca dao. Qua

đó, thể hiện sự đồng cảm, đồng tình với các tác giả dân gian, làm tăng hiệu quả giao

tiếp của bài ca dao.

Vận dụng quan niệm mang tính công thức trong xã hội phong kiến, tác giả

bài ca dao sau đây đã lập luận rất thuyết phục:

Tam tòng sách hãy còn ghi,

Bé nương cha mẹ lớn thì theo anh.

Tam tòng theo lễ giáo phong kiến chính là ba điều mà người phụ nữ phải

theo: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.

Bài ca dao dưới đây cũng mượn tư tưởng về đạo làm người trong xã hội

phong kiến để xây dựng nền tảng đạo đức cho con người:

Làm người phải biết ngũ luân,

Nếu mà thiếu một mười phân thẹn thuồng.

Ngũ luân là khái niệm được đề cập đến trong tư tưởng Nho giáo, gồm năm

mối quan hệ chính trong xã hội phong kiến: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con),

phu phụ (chồng vợ), huynh đệ (anh em) và bằng hữu (bạn bè).

Ca dao Nam Bộ còn vận dụng các câu văn được trích trong Minh tâm bảo

giám (gương báu (soi) sáng lòng) vốn là những lời răn dạy của thánh hiền để tăng

tính thuyết phục cho bài ca dao:

Chữ rằng họa phúc vô môn,

Tìm giàu thì dễ, tìm khôn khó tìm.

Cách hành xử của người Nam Bộ là coi trọng đạo nghĩa, coi khinh tiền tài

vật chất, đối với họ:

84

Tiền tài như phấn thổ,

Nghĩa trọng tợ thiên kim

Con le le mấy thuở chết chìm

Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi.

Tác giả dân gian Nam Bộ đã thuyết phục được người đọc, người nghe bằng

lập luận của mình: tiền tài thuộc phạm trù vật chất tầm thường như bùn đất (tiền tài

như phấn thổ), nghĩa thuộc phạm trù đạo đức cao quý như ngàn vàng (nghĩa trọng

tợ thiên kim). Qua đó khẳng định người không có nghĩa là người không đáng để trân

trọng, kiếm tìm.

Như vậy, việc sử dụng từ ngữ Hán Việt chính xác, hợp văn cảnh sẽ làm cho

nội dung ngôn ngữ càng thêm phong phú, biểu cảm, sinh động và giàu sức thuyết

phục. Từ ngữ Hán Việt được sử dụng trong ca dao Nam Bộ dưới hình thức khái

niệm, triết lý, những câu nói được dẫn trong sách vở không chỉ tạo sự hàm súc trong

cách diễn đạt mà còn làm tăng tính thuyết phục cho bài ca dao.

3.4.6. Từ ngữ Hán Việt có tác dụng gieo vần, tạo nhịp cho ca dao Nam

Bộ

Ca dao Nam Bộ sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt không chỉ đem lại sắc thái tu

từ trang trọng, nội dung hàm súc trong cách diễn đạt mà còn đem lại sự tinh tế trong

cách gieo vần, tạo nhịp. Hiểu một cách đơn giản, vần là hiện tuợng đọc giống

nhau hay gần giống nhau giữa những tiếng có vị trí nhất định trong câu thơ để tạo

nhịp điệu và tăng sức gợi cảm. Nhịp điệu là sự lặp lại một cách tuần hoàn các âm

mạnh và nhẹ theo những trật tự, cách thức nhất định. Khác với vần, tuy quan trọng

nhưng không bắt buộc phải có trong mọi bài thơ, nhất là thơ tự do; sự tồn tại của

nhịp lại mang tính tất yếu, phổ quát, bắt buộc. Mọi bài thơ đều phải có nhịp, không

có nhịp chưa tạo thành thơ. Nhà thơ Sóng Hồng đã nhấn mạnh đến vai trò của nhịp

khi cho rằng: “Vần hay không tôi cho là thứ yếu/ Âm thanh không réo rắt đố thành

thơ”.

Trong ca dao Nam Bộ, từ ngữ Hán Việt được sử dụng không phải chỉ để gieo

vần, tạo nhịp, nhưng khi tham gia vào việc gieo vần, tạo nhịp ở những vị trí nhất

85

định thì hiệu quả nghệ thuật không thể phủ nhận. Từ giang hồ trong bài ca dao sau

không chỉ có tác dụng tạo ra sự cân đối về nghĩa trong câu thơ, mà nó còn có tác

dụng tạo tiền đề gieo vần cho câu thơ tiếp theo:

Trai tứ chiếng, gái giang hồ,

Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên.

Tương tự, bài ca dao lục bát dưới đây, thành ngữ họa phuớc vô môn vừa

đóng vai trò là dẫn ngữ có giá trị về nghĩa vừa được dùng để tạo cảm hứng gieo vần

cho câu thơ sau đó:

Chữ rằng họa phúc vô môn,

Tìm giàu thì dễ, tìm khôn khó tìm.

Hay:

Chữ rằng hổ tử lưu bì,

Làm người phải để danh gì hậu lai.

Gieo vần, tạo nhịp không phải là chức năng cơ bản của từ ngữ Hán Việt

trong ca dao Nam Bộ, nhưng trong nhiều trường hợp nó có vai trò gần như là bắt

buộc:

Em bước vô mùng con mắt nọ dòm quanh,

Nghiêng mình nằm xuống, tử sanh nhờ trời.

Hay: Đèn Sài Gòn ngọn lu ngọn tỏ,

Đèn Ô Cấp ngọn tỏ ngọn lu.

Anh về học lấy chữ nhu,

Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.

Hai từ tử sanh và nhu trong các bài ca dao trên là biến âm của từ ngữ Hán

Việt toàn dân tử sinh và nho. Đây là một trong những trường hợp điển hình, từ ngữ

Hán Việt bắt buộc phải biến âm để phù hợp với yêu cầu vần điệu đặt ra. Các biến

thể về mặt ngữ âm được đặt vào vị trí tương ứng, cách gieo vần hoàn chỉnh sẽ làm

tăng thêm giá trị nghệ thuật của bài ca dao lên rất nhiều.

Ca dao là thơ ca dân gian được truyền miệng dưới dạng những câu hát không

theo một điệu nhất định, thường phổ biến bằng các thể thơ khác nhau, chủ yếu là thể

86

thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc. Ca dao Nam Bộ cũng là thơ ca dân gian, do đó nó

phải tuân theo quy tắc vần nhịp mà thơ ca đặt ra. Cho nên, từ ngữ Hán Việt trong ca

dao Nam Bộ ngoài việc góp phần làm phong phú thêm, trang trọng thêm, hàm súc

thêm cho ngôn ngữ ca dao Nam Bộ, nó còn góp phần vào việc gieo vần, tạo nhịp ở

những vị trí quan trọng.

3.5. Dùng từ Hán Việt đơn tiết trong ca dao Nam Bộ

Từ trước tới nay các nhà nghiên cứu khi nói về từ ngữ Hán Việt thường ít nói

đến từ đơn tiết. Bởi lẽ, các yếu tố đơn tiết đa phần là đơn vị cấu tạo từ (chẳng hạn

như: sơn, thủy, ái, cận, viễn), còn trường hợp yếu tố đơn tiết là từ (chẳng hạn: đạo,

nghĩa, trung, hiếu, tình, hòa, nhẫn, sinh, sầu), một số nhà Việt ngữ học đã không

coi chúng như là từ vay mượn nữa mà đối xử với chúng cũng giống như từ thuần

Việt.

Trong ca dao Nam Bộ, các yếu tố đơn tiết được gọi là từ đơn như: đạo,

nghĩa, trung, hiếu, tình, hòa, nhẫn, sinh, sầu v.v..., được dùng khá phổ biến trong

các bài ca dao. Ngoài ra, các yếu tố thường được gọi là đơn vị cấu tạo từ, không

được dùng độc lập như: sơn, thủy, thiên, nguyệt, ái, an, cận, viễn, ngự, bạch v.v…,

cũng được sử dụng như từ.

Sự độc đáo trong ca dao Nam Bộ chính là cách sử dụng và biến các yếu tố

vốn không được dùng độc lập, chỉ là đơn vị cấu tạo từ thành những từ với đầy đủ

giá trị và chức năng của từ. Sơn và thủy trong bài ca dao sau là một minh chứng:

Sơn cách thủy cách, lòng em không cách,

Đường xa dặm xa, nhơn ngãi em không xa.

Đi đâu anh nhớ ghé lại nhà,

Trước viếng phụ mẫu, sau là thăm em.

Sơn và thủy chỉ tồn tại trong tiếng Việt với vai trò là yếu tố cấu tạo từ, nhưng

trong bài ca dao trên chúng lại được dùng với tư cách là từ.

Thiên và thủy trong bài ca dao sau cũng được dùng là từ:

Trên thiên dưới thủy,

Lòng em tu bỉ ở vậy chờ anh.

87

Khá nhiều từ Hán Việt đơn tiết cũng được dùng trong một số bài ca dao Nam

Bộ:

Anh em cốt nhục đồng bào,

Vợ chồng là đạo, lẽ nào chẳng thương.

Hay:

Chiều chiều ra đứng bờ mương,

Bên tình bên hiếu biết thương bên nào.

Đạo, tình, hiếu trong bài ca dao trên có sự trừu tượng về nghĩa. Bản thân

nghĩa của từ đã là sự trừu tượng, nhưng sự trừu tượng ở những từ này còn nằm

trong quan niệm về phạm trù đạo đức phương Đông. Mặt khác, những khái niệm

này không có từ biểu thị trong tiếng Việt. Nói cách khác, đây là những ô trống từ

vựng - ngữ nghĩa trong tiếng Việt.

Nói tóm lại, ca dao Nam Bộ đã cấp tư cách từ cho những đơn vị không phải

là từ là một sự sáng tạo và linh hoạt trong cách sử dụng từ ngữ Hán Việt. Tiếng Việt

là loại hình ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính, đa phần từ thường trùng với âm tiết nên

những âm tiết vốn không phải là từ được cấp tư cách từ cũng là xuất phát từ đặc

điểm này của tiếng Việt. Trong những trường hợp như vậy, những từ đơn Hán Việt

tùy ngữ cảnh xuất hiện có thể tạo ra một số sắc thái ngữ nghĩa gần gũi, quen thuộc

như từ thuần Việt. Nói cách khác, những từ đơn Hán Việt này đã được bình dân hóa

như những từ thuần Việt đẳng nghĩa.

3.6. Tiểu kết

Ca dao Nam Bộ thường có những cách nói rất giản dị, chân tình, ít dùng

những từ ngữ hoa mỹ, không nói những từ ngữ chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, mà

chỉ nói một cách mộc mạc, bình dân, cốt sao bày tỏ được lòng mình, nói sao cho hết

cái ý nghĩ đang cháy bỏng trong lòng mình. Do đó, đôi chỗ nó làm cho ca dao Nam

Bộ thiếu đi cái vẻ trang trọng về hình thức và sâu sắc về nội dung.

Chính vì lẽ trên có thể nói rằng, sự xuất hiện nhiều của từ ngữ Hán Việt

dường như đã bù đắp được khiếm khuyết về hình thức và nội dung trong cách biểu

đạt của ca dao Nam Bộ. Cái hay, cái độc đáo của việc sử dụng từ ngữ Hán Việt

88

trong ca dao Nam Bộ chính là ở giá trị biểu đạt: từ ngữ Hán Việt được dùng đúng

lúc, đúng chỗ đã làm cho ca dao Nam Bộ có thêm vẻ trang trọng về hình thức và

sâu sắc về nội dung. Từ ngữ Hán Việt còn có chức năng làm dẫn ngữ, dẫn nhập vào

nội dung bài ca dao, hay từ ngữ Hán Việt trong nhiều trường hợp có chức năng

chính trong việc tạo nội dung ngữ nghĩa cho bài ca dao. Ngoài ra, từ ngữ Hán Việt

cũng góp phần làm tăng tính khái quát và trừu tượng về ngữ nghĩa cho ca dao Nam

Bộ. Từ ngữ Hán Việt không chỉ góp phần vào việc gieo vần, tạo nhịp mà còn làm

tăng tính hàm súc, tính thuyết phục trong cách diễn đạt.

89

KẾT LUẬN

Người Nam Bộ chuộng cách nói thẳng, nói thật nên đã mang vào trong ca

dao lời ăn tiếng nói hằng ngày của mình. Vì thế, ngôn ngữ ca dao Nam Bộ có cách

dùng từ ngữ mộc mạc, gần gũi với cuộc sống thường ngày chứ ít dụng công gọt

giũa cho bóng bảy, êm ái.

Từ đó có thể khẳng định rằng: sự xuất hiện của lớp từ ngữ Hán Việt đã làm

cho ca dao Nam Bộ có thêm sắc thái trang trọng, tao nhã, khái quát – trừu tượng và

hàm súc. Ca dao Nam Bộ không chỉ sử dụng từ ngữ Hán Việt mà còn sử dụng nhiều

hơn ca dao Nam Trung Bộ và ca dao Việt Nam (như chúng tôi đã khảo sát). Ca dao

Nam Bộ cũng dùng từ ngữ Hán Việt nhiều hơn ca dao xứ Bắc, xứ Nghệ (theo khảo

sát của Nguyễn Phương Châm), mà những vùng này vốn là những vùng đất cổ, có

tuổi đời mấy ngàn năm so với tuổi đời mấy trăm năm của đất Nam Bộ.

Chủ thể sáng tạo ca dao người Việt Nam Bộ cũng giống như ca dao cả nước,

chủ yếu là tầng lớp bình dân, mà thành phần khá đa dạng, không chỉ có nông dân,

thợ thủ công, mà còn có những ông đồ, những người đã qua cửa Khổng sân Trình,

những ông quan đã cáo quan về ở ẩn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính đã nhận

xét xác đáng: “Bên cạnh người nông dân, người thợ thủ công, nhà nho có vai trò

đáng kể trong việc sáng tác lưu truyền và ghi chép văn học dân gian...” (dẫn theo

Nguyễn Phương Châm [9]). Đội ngũ được gọi chung là nhà Nho ấy sống cùng với

đông đảo người dân lao động, tham gia vào hầu hết các sinh hoạt văn hóa ở địa

phương trong đó có việc sáng tác ca dao. Cái chất nho học ở họ dần dần được dân

chúng tiếp nhận và hình thành vốn văn hóa chung một cách tự nhiên. Người nông

dân có thể không biết chữ Hán song họ vẫn có thể hiểu được những câu thông

thường nguyên nghĩa Hán và vận dụng chúng một cách tài tình trong những câu nói

cửa miệng.

Ca dao Nam Bộ sử dụng nhiều điển cố, điển tích Hán và từ ngữ Hán Việt

hơn ca dao các vùng khác trong cả nước được Nguyễn Xuân Kính cho rằng là một

“nghịch lý”. Bởi lẽ, Nam Bộ là vùng đất mới, truyền thống Nho học ở đây có muộn

hơn và kết thúc sớm hơn ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Sở dĩ ca dao Nam Bộ sử dụng

90

nhiều từ ngữ Hán Việt và điển tích Hán là do thành phần sáng tác đa dạng, trong đó

có những người am tường Hán học. Đó còn là do sự cộng cư giữa người Việt và

người Hoa trên đất Nam Bộ. Người Nam Bộ tiến hành vào buổi ban đầu sử dụng

chữ quốc ngữ dịch các tác phẩm văn học lịch sử Hán ra tiếng Việt nên từ ngữ Hán

Việt và điển cố điển tích Hán cũng theo đó mà xuất hiện ở Nam Bộ. Lý do quan

trọng hơn hết là do người dân Nam Bộ là những người phóng khoáng dễ tiếp thu cái

mới, điều này hình thành nên tâm lý, ý thức của người Nam Bộ trong việc tiếp nhận

cái mới.

Qua việc nghiên cứu từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi nhận

thấy rằng ca dao Nam Bộ có những đặc điểm về ngữ âm, cấu tạo – ngữ pháp, ngữ

nghĩa và giá trị sử dụng như:

Về ngữ âm, từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ xuất hiện ở ba dạng: từ

ngữ Hán Việt có âm đọc toàn dân, từ ngữ Hán Việt có âm đọc phương ngữ hóa và

từ ngữ Hán Việt có hai âm đọc Hán Việt song song cùng tồn tại. Ca dao Nam Bộ có

nhiều hiện tượng phát âm địa phương, từ đó tạo nên những biến thể ngữ âm đa dạng

trong lời nói của người dân nơi đây. Điều độc đáo là người Nam Bộ không chỉ phát

âm địa phương các từ ngữ thuần Việt: rít (rết), chưn (chân), ghình (ghềnh), đờn

(đàn), trển (ở trên đó), chỉ (chị), chun (chui) v.v…, mà các từ ngữ Hán Việt cũng

được nói theo ngữ âm địa phương: ngãi/ ngỡi (nghĩa), nhơn (nhân), nhứt (nhất),

nhựt (nhật), v.v… Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng chủ yếu: vì kiêng huý, thói

quen nói sao viết vậy, hoặc đơn thuần chỉ hiệp vần cho thơ.

Về cấu tạo – ngữ pháp, từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ được phân

thành hai loại: từ và ngữ cố định. Từ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ tồn tại ở ba

dạng: từ đơn, từ ghép và từ láy. Từ ghép được sử dụng nhiều nhất, ít nhất là từ láy.

Vì từ láy xuất hiện ít, thêm vào đó đây là vấn đề còn để ngỏ nên luận văn không bàn

luận đến. Nhìn từ tiêu chí hoạt động ngữ pháp, từ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ

được sử dụng chủ yếu là từ loại danh từ, kế đến là động từ và tính từ. Ngữ cố định

Hán Việt trong ca dao Nam Bộ có hai dạng là ngữ định danh và thành ngữ Hán

Việt, trong đó, thành ngữ chiếm số lượng nhiều hơn ngữ định danh.

91

Về ngữ nghĩa, Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ thuộc các phạm trù

nghĩa biểu hiện chủ yếu như: từ ngữ Hán Việt chỉ tình yêu quê hương đất nước, từ

ngữ Hán Việt chỉ tình yêu nam nữ, từ ngữ Hán Việt chỉ tình cảm gia đình và từ ngữ

Hán Việt chỉ quan niệm về thế giới, về đạo đức, về cuộc sống, về con người của

người Nam Bộ. Trong các phạm trù nghĩa biểu hiện vừa nêu, nổi bật nhất là những

từ ngữ chỉ quan hệ gia đình và đạo làm người trong ca dao Nam Bộ. Ca dao Nam

Bộ nói nhiều đến quan hệ đạo nghĩa là để chống lại cái xấu, những điều khiến người

ta dễ bị sa ngã. Điều đó còn có giá trị to lớn trong việc truyền thụ tư tưởng, đạo đức,

lối sống, thuần phong mĩ tục cho các thế hệ mai sau định cư trên mảnh đấy Nam

Bộ.

Về mặt sử dụng, từ ngữ Hán Việt được sử dụng linh hoạt trong các câu ca

dao đã đem lại hiệu quả nghệ thuật nhất định cho ca dao Nam Bộ. Từ ngữ Hán Việt

không chỉ tạo ra sự đa dạng trong cách biểu đạt mà còn góp phần tạo sắc thái trang

trọng, trang nhã cho ca dao Nam Bộ. Một trong những đặc điểm ngữ nghĩa của từ

ngữ Hán Việt là tính khái quát, trừu tượng cao. Tác giả dân gian đã vận dụng đặc

điểm này của từ ngữ Hán Việt dùng để biểu đạt những khái niệm, những quan niệm

về cuộc sống, quan hệ xã hội, quan hệ gia đình… Từ ngữ Hán Việt được sử dụng

trong ca dao Nam Bộ còn nhằm mục đích làm tăng tính hàm súc, tính thuyết phục

cho bài ca dao. Ngoài ra, từ ngữ Hán Việt còn có chức năng làm dẫn ngữ, dẫn nhập

vào nội dung chính của bài ca dao, làm tăng tính biểu cảm, tính hình tượng trong

cách diễn đạt. Một số trường hợp từ ngữ Hán Việt đảm nhận chức năng chính trong

việc biểu đạt nội dung ngữ nghĩa của bài ca dao. Bên cạnh đó, từ ngữ Hán Việt còn

có tác dụng gieo vần, tạo nhịp, làm nên âm hưởng êm ái, mượt mà cho bài ca dao.

Nhìn chung, từ ngữ Hán Việt được dùng đúng lúc, đúng chỗ đã tạo cho ca dao Nam

Bộ có sắc thái trang trọng, tao nhã, làm tăng tính hàm súc, tính thuyết phục cho ca

dao Nam Bộ.

Bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận, từ ngữ Hán Việt được sử dụng

trong ca dao Nam Bộ còn có một số hạn chế: dùng từ ngữ tối nghĩa, khó hiểu và

nhiều trường hợp vận dụng chưa thật hợp lý.

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2005), Hán Việt từ điển, Nxb Văn hóa Thông tin.

2. Nguyễn Văn Bảo (1998), Thành ngữ cách ngôn gốc Hán, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

3. Nguyễn Văn Bảo (2008), Từ và ngữ Hán Việt, Nxb Văn học.

4. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ),

Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

5. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán

Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Nguyễn Tài Cẩn (2003), Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. Trần Văn Chánh (2005), Ngữ pháp Hán ngữ cổ và hiện đại, Nxb Trẻ Tp. Hồ

Chí Minh.

8. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

9. Nguyễn Phương Châm (2001), Từ gốc Hán, điển tích Hán trong ca dao người

Việt ở Nam Bộ, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 6, tr.54-57 & tr.84.

10. Nguyễn Hữu Chỉnh (2010), Hiện tượng “ổng ảnh” trong tiếng Nam Bộ, Ngôn

ngữ, số 12, tr.10 – 19.

11. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1990), Cơ sở ngôn ngữ

học và tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

12. Hoàng Dân, Nguyễn Văn Bảo, Trịnh Ngọc Ánh (1997), Mở rộng vốn từ Hán

Việt (Dùng trong nhà trường), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

13. Nguyễn Nghĩa Dân (2000), Đạo làm người trong tục ngữ ca dao Việt Nam,

Nxb Thanh niên.

14. Nguyễn Văn Diệu (1984), Góp phần tìm hiểu ca dao, dân ca chống Mĩ Đồng

bằng sông Cửu Long, Tạp chí Văn học, số 3, tr.54-66.

15. Trần Trí Dõi (2011), Giáo trình Lịch sử tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam.

16. Trần Trí Dõi (2011), Khái niệm từ thuần Việt và từ ngoại lai từ góc nhìn của

lịch sử tiếng Việt hiện nay, Ngôn ngữ, số 11, tr.8 - 15.

93

17. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt, Nxb

Văn hóa Thông tin Hà Nội.

18. Ninh Viết Giao (1999), “Nghệ nhân dân gian trong lòng làng hát ví ở Nghệ

Tĩnh”, tr.317-332, Tuyển tập 40 năm Tạp chí văn học 1960 – 1999, (Tập 1),

Văn học dân gian, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.

19. Nguyễn Thiện Giáp (2003), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

20. Nguyễn Thạch Giang (2003), Tiếng Việt trong thư tịch Việt Nam cổ, Nxb

Khoa học xã hội.

21. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca

dao dân ca Nam Bộ, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.

22. Phạm Ngọc Hàm (2008), chữ 人 nhân và quan niệm về con người của dân tộc

Hán, Ngôn ngữ, số 9, tr.71-76.

23. Phạm Ngọc Hàm (2011), Chữ Hán với tín ngưỡng dân gian của người xưa,

Ngôn ngữ, số 9, tr.58 – 64.

24. Cao Xuân Hạo (2003), Tiếng Việt - văn Việt - người Việt, Nxb Trẻ.

25. Nguyễn Văn Hầu (2004), Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ (tập 1 & 2),

Nxb Trẻ.

26. Lê Anh Hiền (tuyển chọn) (1981), Một số bài viết về sự vận dụng tiếng Việt,

Nxb Giáo dục.

27. Trần Đức Hùng (2011), Các từ đa tiết phương ngữ Nam Bộ trong ca dao, dân

ca, Ngôn ngữ & đời sống, số 8, tr.32 – 37.

28. Hội Khoa học Lịch sử Tp. Hồ Chí Minh (2004), Nam Bộ đất và người (tập II),

Nxb Trẻ.

29. Diên Hương (1992), Thành ngữ điển tích, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp.

30. Bửu Kế (2009), Từ điển Hán Việt từ nguyên, Nxb Thuận Hóa (tái bản lần thứ

nhất).

31. Nguyễn Xuân Kính (2007), Ảnh hưởng của văn học chữ Hán Trung Quốc đối

với thơ ca dân gian người Việt, Nguồn: vienvanhoc. org. vn.

32. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

94

33. Nguyễn Văn Khang (2010), Đối chiếu Hán - Việt: Những vấn đề lí thuyết và

thực tiễn, Ngôn ngữ & đời sống, số 10, tr.1 - 11.

34. Đinh Gia Khánh (chủ Biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997), Văn

học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.

35. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2001), Điển cố văn học, Nxb Văn học.

36. Lê Đình Khẩn (2002), Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc

gia Thành phố Hồ Chí Minh.

37. Khoa Ngữ văn Trường Đại học Cần Thơ (1999), Văn học dân gian Đồng bằng

sông Cửu Long, Nxb Giáo dục.

38. Phạm Xuân Khoái (2001), Một số vấn đề chữ Hán thế kỷ XX, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

39. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.

40. Mã Giang Lân, Lê Chí Quế (1977), Tục ngữ – ca dao – dân ca Việt Nam,

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

41. Nguyễn Lộc (1997), “Văn hóa Trung Hoa và ca dao, dân ca Việt Nam”,

tr.550-560, Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học 1960 – 1999, (Tập 1), Văn học

dân gian, Nxb Tp. Hồ Chí Minh 1999.

42. Nguyễn Thị Lương (2011), Vấn đề dạy từ Hán Việt cho học sinh trung học

phổ thông, Ngôn ngữ & đời sống, số 6, tr.5 – 9.

43. Đoàn Xuân Mỹ (1997), Ca dao Nam Bộ, một cái nhìn gần, Tạp chí Văn học,

số 4, tr.43-46.

44. Trần Văn Nam (1999), Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ địa danh trong ca dao

Nam Bộ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, tr.49-53.

45. Trần Văn Nam (2003), Điển tích trong ca dao Nam Bộ: Tiếp nhận và cách

tân, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6, tr.22-26.

46. Trần Văn Nam (2008), Cảm nhận ca dao Nam Bộ, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí

Minh.

47. Sơn Nam (2004), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Biên khảo Sơn Nam, Nxb

Trẻ Tp. Hồ Chí Minh.

95

48. Phan Ngọc (2009), Mẹo giải nghĩa từ Hán - Việt, Nxb Khoa học xã hội.

49. Phan Ngọc (2009), Mẹo chữa lỗi chính tả, Nxb Khoa học xã hội.

50. Vũ Văn Ngọc (chủ biên) (2011), Nam Bộ nhìn từ văn hóa, văn học và ngôn

ngữ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

51. Lữ Huy Nguyên, Đặng Văn Lung, Trần Thị An (2005), Ca dao trữ tình chọn

lọc (dùng trong nhà trường), Nxb Hội Nhà văn.

52. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà

Nẵng.

53. Nguyễn Ngọc San (2003), Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử (tái bản), Nxb Đại học

Sư phạm.

54. Trịnh Sâm (1986), “Phương ngữ và ca dao dân ca địa phương (Trên cứ liệu

của phương ngữ và ca dao dân ca các tỉnh phía Nam)”, tr.422-432, Tuyển tập

40 năm Tạp chí văn học 1960 – 1999, (Tập 1), Văn học dân gian, Nxb Tp. Hồ

Chí Minh.

55. Trịnh Sâm (2001), Đi tìm bản sắc tiếng Việt, Nxb Trẻ.

56. Đặng Đức Siêu (2006), Dạy và học từ Hán Việt ở trường phổ thông, Nxb Giáo

dục.

57. Nguyễn Thị Tân (2003), Nhận diện thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt, Ngôn

ngữ, số 12, tr.16-25.

58. Nguyễn Thị Tân (2004), Các dạng thức tồn tại của thành ngữ gốc Hán trong

tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 10, tr.24-33.

59. Nguyễn Thị Tân (2005), Đặc điểm của thành ngữ gốc Hán xét từ bình diện

hình thái cấu trúc, Ngôn ngữ, số 6, tr.1-12.

60. Nguyễn Thị Tân (2005), Thành ngữ gốc Hán nhìn từ góc độ ngữ nghĩa, Ngôn

ngữ, số 12, tr.1-12.

61. Nguyễn Thị Tân (2006), Đặc điểm sử dụng thành ngữ gốc Hán trong một số

thể loại văn bản tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 12, tr.15-22.

62. Bùi Đức Tịnh (2003), Ngữ pháp Việt Nam giản dị và thực dụng, Nxb Văn hóa

thông tin.

96

63. Lê Xuân Thại (2005), Từ Hán Việt và việc giảng dạy từ Hán Việt trong sách

giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở, Nxb Giáo dục.

64. Bùi Quang Thanh (1986), Ca dao dân ca Nam Bộ, Tạp chí Văn học, số 3,

tr.146-148.

65. La Văn Thanh (2010), Vấn đề cần lưu ý khi giảng dạy từ Hán Việt, Ngôn ngữ

& đời sống, số 11, tr.5 – 11.

66. La Văn Thanh (2011), Một vài nhận xét về tổ hợp song tiết Hán Việt Việt tạo

trong tiếng Việt hiện đại, Ngôn ngữ, số 7, tr.41 – 48.

67. Ngô Đức Thọ (1997), Nghiên cứu chữ húy qua các triều đại Việt Nam, Nxb

Văn hóa, Hà Nội.

68. Nguyễn Đức Tồn (2001), Những vấn đề dạy và học tiếng Việt trong nhà

trường (phương pháp dạy và học tiếng Việt ở bậc trung học cơ sở), Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội.

69. Nguyễn Đức Tồn (2001), Cách nhận diện và phân phân biệt từ thuần Việt với

từ Hán – Việt, Ngôn ngữ, số 2, tr.45-50.

70. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư

duy, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2010.

71. Nguyễn Văn Tu (1978), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp.

72. Tủ sách kiến thức phổ thông (2000), Ca dao Việt Nam những lời bình, Nxb

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

73. Trầm Thanh Tuấn (2011), Nghệ thuật sử dụng điển cố trong ca dao Đồng

bằng sông Cửu Long, Ngôn ngữ & đời sống, số 7, tr.32 – 38.

74. Hồ Xuân Tuyên (2012), Về một số từ Hán Việt hay bị phê phán dùng sai,

Ngôn ngữ & đời sống, số 1 + 2, tr.8 – 12.

75. Huỳnh Ngọc Trảng (2006), Ca dao dân ca Nam Kỳ Lục Tỉnh, Nxb Tổng hợp

Đồng Nai – Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Tp. Hồ Chí Minh.

76. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

97

77. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1997), Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán, Nxb

Văn hóa Thông tin.

98

TÀI LIỆU KHẢO SÁT

1. Ca dao dân ca Nam Bộ (1984), Bảo Định Giang - Nguyễn Tấn Phát - Trần Tấn

Vĩnh - Bùi Mạnh Nhị, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ca dao Nam Trung Bộ (1999), Thạch Phương – Ngô Quang Hiển, Nxb Khoa

học xã hội.

3. Ca dao Việt Nam (2007), Ngọc Quang, Nxb Văn hóa – Thông tin.

1

PHỤ LỤC

BẢNG 1. BẢNG THỐNG KÊ TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ (Tư liệu được thống kê trong sách Ca dao dân ca Nam Bộ của tập thể tác giả: Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị - Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 1984)

STT

BÀI CA DAO

TRANG

TỪ NGỮ HÁN VIỆT

TỪ ĐƠN

Ái

255

1.

Đèn treo ngọn ái, Nước xoáy gò ân, Phải lương duyên thì xích lại cho gần, Kẻo mai vắng mặt hai đứa thầm nhớ thương.

2.

An

262 455

Ân

3.

165-166 255

Bạch

4.

1. Điểu bay về đậu nhành mai, Đậu chưa an chỗ, trách ai rung cành. 2. Trước không tháo, sau đâu cũng tháo, Thuyền không ngay, lái bảo khó ngay. Em suy cũng lẽ mới hay, Thà em ở góa thân này lại an. 1. Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài, Lấy thép ra mài, uốn câu nồi gọ. Đêm hôm lọ mọ, Xe sợi nhợ săn. Buộc chặt vào cần, Móc mồi thơm phức. Vội ra ngoài bực, Lựa chỗ anh ngồi. Thả câu xuống rồi, Miệng anh thầm vái. Cần câu nhơn, Cần câu ngãi. Cần câu phải, Cần câu khôn. Ân ai các đấng cô hồn, Đuổi con cá nọ chạy dồn ăn câu. 2. Đèn treo ngọn ái, Nước xoáy gò ân, Phải lương duyên thì xích lại cho gần, Kẻo mai vắng mặt hai đứa thầm nhớ thương. 1. Anh ngó lên trời thấy đám mây bạch, Ngó xuống lòng lạch thấy con cá chạch đỏ đuôi, Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược, Anh mảng thương nàng biết được hay không? 2. Ngó lên chùm mây bạch,

166 331

363

Bần

162

5.

Ngó xuống lòng rạch thấy con chạch đỏ đuôi, Con cá buôi chạy vượt, Con cá nược chạy theo, Anh than bổn phận anh nghèo, Vợ con không có bọt bèo cũng không. 3. Rửa chân cho sạch, Bước lên ngựa bạch, Nó chạy song kiều, Thấy em lao khổ chín chiều ruột đau. Anh đừng ham chữ phú, phụ bạc chữ bần, Bạc trăm xài hết, ngãi duyên trần còn đây. 1. Anh như cái võ môn cao không xiết kể, Ngăn ngòai cửa bể, Đợi cá lí ngư về, Kiếp tu em còn vụng, khôn bề thoát qua.

Bể

6.

2. Bao giờ cho sóng bỏ gành,

Cù lao bỏ bể thì anh bỏ nàng. 3. Bể sâu con cá vẫy vùng,

167 180 188

Cận

7.

228 354

Châu

440

8.

Chiếu

446

9.

Côi

178

10.

359

11.

Dương

258-259

12.

Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay. 1. Chữ cận là gần, chữ viễn là xa, Đôi đứa ta cách trở tại mẹ cha không đành. 2. Phải chi em có chồng xa anh đà không giận, Bởi em lấy chồng gần như lửa cận mái hiên. Hột châu nhỏ xuống kẹt rào, Thò tay em lượm, thấy phụ mẫu chào em buông. Nhớ ai vắng bóng, Tiếng trống xa xa, Như là chiếu triệu chồng ta, Diên biên người có biết là hay chăng? Ba năm tượng rách còn thờ, Hường nhan như bậu ngó bề đứng côi. Anh đừng nói vậy anh ơi, Hình dung khô héo có đôi ba người. Qua với bậu thương nhau dĩ bỏ, Nói ra bỡ ngỡ để bụng sợ đau. Dầu cho không trước thời sau, Nguyện lòng chung hiệp, bỏ nhau sao đành. Đêm nằm day mặt trở ra, Ngày nay mới biết cô Ba thương mình, Mình giữ chữ Trung, chữ Hiếu, còn thiếu chữ Tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao đành vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương ngãi nhớ ở trong thơ này. Đôi ta chẳng đặng sum vầy, Cũng như chim nhạn lạc bầy kêu sương.

2

219

Điền

13.

Đáo

14.

133 157 178 222 360 475

15.

Đạo

163 299 435 486

Tôi xa mình cô bác đều thương, Trên trời vần vũ ngọn dương xoay vần. Dầu cho lạc Tấn qua Tần, Thương ai cũng để dành phần thương em. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. Ngã tư chợ Gạo muốn hồi, Tôi chồng mình vợ còn ngồi thương ai. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gởi thơ về thăm anh? Chiều chiều vịt lội ao sen, Tình cờ gặp lại người quen tôi chào, Chào cô trước mũi tiên phuông, Chào cô sau lái mặt vuông chữ điền, Người nào là vợ Vân Tiên? Cho tôi biết để chào liền chị dâu. Người nào người ngỡi tôi đâu ? Nói cho tôi biết để gởi câu ân tình. 1. Bình Thủy lưu linh đáo lại Long Tuyền, Cảm thương ông Cử bỏ thiềng An Giang. 2. Anh bắt tay em cho thỏa tấm lòng, Chừng nào nam đáo nữ phòng hãy hay. 3. Ba năm hạc đáo về đình, Không cho hạc đậu, tức mình hạc bay. 4. Chim đâu đâu cũng bay về cội, Cá đâu đâu cũng lội về kinh, Bình thuỷ lưu linh, đáo lại Long Tuyền, Gởi lời thăm bạn chịu phiền đôi năm. 5. Quạ kêu nam đáo nữ phòng, Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương. Chỉ điều ai khéo vấn vương, Mỗi người mỗi xứ mà thương nhau đời. 6. Ba năm hạc đáo về đình, Không cho hạc đậu tức mình hạc bay. 1. Anh em cốt nhục đồng bào, Vợ chồng là đạo, lẽ nào chẳng thương. 2. Hột thủy tinh đây nhìn sáng rỡ, Để dành bao thuở, Làm nhẫn đeo tay, Dù ai năn nỉ hỏi hòai, Đợi người biết đạo của này anh trao. 3. Đạo nào bằng đạo phu thê, Tay ấp má kề sanh tử có nhau. 4. Dạo chơi quán cũng như nhà, Lều tranh có đạo hơn tòa ngói tô.

3

Đồng

358

16.

418

Đơn

17.

Góa

18.

218 310

Hiệp

19.

149 215 257 311 328 380 455

Hiếu

20.

Phụng với rồng cũng đồng nhan sắc, Trách ai làm phụng bắc rồng nam. Vườn thượng uyển thiếu chi chồi lan huệ, Nội thượng lâm đâu thiếu tược mẫu đơn. Bậu đừng nghĩ ngợi thiệt hơn, Rửa tai nghe lóng tiếng đờn tri âm. Đờn tri âm tiếng đơn, tiếng kép, Rao nhặt khoan tiếng thiếp tiếng chàng. Bậu về qua Cửu Long giang, Tình thương qua nhớ bậu, nỗi dạ càng xót xa. Trách ai làm cách đôi ta, Đêm năm canh thổn thức vào ra thêm sầu. Chia tay gan thắt ruột bào, Đêm ngày than thở dầu bao canh tàn. Cúc đang xanh sao cúc vội tàn, Kiểng đương xanh sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai? 1. Chiều chiều ra đứng bờ kinh, Gặp ai ở góa anh rinh về nhà. 2. Lòng đây ảo não tâm tình, Thấy em ở góa một mình anh thương. 1. Tân Huê, Tân Quới, Tân Long, Ba thôn hiệp lại như rồng lên mây. 2. Chèo mau cho thiếp gặp chàng, Hai ta hiệp lại đàng hòang một đôi. 3. Đêm khuya nước mắt lòng ròng, Vì tôi nhớ chữ loan phòng còn xa, Làm sao hiệp mặt đôi ta, Đặng tôi báo hiếu mẹ cha bên mình. 4. Lỗi căn duyên như đờn lỗi nhịp, Biết bao giờ cho hiệp phụng loan. 6. Thấy đó nói ra em đà hiểu ý, Muốn cho đào lý hiệp với trúc mai, Quản chi biển rộng sông dài, Ôm duyên em đợi khách chương đài bấy lâu. 7. Trúc hiệp cùng mai cho tài xứng sắc, Đêm hôm khuya khoắt, anh nói tắt một lời, Mẹ cha đồng đạo đất trời, Duyên ta sum hiệp trọn đời anh nuôi. 1. Chiều chiều ra đứng bờ mương, Bên tình bên hiếu biết thương bên nào. 2. Đầu đội trời vai mang chữ hiếu, Sau lưng còn bận chữ tình, Mình thương tôi thì dễ, tôi thương mình, khó thương. 3. Đêm nằm day mặt trở ra, Ngày nay mới biết cô Ba thương mình,

218 250

4

258 319 381 453 463 468 469

Mình giữ chữ Trung, chữ Hiếu, còn thiếu chữ Tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao đành vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương ngãi nhớ ở trong thơ này. Đôi ta chẳng đặng sum vầy, Cũng như chim nhạn lạc bầy kêu sương. Tôi xa mình cô bác đều thương, Trên trời vần vũ ngọn dương xoay vần. Dầu cho lạc Tấn qua Tần, Thương ai cũng để dành phần thương em. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. Ngã tư chợ Gạo muốn hồi, Tôi chồng mình vợ còn ngồi thương ai. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gởi thơ về thăm anh? 4. Mình giữ chữ trung, chữ hiếu, Còn thiếu chữ ân tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương nghĩa nhớ ở trong thơ này, Xem thơ nước mắt nhỏ đầy, Thương tôi đừng gởi thơ này làm chi. Nhện giăng trướng án bố vi, Hai đứa mình chồng vợ sợ chi tiếng đồn. 5. Thấy em hay chữ anh hỏi thử đôi lời, Chữ trung, chữ hiếu, chữ hoà, Chữ nào em để thờ cha, Chữ nào thờ mẹ, còn chữ thứ ba em để làm gì? 6. Trai trưởng thành định đôi can lệ, Gái khôn rồi đặng chữ vu qui. Trăm năm có một lần đi, Trai thì trọn hiếu, gái thì thủy chung. 7. Được chữ trung, mất đùng chữ hiếu, Được chữ tam tùng lỗi với mẹ cha. 8. Niềm kim thạch, nghĩa cù lao, Bên tình bên hiếu ở sao cho tuyền. 9. Nước trên nguồn đổ xuống, Cây dưới cội mọc lên. Ai ơi chữ hiếu lo bền, Trước đền ơn nước, sau đền mẹ cha.

5

Hòa

21.

381 267

Họa

22.

128 138 205 230 309 315 320 335

341

Hồi

23.

Hữu

24.

188 326

418

Kép

25.

6

1.Thấy em hay chữ anh hỏi thử đôi lời, Chữ trung, chữ hiếu, chữ hoà, Chữ nào em để thờ cha, Chữ nào thờ mẹ, còn chữ thứ ba em để làm gì? 2.Đờn huyền hòa với đờn tranh, Em có chồng, phụ nghĩa anh, anh buồn. 1. Anh về ngoài Huế lâu vô, Họa bức tranh đồ để lại cho em. 2. Đồng Nai có bốn rồng vàng, Lộc: họa, Lễ: Phú, Sang: đàn, Nghĩa: thi. 3. Cẳng bước tới, gối chùn chân bại, Cho con họa hình, máng tại phòng loan. 4. Có đôi sao chưa nói lại tôi tường, Để tôi phá điệu cang thường không nên. Hồi nào nhắn xuống, nhắn lên, Bây giờ tôi đứng một bên không nhìn, Ngó lên tấm kiếng hai hình, Khen ai khéo họa hai đứa mình đứng chung. 5. Lên non bẻ lá họa hình, Họa cho thấy mặt kẻo tình nhớ thương. 6. Mảng coi trong giấy thấy hình, Khen ai khéo họa hai đứa mình đứng chung. 7. Miệng em cười anh thấy muốn xem, Phải chi có giấy anh đem họa hình. 8.Ngó vô tấm kiếng trong đình, Khen ai khéo họa hai đứa mình đứng chung. Nhạn về biển bắc nhạn ơi, Bao thuở nhạn hồi để én đợi trrông. 1. Bên tay tả có con thiên lý mã, Bên tay hữu có con vạn lý vân, Nhìn xem hai con cũng ngang phân, Anh đây muốn cưỡi một lần hai con. 2. Nàng ngồi cửa hữu bán cau, Muốn xin chút vú sợ đau dạ nàng. Vườn thượng uyển thiếu chi chồi lan huệ, Nội thượng lâm đâu thiếu tược mẫu đơn. Bậu đừng nghĩ ngợi thiệt hơn, Rửa tai nghe lóng tiếng đờn tri âm. Đờn tri âm tiếng đơn, tiếng kép, Rao nhặt khoan tiếng thiếp tiếng chàng. Bậu về qua Cửu Long giang, Tình thương qua nhớ bậu, nỗi dạ càng xót xa. Trách ai làm cách đôi ta, Đêm năm canh thổn thức vào ra thêm sầu. Chia tay gan thắt ruột bào, Đêm ngày than thở dầu bao canh tàn.

Khuyết

161

26.

Kiều

368

27.

Cúc đang xanh sao cúc vội tàn, Kiểng đương xanh sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai ? Anh đi trên đường Ba Vát, Anh đạp cát, cát nhỏ, Anh đạp cỏ, cỏ mòn, Yêu nhau thời độ trăng tròn, Bây giờ trăng khuyết vẫn còn yêu nhau. Sông sâu nước chảy ngập kiều, Dầu anh có phụ còn nhiều người thương.

Lệ

28.

279 339 339 361 374 383 414 446 448

1. Em về thì đi cho mau, Em đừng ngó lại, ruột đau chín tầng, Đi xa một chút ngó chừng, Thấy em lệ nhỏ rưng rưng hai hàng. 2. Nghiêng vai giã bạn tách mình, Rưng rưng giọt lệ chung tình phân hai. 3. Nhà anh cửa đóng song gài, Em vô không được ở ngoài lệ tuôn rơi. 4. Ra về không lẽ anh về luôn, Để khăn xéo lại, lệ tuôn em chùi. 5. Tay cầm nhành bứa, lệ ứa hai hàng, Thuở xuân xanh sao không gặp, Để lúc hoa tàn mới gặp nhau. 6. Thò tay chiết nhánh mai tàn, Bỗng nhìn thấy bạn hai hàng lệ sa. 7. Vì ai nước mắt sụt sùi, Khăn lau không ráo, lệ chùi không khô. 8. Nhìn nhau lệ ứa thấm bâu, Nỗi thương chưa dứt, nỗi sầu lại vương. 9. Ra đi lệ ứa hai hàng, Con thơ gởi lại cho chàng dưỡng nuôi.

Loàn

236

29.

Con chim nho nhỏ, Cái mỏ xinh xinh, Nó đậu trên cành, Nó kêu anh Sáu hỡi, Công cha, nghĩa mẹ sinh thành, Ơn non, nợ nước, nghĩa tình thế nao? Thuyền quyên phải sánh anh hào, Phụng hoàng đâu sánh thấp cao với diều, Kiểng kia, ai để bìm leo, Gái khôn ai gá nghĩa theo người loàn.

7

Long

30.

211 309

1. Cây trên rừng hóa kiểng, Cây dưới biển hóa long, Cá lòng tong ẩn bóng ăn rong, Anh đi lục tỉnh giáp vòng, Đến đây trời khiến động lòng thương em. 2. Lên rừng hóa hổ về đồng nội hóa long, Trời xui đất khiến hai đứa con dòng gặp nhau.

Lụy

31.

451 464 499 155 194 202 238 340 399

Lụy

32.

1. Thương chồng phải lụy cùng chồng, Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải cam. 2. Gió đưa bụi trúc ngã quỳ, Thương cha phải chịu lụy dì, dì ơi. 3. Sa cơ nên phải lụy đò, Thuyền buôn lỡ chuyến lửng lơ đầu ghềnh. 4. Ai làm cho dạ em buồn, Cho con bướm lụy, chuồn chuồn bay theo. 5. Buồn bao nhiêu để lại em buồn, Đừng cho bướm lụy, chuồn chuồn lụy theo. 6. Cách sông nên phải lụy đò, Tối trời nên mới lò mò đụng em. 7. Con nhạn nó đậu cây sung, Anh giương cung bắn nhạn, Con nhạn lụy rồi, anh làm bạn với ai? 8. Nhạn đậu cành sung, anh giương cung bắn nhạn, Con nhạn lụy rồi, làm bạn với ai? 9. Trách ai làm dạ em buồn, Cho con bướm lụy chuồn chuồn lụy theo. 1. Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc, Đất nào dốc bằng đất Nam Vang. Một tiếng anh than hai hàng lụy nhỏ, Em có chút mẹ già biết bỏ ai nuôi ? 2. Anh dứt lời than, em đây phút động tâm tình, Hai hàng lụy nhỏ như bình nước nghiêng. 3. Bước vô giựt võng hỏi thầm, Tại sao rơi lụy ướt dầm gối hoa? 4. Cầm tay đưa bạn lên đàng, Kẻ về người ở, hai hàng lụy rơi. 5. Cất tiếng than hai hàng lụy nhỏ, Anh nói thương em rồi, lại bỏ em đây. 6. Chữ phú nằm trên chữ quý, Kim ngọc đối với kim lang. Cầm khăn lau mặt cho nàng, Xin đừng rơi lụy giữa đàng khó phân. 7. Mắt nhìn lụy nhỏ hàng hai, Cúc tàn kiểng héo, tại hai đứa mình. 8. Đêm khuya ngồi dựa phòng loan,

463 159 196 205 206 228 241 256

8

259 261 277 283 285 290 304 309 312 342 343 445 275

Mãi

33.

437 487

166

Mãn

34.

Thực tình nhớ bạn hai hàng lụy rơi. 9. Đêm nằm mà gác tay qua, Giường không chiếu lạnh, lụy sa hai hàng. 10. Đêm sáng trăng chạnh lòng nhớ bạn, Cảm thương người hoạn bạn xiết bao. Ra về lụy ứa thân hao, Nỗi thương day dứt, nỗi sầu vấn vương. 11. Em than một tiếng than trời đất xoay vần, Chim trên rừng còn rơi lụy, huống chi anh ở trên trần lại không thương. 12. Gặp em giữa đám ruộng vuông, Anh phân chưa hết, nước mắt tuôn hai hàng. Khăn em lau nước mắt anh bạn vàng, Anh đừng rơi lụy giữa đàng em khó phân. 13. Giang tay tỉa nhánh mai vàng, Chợt nhìn thấy bạn hai hàng lụy rơi. 14. Giở sách ra hai hàng lụy nhỏ, Quên chữ đầu bài vì bởi nhớ ai ? 15. Khuất bóng đèn anh nhìn em không rõ, Thấy dạng em ngồi lụy nhỏ tuôn rơi. 16. Lén vô vén sáo hỏi thầm, Cớ sao rơi lụy ướt đầm gối loan? 17. Lụy chan chan đưa chàng xuống vịnh, Trở lộn về thọ bịnh tương tư. 18. Nhìn nàng lụy nhỏ thấm bâu, Nhạn bay cao bắn với, cá ở ao sâu câu ngầm. 19. Nhớ nhau lụy ứa hai hàng, Thương nhau luống những đoạn trường thiết tha. Bấy lâu nay sum hiệp một nhà, Nay đành phân ngả đôi ta thế này. Nhắc đến nhau chẳng chút dạ khuây, Hình dung khô héo ốm gầy thân em. 20. Ngó theo giòng nước, thuyền trước mờ mờ, Lau thấm hột lụy bao giờ gặp nhau. 21. Em đi qua cầu qua trăm cái nhịp, Em đi không kịp kêu bớ anh ơi, Nghĩa tao khang sao anh đành vội dứt, Đêm em nằm ấm ức, ngày lụy ứa tuôn rơi, Bấy lâu nay em mang tiếng chịu lời, Xa nhau bởi tại ông trời biểu xa. 1. Em có chồng rồi, hết đợi hết trông, Giả như ruộng mãi chuộc không thấy về. 2. Đại mộc lưu giang bất đắc hồ cố dã, Ruộng đất mãi rồi chuộc lại ai cho. Anh nghiêng mình nằm xuống bờ ranh, Chờ em mãn trống tan canh mới về. Cá ở ao môn, sầu tam tứ nhị,

200

Môn

35.

9

Ngãi

36.

Được chữ sang giàu, chẳng nghĩ tới nhau. 1. Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài, Lấy thép ra mài, uốn câu nồi gọ. Đêm hôm lọ mọ, Xe sợi nhợ săn. Buộc chặt vào cần, Móc mồi thơm phức. Vội ra ngoài bực, Lựa chỗ anh ngồi. Thả câu xuống rồi, Miệng anh thầm vái. Cần câu nhơn, Cần câu ngãi. Cần câu phải, Cần câu khôn. Ân ai các đấng cô hồn, Đuổi con cá nọ chạy dồn ăn câu. 2. Anh nói em hủy hủy hoài hoài, Biểu em đừng kết ngãi với ai, Xin em kết ngãi lâu dài với anh. 3. Anh với tôi làm đôi sao xứng, Bạc với vàng sao đứng đồng cân. Trách ai tham phú phụ bần, Tham xa mà bỏ ngãi gần thuở xưa. 4. Bậu đừng vội giận, Qua xử phận vuông tròn, Người còn thì ngãi vẫn còn, Sau này gặp gỡ chẳng hờn chi nhau. 5. Cá không ăn câu thật là con cá dại, Bởi câu anh cầm, câu ngãi câu nhân. 6. Cha mẹ sanh anh là trai, Bận cái áo song khai, cái quần lai lá hẹ, Nỡ bụng nào bỏ cha mẹ theo em ? Cha mẹ em sanh em là gái, Biết bao giờ trả ngãi mẹ cha ? 7. Đấy mà xử ngãi vuông tròn, Dẫu ngàn năm ly biệt, đây vẫn còn đợi trông. 8.Đêm nằm day mặt trở ra, Ngày nay mới biết cô Ba thương mình, Mình giữ chữ Trung, chữ Hiếu, còn thiếu chữ Tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao đành vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương ngãi nhớ ở trong thơ này. Đôi ta chẳng đặng sum vầy, Cũng như chim nhạn lạc bầy kêu sương. Tôi xa mình cô bác đều thương,

165-166 167 174-175 184 200 212 251 258

10

Nghĩa

37.

11

Trên trời vần vũ ngọn dương xoay vần. Dầu cho lạc Tấn qua Tần, Thương ai cũng để dành phần thương em. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. Ngã tư chợ Gạo muốn hồi, Tôi chồng mình vợ còn ngồi thương ai. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gởi thơ về thăm anh ? 9. Đôi ta gá ngãi giữa đồng, Về nhà luống chịu nước mắt hồng tuôn rơi. 10. Kiểng xa bồn kiểng rũ héo queo, Anh xa người ngãi như đèn treo hết dầu. 11. Ngày nào lên ngãi vợ chồng, Đôi lứa ta như thể cá hóa rồng lên mây. 12. Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn, Cửa Hàm Luông mây cuốn cánh buồm xuôi. Bậu với qua hai mặt một lời, Trên có trời, dưới có đất, Ngãi trăm năm vương vất sợi tơ mành. Tử sanh, sanh tử chung tình, Dầu ai săn đón, tôi với mình cứ thương. 13. Rau lang trổ ngọn hồng hồng, Bởi thương người ngãi xuôi dòng đến đây. 14. Thế gian ai cũng chuộng tài, Lòng tôi chuộng ngãi, chẳng nài giàu sang. 15. Tóc em dài sao em không bới, Để chi hoài bối rối dạ anh. Tóc dài thì tóc rụng đi, Tham người có ngãi, tham chi tóc dài. Tóc dài thì tốn tiền chanh, Nào ai bán tóc nuôi anh bao giờ. 16. Ơn hoài thai như biển, Ngãi dưỡng dục tợ sông. Em nguyền ở vậy không chồng, Lo nuôi cha mẹ hết lòng đạo con. 1. Anh nghe ai nhón gót đưa chân, Sao không nhớ nghĩa Châu Trần ngày xưa. 2. Bởi thương nên ốm nên gầy, Cơm ăn không đặng gần đầy ba trăng. Ngó lên sao mọc như giăng, Thấy em có nghĩa mấy trăng cũng chờ. 3. Bước xuống cầu, cầu oằn cầu oại, Bước xuống thuyền, thuyền chích thuyền nghiêng.

265 306 329 345 361 382 394 469 165 194 197

Cả tiếng kêu người nghĩa phong điền, Người nghĩa ơi, duyên đây không kết, còn tìm nơi đâu ? 4. Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền, Anh thương em thì đừng cho bạc, cho tiền, Cho nhơn, cho nghĩa, kẻo xóm giềng cười chê. 5. Chiều chiều đưa bạn lên đàng, Trăm năm xin nhớ nghĩa đá vàng đừng quên. 6. Chiều rồi anh đứng giữa đường, Bên này tình, bên kia nghĩa, anh biết thương bên nào. 7. Chim quyên xuống đất tha mồi, Tôi xa người nghĩa, đứng ngồi không yên. 8. Chợ Bến Thành dời đổi, Người sao khỏi hiệp tan, Xa gần giữ ngãi tao khang, Chớ tham quyền quý phụ phàng nghĩa xưa. 9. Chữ đồng thanh tương ứng, Câu đồng khí tương cầu, Dầu mưa, dầu gió mặc dầu, Kiếm nơi có nghĩa, anh hầu kết duyên. 10. Con chim nho nhỏ, chân đỏ, mỏ vàng, Nàng ơi hỡi nàng, sao dứt nghĩa anh. Kiểng hư để vậy sao đành, Anh ra công sửa kiểng, không thành thì thôi. 11. Con nước chảy bèo nọ còn tua, Gặp đây tôi hỏi hơn thua một lời. Ăn cơm sao đặng mà mời, Nước mắt ra lai láng rã rời hột cơm. Mình ơi đừng đặng cá quên nơm, Đôi ta gá nghĩa danh thơm ở đời. Cóc nghiến răng còn động lòng trời, Sao mình chẳng tưởng mấy lời tôi than. 12. Dọn cơm chống đũa mà nhìn, Mảng sầu người nghĩa, thất tình quên ăn. 13. Đèn tọa đăng để trước bàn thờ, Vặn lên nó tỏ, vặn xuống nó lờ, Xuống sông hỏi cá, lên bờ hỏi chim, Trách ai làm cho thố nọ xa tiềm, Em xa người nghĩa, nằm điềm chiêm bao. 14. Đêm khuya trăng dọi lầu son, Vào ra thương bạn héo hon ruột vàng, Bển qua đây đàng đã xa đàng, Dẫu tôi có lâm nguy thất thế, Hỏi cô bạn vàng có cứu không? Chiều rồi kẻ bắc người đông, Trách lòng người nghĩa nói không thiệt lời.

203 218 220 224 226 228 236 238 246 254 257

12

259 264 267 278 285 292 293

294 308 313 317

15. Đêm nằm nghe tiếng sáo thanh, Nhớ thương người nghĩa cơm canh bỏ liều. 16. Đóm bò miệng chậu sáng trưng, Thấy mình có nghĩa, lòng ưng dạ đành. 17. Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ, Đi bán giỏ nuôi mẹ già, Anh gặp em đây, không cửa không nhà, Muốn vô gá nghĩa biết là được không ? 18. Em thương anh cuốn gói cho tròn, Chờ ba má ngủ, em bước lòn cửa sau. Anh ơi, ơn cha em chưa trả, nghĩa mẹ em chưa đền, Sao anh dám biểu em ôm mền theo anh. 19. Giấy Tây bán mấy, Mua lấy một tờ, Đề thơ quốc ngữ, Dán lên trái bưởi, Thả xuống giang hà, Cả kêu người nghĩa trong nhà, Xuống sông vớt bưởi lên mà xem thơ. 20. Hai đứa mình gá nghĩa bữa nay, Tiền nhựt em nói vậy, còn hậu lai thế nào? Anh dứt lời than, em ruột thắt gan bào, Anh đi về bển, em vô phòng đào nước mắt rơi. 21. Hai đứa mình gá nghĩa trao lời, Chim kia đủ cặp, bèo trôi với bèo. 22. Hai tay lành sao em không để lành, Cớ sao xỏ lỗ cắt nghĩa rành anh nghe? 23. Lâu ngày mới gặp một lần, Chuyện chi trong dạ phân trần với anh, Bờ quanh dòng nước chảy quanh, Thấy anh có nghĩa ưng anh cho rồi. 24. Lửa vùi vừa ấm lòng lư, Bậu nghe lời thả, bậu từ nghĩa anh. 25. Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa chiếu, Em đứng bên ấy để anh biểu đôi lời: Tình này lòng nọ đôi nơi, Muốn cùng gá nghĩa trọn đời được chăng? 26. Mía càng già càng tốt, Mía càng đốt, càng ngon. Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn, Mấy sông cũng lội mấy hòn cũng leo. 27. Minh quân, tương tế tao phùng dị, Tài tử, giai nhân tế ngộ nan. Trời xui anh gặp bạn vàng, Một lời phải nghĩa muôn ngàn khó mua. 28. Miễu thần gà gáy tiếng đôi,

318 319 321

13

321 326 332 342 343 345 350 353 357

361 366 378

14

Trông bậu trông đứng trông ngồi, Trông người có nghĩa bồi hồi lá gan. 29. Một cây em bẻ lấy một nhành, Anh tên chi, thứ mấy cắt nghĩa rành đặng em kêu. 30. Năm canh trằn trọc xốn xang, Lăn qua lộn lại nghĩa vàng không nguôi. 31. Ngó lên chữ ứ, Ngó xuống chữ ư, Anh thương em thủng thẳng em ừ, Anh đừng thương vội phụ mẫu từ nghĩa em. 32. Nhiễu điều phú quý em không màng, Em quyết chờ cho đặng nghĩa vàng sánh đôi. 33. Nhứt lê, nhì lựu, tam đào, Bên tình, bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân. 34. Nỡ nào dứt nghĩa lìa tình, Đây còn thương nhớ sao mình khiến xa? 35. Nước trong giếng đá, cá lội thấy hình, Thấy anh có nghĩa động tình em thương. 36. Ơn cha rộng thênh thênh tựa biển, Nghĩa mẹ dài dằng dặc tựa sông, Thấy em phận gái chưa chồng, Dầm sương dãi nắng nên lòng anh thương. 37. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gửi thư về thăm anh. 38.Rạch Đông con nước chảy, Con cá nhảy, con tôm nhào. Hai đứa mình kết nghĩa, Cha mẹ lẽ nào không thương. 39. Sông dài cá lội biệt tăm, Thấy anh người nghĩa mấy năm anh cũng chờ. 40. Thân em xét kỹ, Cũng tỉ như đồng bạc đầu hình, Người người ai cũng muốn nhìn, Lăng xăng buổi chợ gởi mình vào đâu? Thân anh xét chắc, Như tủ sắt để hờ, Góp thâu tiền bạc giấy tờ, Đồng nào phải nghĩa, anh được nhờ cất vô. 41. Tôi còn thương bạn, bạn ơi, Nỡ nào người nghĩa dứt đôi cho đành. Chừng nào cho sóng bỏ gành, Cù lao bỏ biển, anh mới đành xa em. 42. Tôi than với mình hủy hủy hoài hoài, Biểu em đừng gá nghĩa với ai, để anh gá nghĩa

394 395

398

404 408 410 419

428

436 457 462 471 476 499

15

lâu dài với anh. 43. Tới đây cụm liễu giao nhành, Hỏi em kết nghĩa liệu thành hay chăng? 44. Trầu Đồng Nai, trầu ăn nhả bã, Thuốc Đồng Môn, thuốc hút phà hơi. Tôi với mình gá nghĩa ăn chơi, Không dè gá nghĩa ở đời trăm năm. 45. Trông bậu trông đứng trông ngồi, Trông người có nghĩa bồi hồi lá gan. 46. Trượng phu xử nghĩa vuông tròn, Ngàn năm lưu lạc dạ còn thương anh. 47. Xa nhau tính đã đôi năm, Bởi thương người nghĩa gan bầm ruột đau. 48. Cầu nào cao bằng cầu danh vọng, Nghĩa nào trọng bằng nghĩa chồng con. Ví dầu nước chảy đá mòn, Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương. 49. Đèn nào cao bằng đèn Sở Thượng, Nghĩa nào trượng bằng nghĩa phu thê. Em với anh vai sánh má kề, Dầu anh lạc Sở qua Tề, Thì anh cũng gởi thơ về em hay. 50. Vợ chồng là nghĩa phu thê, Tay ấp má kề sanh tử có nhau. 51. Công cha ba năm tình thâm lai láng, Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang. Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn, Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ. 52. Trầu ăn là nghĩa, Thuốc xỉa là tình, Đội ơn phụ mẫu xinh mình dễ thương. 53. Bình bồng ở giữa giang tân, Bên tình bên nghĩa biết phân bên nào. 54. Rượu kia nào có say người, Hỡi người say rượu chớ cười rượu say. Say là say nghĩa say nhơn, Say thơ Lý Bạch, say đờn Bá Nha.

Ngộ

38.

198 333 340 406

1. Bướm bắt bông như Quan Công ngộ Tào tặc, Anh gặp em một lần, vắng mặt nhớ thương. 2. Ngó lên trên núi Điện Bà, Đôi ta mới ngộ, do hà biệt ly? 3. Nhà thương Chợ Quán kẻ bắt ván, người leo thang, Đôi đứa ta thương nhau, thương dại thương dột, thương lột da óc, thương tróc da đầu, Ngủ đi thì chớ, thức dậy lại thương, Giục ngựa bươn cương lên đường thượng lộ, Trời hỡi trời, mới ngộ lại xa. 4. Trời kia sao chẳng xét suy, Lứa đôi mới ngộ, khiến chi xa rời.

Ngỡi

39.

1. Ai ơi, lỡ hội chồng con, Về đây gá ngỡi vuông tròn được không? 2. Bát nước trong còn gợn sóng rung rinh, Đôi ta gá ngỡi chung tình. Dầu ai dèm xiểm chúng mình, mặc ai. 3. Biển cạn sông cạn, lòng qua không cạn, Núi lở non mòn, ngỡi bạn không quên. Đường còn đi xuống đi lên, Tình qua ngỡi bậu quyết nên vợ chồng. 4. Chiều chiều vịt lội ao sen, Tình cờ gặp lại người quen tôi chào, Chào cô trước mũi tiên phuông, Chào cô sau lái mặt vuông chữ điền, Người nào là vợ Vân Tiên? Cho tôi biết để chào liền chị dâu. Người nào người ngỡi tôi đâu? Nói cho tôi biết để gởi câu ân tình. 5. Hết dầu đèn cháy tới tim, Một ngày gá ngỡi cũng niềm phu thê. 6. Tới đây trước lạ sau quen, Bóng trăng là ngỡi, ngọn đèn là duyên.

155 181 189 219 294 399

16

Nguyệt

40.

154 213 214 256 256 361

1. Ai có muốn lau chen với đậu, Qua không đánh bùn lộn với sen, Truớc chưa quen sau cũng là quen, Qua chẳng hề tham nguyệt chê đèn như ai. 2. Chàng sao tệ lắm bớ chàng, Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn đợi trông. 3. Chân mày vòng nguyệt có duyên, Tóc mai gợn sóng, đẹp duyên tơ hồng. 4. Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn, Đồng hồ nhặt điểm nhớ nàng không nguôi. 5. Đêm khuya nguyệt lặn sao thanh, Mình với tôi kết ngãi có thành hay không? 6. Ra về nguyệt lặn sao thưa, Dứt tình tại bậu qua chưa tiếng gì.

Ngự

41.

263 491

Nhân

42.

198 200

Nhẫn

482

43.

Nhì

343

44.

Nhơn

45.

1. Đó chê đây, đây càng lịch sự, Đó ăn mâm vàng, đây ngự toà sen. 2. Hiu hiu gió thổi đầu non, Những người uống rượu là con ngọc hoàng, Ngọc hoàng ngự tại ngai vàng, Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi, Con rằng con uống con chơi, Hay đâu con uống con rơi xuống sình. 1. Bướm đeo dưới dạ cây bần, Muốn nhân nhân ngãi lại gần sẽ nhân. 2. Cá không ăn câu thật là con cá dại, Bởi câu anh cầm, câu ngãi câu nhân. Chữ nhẫn là chữ tượng vàng, Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu. Nhứt lê, nhì lựu, tam đào, Bên tình, bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân. 1. Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài, Lấy thép ra mài, uốn câu nồi gọ. Đêm hôm lọ mọ, Xe sợi nhợ săn. Buộc chặt vào cần, Móc mồi thơm phức. Vội ra ngoài bực, Lựa chỗ anh ngồi. Thả câu xuống rồi, Miệng anh thầm vái. Cần câu nhơn, Cần câu ngãi. Cần câu phải, Cần câu khôn. Ân ai các đấng cô hồn,

165-166

17

203 499

Nhu

46.

174 252 254

343

Nhứt

47.

Phỉ

48.

158 198 251

Phú

49.

162 228

18

Đuổi con cá nọ chạy dồn ăn câu. 2. Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền, Anh thương em thì đừng cho bạc, cho tiền, Cho nhơn, cho nghĩa, kẻo xóm giềng cười chê. 3. Rượu kia nào có say người, Hỡi người say rượu chớ cười rượu say. Say là say nghĩa say nhơn, Say thơ Lý Bạch, say đờn Bá Nha. 1. Anh về ráng học chữ nhu, Chín trăng em đợi, mười thu em chờ. Anh gắng công anh học, chứ đâu để bơ thờ, Ở nhà em gìn giữ, chớ em hững hờ, chắc anh xa. 2. Đèn cầu tàu ngọn xanh ngọn đỏ, Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu, Anh về học lấy chữ nhu, Chín trăng em đợi mười thu em chờ. 3. Đèn Sài Gòn ngọn lu ngọn tỏ, Đèn Ô Cấp ngọn tỏ ngọn lu. Anh về học lấy chữ nhu, Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ. Nhứt lê, nhì lựu, tam đào, Bên tình, bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân. 1. Anh dốc kén cho được người kim chỉ, Nên phải tầm cho phỉ tóc tơ. Bởi vầy anh mới ước mơ, Cũng như người dệt lụa những chờ mối manh. 2. Bướm giỡn bông bướm chưa phỉ dạ, Trách ai làm cây ngã bướm bay. 3. Đây đã chèo lơi, Đặng chờ người tri kỷ, Gặp mặt chuyện trò cho phỉ ước mơ. 1. Anh đừng ham chữ phú, phụ bạc chữ bần, Bạc trăm xài hết, ngãi duyên trần còn đây. 2. Chữ phú nằm trên chữ quý, Kim ngọc đối với kim lang. Cầm khăn lau mặt cho nàng, Xin đừng rơi lụy giữa đàng khó phân.

Phú

50.

Phụ

51.

Đồng Nai có bốn rồng vàng, Lộc: họa, Lễ: Phú, Sang: đàn, Nghĩa: thi. 1. Cây suôn chuốt cán cờ điều, Dầu đó có phụ, đây liều công đây. 2. Chim trên rừng ngậm cây cắn lá, Cá dưới biển ẩn đá chờ sao. Gặp mặt anh đây sao em không hỏi không chào, Hay là em có nơi nào phụ anh? 3. Có trăng nên mới phụ đèn,

138 210 225 231

267 301 368 391 405 455

Đặng nơi sang trọng, phụ phàng nghĩa xưa. 4. Đờn huyền hòa với đờn tranh, Em có chồng, phụ nghĩa anh, anh buồn. 5. Khăn lau nước mắt ướt mem, Xuống lên không đặng vì em có chồng. Hai bên nhân nghĩa đạo đồng, Nghĩa em không phụ, đạo đồng em không quên. 6. Sông sâu nước chảy ngập kiều, Dù anh có phụ còn nhiều người thương. 7. Tiếc công đóng giá chờ gàu, Đó đà phụ khó tham giàu thì thôi. 8. Trên trăng dưới nước, anh giao ước một lời, Dẫu trăng lờ nước cạn, chẳng đời phụ em. Trời cao đất rộng, em vọng lời nguyền, Đất trời còn đó, em giữ tuyền thủy chung. 9. Trời cao lồng lộng, Đất rộng thinh thinh, Tôi không có dạ phụ mình, Bởi anh ở bạc phụ tình nghĩa xưa.

Phụng

52.

234 246 376 424

1. Con chim khôn kiếm nhành cây xanh nó đậu, Gái khôn kiếm trai đôn hậu làm chồng, Cô bác xa dòm ngó nói phụng với rồng sánh đôi. 2. Duyên đôi ta như loan với phụng, Nỡ lòng nào để phụng lìa cây, Muốn cho có đó có đây, Ai làm nên nỗi nước này chàng ôi! 3. Thân anh như con phụng lạc bầy, Thấy em lẻ bạn anh muốn gầy duyên loan. 4. Áo anh năm nút chạm rồng, Đứng xa con phụng lại gần con quy.

424

Quy

53.

228

Quý

54.

Sanh

55.

Áo anh năm nút chạm rồng, Đứng xa con phụng lại gần con quy. Chữ phú nằm trên chữ quý, Kim ngọc đối với kim lang. Cầm khăn lau mặt cho nàng, Xin đừng rơi lụy giữa đàng khó phân. 1. Cha mẹ sanh anh là trai, Bận cái áo song khai, cái quần lai lá hẹ, Nỡ bụng nào bỏ cha mẹ theo em? Cha mẹ em sanh em là gái, Biết bao giờ trả ngãi mẹ cha? 2. Đỉa đâu, đỉa đeo chân hạc, Ác đâu ác đậu cành mai. Phụ mẫu sanh em là út, đòi rút một cây kiểng huỳnh, Áo thuỷ ba dợn sóng, hỏi mình chịu không?

212 262

19

264 303 363 375 404 408 460

Sầu

56.

3. Đố anh ai sanh cái tháng, Ai táng cái ngày? Ai biểu anh nhớ, ai bày anh thương? Ông trời sanh cái tháng, Ông trạng táng cái ngày, Ông tơ biểu nhớ, bà nguyệt bày biểu thương. 4. Khổ qua xanh, khổ qua trắng, Khổ qua mắc nắng khổ qua đèo, Dù sanh, dù tử, dù nghèo em cũng theo. 5. Rút gươm linh tự ải bờ thành, Chẳng thà lìa tử, bao đành lìa sanh. 6. Thà em lấy chồng khờ chồng dại, Lo kinh thương phản mại, công nghệ nông tang, Em không ham nơi nhiều bạc lắm vàng, Mai sau sanh chuyện điếm đàng bỏ em. 7. Trầu vàng nhỏ lá, rau giấp cá nhai giòn, Khéo khen phụ mẫu sanh em mặt tròn dễ thương. 8. Trời sanh cái nón đội đầu, Sao anh không đội, nhức đầu ai nuôi. 9. Cha sanh mẹ đẻ không lẽ theo mình, Xấu cha xấu mẹ, đôi mình tốt chi. 1. Khoai lang lột vỏ bỏ đầu, Nửa thương Bình Chuẩn, nửa sầu Thuận Giao. 2. Ở đây Chợ Quán thêm sầu, Cơm ăn chẳng đặng, ăn trầu giải khuây. 3. Ai làm con cá bống đi tu, Con cá thu nó khóc, con cá lóc nó rầu. Phải chi ngoài biển có cầu, Em ra em vớt cái đoạn sầu cho anh. 4. Anh dứt tình thương đoạn trường cho thiếp, Nhớ thương tha thiết, tội nghiệp cho em, Ôm sầu chất thảm ngày đêm, Năm canh nệm thúy ngăn nghiêng một mình. 5. Anh đừng chê em áo rách quần phèn, Anh không coi bụi hẹ nó rã bèn còn thơm. Dế kêu sầu ở dưới đống phân rơm, Tự nẳm nay anh ở vậy giữ danh thơm đời mình. 6. Anh ngồi bực lở anh câu, Khen ai khéo mách, cá sầu chẳng ăn. 7. Anh ơi, bớt thảm bớt sầu, Gối loan không đặng giao đầu thì thôi. 8. Ăn cơm có cá với canh, Ăn vô mát bụng như anh gặp nàng. Chim quyên đậu tấm ngói vàng, Tay cầm quyển truyện, sầu nàng quên ngâm. 9. Bãi cỏ lau khô sầu ai rã rượi,

141 146 155 159 162 166 167 177 179

20

21

Thỏ núp lùm chờ đợi bóng trăng. Bãi dài cát nhỏ tăm tăm, Phải duyên tiền định ngàn năm cũng chờ. 10. Bên này sông có trồng bụi sả, Bên kia sông, ông xã trồng một bụi tre, Trách ai làm bụi tre nó ngã, Bụi sả nó sầu, Phải chi ngoài biển có cầu, Để anh ra đó giải đoạn sầu cho em. 11. Bồn hư nên kiểng vội tàn, Đó đừng sầu não, khiến đây càng sầu thêm. 12. Bước xuống ruộng sâu lỡ sầu tấc dạ, Tay ôm bó mạ nước mắt hai hàng, Ai làm lỡ chuyến đò ngang, Cho sông cạn nước đôi đàng biệt ly. 13. Bướm đậu nhành dâu, lòng sầu u uất, Cảm thương người cách bức xa xôi. 14. Cá bống đi tu, Cá thu nó khóc, Cá lóc nó rầu, Phải chi ngoài biển có cầu, Anh ra ngoài đó giải sầu cùng em. 15. Cá ở ao môn, sầu tam tứ nhị, Được chữ sang giàu, chẳng nghĩ tới nhau. 16. Căn nợ này ai khéo dắt đem, Đó anh chịu thảm, đây em chịu sầu. 17. Cầu kia cách bởi mấy đầu, Mỏi mong chờ đợi thêm sầu ngỡi nhân. 18. Cây oằn vì bởi tại hoa, Thương em vì bởi nết na, nghĩa tình, Thương em thương dạng, thương hình, Thương lời ăn tiếng nói thiệt tình không bãi buôi. Sầu ai mặt nọ không vui, Hay là duyên nợ, nói tui sầu dùm. 19. Chàng đi Châu Đốc, Nam Vang, Nỗi sầu em chịu đa mang một mình. 20. Chim quyên đậu trước cành dâu, Cớ sao bỏ thảm bỏ sầu cho em ? 21. Con chim đậu dựa cành dâu, Sao mình bỏ thảm, bỏ sầu cho em. 22. Con chim nho nhỏ, Cái lông nó đỏ, Cái mỏ nó vàng, Nó đậu trước cửa làng, Nó kêu nam tắc, nữ tế, Nam tế, nữ châu, Hồi nào anh đưa cho em cái lược chải đầu,

188 191 197 198 199-200 200 204 206 210 213 223 234 235

22

Bây giờ anh ở bạc, bỏ sầu cho em. 23. Con dế kêu sầu, sao anh không bắt ngắt râu, Để nó kêu rỉ rả suốt đêm thâu, tôi buồn. 24. Dế kêu cho giải cơn sầu, Mấy lời em nói, bạc đầu không quên. 25. Dế kêu không khoả lấp cơn sầu, Mấy lời em than thở, bạc đầu không quên. 26. Dế ngâm sầu nhiều câu rỉ rả, Nhớ anh chung tình, thức cả đêm đông. 27. Dọn cơm chống đũa mà nhìn, Mảng sầu người nghĩa, thất tình quên ăn. 28. Đèn treo cột phướn, gió chướng hao dầu, Thương thì nàng để dạ, đừng sầu tủi thân. 29. Đèn treo trong sáo xanh xanh, Sầu mình tôi chết một canh ba bốn lần. 30. Đêm qua anh có ngủ đâu, Anh ngồi nghe dế kêu sầu bên tai. 31. Đêm sáng trăng chạnh lòng nhớ bạn, Cảm thương người hoạn bạn biết bao. Ra về lụy ứa thân hao, Nỗi thương day dứt, nỗi sầu vấn vương. 32. Đi đâu bỏ quạt loan châu, Bỏ thương bỏ nhớ bỏ sầu cho em. 33. Em chớ thấy anh bé nhỏ mà sầu, Con ong kia bao lớn, nó chích trái bầu cũng eo. 34. Em có chồng như cá ở ao, Anh vô không đặng biết bao nhiêu sầu. 35. Gió thổi hiu hiu, Bạc Liêu kia hỡi, Đoạn sầu này biết gởi cho ai ? 36. Hạc chầu thần, hạc đứng uy nghi, Sầu anh tôi đứng dựa ghế nghi khóc ròng. 37. Hai tay xách nước tưới trầu, Trầu bao nhiêu lá, dạ sầu bấy nhiêu. 38. Hát đôi câu giải sầu con đom đóm, Cảm thương người ốm ốm cao cao. 39. Hồi nào một gối đôi đầu, Bây giờ bỏ thảm bỏ sầu cho em. 40. Khăn xanh có mí hai đầu, Nửa thương cha mẹ, nửa sầu căn duyên. 41. Kiểng sầu còn héo huống chi anh, Anh sầu nào kiểng có xanh bao giờ. 42. Kiểng sầu nhớ ai nảy lá nứt chồi, Anh đây sầu bạn đứng ngồi không yên. 43. Lan huệ sầu ai lan huệ héo, Lan huệ sầu tình trong héo ngoài tươi. 44. Lựu lê, bình bát, mãng cầu, Bốn cây tứ quý anh sầu một cây.

237 245 246 246 246 255 255 260 261 261 274 274 290 292 294 294 299 302 306 306 307 313

23

45. Mảng sầu đông giọt vắn giọt dài, Không biết cùng ai tỏ bày tâm sự. Nhìn cảnh lạ đau lòng Chức Nữ, Đêm xem trăng già chạnh nhớ người thương. 46. Năm canh ngơ ngẩn buồn rầu, Nhớ người nhơn nghĩa gan sầu ruột đau. 47. Ngày nay lựu đặng gặp đào, Kiểng sầu gặp nước dạ nào chẳng thương. Ngày nay tơ nguyệt vấn vương, Ngàn năm vẫn giữ tao khương trọn đời. 48. Ngó lên chót vót ngọn cây bầu, Thấy đôi diệc đậu em sầu phận em. 49. Ngồi buồn chẳng biết trách ai, Trách tằm kia chẳng đoái hoài tới dâu. Dâu kia hết lá vì tằm, Mối sầu biết kể mấy năm cho rồi. 50. Ngồi buồn giả chước đi câu, Cá ăn không giựt, mang sầu căn duyên. 51. Phải chi ngoài biển có cầu, Em ra em vớt đoạn sầu cho anh. 52. Sầu ai mặt nọ không vui, Hay sầu duyên nợ nói tui sầu dùm. 53. Sông cách sông, thuỷ cách thuỷ, Anh thương em, anh xe sợi chỉ, anh bắc cây cầu, Để em qua lại giải sầu với anh. 54. Sông sâu biết bắc mấy cầu, Khi thương thì anh thương vội, Khi sầu anh để lại cho em. 55. Sông Tiền con cá lội xoè vi, Chị Thuý Kiều sầu anh Kim Trọng tỉ như em sầu chàng. 56. Sông Tương ai gọi là sâu, Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta. Sông tuy sâu hãy còn có đáy, Bệnh tương tư không bãi không bờ. Đầu sông chàng đợi chàng chờ, Nào hay thiếp đợi hững hờ cuối sông. 57. Trống canh tư điểm đã từ lâu, Người về bên ấy đừng sầu đừng thương. 58. Vườn thượng uyển thiếu chi chồi lan huệ, Nội thượng lâm đâu thiếu tược mẫu đơn. Bậu đừng nghĩ ngợi thiệt hơn, Rửa tai nghe lóng tiếng đờn tri âm. Đờn tri âm tiếng đơn, tiếng kép, Rao nhặt khoan tiếng thiếp tiếng chàng. Bậu về qua Cửu Long giang, Tình thương qua nhớ bậu, nỗi dạ càng xót xa.

316 326 329 332 336-337 337 355 366 366 367 369 369 409 418

419 426 426 430 432 432 443 446 449 450 454 465 476

408

Sinh

57.

Trách ai làm cách đôi ta, Đêm năm canh thổn thức vào ra thêm sầu. Chia tay gan thắt ruột bào, Đêm ngày than thở dầu bao canh tàn. Cúc đang xanh sao cúc vội tàn, Kiểng đương xanh sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai ? 59. Vượn bồng con lên non hái trái, Đoạn sầu này để lại cho ai. 60. Cá lý ngư sầu tư biếng lội, Chim trong rừng sầu cội biếng ăn. Anh thương em nhiều nỗi long đong, Con thơ tay bế tay bồng, Muốn vô chắp nối, em có bằng lòng hay không? 61. Cá sầu ai cá chẳng quạt đuôi, Như lan sầu huệ như tôi sầu mình. 62. Chim kêu dưới suối trên cầu, Trai thương vợ cũ, gái sầu chồng xưa. 63. Con dế ngâm sầu, tôi bắt dế tôi ngắt đầu, Chồng mà xa vợ bỏ đoạn sầu cho em. 64. Con chim kêu thương, con gà gáy nhớ, Chồng xa vợ ai nỡ không sầu, Cũng như Chức Nữ đoạn cầu Ngưu Lang. 65. Một thương hai nhớ ba sầu, Cơm ăn chẳng đặng nhai trầu cầm hơi. 66. Nhìn nhau lệ ứa thấm bâu, Nỗi thương chưa dứt, nỗi sầu lại vương. 67. Sông Ngân há dễ bắc cầu, Trai vong vợ cũ, gái sầu tình xưa. 68. Thảm thiết thương đoạn trường xa cách, Dạ anh sầu ai mách em hay ? 69. Trầu vàng ăn với cau sâu, Lấy chồng thua bạn mảng sầu mà hư. 70. Lưu ly nửa nước nửa dầu, Nửa thương cha mẹ nửa sầu căn duyên. 71. Cá lưỡi trâu sầu ai méo miệng, Cá trèn bầu nhiều chuyện trớt môi. Trời sinh bông trắng nhụy huỳnh, Bà ngoại đẻ má, má đẻ mình dễ thương.

Sơn

58.

371 405

1. Sơn cách thuỷ cách, lòng em không cách, Đường xa dặm xa, nhơn ngãi em không xa. Đi đâu anh nhớ ghé lại nhà, Trước viếng phụ mẫu, sau là thăm em. 2. Trên sơn dưới thuỷ, anh thấy con lý ngư, Anh móc mồi quăng xuống hàng cừ, Để xem con bạn ngọc dật dừ về ai?

24

Tả

188

59.

Tam

343

60.

Tạo

500

61.

Tặc

198

62.

Tâm

396

63.

Tầm

64.

483 158 186 188 263 264 269 299 383 406

Tế

147-148

65.

25

Bên tay tả có con thiên lý mã, Bên tay hữu có con vạn lý vân, Nhìn xem hai con cũng ngang phân, Anh đây muốn cưỡi một lần hai con. Nhứt lê, nhì lựu, tam đào, Bên tình, bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân. Sông sâu sào vắn khó dò, Kìa kìa con tạo đưa đò âm cung Bướm bắt bông như Quan Công ngộ Tào tặc, Anh gặp em một lần, vắng mặt nhớ thương. Tôi thương mình, tôi giấu kín trong tâm, Giả như trái lựu chín thâm trên cành. 1. Chữ rằng vấn tổ tầm tông, Cháu con sao nỡ bỏ, cha ông sao chẳng màng. 2. Anh dốc kén cho được người kim chỉ, Nên phải tầm cho phỉ tóc tơ. Bởi vầy anh mới ước mơ, Cũng như người dệt lụa những chờ mối manh. 3. Bây giờ anh kiếm đặng em rồi, Tỷ như cây kim đi tầm sợi chỉ, Sao em không biết nghĩ, biết suy, Em ham nơi quyền quý, không nghĩ gì tới anh. 4. Bấy lâu xa cách mặt chàng, Em tầm phương lập nghiệp, vắng đàng thăm anh. 5. Đói lòng ăn nửa trái trâm, Uống lưng chén nước đi tầm người thương. 6. Đố ai tầm được vảy con cá trê vàng, Tầm được gan con tép bạc, bạn vàng theo không. Em về tầm vú con công, tầm đuôi con cóc, mới hòng theo anh. 7. Đũa mun một chiếc khó tầm, Duyên đây không kết, mai mốt tầm khó ra. 8. Hồi nào ngọc vô tay áo không cầm, Gặp duyên không kết, giờ tầm sao ra. 9. Thiếu chi củi quế rừng ta, Kiếm chi củi mục rừng xa đem về. Phải duyên túc đế ngoài Huế tôi cũng tầm, Không phải duyên củi quế dựa thềm tôi cũng nhổ quăng. 10. Trển xuống đây cách năm bảy đám ruộng đồng, Muốn ghé thăm anh một chút sợ cô bác nói gái tầm chồng, em hổ ngươi. Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai,

Thác

66.

26

Nước sông sao lại chảy hoài, Thương người xa xứ lạc loài tới đây. Tới đây thì ở lại đây, Bao giờ bén rễ xanh cây lại về. 1. Anh về ở trển cho vui, Đừng rầu đau ốm không có tui ở gần. Anh về ở trển an tình, Cháo cơm qua bữa, đừng thác một mình không có ai than. 2. Bấy lâu chàng đợi, thiếp trông, Bây giờ chàng hỏi, thiếp nói không sao đành. Mình nghiêng tai tôi nói nhỏ cho rành, Theo mình có thác cũng đành dạ tôi. 3. Chẳng thà dắt thẳng nhau vô, Phụ mẫu có giết, thác một mồ cũng ưng. 4. Chiều nay em ra sông Cái, Em tự ải cho rồi, Sống làm chi biệt ly quân tử, Thác cho rồi đặng chữ hiếu trung. 5. Dầu là bữa đói bữa no, Thác thời một chỗ, sống cho trọn niềm. 6. Đường đi cát nhỏ cỏ mòn, Em thác đi mới mất, sống còn thương anh. 7. Lời nguyền chứng có ông tơ hồng, Thác thời mới dứt, sống không bỏ chàng. 8. Sống chi vầy kẻ Hán người Hồ, Một mai thác xuống chôn một mồ mới vui. 9. Sống ở dương gian không bắt được tay chàng, Thác xuống âm phủ em giở nắp hàng cho anh vô. 10. Thương anh cốt rã xương mòn, Thương anh đến thác cũng còn thương anh. 11. Tôi theo anh lập lấy cơ đồ, Để sau thác xuống mả mồ ấm cao. 12. Tôi thương mình tôi giấu, Mà sao phụ mẫu hay thấu đòi bắt tôi ra biển Đông câu sấu, bớ mình! Trông trời mau sáng tôi đi, tôi than vài lời hơn thiệt, Chớ mình thác xuống diêm đình bặt tin. 13. Trống trên lầu nhặt thúc, Trăng ẩn bóng về non. Anh thương em ruột thắt gan mòn, Thác đành ly biệt, sống còn thương em. 14. Anh thác rồi, đặng chữ hiển vinh, Để em ở lại linh đinh một mình. 15. Trăm năm giữ vẹn chữ tòng,

174 187 214 220 245 271 312 369 370 387 395 396 410 424 453

469 486 493

Thanh

256

67.

Thệ

419

68.

Thi

138

69.

70.

Thiên

152 429

Thiên

405

71.

Thiếp

72.

27

Sống sao thác vậy một chồng mà thôi. 16. Phụ mẫu anh như phụ mẫu nàng, Mai sau có thác chạm chữ vàng thờ chung. 17. Dốc lòng trả nợ áo cơm, Sống cho trọn thảo, thác thơm nhân hiền. 18. Làm sao giữ trọn đạo ba, Sau dầu có thác cũng là thơm danh. Đêm khuya nguyệt lặn sao thanh, Mình với tôi kết ngãi có thành hay không? Xa nhau ngọc lỡ cười lỡ khóc, Nhớ lời thệ xưa mái tóc em còn. Đồng Nai có bốn rồng vàng, Lộc: họa, Lễ: Phú, Sang: đàn, Nghĩa: thi. 1. Tiếng đồn con gái Thủ Biên, Bạc Liêu đi cưới một thiên cá mòi. Tiếng đồn con gái Giồng Chanh, Nói năng chua chát khó thành nợ duyên, Tiếng đồn gái gảng Bà Hiền, Ở ăn thuần hậu ấy duyên với mình. 2. Chị kia bới tóc cánh tiên, Chồng chị đi cưới một thiên cá mòi. Không tin chị dở ra coi, Rau răm ở dưới, cá mòi ở trên. Trên thiên dưới thủy, Lòng em tu bỉ ở vậy chờ anh. 1. Mẹ mong gả thiếp về vườn, Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh. 2. Ai về ai ở mặc ai, Thiếp như dầu đượm thắp hòai sáng đêm. 3. Anh dứt tình thương đoạn trường cho thiếp, Nhớ thương tha thiết, tội nghiệp cho em, Ôm sầu chất thảm ngày đêm, Năm canh nệm thúy ngăn nghiêng một mình. 4. Bấy lâu chàng đợi, thiếp trông, Bây giờ chàng hỏi, thiếp nói không sao đành. Mình nghiêng tai tôi nói nhỏ cho rành, Theo mình có thác cũng đành dạ tôi. 5. Cao ly sắc với ngưu hoàng, Uống không mát dạ bằng thiếp với chàng gặp nhau. 6. Cây chi trên rừng không lá, Con cá chi dưới biển không xương? Trai nam nhi đối đặng, thiếp kết tao khương với chàng. Cây xương rồng trên rừng không lá, Con sứa dưới biển không xương, Trai nam nhi đối đặng, thiếp lường tính sao?

142 156 159 187 204 207

28

7. Chèo mau cho thiếp gặp chàng, Hai ta hiệp lại đàng hoàng một đôi. 8. Gió đưa bụi chuối te tàu, Chàng nam thiếp bắc làm giàu ai ăn. 9. Gió đưa buồng hạnh rảnh rang, Tiếng nhơ thiếp chịu để chàng danh thơm. 10. Mẹ mong gả thiếp về giồng, Thiếp than phận thiếp gánh gồng chẳng kham. 11. Một sông dễ bắc mấy cầu, Thiếp là phận gái biết hầu mấy nơi. 12. Này bạn ơi, Con cò trắng lượn quanh đám cấy, Bước đến đây sao thấy dạ bồi hồi, Chẳng duyên chẳng nợ thì thôi, Phải duyên phải nợ em đáp lời cùng anh. Này anh ơi, duyên đâu run rủi giữa đàng, Nếu phải như ba sinh tiền định thiếp mời chàng ghé đây. 13. Nên thì lập kiểng trồng hoa, Chẳng nên đá kiểng trồng cà dái dê. Chẳng nên thiếp trở lộn về, Dưỡng nuôi từ mẫu, trọn bề hiếu trung. 14. Nhái kêu chiều xế dưới mương, Thiếp yên phận thiếp, còn thương nỗi chàng. 15. Ôi thôi thôi, dứt rồi duyên nợ, Để cho anh lo vợ, em mới dám lấy chồng. Sẵn đây chứng có vầng hồng, Xin coi dạ thiếp tấc lòng thẳng ngay. 16. Sông Ngân hà vịt lội ướt lông, Rùa kêu đá nổi thiếp không gặp chàng. 17. Sông Tương ai gọi là sâu, Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta. Sông tuy sâu hãy còn có đáy, Bệnh tương tư không bãi không bờ. Đầu sông chàng đợi chàng chờ, Nào hay thiếp đợi hững hờ cuối sông. 18. Thiếp đứng gần chàng hơn vàng chín nén, Chàng đứng gần thiếp hơn chén thuốc tiên. 19. Thiếp như cá ở biển Đông, Chờ khi nước cạn hoá rồng lên mây. Phải chi anh có phép thần thông, Ngăn mây đón gió, bắt rồng cỡi chơi. 20. Thiếp như cam quít bưởi bòng, Đắng the ngoài vỏ, trong lòng ngọt thanh. 21. Thiếp như một cụm hoa hường, Thấy xinh rờ đến, mắc đường chông gai. 22. Thiếp tợ như thiên biên nguyệt,

215 287 287 318 323 326 328 340 351 367 369 382 382 383 383 383

Quân như lãnh thượng vân. Tuy gần mà chẳng được gần, Cũng như biển Sở non Tần cách xa. 23. Trải chiếu ra chàng ngồi một góc, thiếp ngồi một góc, Chàng than thiếp khóc, tình hỡi là tình, Nằm đêm nghĩ lại anh bạc tình hay em? 24. Trời đem điềm lạ khó bàn, Hay là trời khiến thiếp với chàng gặp nhau. 25. Trời năng mưa năng chuyển, Đất ngoài biển năng lở năng bồi. Đôi ta thương lỡ nhau rồi, Chàng than thiếp khóc phụ mẫu ngồi sao yên. 26. Vì chàng thiếp bị đòn oan, Không tin dở áo ra xem dấu lằn. 27. Vì mương cho cá bén đăng, Vì chàng thiếp phải đi trăng về mò. 28. Vườn thượng uyển thiếu chi chồi lan huệ, Nội thượng lâm đâu thiếu tược mẫu đơn. Bậu đừng nghĩ ngợi thiệt hơn, Rửa tai nghe lóng tiếng đờn tri âm. Đờn tri âm tiếng đơn, tiếng kép, Rao nhặt khoan tiếng thiếp tiếng chàng. Bậu về qua Cửu Long giang, Tình thương qua nhớ bậu, nỗi dạ càng xót xa. Trách ai làm cách đôi ta, Đêm năm canh thổn thức vào ra thêm sầu. Chia tay gan thắt ruột bào, Đêm ngày than thở dầu bao canh tàn. Cúc đang xanh sao cúc vội tàn, Kiểng đương xanh sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai? 29. Chèo ghe cho thiếp đi buôn, Lời ăn, lỗ chịu thiếp buồn chi đâu. 30. Cực lòng thiếp lắm chàng ơi, Biết rằng lên ngược xuống xuôi đàng nào. 31. Đang tay đánh thiếp sao đành, Áo rách ai vá, áo lành ai may. 32. Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ, Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu. 33. Lên non thiếp cũng lên theo, Tay vịn chân trèo hái trái nuôi nhau. 34. Má mong gả thiếp về vườn, Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh. 35. Một mai thiếp có xa chàng, Đôi bông thiếp trả, con chàng thiếp xin. 36. Thiếp thà đòn gánh đôi quang,

401 406 408 415 415 418 428 433 435 440 442 442 443 451

29

451 451 451 452 453 454 456 474

30

Bán buôn nuôi mẹ, chàng sang mặc chàng. 37. Thiếp than cha mẹ thiếp nghèo, Thiếp than phận thiếp như bèo trôi sông. 38. Thiếp than phận thiếp còn thơ, Lấy chồng xa xứ bơ vơ một mình. 39. Thiếp xa chàng quên ăn quên ngủ, Chàng xa thiếp thức đủ năm canh. 40. Trách ai dạ thú lòng lang, Làm cho nên nỗi thiếp chàng rẽ phân. 41. Trách lòng quân tử bạc tình, Gieo neo cho thiếp một mình biển đông. 42. Trăm năm tượng rách em hãy còn thờ, Dầu hao thiếp chịu, đèn mờ thiếp khêu. 43. Ví dầu tình đã phụ phàng, Xin đưa thiếp xuống đò ngang thiếp về. 44. Anh đi đánh giặc Lang – sa, Để thiếp ở nhà lo tần lo tảo, Chén cơm manh áo, nhà cửa ruộng vườn, Để anh lên ngựa để thương, Thiếp về mặc thiếp, liệu lường nuôi con.

Thọ

73.

284 285 362 312

1. Gặp mình đây chưa kịp nói năng, Em về nhà thọ bệnh, ba bốn trăng gầy mòn. 2. Ghe lui khỏi vịnh, em thọ bịnh đau liền, Không tin anh hỏi xóm giềng mà coi. 3. Rầu một nỗi chim bay về rừng vắng, Tôi thọ chữ thương anh rồi, không biết nhắn cùng ai. 4. Lụy chan chan đưa chàng xuống vịnh, Trở lộn về thọ bịnh tương tư.

Thủy

74.

242 272 366 371 405 405 406

Tỉ

75.

359 359 391 186

Tình

76.

31

1. Cúc mọc dưới sông, kêu bằng cúc thủy, Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa. Gởi thơ thăm hết mọi nhà, Trước thăm ba má, sau là thăm em. 2. Đường rày nghiêng xe lửa chạy cũng nghiêng, Gặp nhau đây dưới thủy trên thuyền, Lời phân chưa cạn nước mắt liền vội tuôn. 3. Sông cách sông, thủy cách thủy, Anh thương em, anh xe sợi chỉ, anh bắc cây cầu, Để em qua lại giải sầu với anh. 4. Sơn cách thủy cách, lòng em không cách, Đường xa dặm xa, nhơn ngãi em không xa. Đi đâu anh nhớ ghé lại nhà, Trước viếng phụ mẫu, sau là thăm em. 5. Trên sơn dưới thủy, anh thấy con lý ngư, Anh móc mồi quăng xuống hàng cừ, Để xem con bạn ngọc dật dừ về ai ? 6. Trên thiên dưới thủy, Lòng em tu bỉ ở vậy chờ anh. 7. Trên trăng dưới thủy, bấy lâu nay em tu bỉ đợi mình, Như chị Nguyệt Nga thuở trước ôm bức tượng hình chờ Vân Tiên. 1. Qua tỉ như hột sương tưới hoa hường cho tươi tắn, Bởi tiếc cánh hoa lành bị nắng héo khô. 2. Qua tỉ như chùm gửi đáp nhờ, Gá vô nhành bưởi đặng nhờ hưởng hơi. 3. Tiếc đám phù dung mọc chung cỏ dại, Cũng tỉ như hoa lài cặm phải chỗ dơ. 4. Bây giờ anh kiếm đặng em rồi, Tỉ như cây kim đi tầm sợi chỉ, Sao em không biết nghĩ, biết suy, Em ham nơi quyền quý, không nghĩ gì tới anh. 1. Nỡ nào dứt nghĩa lìa tình, Đây còn thương nhớ sao mình khiến xa? 2. Trầu ăn là nghĩa, Thuốc xỉa là tình, Đội ơn phụ mẫu xinh mình dễ thương. 3. Bình bồng ở giữa giang tân, Bên tình bên nghĩa biết phân bên nào. 4. Chiều chiều ra đứng bờ mương, Bên tình bên hiếu biết thương bên nào. 5. Chiều rồi anh đứng giữa đường, Bên này tình, bên kia nghĩa, anh biết thương bên nào. 6. Đầu đội trời vai mang chữ hiếu,

345 471 476 218 220 250

258 468 471 476

Tòng

77.

199 453

Trầm

78.

32

Sau lưng còn bận chữ tình, Mình thương tôi thì dễ, tôi thương mình, khó thương. 7. Đêm nằm day mặt trở ra, Ngày nay mới biết cô Ba thương mình, Mình giữ chữ Trung, chữ Hiếu, còn thiếu chữ Tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao đành vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương ngãi nhớ ở trong thơ này. Đôi ta chẳng đặng sum vầy, Cũng như chim nhạn lạc bầy kêu sương. Tôi xa mình cô bác đều thương, Trên trời vần vũ ngọn dương xoay vần. Dầu cho lạc Tấn qua Tần, Thương ai cũng để dành phần thương em. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. Ngã tư chợ Gạo muốn hồi, Tôi chồng mình vợ còn ngồi thương ai. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gởi thơ về thăm anh? 8. Niềm kim thạch, nghĩa cù lao, Bên tình bên hiếu ở sao cho tuyền. 9. Trầu ăn là nghĩa, Thuốc xỉa là tình, Đội ơn phụ mẫu sinh mình dễ thương. 10. Bình bồng ở giữa giang tân, Bên tình bên nghĩa biết phân bên nào. 1. Bứt lá trâm bầu làm giấy, em tỏ bài thơ, Trước gửi thăm ba, Sau hai chữ tòng với má, Em gá ngoài bìa gửi lá thăm anh. 2. Trăm năm giữ vẹn chữ tòng, Sống sao thác vậy một chồng mà thôi. 1. Anh đừng có bỏ giọng trầm, Đừng ham tiếng ngọt mà cầm duyên em. 2. Chỉ tơ quận ống tre bông, Gá duyên không đặng xuống sông trầm mình. 3. Sống như vầy em sống làm chi, Chiều nay em ra bến sông Qui trầm mình. Hai tay anh xách hai cái chình, Nước sông Qui anh múc cạn còn gì mình trầm thân. 4. Thương nhau chẳng biết làm sao,

162 216 370 389

Đổ nước vào dĩa làm ao trầm mình. 5. Tơ Tàu quấn ống tơ bông, Lấy em không đặng anh ra biển Đông trầm mình.

398

Triệu

446

79.

Trung

80.

258

Nhớ ai vắng bóng, Tiếng trống xa xa, Như là chiếu triệu chồng ta, Diên biên người có biết là hay chăng? 1. Đêm nằm day mặt trở ra, Ngày nay mới biết cô Ba thương mình, Mình giữ chữ Trung, chữ Hiếu, còn thiếu chữ Tình. Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương nghĩa nhớ ở trong thơ này. Đôi ta chẳng đặng sum vầy, Cũng như chim nhạn lạc bầy kêu sương. Tôi xa mình cô bác đều thương, Trên trời vần vũ, ngọn dương xoay vần, Dầu cho lạc Tấn qua Tần, Thương ai cũng để dành phần thương em. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. Ngã tư chợ Gạo muốn hồi, Tôi chồng mình vợ còn ngồi thương ai. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gởi thơ về thăm anh? 2. Mình giữ chữ trung, chữ hiếu, Còn thiếu chữ ân tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong? Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương nghĩa nhớ ở trong thơ này, Xem thơ nước mắt nhỏ đầy, Thương tôi đừng gởi thơ này làm chi. Nhện giăng trướng án bố vi, Hai đứa mình chồng vợ sợ chi tiếng đồn. 3. Thấy em hay chữ anh hỏi thử đôi lời, Chữ trung, chữ hiếu, chữ hoà, Chữ nào em để thờ cha, Chữ nào thờ mẹ, còn chữ thứ ba em để làm gì? 4. Được chữ trung, mất đùng chữ hiếu, Được chữ tam tùng lỗi với mẹ cha.

319 381 463

33

Trường

81.

291 443

1. Gối xa đầu buồn rầu thảm thiết, Năm sáu tháng trường bậu biết cho không? 2. Một ngày cũng đạo cang thường, Huống chi năm bảy tháng trường tơ duyên.

Trượng

82.

315 436

1. Màn treo dưới đất, gió vạch màn lên, Chỗ giàu sang anh trượng, nghèo như em anh không nhìn. 2. Đèn nào cao bằng đèn Sở Thượng, Nghĩa nào trượng bằng nghĩa phu thê. Em với anh vai sánh má kề, Dầu anh lạc Sở qua Tề, Thì anh cũng gởi thơ về em hay.

Tùng

305

83.

Tử

84.

303 363

Vãn

254

85.

Vi

168

86.

Viễn

228

87.

Vong

88.

Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, Thì trao dây xích buộc vòng vào đâu? 1. Khổ qua xanh, khổ qua trắng, Khổ qua mắc nắng khổ qua đèo, Dù sanh, dù tử, dù nghèo em cũng theo. 2. Rút gươm linh tự ải bờ thánh, Chẳng thà lìa tử, bao đành lìa sanh. Đèn tọa đăng đốt để bàn thờ, Hai đứa mình chuyện vãn, tắt bao giờ không hay. Anh than một tiếng nát miễu xiêu đình, Cây huệ kia đang xanh lại héo, cá ở ao quỳnh vội xếp vi. Chữ cận là gần, chữ viễn là xa, Đôi đứa ta cách trở tại mẹ cha không đành. 1. Đêm nằm day mặt trở ra, Ngày nay mới biết cô Ba thương mình, Mình giữ chữ Trung, chữ Hiếu, còn thiếu chữ Tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao đành vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương ngãi nhớ ở trong thơ này. Đôi ta chẳng đặng sum vầy, Cũng như chim nhạn lạc bầy kêu sương. Tôi xa mình cô bác đều thương, Trên trời vần vũ ngọn dương xoay vần. Dầu cho lạc Tấn qua Tần, Thương ai cũng để dành phần thương em. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. Ngã tư chợ Gạo muốn hồi,

258

34

449

Tôi chồng mình vợ còn ngồi thương ai. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gởi thơ về thăm anh? 2. Sông Ngân há dễ bắc cầu tình, Trai vong vợ cũ, gái sầu tình xưa.

35

TỪ GHÉP

1. Cùng nhau biển hẹn non thề, Ở sao cho đặng trọn bề ái ân.

89.

2. Khăn lông năm bảy mối lòng thòng, Cho em một mối kết vòng ái ân.

Ái ân

242 301 446

Am tự

330

90.

An bài

174

91.

An giấc

274

92.

An tình

174

93.

An vui

138

94.

Anh dũng

140

95.

Anh hào

96.

3. Nhạn nam én bắc lạc bầy, Biết bao giờ đặng duyên vần ái ân? Ngó lên am tự chùa vàng, Tu thời đặng đó bỏ nàng ai nuôi ? Anh về ở trển an bài, Cháo cơm qua bữa ít ngày em ghé thăm. Em có chồng rồi, anh sợ lỗi đạo bề trên, Em vào phòng trong an giấc, anh nằm một bên kêu chừng. Anh về ở trển cho vui, Đừng rầu đau ốm không có tui ở gần. Anh về ở trển an tình, Cháo cơm qua bữa đừng thác một mình không có ai than. Đồng Nai nước ngọt, gió hiền, Biên Hùng muôn thuở đây niềm an vui. Gò Công anh dũng tuyệt vời, Ông Trương, Đám Lá Tối Trời đánh Tây. 1. Thấy anh hay chữ, em đây hỏi thử đôi lời, Đường từ Châu Đốc, Hà Tiên, Kinh nào chạy thẳng nối liền hai nơi? Đất nào lắm dốc nhiều đồi, Đèn nào cao nhất tiếng đời đều nghe? Sông nào tấp nập thuyền bè, Hồ nào với biển cập kề bên nhau? Trai nào nổi tiếng anh hào, Anh mà đáp đặng, má đào em trao. Nghe em nói tức, anh đây nói phứt cho rồi, Đường từ Châu Đốc, Hà Tiên, Có kênh Vĩnh Tế nối liền hai nơi. Đất Nam Vang lắm dốc nhiều đồi, Đèn cao Châu Đốc mọi người đều nghe. Sông Cửu Long tấp nập thuyền bè, Biển Hồ hai chữ cập kè bên nhau.

150-151

236

Trai Việt Nam nổi tiếng anh hào, Anh đà đáp đặng, vậy má đào em trao đây. 2. Con chim nho nhỏ, Cái mỏ nó xinh, Nó đậu trên cành, Nó kêu anh Sáu hỡi, Công cha, nghĩa mẹ sinh thành, Ơn non, nợ nước, nghĩa tình thế nao? Trai Việt Nam nổi tiếng anh hào, Phụng hoàng đâu sánh thấp cao với diều, Kiểng kia, ai để bìm leo, Gái khôn ai gá nghĩa theo người loàn.

1. Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ,

Vô duyên đối diện bất tương phùng. Thuyền quyên nỡ phụ anh hùng sao nên.

2. Ngó trên trời, trời đà về tối,

Ngó xuống lối, lối nọ vừa cùng. Trai anh hùng dời gót, gái đây đau xót gan vàng, Muốn về trộm lịnh ra đàng đợi anh.

3. Nước trong khe chảy xuôi về vịnh,

Trời cao đã định nước chảy vòng cung. Nào ai thương khó với cùng, Thuyền quyên lỡ lứa anh hùng lỡ đôi.

4. Thùng thùng, đó nói một câu,

Anh hùng

97.

Đây anh chầu nửa chục, Hễ là gạn đục, Thì phải lóng trong. E cho miệng chẳng in lòng, Chớ thuyền quyên sánh với anh hùng mới xuê. 5. Khuyên em xét kỹ, em nghĩ cho cùng,

Trung trinh liệt nữ, quân tử anh hùng, Làm sao cho vẹn tam tùng,

36

Gái ngoan chẳng lấy hai chồng bỏ anh. 6. Chim quyên xuống đất ăn trùng, Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than. 7. Đấng trượng phu đừng thù mới đáng, Đấng anh hùng đừng oán mới nên.

300 334-335 350 386 441 481 487 491

8. Gừng già gừng rụi càng cay, Anh hùng cơ cực càng dày nghĩa nhơn.

274

Ân ái

98.

Em có mẹ cha, Anh đến nhà thưa lại. Riêng tình ân ái, Nhân ngãi chẳng phai, Sợ hiềm trắc trở duyên hài, Phải cho có mối có mai lễ trầu.

Âm cung

500

99.

Âm phủ

445

100.

Sông sâu sào vắn khó dò, Kìa kìa con tạo đưa đò âm cung Ngó lên trời thấy mây bay vần vũ, Ngó xuống âm phủ thấy đá dựng tứ bề. Làm sao cho trọn nghĩa phu thê, Đây chồng đó vợ đi về có đôi. 1. Ân tình dạ những ai hoài,

Nhạn nam én bắc lạc loài đôi phương.

2. Chiều chiều vịt lội ao sen,

Tình cờ gặp lại người quen tôi chào, Chào cô trước mũi tiên phuông, Chào cô sau lái mặt vuông chữ điền, Người nào là vợ Vân Tiên? Cho tôi biết để chào liền chị dâu. Người nào người ngỡi tôi đâu? Nói cho tôi biết để gởi câu ân tình. 3. Mình giữ chữ trung, chữ hiếu,

Ân tình

101.

Còn thiếu chữ ân tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong? Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương nghĩa nhớ ở trong thơ này, Xem thơ nước mắt nhỏ đầy, Thương tôi đừng gởi thơ này làm chi. Nhện giăng trướng án bố vi.

Hai đứa mình chồng vợ sợ chi tiếng đồn. 4. Vàng rơi xuống chiếu, Sợi chỉ điểu ân tình, Mình xa tôi nhớ, sao tôi xa mình, mình quên?

177 219 319 413

Ấu tử

296-297

102.

Hỏi anh: ai phò Đường quốc, Ai ở đất nhà Châu, Ai cày ruộng Thuấn, Ai câu Thạch Bàn, Ai giết vợ làm quan, Ai chôn con ấu tử đặng vàng trời cho, Ai mà đọc sách liền pho, Trai như anh đối dặng, gái em lo kết nguyền. Đời nhà Tiết thờ Đường quốc, Hoàng Phi Hổ ở đất nhà Châu, Hy Giang cày ruộng Thuấn, Thái Công Vọng đi câu Thạch Bàn, Ngô Khởi giết vợ làm quan, Quách Cự chôn con ấu tử đặng vàng trời cho, Chí sĩ đọc sách liền pho, Trai nam nhi anh đối đặng, gái em lo thế nào?

1. Biển Đông sóng dợn ba đào,

Ba đào

103.

Ngãi nhân khác thể sóng trào biển Đông. 2. Công dã tràng thường ngày xe cát,

Sóng ba đào, ai xét công cho.

189

37

Tiếng anh nho sĩ học trò, Thấy sông vội lội, không dò cạn sâu.

3. Em nghiêng tai dưới gió, qua kể nhỏ cho em rằng,

Đôi ta còn vướng tơ mành, Dầu đó không đành, đây cũng gắng, Sóng ba đào mưa nắng chẳng nao.

241 276-277 486

Ba Khương

433

104.

Ba sanh

224

105.

Ba sinh

106.

172

Bá hộ

427

107.

Bá quan

333

108.

38

4. Công dã tràng hằng ngày xe cát, Sóng ba đào, ai xét công cho. Cóc, nhái, ếch xào lộn với tương, Gá vô vòng chồng vợ ba Khương ở đời. Chim quyên hút mật bông quỳ, Ba sanh còn đợi, huống gì ba năm. Anh trông lên trời, ông sao xuống đất, Anh trông xuống đất, con đóm lên trời. Gặp em đây anh dặn mấy lời, Ba sinh hương lửa muôn đời chớ quên. Cầm chài mà vãi vô nia, Cưới con bá hộ đặng chia gia tài. Ngó lên trời mây bay vần vũ, Ngó xuống âm phủ đủ mặt bá quan, Ngó lên Nam Vang thấy cây trăm thước, Nhìn về sông Trước thấy sóng bủa lao xao, Anh thương em ruột thắt gan bào, Biết em có thương lại chút nào hay không ?

1. Bần gie bần ngã, bất khả viễn vông, Anh với em như sợi chỉ lộn vòng, Kiếm sao đặng mối bá tòng mới vui. 2. Đèn loan hiệp cẩn trong phòng,

Trăm năm chí quyết bá tòng gầy duyên.

3. Tay bưng quả nếp vô phòng,

Đèn hương đôi ngọn chữ bá tòng cầu hôn.

Bá tòng

4. Một mai phân rẽ bá tòng

109.

Đèn hương đôi ngọn chữ bá tòng cầu hôn.

182 252 373 373 401 444

Bạc ngãi

110.

5. Trai giỏi giắn chẳng lo ế vợ, Gái lịch xinh chẳng sợ ế chồng. Khuyên ai giữ phận má hồng, Chọn nơi phải đạo bá tòng lo chi. 6. Ngày mai phân rẽ bá tòng, Chồng nam, vợ bắc đau lòng ai ơi. 1. Cha mẹ biểu ưng, em đừng mới phải, Em nỡ lòng nào bạc ngãi bỏ anh. 2. Trăm thứ dầu, dầu gì không thắp? Trăm thứ bắp, bắp gì không rang? Trăm thứ than, than gì không quạt? Trăm thứ bạc, bạc gì không mua? Trai nam nhi đối đặng, gái bốn mùa theo không?

212

402

Bạc nghĩa

392

111.

Bạc phận

189

112.

Một trăm thứ dầu, dầu nhị thiên đường là dầu không thắp. Một trăm thứ bắp, bắp chuối là bắp không rang. Một trăm thứ than, thang leo là thang không quạt. Một trăm thứ bạc, bạc ngãi là bạc không mua. Trai nam nhi anh đối đặng, Gái chịu thua em tính lẽ nào. Tiền tài như phấn thổ, Nghĩa trọng tợ thiên kim, Con le le mấy thuở chết chìm, Người tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi. Bí lên ba lá, Trách ba với má, Không ngắt ngọn làm giàn, Để bí bò lan. Trách hường nhan, Vô duyên bạc phận, Duyên nợ gần không đặng xứng đôi. 1. Anh than rằng vợ con chưa có, Em bước vô nhà thấy ai nằm đó? Bớ anh chung tình! Em thương anh để dạ, sợ anh bạc tình bỏ ai.

2. Bạc tình phú có Tơ ông,

Dầu mà lao khổ, tôi không bỏ chàng. 3. Bạc vàng xuống nước còn phai,

Đêm nằm em nghĩ coi ai bạc tình.

4. Chữ đề vô đá lâu phai,

Bạc tình

113.

Nằm đêm nghĩ lại coi ai bạc tình ? 5. Con chim chà chiện, nó bay thấp liệng cao, Nó kêu lăng lăng líu líu, Đôi lứa ta lận đận lịu địu, sao nỡ dứt tình, Thà không anh ở một mình, Kết duyên rồi lại bạc tình sao nên. 6. Nước trong thấy đá, cá lội thấy hình,

Anh ở xa không thấy mặt, em bạc tình không thương. 7. Trải chiếu ra chàng ngồi một góc, thiếp ngồi một góc, Chàng than thiếp khóc, tình hỡi là tình, Nằm đêm nghĩ lại anh bạc tình hay em?

8. Vàng mười vô lửa nào phai,

Anh nằm đêm nghĩ lại coi ai bạc tình?

9. Trách lòng quân tử bạc tình,

168-169 179 179 228 233 351 401 414 453

179

Ban sơ

114.

39

Gieo neo cho thiếp một mình biển Đông. Ban sơ ai dễ rõ lòng, Lửa kia dầu nóng, vàng ròng chẳng nao.

Bán lộ

283

115.

Bắc đẩu Tinh

367

116.

Bần cùng

171

117.

Báo hiếu

257

118.

Bất biến

396

119.

Bất câu

489

120.

40

Gặp mặt em đây bán lộ giữa đàng, Hỏi thăm phụ mẫu song toàn hay không? Sông giang hà chảy ra biển rộng, Bắc đẩu Tinh quay ngóng chầu trời. Tôi thương mình lắm mình ơi, Biết sao kể nỗi khúc phôi ở mình. Anh ơi, thương thời thương chứ chẳng đặng ăn nằm, Cũng như trái lựu chín còn nằm trên cây. Anh tỉ phận anh thà ở lều tranh như thầy Tăng, thầy Lộ, Chứ không ham mộ của Vương Khải, Thạch Sùng, Đạo người anh giữ vẹn, bần cùng sá bao. Đêm khuya nước mắt ròng ròng, Vì tôi nhớ chữ loan phòng còn xa, Làm sao hiệp mặt đôi ta, Đặng tôi báo hiếu mẹ cha bên mình. Tôi trao miếng trầu thì mang câu bất hiếu, Vậy tôi để trên hàng rào ai hiểu ý thì ăn. Đời xưa quả báo còn lâu, Đời nay quả báo bất câu giờ nào. 1. Rượu ngon bất luận ve chai, Thương em bất luận sợ ai chê cười. 2. Rượu ngon bất luận ve sành,

Bất luận

121.

Rách mà khéo vá hơn lành vụng may. 3. Rượu ngon cái cặn cũng ngon,

364 364 364

Thương em bất luận chồng em mấy đời. 1. Anh thương em năm bịch bảy bồ,

Sao em không thương lại, cái đồ bất nhơn.

Bất nhơn

122.

170 479

Bia danh

400

123.

Biệt ly

124.

2. Chiều chiều bắt kéc nhổ lông, Kéc kêu bớ chị, chị đừng bất nhơn. Trách người quân tử bia danh, Chơi hoa rồi lại bẻ nhành bán rao. 1. Bước xuống ruộng sâu lỡ sầu tấc dạ, Tay ôm bó mạ nước mắt hai hàng, Ai làm lỡ chuyến đò ngang, Cho sông cạn nước đôi đàng biệt ly. 2. Chiều nay em ra sông Cái, Em tự ải cho rồi, Sống làm chi biệt ly quân tử, Thác cho rồi đặng chữ hiếu trung. 3. Em như nút anh như khuy,

197 220 277 333

Như Thúy Kiều - Kim Trọng biệt ly sao đành. 4. Ngó lên trên núi Điện Bà, Đôi ta mới ngộ, do hà biệt ly ? Dầu non mòn biển cạn, lời con bạn nhớ hoài,

245

Biệt tài

125.

Bình an

163

126.

Đường xa mới thấu biệt tài con ngựa hay. Anh gặp em vừa mừng vừa hỏi, Phụ mẫu ở nhà mạnh giỏi hay không ? Tại gia đàng phụ mẫu em cũng được bình an, Em xin hỏi lại: phụ mẫu của bạn lang thế nào?

1. Bình phong cẩn ốc xa cừ, Vợ hư để vợ đừng từ mẹ cha.

Bình phong

127.

426 458

Bình yên

484

128.

Bộ hành

129.

143 197

Bổn phận

460

130.

41

2. Bình phong cẩn ốc xa cừ, Vợ hư để vợ, đừng từ mẹ cha. Con ơi con ngủ cho say, Cha con đi giết sạch loài Lang – Sa. Lớn lên con nối chí cha, Ra đi giết giặc nước nhà bình yên. 1. Mười giờ tàu lại Bến Thành, Súp lê vội thổi, bộ hành lao xao. 2. Bước xuống bắc Mỹ Tho thấy sóng xô, nước đẩy, Bước lên bờ Rạch Miễu thấy nước chảy, cây xanh, Anh biết chắc nơi đây là đất Châu Thành, Sao tìm hoài không thấy trong đám bộ hành bóng em. Cha mẹ tôi già như đèn cháy nhấp nhem, Bổn phận tôi là gái, mấy đứa em còn khờ.

1. Bạc với vàng còn đeo còn đỏ, Hai đứa mình còn nhỏ, còn thương. Trách ai đem khóa khóa rương, Khóa rồi lại mở cang thường của tôi.

2. Bao giờ cầu nọ hết quay,

Thì qua với bậu mới đứt dây cang thường.

3. Chẳng tham rộng ruộng lớn vườn, Ham vì nhơn ngãi, cang thường mà thôi.

4. Cũng nhờ cô bác đôi bên,

Mỗi người một tiếng mới nên cang thường.

131.

Cang thường

5. Đêm nằm lưng chẳng bén giường, Còn lo một nỗi cang thường chưa xong. 6. Hai đứa mình vịn lấy cành dương, Dầu cành có gãy, cang thường đừng xa. 7. Mưa sa lác đác, gió táp lạnh lùng, Thấy em lao khổ, anh mủi lòng nhớ thương. Đàng đi biết mấy dặm trường, Hỏi em đã kết cang thường đâu chưa? 8. Qua không ham rộng ruộng lớn vườn, Ham vì nhân ngãi, cang thường mà thôi. 9. Tiếc công anh lên xuống đêm hôm, Nát bờ cỏ chỉ mà chẳng nên cang thường.

179 180 214 243 259 294 325 358 390 435 443

324

Cang vân

132.

409

Canh tư

133.

Cao cường

134.

317 392

204

Cao ly

135.

42

10. Đạo cang thường khó lắm ai ơi, Chẳng như ong bướm đậu rồi lại bay. Cang thường không dễ đổi thay, May nên võng giá, rủi ăn mày cũng ưng. 11. Một ngày cũng đạo cang thường, Huống chi năm bảy tháng trường tơ duyên. Muốn trong, bậu uống nước dừa, Muốn nên cơ nghiệp bậu chừa cang vân. Trống canh tư điểm đã từ lâu, Người về bên ấy đừng sầu đừng thương. 1. Mặt trời đỏ tợ lửa đốt, Mặt trăng tươi tốt tợ bông hường. Lấy chồng lựa người chữ nghĩa văn chương, Quang minh trí huệ cao cường hơn em. 2. Tiếng anh ăn học cao cường, Đố anh có biết cỏ vườn mấy cây? Em về em đổ lư hương, Đếm tro mấy hột, cỏ vườn mấy cây. Cao ly sắc với ngưu hoàng, Uống không mát dạ bằng thiếp với chàng gặp nhau.

1. Khăn xanh có mí hai đầu, Nửa thương cha mẹ, nửa sầu căn duyên.

Căn duyên

136.

302 311 324 337 340 353 353 431 465

43

2. Lỗi căn duyên như đờn lỗi nhịp, Biết bao giờ cho hiệp phụng loan. 3. Muốn lên mà hỏi chị Hằng, Căn duyên đã bén, dùng dằng tại đâu? 4. Ngồi buồn giả chước đi câu, Cá ăn không giựt, mang sầu căn duyên. 5. Nhạn cắn thơ bay về bãi bển, Anh với nàng đã bén căn duyên. 6. Phải căn duyên nhà lá cột chà là, Không phải căn duyên nhà ngói đôi ba tòa cũng không ham. 7. Phải căn duyên anh không kén không lừa, Đám mây kia đông đặc, gió đùa cũng tan. 8. Choàng qua cổ bạn khóc ròng, Căn duyên không tính để lầm vòng thương. Vợ chồng là đạo tao khương, Trách bà nguyệt lão vấn vương không thành. 9. Lưu ly nửa nước nửa dầu, Nửa thương cha mẹ nửa sầu căn duyên.

Căn nguyên

140-150

137.

Căn phần

177

138.

Cần mẫn

186

139.

Cẩn phong

140.

Thắng Hóa Quang trở về Quang Hóa, Bạn hiền ta trở lại Hà Tiên, Làm sao rõ được căn nguyên, Dầu sông, dầu biển đi liền tới nơi. Ba bốn nơi sang cả, phụ mẫu em đành gả, Em chắp tay: khoan đã, chưa tới căn phần, Phụ mẫu em nói em bất tôn giáo hóa, đem treo cây bần cho kiến bu. Bấy lâu cần mẫn vườn đào, Tình xưa nghĩa cũ, nhớ chút nào hay không? 1. Đêm nằm day mặt trở ra, Ngày nay mới biết cô Ba thương mình, Mình giữ chữ Trung, chữ Hiếu, còn thiếu chữ Tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao đành vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương ngãi nhớ ở trong thơ này. Đôi ta chẳng đặng sum vầy, Cũng như chim nhạn lạc bầy kêu sương. Tôi xa mình cô bác đều thương, Trên trời vần vũ ngọn dương xoay vần. Dầu cho lạc Tấn qua Tần, Thương ai cũng để dành phần thương em. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi.

258

319

Cầu hôn

141.

373 373

326

Cầu thân

142.

Chí sĩ

296-297

143.

44

Ngã tư chợ Gạo muốn hồi, Tôi chồng mình vợ còn ngồi thương ai. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gởi thơ về thăm anh? 2. Mình giữ chữ trung, chữ hiếu, Còn thiếu chữ ân tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương nghĩa nhớ ở trong thơ này, Xem thơ nước mắt nhỏ đầy, Thương tôi đừng gởi thơ này làm chi. Nhện giăng trướng án bố vi, Hai đứa mình chồng vợ sợ chi tiếng đồn. 1. Một mai phân rẽ bá tòng Đèn hương đôi ngọn chữ bá tòng cầu hôn. 2. Tay bưng quả nếp vô phòng, Đèn hương đôi ngọn chữ bá tòng cầu hôn. Nàng về thưa lại mẹ hay, Có thương anh sẽ định ngày cầu thân. Hỏi anh: ai phò Đường quốc, Ai ở đất nhà Châu, Ai cày ruộng Thuấn, Ai câu Thạch Bàn, Ai giết vợ làm quan, Ai chôn con ấu tử đặng vàng trời cho, Ai mà đọc sách liền pho, Trai như anh đối đặng, gái em lo kết nguyền. Đời nhà Tiết thờ Đường quốc, Hoàng Phi Hổ ở đất nhà Châu, Hy Giang cày ruộng Thuấn, Thái Công Vọng đi câu Thạch Bàn, Ngô Khởi giết vợ làm quan, Quách Cự chôn con ấu tử đặng vàng trời cho, Chí sĩ đọc sách liền pho, Trai nam nhi anh đối đặng, gái em lo thế nào?

Chỉ thiên

144.

239 239

1. Con rắn hổ mang nằm trên cây thục địa, Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên. Tôi trách anh bạn đảo điên, Gạt em xuống chốn huỳnh tuyền bỏ em 2. Con rắn hổ mây nằm trên cây thục địa, Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên. Phận em là gái thuyền quyên, Ai mà đối đặng kết nguyền phu thê.

Chia ly

Anh ơi, hai mái đầu xanh có tội tình chi mà chia

167

145.

45

ly nam bắc, Để em một mình gan thắt ruột đau.

1. Cá sặt mà rượt cá rô,

Ăn nói xô bồ chẳng biết trước sau. Anh ơi đừng có chiêm bao, Ai dốt hồi nào anh dám chê khen, Tuy em chữ nghĩa nhấp nhem, Anh không đối đặng ai thèm ưng anh. 2. Đèn tọa đăng để trước bàn thờ, Vặn lên nó tỏ, vặn xuống nó lờ, Xuống sông hỏi cá, lên bờ hỏi chim, Trách ai làm thố nọ xa tiềm, Em xa người nghĩa, nằm điềm chiêm bao.

3. Đêm nằm tơ tưởng tưởng tơ,

Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.

Chiêm bao

146.

4. Đêm nằm trằn trọc tưởng tơ,

Chiêm bao thấy bạn dậy rờ chiếu không. 5. Tôi hò với anh tối tôi nằm chiêm bao, Thấy anh đứng đàng sau kêu bớ nàng bịn rịn. Tay tôi khoát mí mùng, tay tôi vịn người thương, Vịn vai anh tỏ nỗi đoạn trường, Niềm chồng vợ dứt đi bao nỡ, Vừa tỉnh giấc tôi biết rằng mình mớ, Tỉnh giấc rồi kêu bớ tình thương. 6. Ngồi buồn tơ tưởng tưởng tơ,

201-202 254 260 260 395 445

Chiêm bao thấy bậu, dậy rờ chiếu không.

Chính chuyên

147.

1. Anh cũng đã hay, Người ngay không ở quấy, Gái chính chuyên chẳng lấy hai chồng. Biết em buông mối chỉ hồng, Tiếc cho anh đi chậm, nên đứng ngoài phòng bơ vơ.

2. Sư tử ngồi giữ lư đồng,

158 371

Chính chuyên cho lắm, không chồng cũng hư.

489

Chính tà

148.

Đường dài mới biết ngựa hay, Việc lâu mới biết lòng ai chính tà.

1. Qua với bậu thương nhau dĩ bỏ, Nói ra bỡ ngỡ để bụng sợ đau. Dầu cho không trước thời sau, Nguyện lòng chung hiệp, bỏ nhau sao đành.

Chung hiệp

149.

359 359

2. Qua với bậu thương nhau dĩ bỏ, Nói ra bỡ ngỡ để bụng sợ đau. Dầu cho không trước thời sau, Nguyện lòng chung hiệp, bỏ nhau sao đành.

Chung tình

1. Biên Hòa xứ bưởi thanh thanh,

150.

46

Có cô bán bưởi xinh xinh hữu tình, Anh đây lên thác xuống ghềnh, Đá mòn sông cạn, quyết chung tình với em. 2. Anh than rằng vợ con chưa có, Em bước vô nhà thấy ai nằm đó? Bớ anh chung tình! Em thương anh để dạ, sợ anh bạc tình bỏ ai. 3. Anh thương em phải thương cho trót, Anh không bỏ sót cái nghĩa chung tình, Anh thương em thì anh để dạ chứ gái đa tình chắc em chẳng thương anh. 4. Bát nước trong còn gợn sóng rung rinh, Đôi ta gá ngỡi chung tình. Dầu ai dèm xiểm chúng mình, mặc ai. 5. Bước lên đất sựp bờ sình, Lời giao ngôn tôi hứa lỡ, chung tình tôi phải ra đi. 6. Cầu cao ván yếu gập ghềnh, Chân lần, tay dắt chung tình đi qua. 7. Chết tôi tôi chịu, xin đừng bận bịu bớ điệu chung tình, Con nhạn bay cao khó bắn, cá ở ao quỳnh khó câu. 8. Cô kia xay gạo một mình, Cho anh xay với chung tình cùng nhau. 9. Dế ngâm sầu nhiều câu rỉ rả, Nhớ anh chung tình, thức cả đêm đông. 10. Đón ngang đường tắt hỏi gắt bạn chung tình, Bướm xa bông tại nhụy, tôi xa mình tại ai? 11. Đường đi đất sụp bờ sình, Giao ngôn lỡ hẹn chung tình phải đi. 12. Em đau tương tư nằm tại phòng huỳnh, Kẻ thăm người viếng sao không thấy anh chung tình vãng lai. 13. Em đi ngang bờ cái, em ngó ngoái bờ đình, Ai đi giống dạng anh chung tình của em. 14. Gió thổi hiu hiu, lục bình trôi ríu ríu, Anh đừng bận bịu bớ điệu chung tình, Nhạn bay cao khó bắn, cá ở ao quỳnh khó câu. 15. Hồi nào vịn vế kề vai, Bây giờ anh bỏ trần ai một mình. Cảm thương lời nói chung tình, Một trăm năm cũng để phòng huỳnh chờ em. 16. Mặc cho cha đánh mẹ treo, Đứt dây rớt xuống cũng theo chung tình. 17. Năm ngoái em còn e còn ngại,

133 169 170 181 196 206 215 240 246 264 272 275 275 290 299 316 327

339 345 347 356 401 402 410 413

286

Cô đơn

151.

Cô hồn

165-166

152.

47

Năm nay em kêu đại bằng mình, Áo bà ba nút ốc chung tình ai may? 18. Nghiêng vai giã bạn tách mình, Rưng rưng giọt lệ chung tình phân hai. 19. Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn, Cửa Hàm Luông mây cuốn cánh buồm xuôi. Bậu với qua hai mặt một lời, Trên có trời, dưới có đất, Ngãi trăm năm vương vất sợi tơ mành. Tử sanh, sanh tử chung tình, Dầu ai săn đón, tôi với mình cứ thương. 20. Nước giữa dòng khi trong khi đục, Người ở đời khi cực khi vinh. Anh thấy em ít nói, làm thinh, Anh mừng thầm trong bụng, muốn chung tình với em. 21. Phòng loan trải chiếu rộng thình, Lăn qua lộn lại có một mình, anh ơi! Đau gan đau phổi em chịu không có nổi, nhớ anh chung tình, Thuốc thang ráng mà chạy chữa để hai đứa mình đừng xa nhau. 22. Trải chiếc chiếu ra, Em ngồi một góc, anh một góc, Anh than, em khóc, mình thấy không mình. Hai vầng nhật nguyệt rành rành, Sao bây giờ anh dứt đoạn chung tình bỏ em? 23. Trăm năm ước hẹn chung tình, Trên trời dưới đất chỉ mình với ta. 24. Tôi rầu thiên tư năm bảy chuyện bằng đình, Để tôi rầu hết anh chung tình thảnh thơi. 25. Vái ông tơ năm ba chầu hát, Vái bà nguyệt năm bảy cuốn kinh, Cho đó với đây có nghĩa chung tình, Dầu ăn cơm quán ngủ đình cũng ưng. Gió đông em sợ lạnh lùng, Đêm đông em sợ chiếu mùng cô đơn. Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài, Lấy thép ra mài, uốn câu nồi gọ. Đêm hôm lọ mọ, Xe sợi nhợ săn. Buộc chặt vào cần, Móc mồi thơm phức. Vội ra ngoài bực, Lựa chỗ anh ngồi. Thả câu xuống rồi, Miệng anh thầm vái.

Cô phòng

153.

282 300

398

Cố cựu

154.

391

Công lao

155.

156.

Công phu

465 496 500

430

Công tử

157.

163

Cốt nhục

158.

491

Cơ cực

159.

Cơ đồ

160.

152 395

48

Cần câu nhơn, Cần câu ngãi. Cần câu phải, Cần câu khôn. Ân ai các đấng cô hồn, Đuổi con cá nọ chạy dồn ăn câu. 1. Gặp được lúc đêm thanh trăng tỏ, Hát hò chơi cho rõ nhân tình. Phòng loan thục nữ một mình, Hay là đã sẵn duyên tình cùng ai ? Vẳng nghe ai hát, lòng đây bát ngát thêm phiền, Cô phòng giữ dạ thuyền quyên, Chờ người nhơn nghĩa em nguyền trao thân. 2. Kẹo Mỏ Cày năm đồng một kí, Đường Giồng Trôm một kí năm đồng. Em đi bán đi buôn mong kiếm một tấm chồng, Để đêm năm canh con gà gáy sáng, chốn cô phòng đỡ lẻ loi. Tới đây dây vắn gàu thưa, Hỏi người cố cựu giếng xưa ai đào? Tiếc công lao đào ao thả cá, Bao tháng chầy người lạ đến câu. 1. Lên chùa thấy Phật muốn tu, Về nhà thấy mẹ, công phu chưa đền. 2. Muốn đi tu công phu chưa có, Muốn lên chùa chuông mõ cũng không. 3. Tiếc công phu tôi che cây dù tráng án, Che mấy năm trời cũng nắm cán dù không. Chim khôn kiếm nơi mà đậu, Gái khôn chọn nơi nhân hậu mà nhờ, Đừng ham lấy công tử bột dật dờ tấm thân. Anh em cốt nhục đồng bào, Vợ chồng là đạo, lẽ nào chẳng thương. Gừng già gừng rụi càng cay, Anh hùng cơ cực càng dày nghĩa nhơn. 1. Trai tứ chiếng, gái giang hồ, Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên. 2. Tôi theo anh lập lấy cơ đồ, Để sau thác xuống mả mồ ấm cao.

Cơ hàn

161.

222 322 356 477

Cơ nghiệp

162.

220 324

Cù lao

163.

147 180 229 241 394 411 468 470 470

242

Cúc thủy

164.

49

1. Chim khôn đừng nệ kiểng tàn, Gái khôn đừng thấy trai cơ hàn mà xa. 2. Một trăm con gái Thủ, Một lũ con gái chợ anh không màng, Cảm thương con gái ruộng cơ hàn nắng mưa. 3. Phận tuy rách rưới cơ hàn, Bướm ong chẳng chịu chàng ràng bên tai. 4. Cảm thương con dế trong hang, Nắng mưa chẳng ngại cơ hàn quản bao. 1. Chim bay về cội, cá lội về rừng, Muốn nên cơ nghiệp thì đừng bỏ em. 2. Muốn trong, bậu uống nước dừa, Muốn nên cơ nghiệp bậu chừa cang vân. 1. Quê em hai dải cù lao, Có dừa ăn trái, có cau ăn trầu. Quê anh có cửa biển sâu, Có ruộng lấy muối, có dâu nuôi tằm. 2. Bao giờ cho sóng bỏ gành, Cù lao bỏ bể thì anh bỏ nàng. 3. Chừng nào cho vực xa cồn, Cù lao xa biển, chúng mình mới không còn gần nhau. 4. Cù lao mới nổi, Không cho ghe vội cắm sào, Vườn quê mới lập, lựu với đào còn non. 5. Tôi còn thương bạn, bạn ơi, Nỡ nào người nghĩa dứt đôi cho đành. Chừng nào cho sóng bỏ gành, Cù lao bỏ biển, anh mới đành xa em. 6. Tôi thương mình chín chữ cù lao, Còn chút xíu nữa tại sao không thành? 7. Niềm kim thạch, nghĩa cù lao, Bên tình bên hiếu ở sao cho tuyền. 8. Ru con con ngủ cho hời, Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi. 9. Thương thay chín chữ cù lao, Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình. Cúc mọc dưới sông kêu rằng cúc thủy, Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa. Gởi thơ thăm hết mọi nhà, Trước thăm ba má, sau là thăm em.

Cưu mang

165.

462 469

1. Công cha ba năm tình thâm lai láng, Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang. Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn, Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ. 2. Ơn cha nặng lắm ai ơi, Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.

Cửu chương

166.

181 181

Cửu Long

167.

146 345

418

168.

Cửu Long giang

50

1. Bảy với ba tính ra một chục, Tam tứ lục coi lại cửu chương, Liệu bề đát được thì đươn, Đừng gây rồi bỏ thế thường cười chê. 2. Bảy với ba tính ra một chục, Tam tứ lục coi lại cửu chương, Liệu bề thương được thì thương, Đừng trao gánh nặng giữa đường cho em. 1. Ở đâu sáu tỉnh anh ơi, Sông nào chín ngọn cùng khơi một nguồn? Sông nào có nước trong luôn, Núi nào danh tiếng cả muôn dặm ngoài? Con gì có cánh không bay, Con gì không cẳng chạy bay năm rừng? Con gì giống chó có sừng, Anh mà đáp được em cùng theo anh. Nam Kỳ sáu tỉnh em ơi, Cửu Long chín ngọn cùng khơi một nguồn. Sông Hương có nước trong luôn, Núi Ngự danh tiếng cả muôn dặm ngoài. Con gà có cánh không bay, Con rắn không cẳng chạy bay năm rừng. Con dê giống chó có sừng, Anh đây đáp được nàng cùng theo anh. 2. Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn, Cửa Hàm Luông mây cuốn cánh buồm xuôi. Bậu với qua hai mặt một lời, Trên có trời, dưới có đất, Ngãi trăm năm vương vất sợi tơ mành. Tử sanh, sanh tử chung tình, Dầu ai săn đón, tôi với mình cứ thương. Vườn thượng uyển thiếu chi chồi lan huệ, Nội thượng lâm đâu thiếu tược mẫu đơn. Bậu đừng nghĩ ngợi thiệt hơn, Rửa tai nghe lóng tiếng đờn tri âm. Đờn tri âm tiếng đơn, tiếng kép, Rao nhặt khoan tiếng thiếp tiếng chàng. Bậu về qua Cửu Long giang, Tình thương qua nhớ bậu, nỗi dạ càng xót xa.

Cửu lý hương

287

169.

Cửu trùng đài

128

170.

230

Cựu ngãi

171.

390

Danh hư

172.

476

Danh lợi

173.

287

Danh thơm

174.

428

Danh vọng

175.

325

Dặm trường

176.

477

Dân phu

177.

396

Diêm đình

178.

446

Diên biên

179.

333

Do hà

180.

51

Trách ai làm cách đôi ta, Đêm năm canh thổn thức vào ra thêm sầu. Chia tay gan thắt ruột bào, Đêm ngày than thở dầu bao canh tàn. Cúc đang xanh sao cúc vội tàn, Kiểng đương xanh sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai? Gió đưa cây cửu lý hương, Hai người hai họ mà thương nhau hoài. Anh lên Bảy Núi, Anh chạy thẳng Tà Lơn, Căn nợ keo sơn thấu đến ông trời, Trời cao đất thấp, Anh đến tam cấp lập cửu trùng đài, Thời hư khiến vậy, ráng lập hoài cũng nên. Chừng nào trời nọ bể hai, Bông vông màu trắng, mới sai lời thề. Sông sâu sóng bủa tứ bề, Trách người cựu ngãi chẳng hề vãng lai. Tiếc công chuốt ná lau tên, Nhạn bay về đền, công uổng danh hư. Cái vòng danh lợi cong cong, Kẻ mong ra khỏi, người trông chui vào. Gió đưa buồng hạnh rảnh rang, Tiếng nhơ thiếp chịu để chàng danh thơm. Cầu nào cao bằng cầu danh vọng, Nghĩa nào trọng bằng nghĩa chồng con. Ví dầu nước chảy đá mòn, Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương. Mưa sa lác đác, gió táp lạnh lùng, Thấy em lao khổ, anh mủi lòng nhớ thương. Đàng đi biết mấy dặm trường, Hỏi em đã kết cang thường đâu chưa? Cao su xanh tốt lạ đời, Mỗi cây bón một xác người dân phu. Tôi thương mình tôi giấu, Mà sao phụ mẫu hay thấu đòi bắt tôi ra biển Đông câu sấu, bớ mình! Trông trời mau sáng tôi đi, tôi than vài lời hơn thiệt, Chớ mình thác xuống diêm đình bặt tin. Nhớ ai vắng bóng, Tiếng trống xa xa, Như là chiếu triệu chồng ta, Diên biên người có biết là hay chăng? Ngó lên trên núi Điện Bà, Đôi ta mới ngộ, do hà biệt ly?

Dung nhan

380

181.

Dương gian

370

182.

Dương trần

276

183.

Dưỡng dục

469

184.

Dưỡng nuôi

185.

328 448

Duyên tình

282

186.

Đa mang

213

187.

Đa tình

170

188.

216

189.

Đại trượng phu

Đàm tiếu

252

190.

Đăng sơn

385

191.

52

Thấy em có chút dung nhan, Biết bao nhiêu kẻ chặn đàng đón truông. Mặc ai đón ngõ chặn đường, Em đây chỉ biết có thương một người. Sống ở dương gian không bắt được tay chàng, Thác xuống âm phủ em giở nắp hàng cho anh vô. Em đừng tham phú phụ bần, Bạc ngàn còn hết, nợ dương trần chưa xong. Ơn hoài thai như biển, Ngãi dưỡng dục tợ sông, Em nguyền ở vậy không chồng, Lo nuôi cha mẹ hết lòng đạo con. 1. Nên thì lập kiểng trồng hoa, Chẳng nên đá kiểng trồng cà dái dê. Chẳng nên thiếp trở lộn về, Dưỡng nuôi từ mẫu, trọn bề hiếu trung. 2. Ra đi lệ ứa hai hàng, Con thơ để lại cho chàng dưỡng nuôi. Gặp được lúc đêm thanh trăng tỏ, Hát hò chơi cho rõ nhân tình. Phòng loan thục nữ một mình, Hay là đã sẵn duyên tình cùng ai? Vẳng nghe ai hát, lòng đây bát ngát thêm phiền, Cô phòng giữ dạ thuyền quyên, Chờ người nhơn nghĩa em nguyền trao thân. Chàng đi Châu Đốc, Nam Vang, Nỗi sầu em chịu đa mang một mình. Anh thương em phải thương cho trót, Anh không bỏ sót cái nghĩa chung tình, Anh thương em thì anh để dạ chứ gái đa tình chắc em chẳng thương anh. Chí quân tử cửu châu lập nghiệp, Đại trượng phu tứ hải đi xa, Thương em vì nết hiền hoà, Thiếu chi người trong thiên hạ vậy mà anh không thương. Đèn hết dầu đèn tắt, Nhang hết nhụy hết thơm. Biểu anh đừng lên xuống đêm hôm, Thế gian đàm tiếu, thế thường cười chê. Thông kinh sử ấy phần nam tử, Giữ nết na là phận nữ nhi, Xử sao vẹn chữ xướng tùy, Tiếng ừ thì dễ, em lo nghì về sau. Miễn bậu đành ừ,

491

Đệ huynh

192.

233

Điếu công hầu

193.

493

Đạo ba

194.

Đạo đồng

195.

267 301

215

Đầu thai

196.

322

Đoái hoài

197.

53

Qua chẳng từ lao khổ, Dẫu đăng sơn tìm hổ, Dẫu nhập hải tróc long, Trước sau giữ trọn một lòng, Vào lòn ra cúi anh đành lòng theo em. Hò rao từ ngọn chỉ vàm, Ai mà đối đặng cất làm đệ huynh. Con cá nọ nó đã có cặp, Anh dẫu câu hoài chẳng gặp được đâu. Khuyên anh về sửa lại lưỡi câu, Bắt chước Lã Vọng điếu công hầu khá hơn. Làm sao giữ trọn đạo ba, Sau dầu có thác cũng là danh thơm. 1. Đờn cò lên trục kêu vang, Anh còn thương bạn, bạn khoan có chồng. Muốn cho nhân ngãi đạo đồng, Tôi đây thương bạn như chồng bạn thương. Chiều nay anh phải hồi hương, Xin em ở lại đừng gầy duyên nơi nào. 2. Khăn lau nước mắt ướt mem, Xuống lên không đặng vì em có chồng. Hai bên nhân nghĩa đạo đồng, Nghĩa em không phụ, đạo đồng em không quên. Chết hai năm thịt nát thành đồng, Đầu thai chim điểu, đậu nhành tùng kêu sương. Thương em, anh chẳng đoái hoài, Chờ cơn nước lớn đứng ngoài kêu van.

Đoạn trường

198.

159 343 395 450

421

Độc địa

199.

Đối diện

200.

344 414

234

Đôn hậu

201.

Đồng bào

202.

455 163

309

Đồng nội

203.

395

Đồng tâm

204.

343

Đồng thân

205.

223

Đức hạnh

206.

1. Anh dứt tình thương đoạn trường cho thiếp, Nhớ thương tha thiết, tội nghiệp cho em, Ôm sầu chất thảm ngày đêm, Năm canh nệm thúy ngăn nghiêng một mình. 2. Nhớ nhau lụy ứa hai hàng, Thương nhau luống những đoạn trường thiết tha. Bấy lâu nay sum hiệp một nhà, Nay đành phân ngả đôi ta thế này. Nhắc đến nhau chẳng chút dạ khuây, Hình dung khô héo ốm gầy thân em. 3. Tôi hò với anh tối tôi nằm chiêm bao, Thấy anh đứng đàng sau kêu bớ nàng bịn rịn. Tay tôi khoát mí mùng, tay tôi vịn người thương, Vịn vai anh tỏ nỗi đoạn trường, Niềm chồng vợ dứt đi bao nỡ, Vừa tỉnh giấc tôi biết rằng mình mớ, Tỉnh giấc rồi kêu bớ tình thương. 4. Thảm thiết thương đoạn trường xa cách, Dạ em sầu ai mách em hay? Xứ độc địa người đi ít lại, Chỗ hiểm nguy có vãng không lai. Anh đi phụ rẫy trúc mai, Bỏ em than vắn thở dài nhớ thương. 1. Nhứt nhựt vãng lai hằng ngày đối diện, Muốn phân đôi lời sợ miệng thế gian. 2. Vãng vãng lai lai thường ngày đối diện, Muốn phân đôi lời, sợ miệng thế gian. Con chim khôn kiếm nhành cây xanh nó đậu, Gái khôn kiếm trai đôn hậu làm chồng, Cô bác xa dòm ngó nói phụng với rồng sánh đôi. 1. Trúc hiệp cùng mai cho tài xứng sắc, Đêm hôm khuya khoắt, anh nói tắt một lời. Mẹ cha đồng đạo đất trời, Duyên ta sum hiệp trọn đời anh nuôi. 2. Anh em cốt nhục đồng bào, Vợ chồng là đạo, lẽ nào chẳng thương. Lên rừng hóa hổ về đồng nội hóa long, Trời xui đất khiến hai đứa con dòng gặp nhau. Tôi thương anh Sáu, sợ mất lòng anh Năm, Thôi thà thương hết đồng tâm hai người. Nhứt lê, nhì lựu, tam đào, Bên tình, bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân. Chim quyên đứng dựa bụi riềng, Kiếm nơi đức hạnh trai hiền gửi thân.

54

Đường quốc

296-297

207.

Gia cang

208.

243 398

163

Gia đàng

209.

166

Gia đường

210.

427

Gia tài

211.

211

Giá thú

212.

Giải sầu

213.

366 415

320

Gian lao

214.

55

Hỏi anh: ai phò Đường quốc, Ai ở đất nhà Châu, Ai cày ruộng Thuấn, Ai câu Thạch Bàn, Ai giết vợ làm quan, Ai chôn con ấu tử đặng vàng trời cho, Ai mà đọc sách liền pho, Trai như anh đối dặng, gái em lo kết nguyền. Đời nhà Tiết thờ Đường quốc, Hoàng Phi Hổ ở đất nhà Châu, Hy Giang cày ruộng Thuấn, Thái Công Vọng đi câu Thạch Bàn, Ngô Khởi giết vợ làm quan, Quách Cự chôn con ấu tử đặng vàng trời cho, Chí sĩ đọc sách liền pho, Trai nam nhi anh đối đặng, gái em lo thế nào? 1. Cũng vì một tiếng anh than, Nên em bỏ hết gia cang ở nhà. 2. Tới đây bỏ phế việc quan, Tới đây hò hát bỏ gia cang ở nhà. Anh gặp em vừa mừng vừa hỏi, Phụ mẫu ở nhà mạnh giỏi hay không? Tại gia đàng phụ mẫu em cũng được bình an, Em xin hỏi lại: phụ mẫu của bạn lang thế nào? Anh ngó vô nhà nhỏ, Thấy có đôi liễn đỏ, Có bốn chữ vàng, Gia đường chưa biết, thấy nàng vội thương. Cầm chài mà vãi vô nia, Cưới con bá hộ đặng chia gia tài. Cậy người giá thú trao lời, Đôi ta sum hợp, ơn người tạ ơn. 1. Sông cách sông, thủy cách thủy, Anh thương em, anh xe sợi chỉ, anh bắc cây cầu, Để em qua lại giải sầu với anh. 2. Ví dầu bậu đó qua đây, Chẳng cho qua lại một giây giải sầu. Miễn bậu chịu ừ, qua chẳng từ lao khổ, Dẫu đăng sơn tróc hổ hay quá hải đồ long, Trước sau giữ trọn một lòng, Gian lao chi sá, anh quyết cùng theo em.

Gian nan

215.

226 245 483

Giang đông

311

216.

56

1. Chổi tiên quét sạch sân thần, Gẫm qua với bậu lắm phần gian nan. 2. Dây lăng leo hút nhánh tay bèo, Gian nan em không sợ, sợ nghèo anh bỏ em. 3. Con chim ham ăn còn mắc cái tròng, Người mà ham của sao khỏi mắc vòng gian nan. Lỡ bước giang đông, lỡ vòng tình ái, Trách ai về, gạt gái nữ thanh, Đêm nằm em trách ông trời xanh, Ổng sắp làm chi anh đầu non, em góc núi, Để kẻ đi tắt người về quanh một mình.

Giang hà

217.

285 286 367 490

1. Giấy Tây bán mấy, Mua lấy một tờ, Đề thơ quốc ngữ, Dán lên trái bưởi, Thả xuống giang hà, Cả kêu người nghĩa trong nhà, Xuống sông vớt bưởi lên mà xem thơ. 2. Gió đẩy gió đưa cho vừa lòng bạn, Con sông giang hà khúc cạn khúc sâu. 3. Sông giang hà chảy ra biển rộng, Bắc đẩu Tinh quay ngóng chầu trời. Tôi thương mình lắm mình ơi, Biết sao kể nỗi khúc phôi ở mình. 4. Gió đẩy gió đưa cho vừa lòng bạn, Sông giang hà chỗ cạn chỗ sâu.

Giang hồ

152

218.

Giang san

443

219.

Giang sơn

448

220.

Giang tân

476

221.

Giao đầu

222.

Trai tứ chiếng, gái giang hồ, Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên. Một mai bóng xế về quê, Giang san để lại hiền thê giữ gìn. Rương xe, chìa khóa em cầm, Giang sơn em gánh, nợ nần em lo. Bình bồng ở giữa giang tân, Bên tình bên nghĩa biết phân bên nào. 1. Có chồng về đất Mỹ Thanh, Nhà xây cột chạm ba bốn con rồng xanh giao đầu. 2. Hạc giao đầu, phụng lại giao đuôi, Anh về ở dưới bỏ tôi một mình. Nước trôi cuốn cụm lục bình, Anh đi sông biển biểu em đừng nhớ thương? 3. Nhạn kêu sương, cò đương ngóng cổ, Phụng giao đầu, hạc đỗ nhành mai. Làm trai cho đáng sức trai, Áo vải bận ngoài, áo lụa bận trong.

230 292 341 362

4. Rồng giao đầu, phụng giao đuôi, Nay tui hỏi thiệt mình thương tui không mình?

Giao đuôi

223.

292 362 376

172

Giao duyên

224.

316

Giao hòa

225.

180

Giao hoan

226.

320

Giao ngãi

227.

57

1. Hạc giao đầu, phụng lại giao đuôi, Anh về ở dưới bỏ tôi một mình. Nước trôi cuốn cụm lục bình, Anh đi sông biển biểu em đừng nhớ thương? 2. Rồng giao đầu, phụng giao đuôi, Nay tui hỏi thiệt mình thương tui không mình? 3. Thằn lằn chắc lưỡi giao đuôi, Nghe em có chốn, nghĩ phận tôi tôi buồn. Anh về dọn dẹp phòng loan, Mười ba nhóm họ, bữa rằm giao duyên. Mắc giàng đổ lúa vô xay, Xay rồi cối lúa, hai đứa bắt tay giao hoà. Bao giờ cho đặng sum vầy, Giao hoan đôi mặt dạ này mới vui. Mịt mù gió thổi cát bay, Một lời giao ngãi ngàn ngày nhớ thương.

Giao ngôn

228.

196 272 312

1. Bước lên đất sụp bờ sình, Lời giao ngôn tôi hứa lỡ, Chung tình tôi phải ra đi. 2. Đường đi đất sụp bờ sình, Giao ngôn lỡ hẹn chung tình phải đi. 3. Lời giao ngôn đá nát vàng phai, Dặn em đừng nhẹ dạ thương ai bao giờ.

Giao ước

229.

405 405

211

Giáp mặt

230.

412

Giáp Thìn

231.

348

Giọt châu

232.

339

Giọt lệ

233.

283

Hà cơ

234.

306

Hà cớ sự

235.

1. Trên trăng dưới nước, anh giao ước một lời, Dẫu trăng lờ nước cạn chẳng đời phụ em. Trời cao đất rộng, em vọng lời nguyền, Đất trời còn đó, em giữ tuyền thủy chung. 2. Trên trăng dưới nước, anh giao ước một lời, Gởi thơ sợ ướt, gởi lời sợ quên. Bấy lâu nay duyên nợ cheo cư, Tôi ôm lòng tư đợi người quân tử, Ngày nay giáp mặt nọ rồi như guộng chỉ tơ. Từ năm bão lụt Giáp Thìn, Đến nay trôi nổi mới nhìn được em. Nước ngã ba chảy ra Giồng Dứa, Nghe giọng em hò anh ứa giọt châu. Nghiêng vai giã bạn tách mình, Rưng rưng giọt lệ chung tình phân hai. Gặp em đây giữa chốn hà cơ, Cắn móng tay lấy máu đề thơ gởi về. Kiểng xanh nhỏ lá mau tàn, Do hà cớ sự bạn vàng xa anh? Anh ngồi quạt quán Bến Thành,

166

Hành khách

236.

132

Hằng hà

237.

58

Nghe em có chốn anh đành quăng om. Anh ngồi quạt quán Bà Hom, Hành khách chẳng có đá om, quăng lò. Bến Tre nước ngọt lắm dừa, Ruộng vườn màu mỡ, biển thừa cá tôm, Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn, Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày, Xoài chua, cam ngọt Ba Lai, Bắp thì Chợ Giữa, giồng khoai Mỹ Hòa, Mắm bần ven bãi phù sa, Bà Hiền Tân Thủy hằng hà cá tôm, Quýt đường, vú sữa ngổn ngang, Dừa xanh Sốc Sãi, tơ vàng Ba Tri, Xẽo Sâu cam tốt ai bì, Lúa vàng Thạnh Phú, khoai mì Thạnh Phong, Muối khô ở Gảnh mặn nồng, Giồng Trôm, Phong Nẫm dưa đồng giăng giăng.

Hậu lai

238.

292 293 482

1. Hai đứa mình gá nghĩa bữa nay, Tiền nhựt em nói vậy, còn hậu lai thế nào? Anh dứt lời than em ruột thắt gan bào, Anh đi về bển, em vô phòng đào nước mắt rơi. 2. Hai đứa mình như nước rộng trong chai, Tiền nhật anh nói vậy, không biết hậu lai thế nào? 3. Chữ rằng hổ tử lưu bì, Làm người phải để danh gì hậu lai.

Hiểm nghèo

239.

230 294 353 492

421

Hiểm nguy

240.

357

Hiền lương

241.

1. Cỏ mọc bờ giếng cheo leo, Lâm nguy có bậu, hiểm nghèo có qua. 2. Hàm Luông sông sâu, sóng cả, Em thương anh nhiều mà chẳng dám theo. Thương anh đâu quản hiểm nghèo, Ngặt vì một nỗi: Anh đã có mèo theo sau. 3. Phải chi anh chưa vợ, Hãy còn nợ còn duyên, Em cũng cậy yên, như thuyền cậy lái. Ai ngờ phận gái, như lái nghịch chèo, Khuyên anh hãy giữ lấy lèo, Đừng ham thả lỏng hiểm nghèo có khi. 4. Hươu kia đã trót mắc chà, Khi vào thì dễ, khi ra hiểm nghèo. Xứ độc địa người đi ít lại, Chỗ hiểm nguy có vãng không lai. Anh đi phụ rẫy trúc mai, Bỏ em than vắn thở dài nhớ thương. Phụ mẫu đánh em xương tan thịt nát, bỏ xác xuống đường mương,

59

Anh đấng làm trai thông minh trí hụê sao để gái hiền lương bị đòn?

242.

Hiền thê

148 441 443

1. Sài Gòn mũi đỏ, Gia Định súp lê, Giã hiền thê ở lại lấy chồng, Thuyền anh ra cửa như rồng lên mây. 2. Lâu ngày nhìn mặt còn sai, Hiền thê đứng đó tưởng ai quên chào. 3. Một mai bóng xế về quê, Giang san để lại hiền thê giữ gìn.

Hiển vinh

243.

262 424

Hiệp cẩn

252

244.

Hiệp hòa

245.

279 309

318

Hiệp nghĩa

246.

Hiệp tan

226

247.

Hiệp ý

272

248.

Hiếu hạnh

275

249.

Hiếu trung

250.

220 328 463

1. Đi ra có cặp lọng vàng, Hiển vinh ba má, rỡ ràng đôi ta. 2. Anh thác rồi, đặng chữ hiển vinh, Để em ở lại linh đinh một mình. Đèn loan hiệp cẩn trong phòng, Trăm năm chí quyết bá tòng gầy duyên. 1. Em vái ông tơ vài ve rượu thiệt, Cầu bà nguyệt năm bảy con gà, Xui cho đôi lứa hiệp hòa, Sau em trả lễ đặng mà đáp ơn. 2. Linh đinh không cửa không nhà, Thương nhau phải ráng hiệp hoà lứa đôi. Mây trên trời, bủa giăng tứ phía, Nước ngoài biển, sóng dợn tứ bề. Biết làm sao cho hiệp nghĩa phu thê, Đó chồng, đây vợ ra về có đôi. Chợ Bến Thành dời đổi, Người sao khỏi hiệp tan, Xa gần giữ ngãi tao khang, Chớ tham quyền quý phụ phàng nghĩa xưa. Đường mương nước chảy, con cá nhảy, con tôm nhào, Hai đứa mình hiệp ý, ba má nào không thương. Em để chế cho ai mà tóc mai rành rạnh, Em để chế cho cha mẹ chồng hiếu hạnh của em. 1. Chiều nay em ra sông Cái, Em tự ải cho rồi, Sống làm chi biệt ly quân tử, Thác cho rồi đặng chữ hiếu trung. 2. Nên thì lập kiểng trồng hoa, Chẳng nên đá kiểng trồng cà dái dê. Chẳng nên thiếp trở lộn về, Dưỡng nuôi từ mẫu, trọn bề hiếu trung. 3. Đói lòng ăn bát cháo môn, Để cơm nuôi mẹ cho tròn hiếu trung.

Hình dung

251.

178 343 369

60

1. Ba năm tượng rách còn thờ, Hường nhan như bậu ngó bề đứng côi. Anh đừng nói vậy anh ơi, Hình dung khô héo có đôi ba người. 2. Nhớ nhau lụy ứa hai hàng, Thương nhau luống những đoạn trường thiết tha. Bấy lâu nay sum hiệp một nhà, Nay đành phân ngả đôi ta thế này. Nhắc đến nhau chẳng chút dạ khuây, Hình dung khô héo ốm gầy thân em. 3. Sông sâu sóng bủa láng cò, Thương em vì bởi câu hò có duyên. Chưa chồng ở vậy cho nguyên, Đặng anh chọn chiếc thuyền quyên rước về. Thấy em da trắng muốn kề, Hường nhan cũng đẹp sợ bề có đôi. Anh đừng nói vậy anh ơi, Hình dung yểu điệu có đôi bao giờ.

360

Hỏa lò

252.

469

Hoài thai

253.

Hoài vọng

254.

436 448

217

Hoạn dưỡng

255.

Quần anh thêu cù lần, Áo anh thêu phụng lộn, Hàm răng anh lớn xộn, Con mắt quá to, Cái miệng hỏa lò, Nghe giọng hò phát ghét. Ơn hoài thai như biển, Ngãi dưỡng dục tợ sông. Em nguyền ở vậy không chồng, Lo nuôi cha mẹ hết lòng đạo con. 1. Đèn nào cao bằng đèn ông Chánh, Bánh nào trắng bằng bánh bò bông. Đạo nào thâm bằng đạo vợ chồng, Đêm năm canh hoài vọng nước mắt hồng đầy vơi. 2. Sao hỡi sao, sao chưa có mọc, Sao mọc bên bắc, nước mắt bên đông. Biết thuở nào cho gặp mặt chồng, Đêm khuya em hòai vọng, nước mắt hồng tuôn rơi. Chiếc tàu Nam Vang chạy ngang Cồn Cát, Xuồng câu tôm đậu sát nhành da, Thấy em có chút mẹ già, Muốn vô hoạn dưỡng biết là đặng không?

Hoạn lộ

256.

171

164

Hoạnh tài

257.

Học trò

258.

241 393 289 492

232

Hồ văn

259.

267

Hồi hương

260.

Hồi quân

261.

305 410

283

Hội ngộ

262.

185

Hồng nhan

263.

61

Anh thương em, Thương lún thương lụn, Thương lột da óc, Thương tróc da đầu, Ngủ quên thời nhớ, Thức dậy thời thương Giục ngựa bươn cương, Trên đường hoạn lộ, Trời hỡi trời! Sao nỡ xa nhau. Anh ham giàu là anh ham dại, Của hoạnh tài, người lại mau hư. 1. Công dã tràng thường ngày xe cát, Sóng ba đào, ai xét công cho. Tiếng anh nho sĩ học trò, Thấy sông vội lội, không dò cạn sâu. 2. Tiếng anh nho sĩ học trò, Sao anh cạn dạ không dò ý em. 3. Gió nam non thổi lòn hang dế, Tiếng anh học trò mưu kế để đâu? Mưu kế anh để ở nhà, Ai dè em hỏi để mà đem theo. 4. Học trò ăn vụng cá kho, Ông thầy bắt được đánh mo lên đầu. Con cá lia thia nằm trong chậu cúc, Quạt đuôi tứ túc bốn chữ hồ văn, Anh chê em duyên nợ không bằng, Kiếm nơi nào khác cho bằng lòng anh. Đờn cò lên trục kêu vang, Anh còn thương bạn, bạn khoan có chồng. Muốn cho nhân ngãi đạo đồng, Tôi đây thương bạn như chồng bạn thương. Chiều nay anh phải hồi hương, Xin em ở lại đừng gầy duyên nơi nào. 1. Kiểng nhà thờ vội đổ, Trống thư bộ hồi quân. Nhìn anh nước mắt rưng rưng, Xuống lên không đặng vì chưng em có chống. 2. Trống trên lầu vội đổ, Chuông ngoài huyện hồi quân, Mặt nhìn em nước mắt rưng rưng, Phải chi hồi đó ai đừng biết ai. Gặp lúc trăng thanh gió mát, Thú nào vui bằng thú hát huê tình, Trời xui hội ngộ, hai đứa mình kết duyên. Bậu ra ngắm bóng bậu coi, Hồng nhan chi bậu mà đòi cửa cao.

Hợp tan

431

264.

Huê tình

265.

283 293

Huyễn hoặc

249

266.

Huyên thiên

369

267.

Huỳnh tuyền

239

268.

Chợ Bến Thành dời đổi, Người sao khỏi hợp tan, Xa gần giữ nghĩa tao khang, Chớ tham nơi quyền quý phụ phàng bạn xa. 1. Gặp lúc trăng thanh gió mát, Thú nào vui bằng thú hát huê tình, Trời xui hội ngộ, hai đứa mình kết duyên. 2. Hai đứa mình ngồi xuống một ghe, Khoan khoan chèo chậm để nghe huê tình. Đất Châu Thành nam thanh nữ tú, Trong vườn thú đủ các thứ chim. Em trách ai non dạ kiếm tìm, Những lời huyễn hoặc nỗi niềm tóc tơ. Sông Tiền cá lội huyên thiên, Lòng anh muốn bắt con cá lội riêng một mình. Con rắn hổ mang nằm trên cây thục địa, Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên. Tôi trách anh bạn đảo điên, Gạt em xuống chốn huỳnh tuyền bỏ em.

62

Hường nhan

269.

178 189 192 368-369 382 399

307

Hữu duyên

270.

63

1. Ba năm tượng rách còn thờ, Hường nhan như bậu ngó bề đứng côi. Anh đừng nói vậy anh ơi, Hình dung khô héo có đôi ba người. 2. Bí lên ba lá, Trách ba với má, Không ngắt ngọn làm giàn, Để bí bò lan. Trách hường nhan, Vô duyên bạc phận, Duyên nợ gần không đặng xứng đôi. 3. Bông lài trộn lộn bông ngâu, Tiếc hường nhan bậu làm dâu bên Tàu 4. Sông sâu sóng bủa láng cò, Thương em vì bởi câu hò có duyên. Chưa chồng ở vậy cho nguyên, Đặng anh dọn chiếc thuyền quyên rước về. Thấy em da trắng muốn kề, Hường nhan cũng đẹp sợ bề có đôi. Anh đừng nói vậy anh ơi, Hình dung yểu điệu có đôi bao giờ. 5. Thấy em nhỏ thó, lại có hường nhan, Chân mày lân hai mắt lộ, Nội xứ này không ai ngộ bằng em. 6. Tới đây trước hỏi sau than, Xuân thu anh đáng mấy, hường nhan anh thế nào? Em hỏi anh gan ruột bào nhào, Thương em để bụng, chốn phòng đào còn lẻ đôi. Làm người có vợ có chồng, Mấy ai mà chịu phòng không đến già... Hữu duyên chẳng quản đường xa, Vô duyên dầu ở một nhà chẳng nên. Trăm năm giữ tấm lòng bền, Trọn đời tôi quyết chẳng quên mặt nàng.

Hữu tình

271.

132 133 182

1. Bến Tre phong cảnh hữu tình, Nước trong, gạo trắng, gái xinh, trai tài. 2. Biên Hòa xứ bưởi thanh thanh, Có cô bán bưởi xinh xinh hữu tình, Anh đây lên thác xuống ghềnh, Đá mòn sông cạn, quyết chung tình với em. 3. Bâng khuâng bát ngát câu hát hữu tình, Căn duyên tiền định, hai đứa mình gặp nhau.

Hữu ý

272.

192 304

Keo sơn

128

273.

Kết duyên

228

274.

Kết ngãi

256

275.

Kết nghĩa

276.

198 304 341

380

277.

Khách chương đài

Khách du

134

278.

Khổ lao

340

279.

Khôi hài

498

280.

Khốn nạn

359

281.

Kim lang

228

282.

Kim ngân

263

283.

1. Bông cúc ngả ngang con bướm vàng nhận nhụy, Thấy miệng em cười hữu ý anh thương. 2. Kiến bất thủ nhi tầm thiên lý, Thấy miệng em cười hữu ý anh thương. Anh lên Bảy Núi, Anh chạy thẳng Tà Lơn, Căn nợ keo sơn thấu đến ông trời, Trời cao đất thấp, Anh đến tam cấp lập cửu trùng đài, Thời hư khiến vậy, ráng lập hoài cũng nên. Chữ đồng thanh tương ứng, Câu đồng khí tương cầu, Dầu mưa, dầu gió mặc dầu, Kiếm nơi có nghĩa, anh hầu kết duyên. Đêm khuya nguyệt lặn sao thanh, Mình với tôi kết ngãi có thành hay không? 1. Bướm bay dưới dạ cây bần, Làm sao kết nghĩa Châu Trần với nhau. 2. Khúc sông quanh xuồng qua vàm Tháp, Bơi mải mê miệng ngáp biếng hò, Thấy cô cấy rấy buồn xo, Cùng anh kết nghĩa chuyện trò được không? 3. Nhạn nam én bắc, Con bay tắt, con bay vòng, Duyên gặp duyên không kết nghĩa, đóng cửa phòng đợi nơi đâu ? Thấy đó nói ra em đà hiểu ý, Muốn cho đào lý hiệp với trúc mai, Quản chi biển rộng sông dài, Ôm duyên em đợi khách chương đài bấy lâu. Cần Thơ gạo trắng nước trong, Đậm tình non nước gợi lòng khách du. Nhãn lồng trong bọc ngoài bao, Em thương đừng nệ khổ lao, bớ mình. Quần lủng đáy đi đâu xớ xớ, Áo rách te nói chuyện bốc chày. Thế gian lắm chuyện khôi hài, Hễ ăn được cá, tính bài bỏ nơm. Qua thương bậu lắm bậu ơi, Cá chết vì mồi khốn nạn thân qua. Chữ phú nằm trên chữ quý, Kim ngọc đối với kim lang. Cầm khăn lau mặt cho nàng, Xin đừng rơi lụy giữa đàng khó phân. Đó vàng đây cũng kim ngân, Đó đặng mười phân, đây chín có dư.

64

Kim ngọc

228

284.

Kim thạch

468

285.

Kỷ cang

250

286.

Kỷ trà

287.

232 334

Ký lục

496

288.

Lạc loài

147-148

289.

Lao khổ

290.

65

Chữ phú nằm trên chữ quý, Kim ngọc đối với kim lang. Cầm khăn lau mặt cho nàng, Xin đừng rơi lụy giữa đàng khó phân. Niềm kim thạch, nghĩa cù lao, Bên tình bên hiếu ở sao cho tuyền. Đất kỷ cang anh trồng hàng vạn thọ, Anh đi cưới vợ vườn về đọ với em. 1. Con cá đối nằm trên cối đá, Con chim đa đa đậu nhánh đa đa, Chồng gần không lấy lấy chồng xa, Một mai cha yếu mẹ già, Chén cơm ai xới, kỷ trà ai dâng? 2. Ngó lại đằng trước thấy bình tích nước, Ngó lại đằng sau thấy bộ kỷ trà. Anh thấy em có một mẹ già, Muốn vô phụng dưỡng biết là đặng không? Mười giờ ông Chánh về Tây, Cô Ba ở lại lấy chồng thông ngôn. Thông ngôn, ký lục bạc chục không màng, Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay. Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai, Nước sông sao lại chảy hòai, Thương người xa xứ lạc loài tới đây. Tới đây thì ở lại đây, Bao giờ bén rễ xanh cây lại về. 1. Bạc tình phú có Tơ ông, Dầu mà lao khổ, tôi không bỏ chàng. 2. Đá cheo leo trâu trèo trâu tuột, Ngựa trèo ngựa đổ, Tiếc công anh lao khổ tự cổ chí kim, Bao giờ đá nổi vông chìm, Muối chua chanh mặn mới tìm được em. 3. Hòn đá cheo leo, trâu trèo trâu trợt, Ngựa trèo ngựa đổ, Công anh lao khổ từ cổ chí kim, Mất em khó kiếm khó tìm, Bởi anh ở bạc, em phải tìm nơi xa. 4. Miễn bậu chịu ừ, qua chẳng từ lao khổ, Dẫu đăng sơn tróc hổ hay quá hải đồ long, Trước sau giữ trọn một lòng, Gian lao chi sá, anh quyết cùng theo em. 5. Mưa sa lác đác, gió táp lạnh lùng, Thấy em lao khổ, anh mủi lòng nhớ thương. Đàng đi biết mấy dặm trường, Hỏi em đã kết cang thường đâu chưa?

179 247 298 320 325

363 385

Lâm nguy

291.

230 257 418

270

Lâm thân

292.

188

Lập nghiệp

293.

394

Lê viên

294.

279

Lễ nghi

295.

383

Lệ sa

296.

66

6. Rửa chân cho sạch, Bước lên ngựa bạch, Nó chạy song kiều, Thấy em lao khổ chín chiều ruột đau. 7. Thông kinh sử ấy phần nam tử, Giữ nết na là phận nữ nhi, Xử sao vẹn chữ xướng tùy, Tiếng ừ thì dễ, em lo nghì về sau. Miễn bậu đành ừ, Qua chẳng từ lao khổ, Dẫu đăng sơn tìm hổ, Dẫu nhập hải tróc long, Trước sau giữ trọn một lòng, Vào lòn ra cúi anh đành lòng theo em. 1. Cỏ mọc bờ giếng cheo leo, Lâm nguy có bậu, hiểm nghèo có qua. 2. Đêm khuya trăng dọi lầu son, Vào ra thương bạn héo hon ruột vàng, Bển qua đây đàng đã xa đàng, Dẫu tôi có lâm nguy thất thế, Hỏi cô bạn vàng có cứu không? Chiều rồi kẻ bắc người đông, Trách lòng người nghĩa nói không thiệt lời. 3. Vợ xa chồng xa than xa thở, Tôi xa mình, xa đỡ chớ bao nỡ xa đời, Nào phải như ai lúc lâm nguy thì lánh nạn, lúc thạnh thời mới tìm nhau. Đừng ham nhà ngói cao nền, Lâm thân vô đó biết bền hay không. Bấy lâu xa cách mặt chàng, Em tầm phương lập nghiệp, vắng đàng thăm anh. Tôi đi dạo cảnh lê viên, Tới đây gặp gái thuyền quyên rủ hò. Em về thưa lại má hay, Cho đành rồi sẽ sính bày lễ nghi. Thò tay chiết nhánh mai tàn, Bỗng nhìn thấy bạn hai hàng lệ sa.

Lịch sự

297.

263 309 318 461

314

Liệt nữ

298.

202

Linh thiêng

299.

261

Loan châu

300.

Loan phòng

301.

209 257 334 342

Loan phụng

302.

329 388

1. Đó chê đây, đây càng lịch sự, Đó ăn mâm vàng, đây ngự toà sen. 2. Lịch sự chi đó mà năm bảy người giành, Con cá giữa chợ ai đành thì mua. 3. Mê anh chẳng phải mê tiền, Thấy anh lịch sự có duyên, dịu dàng. 4. Con cò nó mổ con lươn, Bớ chị ghe lườn muốn tía tôi không? Tía tôi lịch sự quá chừng, Cái lưng mốc thích cái đầu chơm bơm. Mai anh mượn cái rế, Chiều anh mượn cái nồi, Mảng thương liệt nữ, đứng ngồi không yên. Cái miễu linh thiêng, Có bốn cột kiềng kiềng, rui tre mè trắc, Đôi lứa ta trục trặc, cắt tóc thề nguyền, Lời thề nước biếc non xanh, Nhện giăng sóng dợn sao đành bỏ nhau. Đi đâu bỏ quạt loan châu, Bỏ thương bỏ nhớ bỏ sầu cho em. 1. Cây gie cây bần ngã, Bất khả viển vông, Tới đây em nói cho anh vừa lòng, Em đây có chốn loan phòng đã lâu. 2. Đêm khuya nước mắt ròng ròng, Vì tôi nhớ chữ loan phòng còn xa, Làm sao hiệp mặt đôi ta, Đặng tôi báo hiếu mẹ cha bên mình. 3. Ngó lên trời thấy mây trong lại trắng, Ngó xuống nước thấy nước trắng lại trong. Nhỏ nhỏ như em chắc dạ bền lòng, Lỡ duyên chịu lỡ, đóng cửa loan phòng đợi anh. 4. Nhìn anh nước mắt lưng tròng, Làm sao sum họp chốn loan phòng với anh. 1. Ngày nay loan phụng lẻ bầy, Nam vang kia xa xứ, khó gầy yến anh. 2. Thương em chưa cạn chung trà, Muốn gầy loan phụng, trời đà khiến xa. Lời thề bốn biển non ba, Mây giăng nước dợn, đôi ta đừng lìa.

Lòng tư

303.

Cây trăm nhánh gồm thâu một cội, Nước ngàn sông chảy hội một nguồn. Bấy lâu nay duyên nợ cheo cư, Tôi ôm lòng tư đợi người quân tử, Ngày nay giáp mặt nọ rồi như guộng chỉ tơ. Nước trong thấy đá, cá lội thấy kỳ,

210-211 350

Lỗi đạo

304.

67

Lỡ thời

351

305.

Lỡ vận

481

306.

Lục tỉnh

307.

211 345

Lương duyên

308.

244 255 355 417

68

Anh thương em lỗi đạo vô nghì, Vợ còn, con sẵn, nghĩa lý gì mà thương. Nước trong xanh em để dành tưới hẹ, Quân tử lỡ thời tại mẹ kén dâu. Chim quyên xuống đất ăn trùng, Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than. 1. Cây dưới biển hóa long, Cá lòng tong ẩn bóng ăn rong, Anh đi lục tỉnh giáp vòng, Đến đây trời khiến động lòng thương em. 2. Nội trong lục tỉnh Nam Kỳ, Thấy em ăn nói nhu mì anh thương. Có mặt tôi anh nói rằng thương, Anh về chốn cũ vấn vương nơi nào? 1. Dậm chân xuống đất, khóc ngất kêu trời, Lương duyên ai kết, để tiếng đời cho em. 2. Đèn treo ngọn ái, Nước xoáy gò ân, Phải lương duyên thì xích lại cho gần, Kẻo mai vắng mặt, hai đứa thầm nhớ thương. 3. Phải duyên túc đế, Như cây cỏ đế ngoài Huế anh cũng tìm, Không phải lương duyên, Như cây cúc mọc dựa thềm anh cũng không. 4. Việc lương duyên ngàn vàng khó đổi, Đạo vợ chồng tính vội không nên.

Lưu lạc

309.

276 410

1. Em đội khăn lông trắng, em gắn hai chữ tam tòng, Mai sau anh có chết, em lén chồng để tang. Anh đội khăn rằn trắng, anh gắn chữ huỳnh, Mai sau em lưu lạc, anh nhìn cái khăn. 2. Trượng phu xử nghĩa vuông tròn, Ngàn năm lưu lạc dạ còn thương anh.

Lưu ly

310.

364 465

Lưu thú

161

311.

Lưu tồn

142

312.

Lưu truyền

169

313.

1. Rượu lưu ly chân quỳ tay rót, Cha mẹ uống rồi, dời gót theo anh 2. Lưu ly nửa nước nửa dầu, Nửa thương cha mẹ nửa sầu căn duyên. Anh đi lưu thú Bắc Thành, Để em khô héo như nhành mai khô. Phụng hòang lẻ bạn sầu tư, Em đây lẻ bạn cũng như phụng hoàng. Lịch thay địa phận Trà Ôn, Miếu ông Điền Bát lưu tồn ngày nay. Anh thương em, không phải thương bạc với tiền, Mà thương người nhân hậu, lưu truyền kiếp sau.

Ly biệt

314.

202 251 300 410 439 446

Lý ngư

315.

200 238 405 426 486

226

Mãn kiếp

316.

Mãn mùa

317.

315 320

418

Mẫu đơn

318.

69

1. Cách bấy thu tưởng đà ly biệt Ai hay em còn trực tiết chờ anh. Đem lòng ngơ ngẩn sao đành, Chẳng duyên tơ tóc cũng tình nghĩa xưa. 2. Đấy mà xử ngãi vuông tròn, Dẫu ngàn năm ly biệt, đây vẫn còn đợi trông. 3. Khá thương thay hai đàng ly biệt, Bấm lá gan vàng như thiết như tha. 4. Trống trên lầu nhặt thúc, Trăng ẩn bóng về non. Anh thương em ruột thắt gan mòn, Thác đành ly biệt, sống còn thương em. 5. Hồi nào anh gác, em ôm, Bây giờ ly biệt đêm hôm một mình. 6. Nhạn trên trời nhạn lạc kêu sương, Ngàn năm ly biệt đạo cang thường chớ quên. 1. Cá lý ngư sầu tư biếng lội, Chim phụng hoàng sầu cội biếng bay. 2. Con phụng hoàng bay ngang biển bắc, Cá lý ngư lặn hụp ngoài khơi. Gặp nhau đây xin tỏ đôi lời, Kẻo mai đây con cá kia về vịnh, con chim nọ đổi dời non nam. 3. Trên sơn dưới thủy, anh thấy con lý ngư, Anh móc mồi quăng xuống hàng cừ, Để xem con bạn ngọc dật dừ về ai ? 4. Cá lý ngư sầu tư biếng lội, Chim trong rừng sầu cội biếng ăn. Anh thương em nhiều nỗi long đong, Con thơ tay bế tay bồng, Muốn vô chắp nối, em có bằng lòng hay không? 5. Dưới sông cá lội có cờ, Tưởng đâu ô mã, ai ngờ lý ngư. Chờ em cho mãn kiếp chờ, Cho rau muống vượt lên bờ trổ bông. Rau muống trổ bông lên bờ nó trổ, Ai biểu anh chờ, anh kể công ơn? 1. Mãn mùa thăm lúa dạo đồng, Hỏi thăm em bậu có chồng hay chưa? 2. Miệng đuổi chim tay cầm cần vụt, Mãn mùa rồi, xí hụt anh ơi. Vườn thượng uyển thiếu chi chồi lan huệ, Nội thượng lâm đâu thiếu tược mẫu đơn. Bậu đừng nghĩ ngợi thiệt hơn, Rửa tai nghe lóng tiếng đờn tri âm. Đờn tri âm tiếng đơn, tiếng kép, Rao nhặt khoan tiếng thiếp tiếng chàng.

Mẫu thân

319.

277 467

Mẫu từ

320.

163 184 465

Minh bạch

311

321.

Mồ côi

322.

240 286 346 346 458 467 468 470

289

Mưu kế

323.

70

Bậu về qua Cửu Long giang, Tình thương qua nhớ bậu, nỗi dạ càng xót xa. Trách ai làm cách đôi ta, Đêm năm canh thổn thức vào ra thêm sầu. Chia tay gan thắt ruột bào, Đêm ngày than thở dầu bao canh tàn. Cúc đang xanh sao cúc vội tàn, Kiểng đương xanh sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai? 1. Em rầu nỗi mẫu thân mất sớm, Chữ nhớ thương đau ốm một mình, Phận em vô đệ, vô huynh, Không nơi nương dựa, cui cút một mình, bớ anh. 2. Ngó lên nhang tắt đèn mờ, Mẫu thân đâu vắng, bàn thờ lạnh tanh. 1. Anh đừng sầu não tương tư, Để em thưa lại mẫu từ họa may. 2. Bậu đừng phiền não mà hư, Anh về thưa lại mẫu từ anh hay. 3. Lục bình chưng trước tam sơn, Đôi ta quỳ xuống đền ơn mẫu từ. Lộ bất hành bất đáo, Chung bất đả bất minh. Lâu nay tôi chẳng biết ý mình, Ngày nay minh bạch nhơn tình trí tri. 1. Con vượn bồng con lên non hái trái, Cảm thương nàng phận gái mồ côi. 2. Mưa lâm thâm ướt dầm lá hẹ, Cảm thương nàng bỏ mẹ mồ côi. 3. Nước chảy bon bon, Công mẹ bồng con, lên non hái trái, Anh cảm thương nàng phận gái mồ côi. 4. Chẳng thà em ôm gốc bần trôi, Chẳng thà ưng kẻ mồ côi một mình. 5. Bạc bảy đâu sánh vàng mười, Mồ côi đâu sánh cùng người có cha. 6. Mẹ già như chuối chín cây, Gió đưa trái rụng, con rày mồ côi. 7. Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ, Nước chảy vào thương kẻ mồ côi. 8. Thà ăn bắp hột chà vôi, Còn hơn giàu có mồ côi một mình. Gió nam non thổi lòn hang dế, Tiếng anh học trò mưu kế để đâu? Mưu kế anh để ở nhà, Ai dè em hỏi để mà đem theo.

Mưu tính

447

324.

Mỹ miều

127

325.

Nam nhi

326.

203 207 296-297 402

Nước dưới sông đang chảy vội ngừng, Qua muốn quăng câu, sợ con cá lạ cần không ăn. Con cá còn ẩn bóng trăng, Chờ khi thanh vắng lên ăn miếng mồi. Gái đây thân phận định rồi, Lẽ nào anh mưu tính đổi dời sao đang. An Giang cảnh trí mỹ miều, Ta thương ta nhớ, ta liều ta đi. 1. Canh chua lét sao rằng canh ngọt? Cá không chân sao gọi cá leo? Trai nam nhi anh đối đặng dầu nghèo em cũng ưng. Này em ơi, bánh nhiều lắm sao gọi là bánh ít, Chuối non èo sao lại gọi chuối “già”, Đối như anh vậy, chắc là xứng đôi. 2. Cây chi trên rừng không lá, Con cá chi dưới biển không xương? Trai nam nhi đối đặng kết tao khương cùng chàng. Cây xương rồng trên rừng không lá, Con sứa dưới biển không xương, Trai nam nhi đối đặng, thiếp lường tính sao? 3. Hỏi anh: ai phò Đường quốc, Ai ở đất nhà Châu, Ai cày ruộng Thuấn, Ai câu Thạch Bàn, Ai giết vợ làm quan, Ai chôn con ấu tử đặng vàng trời cho, Ai mà đọc sách liền pho, Trai như anh đối đặng, gái em lo kết nguyền. Đời nhà Tiết thờ Đường quốc, Hoàng Phi Hổ ở đất nhà Châu, Hy Giang cày ruộng Thuấn, Thái Công Vọng đi câu Thạch Bàn, Ngô Khởi giết vợ làm quan, Quách Cự chôn con ấu tử đặng vàng trời cho, Chí sĩ đọc sách liền pho, Trai nam nhi anh đối đặng, gái em lo thế nào? 4. Trăm thứ dầu, dầu gì không thắp? Trăm thứ bắp, bắp gì không rang? Trăm thứ than, than gì không quạt? Trăm thứ bạc, bạc gì không mua? Trai nam nhi đối đặng, gái bốn mùa theo không. Một trăm thứ dầu, dầu nhị thiên đường là dầu không thắp. Một trăm thứ bắp, bắp chuối là bắp không rang. Một trăm thứ than, thang leo là than không quạt.

71

235

Nam tắc

327.

235

Nam tế

328.

385

Nam tử

329.

Nan phân

330.

208 329

356

Ngã tư

331.

72

Một trăm thứ bạc, bạc ngãi là bạc không mua. Trai nam nhi anh đối đặng, Gái chịu thua em tính lẽ nào. Con chim nho nhỏ, Cái lông nó đỏ, Cái mỏ nó vàng, Nó đậu trước cửa làng, Nó kêu nam tắc, nữ tế, Nam tế, nữ châu, Hồi nào anh đưa cho em cái lược chải đầu, Bây giờ anh ở bạc, bỏ sầu cho em. Con chim nho nhỏ, Cái lông nó đỏ, Cái mỏ nó vàng, Nó đậu trước cửa làng, Nó kêu nam tắc, nữ tế, Nam tế, nữ châu, Hồi nào anh đưa cho em cái lược chải đầu, Bây giờ anh ở bạc, bỏ sầu cho em. Thông kinh sử ấy phần nam tử, Giữ nết na là phận nữ nhi, Xử sao vẹn chữ xướng tùy, Tiếng ừ thì dễ, em lo nghì về sau. Miễn bậu đành ừ, Qua chẳng từ lao khổ, Dẫu đăng sơn tìm hổ, Dẫu nhập hải tróc long, Trước sau giữ trọn một lòng, Vào lòn ra cúi anh đành lòng theo em. 1. Cây đa trốc gốc mất tàn, Tình xưa còn đó ngỡ ngàng nan phân. 2. Nếu em còn ngại, qua thề lại cho em hết nan phân, Đứa nào được Tấn quên Tần, Xuống sông cọp ních, lên rừng sấu tha. Phụ mẫu đánh em treo ở ngã tư, Kẻ đi qua người đi lại nói gái hư bị đòn.

Ngãi nhân

332.

210 315 329 417

Ngãi nhơn

333.

221 189 221 251

Ngao du

334.

293 435

183

Nghi nan

335.

350

Nghĩa lý

336.

491

Nghĩa nhơn

337.

73

1. Cây oằn vì bởi tại hoa, Qua thương nhớ bậu chẳng qua vì tình. Thương nhau thương dạng, thương hình, Thương lời ăn tiếng nói, thương tình ngãi nhân. Phải duyên Hồ Việt cũng gần, Trái duyên Tần Tấn dẫu gần cũng xa. 2. Mảng coi hạc tắm suối vàng, Cây cao vội ngã lấp đàng ngãi nhân. 3. Ngãi nhân như bát nước đầy, Đổ đi hốt lại sao tày như xưa. 4. Ven hồ liễu gặp cơn gió bụi, Đưa hoa đào sợ hãi nắng sương. Biết đâu là khách đài gương, Ngãi nhân giữ được bậc thường vậy chăng? 1. Chim có đôi có bạn, Kìa hãy xem cặp nhạn mà làm gương, Đứng làm người trong đạo tao khương, Thủy chung như nhứt, giữ đường ngãi nhơn. 2. Biển Đông sóng dợn ba đào, Ngãi nhơn khác thể sóng trào biển Đông. 3. Đứng làm người trong đạo tao khương, Thuỷ chung như nhứt, giữ đường ngãi nhơn. 4. Đem lòng xa lánh sao đành, Chẳng duyên tơ tóc cũng tình ngãi nhơn. 1. Hai đứa mình như cặp cá ở đìa, Ngày ngao du giỡn bóng, tối lại lìa, than ôi! 2. Đạo nào vui bằng đạo vợ chồng, Ngày ngao du bốn biển, tối ngựa hồng đi chơi. Bậu đừng lên xuống đèo bồng, Chồng con hay được nên lòng nghi nan. Nước trong thấy đá, cá lội thấy kỳ, Anh thương em lỗi đạo vô nghì, Vợ còn, con sẵn, nghĩa lý gì mà thương. Gừng già gừng rụi càng cay, Anh hùng cơ cực càng dày nghĩa nhơn.

Nghĩa tình

338.

168 210 236 335 455

Ngọc hoàng

339.

355 491

242

340.

74

1. Anh ơi, hột giống nghĩa tình dễ gieo, khó nhổ, Gieo vào lòng để khổ cho nhau. 2. Cây oằn vì bởi tại hoa, Thương em vì bởi nết na, nghĩa tình, Thương em thương dạng, thương hình, Thương lời ăn tiếng nói thiệt tình không bãi buôi. Sầu ai mặt nọ không vui, Hay là duyên nợ, nói tui sầu dùm. 3. Con chim nho nhỏ, Cái mỏ nó xinh, Nó đậu trên cành, Nó kêu anh Sáu hỡi, Công cha, nghĩa mẹ sinh thành, Ơn non, nợ nước, nghĩa tình thế nao? Thuyền quyên phải sánh anh hào, Phụng hoàng đâu sánh thấp cao với diều, Kiểng kia, ai để bìm leo, Gái khôn ai gá nghĩa theo người loàn. 4. Ngọc lành còn đợi giá cao, Chờ người quân tử em giao nghĩa tình. 5. Trời cao biển rộng thinh thinh, Ở sao cho trọn nghĩa tình phu thê. 1. Phải chi lên được Ngọc Hoàng, Anh coi sổ bộ duyên nàng về ai? 2. Hiu hiu gió thổi đầu non, Những người uống rượu là con ngọc hoàng, Ngọc hoàng ngự tại ngai vàng, Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi, Con rằng con uống con chơi, Hay đâu con uống con rơi xuống sình. Cục ngọc thuỷ tinh nằm trên hòn đá trắng, Năm bảy bữa ròng sao vắng tiếng em?

Ngọc thuỷ tinh

Ngỡi nhân

341.

173 206 266 337 337 349 437 392 435

373

Ngũ liễu

342.

493

Ngũ luân

343.

216

Ngũ sắc

344.

256

Nguyệt bạch

345.

195

Nguyệt hoa

346.

234

Ngư ông

347.

75

1. Anh về em cũng muốn về theo, Sợ phụ mẫu em hay được đem treo giữa trời. Tức tôi, tôi phải kêu trời, Ngỡi nhân ai gá bỏ tiếng đời cho em. 2. Cầu kia cách bởi mấy đầu, Mỏi mong chờ đợi thêm sầu ngỡi nhân. 3. Đồng Nai, Gia Định còn về, Cách ba tấc đất không hề vãng lai. Đường dài ngựa chạy cát bay, Ngỡi nhân thăm thẳm mỗi ngày một xa. 4. Ngỡi nhân bạc tựa con mèo, Hỏi xin đồng bạc, than nghèo không cho. Người ta cho bạc cho vàng, Ngỡi nhân của em, xin thước vải vá quàng cũng không cho. 5. Ngỡi nhân nay giận mai hờn, Lòng anh ở thẳng như đờn lên dây. 6. Nước ròng bỏ bãi xa cừ, Gặp em hỏi thử sao từ ngỡi nhân? Ngỡi nhân mỏng dánh tợ cánh chuồn chuồn, Khi vui nó đậu khi buồn nó bay. 7. Đường dài ngựa chạy cát bay, Ngỡi nhân thăm thẳm mỗi ngày một xa. 8. Tiền tài nay đổi mai dời, Ngỡi nhân gìn giữ trọn đời với nhau. 9. Đang khi chồng giận mình đi, Hết khi nóng giận đến khi vui vầy. Ngỡi nhơn như bát nước đầy, Bưng đi mà đổ, hốt rày đặng đâu. Tay bưng chén kiểu ngũ liễu hoa rơi, Thấy em nhỏ tuổi nhiều nơi anh rầu. Làm người phải biết ngũ luân, Nếu mà thiếu một mười phân thẹn thuồng. Chỉ ngũ sắc xanh đỏ trắng vàng, Bùa yêu vướng phải, dạ càng tương tư. Đêm khuya anh thức dậy xem trời, Anh thấy sao nguyệt bạch, Ngó xuống lòng rạch, anh thấy con cá chạch nó lội đỏ đuôi, Nước chảy xuôi con cá buôi nó lội ngược, Nước chảy ngược con cá nược nó lội theo, Anh than với em rằng thân phận anh nghèo, Đũa tre đâu dám đánh đèo với đũa mun. Bước đi ba bước lại ngừng, Tuổi em còn bé xin đừng nguyệt hoa. Con chim đại bàng bay ngang hòn núi bạc, Con cá ngư ông ngóng nước biển khơi.

Ngư phủ

176

348.

Ngư thủy

305

349.

Người nghĩa

159

350.

Ngưu hoàng

204

351.

Nhan sắc

352.

184 239 269 358

Nhãn tiền

353.

338 489

Nhân hậu

354.

169 430

Nhân hiền

486

355.

Nhân ngãi

356.

Em gặp anh đây phân giải đôi lời, Kẻo mai đây con cá về sông rộng, con chim nọ đổi dời núi cao. Áo xanh năm nút viền bâu, Bậu về xứ bậu biết đâu mà tìm. Bên sông thanh vắng một mình, Chỉ ông Ngư phủ biết tình mình thôi. Chữ rằng ngư thủy một đường, Bao giờ cùng chiếu cùng giường bậu ơi? Anh đau một canh, chết một giờ, Để coi người nghĩa phụng thờ làm sao? Tôi thờ mình bộ lư đồng cao, Sáo treo cùng cặp chân đèn thau bóng vàng. Cao ly sắc với ngưu hoàng, Uống không mát dạ bằng thiếp với chàng gặp nhau. 1. Bậu khoe nhan sắc bậu đắt chồng, Qua không ế vợ, bậu đừng hòng bẻ bai. 2. Con rắn không chân đi năm rừng bảy rú. Con gà không vú nuôi chín mười con, Phải chi nhan sắc em còn, Anh vô chốn đó chiều lòn cũng ưng. 3. Đùng đùng ngựa chạy qua truông, Mảng mê nhan sắc, buông tuồng bỏ em. 4. Phụng với rồng cũng đồng nhan sắc, Trách ai làm phụng bắc rồng nam. 1. Nghe đồn tiếng gái thuyền quyên, Rủ hò cho thấy nhãn tiền thực hư. 2. Đời xưa quả báo còn chầy, Đời nay quả báo một giây nhãn tiền. 1. Anh thương em, không phải thương bạc với tiền, Mà thương người nhân hậu, lưu truyền kiếp sau. 2. Chim khôn kiếm nơi mà đậu, Gái khôn chọn nơi nhân hậu mà nhờ, Đừng ham lấy công tử bột dật dờ tấm thân. Dốc lòng trả nợ áo cơm, Sống cho trọn thảo, thác thơm nhân hiền. 1. Bướm đeo dưới dạ cây bần, Muốn nhân nhân ngãi lại gần sẽ nhân. 2. Bứt đi thì dạ không đành, Cách xa nhân ngãi như chỉ mành thắt gan. 3. Đờn cò lên trục kêu vang, Anh còn thương bạn, bạn khoan có chồng. Muốn cho nhân ngãi đạo đồng, Tôi đây thương bạn như chồng bạn thương.

198 199 267

76

269 271 273 274 358 445

411

Nhân ngỡi

357.

Nhân nghĩa

358.

77

Chiều nay anh phải hồi hương, Xin em ở lại đừng gầy duyên nơi nào. 4. Đũa vàng đầu bịt đầu sơn, Mấy lời bạn nói cảm ơn khôn chừng. Đó xa nhân ngãi đó mừng, Đây xa nhân ngãi như gừng xát gan. Người buồn nhớ bạn thở than, Kiểng xanh sao héo, hỏi nàng tại ai ? 5. Đường đi cát nhỏ cỏ mềm, Mấy lời anh nói, em còn ghi xương. Liệu bề thương được thì thương, Nửa chừng để dở, thế thường cười chê. Một ngày cũng đạo phu thê, Trăm năm ghi tạc, lời thề cùng nhau. Đứt tay một chút còn đau, Huống chi nhân ngãi lìa nhau sao đành. 6. Đứt tay một chút còn đau, Huống chi nhân ngãi lìa nhau sao đành. 7. Em có mẹ cha, Anh đến nhà thưa lại. Riêng tình ân ái, Nhân ngãi chẳng phai, Sợ hiềm trắc trở duyên hài, Phải cho có mối có mai lễ trầu. 8. Qua không ham rộng ruộng lớn vườn, Ham vì nhân ngãi, cang thường mà thôi. 9. Người còn thì của cũng còn, Miễn là nhân ngãi vuông tròn thì thôi. Tuổi nàng vừa chẵn đôi mươi, Tuổi anh hai mốt tốt tươi quá chừng. Đó xa nhân ngỡi đó mừng, Đây xa nhân ngỡi như gừng xát dao. 1. Đánh ông tơ cái trót, Ông nhảy tót lên ngọn trâm bầu, Ông xe đâu đó, ông thấy nhân nghĩa nghèo ông không xe. 2. Khăn lau nước mắt ướt mem, Xuống lên không đặng vì em có chồng. Hai bên nhân nghĩa đạo đồng, Nghĩa em không phụ, đạo đồng em không quên. 3. Ruộng sâu cây lúa đứng chùm, Biết ai nhân nghĩa chỉ dùm làm ơn. 4. Anh đừng thấy đăng mà phụ đó, Đừng chê em nghèo khó mà vội phụ phàng. Anh coi, đồng tiền sớm mơi còn chiều mất, Chớ nhân nghĩa bạn vàng vững chắc thiên kim. 5. Đũa vàng dọng xuống mâm sơn,

248 301 363 423 437

496

359.

Nhân tình

268 282

Nhật nguyệt

360.

239 401

159

Nhi nữ

361.

Nho sĩ

362.

241 393

198

Nhớ thương

363.

Nhơn đạo

364.

267 301

201

Nhơn hậu

365.

Nhơn ngãi

366.

78

Đôi ta dứt ruột từ cơn hội này. Nhân nghĩa như chén nước đầy, Sóng xao mặt sóng, dạ này đừng xao. 6. Người còn thì nghĩa cũng còn, Miễn là nhân nghĩa vuông tròn thì thôi. 1. Đũa bếp đủ đôi, chìa vôi đủ bạn, Tôi với nàng đồng chạn hát chơi. Hát chơi em cũng muốn hát chơi, Em đây, anh đó kết đôi nhân tình. 2. Gặp được lúc đêm thanh trăng tỏ, Hát hò chơi cho rõ nhân tình. Phòng loan thục nữ một mình, Hay là đã sẵn duyên tình cùng ai ? Vẳng nghe ai hát, lòng đây bát ngát thêm phiền, Cô phòng giữ dạ thuyền quyên, Chờ người nhơn nghĩa em nguyền trao thân. 1. Con thỏ giỡn trăng sơn băng thủy kiệt, Ai ở hai lòng nhật nguyệt xét soi. 2. Trải chiếc chiếu ra, Em ngồi một góc, anh một góc, Anh than, em khóc, mình thấy không mình. Hai vầng nhật nguyệt rành rành, Sao bây giờ anh dứt đoạn chung tình bỏ em? Anh đấng làm trai nam nhi chí khí, Em phận làm gái nhi nữ quần thoa, Thấp dàn cá nhảy khỏi sa, Ưng không tại bậu, cha mẹ già biết đâu. 1. Công dã tràng thường ngày xe cát, Sóng ba đào, ai xét công cho. Tiếng anh nho sĩ học trò, Thấy sông vội lội, không dò cạn sâu. 2. Tiếng anh nho sĩ học trò, Sao anh cạn dạ không dò ý em. Bướm bắt bông như Quan Công ngộ Tào tặc, Anh gặp em một lần, vắng mặt nhớ thương. 1. Đời phải đời thịnh trị, Cuộc phải cuộc văn minh, Kìa là gió mát trăng thanh, Biết đâu nhơn đạo bày tình cho vui. 2. Khăn bìa bốn chéo bịt trùm, Chỗ nào nhơn đạo, chỉ dùm làm ơn. Cá rô ăn móng trong lùm, Biết đâu nhơn hậu chỉ dùm cho em. 1. Cây kiểng trồng rào rắp xung quanh, Tại vì anh vô ý cây kiểng đương xanh nó vội tàn. Anh gặp em đây đứng lại giữa đàng, Muốn phân nhơn ngãi, e ngỡ ngàng khó phân.

209

214 338 367 371 398 453

Nhơn nghĩa

367.

211 282 326 377 502

311

Nhơn tình

368.

2. Chẳng tham rộng ruộng lớn vườn, Ham vì nhơn ngãi, cang thường mà thôi. 3. Nghe em phân như dần khúc ruột, Gần nhau chưa được, lại nói cuộc chia xa. Thế nào cũng ráng chờ qua, Tiền lo không kịp, qua sẽ bán nhà cưới em. Hỏi thử anh cho biết tình nhơn ngãi, Em đâu có ngại sự đợi chờ, Một lời hứa dạo tóc tơ, Trăm năm cũng chẳng hững hờ dạ riêng. 4. Sông dài được mấy đò ngang, Ai nhiều nhơn ngãi chỉ mang oán thù. 5. Sơn cách thuỷ cách, lòng em không cách, Đường xa dặm xa, nhơn ngãi em không xa. Đi đâu anh nhớ ghé lại nhà, Trước viếng phụ mẫu, sau là thăm em. 6. Tới đây bỡ ngỡ giữa đàng, Muốn phân nhơn ngãi ngỡ ngàng khó phân. 7. Trăm năm nhơn ngãi vẹn toàn, Tử sanh tạc dạ đá vàng nào phai. 1. Cấy ba cây lúa cho chuôn, Bớ người nhơn nghĩa có buồn hát chơi. Hát chơi cũng chịu hát chơi, Có chồng mà lại hát chơi nỗi gì. 2. Gặp được lúc đêm thanh trăng tỏ, Hát hò chơi cho rõ nhân tình. Phòng loan thục nữ một mình, Hay là đã sẵn duyên tình cùng ai? Vẳng nghe ai hát, lòng đây bát ngát thêm phiền, Cô phòng giữ dạ thuyền quyên, Chờ người nhơn nghĩa em nguyền trao thân. 3. Năm canh ngơ ngẩn buồn rầu, Nhớ người nhơn nghĩa gan sầu ruột đau. 4. Thân em như cánh buồm trước gió, Nay đây mai đó thiệt khó làm sao, Biết đâu nhơn nghĩa đặng vào gởi thân. 5. Từ rày khuyên kẻ có con, Lựa người nhơn nghĩa gả còn nhờ sau. Lộ bất hành bất đáo, Chung bất đả bất minh. Lâu nay tôi chẳng biết ý mình, Ngày nay minh bạch nhơn tình trí tri.

79

Nhu mì

369.

149 345 347

Nhựt nguyệt

384

370.

Niêm phong

243

371.

Niên kỷ

344

372.

373.

235

Nữ nhân

315

374.

Nữ nhi

385

375.

Nữ phòng

157

376.

Nữ tế

235

377.

80

1. Sông Bến Tre nhiều hang cá ngác, Đường Kho Bạc lắm cát dễ đi, Gái Ba Tri nhiều đứa nhu mì, Lòng thương em bậu sá gì đường xa. 2. Nội trong lục tỉnh Nam Kỳ, Thấy em ăn nói nhu mì anh thương. Có mặt tôi anh nói rằng thương, Anh về chốn cũ vấn vương nơi nào? 3. Nước chảy xuôi, làn sóng ngược, Sông đầy không được, dồn xuống biển Ba Tri. Em ơi đừng sợ chuyện đó làm chi, Anh đây chưa vợ, nhu mì nết na. Thỏ giỡn trăng sơn băng thuỷ kiệt, Anh có bỏ nàng nhựt nguyệt xét soi. Cửa song loan anh khoan mở đã, Phụ mẫu em rầy cẩn khoá niêm phong. Niên kỷ cũng đồng niên kỷ, Phu thê cũng xứng phu thê, Gá duyên chồng vợ, chỉ sợ anh chê em nghèo. Con chim nho nhỏ, Cái lông nó đỏ, Cái mỏ nó vàng, Nó đậu trước cửa làng, Nó kêu nam tắc, nữ tế, Nam tế, nữ châu, Hồi nào anh đưa cho em cái lược chải đầu, Bây giờ anh ở bạc, bỏ sầu cho em. Mảng coi con kiến lửa lên xuống cửa thềm, Anh làm người quân tử chi hiềm nữ nhân. Thông kinh sử ấy phần nam tử, Giữ nết na là phận nữ nhi, Xử sao vẹn chữ xướng tùy, Tiếng ừ thì dễ, em lo nghì về sau. Miễn bậu đành ừ, Qua chẳng từ lao khổ, Dẫu đăng sơn tìm hổ, Dẫu nhập hải tróc long, Trước sau giữ trọn một lòng, Vào lòn ra cúi anh đành lòng theo em. Anh bắt tay em cho thỏa tấm lòng, Chừng nào nam đáo nữ phòng hãy hay. Con chim nho nhỏ, Cái lông nó đỏ, Cái mỏ nó vàng, Nó đậu trước cửa làng, Nó kêu nam tắc, nữ tế, Nam tế, nữ châu,

Nữ thanh

378.

311 158

379

Nuôi dưỡng

379.

145

Oai hùng

380.

130

Oai linh

381.

306

Oán hận

382.

Oán thù

383.

182 267 367 409

184

Oanh ương

384.

486

Ô mã

385.

Ô thước

386.

238 359 379

502

Ông tiều

387.

81

Hồi nào anh đưa cho em cái lược chải đầu, Bây giờ anh ở bạc, bỏ sầu cho em. 1. Lỡ bước giang đông, lỡ vòng tình ái, Trách ai về, gạt gái nữ thanh, Đêm nằm em trách ông trời xanh, Ổng sắp làm chi anh đầu non, em góc núi, Để kẻ đi tắt người về quanh một mình. 2. Anh có vợ rồi sao anh còn gian còn giấu, Em vạch mây hồng kêu thấu ông trời xanh, Anh đừng lấy vải thưa che mắt thánh, nói gái nữ thanh đui mù. Thấy anh có một mẹ già, Muốn vô nuôi dưỡng biết là đặng không? Nhà Bè nước chảy phân hai, Lòng Tàu, Soài Rạp, Đồng Nai oai hùng. Bần gie đốm đậu sáng ngời, Rạch Gầm soi dấu muôn đời oai linh. Kinh xáng mới đào, tàu Tây mới chạy, Thương em thương đại, đừng ngại bớ điệu chung tình, Bao nhiêu oán hận để một mình em lo. 1. Bần gie đóm đậu tối hù, Thương anh đừng để oán thù cho anh. 2. Đờn cầm ai nỡ dứt dây, Gẫm mình vô tội ai gây oán thù. 3. Sông dài được mấy đò ngang, Ai nhiều nhơn ngãi chỉ mang oán thù. 4. Trồng tre tre ngã liên tu, Phận em là gái, oán thù làm chi. Bậu không biết nghĩ, bậu tỷ như vầy: Chim oanh ương còn biết kết bầy, Cá bỉ mục còn vầy đôi bạn, Chẳng qua vận hạn, Anh mới xa nàng, Chớ ai có muốn bạn vàng lẻ loi. Dưới sông cá lội có cờ, Tưởng đâu ô mã, ai ngờ lý ngư. 1. Con quạ đen lông kêu bằng ô thước, Thấy em lấy chồng vô phước anh thương. 2. Quạ đen lông kêu bằng ô thước, Thấy em có chồng vô phước anh thương. 3. Sông Ngân nguyện bắc cầu Ô thước, Duyên nợ này không trước thì sau. Tôi ở Hòn Khoai, Đi về hòn Đá Bạc, Tôi trương buồm chạy lạc, Lại tới Hòn Nhum,

333

Phàm trần

388.

464

Phản mại

389.

234

Phân giải

390.

Phân ly

391.

156 444

342

Phân tình

392.

Phân trần

393.

209 242 302 308 373

277

Phật thủ

394.

298

Phỉ ân

395.

132

Phì nhiêu

396.

184

Phiền não

397.

349

Phiền nhơn

398.

Thấy Ông tiều đốn củi lum khum, Tôi hỏi ông lão chớ não nùng tại ai? Ngó lên trời thấy sao giăng phụng vẽ, Ngó xuống phàm trần thấy một lẽ anh gần em. Anh về cậy mối cậy mai, Chớ đừng có liếc mắt xem, họ đồn. Em buôn bán nuôi ai dầm sương phản mại? Em buôn bán nuôi cha mẹ già nào hại tấm thân. Con chim đại bàng bay ngang hòn núi bạc, Con cá ngư ông ngóng nước biển khơi. Em gặp anh đây phân giải đôi lời, Kẻo mai đây con cá về sông rộng, con chim nọ đổi dời núi cao. 1. Ai về em gởi bức tranh, Tô con chim sáo đậu cành lan chi. Ai làm nên bước phân ly, Cảm công mưa nắng, kẻ đi người về. 2. Mực mài vào dĩa sầu bi, Vợ chồng, chồng vợ phân ly hai đàng. Nhện sa trước miễu nhện phân tình, Mình có chồng chưa, tôi chưa biết, tôi thấy mình tôi thương. 1. Cây khô chết đứng rừng xanh, Em đây chết đứng vì anh phân trần. 2. Cung vàng bắn tạt bờ tre, Anh muốn kết duyên chồng vợ, phải lắng nghe em phân trần. 3. Khó than, khó thở, khó phân trần, Tóc không xe mà rối, ruột không dần mà đau. 4. Lâu ngày mới gặp một lần, Chuyện chi trong dạ phân trần với anh, Bờ quanh dòng nước chảy quanh, Thấy anh có nghĩa ưng anh cho rồi. 5. Tay cầm bó mạ sớt hai, Anh nửa, em nửa, kề vai phân trần. Em như trái phật thủ khác gì, Đẹp thì thấy đẹp, ăn thì khó ăn. Hồi hôm mở cửa ra sân, Tai nghe anh nói phỉ ân em về. Bến Tre ruộng đất phì nhiêu, Ở đây nhiều lúa lại nhiều dừa khô. Bậu đừng phiền não mà hư, Anh về thưa lại mẫu từ anh hay. Nước ròng tôm đất lội xuôi, Chỉ tơ thòng xuống cột tôi với mình, Đêm phiền nhơn, ngày phiền tình, Năm canh tơ tưởng thấy hình bạn đi.

82

Phiền tình

349

399.

Phong điền

197

400.

Phong kín

365

401.

Phong lưu

450

402.

Phòng hạnh

252

403.

Phòng huỳnh

404.

299 275

Phòng loan

405.

262 282

Phu phụ

280

406.

Phu quân

407.

356 422

83

Nước ròng tôm đất lội xuôi, Chỉ tơ thòng xuống cột tôi với mình, Đêm phiền nhơn, ngày phiền tình, Năm canh tơ tưởng thấy hình bạn đi. Bước xuống cầu, cầu oằn cầu oại, Bước xuống thuyền, thuyền chích thuyền nghiêng. Cả tiếng kêu người nghĩa phong điền, Người nghĩa ơi, duyên đây không kết, còn tìm nơi đâu? Bấy nay phong kín nhụy đào, Bây giờ khác thể hàng rào lâu năm. Tay tôi lần theo đám cỏ bấc, Tay tôi cắt mấy cọng bàng, Cực khổ tôi tôi chịu, để cho chàng phong lưu. Đèn chong phòng hạnh biếng xem, Phải chi trời định anh với em vợ chồng. 1. Hồi nào vịn vế kề vai, Bây giờ anh bỏ trần ai một mình. Cảm thương lời nói chung tình, Một trăm năm cũng để phòng huỳnh chờ em. 2. Em đau tương tư nằm tại phòng huỳnh, Kẻ thăm người viếng sao không thấy anh chung tình vãng lai. 1. Đi ngang nhà nhỏ, Lóng tai nghe rõ, Phụ mẫu đánh nàng, Tứ bề cửa đóng phòng loan, Anh không vô đặng đỡ nàng đôi roi. 2. Gặp được lúc đêm thanh trăng tỏ, Hát hò chơi cho rõ nhân tình. Phòng loan thục nữ một mình, Hay là đã sẵn duyên tình cùng ai ? Vẳng nghe ai hát, lòng đây bát ngát thêm phiền, Cô phòng giữ dạ thuyền quyên, Chờ người nhơn nghĩa em nguyền trao thân. Gá duyên chớ cậy sang giàu, Xin cho xứng lựu vừa đào thì thôi Chữ phu phụ chớ vội bôi, Lòng anh còn tưởng dứt đôi sao đành. 1. Phu quân ơi, bỏ bạn sao đành, Dưới sông cá lội, trên nhành chim kêu. 2. Ai đi bờ đắp một mình, Phất phơ chéo áo giống hình phu quân.

Phu thê

408.

239 294 296 318 344 408 455 457

Phù sa

409.

132 148-149

342

Phú quý

410.

162

Phụ bạc

411.

84

1. Con rắn hổ mây nằm cây thục địa, Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên. Phận em là gái thuyền quyên, Ai mà đối đặng kết nguyền phu thê. 2. Hết dầu đèn cháy tới tim, Một ngày gá ngỡi cũng niềm phu thê. 3. Họa phước vô môn, Sang giàu dễ kiếm, người khôn khó tìm. Tàu ra khơi sợ nỗi tàu chìm, Hai đứa mình sợ nỗi không trọn niềm phu thê. 4. Mây trên trời, bủa giăng tứ phía, Nước ngoài biển, sóng dợn tứ bề. Biết làm sao cho hiệp nghĩa phu thê, Đó chồng, đây vợ ra về có đôi. 5. Niên kỷ cũng đồng niên kỷ, Phu thê cũng xứng phu thê, Gá duyên chồng vợ, chỉ sợ anh chê em nghèo. 6. Trời vần vũ mây giăng tứ phía, Đất biển Đông sóng gợn tứ bề, Làm sao nên nghĩa phu thê, Đó chồng đây vợ ra về có đôi. 7. Trời cao biển rộng thinh thinh, Ở sao cho trọn nghĩa tình phu thê. 8.Vợ chồng là nghĩa phu thê, Tay ấp má kề sanh tử có nhau. 1. Bến Tre nước ngọt lắm dừa, Ruộng vườn màu mỡ, biển thừa cá tôm, Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn, Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày, Xoài chua, cam ngọt Ba Lai, Bắp thì Chợ Giữa, giồng khoai Mỹ Hòa, Mắm bần ven bãi phù sa, Bà Hiền Tân Thủy hằng hà cá tôm, Quýt đường, vú sữa ngổn ngang, Dừa xanh Sốc Sãi, tơ vàng Ba Tri, Xẽo Sâu cam tốt ai bì, Lúa vàng Thạnh Phú, khoai mì Thạnh Phong, Muối khô ở Gảnh mặn nồng, Giồng Trôm, Phong Nẫm dưa đồng giăng giăng. 2. Sông Ba Lai bên bồi, bên hẩm, Đất Ba Lai đỏ thắm phù sa, Nàng về kết bạn cùng ta, Ăn cá thay bánh, uống nước trà thay cơm. Nhiễu điều phú quý em không màng, Em quyết chờ cho đặng nghĩa vàng sánh đôi. Anh đừng ham chữ phú, phụ bạc chữ bần, Bạc trăm xài hết, ngãi duyên trần còn đây.

Phụ mẫu

412.

85

1. Anh gặp em vừa mừng vừa hỏi, Phụ mẫu ở nhà mạnh giỏi hay không? Tại gia đàng phụ mẫu em cũng được bình an, Em xin hỏi lại: phụ mẫu của bạn lang thế nào? 2. Anh tham chi nhiều điều mặn lạt, Em rút cây lông nhím bạc trao liền. Em về phụ mẫu lo phiền, Lỗi em chịu lỗi, nói đi cấy ruộng miền mất tiêu. 3. Anh thương em đừng vội bắt tay, Anh về cậy mối cậy mai đến nhà, Phải chi ta ở cùng ta, Thức khuya dậy sớm, phụ mẫu già nuôi chung. 4. Anh thương em thủng thẳng em ừ, Anh đừng thương vội, phụ mẫu từ nghĩa em. 5. Anh về em cũng muốn về theo, Sợ phụ mẫu em hay được đem treo giữa trời. Tức tôi, tôi phải kêu trời, Ngỡi nhân ai gá bỏ tiếng đời cho em. 6. Ba bốn nơi sang cả, phụ mẫu em đành gả, Em chắp tay: khoan đã, chưa tới căn phần, Phụ mẫu em nói em bất tôn giáo hóa, đem treo cây bần cho kiến bu. 7. Bấy lâu em còn nghi còn ngại, Bữa nay em kêu đại bằng mình, Phụ mẫu hay đặng, không lẽ đánh mình, giết em? 8. Bông ngâu rụng xuống cội ngâu, Em còn phụ mẫu dám đâu tự mình. 9. Bước vô nhà thấy hai chai rượu trắng, Bước ra ngoài than vắn, thở dài, Không biết phụ mẫu em sắm để xài, Hay là anh đến nộp tài cho em ? 10. Cây khô lột vỏ khó trèo, Anh ra đi, phụ mẫu dặn gặp chỗ nào nghèo kết duyên. 11. Cây oằn vì bởi gió nam, Xa mình vì bởi phụ mẫu tham chỗ giàu. 12. Chẳng thà dắt thẳng nhau vô, Phụ mẫu có giết, thác một mồ cũng ưng. 13. Chết ba năm, sống lại một giờ. Để xem người cũ phụng thờ ra sao? Thờ mình dĩa muối, dĩa rau, Còn thờ phụ mẫu mâm cao cỗ đầy. 14. Cơm ăn nửa bữa khó mời, Phụ mẫu ngồi đó trao lời khó trao. 15. Cửa song loan anh khoan mở đã, Phụ mẫu em rầy cẩn khoá niêm phong.

163 168 169 171 173 177 187 192 196-197 209 210 214 215 241 243

86

16. Dầu cho phụ mẫu rầy la, Đôi ta thủng thẳng dắt ra lạy chào. 17. Dĩa bàn thang bịt vàng đơm chả, Phụ mẫu em nghèo, khoan đã bớ anh. 18. Dĩa bàn thang tôm càng dựng đứng, Phụ mẫu em nghèo, không xứng sui gia. 19. Đi ngang nhà nhỏ, Lóng tai nghe rõ, Phụ mẫu đánh nàng, Tứ bề cửa đóng phòng loan, Anh không vô đặng đỡ nàng đôi roi. 20. Đỉa đâu, đỉa đeo chân hạc, Ác đâu ác đậu cành mai. Phụ mẫu sanh em là út, đòi rút một cây kiểng huỳnh, Áo thủy ba dợn sóng, hỏi mình chịu không? 21. Đứng đây kẻ lại người qua, Thấu tai phụ mẫu, đôi ta phân lìa. 22. Em đành phụ mẫu không đành, Hai đứa mình trải chiếu ngoài thành lạy vô. 23. Em thương anh phụ mẫu đánh mấy em cũng không lo, Nặng đòn em ráng chịu, anh để em nằm co, em khóc thầm. 24. Gặp anh đây em mừng, em hỏi, Phụ mẫu ở nhà có mạnh giỏi hay không? 25. Gặp mặt em đây bán lộ giữa đàng, Hỏi thăm phụ mẫu song toàn hay không? 26. Gió xoay vần, cát vận bờ đê, Phụ mẫu anh cậy mai tới nói, sao em chê anh nghèo. 27. Giữ sao như chén nước đầy, Chớ nên rày đó mai đây, Thế gian gièm xiểm, phụ mẫu hay thêm buồn. 28. Hai đứa mình đành, phụ mẫu cũng đành, Đấng làm cha mẹ đâu nỡ dứt duyên lành của con. 29. Hai đứa mình hòa, phụ mẫu không hòa, Giả như tô nước lạnh pha trà sao ra. 30. Lưới thưa anh bủa lấy con cá duồng, Buông lời hỏi bạn chớ bơi xuồng đi đâu? Lưới thưa anh bủa lấy con cá duồng, Phụ mẫu ở nhà già yếu, em bơi xuồng đi kiếm anh. 31. Mải mê hò, mê hát, Chiều về nhà phụ mẫu đánh thịt nát xương tan, Đau bao nhiêu tôi cũng chịu, bấm gan chờ

244 246 246 262 262 270 275 278 282 283 290 291 292 293 313 314 319

87

chàng. 32. Mình đưa bâu áo tôi viết tháo đôi dòng, Trước thăm phụ mẫu, sau thăm mình đôi câu. Đạo vợ chồng thăm thẳm giếng sâu, Ngày sau cũng gặp mất đi đâu mà phiền. 33. Mù u bông trắng lá quắn nhụy huỳnh, Anh thương em như vậy, biết phụ mẫu có nhìn hay không. 34. Ngó lên chữ ứ, Ngó xuống chữ ư, Anh thương em thủng thẳng em ừ, Anh đừng thương vội phụ mẫu từ nghĩa em. 35. Ông tơ đành vấn, bà nguyệt đành vương, Phụ mẫu đành gả, hỏi nàng thương không nàng? 36. Phụ mẫu ơi, bỏ bạn sao đành, Dưới sông cá lội, trên nhành chim kêu. 37. Phụ mẫu đánh em treo ở hàng rào, Lễ nghi chưa có, sao anh dám vào can ngăn? 38. Phụ mẫu đánh em treo ở ngã tư, Kẻ đi qua người đi lại nói gái hư bị đòn. 39. Phụ mẫu đánh em xương tan thịt nát, bỏ xác xuống đường mương, Anh đấng làm trai thông minh trí huệ sao để gái hiền lương bị đòn? Bắt con còng anh bỏ vào hang, Nghe em than thở, ruột gan nát bầm. 40. Phụ mẫu đánh tôi căng nọc giăng nài, Sao anh đứng đó cười hoài không can? 41. Phụ mẫu già ngồi dựa ghế tre, Anh với em than thở phụ mẫu nghe đau lòng. 42. Phụng hoàng đầu đỏ mỏ đen, Ra đi phụ mẫu dặn gặp em kết nguyền. 43. Ra đi phụ mẫu đứng trông, Tới đây gặp bậu lại không muốn về. 44. Sơn cách thuỷ cách, lòng em không cách, Đường xa dặm xa, nhơn ngãi em không xa. Đi đâu anh nhớ ghé lại nhà, Trước viếng phụ mẫu, sau là thăm em. 45. Thấy em có đôi bông nhận hột, cái chột bằng đồng, Phụ mẫu em sắm hay bên chồng em cho? Anh ơi đừng hỏi vòng vo, Phụ mẫu em sắm chớ bên chồng cho hồi nào? 46. Thương tôi rượu chén trầu cơi, Đến cùng phụ mẫu đền nơi sanh thành. 47. Tôi thương mình tôi giấu,

323 332 352 356 356 356 357 357 357 357 360 371 380 389 396

404 404 408 440 458 467 469 470 471

267

Phụ nghĩa

413.

455

Phụ tình

414.

144

Phụ Tử

415.

334

Phụng dưỡng

416.

Mà sao phụ mẫu hay thấu đòi bắt tôi ra biển Đông câu sấu, bớ mình! Trông trời mau sáng tôi đi, tôi than vài lời hơn thiệt, Chớ mình thác xuống diêm đình bặt tin. 48. Trầu lên nửa nọc trầu vàng, Khéo khen phụ mẫu sinh nàng dễ thương. 49. Trầu vàng nhỏ lá, rau giấp cá nhai giòn, Khéo khen phụ mẫu sanh em mặt tròn dễ thương. 50. Trời năng mưa năng chuyển, Đất ngoài biển năng lở năng bồi. Đôi ta thương lỡ nhau rồi, Chàng than thiếp khóc phụ mẫu ngồi sao yên. 51. Hột châu nhỏ xuống hàng rào, Thò tay em lượm, thấy phụ mẫu chào em buông. 52. Bông ngâu rụng xuống cội ngâu, Em còn phụ mẫu dám đâu tự mình. 53. Ngó đâu ngó đó thì vui, Ngó về phụ mẫu ngùi ngùi nhớ thương. 54. Phụ mẫu anh như phụ mẫu nàng, Mai sau có thác, chạm chữ vàng thờ chung. 55. Quyết lòng lập miễu chạm rồng, Đền ơn phụ mẫu ẵm bồng ngày xưa. 56. Trầu ăn là nghĩa, Thuốc xỉa là tình, Đội ơn phụ mẫu xinh mình dễ thương. Đờn huyền hòa với đờn tranh, Em có chồng, phụ nghĩa anh, anh buồn. Trời cao lồng lộng, Đất rộng thinh thinh, Tôi không có dạ phụ mình, Bởi anh ở bạc phụ tình nghĩa xưa. Ngó ra hòn Họ lưa thưa, Hòn Chông, Phụ Tử, trên bờ Tà Săng. Ngó lại đằng trước thấy bình tích nước, Ngó lại đằng sau thấy bộ kỷ trà. Anh thấy em có một mẹ già, Muốn vô phụng dưỡng biết là đặng không?

88

Phụng hoàng

417.

89

1. Anh đi lưu thú Bắc Thành, Để em khô héo như nhành mai khô. Phụng hoàng lẻ bạn sầu tư, Em đây lẻ bạn cũng như phụng hoàng. 2. Cá lý ngư sầu tư biếng lội, Chim phụng hoàng sầu cội biếng bay. 3. Con chim nho nhỏ, Cái mỏ xinh xinh, Nó đậu trên cành, Nó kêu anh Sáu hỡi, Công cha, nghĩa mẹ sinh thành, Ơn no, nợ nước, nghĩa tình thế nao? Thuyền quyên phải sánh anh hào, Phụng hoàng đâu sánh thấp cao với diều, Kiểng kia, ai để bìm leo, Gái khôn ai gá nghĩa theo người loàn. 4. Con phụng hoàng bay ngang biển bắc, Cá lý ngư lặn hụp ngoài khơi. Gặp nhau đây xin tỏ đôi lời, Kẻo mai đây con cá kia về vịnh, con chim nọ đổi dời non nam. 5. Đêm nằm day mặt trở ra, Ngày nay mới biết cô Ba thương mình, Mình giữ chữ Trung, chữ Hiếu, còn thiếu chữ Tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao đành vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương ngãi nhớ ở trong thơ này. Đôi ta chẳng đặng sum vầy, Cũng như chim nhạn lạc bầy kêu sương. Tôi xa mình cô bác đều thương, Trên trời vần vũ ngọn dương xoay vần. Dầu cho lạc Tấn qua Tần, Thương ai cũng để dành phần thương em. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. Ngã tư chợ Gạo muốn hồi, Tôi chồng mình vợ còn ngồi thương ai. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gởi thơ về thăm anh? 6. Giương cung rắp bắn phụng hoàng, Chẳng may bắn phải một đàn chim ri. 7. Mù u nhỏ rễ ăn lan, Sợ mình nói gạt qua đàng đấy thôi. Phụng hoàng chấp cánh bay xuôi,

161 200 236 238 259 291 323-324

90

Liệu bề thương đặng, mình ơi, tôi chờ. Nước lên khỏi bực tràn bờ, Thương mình thương vậy, biết chờ đặng không? Đặng không tôi cũng gắng công, Đợi cho con cá hóa rồng sẽ hay. Gặp mình may quá là may, Trông cho trời tối bắt tay đặng về. 8. Phụng hoàng cắn bức thơ loan, Miệng mời quân tử dậy xem thơ nàng. 9. Phụng hoàng đầu đỏ mỏ đen, Ra đi phụ mẫu dặn gặp em kết nguyền. 10. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gửi thư về thăm anh. 11. Phụng hoàng đậu nhánh ô rô, Ông thần không vật mấy cô chưa chồng. 12. Phụng hoàng đậu nhánh sa kê, Ông thần không vật mấy thằng dê cho rồi. 13. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. 14. Phụng hoàng đua, se sẻ cũng đua, Dạo chơi trước miễu sau chùa, Đụng người buôn bán, quê mùa thiếu chi. 15. Từ khi anh xa cách bạn vàng, Cơm ăn chẳng đặng, như con chim phụng hoàng bị tên. 16. Bao giờ mưa thuận gió hòa, Thay lông đổi cánh lại ra phụng hoàng. 17. Phụng hoàng chặt cánh đuổi đi, Bắt con bìm bịp đem về mà nuôi. 18. Phụng hoàng đậu nhánh cây khô, Chừa cho sáo đậu, chim cò nghỉ chân. 19. Con chim phụng hoàng bay ngang qua chợ, Anh lấy em về làm vợ nuôi con.

357 357 357 357 357 357 358 411 475 498 498 433

Phụng loan

418.

311 328 358

Phụng thờ

419.

1. Lỗi căn duyên như đờn lỗi nhịp, Biết bao giờ cho hiệp phụng loan. 2. Nấu chè van vái Phật Bà, Khiến cho chung hiệp một nhà phụng loan. 3. Phụng loan gá ngỡi trên nhành, Loan chưa bỏ phụng, sao phụng đành bỏ loan? 1. Anh đau một canh, chết một giờ, Để coi người nghĩa phụng thờ làm sao? Tôi thờ mình bộ lư đồng cao, Sáo treo cùng cặp chân đèn thau bóng vàng. 2. Chết ba năm, sống lại một giờ,

159 215

423 462

Phượng hoàng

390

420.

Quả báo

421.

489 489

Quá giang

195

422.

Quan khách

399

423.

Quân tử

424.

91

Để xem người cũ phụng thờ ra sao? Thờ mình dĩa muối, dĩa rau, Còn thờ phụ mẫu mâm cao cỗ đầy. 3. Anh giả đò chết thử đôi giờ, Để coi vợ ruột phụng thờ ra sao? Tôi thờ mình, đóng ghế cho cao, Bạc đồng để dưới, bài cào để trên. 4. Công cha ba năm tình thâm lai láng, Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang. Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn, Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ. Tiếc bông sen nở chen bông súng, Tiếc con chim phượng hoàng đậu trúng nhánh tùng khô. 1. Đời xưa quả báo còn chầy, Đời nay quả báo một giây nhãn tiền. 2. Đời xưa quả báo còn lâu, Đời nay quả báo bất câu giờ nào. Buồn tình hai đứa buồn tình, Ai về Đồng Tháp cho mình quá giang. Tới đây thủ phận đưa đò, Trước đưa quan khách sau dò ý em. 1. Ai làm con vịt xa chuồng, Để cho quân tử bữa buồn bữa lo. 2. Bánh canh con vắn con dài, Bánh canh ngọt chui tọt khỏi nhai. Thưa ai kêu tôi đó, dạ có tôi đây, Bốn mùa bông cúc nở xây, Lòng thương quân tử, cha mẹ rầy cũng thương. 3. Bậu chê anh quân tử lỡ thì, Anh tỷ như con cá ở cạn chờ khi hóa rồng. 4. Cá rô ăn móng, dợn sóng dưới đìa, Chờ người quân tử trở về kết hôn. 5. Cây trăm nhánh gồm thâu một cội, Nước ngàn sông chảy hội một nguồn. Bấy lâu nay duyên nợ cheo cư, Tôi ôm lòng tư đợi người quân tử, Ngày nay giáp mặt nọ rồi như guộng chỉ tơ. 6. Chiều chiều lại nhớ chiều chiều, nhớ người quân tử chín chiều ruột đau. 7. Chiều chiều ra đứng ngó trông, Nhớ người quân tử biệt tăm, biệt hình. 8. Chiều nay em ra sông Cái, Em tự ải cho rồi, Sống làm chi biệt ly quân tử,

155 180 183 201 211 218 219 220

221 236 256 258 309 309 315 335 335 351 357 400 453 453

371

Quý nương

425.

285

Quốc ngữ

426.

202

Quý nhân

427.

92

Thác cho rồi đặng chữ hiếu trung. 9. Chim chuyền nhành ớt líu lo, Lòng thương quân tử ốm o gầy mòn. 10. Con chim nho nhỏ, Đỏ mỏ xanh lông, Đỏ mòng xanh kiểng, Nó kêu xao xuyến nhiều tiếng lạ lùng, Kêu sao, kêu lại cho quân tử nghe cùng, Phải duyên quân tử kết, phải lòng quân tử ưng. 11. Đêm khuya gà gáy ó o, Làm ngươi quân tử lần mò đi đâu? Đêm khuya gà gáy ó o, Nhà tôi sân rộng tôi bò tôi chơi. 12. Đêm nằm ảo não thâm cung, Nhớ người quân tử đau cùng lá gan. 13. Lên xe, xe hét, xe gầm, Lòng thương quân tử dãi dầm nắng mưa. 14. Lên xe, xe gãy ngựa bươn, Trách lòng quân tử cầm cương không đều. 15. Mảng coi con kiến lửa lên xuống cửa thềm, Anh làm người quân tử chi hiềm nữ nhân. 16. Ngọc lành ai lại bán rao, Chờ người quân tử mà trao ngọc lành. 17. Ngọc lành còn đợi giá cao, Chờ người quân tử em giao nghĩa tình. 18. Nước trong xanh em để dành tưới hẹ, Quân tử lỡ thời tại mẹ kén dâu. 19. Phụng hoàng cắn bức thơ loan, Miệng mời quân tử dậy xem thơ nàng. 20. Trách người quân tử bia danh, Chơi hoa rồi lại bẻ nhành bán rao. 21. Trách lòng quân tử bạc tình, Gieo neo cho thiếp một mình biển đông. 22. Trách người quân tử sang ngang, Ruộng người thì cấy, bỏ hoang ruộng nhà. Sương sa ướt áo đầm mình, Ngày nay mới rõ ý tình quý nương. Giấy Tây bán mấy, Mua lấy một tờ, Đề thơ quốc ngữ, Dán lên trái bưởi, Thả xuống giang hà, Cả kêu người nghĩa trong nhà, Xuống sông vớt bưởi lên mà xem thơ. Cái lá sen rủ, cái củ sen tàn, Bao nhiêu quý vật lại tầm quý nhân. Cái lá sen rủ, cái củ sen tàn,

202

Quý vật

428.

Quyền quới

157

429.

Quyền quý

430.

186 186 226 432

Quyến luyến

272

431.

Sa cơ

432.

251 499

Sanh dưỡng

462

433.

Sanh tâm

278

434.

93

Bao nhiêu quý vật lại tầm quý nhân. Ai xui rã chút duyên kim cải, Ai khiến rời chút ngãi tao khang, Đã đành trâm gãy gương tan, Kẻ ở Phiên bang, người về Hớn địa, Tình không tròn trịa nên nước rã rời, Nằm đêm anh những vái trời, Cho em gặp nơi quyền quới nối lời nước non. 1. Bây giờ anh đặng chữ vinh quy, Ham nơi quyền quý, nghĩ gì đến em. 2. Bây giờ anh kiếm đặng em rồi, Tỷ như cây kim đi tầm sợi chỉ, Sao em không biết nghĩ, biết suy, Em ham nơi quyền quý, không nghĩ gì tới anh. 3. Chợ Bến Thành dời đổi, Người sao khỏi hiệp tan. Xa gần giữ ngãi tao khang, chớ tham quyền quý phụ phàng nghĩa xưa. 4. Xa gần giữ nghĩa tao khang, Chớ tham nơi quyền quý phụ phàng bạn xa. Đường đi xa hai đứa ta nói chuyện, Lúc giã từ còn quyến luyến nhau hoài, Về nhà anh cậy mối mai, Mẹ cha em khó, hỏi hoài không xong. 1. Đẩy xe loan xuống viếng bạn hiền, Sa cơ xe gãy nỗi niềm tóc tơ. 2. Sa cơ nên phải lụy đò, Thuyền buôn lỡ chuyến lửng lơ đầu ghềnh. Công sanh dưỡng bằng công tạo hóa, Có mẹ cha sau mới có chồng. Nhớ khi dìu dắt ẵm bồng, Nay đi xuất giá não lòng lắm thay. Em thương anh hết sức thương, nhớ hết sức nhớ, Gặp anh vô cớ em chẳng dám nhìn, Sợ chị lớn ở nhà chỉ sanh tâm biến tánh, hốt hoả lôi đình, Chỉ rình ngã ba, chỉ đón ngã bảy, không biết chết mình hay hại em.

Sanh thành

435.

312 389 459 464

Sanh tử

436.

310 345 435 457

Sầu ái

458

437.

Sầu bi

444

438.

Sầu muộn

456

439.

Sầu não

440.

1. Lúc em bước chân ra, ở nhà má có dặn, Công sanh thành là nặng, điều tình ái là khinh, Mựa đừng tham sắc mê tình, Lánh sa tửu điếm, trà đình chớ vô. 2. Thương tôi rượu chén trầu cơi, Đến cùng phụ mẫu đền nơi sanh thành. 3. Cha mẹ em sanh thành tạo hoá, Nhai cơm lừa cá, Nhai cá lừa xương, Ơn chưa đền, nghĩa chưa trả, biểu thương anh sao đành. 4. Em đừng đem dạ thương anh, Để thương cha mẹ sanh thành sớm hôm. 1. Liễn treo, ba phía trong đình, Chữ vàng chưa lợt sao mình vội quên. Đường sanh tử như mũi tên, Ở gần không dám xuống lên cho thường. 2. Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn, Cửa Hàm Luông mây cuốn cánh buồm xuôi, Bậu với qua hai mặt một lời, Trên có trời, dưới có đất, Ngãi trăm năm vương vất sợi tơ mành. Tử sanh, sanh tử chung tình, Dầu ai ngăn đón, tôi với mình cứ thương. 3. Đạo nào bằng đạo phu thê, Tay ấp má kề sanh tử có nhau. 4. Vợ chồng là nghĩa phu thê, Tay ấp má kề sanh tử có nhau. Anh đi đâu cần câu, giỏ nhái? Có chút mẹ già, sầu ái lá gan. Mực mài vào dĩa sầu bi, Vợ chồng, chồng vợ phân ly hai đàng. Vợ anh còn, con anh có, anh đừng thương gió nhớ mây, Đừng để chị ở nhà sầu muộn giữ dây chịu sào. 1. Anh đừng sầu não tương tư, Để em thưa lại mẫu từ họa may. 2. Bậu đừng sầu não làm chi, Qua với bậu như nút với khuy đã rồi. 3. Bổn hư nên kiểng vội tàn, Đó đừng sầu não, khiến đây càng sầu thêm.

163 184 191

94

Sầu tư

441.

161 200 257 426

Sinh thành

442.

471 236

Sính nghi

168

443.

Song kiều

363

444.

Song loan

445.

243 243 308

1. Anh đi lưu thú Bắc Thành, Để em khô héo như nhành mai khô. Phụng hoàng lẻ bạn sầu tư, Em đây lẻ bạn cũng như phụng hoàng. 2. Cá lý ngư sầu tư biếng lội, Chim phụng hoàng sầu cội biếng bay. 3. Đêm khuya thắp chút dầu dư, Tim lan cháy lụn, sầu tư một mình. 4. Cá lý ngư sầu tư biếng lội, Chim trong rừng sầu cội biếng ăn. Anh thương em nhiều nỗi long đong, Con thơ tay bế tay bồng, Muốn vô chắp nối, em có bằng lòng hay không? 1. Trời cao lồng lộng, Đất rộng thinh thinh, Đi ra bỏ mẹ sao đành, Công ơn cha mẹ sinh thành ra em. 2. Con chim nho nhỏ, Cái mỏ xinh xinh, Nó đậu trên cành, Nó kêu anh Sáu hỡi, Công cha, nghĩa mẹ sinh thành, Ơn non, nợ nước, nghĩa tình thế nao? Thuyền quyên phải sánh anh hào, Phụng hoàng đâu sánh thấp cao với diều, Kiểng kia, ai để bìm leo, Gái khôn ai gá nghĩa theo người loàn. Anh rằng: anh tưởng, anh thương, Xin anh mau kíp lo lường sính nghi. Rửa chân cho sạch, Bước lên ngựa bạch, Nó chạy song kiều, Thấy em lao khổ chín chiều ruột đau. 1. Cửa song loan anh khoan mở đã, Phụ mẫu em rầy cẩn khóa niêm phong. 2. Cửa song loan sớm mở tối gài, Mình đứng trong than thở, tôi đứng ngoài thở than. 3. Lầu nào cao bằng lầu ông Phó, Chuyện nào khó bằng chuyện gái với trai. Cửa song loan sớm mở tối gài, Em ở trong than thở, anh ở ngoài thở than.

95

Song thân

446.

177-178 267

Song toàn

283

447.

Sông giang hà

367

448.

Sông Ngân hà

367

449.

Sơn cước

221

450.

Sơn hà

493

451.

Sơn khê

186

452.

Sơn lâm

371

453.

Sơn trường

454.

153 153

Sui gia

455.

208 246 423

343

Sum hiệp

456.

96

1. Ba Lai cầu gối đầu Rạch Miễu, Anh thương anh hiểu, Chứ em chưa hiểu song thân, Mẹ biểu thì anh phải vâng, Thôi về mai mối ngày gần anh qua 2. Đợi lịnh song thân anh đành phải vậy, Em quyết một lời, anh sẽ cậy mai dong. Gặp mặt em đây bán lộ giữa đàng, Hỏi thăm phụ mẫu song toàn hay không? Sông giang hà chảy ra biển rộng, Bắc đẩu Tinh quay ngóng chầu trời. Tôi thương mình lắm mình ơi, Biết sao kể nỗi khúc phôi ở mình. Sông Ngân hà vịt lội ướt lông, Rùa kêu đá nổi thiếp không gặp chàng. Chim buồn tình, chim bay về núi, Cá buồn tình, cá lủi xuống sông, Anh buồn tình, anh dạo chốn non bồng, Dạo miền sơn cước, xuống chốn ruộng đồng mới gặp em. Làm trai đứng ở trên đời, Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta. Ghé vai gánh đỡ sơn hà, Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu. Bấy lâu cách trở sơn khê, Tưởng anh đã đặng vinh huê với đời. Sơn lâm mấy cội tùng vàng, Cành bao nhiêu lá thương nàng bấy nhiêu. 1. U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường, Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua. 2. U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường, Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ ai. 1. Cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa, Anh với em đi cũng xứng, đứng lại cũng vừa, Tại cha với mẹ kén lừa sui gia. Kén sui gia tại cha với mẹ, Chớ hai đứa mình nguyện lệ tình thâm. 2. Dĩa bàn thang tôm càng dựng đứng, Phụ mẫu em nghèo, không xứng sui gia. 3. Anh hai đi với chị hai, Mâm trầu, hũ rượu tốn hai mươi tiền. Còn dư mua chả mua nem, Mua cặp lồng đèn hai họ cùng lêu. Ông cai, ông ký ngồi trên, Sui gia ngồi dưới hai bên họ hàng. Nhớ nhau lụy ứa hai hàng, Thương nhau luống những đoạn trường thiết tha.

Tái thế

313

457.

Tam cấp

128

458.

Tam công

398

459.

Tam sơn

465

460.

Tam tòng

461.

276 372

Tam tùng

462.

441 463

Tang tình

463.

167 222

Tao khang

212

464.

Tao khương

465.

97

Bấy lâu nay sum hiệp một nhà, Nay đành phân ngả đôi ta thế này. Nhắc đến nhau chẳng chút dạ khuây, Hình dung khô héo ốm gầy thân em. Lưỡi Trương Nghi dẫu bén, Miệng Tô Tử dẫu lanh, Bây giờ em đã quyết với anh, Dẫu hai ông tái thế dỗ dành chẳng xiêu. Anh lên Bảy Núi, Anh chạy thẳng Tà Lơn, Căn nợ keo sơn thấu đến ông trời, Trời cao đất thấp, Anh đến tam cấp lập cửu trùng đài, Thời hư khiến vậy, ráng lập hoài cũng nên. Tới đây chí quyết một nàng, Áo đen tay chẹt, vá quàng tam công. Lục bình chưng trước tam sơn, Đôi ta quỳ xuống đền ơn mẫu từ. 1. Em đội khăn lông trắng, em gắn hai chữ tam tòng, Mai sau anh có chết, em lén chồng để tang. Anh đội khăn rằn trắng, anh gắn chữ huỳnh, Mai sau em lưu lạc, anh nhìn cái khăn. 2. Tam tòng sách hãy còn ghi, Bé nương cha mẹ lớn thì theo anh. 1. Khuyên em xét kỹ, em nghĩ cho cùng, Trung trinh liệt nữ, quân tử anh hùng, Làm sao cho vẹn tam tùng, Gái ngoan chẳng lấy hai chồng bỏ anh. 2. Được chữ trung, mất đùng chữ hiếu, Được chữ tam tùng lỗi với mẹ cha. 1. Anh ơi, đưa hộp kiếng anh bỏ chữ tang tình, Để chiều về trển mở ra nhìn có em. 2. Chim kêu cạnh suối tang tình, Không ai lẻ bạn cho mình kết đôi. Cha tôi già, mẹ tôi yếu, con tôi còn nhỏ xíu, mắc nợ tứ giăng, Muốn mượn anh vô trả thế, sợ anh nói nợ không ăn, anh phiền. Thương em rồi anh dẹp lấy ưu phiền, Nợ tao khang nặng nhất, đâu phải vì bạc tiền em ơi. 1. Cây chi trên rừng không lá, Con cá chi dưới biển không xương? Trai nam nhi đối đặng, thiếp kết tao khương với chàng. Cây xương rồng trên rừng không lá,

207

329

207

Tào khương

466.

Tạo hoá

467.

459 462

316

Tâm sự

468.

Tâm tình

469.

159 310 352

450

Tân hôn

470.

159

Tận tình

471.

419

Thác vong

472.

243

Thạch lân

473.

98

Con sứa dưới biển không xương, Trai nam nhi đối đặng, thiếp lường tính sao? 2. Ngày nay lựu đặng gặp đào, Kiểng sầu gặp nước dạ nào chẳng thương. Ngày nay tơ nguyệt vấn vương, Ngàn năm vẫn giữ tao khương trọn đời. Cây gì không lá, cá gì không xương, Trai như anh đối đặng kết tào khương vợ chồng. Cây măng không lá, cá họa hình không xương, Trai như anh đối đặng, gái như em kết tào khương vợ chồng. 1. Cha mẹ em sanh thành tạo hóa, Nhai cơm lừa cá, Nhai cá lừa xương, Ơn chưa đền, nghĩa chưa trả, biểu thương anh sao đành. 2. Công sanh dưỡng bằng công tạo hoá, Có mẹ cha sau mới có chồng. Nhớ khi dìu dắt ẵm bồng, Nay đi xuất giá não lòng lắm thay. Mảng sầu đông giọt vắn giọt dài, Không biết cùng ai tỏ bày tâm sự. Nhìn cảnh lạ đau lòng Chức Nữ, Đêm xem trăng già chạnh nhớ người thương. 1. Anh dứt lời, em đây phút động tâm tình, Hai hàng lụy nhỏ như bình nước nghiêng. 2. Lòng đây ảo não tâm tình, Thấy em ở góa một mình anh thương. 3. Ông tơ xe, bà nguyệt buộc, Phải chi xe tôi là vợ ruột của mình, Ăn chung một mâm, ngủ chung một chiếu thỏa nỗi tâm tình, bớt thương. Tân hôn hai gối một mền, Vái ông tơ bà nguyệt xe bền đôi ta. Anh đau em vái tận tình, Vái cho anh mạnh, mở cửa đình cúng heo. Em vái rồi, anh cũng vọt miệng vái theo, Đau nam vái bắc, biết mấy heo bịnh chày. Xa cây xa cội chẳng vội xa cành, Thác vong cam chịu, sống không đành xa anh. Cửa ngoài có cặp thạch lân, Nói chơi thời có, nằm gần thời không.

Thảm sầu

474.

161 342 479

Thảm tình

218

475.

Thanh tân

381

476.

Thạnh suy

335

477.

Thạnh thời

418

478.

Thâm trầm

306

479.

Thâm ý

238

480.

Thất kinh

481.

213 358

Thất Sơn

482.

150 150

Thất thế

257

483.

99

1. Anh đi mười tám nước ghe bầu, Không nghe ai ăn nói thảm sầu như em. 2. Nhiều sương cỏ mới bạc đầu, Thương anh, em chịu thảm sầu từ đây. 3. Chiều chiều bắt nhái cắm câu, Nhái kêu cái ẹo, thảm sầu nhái ơi. Chiều chiều mây kéo về kinh, Ếch kêu giếng bạn thảm tình đôi ta. Thấy em hân hấn má đào, Thanh tân mày liễu dạ nào chẳng thương. Ngó vô nhà nhỏ thấy đôi liễn đỏ có bốn chữ vàng, Thạnh suy chưa biết, thấy nàng vội thương. Vợ xa chồng xa than xa thở, Tôi xa mình, xa đỡ chớ bao nỡ xa đời, Nào phải như ai lúc lâm nguy thì lánh nạn, lúc thạnh thời mới tìm nhau. Lá tía tô tốt, ngọn dền cũng tốt, Ngọn lang giâm, ngọn mía cũng giâm, Anh than với em những nỗi thâm trầm, Nằm đêm nghĩ lại nát bầm lá gan. Con kiến vàng bò ngang lá bí, Thấy chị Hai cười thâm ý anh thương. 1. Chẳng thà lấy chồng khờ chồng dại, Lo kinh thương mãi mại, Tính công nghệ nông tang, Không ham nhiều bạc lắm vàng, Mai sau sanh chuỵên điếm đàng bỏ em. Qua đây muốn kiếm một nàng, Thạo thông đường buôn bán, Rao cùng thôn xóm mà chưa đáng chỗ nào, Thiếu chi những chị má đào, Họ mê bài phé, bài cào, anh thất kinh. 2. Qua muốn kiếm một nàng thạo đường buôn bán, Rao cùng thôn quán mà chưa thấy chỗ nào. Thiếu chi những chị má đào, Họ mê bài phé, bài cào, qua thất kinh. 1. Thất Sơn ai đắp mà cao, Sông Tiền, sông Hậu ai đào mà sâu? 2. Thất Sơn: bảy núi nằm kề, Khi đi thì trắng, khi về thì đen. Đêm khuya trăng dọi lầu son, Vào ra thương bạn héo hon ruột vàng, Bển qua đây đàng đã xa đàng, Dẫu tôi có lâm nguy thất thế, Hỏi cô bạn vàng có cứu không? Chiều rồi kẻ bắc người đông,

Thất tình

484.

220 246 412

Thế gian

485.

185 252 291 344 382 414 498 501 502

421

Thế sự

486.

Thế thường

487.

181 252

100

Trách lòng người nghĩa nói không thiệt lời. 1. Chiều nay có kẻ thất tình, Dựa mai mai ngã, dựa huỳnh huỳnh xiêu. 2. Dọn cơm chống đũa mà nhìn, Mảng sầu người nghĩa, thất tình quên ăn. 3. Từ ngày chịu chữ thất tình, Nương mai mai gãy, dựa đình đình xiêu. 1. Bậu không, sao thế gian đồn, Bản treo giữa chợ, bậu còn kêu oan. 2. Đèn hết dầu đèn tắt, Nhang hết nhụy hết thơm. Biểu anh đừng lên xuống đêm hôm, Thế gian đàm tiếu, thế thường cười chê. 3. Giữ sao như chén nước đầy, Chớ nên rày đó mai đây, Thế gian gièm xiểm, phụ mẫu hay thêm buồn. 4. Nhứt nhựt vãng lai hằng ngày đối diện, Muốn phân đôi lời sợ miệng thế gian. 5. Thế gian ai cũng chuộng tài, Lòng tôi chuộng ngãi, chẳng nài giàu sang. 6. Vãng vãng lai lai thường ngày đối diện, Muốn phân đôi lời sợ miệng thế gian. 7. Quần lủng đáy đi đâu xớ xớ, Áo rách te nói chuyện bốc chày. Thế gian lắm chuyện khôi hài, Hễ ăn được cá, tính bài bỏ nơm. 8. Thế gian dại dại khôn khôn, Sống mặc áo rách chết chôn áo lành. 9. Tửu năng hồng nhơn diện, Tài năng động nhơn tâm Thế gian họ nói không lầm, Lụa tuy vóc trắng, vụng cầm cũng đen. Xưa nay thế sự nói không lầm, Trắng trong là lụa, vụng cầm cũng đen. 1. Bảy với ba tính ra một chục, Tam tứ lục coi lại cửu chương, Liệu bề đát được thì đươn, Đừng gây rồi bỏ thế thường cười chê. 2. Đèn hết dầu đèn tắt, Nhang hết nhụy hết thơm. Biểu anh đừng lên xuống đêm hôm, Thế gian đàm tiếu, thế thường cười chê.

Thị phi

488.

183 288 290

Thiên đình

370

489.

Thiên hạ

490.

216 228 381 382 403

Thiên kim

423

491.

Thiên tào

379

492.

Thiên tư

410

493.

Thịnh trị

267

494.

Thọ lãnh

289

495.

Thoái hồi

372

496.

101

1. Bậu đừng nghe tiếng thị phi, Thủy chung anh giữ vẹn, trọn nghì sắt son 2. Gió đưa trăng muỗi mòng xao xuyến, Anh xa nàng vì tiếng thị phi. 3. Giơ tay anh hứng sương trời, Rửa làm sao sạch những lời thị phi. Sống mấy ngày, thương anh bạn mấy ngày, Không biết thiên đình sổ định vắn dài mà thương lâu. 1. Chí quân tử cửu châu lập nghiệp, Đại trượng phu tứ hải đi xa, Thương em vì nết hiền hoà, Thiếu chi người trong thiên hạ vậy mà anh không thương. 2. Chuyện vợ chồng chớ có bồn chồn, Anh thương em thì xin dè dặt, chớ để thiên hạ đồn không hay. 3. Thấy em gò má hồng hồng, Phải chi em đừng mắc cỡ, anh bồng anh hôn. Chuyện vợ chồng anh chớ bồn chồn, Anh thương em xin dè dặt, chớ để thiên hạ đồn không hay. 4. Thấy em rủ rỉ anh thương, Ba quân thiên hạ phố phường thiếu chi. 5. Trăng rằm mười sáu trăng thanh, Thiên hạ ngủ hết còn anh với nàng. Kề vai hỏi thử bạn vàng, Cha mẹ không gả, cô nàng tính sao? Anh đừng thấy đăng mà phụ đó, Đừng chê em nghèo khó mà vội phụ phàng. Anh coi, đồng tiền sớm mơi còn chiều mất, Chớ nhân nghĩa bạn vàng vững chắc thiên kim. Thấy anh ăn học bên Tây, Em đây xin hỏi mặt trời xoay phía nào? Thấy anh ăn học bên Tàu, Em đây xin hỏi ông Thiên Tào ở đâu? Tôi rầu thiên tư năm bảy chuyện bằng đình, Để tôi rầu hết anh chung tình thảnh thơi. Đời phải đời thịnh trị, Cuộc phải cuộc văn minh, Kìa là gió mát trăng thanh, Biết đâu nhơn đạo bày tình cho vui. Gió lao rao tàu cau nhỏng nhảnh, Em thương anh rồi thọ lãnh đôi bông. Tại nghe em có chồng rồi, Mấy lời anh than bữa hổm em thoái hồi cho anh.

Thối lui

205

497.

Thối nan

233

498.

Thông minh

357

499.

Thông ngôn

496

500.

Thông thổ

385

501.

Thơ ấu

298

502.

Thơm danh

493

503.

Thủ tiết

478

504.

Thuần hậu

152

505.

Thục địa

506.

239 239

102

Cẳng bước tới sum vầy hai họ, Tai nghe anh có vợ rồi, cẳng nọ em thối lui. Em không trách ông tơ, Không phiền bà nguyệt, Trách phận mình sao thiệt long đong. Con cá vô lờ đụng vỉ thối nan, Em chê anh nghèo khổ, kiếm chỗ giàu sang mà nhờ. Phụ mẫu đánh em xương tan thịt nát, bỏ xác xuống đường mương, Anh đấng làm trai thông minh trí hụê sao để gái hiền lương bị đòn? Mười giờ ông Chánh về Tây, Cô Ba ở lại lấy chồng thông ngôn. Thông ngôn, ký lục bạc chục không màng, Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay. Thông thổ mồ tổ anh ở đâu? Anh tới đây, anh bủa lưới giăng câu một mình? Hồi em còn thơ ấu, Anh chê em nhỏ, xấu không coi. Bây giờ em có chồng rồi, Như bạc phong cây cất vô tủ sắt, Anh muốn vào lòn đâu lọt, bớ anh. Làm sao giữ trọn đạo ba, Sau dầu có thác cũng là thơm danh. Chị Hạnh Ngươn thủ tiết, Ai có biết chăng là, Sống nhơ không chịu, chẳng thà chết thơm. Tiếng đồn con gái Thủ Biên, Bạc Liêu đi cưới một thiên cá mòi. Tiếng đồn con gái Giồng Chanh, Nói năng chua chát khó thành nợ duyên. Tiếng đồn gái gảnh Bà Hiền, Ở ăn thuần hậu ấy duyên với mình. 1. Con rắn hổ mây nằm trên cây thục địa, Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên. Tôi trách anh bạn đảo điên, Gạt em xuống chốn huỳnh tuyền bỏ em. 2. Con rắn hổ mây nằm cây thục địa, Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên. Phận em là gái thuyền quyên, Ai mà đối đặng kết nguyền phu thê.

Thục nữ

507.

234 250 282 285 363 385 403 487

305

Thư bộ

508.

340

Thượng lộ

509.

418

Thượng uyển

510.

1. Con chim đậu trên núi, Nó kêu con gà dưới suối, Gà gáy chầu đôi, chầu ba, Đêm năm canh không ngủ lại ngồi, Trông người thục nữ bồi hồi lá gan. 2. Đất có chỗ bồi chỗ lở, Ngựa có con dở con hay. Coi theo thời mà ở, Chọn theo cỡ mà xài. Dầu ai ỷ thế cậy tài, Em giữ lòng thục nữ dồi mài gương trong. 3. Gặp được lúc đêm thanh trăng tỏ, Hát hò chơi cho rõ nhân tình. Phòng loan thục nữ một mình, Hay là đã sẵn duyên tình cùng ai? Vẳng nghe ai hát, lòng đây bát ngát thêm phiền, Cô phòng giữ dạ thuyền quyên, Chờ người nhơn nghĩa em nguyền trao thân. 4. Giả tỉnh say dò lòng thục nữ, Giả khát qua đường, thử dạ người thương. 5. Ruộng đồng anh thả bướm bông, Thương người thục nữ có công đợi chờ. 6. Thục nữ ơi, nàng hỡi nàng, Ghi xương khắc cốt lời vàng hôm nay. 7. Trăng thanh gió mát, Nghe đó hát đây cảm trong lòng. Gặp em giữa lộ giữa đồng, Hỏi thăm thục nữ loan phòng chờ ai? 8. Đất có bồi có lở, Người có dở có hay. Coi theo thời mà ở, Chọn theo cỡ mà xài. Dầu ai ỷ thế cậy tài, Em giữ lòng thục nữ dùi mài gương trong. Kiểng nhà thờ vội đổ, Trống thư bộ hồi quân, Nhìn anh nước mắt rưng rưng, Xuống lên khộng đặng vì chưng em có chồng. Nhà thương Chợ Quán kẻ bắt ván, người leo thang, Đôi đứa ta thương nhau, thương dại thương dột, thương lột da óc, thương tróc da đầu, Ngủ đi thì chớ, thức dậy lại thương, Giục ngựa bươn cương lên đường thượng lộ, Trời hỡi trời, mới ngộ lại xa. Vườn thượng uyển thiếu chi chồi lan huệ, Nội thượng lâm đâu thiếu tược mẫu đơn.

103

Thủy chung

511.

183 291 405 453

420

Thủy hỏa

512.

299

Thủy tinh

513.

Thuyền quyên

514.

104

Bậu đừng nghĩ ngợi thiệt hơn, Rửa tai nghe lóng tiếng đờn tri âm. Đờn tri âm tiếng đơn, tiếng kép, Rao nhặt khoan tiếng thiếp tiếng chàng. Bậu về qua Cửu Long giang, Tình thương qua nhớ bậu, nỗi dạ càng xót xa. Trách ai làm cách đôi ta, Đêm năm canh thổn thức vào ra thêm sầu. Chia tay gan thắt ruột bào, Đêm ngày than thở dầu bao canh tàn. Cúc đang xanh sao cúc vội tàn, Kiểng đương xanh sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai? 1. Bậu đừng nghe tiếng thị phi, Thủy chung anh giữ vẹn, trọn nghì sắt son 2. Gỏi nào bằng gỏi cá kìm, Dọn ra đãi bạn, trọn niềm thủy chung. 3. Trên trăng dưới nước, anh giao ước một lời, Dầu trăng lờ nước cạn, chẳng đời phụ em. Trời cao đất rộng, em vọng lời nguyền, Đất trời còn đó, em giữ tuyền thủy chung. 4. Trai trưởng thành định đôi can lệ, Gái khôn rồi đặng chữ vu quy. Trăm năm có một lần đi, Trai thì trọn hiếu, gái thì thủy chung. Xê ra đừng đứng một bên, Thủy hỏa xung khắc chẳng nên đứng gần. Tuổi anh mười chín, tuổi dần, Tuổi em tuổi tuất đứng gần can chi. Hột thủy tinh đây nhìn sáng rỡ, Để dành bao thuở, Làm nhẫn đeo tay, Dù ai năn nỉ hỏi hoài, Đợi người biết đạo của này anh trao. 1. Bậu đừng bán dạng thuyền quyên, Cái khăn bậu đội dây chuyền ai mua. 2. Bậu là con gái có duyên, Đừng cho sóng dợn, thuyền quyên lướt vào. 3. Cách bấy lâu mới gặp lại mình, Khác chi vạn thọ gặp bình nước tiên. Chưa chồng ở vậy cho nguyên, Để anh dọn chiếc thuyền quyên rước về. 4. Chưa chồng ở vậy cho nguyên, Đặng anh dọn chiếc thuyền quyên rước về. 5. Con chim nho nhỏ, Cái mỏ xinh xinh, Nó đậu trên cành,

183 185 202 229 236

239 244 282 300 338 350 368 386 394

219

Tiên phuông

515.

105

Nó kêu anh Sáu hỡi, Công cha, nghĩa mẹ sinh thành, Ơn non, nợ nước, nghĩa tình thế nao? Thuyền quyên phải sánh anh hào, Phụng hoàng đâu sánh thấp cao với diều, Kiểng kia, ai để bìm leo, Gái khôn ai gá nghĩa theo người loàn. 6. Con rắn hổ mây nằm cây thục địa, Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên. Phận em là gái thuyền quyên, Ai mà đối đặng kết nguyền phu thê. 7. Dạo chơi đã khắp bốn phang, Thuyền quyên có một tay nàng mà thôi. 8. Gặp được lúc đêm thanh trăng tỏ, Hát hò chơi cho rõ nhân tình. Phòng loan thục nữ một mình, Hay là đã sẵn duyên tình cùng ai? Vẳng nghe ai hát, lòng đây bát ngát thêm phiền, Cô phòng giữ dạ thuyền quyên, Chờ người nhơn nghĩa em nguyền trao thân. 9. Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng. Thuyền quyên nỡ phụ anh hùng sao nên. 10. Nghe đồn tiếng gái thuyền quyên, Rủ hò cho thấy nhãn tiền thực hư. 11. Nước trong khe chảy xuôi về vịnh, Trời cao đã định nước chảy vòng cung. Nào ai thương khó với cùng, Thuyền quyên lỡ lứa anh hùng lỡ đôi. 12. Sông sâu sóng bủa láng cò, Thương em vì bởi câu hò có duyên. Chưa chồng ở vậy cho nguyên, Đặng anh chọn chiếc thuyền quyên rước về. Thấy em da trắng muốn kề, Hường nhan cũng đẹp sợ bề có đôi. Anh đừng nói vậy anh ơi, Hình dung yểu điệu có đôi bao giờ. 13. Thùng thùng, đó nói một câu, Đây anh chầu nửa chục, Hễ là gạn đục, Thì phải lóng trong. E cho miệng chẳng in lòng, Chớ thuyền quyên sánh với anh hùng mới xuê. 14. Tôi đi dạo cảnh lê viên, Tới đây gặp gái thuyền quyên rủ hò. Chiều chiều vịt lội ao sen, Tình cờ gặp lại người quen tôi chào,

326

Tiền định

516.

293

Tiền nhật

517.

292

Tiền nhựt

518.

392

Tiền tài

519.

Tình ái

520.

311 312

Tình chung

521.

311 317 363

202

Tình nghĩa

522.

319

Tình thương

523.

106

Chào cô trước mũi tiên phuông, Chào cô sau lái mặt vuông chữ điền, Người nào là vợ Vân Tiên? Cho tôi biết để chào liền chị dâu. Người nào người ngỡi tôi đâu? Nói cho tôi biết để gởi câu ân tình. Này bạn ơi, Con cò trắng lượn quanh đám cấy, Bước đến đây thấy dạ bồi hồi, Chẳng duyên chẳng nợ thì thôi, Phải duyên phải nợ em đáp lời cùng anh. Này anh ơi, duyên đâu run rủi giữa đàng, Nếu phải như ba sinh tiền định thiếp mời chàng ghé dây. Hai đứa mình như nước rộng trong chai, Tiền nhật anh nói vậy, không biết hậu lai thế nào? Hai đứa mình gá nghĩa bữa nay, Tiền nhựt em nói vậy, còn hậu lai thế nào? Anh dứt lời than, em ruột thắt gan bào, Anh đi về bển, em vô phòng đào nước mắt rơi. Tiền tài nay đổi mai dời, Ngỡi nhơn gìn giữ trọn đời với nhau. 1. Lỡ bước giang đông, lỡ vòng tình ái, Trách ai về, gạt gái nữ thanh, Đêm nằm em trách ông trời xanh, Ổng sắp làm chi anh đầu non, em góc núi, Để kẻ đi tắt người về quanh một mình. 2. Lúc em bước chân ra, ở nhà má có dặn, Công sanh thành là nặng, điều tình ái là khinh. Mựa đừng tham sắc mê tình, Lánh xa tửu điếm, trà đình chớ ô. 1. Lòng qua như sắt, nói chắc một lời, Bạc tiền chẳng trọng, chỉ trọng người tình chung. 2. Mặt trăng được mấy cuội ngồi, Một thuyền chở được mấy người tình chung? 3. Rửa tay cho trắng, Ngắt ngọn rau đắng, trong trắng ngoài tươi. Bạc bảy mươi chuộc lấy tiếng em cười, Vàng đôi không tiếc, tiếc người tình chung. Cách bấy thu tưởng đà ly biệt Ai hay em còn trực tiết chờ anh. Đem lòng ngơ ngẩn sao đành, Chẳng duyên tơ tóc cũng tình nghĩa xưa. Mình giữ chữ trung, chữ hiếu, Còn thiếu chữ ân tình,

Tọa đăng

524.

254 254 254 254 413

237

Tố hộ

525.

Tội nghiệp

526.

183 230

107

Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong? Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương nghĩa nhớ ở trong thơ này, Xem thơ nước mắt nhỏ đầy, Thương tôi đừng gởi thơ này làm chi. Nhện giăng trướng án bố vi. Hai đứa mình chồng vợ sợ chi tiếng đồn. 1. Đèn tọa đăng để trước bàn thờ, Vặn lên nó tỏ, vặn xuống nó lờ, Xuống sông hỏi cá, lên bờ hỏi chim, Trách ai làm cho thố nọ xa tiềm, Em xa người nghĩa, nằm điềm chiêm bao. 2. Đèn tọa đăng đốt để bàn thờ, Chúng mình duyên nợ bao giờ không hay. 3. Đèn tọa đăng đốt để bàn thờ, Hai đứa mình chuyện vãn, tắt bao giờ không hay. 4. Đèn tọa đăng đốt để bàn thờ, Vặn lên cho nó tỏ, vặn nhỏ cho nó lờ, Anh thương em vì bởi cái khờ của em. 5. Ván cẩm lai trải chiếu bìa xanh, Đèn tọa đăng anh thắp sẵn chờ anh hết dầu. Con công tố hộ trên rừng, Hễ có cô chị thì đừng cô em. 1. Bậu có chồng chưa, bậu thưa cho thiệt, Kẻo để anh lầm tội nghiệp thân anh. 2. Có chồng chưa xin thưa cho thiệt, Kẻo anh lầm tội nghiệp, em ơi!

Trang điểm

527.

391 466

500

Tráng án

528.

299

Trần ai

529.

1. Tiếc công trang điểm bấy lâu, Trai tơ không gặp, gặp râu ba chòm. 2. Má ơi con má hư rồi, Má lo trang điểm phấn dồi cũng hư. Tiếc công phu tôi che cây dù tráng án, Che mấy năm trời cũng nắm cán dù không. Hồi nào vịn vế kề vai, Bây giờ anh bỏ trần ai một mình. Cảm thương lời nói chung tình, Một trăm năm cũng để phòng huỳnh chờ em.

Tri âm

530.

183 251 384 418 503

251

Tri kỷ

531.

357

Trí huệ

532.

302

Trí tài

533.

311

Trí tri

534.

233

Tróc vi

535.

129

Trứ danh

536.

494

Trực thị

537.

108

1. Bậu đừng nghĩ ngợi thiệt hơn, Rửa tai nghe lóng tiếng đờn tri âm. 2. Đây anh không giận, đó em cũng chớ hờn, Kiếp tái sanh ta sẽ nối phiếm đờn tri âm. 3. Thôi đây anh không giận thì đó em cũng đừng buồn, Kiếp tái sanh mình nối phím đờn tri âm. 4. Vườn thượng uyển thiếu chi chồi lan huệ, Nội thượng lâm đâu thiếu tược mẫu đơn. Bậu đừng nghĩ ngợi thiệt hơn, Rửa tai nghe lóng tiếng đờn tri âm. Đờn tri âm tiếng đơn, tiếng kép, Rao nhặt khoan tiếng thiếp tiếng chàng. Bậu về qua Cửu Long giang, Tình thương qua nhớ bậu, nỗi dạ càng xót xa. Trách ai làm cách đôi ta, Đêm năm canh thổn thức vào ra thêm sầu. Chia tay gan thắt ruột bào, Đêm ngày than thở dầu bao canh tàn. Cúc đang xanh sao cúc vội tàn, Kiểng đương xanh sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai? 5. Văn minh gặp buổi Lang – Sa, Tri âm thì ít, trăng hoa thì nhiều. Đây đã chèo lơi, Đặng chờ người tri kỷ, Gặp mặt chuyện trò cho phỉ ước mơ. Phụ mẫu đánh em xương tan thịt nát, bỏ xác xuống đường mương, Anh đấng làm trai thông minh trí hụê sao để gái hiền lương bị đòn? Khen cho anh bạn trí tài, Thương không hổng biết, giãi bày dễ nghe. Lộ bất hành bất đáo, Chung bất đả bất minh. Lâu nay tôi chẳng biết ý mình, Ngày nay minh bạch nhơn tình trí tri. Con cá tróc vi hiềm vì nước chảy, Cần câu gãy vì bụi gốc vướng cong. Bởi vì mai mối không xong, Nên duyên đôi ta trắc trở chứ tấm lòng không quên. Ngọt hơn quýt mật, cam sành, Biên Hòa có bưởi trứ danh tiếng đồn. Mặt trời trực thị chân mây, Có hai con mắt ngủ ngày một con. 1. Cách bấy thu tưởng đà ly biệt

202

Trực tiết

538.

288 340 372

Trượng phu

539.

410 493

223

Tụ ngũ

540.

Túc đế

541.

355 383

456

Tung hoành

542.

380

Tùng giả

543.

223

Tùng tam

544.

478

Tư niên

545.

Ai hay em còn trực tiêt chờ anh. Đem lòng ngơ ngẩn sao đành, Chẳng duyên tơ tóc cũng tình nghĩa xưa. 2. Gió đưa nước, nước xao dợn dợn, Gió đưa mây, mây chạy dật dờ, Đó đây duyên nợ sờ sờ, Bậu còn trực tiết mà chờ trông ai? 3. Nhạn còn náo nức hứng sương, Em còn trực tiết náu nương chờ mình. 4. Tại mẹ cha dứt tình tơ nguyệt, Khuyên em đừng trực tiết uổng công. 1. Trượng phu xử nghĩa vuông tròn, Ngàn năm lưu lạc dạ còn thương anh. 2. Làm trai đứng ở trên đời, Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta. Ghé vai gánh đỡ sơn hà, Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu. Chim quyên, chim én, chim phụng, chim nhàn, Bốn con tùng tam, tụ ngũ, Đậu mai mai rũ, đậu liễu liễu tàn, Từ ngày anh với em xa cách đôi đàng, Cơm ăn chẳng đặng, bạn vàng biết chăng? 1. Phải duyên túc đế, Như cây cỏ đế ngoài Huế anh cũng tìm. Không phải lương duyên, Như cây cúc mọc dựa thềm anh cũng không. 2. Thiếu chi củi quế rừng ta, Kiếm chi củi mục rừng xa đem về. Phải duyên túc đế ngoài Huế tôi cũng tầm, Không phải duyên củi quế dựa thềm tôi cũng nhổ quăng. Vô phúc lấy phải trẻ ranh, Nó ăn nó bỏ tung hoành nó đi. Thấy cô nho nhỏ tôi muốn bỏ nghề đờn, Theo cô làm tùng giả, đánh quờn cho cô coi. Chim quyên, chim én, chim phụng, chim nhàn, Bốn con tùng tam, tụ ngũ, Đậu mai mai rũ, đậu liễu liễu tàn, Từ ngày anh với em xa cách đôi đàng, Cơm ăn chẳng đặng, bạn vàng biết chăng? Chanh chua thì khế cũng chua, Chanh bán có mùa khế bán tư niên.

109

Tư tình

546.

206 329

Từ đường

190

547.

Từ luận

328

548.

Từ mẫu

328

549.

Tử sanh

550.

259 273 312 345 373 373 395 396 445 453

110

1. Cầu cao, ván yếu, Ngựa kiệu tứ linh, Em đi đâu tăm tối một mình, Hay là em có tư tình với ai ? 2. Ngày nào mà đặng gần mình, Mới là hết bịnh tư tình cùng em. Biết đặng hay không mà hòng xắn tay áo, Vén bức sào làm lễ từ đường, Mai sau không đặng, ai thường công anh. Nằm đêm nghe vạc kêu canh, Nghe chim từ luận chuyện anh với nàng. Nên thì lập kiểng trồng hoa, Chẳng nên đá kiểng trồng cà dái dê. Chẳng nên thiếp trở lộn về, Dưỡng nuôi từ mẫu, trọn bề hiếu trung. 1. Đêm nằm lưng chưa bén chiếu, Tay níu thành giường, Thương em quá bộ, quên đường tử sanh. 2. Em bước vô mùng con mắt nọ dòm quanh, Nghiêng mình nằm xuống, tử sanh nhờ trời. 3. Lời thề hai mái tóc xanh, Theo nhau cho trọn, tử sanh cũng liều. 4. Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn, Cửa Hàm Luông mây cuốn cánh buồm xuôi, Bậu với qua hai mặt một lời, Trên có trời, dưới có đất, Ngãi trăm năm vương vất sợi tơ mành. Tử sanh, sanh tử chung tình, Dầu ai săn đón, tôi với mình cứ thương. 5. Tay bưng chén quế, tay chế nước đường, Tử sanh cũng quyết nghĩa cang thường đặng nên. 6. Tay cắt tay sao nỡ, Ruột cắt ruột sao đành. Lời anh thề nước biếc non sanh, Theo anh cho trọn, tử sanh tại trời. 7. Tôi gá duyên với mình thập tử nhất sanh, Nghiêng mình nằm xuống tử sanh nhờ trời. 8. Em nói mà không sợ tử sanh, Chồng em còn thuốc, theo anh làn gì? 9. Nhạn lạc bầy kêu sương nơi biển bắc, Em tìm anh mọi nẻo tắt đường quanh, Em vái cho chồng gặp vợ, dầu có tử sanh cũng không nề. 10. Trăm năm nhơn ngãi vẹn toàn, Tử sanh tạc dạ đá vàng nào phai.

Tứ bề

551.

445 230 262 318 408 411 445

152

Tứ chiếng

552.

Tứ diện

553.

333 468

212

Tứ giăng

554.

216

Tứ hải

555.

111

1. Ngó lên trời thấy mây bay vần vũ, Ngó xuống âm phủ thấy đá dựng tứ bề. Làm sao cho trọn nghĩa phu thê, Đây chồng đó vợ đi về có đôi. 2. Chừng nào trời nọ bể hai, Bông vông màu trắng, mới sai lời thề. Sông sâu sóng bủa tứ bề, Trách người cựu ngãi chẳng hề vãng lai. 3. Đi ngang nhà nhỏ, Lóng tai nghe rõ, Phụ mẫu đánh nàng, Tứ bề cửa đóng phòng loan, Anh không vô đặng đỡ nàng đôi roi. 4. Mây trên trời, bủa giăng tứ phía, Nước ngoài biển, sóng dợn tứ bề. Biết làm sao cho hiệp nghĩa phu thê, Đó chồng, đây vợ ra về có đôi. 5. Trời vần vũ mây giăng tứ phía, Đất biển Đông sóng gợn tứ bề, Làm sao nên nghĩa phu thê, Đó chồng đây vợ ra về có đôi. 6. Tôi xa mình chưa mấy con trăng, Nhà hư cột gãy nhện giăng tứ bề. 7. Ngó lên trời thấy mây mưa vần vũ, Ngó xuống âm phủ thấy đá dựng tứ bề. Làm sao cho trọn nghĩa phu thê, Đây chồng đó vợ đi về có đôi. Trai tứ chiếng, gái giang hồ, Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên. 1. Ngó lên trời sao giăng tứ diện, Ngó ngoài biển chim liệng, cá đua. Em thề với anh trước miễu sau chùa, Ai cho em uống thuốc bùa em mê? 2. Ngó lên trời thấy mây giăng tứ diện, Ngó xuống biển thấy chim liệng cá đua. Anh về lập miễu thờ vua, Lập trang thờ mẹ, lên chùa thờ cha. Cha tôi già, mẹ tôi yếu, con tôi còn nhỏ xíu, mắc nợ tứ giăng, Muốn mượn anh vô trả thế, sợ anh nói nợ không ăn, anh phiền. Thương em rồi anh dẹp lấy ưu phiền, Nợ tao khang nặng nhất, đâu phải vì bạc tiền em ơi. Chí quân tử cửu châu lập nghiệp, Đại trượng phu tứ hải đi xa, Thương em vì nết hiền hoà,

Tứ linh

206

556.

Tứ phía

557.

318 408

Tứ phương

404

558.

Tứ quí

313

559.

Tứ sắc

560.

438 452

Tứ túc

232

561.

Tự ải

562.

220 363

Thiếu chi người trong thiên hạ vậy mà anh không thương. Cầu cao, ván yếu, Ngựa kiệu tứ linh, Em đi đâu tăm tối một mình, Hay là em có tư tình với ai? 1. Mây trên trời, bủa giăng tứ phía, Nước ngoài biển, sóng dợn tứ bề. Biết làm sao cho hiệp nghĩa phu thê, Đó chồng, đây vợ ra về có đôi. 2. Trời vần vũ mây giăng tứ phía, Đất biển Đông sóng gợn tứ bề, Làm sao nên nghĩa phu thê, Đó chồng đây vợ ra về có đôi. Tre dày ngọn ngã tứ phương, Nằm đêm nghĩ lại mà thương tre dày. Lựu lê, bình bát, mãng cầu, Bốn cây tứ quý anh sầu một cây. 1. Em đi mần một ngày có hai cắc, Về thấy anh ngồi trong sòng tứ sắc, kể chắc anh thua rồi. Anh ơi ! anh không dòm lại con thơ vợ yếu, gạo chạy từng nồi anh thấy chưa? 2. Tôi ở Trà Vinh tôi nghèo quá, Tôi chèo ghe vô Cà Mau, Rạch Giá, Tôi mua ít tạ khoai lang, Tôi đi thẳng Trà Bang, Tôi bán một tạ chỉ lời mấy cắc. Tôi trở về nhà thấy anh ngồi ở sòng tứ sắc, Tôi kể chắc anh đã thua rồi, Trời đất ơi ! Con năm bảy đứa, gạo tôi kiếm từng nồi anh thấy không. Con cá lia thia nằm trong chậu cúc, Quạt đuôi tứ túc bốn chữ hồ văn, Anh chê em duyên nợ không bằng, Kiếm nơi nào khác cho bằng lòng anh. 1. Chiều nay em ra sông cái, Em tự ải cho rồi, Sống làm chi biệt ly quân tử, Thác cho rồi đặng chữ hiếu trung. 2. Rút gươm linh tự ải bờ thánh, Chẳng thà lìa tử, bao đành lìa sanh.

112

Tự nhiên

563.

250 320

Tương hội

304

564.

Tương trợ

565.

302 302 302

Tương tư

566.

113

1. Đất láng nguyên tự nhiên cây cỏ mọc, Anh mảng lo nghèo, bạn ngọc có đôi. Đó có đôi thời thôi bớ bậu, Lui tới làm gì cho lậu tiếng ra. 2. Miếng đất láng nguyên tự nhiên cỏ mọc, Anh mảng lo nghèo, bạn ngọc có đôi. Không trước thì sau lý đào tương hội, Khuyên em dằn lòng chờ đợi ít lâu. 1. Khó giúp nhau mới thảo, Giàu tương trợ ai màng, Kiếm người giữ đạo chớ điếm đàng thiếu chi. 2. Khó giúp nhau mới thảo, Giàu tương trợ ai màng, Kiếm người giữ tạo chớ điếm đàng thiếu chi. 3. Khó giúp nhau mới thảo, Giàu tương trợ ai màng, Cây kiểng đang xanh sao anh tưới, cây kiểng tàn anh bỏ khô. 1. Anh đừng sầu não tương tư, Để em thưa lại mẫu từ họa may. 2. Bậu có chồng như cá vô lờ, Tương tư nhớ bậu dật dờ năm canh. 3. Buồn trông ngọn cỏ vờn mây, Tương tư ai giải cho khuây nỗi buồn? 4. Cá rô ăn móng, Dợn sóng dưới đìa, Tại ba với má, Vặn khóa bẻ chìa, Chìa hư khóa liệt, Đôi ta cách biệt, Năm bảy tháng trường, Cơm ăn chẳng đặng, Ăn ròng tương tư. 5. Chỉ ngũ sắc xanh đỏ trắng vàng, Bùa yêu vướng phaỉ, dạ càng tương tư. 6. Đau tương tư đầu tóc rối nùi, Đặt lược lên, lấy lược xuống, nước mắt chùi không khô. 7. Em đau tương tư nằm tại phòng huỳnh, Kẻ thăm người viếng sao không thấy anh chung tình vãng lai. 8. Lụy chan chan đưa chàng xuống vịnh, Trở lộn về thọ bịnh tương tư. 9. Non cao vòi vọi, biển lớn mênh mông, Thương thay cho phận quần hồng, Vì duyên vì nợ nặng lòng tương tư. 10. Sông sâu sóng bổ láng cò,

163 183 195 201 216 248 275 312 344 368

114

369 412

Tửu điếm

567.

312

Ưu phiền

568.

212 384

188

Vạn lý lân

569.

Vãng lai

570.

Thương anh vì bởi câu hò có duyên. Làm thơ chẳng biết ai đem, Cậy con chim nhạn nó đem cho mình. Mình đau tương tư, tôi vái cho mình, Vái cho mình mạnh vô đình cúng heo. Mình vái rồi, tôi lại vái theo, Vái cho mình mạnh mấy heo chẳng cần. Phải gần năm ngoái thì gần, Năm nay vái miễu cúng thần cũng xa. 11. Sông Tương ai gọi là sâu, Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta. Sông tuy sâu hãy còn có đáy, Bệnh tương tư không bãi không bờ. Đầu sông chẳng đợi chẳng chờ, Nào hay thiếp đợi hững hờ cuối sông. 12. Tương tư đầu tóc rối nùi, Đặt lược lên, lấy lược xuống nước mắt chùi không khô. Lúc em bước chân ra, ở nhà má có dặn, Công sanh thành là nặng, điều tình ái là khinh. Mựa đừng tham sắc mê tình, Lánh sa tửu điếm, trà đình chớ vô. 1. Cha tôi già, mẹ tôi yếu, con tôi còn nhỏ xíu, mắc nợ tứ giăng, Muốn mượn anh vô trả thế, sợ anh nói nợ không ăn, anh phiền. Thương em rồi anh dẹp lấy ưu phiền, Nợ tao khang nặng nhất, đâu phải vì bạc tiền em ơi. 2. Thôi thôi đừng có ưu phiền, Kiếp này không gặp để nguyền kiếp sau. Bên tay tả có con thiên lý mã, Bên tay hữu có con vạn lý lân, Nhìn xem hai con cũng ngang phân, Anh đây muốn cưỡi một lần hai con. 1. Chuồn chuồn đậu ngọn mía lung, Em đà có chốn anh đừng vãng lai. 2. Chừng nào trời nọ bể hai, Bông vông màu trắng, mới sai lời thề. Sông sâu sóng bủa tứ bề, Trách người cựu ngãi chẳng hề vãng lai. 3. Đêm khuya em ngồi dựa mé hiên đình, Sương sa, gió lạnh, không thấy mình vãng lai. 4. Đồng Nai, Gia Định còn về, Cách ba tấc đất không hề vãng lai. Đường dài ngựa chạy cát bay, Ngỡi nhân thăm thẳm mỗi ngày một xa.

227 230 256 266

275 343

317

Văn chương

571.

Văn minh

572.

267 503

184

Vận hạn

573.

170

Vinh hiển

574.

186

Vinh huê

575.

186

Vinh quy

576.

167

Võ môn

577.

278

Vô cớ

578.

5. Em đau tương tư nằm tại phòng huỳnh, Kẻ thăm người viếng sao không thấy anh chung tình vãng lai. 6. Như vầy mới gọi là trai, Ngày đi làm mướn, tối vãng lai thăm nàng. Mặt trời đỏ tợ lửa đốt, Mặt trăng tươi tốt tợ bóng hường, Lấy chồng lựa người chữ nghĩa văn chương, Quang minh trí tuệ cao cường hơn em. 1. Đời phải đời thịnh trị, Cuộc phải cuộc văn minh, Kìa là gió mát trăng thanh, Biết đâu nhơn đạo bày tình cho vui. 2. Văn minh gặp buổi Lang – Sa, Tri âm thì ít, trăng hoa thì nhiều. Bậu không biết nghĩ, bậu tỷ như vầy: Chim oanh ương còn biết kết bầy, Cá bỉ mục còn vầy đôi bạn, Chẳng qua vận hạn, Anh mới xa nàng, Chớ ai có muốn bạn vàng lẻ loi. Anh thương em, thương quấn, thương quýt, Bồng ra gốc mít, bồng xích gốc chanh, Bồng quanh đám sậy, bồng bậy vô mui, Bồng lủi sau lái, bồng ngoái trước mũi, Để em nằm xuống đây, Kể từ ngày em đau ban cua lưỡi trắng, Miệng đắng cơm hôi, Tiếc công anh đỡ đứng, bồng ngồi, Bây giờ em vinh hiển, em bắt anh bán nồi làm chi. Bấy lâu cách trở sơn khê, Tưởng anh đã đặng vinh huê với đời. Bây giờ anh đặng chữ vinh quy, Ham nơi quyền quý, nghĩ gì đến em. Anh như cái võ môn cao không xiết kể, Ngăn ngoài cửa bể, Đợi cá lý ngư về, Kiếp tu em còn vụng, khôn bề thoát qua. Em thương anh hết sức thương, nhớ hết sức nhớ, Gặp anh vô cớ em chẳng dám nhìn, Sợ chị lớn ở nhà chỉ sanh tâm biến tánh, hốt hoả lôi đình, Chỉ rình ngã ba, chỉ đón ngã bảy, không biết chết mình hay hại em.

115

Vô duyên

579.

456 189 307 498

277

Vô đệ

580.

229

Vô giá

581.

Vô hồi

582.

278 387

277

Vô huynh

583.

350

Vô nghì

584.

456

Vô phúc

585.

Vô phước

586.

238 359 366

419

Vô tình

587.

267

Vô tội

588.

116

1. Vô duyên lấy phải vợ già, Ăn cơm phải đút : “Bẩm bà nuốt đi”. 2. Bí lên ba lá, Trách ba với má, Không ngắt ngọn làm giàn, Để bí bò lan. Trách hường nhan, Vô duyên bạc phận, Duyên nợ gần không đặng xứng đôi. 3. Làm người có vợ có chồng, Mấy ai mà chịu phòng không đến già… Hữu duyên chẳng quản đường xa, Vô duyên dầu ở một nhà chẳng nên. Trăm năm giữ tấm lòng bền, Trọn đời tôi quyết chẳng quên mặt nàng. 4. Ra sông xách nước bằng chình, Xẩy tay rớt xuống, gẫm mình vô duyên. Em rầu nỗi mẫu thân mất sớm, Chữ nhớ thương đau ốm một mình, Phận em vô đệ, vô huynh, Không nơi nương dựa, cui cút một mình, bớ anh. Chữ thương vô giá quá chừng, Trèo cao quên mệt, băng rừng quên gai. 1. Em thương anh bất tận vô hồi, Ngủ quên còn nhớ, thức dậy ngồi còn thương. 2. Thương anh đáo để vô hồi, Tướng đi, tướng đứng, tướng ngồi cũng thương. Em rầu nỗi mẫu thân mất sớm, Chữ nhớ thương đau ốm một mình, Phận em vô đệ, vô huynh, Không nơi nương dựa, cui cút một mình, bớ anh. Nước trong thấy đá, cá lội thấy kỳ, Anh thương em lỗi đạo vô nghì, Vợ còn, con sẵn, nghĩa lý gì mà thương. Vô phúc lấy phải trẻ ranh, Nó ăn nó bỏ tung hoành nó đi. 1. Con quạ đen lông kêu bằng ô thước, Thấy em lấy chồng vô phước anh thương. 2. Quạ đen lông kêu bằng ô thước, Thấy em có chồng vô phước anh thương. 3. Số anh vô phước mất phần, Khiến đi ải bắc non Tần xa em. Xa xôi chịu chữ vô tình, Tới lui chẳng đặng nên mình có đôi. Đờn cầm ai nỡ dứt dây, Gẫm mình vô tội ai gây oán thù. Cây kiểng trồng rào rắp xung quanh,

209

Vô ý

589.

Vu quy

453

590.

Xạ hương

440

591.

Xuất giá

463

592.

Xung khắc

420

593.

Yến anh

329

594.

369

Y

Yểu điệu

595.

Tại vì anh vô ý cây kiểng đương xanh nó vội tàn. Anh gặp em đây đứng lại giữa đàng, Muốn phân nhơn ngãi, e ngỡ ngàng khó phân. Trai trưởng thành định đôi can lệ, Gái khôn rồi đặng chữ vu quy. Trăm năm có một lần đi, Trai thì trọn hiếu, gái thì thủy chung. Khoai lang gọt vỏ chặt bỏ hai đầu, Lấy chồng thầy thuốc hói đầu xạ hương. Công sanh dưỡng bằng công tạo hóa, Có mẹ cha sau mới có chồng. Nhớ khi dìu dắt ẵm bồng, Nay đi xuất giá não lòng lắm thay. Xê ra đừng đứng một bên, Thủy hỏa xung khắc chẳng nên đứng gần. Tuổi anh mười chín, tuổi dần, Tuổi em tuổi tuất đứng gần can chi. Ngày nay loan phụng lẻ bầy, Nam vang kia xa xứ, khó gầy yến anh. Sông sâu sóng bủa láng cò, Thương em vì bởi câu hò có duyên. Chưa chồng ở vậy cho nguyên, Đặng anh chọn chiếc thuyền quyên rước về. Thấy em da trắng muốn kề, Hường nhan cũng đẹp sợ bề có đôi. Anh đừng nói vậy anh ơi, Hình dung yểu điệu có đôi bao giờ.

117

NGỮ HÁN VIỆT

177

596.

Ân cha nghĩa mẹ

326

597.

Ba sinh tiền định

228

598.

336

599.

Ân cha nghĩa mẹ chưa đền, Bậu mong ôm gối cuốn mền theo ai. Này bạn ơi, Con cò trắng lượn quanh đám cấy, Bước đến đây thấy dạ bồi hồi, Chẳng duyên chẳng nợ thì thôi, Phải duyên phải nợ em đáp lời cùng anh. Này anh ơi, duyên đâu run rủi giữa đàng, Nếu phải như ba sinh tiền định thiếp mời chàng ghé dây. Chữ rằng bạc phước vô môn, Giàu sang dễ kiếm, người khôn khó tìm. Ngọc trầm thủy thượng anh ơi, Bách niên giai ngẫu ở đời với em.

182

600.

Bần cư náo thị vô nhơn vấn, Phú tại thâm sơn hữu viễn thân. Anh với em chút nữa thì gần, Tại ba với má bẻ cần tháo dây.

Bạc phước vô môn Bách niên giai ngẫu Bần cư náo thị vô nhơn vấn, Phú tại thâm sơn hữu viễn thân

172

601.

Báo bổ sanh thành

182

602.

Bất khả viễn vông

209

603.

Bất khả viển vông

Bất tận vô hồi

278

604.

177

605.

Bất tôn giáo hóa

191

Bình tích thủy

606.

355

607.

182

608.

Cải tử hườn sinh Căn duyên tiền định

128

609.

Căn nợ keo sơn

432

Chi tử vu quy

610.

118

Anh về báo bổ sanh thành, Chừng nào bóng xế rũ mành sẽ hay. Bần gie bần ngã, bất khả viễn vông, Anh với em như sợi chỉ lộn vòng, Kiếm sao đặng mối bá tòng mới vui. Cây gie cây bần ngã, Bất khả viển vông, Tới đây em nói cho anh vừa lòng, Em đây có chốn loan phòng đã lâu. Em thương anh bất tận vô hồi, Ngủ quên còn nhớ, thức dậy ngồi còn thương. Ba bốn nơi sang cả, phụ mẫu em đành gả, Em chắp tay: khoan đã, chưa tới căn phần, Phụ mẫu em nói em bất tôn giáo hóa, đem treo cây bần cho kiến bu. Bình tích thủy đựng bông hoa lý, Chén chung vàng đựng nhụy bông ngâu. Trách ai làm trai hữu nhãn vô châu, Chim oanh không bắn, bắn con chim sâu đậu nhành tùng. Phải chi cải tử hườn sinh, Mổ gan trao lại kẻo mình nhớ em. Bâng khuâng bát ngát câu hát hữu tình, Căn duyên tiền định, hai đứa mình gặp nhau. Anh lên Bảy Núi, Anh chạy thẳng Tà Lơn, Căn nợ keo sơn thấu đến ông trời, Trời cao đất thấp, Anh đến tam cấp lập cửu trùng đài, Thời hư khiến vậy, ráng lập hoài cũng nên. Chữ rằng chi tử vu quy, Làm thân con gái phải đi theo chồng.

216

611.

Chí quân tử cửu châu lập nghiệp, Đại trượng phu tứ hải đi xa, Thương em vì nết hiền hòa, Thiếu chi người trong thiên hạ vậy mà anh không thương.

Chí quân tử cửu châu lập nghiệp, Đại trượng phu tứ hải đi xa

612.

Công nghệ nông tang

213 375

387

613.

Cốt rã xương mòn

Duyên kim cải

614.

157 245

418

Duyên kỳ ngộ

615.

407

616.

Duyên mãn tình hồi

179

617.

Duyên tiền định

227

Đài khán võ

618.

1. Chẳng thà lấy chồng khờ chồng dại, Lo kinh thương mãi mại, Tính công nghệ nông tang, Không ham nhiều bạc lắm vàng, Mai sau sanh chuỵên điếm đàng bỏ em. Qua đây muốn kiếm một nàng, Thạo thông đường buôn bán, Rao cùng thôn xóm mà chưa đáng chỗ nào, Thiếu chi những chị má đào, Họ mê bài phé, bài cào, anh thất kinh. 2. Thà em lấy chồng khờ chồng dại, Lo kinh thương phản mại, công nghệ nông tang, Em không ham nơi nhiều bạc lắm vàng, Mai sau sanh chuyện điếm đàng cực em. Thương anh cốt rã xương mòn, Thương anh đến thác cũng còn thương anh. 1. Ai xui rã chút duyên kim cải, Ai khiến rời chút ngãi tao khang, Đã đành trâm gãy gương tan, Kẻ ở Phiên bang, người về Hớn địa, Tình không tròn trịa nên nước rã rời, Nằm đêm anh những vái trời, Cho em gặp nơi quyền quới nối lời nước non. 2. Dầu cho quá lứa, Em cũng chẳng hứa càn. Phải duyên em đổi lòng vàng, Không phải duyên kim cải, để hoa tàn nhụy phai. Vừa đi là gặp em đây, Một là duyên kỳ ngộ hai là trời xoay đất vần. Trời mưa dầm làm lụt, Đất hay lở ít bồi. Bậu với qua duyên mãn tình hồi, Uổng công lên xuống, đứng ngồi bấy lâu. Bãi cỏ lau khô sầu ai rã rượi, Thỏ núp lùm chờ đợi bóng trăng. Bãi dài cát nhỏ tăm tăm, Phải duyên tiền định ngàn năm cũng chờ. Chợ Thốt Nốt có lập đài khán võ, Chợ cờ Đỏ tuy nhỏ mà đông, Thấy em buôn bán, anh chẳng vừa lòng, Để anh làm mướn kiếm từng đồng nuôi em.

487

619.

119

Đại mộc lưu giang bất đắc hồi cố dã, Ruộng đất mãi rồi chuộc lại ai cho.

216

620.

Đại mộc lưu giang bất đắc hồi cố dã Đại trượng phu

Chí quân tử cửu châu lập nghiệp, Đại trượng phu tứ hải đi xa,

320

621.

Đăng sơn tróc hổ

487

622.

487

623.

Đấng anh hùng Đấng trượng phu

Điếu công hầu

233

624.

230

625.

Điệu cang thường

626.

Điệu chung tình

306 306 290

453

627.

Định đôi can lệ

120

Thương em vì nết hiền hoà, Thiếu chi người trong thiên hạ vậy mà anh không thương. Miễn bậu chịu ừ, qua chẳng từ lao khổ, Dẫu đăng sơn tróc hổ hay quá hải đồ long, Trước sau giữ trọn một lòng, Gian lao chi sá, anh quyết cùng theo em. Đấng trượng phu đừng thù mới đáng, Đấng anh hùng đừng oán mới nên. Đấng trượng phu đừng thù mới đáng, Đấng anh hùng đừng oán mới nên. Con cá nọ nó đã có cặp, Anh dẫu câu hoài chẳng gặp được đâu. Khuyên anh về sửa lại lưỡi câu, Bắt chước Lã Vọng điếu công hầu khá hơn. Có đôi sao chưa nói lại tôi tường, Để tôi phá điệu cang thường không nên. Hồi nào nhắn xuống, nhắn lên, Bây giờ tôi đứng một bên không nhìn, Ngó lên tấm kiếng hai hình, Khen ai khéo họa hai đứa mình đứng chung. 1. Kinh xáng mới đào, tàu Tây mới chạy, Thương em thương đại, đừng ngại bớ điệu chung tình, Bao nhiêu oán hận để một mình em lo. 2. Kinh xáng mới đào, tàu Tây mới chạy, Thương thì thương đại, đừng ngại bớ điệu chung tình. Con nhạn bay cao khó bắn, Con cá ở ao huỳnh khó câu. 3. Gió thổi hiu hiu, lục bình trôi riu ríu, Anh đừng bận bịu bớ điệu chung tình, Nhạn bay cao khó bắn, cá ở ao quỳnh khó câu. Trai trưởng thành định đôi can lệ, Gái khôn rồi đặng chữ vu quy. Trăm năm có một lần đi, Trai thì trọn hiếu, gái thì thủy chung.

628.

Đạo cang thường

196 248 248 414 435 446

629.

Đạo chồng nghĩa vợ

121

1. Bước lên đầu cầu sắt, mắt ngó lại người thương, Khổ qua xanh em xào lộn với đường, Chừng nào khổ qua kia hết đắng, đạo cang thưòng em mới quên anh. 2. Đạo cang thường khó lắm bạn ơi, Không như ong bướm đậu rồi lại bay. 3. Đạo cang thường chẳng phải như cá tôm, Đang mua mớ nọ lại chồm mớ kia. 4. Vắng mặt nhau một ngày không muốn bước, Hai ngày bước xuống nước không muốn lên, Đạo cang thường nhớ lắm không quên, Em đây muốn vẽ bức hình để treo phên giải buồn. 5. Đạo cang thường khó lắm ai ơi, Chẳng như ong bướm đậu rồi lại bay. Cang thường không dễ đổi thay, May nên võng giá, rủi ăn mày cũng ưng. 6. Nhạn trên trời nhạn lạc kêu sương, Ngàn năm ly biệt đạo cang thường chớ quên. 1. Đêm nằm day mặt trở ra, Ngày nay mới biết cô Ba thương mình, Mình giữ chữ Trung, chữ Hiếu, còn thiếu chữ Tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao đành vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương ngãi nhớ ở trong thơ này. Đôi ta chẳng đặng sum vầy, Cũng như chim nhạn lạc bầy kêu sương. Tôi xa mình cô bác đều thương, Trên trời vần vũ ngọn dương xoay vần. Dầu cho lạc Tấn qua Tần, Thương ai cũng để dành phần thương em. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. Ngã tư chợ Gạo muốn hồi, Tôi chồng mình vợ còn ngồi thương ai. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gởi thơ về thăm anh? 2. Mình giữ chữ trung, chữ hiếu, Còn thiếu chữ ân tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong? Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương nghĩa nhớ ở trong thơ này, Xem thơ nước mắt nhỏ đầy,

258 319

428 449-450

Đạo phu thê

630.

271 435

631.

Đạo tao khương

221 431

319

Đạo vợ chồng

632.

435 466

265

633.

Độc bình bát giác

228

634.

Đồng khí tương cầu

228

635.

Đồng thanh tương ứng

122

Thương tôi đừng gởi thơ này làm chi. Nhện giăng trướng án bố vi. Hai đứa mình chồng vợ sợ chi tiếng đồn. 3. Cây khô nghe sẫm nứt chồi, Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương. 4. Tàu súp lê một còn trông còn đợi, Tàu súp lê hai hết đợi hết chờ, Tàu súp lê ba, tàu ra biển bắc, Hai tay vịn song sắt nước mắt nhỏ sa, Thò tay vô túi áo bà ba, rút khăn ra chậm, Đạo nghĩa vợ chồng ngàn dặm không quên. 1. Đường đi cát nhỏ cỏ mềm, Mấy lời anh nói, em còn ghi xương. Liệu bề thương được thì thương, Nửa chừng để dở, thế thường cười chê. Một ngày cũng đạo phu thê, Trăm năm ghi tạc, lời thề cùng nhau. Đứt tay một chút còn đau, Huống chi nhân ngãi lìa nhau sao đành. 2. Đạo nào bằng đạo phu thê, Tay ấp má kề sanh tử có nhau. 1. Chim có đôi có bạn, Kìa hãy xem cặp nhạn mà làm gương, Đứng làm người trong đạo tao khương, Thủy chung như nhứt, giữ đường ngãi nhơn. 2. Choàng qua cổ bạn khóc ròng, Căn duyên không tính để lầm vòng thương. Vợ chồng là đạo tao khương, Trách bà nguyệt lão vấn vương không thành. 1. Mình đưa bâu áo tôi viết tháo đôi dòng, Trước thăm phụ mẫu, sau thăm mình đôi câu. Đạo vợ chồng thăm thẳm giếng sâu, Ngày sau cũng gặp mất đi đâu mà phiền. 2. Đạo vợ chồng anh phải xét cho xa, Anh Vân Tiên mù mắt, chị Nguyệt Nga còn chờ. 3. Mất mẹ cha thật là khó kiếm, Đạo vợ chồng không hiếm khi nơi. Độc bình bát giác, cắm các bông hường, Cha mẹ em chọn nơi rể quý, anh tầm thường biết có đặng không? Chữ đồng thanh tương ứng, Câu đồng khí tương cầu, Dầu mưa, dầu gió mặc dầu, Kiếm nơi có nghĩa, anh hầu kết duyên. Chữ đồng thanh tương ứng, Câu đồng khí tương cầu, Dầu mưa, dầu gió mặc dầu,

Gái nữ thanh

158

636.

385

637.

123

Kiếm nơi có nghĩa, anh hầu kết duyên. Anh có vợ rồi sao anh còn gian còn giấu, Em vạch mây hồng kêu thấu ông trời xanh, Anh đừng lấy vải thưa che mắt thánh, nói gái nữ thanh đui mù Thục nữ ơi, nàng hỡi nàng, Ghi xương khắc cốt lời vàng hôm nay.

162

638.

Anh đừng ham chữ phú, phụ bạc chữ bần, Bạc trăm xài hết, ngãi duyên trần còn đây.

270

639.

Đừng nên ham phú phụ hèn, Đừng như chấu chấu thấy sáng đèn nhảy vô.

295

640.

Hiền thần phải trạch quân nhi sự, Dương cầm còn trạch mộc nhi thê. Em tuy phận gái vụng về, Tơ duyên dẫu lỡ chẳng hề âu lo.

Ghi xương khắc cốt Ham chữ phú, phụ bạc chữ bần Ham phú phụ hèn Hiền thần phải trạch quân nhi sự, Dương cầm còn trạch mộc nhi thê

641.

Họa hổ, họa bì, nan họa cốt, Tri nhơn, tri diện, bất tri tâm

296 296 296

482

642.

Hoạ phúc vô môn

296

643.

Họa phước vô môn

Hổ tử lưu bì

482

644.

278

645.

Hốt hỏa lôi đình

1. Họa hổ, họa bì, nan họa cốt, Tri nhơn, tri diện, bất tri tâm. Mình ơi, đứng lại cho gần, Kề tai tôi nói nhỏ, chẳng mấy lần gặp nhau. 2. Họa hổ, họa bì, nan họa cốt, Tri nhơn, tri diện, bất tri tâm. Ở xa không biết nên lầm, Bây giờ rõ đặng, vàng cầm cũng buông. 3. Họa hổ, họa bì, nan họa cốt, Tri nhơn, tri diện, bất tri tâm. May không chút nữa em lầm, Khoai lang khô xắt lát, tưởng nhân sâm bên Tàu. Chữ rằng họa phúc vô môn, Tìm giàu thì dễ, tìm khôn khó tìm. Họa phước vô môn, Sang giàu dễ kiếm, người khôn khó tìm. Tàu ra khơi sợ nỗi tàu chìm, Hai đứa mình sợ nỗi không trọn niềm phu thê. Chữ rằng hổ tử lưu bì, Làm người phải để danh gì hậu lai. Em thương anh hết sức thương, nhớ hết sức nhớ, Gặp anh vô cớ em chẳng dám nhìn, Sợ chị lớn ở nhà chỉ sanh tâm biến tánh, hốt hoả lôi đình, Chỉ rình ngã ba, chỉ đón ngã bảy, không biết chết mình hay hại em.

646.

300 300

Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng

124

1. Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng, Anh có thương em thì kết duyên cùng, Anh đừng thương vội nửa chừng bỏ em. 2. Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng. Thuyền quyên nỡ phụ anh hùng sao nên.

244

647.

Hữu duyên thiên lý ngộ

191

648.

Hữu nhãn vô châu

380

649.

Khách chương đài

Dạo chơi quán Sở, lầu Tề, Hữu duyên thiên lý ngộ, ai dè gặp em. Bình tích thuỷ đựng bông thiên lý, Chén chung vàng đựng nhụy bông ngâu. Trách ai làm trai hữu nhãn vô châu, Chim oanh không bắn, bắn con chim sâu đậu nhành tùng. Thấy đó nói ra em đà hiểu ý, Muốn cho đào lý hiệp với trúc mai, Quản chi biển rộng sông dài, Ôm duyên em đợi khách chương đài bấy lâu.

304

650.

Kiến bất thủ nhi tầm thiên lý, Thấy miệng em cười hữu ý anh thương.

305

651.

Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, Thì trao dây xích buộc vòng vào đâu?

Kiến bất thủ nhi tầm thiên lý Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng

Kiếp tái sanh

251

652.

Kiếp tái sinh

384

653.

233

654.

Kim tiền cổ hậu

213

655.

Kinh thương mãi mại

375

656.

Kinh thương phản mại

Đây anh không giận, đó em cũng chớ hờn, Kiếp tái sanh ta sẽ nối phiếm đờn tri âm. Thôi đây anh không giận thì đó em cũng đừng buồn, Kiếp tái sinh mình nối phím đờn tri âm. Con cá xa sông còn mến nước trên đồng, Em về nhớ kim tiền cổ hậu, khoan lấy chồng đợi anh. Chẳng thà lấy chồng khờ chồng dại, Lo kinh thương mãi mại, Tính công nghệ nông tang, Không ham nhiều bạc lắm vàng, Mai sau sanh chuyện điếm đàng bỏ em. Qua đây muốn kiếm một nàng, Thạo thông đường buôn bán, Rao cùng thôn quán mà chưa đáng chỗ nào, Thiếu chi những chị má đào, Họ mê bài phé, bài cào, anh thất kinh. Thà em lấy chồng khờ chồng dại, Lo kinh thương phản mại, công nghệ nông

311

657.

Lộ bất hành bất đáo

658.

Lộ bất hành bất đáo, Chung bất đả bất minh

311 311

312

659.

Lục bình bát giác

125

tang, Em không ham nơi nhiều bạc lắm vàng, Mai sau sinh chuyện điếm đàng cực em. Lộ bất hành bất đáo, Tôi thương anh thương thiệt, Không thương láo, anh ôi! Tôi thương anh để trong dạ, Không để ngoài môi đâu mà anh phiền. 1. Lộ bất hành bất đáo, Chung bất đả bất minh. Bây giờ anh mới rõ tình, Tại bà mai ở độc, hai đứa mình mới xa. 2. Lộ bất hành bất đáo, Chung bất đả bất minh. Lâu nay tôi chẳng biết ý mình, Ngày nay minh bạch nhơn tình trí tri. Lục bình bát giác cắm các thứ bông hường, Cha mẹ em chọn dâu kén rể, biết anh tầm thường đặng không?

319

660.

Minh quân, tương tế tao phùng dị, Tài tử, giai nhân tế ngộ nan. Trời xui anh gặp bạn vàng, Một lời phải nghĩa muôn ngàn khó mua.

324

661.

135

662.

Minh quân, tương tế tao phùng dị, Tài tử, giai nhân tế ngộ nan Mục bất kiến, nhĩ tằng văn Nam Kỳ Lục Tỉnh

159

663.

Nam nhi chí khí

664.

Nam thanh nữ tú

137 153 249 250

Mục bất kiến, nhĩ tằng văn, Thấy em có nghĩa mấy trăng anh cũng chờ. Chim quyên hút mật bông quỳ, Nam Kỳ Lục Tỉnh thiếu gì gái khôn. Anh đấng làm trai nam nhi chí khí, Em phận làm gái nhi nữ quần thoa, Thấp dàn cá nhảy khỏi sa, Ưng không tại bậu, cha mẹ già biết đâu. 1. Đất Cần Thơ nam thanh nữ tú, Đất Rạch Giá vượn hú chim kêu, Quản chi nắng sớm, mưa chiều, Lên doi, xuống vịnh cũng chèo thăm em. 2. Xứ Cần Thơ nam thanh nữ tú, Xứ Rạch Giá vượn hú chim kêu. 3. Đất Châu Thành nam thanh nữ tú, Trong vườn thú đủ các thứ chim. Em trách ai non dạ kiếm tìm, Những lời huyễn hoặc nỗi niềm tóc tơ. 4. Đất Sài Gòn, nam thanh nữ tú, Cột cờ Thủ Ngữ cao rất là cao. Vì thương anh, em vàng võ má đào, Em đã tìm khắp chốn nhưng nào thấy anh?

343

665.

Năng thuyết bất năng hành

262

666.

162

667.

Ngãi cang thường Ngãi duyên trần

668.

Ngãi tao khang

157 226

669.

Nghĩa cang thường

315 373

413

670.

Nghĩa chung tình

436

Nghĩa phu thê

671.

445

Nhứt ngôn trúng, vạn ngôn dụng, Nhứt ngôn bất trúng thì vạn sự bất thành, Anh đùng có năng thuyết bất năng hành mà hại em. Đi ngang lò mía thơm đường, Muốn vô kết ngãi cang thường với em. Anh đừng ham chữ phú, phụ bạc chữ bần, Bạc trăm xài hết, ngãi duyên trần còn đây. 1. Ai xui rã chút duyên kim cải, Ai khiến rời chút ngãi tao khang, Đã đành trâm gãy gương tan, Kẻ ở Phiên bang, người về Hớn địa, Tình không tròn trịa nên nước rã rời, Nằm đêm anh những vái trời, Cho em gặp nơi quyền quới nối lời nước non. 2. Chợ Bến Thành dời đổi, Người sao khỏi hiệp tan. Xa gần giữ ngãi tao khang, chớ tham quyền quý phụ phàng nghĩa xưa. 1. Màn rồng một bức giăng ngang, Tôi với mình trời định, tam cang ngũ thường. Mình về thưa lại thung đường, Qua đây gá nghĩa cang thường với em. 2. Tay bưng chén quế, tay chế nước đường, Tử sanh cũng quyết nghĩa cang thường đừng quên. Vái ông tơ năm ba chầu hát, Vái bà nguyệt năm bảy cuốn kinh, Cho đó với đây có nghĩa chung tình, Dầu ăn cơm quán ngủ đình cũng ưng. 1. Đèn nào cao bằng đèn Sở Thượng, Nghĩa nào trượng bằng nghĩa phu thê. Em với anh vai sánh má kề, Dầu anh lạc Sở qua Tề, Thì anh cũng gởi thơ về em hay. 2. Ngó lên trời thấy mây bay vần vũ, Ngó xuống âm phủ thấy đá dựng tứ bề. Làm sao cho trọn nghĩa phu thê, Đây chồng đó vợ đi về có đôi.

126

672.

Nghĩa tao khang

127

1. Cái cầu có ba mươi sáu nhịp, Em đi chẳng kịp nhắn vội với chàng, Nghĩa tao khang sao chàng vội dứt, Đêm nằm thao thức tưởng bức thơ anh, Bấy lâu nay em mang tiếng chịu lời, Bây giờ anh ở bạc có ông trời xét soi. 2. Đôi ta là nghĩa tao khang, Xuống khe bắt ốc lên ngàn hái rau. 3. Em đi qua cầu qua trăm cái nhịp, Em đi không kịp kêu bớ anh ơi, Nghĩa tao khang sao anh đành vội dứt, Đêm em nằm ấm ức, ngày lụy ứa tuôn rơi, Bấy lâu nay em mang tiếng chịu lời, Xa nhau bởi tại ông trời biểu xa. 4. Cầu cao ba mươi sáu nhịp, Em qua không kịp, Nhắn lại cùng chàng, Cái nghĩa tao khang sao chàng vội dứt? Đêm nằm thao thức, tưởng đó với đây, Biết khi nào cho phụng gặp bầy, Cho loan gặp bạn, Ruột đau từng đoạn, Gan thắt chín từng, Đôi ta như quế với gừng, Dẫu xa nhau nữa cũng đừng tiếc chi. 5. Chợ Bến Thành dời đổi, Người sao khỏi hợp tan. Xa gần giữ nghĩa tao khang, Chớ tham nơi quyền quý phụ phàng bạn xa.

202 265 275 427 431-432

270

673.

Nghinh tân yểm cựu

242

674.

336

675.

Ngọc thuỷ tinh Ngọc trầm thủy thượng

208

676.

Nguyện lệ tình thâm

251

677.

244

678.

Nguyệt sơn đài Nhạc cầu hoàng

Đừng có chan chứa nước mắt ớt, Đừng có rớt nước mắt gừng. Em khuyên anh bạn nên đừng, Nghinh tân yểm cựu, em mừng cho nhau. Cục ngọc thuỷ tinh nằm trên hòn đá trắng, Năm bảy bữa ròng sao vắng tiếng em? Ngọc trầm thủy thượng anh ơi, Bách niên giai ngẫu ở đời với em. Cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa, Anh vơí em đi cũng xứng, đứng lại cũng vừa, Tại cha với mẹ kén lừa sui gia. Kén sui gia, tại cha với mẹ, Chớ hai đứa mình nguyện lệ tình thâm. Đầu làng con chó sủa dai, Sủa nguyệt sơn đài, sủa bóng trăng thanh. Trớ trêu khúc nhạc cầu hoàng, Lòng em bền chặt, không như nàng Văn Quân

385

679.

Nhập hải tróc long

341-342

680.

443

681.

382

682.

342

683.

Nhập sơn tầm hổ dị, Khai khẩu cốc nhơn nan Nhất gia trọn nghì Nhất mã lưỡng cương Nhị nhân đối khẩu giao hòa

311

684.

Nhơn tình trí tri

128

Thông kinh sử ấy phần nam tử, Giữ nết na là phận nữ nhi, Xử sao vẹn chữ xướng tùy, Tiếng ừ thì dễ, em lo nghì về sau. Miễn bậu đành ừ, Qua chẳng từ lao khổ, Dẫu đăng sơn tìm hổ, Dẫu nhập hải tróc long, Trước sau giữ trọn một lòng, Vào lòn ra cúi anh đành lòng theo em. Nhập sơn tầm hổ dị, Khai khẩu cốc nhơn nan, Đến đây anh mở miệng ngỡ ngàng, Lạ người, lạ mặt, lạ làng khó phân. Miễn sao giữ dạ thật thà, Trăm năm em quyết nhất gia trọn nghì. Thấy nàng anh cũng muốn thương, Sợ e nhất mã lưỡng cương khó cầm. Nhị nhân đối khẩu giao hòa, Hò chơi là chồng vợ, tối về nhà là người dưng. Lộ bất hành bất đáo, Chung bất đả bất minh. Lâu nay tôi chẳng biết ý mình, Ngày nay minh bạch nhơn tình trí tri.

343

685.

Nhứt ngôn trúng, vạn ngôn dụng, Nhứt ngôn bất trúng thì vạn sự bất thành, Anh đừng có năng thuyết bất năng hành mà hại em.

343

686.

344

687.

Nhứt ngôn trúng, vạn ngôn dụng, Nhứt ngôn bất trúng thì vạn sự bất thành Nhứt nhựt bất kiến như tam nguyệt hề Nhứt nhựt vãng lai

457

688.

Nhứt phu lưỡng phụ

418

689.

Nội thượng lâm

Nhứt nhựt bất kiến như tam nguyệt hề, Thăm em chút xíu anh về, Kẻo mà trăng lặn tứ bề khó trông. Nhứt nhựt vãng lai hằng ngày đối diện, Muốn phân đôi lời sợ miệng thế gian. Vợ lớn đánh vợ nhỏ, Chạy ra cửa ngõ, Cắn cỏ kêu trời, Nhứt phu lưỡng phụ ở đời đặng đâu. Vườn thượng uyển thiếu chi chồi lan huệ, Nội thượng lâm đâu thiếu tược mẫu đơn. Bậu đừng nghĩ ngợi thiệt hơn, Rửa tai nghe lóng tiếng đờn tri âm. Đờn tri âm tiếng đơn, tiếng kép, Rao nhặt khoan tiếng thiếp tiếng chàng. Bậu về qua Cửu Long giang, Tình thương qua nhớ bậu, nỗi dạ càng xót xa.

320

690.

Quá hải đồ long

317

691.

Quang minh trí huệ

387

692.

Quân tử nhứt ngôn

693.

Sơn băng thủy kiệt

239 384

315

694.

Tam cang ngũ thường

470

695.

Tam niên nhũ bộ

Tam tứ lục

696.

181 181

200

Tam tứ nhị

697.

475

698.

375

699.

Tang chế mãn nguyền Tấn thối lưỡng nan

700.

Tham phú phụ bần

129

Trách ai làm cách đôi ta, Đêm năm canh thổn thức vào ra thêm sầu. Chia tay gan thắt ruột bào, Đêm ngày than thở dầu bao canh tàn. Cúc đang xanh sao cúc vội tàn, Kiểng đương xanh sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai? Miễn bậu chịu ừ, qua chẳng từ lao khổ, Dẫu đăng sơn tróc hổ hay quá hải đồ long, Trước sau giữ trọn một lòng, Gian lao chi sá, anh quyết cùng theo em. Mặt trời đỏ tợ lửa đốt, Mặt trăng tươi tốt tợ bóng hường, Lấy chồng lựa người chữ nghĩa văn chương, Quang minh trí huệ cao cường hơn em. Thuyền dời bến cũ không dời, Khăng khăng một lời quân tử nhứt ngôn. 1. Con thỏ giỡn trăng sơn băng thủy kiệt, Ai ở hai lòng nhật nguyệt xét soi. 2. Thỏ giỡn trăng sơn băng thủy kiệt, Anh có bỏ nàng nhựt nguyệt xét soi. Màn rồng một bức giăng ngang, Tôi với mình trời định, tam cang ngũ thường. Mình về thưa lại thung đường, Qua đây gá nghĩa cang thường với em. Thương thay chín chữ cù lao, Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình. 1. Bảy với ba tính ra một chục, Tam tứ lục coi lại cửu chương, Liệu bề đát được thì đươn, Đừng gây rồi bỏ thế thường cười chê. 2. Bảy với ba tính ra một chục, Tam tứ lục coi lại cửu chương, Liệu bề thương được thì thương, Đừng trao gánh nặng giữa đường cho em. Cá ở ao môn, sầu tam tứ nhị, Được chữ sang giàu, chẳng nghĩ tới nhau Ba năm tang chế mãn nguyền, Đầu dơ em gội, chuỗi chuyền em đeo. Tấn thối lưỡng nan, cực khổ trăm bề, Ở đây khó ở, ra về khó ra. 1. Anh với tôi làm đôi sao xứng, Bạc với vàng sao đứng đồng cân. Trách ai tham phú phụ bần, Tham xa mà bỏ ngãi gần thuở xưa. 2. Em đừng tham phú phụ bần,

174-175 276

312

701.

Tham sắc mê tình

395

702.

Thập tử nhất sanh

Thiên lý mã

188

703.

Bạc ngàn còn hết, nợ dương trần chưa xong. Lúc em bước chân ra, ở nhà má có dặn, Công sanh thành là nặng, điều tình ái là khinh, Mựa đừng tham sắc mê tình, Lánh sa tửu điếm, trà đình chớ vô. Tôi gá duyên với mình thập tử nhất sanh, Nghiêng mình nằm xuống tử sanh nhờ trời. Bên tay tả có con thiên lý mã, Bên tay hữu có con vạn lý lân, Nhìn xem hai con cũng ngang phân, Anh đây muốn cưỡi một lần hai con.

383

704.

130

Thiếp tợ thiên biên nguyệt, Quân như lãnh thượng vân. Tuy gần mà chẳng được gần, Cũng như biển Sở non Tần cách xa.

206

705.

Thiếp tợ như thiên biên nguyệt, Quân như lãnh thượng vân Thối dị tấn nan

706.

Thủy chung như nhứt

221 373 374 446

Cất mái chèo loan em nhìn chàng rơi lụy, Thổn thức gan vàng, thối dị tấn nan. 1. Chim có đôi có bạn, Kìa hãy xem cặp nhạn mà làm gương, Đứng làm người trong đạo tao khương, Thủy chung như nhứt, giữ đường ngãi nhơn. 2. Tay bưng dĩa muối, tay bợ tràn rau, Thủy chung như nhứt, sang giàu mặc ai. 3. Tay em bưng dĩa muối, tay em bợ sàng rau, Thủy chung như nhứt, bỏ mẹ sao cho đành. 4. Nước còn quyện cát làm doi, Huống chi ta chẳng tài bồi lấy nhau. Tay cầm dĩa muối sàng rau, Thủy chung như nhứt sang giàu mặc ai.

386

707.

Thủy để ngư, thiên biên nhạn, Cao khả xạ hề, để khả điếu, Chỉ xích nhơn tâm bất khả phòng. E sao lòng lại đổi lòng, Nhiều người tham bưởi chê bòng lắm anh.

392

708.

Tiền đồng tịch, kim bằng đồng lạc, Hậu lâm nguy, bất kiến đệ huynh. Từ ngày làm ruộng trong kinh, Nước sâu chết lúa, đôi đứa mình xa nhau.

392

709.

Thủy để ngư, thiên biên nhạn, Cao khả xạ hề, để khả điếu, Chỉ xích nhơn tâm bất khả phòng Tiền đồng tịch, kim bằng đồng lạc, Hậu lâm nguy, bất kiến đệ huynh Tiền tài như phấn thổ, Nghĩa trọng tợ

Tiền tài như phấn thổ, Nghĩa trọng tợ thiên kim, Con le le mấy thuở chết chìm,

thiên kim

293

710.

Tiền tài phấn thổ, nhân ngỡi đời thiên kim

186

711.

Tình mặn nghĩa nồng

434

712.

Tình thâm ngỡi trượng

258-259

713.

Tình thương ngãi nhớ

319

714.

Tình thương nghĩa nhớ

186

715.

183

716.

441

717.

131

Người tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi. Hai đứa mình như thể cây cau, Anh bẹ, em bẹ nương nhau ở đời. Anh đừng thấy khó đổi dời, Tiền tài phấn thổ, nhân ngỡi đời thiên kim. Bậu với qua tình mặn nghĩa nồng, Siêu nước sôi chớ quạt, ngọn gió lồng phải che. Dế kêu ngâm, tình thâm ngỡi trượng, Anh liệt chiếu liệt giường cũng vì bởi thương em. Đêm nằm day mặt trở ra, Ngày nay mới biết cô Ba thương mình, Mình giữ chữ Trung, chữ Hiếu, còn thiếu chữ Tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao đành vội vong. Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương ngãi nhớ ở trong thơ này. Đôi ta chẳng đặng sum vầy, Cũng như chim nhạn lạc bầy kêu sương. Tôi xa mình cô bác đều thương, Trên trời vần vũ ngọn dương xoay vần. Dầu cho lạc Tấn qua Tần, Thương ai cũng để dành phần thương em. Phụng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. Ngã tư chợ Gạo muốn hồi, Tôi chồng mình vợ còn ngồi thương ai. Phụng hoàng đậu nhánh cẩm lai, Dặn lòng người nghĩa chớ sai lời thề. Ghe lên ghe xuống dầm dề, Sao em không gởi thơ về thăm anh? Mình giữ chữ trung, chữ hiếu, Còn thiếu chữ ân tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong? Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương nghĩa nhớ ở trong thơ này, Xem thơ nước mắt nhỏ đầy, Thương tôi đừng gởi thơ này làm chi. Nhện giăng trướng án bố vi. Hai đứa mình chồng vợ sợ chi tiếng đồn. Bấy lâu cần mẫn vườn đào, Tình xưa nghĩa cũ, nhớ chút nào hay không? Bậu đừng nghe tiếng thị phi, Thủy chung anh giữ vẹn, trọn nghì sắt son. Khuyên em xét kỹ, em nghĩ cho cùng, Trung trinh liệt nữ, quân tử anh hùng, Làm sao cho vẹn tam tùng,

Tình xưa nghĩa cũ Trọn nghì sắt son Trung trinh liệt nữ, quân tử anh hùng

319

718.

Trướng án bố vi

247

Tự cổ chí kim

719.

298

Từ cổ chí kim

720.

Gái ngoan chẳng lấy hai chồng bỏ anh. Mình giữ chữ trung, chữ hiếu, Còn thiếu chữ ân tình, Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong? Làm thơ giấy trắng cẩn phong, Tình thương nghĩa nhớ ở trong thơ này, Xem thơ nước mắt nhỏ đầy, Thương tôi đừng gởi thơ này làm chi. Nhện giăng trướng án bố vi, Hai đứa mình chồng vợ sợ chi tiếng đồn. Đá cheo leo trâu trèo trâu tuột, Ngựa trèo ngựa đổ, Tiếc công anh lao khổ tự cổ chí kim, Bao giờ đá nổi vông chìm, Muối chua chanh mặn mới tìm được em. Hòn đá cheo leo, trâu trèo trâu trợt, Ngựa trèo ngựa đổ, Công anh lao khổ từ cổ chí kim, Mất em khó kiếm khó tìm, Bởi anh ở bạc, em phải tìm nơi xa.

502

721.

132

Tửu năng hồng nhơn diện, Tài năng động nhơn tâm Thế gian họ nói không lầm, Lụa tuy vóc trắng, vụng cầm cũng đen.

412

722.

U u minh minh thực phỉ chí tình, Em ham chi tô nước lạnh bỏ bình trà thơm.

414

723.

Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình, Mặt chưa thấy mặt mà tình đã thương.

399

724.

472

725.

174

726.

178

727.

Trách ai làm khóa rẽ chìa, Vu oan giá họa mình lìa tôi ra. Trước lạy cha sau ra lạy má, Con đã có chồng xuất giá tòng phu. Anh về xứ đế thành đô, Như cá biển hồ bao thuở gặp em. Ba năm xương rụi cốt tàn, Dầu ai ve bậu, bậu làm bậu ăn.

Tửu năng hồng nhơn diện, Tài năng động nhơn tâm U u minh minh thực phỉ chí tình Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình Vu oan giá họa Xuất giá tòng phu Xứ đế thành đô Xương rụi cốt tàn

133

STT

Yếu tố Hán Việt

Ngữ âm toàn dân

Thành ngữ HV có yếu tố phương ngữ hóa

BẢNG 2. TỪ NGỮ HÁN VIỆT PHƯƠNG NGỮ HÓA TRONG CA DAO NAM BỘ Ngữ âm phương ngữ Nam Bộ

1

Chính

Từ đơn tiết HV phương ngữ hóa x

x

5

[cǐŋ

]

]

2

Sinh

Sanh

Thập tử nhất sanh

1

[ʂǐŋ

]

]

5 [cɛ̌ŋ 1 [ʂɛ̌ŋ

3

Thịnh

x

6 ] [tʰǐŋ

6 ] [tʰɛ̌ŋ

4

Nhân

Nhơn

Tri nhơn tri diện bất tri tâm

Từ song tiết HV có yếu tố phương ngữ hóa Chánh tà Sanh tử Sanh thành Sanh dưỡng Thạnh suy Thạnh thời Nhơn hậu Nhơn đạo Nhơn tình

1 ]

[ɲɤ̌ n

1 ] [ɲɤn

5

Nhất

Nhứt

x

Quân tử nhứt ngôn Thủy chung như nhứt

[ɲɤ̌ t

5 ]

5 ] [ɲɯt

6

Nhật

Nhứt nhựt vãng lai

6 ]

7 8 9

Nho Hồng Phong

Nhựt nguyệt Tiền nhựt x Hường nhan Tiên phuông

Nhu

m1

10

Trọng

Trượng

[ɲɤ̌ t 1 ] [ɲɔ m2 [hǒŋ [fɔ̌ ŋ

] ]

m6

[ʈɔ̌ ŋ

]

6 [ɲɯt ] 1 ] [ɲu 2 ] [hɯ͜ɤŋ 1 ] [fu͜oŋ 6 ] [ʈɯ͜ɤŋ

11

Nghĩa

Ngãi Ngỡi

Ngãi nhơn Ngỡi nhơn

x x x Tình thâm ngỡi trượng Tình thâm ngỡi trượng

3 ]

[ŋi͜e

3 ]/

[ŋai̯

12

Quý

Quyền quới

x

5 ]

[kwi

3 ] [ŋɤi̯ 5 ] [kwɤi̯

134

BẢNG 3. TỪ NGỮ HÁN VIỆT CÓ HAI CÁCH ĐỌC HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ

STT

Cách đọc 1

Cách đọc 2

Yếu tố HV có hai âm đọc

Từ đơn tiết HV có hai âm đọc

Thành ngữ HV có yếu tố có hai âm đọc

1

Cang/cương

x

Tam cang ngũ thường Tam cương ngũ thường

1 ] [kaŋ

1 ] [kɯ͜ɤŋ

x

2 Đàng/đường

Từ song tiết HV có yếu tố có hai âm đọc Cang thường Cương thường Kỷ cang Gia cang Gia đàng Gia đường

Đàng Đường

2 ] [daŋ

2 ] [dɯ͜ɤŋ

3

Dũng/dõng

x

x

m3

m3

Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng

[zǔŋ

]

[zɔ̌ ŋ

]

Xuất giá tòng phu

4

Tùng/tòng

Tùng Tòng

m2

m2

[tǔŋ

]

[tɔ̌ ŋ

]

x

Tam tùng Tam tòng Tùng giả Tòng giả Thọ lãnh

5

Thụ/thọ

6 ] [tʰu

6 ] [tʰɔ

6

Phúc/phước

Phúc Phước

Vô phúc Vô phước

p5

x Họa phúc vô môn Bạc phước vô môn

[fǔk

]

5 ] [fɯ͜ɤk

x

7 Phụng/phượng

Phụng

6 ] [fǔŋᵐ

6 ] [fɯ͜ɤŋ

x

x

8

Sơn/san

Phụng hoàng Phượng hoàng Giang sơn Giang san Thoái hồi Thoái dị tấn nan

x

9

Thoái/thối

[ʂan

1 ] [ʂɤn 5 ]

[tʰwai̯

1 ] 5 ] [tʰoi̯

Thối dị tấn nan

10

Hoa/huê

Hoa

x

11 Oanh/uyên

x

Thối nan Thối lui Vinh huê Huê tình Oanh ương

[hwa

[hwe

1 ] 1 ]

1 ] 1 ]

[ʔwaɲ

[ʔwi͜en

12

Tiến/tấn

x

x

5 ] [ti͜en

5 ]

[tɤ̌ n

13

Vũ/võ

x

x Tiến thoái lưỡng nan Tấn thối lưỡng nan x

14 Hoàng/huỳnh

x

x

Vũ môn Huỳnh tuyền

3 ] [vu 2 ] [hwaŋ

3 ] [vɔ 2 ]

[hwiɲ

135