BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Văn Viễn
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN TẠ DUY ANH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG THỊ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất của mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS.Hoaøng
Thò Vaên, người đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực
hiện và hoàn thành bản luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam,
ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng Quản lí sau đại học – trường Đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cám ơn töø đáy lòng tới Ban giám hiệu, tổ Văn, các
đồng nghiệp trường Trung học phổ thông Daân laäp Hoàng Ñöùc thaønh phoá Hoà Chí Minh đã quan
tâm, động viên và tạo điều tốt nhất cho tôi trong thời gian vừa qua.
Sau cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới những người thân trong gia đình bạn bè đã động
viên, giúp đỡ tận tình để tôi hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2009
Traàn Vaên Vieãn
MÔÛ ÑAÀU
1. Lí do choïn ñeà taøi
Töø khi ra ñôøi cho ñeán nay, truyeän ngaén ñaõ coù nhöõng böôùc phaùt trieån ñaùng keå, gaët haùi
ñöôïc nhieàu thaønh töïu quan troïng vaø taïo döïng ñöôïc moät vò trí vöõng chaéc beân caïnh caùc theå
loaïi vaên hoïc khaùc. Goïn, cô ñoäng, deã daøng coâng boá treân baùo chí; khôûi ñi töø moät tình huoáng,
moät khoaûnh khaéc maø coù theå heù loä caû moät soá phaän, moät tính caùch cuûa con ngöôøi cuøng moät
traïng thaùi nhaân sinh. Truyeän ngaén quaû thaät laø moät moùn aên tinh thaàn haáp daãn vaø coù taàm phoå
bieán roäng raõi.
Noùi ñeán truyeän ngaén Vieät Nam ñöông ñaïi, khoâng theå khoâng nhaéc ñeán Tạ Duy Anh -
ngöôøi ñaõ goùp phaàn laøm cho ñôøi soáng vaên hoïc thôøi kì ñoåi môùi soâi noåi vaø khôûi saéc. Traøn ñaày
tinh thaàn caùch taân, Tạ Duy Anh ñaõ söû duïng moät caùch toái ña khaû naêng cuûa ngoân ngöõ vaø cuûa
theå loaïi ñeå bieåu ñaït moät caùch cao nhaát yù töôûng, tình caûm cuûa mình. Tạ Duy Anh là tác giả
của những tác phẩm luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã
hội hiện đại. Ông cũng là tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con người, nhất là khi họ rơi
vào tình trạng khủng hoảng nhân cách. Trong lăng kính đa chiều, Tạ Duy Anh đã nhìn hiện
thực một cách lý trí, lạnh lùng nhưng đầy thương xót con người.
Để đạt được thành công trên con đường văn chương hôm nay, Tạ Duy Anh đã vượt lên
số phận, vượt qua bệnh tật, những đau đớn thể xác và chinh phục được những kiến thức cần
thiết cho nghề nghiệp của mình. Thành quả đó có được là do sự nỗ lực không mệt mỏi của ông.
Cho đến hôm nay Tạ Duy Anh đã trở thành một nhà văn có tên tuổi trên văn đàn Văn học Việt
Nam, đã nhận được nhieàu giải thưởng quan trọng: Giải thưởng truyện ngắn viết về đề tài nông
thôn (do báo Văn nghệ, Nông nghiệp và Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức năm 1989).
Chính vì söï môùi meû aáy maø töø khi xuaát hieän ñeán nay, Tạ Duy Anh ñaõ taïo neân dö luaän.
Các ý kieán veà truyeän ngaén cuûa oâng, khen hay cheâ, taát thaûy ñeàu maïnh meõ quyeát lieät vaø thaäm
chí traùi ngöôïc nhau. Tên tuổi của Tạ Duy Anh càng được nhiều người biết đến khi Giáo sư
Hoàng Ngọc Hiến mượn tên truyện của ông để khái quát “Có một dòng văn học bước qua lời
nguyền”. Từ thực tế trên Tạ Duy Anh đã trở thành nhà văn được nhiều người yêu mến. Ông có
tác phẩm “Bức tranh của em gái tôi” là truyện ngắn đoạt giải nhì trong cuộc thi viết “Tương
lai vẫy gọi” của báo Thiếu niên Tiền Phong, in trong tập “Con dế ma” – Nhà xuất bản Kim
Đồng, Hà Nội, năm 1999, được đưa vào chương trình (Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 6, tập 2, tr
30). Ngoài ra, ông còn có đoạn trích “Caùnh dieàu tuoåi thô” trong sách giáo khoa (Tieáng Vieät 4,
taäp 1, tr 146).
Thời gian trôi qua, những cảm xúc nóng bỏng về những gì ông viết ở người đọc chuyển
dần sang sự nghiền ngẫm kĩ lưỡng. Nhiều người bắt đầu đi sâu vào tìm hiểu, phân tích, đánh giá
tài năng văn chương của ông một cách khách quan hơn qua những trang viết thận trọng. Như
vậy, khi lựa chọn đề tài “Đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy Anh” chúng tôi đã tiếp cận với một số
bài viết về truyện ngắn của ông, trong đó ý kiến của giới nghiên cứu – phê bình văn học nói
chung đã thống nhất. Bên cạnh đó, việc tìm hieåu truyeän ngaén Tạ Duy Anh giúp chúng tôi coù
theâm caùi nhìn toång thể, và có ý nghĩa thiết thực về mặt nghiệp vụ, trong lĩnh vực nghiên cứu,
giảng dạy trong nhà trường tốt hơn. Một điều càng thú vị hơn nữa càng tiếp xúc với tác phẩm
của Tạ Duy Anh càng phát hiện ra những điều mới mẻ, lôi cuốn người đọc. Ở đây, người viết
muốn nhờ vào quá trình tìm tòi, nghiên cứu, thực hiện công trình nhỏ bé này mà học hỏi thêm
đôi điều về truyện ngắn Tạ Duy Anh. Đó là những lí do thôi thúc chúng tôi chọn truyện ngắn
Tạ Duy Anh làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Lòch söû vaán ñeà
Xuất hiện vào những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước. Tạ Duy Anh đã khuấy
động cả một bầu không khí sinh hoạt văn hoá, văn nghệ nước nhà. Tác phẩm của ông, với
những hiệu ứng mà nó gây nên, đã góp phần phá vỡ bình ổn của văn học dân tộc trong suốt hai
cuộc kháng chiến, đồng thời tạo nên sự chuyển nhịp, tăng tốc cho những bước đi vốn bình
thường, chậm rãi của lí luận và phê bình văn học đương đại Việt Nam. Trong những năm gần
đây, đời sống văn học nước ta rộ lên sự xuất hiện của hàng loạt cây bút trẻ như Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Ngọc Tư…
Trong những tên tuổi đó, Tạ Duy Anh hiện đang được xem là một hiện tượng nổi bật, một cây
bút sung sức với nhiều thể nghiệm văn chương táo bạo.
“Là tác giả của những tác phẩm luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm” Tạ Duy Anh
là nhà văn trẻ được dư luận quan tâm. Tác phẩm của nhà văn họ Tạ này ẩn chứa những giá trị
nghệ thuật nào mà gây xôn xao dư luận, tạo ra nhiều tranh cãi, khen – chê? Thực chất Tạ Duy
Anh là ai? Những bàn luận về Tạ Duy Anh và sáng tác của ông đúng sai ra sao? Quả là, Tạ Duy
Anh đã tạo ra một “từ trường” riêng hấp dẫn và lôi cuốn độc giả. Caùc yù kieán xung quanh về tác
phẩm của Tạ Duy Anh trong voøng gần 20 naêm qua đã coù khoâng döôùi 100 baøi.
Đến với văn Tạ Duy Anh, bạn đọc cũng sẽ bắt gặp ít nhiều sự ảnh hưởng của chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo. Nói về điểm này Tạ Duy Anh từng tâm sự: “Tôi rất mê “Trăm năm cô
đơn” của Marquez, nhưng cái tên chủ nghĩa hiện thực huyền ảo có lẽ quá mới mẻ với thế hệ
những người cầm bút như tôi. Chuyện học tập hay ảnh hưởng nó, tôi không hề nghĩ tới. Căn cốt
của tôi vẫn bị ảnh hưởng của hiện thực nhưng tôi muốn đấy nó ở mức sâu hơn, đa diện đa
chiều hơn. Nhiều người thắc mắc về việc tôi khai thác đời sống hiện thực phi lý, nhưng một
bằng chứng cho thấy trong cuộc sống, khi có quá nhiều cái dị thường và người ta đương nhiên
phải chấp nhận nó”, “khi viết, tôi luôn tâm niệm mình đang tạo ra một tác phẩm thật sâu sắc,
mọi cái phi lý cuối cùng chỉ để phản ánh hiện thực hữu ý mà thôi”. Hòa vào guồng máy của lao
động nghệ thuật, Tạ Duy Anh luôn tìm tòi cách viết mới nhưng bản thân vẫn chưa “Bước qua
lời nguyền” của chính mình. Truyện ngắn “Bước qua lời nguyền” của Tạ Duy Anh đã từng
làm “cháy” báo Văn Nghệ trên tất cả các sạp báo cả nước. Vẫn là motip Romeo & Juliet với
mối thù của hai dòng họ trên vai và tình yêu trong tim, nhưng truyện của Tạ Duy Anh là sự tái
hiện bức tranh toàn cảnh nông thôn Việt Nam những năm 1950 – 1970 đầy máu và nước mắt,
nhưng càng hấp dẫn và thuyết phục bạn đọc hơn bởi bóng dáng chuyện đời tác giả thấp thoáng
đằng sau những trang chuyện tình thật say đắm và bay bổng mà truyệt Việt Nam ít khi đạt đến.
Bên cạnh đó caùc yù kieán về Tạ Duy Anh ña soá ñeàu coù nhöõng laäp luaän xaùc ñaùng döïa treân
cô sôû phaân tích thaáu ñaùo nhöõng ñoùng goùp cuûa nhaø vaên treân caû hai phöông dieän tö töôûng vaø
ngheä thuaät. Ñaëc bieät, nhieàu nhaø nghieân cöùu chæ ra ñöôïc trong nhöõng saùng taùc cuûa Tạ Duy
Anh nhöõng caùch taân ngheä thuaät raát caàn thieát cho moät khuynh höôùng vaên hoïc môùi. Trong bản
tổng kết “cuộc thi truyện ngắn đề tài nông thôn” đăng trên báo Văn nghệ số 4 – 5 năm 1990 có
đoạn viết: “Truyện ngắn Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh báo hiệu một tấm lòng lớn, một
tầm nhìn xa và một tài năng trẻ viết về số phận con người…”. Và trên báo Văn Nghệ số 50
(12/1989), Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến nhận định: “… đọc truyện ngắn của Tạ Duy Anh, một
câu hỏi đặt ra; Giã từ thế kỷ XX bão táp và máu lửa này và chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI “lý
trí và nhân bản” những lời nguyền nào là đáng nguyền rủa, những lời nguyền nào nhân loại
trước sau cũng phải bước qua? Phải đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia? Phải chăng truyện
của Tạ Duy Anh là tín hiệu của một dòng văn học mới, dòng văn học bước qua lời nguyền”…
Trên Tạp chí văn học số 4/1995, Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến còn cho rằng: “Nhiều truyện trong
tập truyện Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh mang cảm hứng trút bỏ những thành kiến
nặng nề của quá khứ, xóa bỏ những nếp sống gắn liền với bạo lực, sự cùng khốn và tối tăm…
Những định kiến hận thù có thể trở thành lời nguyền – có khi ngoài ý muốn của con người, con
người yêu thương bị trói bởi những lời nguyền của chính mình, để thực hiện và thỏa mãn khát
vọng yêu thương – nhu cầu nhân tính cao nhất của con người – chẳng có con đường nào khác
là “Bước qua lời nguyền” – đó là chủ đề tư tưởng của truyện ngắn mà nhan đề được sử dụng
để gọi tên cả tập truyện. Trong hiện tại chủ đề này được cảm nhận với nhiều sự mắc mớ nhưng
nó có tương lai, nó là chủ đề tư tưởng của tương lai”.
Tạ Duy Anh là một cây bút viết truyện ngắn nhưng sau thành công đầu tiên và sau tiểu
thuyết Khúc dạo đầu không gây được tiếng vang, nhà văn lại nổi lên với bộ ba tiểu thuyết: Lão
khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối và mới gần đây là tiểu thuyết Giã biệt bóng tối Giáo
sư Hoàng Ngọc Hiến tiếp tục khẳng định: “Tạ Duy Anh Bước qua lời nguyền để đi đến Lão
khổ. Thêm một giả thiết văn học về bản chất và thân phận người nông dân Việt Nam. Đây là
một cuốn tiểu thuyết rất quan trọng” [5, tr 140].
Báo Thể thao văn hoá số 47 năm 2004 đã đưa ra nhận định: “Có thể coi ông là nhà văn
đạo đức, văn chương của ông có lúc hiện lên bằng một gương mặt thế sự, đớn đau, riết róng
chuyện thánh thiện, tàn ác, liêm sỉ và vô lương nhưng không phải như những khái niệm truyền
bản chết khô, mà thông qua sự cảm nhận đau đớn về số phận”… “mối quan tâm lớn nhất của
Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh mất mình của con người dưới sự giằng giật xiêu dạt của lịch
sử. Trên con đường truy tìm lại mặt mình, cũng như khả dĩ gương mặt thực của quá khứ, con
người vấp phải và bị phong toả bởi thói gian trá, đớn hèn, vật dụng, tàn ác, kể cả trong mỗi cá
nhân. Phúc âm duy nhất là tình yêu, tình cảm trong sáng bản thể của hiện tại và cái nhìn trung
thực, nhân đạo đối với những vết thương, lỗi lầm của quá khứ” [22].
Báo Pháp luật số 140 năm 2004 đưa ra nhận định “hầu hết những tác phẩm của ông (trừ
truyện viết cho thiết nhi và tản văn) đều rất gai về nội dung thể hiện [21] dưới cái nhìn hiện
thực ở góc khuất”. Đi tìm nhân vật là “Bức tranh hiện thực ngọt ngào của quyền lực, cái chết,
sự đồi bại… còn Thiên thần sám hối là một cuốn tiểu thuyết rất hay gần đây viết về nỗi đau
làm người và chưa được làm người qua câu chuyện của một hài nhi đang lựa chọn có nên làm
người hay không” [5, tr 405]. Nhà văn đã cho bạn đọc cái nhìn thẳng vào sự thật chát chúa
“ông là một tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con người, nhất là khi họ bị rơi vào tình
trạng khủng hoảng nhân cách. Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực một cách lý trí, lạnh lùng nhưng
cũng đầy thương xót con người”.
Báo Giáo dục và thời đại số 80 năm 2004 cũng đặt câu hỏi: “Số phận con người phải
chăng luôn là sự trăn trở, dằn vặt trong ông?” và tác giả bài báo cũng đưa ra câu trả lời: “Nhân
vật nào của ông cũng thấp thoáng bóng dáng của một người sinh ngày 9 tháng 9 tại làng Đồng.
Các truyện Đêm hóa thạch, Nửa đêm về sáng, Phía sau chân trời và cả một số sáng tác sau
này đều có một môtíp nhang nhác giống nhau” [8, tr 175 – 176].
Bài Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác [38] gọi tác giả là “là nhà văn của thời điểm” đã
đưa ra một số cái nhìn cơ bản về quan niệm của tác giả và con người: “Nhân vật của Tạ Duy
Anh không có sự trung gian, nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình. Người xấu thì cựu xấu như lão
Phụng… người đẹp thì như hoa như ngọc như Qúy Anh, chị Túc, bà Ba, như sản phụ chờ sinh.
Nhưng bản chất con người thì luôn ở ranh giới thiện – ác. Nhân vật nào cũng luôn luôn bị đặt
trong trạng thái đấu tranh với xã hội với môi trường, với kẻ thù, với người thân, với chính bản
thân mình. Đã thế nhà văn lại có cái giọng rất quyết liệt, nhiều hình dung từ và động từ mạnh,
chõi nhau…” nhà văn lắm lúc quằn quại rên rỉ vì không ngăn nổi một hành động ác, cũng có
khi “lạnh lùng cố ý trước sự trả thù” [47].
Nói về thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh, nhà văn Nguyên Ngọc trong bài viết
Văn xuôi Việt Nam hiện nay, lôgíc quanh co của các thể loại, những vấn đề đặt ra và triển
vọng đã nêu nhận định: “Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh gói gọn trong nửa trang cả
một cuộc đời, một kiếp sống, mấy kiếp người vừa là tác giả vừa là nạn nhân của những bi kịch
đằng đẵng một thời” (evan.com.vn) Tạ Duy Anh luôn theo đuổi nhân vật “vừa là tác giả, vừa
là nạn nhân của những bi kịch xã hội” là một trong những chiều hướng tư tưởng mà Tạ Duy
Anh theo đuổi. Điều này thể hiện rõ ở tiểu thuyết Lão Khổ khi “nhân vật lão Khổ trở đi trở lại
trong tác phẩm, một người nông dân chất phát, vô tội, yếu đuối, bị ám ảnh bởi lời nguyền thâm
thù hoàn toàn riêng tư giữa hai dòng họ, đã tự biến mình và đồng loại thành vừa là thủ phạm
vừa là nạn nhân của cuộc giết chóc tàn phá trả thù” [8, tr 180 – 181].
Trong bài viết Tạ Duy Anh - người đi tìm nhân vật tác giả Thụy Khuê đã nhận thức về
nhân vật Tạ Duy Anh với cái nhìn lịch sử: “Những nhân vật của Tạ Duy Anh qua bao tác phẩm
từ hơn muời năm nay vẫn gắn bó mật thiết với nhau trong một tương quan chặt chẽ, họ hàng,
làng nước. Họ xuất thân cùng ở làng Đồng, họ cùng tiềm ẩn thù hận dòng họ, hận thù giai
cấp…” [29].
Treân ñaây, chuùng toâi ñaõ ñieåm qua moät soá yù kieán coù theå ñöôïc coi laø khaù tieâu bieåu veà
văn chương Tạ Duy Anh. Maëc duø moãi baøi coù nhöõng phaùt hieän vaø caùch lí giaûi rieâng nhöng töïu
trung laïi, ña soá caùc yù kieán ñoù ñeàu gaëp nhau ôû choã thöøa nhaän: Tạ Duy Anh laø moät taøi naêng
vaên chöông lôùn, ñaùng ñeå chuùng ta quan taâm. Tuy chöa phaûi laø nhöõng coâng trình nghieân cöùu
toaøn dieän veà Tạ Duy Anh nhöng nhöõng yù kieán treân coù tính chaát ñònh höôùng, gôïi môû, giuùp
cho chuùng toâi coù ñieàu kieän ñeå hieåu hôn veà vaên chöông cuõng nhö con ngöôøi Tạ Duy Anh.
Trong phạm vi nghiên cứu nhà trường, tác phẩm Tạ Duy Anh đã được tìm hiểu trong một
số luận văn thạc sĩ sau:
+ Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Nguyễn Thị Mai Loan)
+ Cảm thức về cái Phi Lý trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Cao Tố Uyên)
+ Nghệ thuật kết cấu trong tiểu thuyết “Đi tìm nhân vật” của Tạ Duy Anh (Bùi Thanh Tùng)
+ Tạ Duy Anh - từ quan niệm Nghệ thuật đến những đổi mới trong sáng tác truyện ngắn
(Phạm Thị Hương)
+ Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Tạ Duy Anh (Nguyễn Thị Ninh)
+ Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Phạm Quỳnh Dương)
+ Nghệ thuật kết cấu trong một số tiểu thuyết huyền ảo triết luận của Tạ Duy Anh, Châu
Diên, Hồ Anh Thái (Nguyễn Thị Kim Lan)
+ Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Lê Vũ Lan Hương)
+ Tạ Duy Anh và việc làm mới nghệ thuật (Nguyễn Thị Hồng Giang)
Với góc độ khám phá riêng biệt, luận văn này muốn tổng hợp từ những nhận định trên để
có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về Đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy Anh đồng thời muốn ghi nhận
đóng góp của nhà văn đối với văn xuôi thời kì đổi mới.
3. Ñoái töôïng nghieân cöùu
Tạ Duy Anh saùng taùc nhieàu theå loaïi: Truyeän ngaén, truyện dài, truyện vừa, tieåu thuyeát,
tản văn, kịch, tieåu luaän pheâ bình... Theå loaïi laøm neân teân tuoåi cuûa Tạ Duy Anh laø truyeän
ngaén. ÔÛ theå loaïi naøy oâng coù taát caû hơn 50 truyeän. Trong ñoù, coù nhieàu tập truyeän: “Bước qua
lời nguyền” (1989), “Quả trứng vàng” (1989), “Hiệp sĩ áo cỏ” (1993),“Luân hồi” (1994),
“Con dế ma” (1999), “Ánh sáng nàng” (2000), “Vó ngựa trở về” (2000), “Ngày hội cuối
cùng” (2000), “Những truyện không phải trong mơ” (2003), “Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy
Anh” (2003), “Ba đào ký” (2004), “Bố cục hoàn hảo” (2004)… Vôùi khuoân khoå ñeà taøi naøy,
chuùng toâi tieán haønh khaûo saùt toàn bộ truyện ngắn Tạ Duy Anh, trong töông quan so saùnh vôùi
truyeän ngaén cuûa moät soá nhaø vaên khaùc, ñeå ruùt ra ñaëc ñieåm cô baûn cuûa truyeän ngaén Taï Duy
Anh. Đây là saùng taùc ñöôïc coi laø thaønh coâng trong vaên nghieäp Tạ Duy Anh.
4. Phöông phaùp nghieân cöùu
Ñeå trieån khai ñeà taøi “Đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy Anh” chuùng toâi ñaõ vaän duïng nhöõng
phöông phaùp nghieân cöùu chuû yeáu sau:
Phöông phaùp phaân tích – toång hôïp: Phöông phaùp naøy giuùp chuùng toâi tieáp caän vaø khaûo
saùt tröïc tieáp vaên baûn. Treân cô sôû toång hôïp laïi nhöõng gì ñaõ tieáp caän vaø khaûo saùt aáy phuïc vuï
moät caùch hieäu quaû nhaát cho luaän ñieåm chính cuûa luaän vaên.
Phöông phaùp so saùnh – ñoái chieáu: Nhaèm laøm noåi baät söï khaùc bieät cuûa truyeän ngaén Tạ
Duy Anh vôùi caùc nhaø vaên khaùc ôû nhieàu phöông dieän: phöông phaùp saùng taùc, ngheä thuaät bieåu
hieän…
Phương pháp hệ thống: Đề tài được đặt trong hệ thống tác phẩm của Tạ Duy Anh để xem
xét, đánh giá và phát hiện cách nhìn nhận, thể hiện con người trong quá trình sáng tác của nhà
văn.
Nhöõng phöông phaùp naøy seõ ñöôïc chuùng toâi vaän duïng moät caùch linh hoaït trong quaù
trình nghieân cöùu.
5. YÙ nghóa khoa hoïc vaø thöïc tieãn
- Vôùi ñeà taøi naøy, chuùng toâi mong muoán seõ tieáp caän ñöôïc nhöõng khía caïnh cô baûn nhaát
ñaõ laøm neân ñaëc tröng phong caùch ngheä thuaät Tạ Duy Anh ôû theå loaïi truyeän ngaén. Ñeå töø ñoù
coù theå xaùc ñònh nhöõng ñoùng goùp cuûa nhaø vaên trong lòch söû truyeän ngaén noùi rieâng, trong ñôøi
soáng vaên hoïc Việt Nam noùi chung cuõng nhö chæ ra ñöôïc sự thoáng nhaát trong quan ñieåm ngheä
thuaät vaø thöïc tieãn saùng taùc cuûa oâng. Giúp hiểu rõ hơn về Tạ Duy Anh để giảng dạy tốt hơn
những tác phẩm đang được đưa vào chương trình phổ thông.
6. Caáu trúc cuûa luaän vaên
Luaän vaên goàm coù 148 trang, ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu
tham khảo (10 trang) – Phaàn noäi dung chính cuûa luận văn (gồm có 125 trang), chia laøm 3
chöông:
- Chöông 1: Truyeän ngaén và khaùi quaùt veà truyeän ngaén Tạ Duy Anh
- Chöông 2: Thế giới nhân vật trong truyeän ngaén Tạ Duy Anh
- Chöông 3: Thủ pháp ngheä thuaät trong truyeän ngaén Tạ Duy Anh
Chöông 1
TRUYEÄN NGAÉN VÀ KHAÙI QUAÙT VEÀ TRUYEÄN NGAÉN
TAÏ DUY ANH
1.1. Truyeän ngaén
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn
Bước vào những thập niên đầu của thế kỉ XX, cùng với tiểu thuyết và thơ ca, truyện ngắn
cũng nhanh chóng tiếp nhận được những ưu thế mới của thời đại, cũng như chịu sự chi phối của
quy luật phát triển chung của một nền văn hoá, văn nghệ đang không ngừng đổi mới. Mặc dù
thuật ngữ “truyện ngắn” xuất hiện chính thức vào khoảng cuối thế kỉ XIX cuøng vôùi baùo chí,
bản thân nó cũng đã từng có một lịch sử phát triển riêng, nhưng cho đến nay trên thế giới cũng
như ở Việt Nam, người ta vẫn chưa xây dựng được một hệ thống lí luận hoàn chỉnh về truyện
ngắn. Được quan niệm là “một bộ phận của tiểu thuyết” (Bùi Việt Thắng) hay là “một dạng
tiểu thuyết đặc biệt” (Vương Trí Nhàn), truyện ngắn đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Với kinh nghiệm từ nhiều năm cầm bút, Pautopxki đã phát biểu: “Truyện ngắn là truyện viết
ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái bình thường và cái gì bình
thường hiện ra như một cái không bình thường” [44, tr 105]. Từ những trải nghiệm trong thực
tế sáng tác của mình, Aimatôp lại nói: “Truyện ngắn giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao
động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô đúc, các phương tiện phải được tính toán một cách
kinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là một việc vô cùng tinh tế. Xoay xoả trên một mảnh đất
chật hẹp, đó chính là chỗ để cho truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác”. [44, tr 146]. Từng
trăn trở rất nhiều trong mỗi trang viết, nhà văn Nguyễn Công Hoan lại cho rằng “Truyện ngắn
không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết”. [71, tr 186].
Moät trong nhöõng xaùc ñònh suùc tích vaø khaù chuaån veà truyeän ngaén laø ñònh nghóa cuûa Laïi
Nguyeân AÂn: “Moät theå loaïi töï söï côõ nhoû, thöôøng ñöôïc vieát baèng vaên xuoâi, ñeà caäp haàu heát caùc
phöông dieän cuûa ñôøi soáng con ngöôøi vaø xaõ hoäi. Neùt noåi baät cuûa truyeän ngaén laø dung löôïng,
taùc phaåm truyeän ngaén thích hôïp vôùi vieäc ngöôøi tieáp nhaän (ñoäc giaû) ñoïc noù lieàn maïch khoâng
nghæ”. [53, tr 1846 – 1847].
Xuaát phaùt töø nhöõng quan nieäm töông ñoái thoáng nhaát veà truyeän ngaén đã cung cấp cho
chúng ta những nền tảng cơ bản để hiểu rõ hơn về khái niệm vaø coù theå neâu ra moät soá ñaëc ñieåm
cô baûn cuûa theå loaïi naøy.
1.1.2. Đặc điểm truyện ngắn
1.1.2.1. Đặc ñieåm đầu tiên, dễ thấy nhất của truyện ngắn là dung lượng nhỏ. Thế nào là
nhỏ? Có thể nói, dung lượng thông thường của một truyện ngắn co dãn khoảng từ 3 đến 50
trang. Dưới con số 3 trang, người ta gọi là “truyện ngắn mini”, hoặc “truyện ngắn trong lòng
bàn tay”; trên con số 50 trang, người ta gọi là truyện vừa, trên 100 trang là tiểu thuyết. Những
cách gọi này tương ứng với các khái niệm đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn) trung thiên tiểu
thuyết (truyện vừa) trường thiên tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ biến ở Việt Nam vào thời kỳ
đầu của văn xuôi tự sự hiện đại. Tuy nhiên tính chất nhỏ của truyện ngắn không chỉ nằm ở dung
lượng, mà quan trọng hơn là những quy luật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Do tính chất ngắn
gọn, truyện ngắn được tổ chức bằng các phương thức và chất liệu đặc biệt.
Về “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại”, truyện ngắn không có tham vọng ôm vào
mình một hiện thực rộng lớn, hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc và
hay” (Bùi Việt Thắng). Nguyên tắc chưng cất của truyện ngắn không cho phép“dồn ép” hoặc
“nhồi nhét” rút gọn nội dung của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương như thế,
thành truyện ngắn. Nếu ta đem cắt tỉa, gọt đẽo một tiểu thuyết vài ba trăm trang xuống chỉ còn
vài chục trang thì cái thành phẩm đặc biệt này cũng không phải và không thể trở thành một
truyện ngắn. Như vậy, ngắn gọn trong truyện ngắn là cái ngắn gọn tinh lọc và chặt chẽ. Sekhov,
một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã ví: Truyện ngắn cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó
tất cả phải đâu vào đấy, không có cái gì được thừa. Khác với truyện dài và truyện vừa, truyện
ngắn phải là “một lát cắt gọn ghẽ”, “toàn truyện là một cái vòng khép kín không dài quá, không
ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào”. [64]
Để đạt tới tầm cao và chiều sâu của ý tưởng mà vẫn sống động tự nhiên, truyện ngắn
“phải lựa chọn được một cách nhìn và một điểm nhìn tập trung, giống như cái tiêu điểm của
thấu kính, tập trung ánh sáng mặt trời để có thể đốt cháy đám bùi nhùi” [2, tr 42]. Các tác giả
truyện ngắn thường hướng tới việc khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong
quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người. Ám ảnh và đầy ấn tượng cũng là một
trong những cách thức chiếm lĩnh hiện thực và hấp dẫn người đọc của truyện ngắn.
Về tác động của truyện ngắn, do tính chất cô đúc, truyện ngắn có sức nén và sức công
phá cao. Chỉ cần một ít trang văn xuôi, người viết có thể làm “nổ tung trong tình cảm và ý nghĩ
của người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi,
suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại mãi không chán” [8]. Đỗ Chu cũng có cùng ý kiến như vậy, ông
cho rằng: “một truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt” bởi vì
“sức chứa trong truyện có thể rất nhiều, sức nổ rất lớn”. Lỗ Tấn thì lại cho rằng: truyện ngắn
có thể và cần phải trở thành “tòa đại lầu” để chứa đựng cả tinh thần của thời đại nhờ phương
thức biểu hiện qua một con mắt mà truyền đạt được cả tinh thần con người vốn có của nó. Bằng
sự trải nghiệm trong cuộc đời cầm bút của mình, Thomas Mann khẳng định: Truyện ngắn tuy
bé nhỏ, nhưng “những cái bé nhỏ đó cũng có sức chứa nội tại lớn lao, cũng có thể bao quát
được toàn bộ đời sống, có thể đạt được kích thước anh hùng ca và có được tác dụng nghệ thuật
chẳng khác gì một sáng tác đồ sộ khác” [59].
Về tính chất thưởng thức, truyện ngắn khác tiểu thuyết ở chỗ, độc giả có thể đọc nó trong
một hơi không nghỉ: “Truyện ngắn là một tác phẩm tuỳ dài tuỳ ngắn, người ta có thể đọc trong
mười phút hoặc một giờ”. [44]
Tính nhanh nhạy, cập nhật cũng là một đặc điểm của truyện ngắn. Là một thể loại dân
chủ, truyện ngắn gần gũi với đời sống hằng ngày. Với đặc thù ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, truyện
ngắn thường gắn liền với hoạt động báo chí, có tác động mạnh mẽ, kịp thời tới cuộc sống. Ở
truyện ngắn, người viết không được dông dài, độ căng của tác phẩm phải “như mũi tên mà dây
cung đã bật, phải bay vụt về tới đích không thể có một phần nghìn dây trù trừ” [71, tr 162]. Để
đạt được điều này, điều cốt yếu của truyện ngắn là phải “nhạy bén trước những đổi thay của
cuộc sống” [44], truyện ngắn cần bắt nhịp nhanh với cuộc sống thời hiện tại. Truyện ngắn là
thể loại thích hợp giúp nhà văn tìm hiểu về những vấn đề mới đang được đặt ra trong cuộc
sống. Người ta có thể cho phép tiểu thuyết trở về khái quát một giai đoạn đã qua, nhưng truyện
ngắn thì không thể làm thế. Truyện ngắn phải trực tiếp đả động đến điều mọi người đang suy
nghĩ trong cuộc sống ngày hôm nay, cho dù chất liệu sử dụng trong tác phẩm là những điều xưa
cũ.
1.1.2.2. Truyện ngắn là thể loại văn xuôi tự sự. Trên phương diện này, truyện ngắn gần
với tiểu thuyết và các thể loại truyện kể dân gian như: truyện cổ tích, thần thoại, truyện cười…
và khác với tùy bút, thơ ca. Từ đặc trưng lớn có tính bao trùm này, có thể rút ra những nét riêng
của truyện ngắn như sau:
Cốt truyện là yếu tố hết sức quan trọng của thể tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng.
Song, khác với tiểu thuyết, cốt truyện của truyện ngắn “thường tự giới hạn về thời gian, không
gian” (Lại Nguyên Ân). Nếu tiểu thuyết dõi theo cả một hay nhiều số phận nhân vật, và tái hiện
một bức tranh xã hội rộng lớn rậm rạp với những mâu thuẫn, xung đột và diễn biến thì truyện
ngắn, tập trung vào một khoảnh khắc, trong đó xây dựng một tình huống truyện. Trong
những bài giảng của mình về Mỹ học Hégel nói: “Tình huống là một trạng thái có tính chất
riêng biệt và trở thành được quy định. Ở trong thuộc tính này của nó, tình huống góp phần biểu
lộ nội dung, là cái phần có được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự hiểu biết nghệ thuật…” [71,
tr 202]. Liên hệ với truyện ngắn, chúng ta thấy tình huống là điểm giao cắt của nhiều yếu tố
cùng một lúc, qua đó tính cách của nhân vật tức thì hiện ra và vấn đề đột nhiên được phơi mở.
Các nhà văn, nhà nghiên cứu ở Việt Nam đôi khi đồng nhất khái niệm tình huống với tình thế.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm
viết… đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra chuyện, thế là coi như xong một
nửa… tình thế truyện không cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó là cái cớ hết
sức chắc chắn, hết sức cụ thể và mang tính riêng, ở đó cốt truyện và nhân vật nương tựa vào
nhau để thực hiện đắc lực tất cả ý định của tác giả, ví như một cây cọc vững chắc để cho cây
bí leo lên mà ra hoa trái…” [8].
Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện ngắn lại là một “mặt cắt
của dòng đời”. Nếu tiểu thuyết “diễn tả một quá trình vận động của cuộc sống” thì truyện
ngắn lại “tập trung vào một tình thế thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm
trạng nhân vật”, nếu tiểu thuyết “mở ra một diện” thì truyện ngắn “tập trung xoáy vào một
điểm”[71].
Về cách thức tiếp cận cuộc sống, truyện ngắn cũng có những khác biệt, nó “khái quát
cuộc sống theo chiều sâu, lấy điểm nối diện, lấy cái khoảnh khắc để nối cái vĩnh cửu” [69].
Ý kiến trên được triển khai kỹ và sinh động hơn: “Tiểu thuyết thường vươn tới cái toàn
thể, truyện ngắn lại hay hướng về cái đơn nhất. Nếu ví tiểu thuyết như một căn phòng ấm áp thì
truyện ngắn có lẽ chỉ nên là một ngọn lửa nhiệt lượng tập trung thật mạnh ở nhiệt độ cao. Nếu
tiểu thuyết là một con người với đầy đủ phục sức, đường nét… thì truyện ngắn chỉ nên là một
đôi mắt nhưng đây là cửa sổ tâm hồn - hoặc thậm chí là một cái ngước mắt, một ánh mắt vừa
có sức cuốn hút mà độ sâu thẳm lại không thể lường được” [71, tr 378].
Nhiều nhà văn đã ra sức tìm một khoảnh khắc đích đáng cho truyện ngắn của mình. Nó
có giá trị như một một điểm xoáy, một phút giao cắt, trong đó nhân vật có thể phơi mở, bộc lộ
trọn vẹn tính cách. Truyện ngắn Lặng lẽ Sapa của Nguyễn Thành Long, Kịch câm của Phan
Thị Vàng Anh, Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp là những truyện ngắn có chứa đựng những
khoảnh khắc như vậy.
Về tính chất, điều đặc biệt ở truyện ngắn là cốt truyện của nó nhiều khi rất rõ nét, rất li
kì, hấp dẫn nhưng cũng có khi không có, hoặc mờ nhạt. Thạch Lam là một nhà văn có nhiều tác
phẩm có cốt truyện mơ hồ, “truyện mà không có chuyện” như thế.
Vậy có yếu tố nào khác khiến cho truyện ngắn vẫn được chấp nhận khi thiếu vắng cốt
truyện? Có lẽ, yếu tố đó chính là chi tiết.
Ở truyện ngắn, chi tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng cảnh trí, không
khí, tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư, nhân vật. Nhận xét về điều này, nhà
văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay
cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện
ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã” [49, tr 33].
Cũng nhấn mạnh chi tiết, nhà văn Vũ Thị Thường cho rằng: “viết truyện dài như làm một
căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm
tranh khắc gỗ” [44, tr 128].
Như vậy, vai trò của chi tiết trong truyện ngắn là hết sức quan trọng. Không chỉ vậy,
nhiều chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên đến “cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh” [71, tr
84]. Văn học của chúng ta, có nhiều tác giả, nhiều tác phẩm đã lựa chọn được những chi tiết
như thế: chi tiết Hoàng và vợ đọc Tam Quốc vào mỗi đêm trước khi ngủ, trang trọng như một
thứ lễ nghi, chi tiết Hoàng vỗ đùi khen Tào Tháo “Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên
sư anh Tào Tháo…” trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao. Chi tiết kết thúc truyện ngắn
Oẳn tà roằn của Nguyễn Công Hoan cũng thật độc đáo, ấn tượng: “Bắc nhìn kĩ cái tóc cái mặt,
cái mũi con… Rồi giở bọc ra ngắm thằng bé… Ngắm xong, bọc cẩn thận trả lại, chàng từ từ lui
ra, thở dài một cái rõ dài, nét mặt thất vọng. Té ra thằng bé con chàng nước da lại đen như cái
cột nhà cháy. Vậy nó không phải con Rồng cháu Tiên. Nó giống Oẳn tà roằn, không biết chống
gậy”…
Bên cạnh việc sử dụng các chi tiết đắt giá, cách kết thúc tác phẩm cũng có một vai trò
rất lớn trong việc tạo nên sự hấp dẫn của cốt truyện. Nhà văn Nga, D. Phuốcmanôp đã nói: “sức
mạnh của cú đấm (nghệ thuật) là thuộc về đoạn cuối”. Và như vậy, ta có thể hiểu rằng: với
truyện ngắn, tư tưởng tác phẩm thường thể hiện đột ngột và có thể chỉ thể hiện trong mấy dòng
cuối cùng của văn bản. O Henri là một nhà văn được nhiều độc giả trên thế giới yêu thích một
phần cũng là vì nghệ thuật kết thúc tác phẩm của ông rất độc đáo, ấn tượng.
Theo dòng lịch sử, đã có sự thay đổi đáng kể trong cách kết thúc tác phẩm của truyện
ngắn Việt Nam, từ kết thúc đóng, chuyển sang kết thúc mở. Hơn thế nữa, để nới rộng biên độ
cho độ mở của đoạn kết và kéo người đọc vào quá trình đồng sáng tạo, một số cây viết truyện
ngắn hiện đại lão luyện còn tạo ra một khoảng trống tự do ở cuối truyện. Lối kết thúc mở có giá
trị tạo nên dư ba, tạo nên sức ám ảnh cho người đọc, cũng là cách làm cho tác phẩm có sức
sống lâu bền với thời gian.
Là thể loại tự sự đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, kết cấu truyện ngắn cũng có những nét
đặc thù riêng. Theo Nguyễn Minh Châu, “Nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện
ngắn là cái mặt cắt của dòng đời. Vì thế mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người viết
một công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật
tinh xảo – kỹ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo, dồn nén
tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [8, tr 251]. Nhiệm vụ của kết cấu là
phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ
các bộ phận của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất.
Gọn, cơ động, kết cấu trong truyện ngắn thường đa dạng: kết cấu theo trình tự thời gian,
kết cấu bằng cách đi thẳng vào giữa truyện, kết cấu theo hai tuyến nhân vật, kết cấu tâm lí…
Nam Cao là một trong số các nhà văn hiện đại tìm ra được những cách kết cấu tác phẩm rất đặc
trưng, ấn tượng: kết cấu tâm lí. Hiện nay, trong thực tế sáng tác truyện ngắn, nhiều nhà văn tự
tìm ra cho mình những kiểu kết cấu phá cách độc đáo, không trùng lặp và cũng rất khó gọi tên
như Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Taï Duy Anh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp…
Nhân vật là một phương diện rất quan trọng của truyện ngắn. Ở các truyện ngắn đặc sắc,
bao giờ các tác giả cũng xây dựng được những nhân vật điển hình: AQ (AQ chính truyện – Lỗ
Tấn), Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao), tướng Thuấn (Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp),
Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Nguyễn Minh Châu…). Nếu tiểu thuyết theo
dõi, mô tả tỉ mỉ sự thăng trầm của số phận con người thì truyện ngắn chỉ tập trung ống kính vào
một vài khoảnh khắc của đời người. Do ngắn, gọn, truyện ngắn thường “không có mấy nhân
vật” [44, tr 125], “một hoặc hai nhân vật chính, kèm theo đôi ba nhân vật phụ lướt đậm nhạt
mà diện xuất hiện chỉ cần có mặt với đôi đường nét mờ chìm như cảnh núi, cảnh sông” [44, tr
26]. Là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, truyện ngắn thường hướng tới việc “thể hiện một bước
ngoặt, một trường hợp, một trạng thái nhân vật” [71, tr 73]. Bởi “phân tích một nỗi lòng, một
cảnh ngộ, một sự việc, phân tích một hiện tượng, một lời nói, một bức ảnh thì rất có thể viết từ
đầu đến cuối bằng một thái độ, bằng tâm tình của mình và viết ngắn được. Và cũng chỉ có thể
viết ngắn thôi. Điểm này cũng là điểm mà truyện ngắn khác với truyện dài. Khi viết truyện dài
tác giả chỉ có thể gửi tâm tình của mình vào từng nhân vật, trong từng sự kiện” [44, tr 121].
Nếu tiểu thuyết ngày càng có xu hướng là đa thanh, mỗi nhân vật được nhà văn phú cho
một giọng tương ứng, thì với truyện ngắn, tính chất này không phải là một yêu cầu tiên quyết.
Tuy vậy, vẫn có những truyện ngắn dung nạp nhiều giọng điệu. Lúc bấy giờ, người ta nói nhà
văn ấy viết truyện ngắn bằng tư duy tiểu thuyết, hay nói khác đi, đó là hiện tượng giao thoa về
thể loại, rất dễ thấy trong kỷ nguyên hiện đại và hậu hiện đại.
1.2. Khaùi quaùt veà truyeän ngaén Tạ Duy Anh
1.2.1. Vài nét về tác giả vaø hoaøn caûnh ra ñôøi cuûa truyeän ngaén Taï Duy Anh
Vài nét về tác giả: Nhà văn Tạ Duy Anh với các bút danh khác Lão Tạ, Chu Quý, Bình
Tâm... Tên khai sinh Tạ Viết Dũng, sinh 9 tháng 9 năm 1959, quê ở thôn Cổ Hiền, xã Hoàng
Diệu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Cử nhân Văn học, Tạ Duy Anh nhập ngũ ngày 7 tháng 2
năm 1985, cấp bậc Trung sĩ nhân viên quân lực của tiểu đoàn. Tháng 10 năm 1987, Tạ Duy
Anh xuất ngũ về làm việc tại công ty thủy điện Sông Đà. Tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn
Du khóa IV, từng công tác ở trường. Trở thành thaønh vieân Hội nhà văn Việt Nam (1993). Hiện
là biên tập viên Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Raát nhieàu laàn trong taùc phaåm, trong caùc baøi phoûng vaán, Taï Duy Anh ñeàu neâu caâu hoûi:
Toâi laø ai? Vaø oâng luoân tìm caùch traû lôøi caâu hoûi ñoù töø goùc ñoä khaùc nhau, khi laø nhöõng lôøi töï
baïch, khi laø lôøi nhaân vaät maø oâng muoán göûi gaém suy tö cuûa mình: “Toâi sinh ra vaøo nhöõng côn
möa. Vaøo moät ñeâm saâu thaúm naøo ñoù, trong noãi coâ ñôn khuûng khieáp, cha toâi lang thang ñi
tìm Mieàn khoâ raùo. OÂng ñaõ naèm mô thaáy tröôùc taát caû nhöõng gì seõ dieãn ra. Trong côn vuøi daäp
cuûa trôøi ñaát, oâng thaáy toâi mang hình quaû caàu löûa. Meï toâi khi aáy gioáng nhöng coïng coû uùa
vaøng vì aåm öôùt ñaõ giô tay caàu nguyeän. Chieác giöôøng tre naác leân bôûi cuoäc baùo thuø soá phaän,
bôûi noãi ñau ñôùn trieàn mieân khoâng theå giaûi thoaùt. Baø tieân caûm tôùi moät cuoäc sinh nôû seõ raát
quaèn quaïi vaø ñieàu ñoù baét ñaàu laøm neân soá phaän toâi” [10, tr 193].
Như lời tự bạch: “Toâi sinh ra ở vùng quê hẻo lánh, thấm đẫm không khí thù hận, cơ thể
còi cọc mặt mũi đen đủi, xấu xí, sống với một người cha rắn như thép” [9, tr 171]. “Toâi biến
thân xác cuûa toâi thành cái vỏ ốc ñeå bao bọc tòa lâu đài mà toâi xây bằng trí tưởng tượng. Vaø chæ
khi loït thoûm trong theá giôùi cuûa toâi, toâi môùi khoâng caûm thaáy sôï ñuû thöù, khoâng bò ai choøng
gheïo, nhạo báng những mơ mộng, voâ hieäu hoaù moïi ngaên caám cuûa cha toâi. Toâi hoaøn toaøn töï
do trong vöông quoác do toâi taïo ra” [9, tr 3].
“Bi kòch lôùn nhaát cuûa ñôøi toâi laø söï choái boû, töø trong yù thöùc saâu thaúm vuøng ñaát mình
sinh ra vaø lôùn leân. Toâi chaïy troán noù nhö chaïy troán caùi cheát, thöôøng khieán toâi coâ ñôn ngay töø
buoåi chöa ñi hoïc, khi buoåi chieàu aûm ñaïm naøo ñoù, moät ai ñoù ñöôïc caû laøng ñöa ra ñoàng, vuøi
xuoáng ba thöôùc ñaát vaø theá laø döôøng nhö hoï chöa heà coù maët treân coõi ñôøi naøy”. “Toâi khoâng
ñöôïc chuaån bò maûy may ñeå trôû thaønh nhaø vaên. Tröø cuï noäi boán ñôøi cuûa toâi ít chöõ nghóa nhöng
laùnh tuïc, coøn laïi toâi khoâng thöøa höôûng truyeàn thoáng vaên chöông nhö moïi ngöôøi thöôøng hoûi
toâi veà ñieàu ñoù. Thaäm chí, toâi thöøa höôûng caùi khoâng ai muoán: aáy laø söï thaát hoïc” [9, tr 171].
“… Tröôùc ñoù caû laøng toâi ngöôøi ta khoâng tin vaøo baát cöù ai ôû laøng coù theå laøm neân troø
troáng gì baèng hoïc haønh. Chuùng toâi lôùn leân vôùi noãi aùm aûnh veà moät lôøi nguyeàn theo ñoù “Khi
naøo ñaù coù theå noåi treân maët nöôùc” thì laøng môùi coù ngöôøi ñoã ñaït. Toâi chaúng hieåu sao soá phaän
laïi choïn toâi, moät keû coøi coïc, nhuùt nhaùt, ñaày beänh taät töø khi ra ñôøi ñeå ñöông ñaàu vôùi lôøi
nguyeàn khuûng khieáp vaø voâ lí ñoù” [9, tr 159].
Böùc chaân dung töï hoaï, nhöõng trang töï thuaät treân ñaõ cho thaáy nhieàu khía caïnh trong
con ngöôøi Taï Duy Anh maø neùt noåi baät laø moät “caùi toâi” coâ ñôn, coâ ñoäc. “Caùi toâi” aáy thöôøng
xuyeân ñoái thoaïi vôùi chính mình vaø ñoái ñaàu vôùi caûm giaùc baát oån cuûa thöïc taïi. Con ngöôøi
“chaïy troán” trong Taï Duy Anh laø bieåu hieän cuûa noãi baát an, coâ ñôn tröôùc thöïc taïi. Töôûng
töôïng ra moät theá giôùi khaùc ñeå ñöôïc bình yeân ôû ñoù, vieát vaên baèng nhöõng traûi nghieäm cuûa
mình, Taï Duy Anh ñeán vôùi vaên chöông ngheä thuaät moät caùch töï nhieân. OÂng vieát: “Nhaø vaên
naøo cuõng taän duïng trieät ñeå tieåu söû cuûa mình khi saùng taùc nhöõng cuoán saùch maùu thòt. Thaäm
chí toâi coøn tin raèng moãi nhaø vaên thöïc ra chæ vieát cuoán saùch veà chính anh ta” [9, tr 182]. Phaûi
chaêng moãi taùc phaåm taâm huyeát cuûa Taï Duy Anh khoâng chæ laø söï thaêng hoa cuûa maëc caûm,
nhöõng chaán thöông töø taâm hoàn yeáu ñuoái, beänh taät maø coøn laø khuùc xaï traïng thaùi hoaøi nghi vaø
lo aâu veà thaân phaän vaø traïng thaùi tha hoaù cuûa con ngöôøi hieän ñaïi?
Hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn Tạ Duy Anh: Taï Duy Anh coù naêng khieáu vaên chöông
raát sôùm. Ngay töø khi hoïc lôùp 8 oâng ñaõ vieát truyeän ngaén ñaàu tay cuûa mình vôùi ñeà taäp laøm vaên
coâ giaùo cho: “Em haõy keå laïi moät kæ nieäm ñaùng nhôù”. Baøi vaên ñaït ñieåm cao vaø con ñöôøng
ñeán vôùi vaên chöông ngheä thuaät cuûa Taï Duy Anh ñöôïc manh nha töø bòa truyeän ñaàu tieân aáy.
OÂng taâm söï, vôùi baøi vaên aáy, “toâi caûm thaáy mình bòa ñöôïc truyeän”.
Laø caäu tuù taøi cuûa laøng Ñoàng, Taï Duy Anh leân Soâng Ñaø hoïc lôùp chuyeân nghieäp giaùm
saùt beâ toâng. Thôøi gian naøy oâng coù vieát nhöng nhö ngöôøi laøm vöôøn môùi taäp gieo haït, ñeán
muøa thu hoaïch oâng chaúng gaët haùi ñöôïc gì. Cho ñeán naêm 1980, khi ñi thöïc taäp, trong caên leàu
heo huùt ngoïn ñeøn daàu, moät ñeâm oâng thaáy trong mình “cöù cöïa quaäy moät caùi gì ñoù”, ngaøy
caøng maõnh lieät, caøng roõ neùt thoâi thuùc oâng phaûi caàm buùt. Vaø truyeän ngaén Ñeå hieåu moät con
ngöôøi ra ñôøi. Caùi teân Taï Duy Anh chôït naûy ra, roài ñöôïc ñeà ngay döôùi truyeän ngaén. Truyeän
ñöôïc ñaêng ôû baùo Lao ñoäng – moät tôø baùo danh giaù cuûa thôøi baáy giôø. Taï Duy Anh trôû thaønh
buùt danh, thaønh teân goïi quen thuoäc ñoái vôùi coâng chuùng vaên hoïc.
Hai naêm 1982, 1983 oâng vieát moät loaït truyeän ngaén veà coâng tröôøng thuûy ñieän Soâng Ñaø
nhöng chính ngöôøi saùng taùc laïi khoâng muoán ai tìm ñoïc vì caûm thaáy khoâng töï tin. Baøi hoïc
sáng taùc ñaàu tieân maø oâng caûm nhaän ñöôïc laø khoâng theå vieát nhöõng ñieàu khoâng phaûi laø maùu
thòt cuûa mình.
Naêm naêm sau (1988), trôû veà laøng Ñoàng sau ngaøy ra quaân, trong buoåi chieàu aâm u, caùi
caûm xuùc cuûa taùm naêm veà tröôùc laïi raïo röïc trong taâm trí nhaø vaên. Nhö ngöôøi ñang khao khaùt
kieám tìm boãng ñöôïc gia aân, Taï Duy Anh caûm thaáy coù moät voán soáng, voán kí öùc voâ cuøng
phong phuù, quí baùu veà laøng queâ maø xöa nay mình khoâng nhaän ra, cöù lang thang ñi tìm nhöõng
ñaâu. OÂng vieát Luõ vòt trôøi (môùi ñaàu ñaët teân laø Möa ñaù), vieát lieân tieáp, lieàn moät maïch vaøo
nhöõng voû bao thuoác laù, chöõ beù li ti, daøy ri rít. Haønh trình ñeán vôùi vaên chöông ngheä thuaät cuûa
Taï Duy Anh tuy ñöôïc manh nha töø sôùm nhöng chæ ñeán khi vieát Luõ vòt trôøi, oâng môùi coù caûm
giaùc mình hoaøn toaøn töï tin. OÂng baét ñaàu nghó nghieâm tuùc veà queâ höông mình, hoaù ra toaøn boä
theá giôùi naøy coù heát döôùi daïng thu nhoû ôû laøng mình. Quaù trình “böøng ngoä” ñoù giuùp oâng vieát
Böôùc qua lôøi nguyeàn (1989) meâ maûi saùng taùc ñeán toái, möôøi baûy trang baûn thaûo chöõ nhoû li ti.
Vieát xong, nhö con taèm nhaû tô, taùc giaû “caûm thaáy khoâng coøn gì ñeå soáng nöõa, moät caûm giaùc
roãng heát ôû trong con ngöôøi”.
Naêm 1989, söï xuaát hieän truyeän ngaén Böôùc qua lôøi nguyeàn ñaùnh daáu böôùc ngoaët thöïc
söï treân haønh trình saùng taïo cuûa Taï Duy Anh. ÔÛ moät loaït truyeän tieáp theo ñöôïc taäp hôïp trong
caùc taäp truyeän Luaân hoài (1994), Truyeän ngaén Taï Duy Anh (2003), Boá cuïc hoaøn haûo
(2004)…, nhaø vaên tieáp tuïc doøng maïch caûm höùng maø Böôùc qua lôøi nguyeàn ñaõ khôi môû. Chính
truyeän ngaén naøy ñaõ mang laïi vinh quang röïc rôõ cho Taï Duy Anh. Taùc phaåm cuûa oâng trôû
thaønh “hieän töôïng”, “söï kieän vaên hoïc” ôû maûng truyeän ngaén. Nhaø thô Hoaøng Minh Chaâu coi
Böôùc qua lôøi nguyeàn laø moät truyeän ngaén ñaõ “baùo hieäu moät taám loøng lôùn, moät taàm nhìn xa vaø
moät taøi naêng treû vieát veà soá phaän con ngöôøi”. Coøn Hoaøng Ngoïc Hieán daønh haún moät baøi vieát
veà taùc phaåm naøy treân baùo Vaên ngheä soá 50, thaùng 12 – 1989. Nhaø pheâ bình khaúng ñònh: “Ñoïc
truyeän cuûa Taï Duy Anh, moät caâu hoûi ñaët ra: Giaõ töø theá kæ XX baõo taùp vaø maùu löûa naøy vaø
chuaån bò böôùc vaøo theá kæ XXI “lí trí nhaân baûn”, nhöõng lôøi nguyeàn naøo ñaùng nguyeàn ruûa,
nhöõng lôøi nguyeàn naøo nhaân loaïi tröôùc sau phaûi böôùc qua? Phaûi chaêng caâu hoûi böùc thieát naøy
cuõng ñöôïc ñaït ra cho moãi ngöôøi, moãi quoác gia? Phong caùch truyeän ngaén Taï Duy Anh laø tín
hieäu cuûa moät doøng vaên hoïc môùi, doøng vaên hoïc Böôùc qua lôøi nguyeàn”.
Nhö vaäy, coù theå thaáy Böôùc qua lôøi nguyeàn khoâng chæ coù giaù trò nhaân vaên maø coøn laø
moät tö töôûng coù taàm thôøi ñaïi: nhu caàu töï vaán ñeå phaùt trieån cuûa moãi con ngöôøi, cuûa moãi daân
toäc. Taùc phaåm khoâng chæ laø khôûi ñaàu toát ñeïp ñoái vôùi caù nhaân nhaø vaên maø coøn ñoùng goùp to
lôùn vaøo coâng cuoäc ñoåi môùi neàn vaên hoïc nöôùc nhaø. Vôùi khaùt voïng Böôùc qua lôøi nguyeàn,
truyeän ngaén cuûa Taï Duy Anh tieâu bieåu cho tinh thaàn daân chuû cuûa thôøi ñaïi cuûa vaên hoïc. Böôùc
qua lôøi nguyeàn laø lôøi tuyeân chieán vôùi nhöõng ñònh kieán chaät heïp troùi buoäc con ngöôøi, laø lôøi
keâu goïi töï do saùng taïo ñoái vôùi vaên ngheä só. Song vaên hoïc Vieät Nam thôøi kyø ñoåi môùi ñaõ coù
böôùc chuyeån mình so vôùi vaên hoïc giai ñoaïn tröôùc ñoù, ñaõ goùp phaàn vaøo ñôøi soáng vaên hoïc
moät luoàng sinh khí môùi, coù theå keå ñeán Nguyeãn Maïnh Tuaán vôùi Ñöùng tröôùc bieån, Cuø lao
Traøm, Leâ Löïu vôùi Thôøi xa vaéng, Döông Thu Höông vôùi Beân kia bôø aûo voïng, Ma Vaên Khaùng
vôùi Mùa laù ruïng trong vöôøn, Nguyeãn Minh Chaâu vôùi Chieác thuyeàn ngoaøi xa, Nguyeãn Khaûi
vôùi Gaëp gôõ cuoái naêm, Thôøi gian cuûa ngöôøi, Nguyeãn Huy Thieäp vôùi Töôùng veà höu... Söï xuaát
hieän cuûa caùc taùc giaû vaø caùc taùc phaåm treân ñaõ ghi daáu nhöõng chuyeån bieán heát söùc tích cöïc
trong ñôøi soáng vaên hoïc nöôùc nhaø. Qua caùc taùc phaåm, ta thaáy caùi nhìn cuûa nhaø vaên veà theá
giôùi vaø con ngöôøi trôû neân phong phuù ña daïng phöùc taïp hôn raát nhieàu. Đồng thời, các nhà văn
đã bước đầu có ý thức tìm tòi thể nghiệm những cách nhìn mới, cách đánh giá mới, những đổi
mới trong thủ pháp nghệ thuật.
Xuất hiện trên văn đàn Việt Nam đúng vào lúc Đảng và nhà nước chủ trương “Cởi trói
cho văn học nghệ thuật”, Taï Duy Anh có điều kiện để thể nghiệm một lối đi riêng cùng với
những cách tân hiện đại trong mỗi trang viết của mình. Những tác phẩm của ông đã lập tức gây
được tiếng vang lớn và ông nhanh chóng trở thành một hiện tượng độc đáo trong đời sống văn
học đang từng bước khởi sắc của nước nhà. Người ta chờ đón tác phẩm của ông trong sự háo
hức, và ông từng bước khẳng định tài năng cũng như phong cách văn xuôi đặc biệt của mình
trong sự tiếp nhận đa dạng: khen, chê, khẳng định, phủ định. Tác phẩm của ông đem đến cho
độc giả những cách lí giải mới về cuộc sống, khiến họ có thể chạm sâu vào đời sống thực tế,
hiểu hơn về bản chất của nó cũng như những trạng thái nhân sinh trong buổi đầu của thời kì đổi
mới. Với caùc taùc phaåm ñaõ coâng boá: Böôùc qua lôøi nguyeàn (taäp truyeän), Luaân hoài (taäp truyeän),
Gaõ vaø naøng (taäp truyeän), Boá cuïc hoaøn haûo (taäp truyeän), Truyeän ngaén choïn loïc Taï Duy Anh
(tập truyện), Những truyện không phải trong mơ (tập truyện), Ba ñaøo kyù, Ngaãu höùng saùng
tröa chieàu toái (taäp taûn vaên), Laõo Khoå, Nhaân vaät ñi tìm, Thieân thaàn saùm hoái, Sinh ra ñeå cheát,
Giaõ bieät boùng toái (tieåu thuyeát)… cuøng gaàn 10 taäp saùch (goàm truyeän ngaén, truyeän vöøa, taûn vaên)
daønh cho thieáu nhi… Taï Duy Anh quả đã đóng góp nhiều cho văn học Việt Nam. Song, thể loại
làm nên tên tuổi và mang lại cho ông một phong cách nghệ thuật độc đáo chính là truyện ngắn.
1.2.2. Quan niệm văn chương nghệ thuật của Tạ Duy Anh
Trong các bài phê bình đã được công bố hoặc trong các bài phỏng vấn, Taï Duy Anh có
nhiều dịp bày tỏ những quan niệm của mình về văn chương. Xuaát hieän khi nhöõng ñoät phaù veà
nhaän thöùc xaõ hoäi, quan nieäm vaên chöông, söï ñoåi môùi loái vieát, caùch theå nghieäm hình thöùc
traàn thuaät khoâng coøn quaù laï laãm sau moät loaït nhöõng tieáng vang cuûa theá heä “laøn soùng thứ
nhaát” Nguyễn Minh Châu, Leâ Löïu, Nguyeãn Huy Thieäp, Baûo Ninh, Döông Thu Höông, Phaïm
Thò Hoaøi… döôøng nhö laø moät ñieàu thuaän lôïi nhöng ñoàng thôøi cuõng laø moät söï thöû thaùch lôùn,
noù ñoøi hoûi Taï Duy Anh phaûi coù nhöõng böôùc ñi môùi, khoâng laëp laïi nhöõng ngöôøi ñi tröôùc vaø
khoâng laëp laïi chính mình. Taï Duy Anh ñaõ laøm ñöôïc ñieàu ñoù baèng vieäc lieân tieáp cho ra ñôøi
nhöõng taùc phaåm gaây chaán ñoäng dö luaän keå töø khi xuaát hieän cho tôùi nhöõng naêm gaàn ñaây. Vaø
thöïc söï khi noùi ñeán vaên chöông sau ñoåi môùi, ngöôøi ta khoâng theå khoâng nhaéc ñeán Taï Duy
Anh nhö laø moät hieän töôïng vaên hoïc treû nhöng ñaõ coù nhöõng theå nghieäm tìm toøi ñaûo loän caùc
kinh nghieäm cuõ, thay ñoåi loái nhìn ñôn giaûn, xuoâi chieàu quen thuoäc, laøm thöùc dậy nhu caàu
nhaän thöùc vaø töï nhaän thöùc nhöõng vaán ñeà cuûa hieän taïi vaø quaù khöù.
Taï Duy Anh laø nhaø vaên coù moät thaùi ñoä nghieâm tuùc vaø ñam meâ vôùi con ñöôøng choâng
gai nhieàu ruûi ro vaø thaát baïi ñaõ choïn. Tröïc tieáp trong caùc baøi phoûng vaán hoaëc giaùn tieáp trong
taùc phaåm, oâng ñaõ baøy toû quan nieäm veà ngheä thuaät vaø lao ñoäng cuûa nhaø vaên. Ñieàu ñoù thaáy
moät thaùi ñoä thöïc söï nghieâm tuùc, caàu thò vaø moät khaùt voïng caùch taân maõnh lieät ñoái vôùi vaên
chöông. Theo Laõo Taï, nhaø vaên cöù neân hoïc caùch im laëng. Ngheä thuaät khoâng phaûi moät cuoäc
dieãu haønh. Vì vaên chöông khoâng phaûi ñi treân ñöôøng lôùn, noùi nhö Nguyeãn Höng Quoác “Xa loä
laø töû loä. Ñöùc tính lôùn nhaát ñoái vôùi moät ngöôøi caàm buùt, chính laø söï taùo baïo. Khoâng coù söï taùo
baïo naøo laø khoâng caàn thieát. Khoâng taùo baïo, khoâng theå saùng taïo. Trong lónh vöïc vaên hoïc,
ngöôøi daùm xoâng thaúng vaøo buïi raäm vaø gai goùc ñeå laàn moø moät loái ñi rieâng bao giôø cuõng coù
trieån voïng ñi xa hôn nhöõng keû khoân ngoan phoùng mình theo loái mòn coù saün. ÔÛ ñaây ngöôøi ta
chæ ghi nhaän thaønh tích cuûa nhöõng ngöôøi treøo leân nhöõng ñænh nuùi cao, daãu treøo moät caùch
chaäm chaïp, ì aïch, khoå sôû, thaäm chí, coù khi thaát baïi” [64].
Chính vì taâm nieäm: nhaø vaên chæ neân moät mình, anh chæ coù giaù trò khi anh ñi, anh taïo ra
con ñöôøng cuûa rieâng anh, taát caû cuøng ñi treân moät con ñöôøng thì voâ nghóa, neân haønh trình
saùng taïo cuûa Taï Duy Anh laø haønh trình luoân noã löïc laøm môùi, ñeå khaúng ñònh “ñoäc baûn”.
Ñoái vôùi nhaø vaên moãi ngaøy soáng chính laø moät ngaøy ñi thực tế, vaø traûi cuoäc ñôøi mình ra
ñeå chieâm nghieäm. Vieát ñoái vôùi oâng laø quaù trình khai thaùc nhöõng væa quaëng cuoäc soáng ñaõ keát
tinh trong baûn thân ngöôøi caàm buùt, töùc khai thaùc caùi “löôïng” soáng phong phuù ñaõ chuyeån hoaù,
ñaõ coâ ñaëc thaønh “chaát” soáng, laø söï ruùt ruoät, nhaû tô cho taâm hoàn. Lao ñoäng nhaø vaên, theo oâng
laø moät coâng vieäc ñoøi hoûi söï nghieâm tuùc, nôi khoâng bao giôø coù choã cho söï caåu thaû. Baát cöù söï
buoâng thaû naøo ñeàu phaûi traû giaù ngay. Taï Duy Anh vieát “nhö ñaõ lónh moät söù meänh töø treân trôøi,
töø khi môùi sinh ra”, ñöùng tröôùc trang giaáy nhö moät thöù phaùp tröôøng traéng nghieät ngaõ, moãi
trang ñaày aép suy nghó vaø baûn lónh ngheà nghieäp. Vieát laø caùch maø Taï Duy Anh choáng laïi noãi
ñau tinh thaàn xuaát phaùt töø hieän thöïc khoâng ngöøng voø xeù. Vieát laø caùch toát nhaát ñeå ñoái maët vaø
giaûi phaãu cuoäc ñôøi. OÂng vieát veà nhieàu thöïc traïng ñen toái cuûa cuoäc soáng, cuõng coù khi caùch
vieát laïnh luøng coá yù tröôùc moät söï traû thuø cuûa oâng laïi bò cheâ laø quaù taøn nhaãn, môû ñöôøng cho
caùi aùc vaên chöông vì mieâu taû quaù chi tieát vaø khaùch quan. Theá nhöng Taï Duy Anh khoâng
phaûi laø moät nhaø “hoaøi nghi chuû nghóa”. Traùi laïi oâng luoân ñaët nieàm tin vaøo cuoäc soáng, tin vaøo
ñieàu kì dieäu maø vaên chöông mang laïi cho cuoäc ñôøi naøy, daãu coù luùc “moûi mệt ñeán tuyeät voïng
vì xem tivi thaáy ngöôøi ta gieát moät luùc haøng ngaøn ngöôøi, thaáy baát löïc ñeán chaûy nöôùc maét vì chæ
moät thaèng quan tham laøm nhaân daân maát ñöùt hàng tæ tieàn ñoùng thueá, thaáy nhöõng gì mình vieát
ra voâ nghóa ñeán thaûm haïi, nhöng roài vaãn laïi caàm buùt vaø vieát thoâi, vaø vaãn phaûi tin laø vì nhöõng
ñoùng goùp nhoû hôn caû haït buïi cuûa mình maø ngaøy mai seõ saùng hôn hoâm nay moät chuùt” [83].
Laø ngöôøi luoân coù yù thöùc nhaän thöùc laïi, nghi ngôø taát caû nhöõng gì ñaõ ñöôïc xaùc tín ñeå
xaây dựng nhöõng caùch nhìn môùi, giaù trò môùi, quan nieäm veà lòch söû cuûa Taï Duy Anh raát gaàn
guõi vôùi Kundera khi oâng cho raèng nhaø vaên khoâng phaûi thaèng haàu cuûa lòch söû. Ñoái vôùi Taï
Duy Anh, “baûn thân lòch söû laø voâ yù, voâ caûm vaø chaúng coù giaù trò gì vôùi chính noù. Noù chæ coù
giaù trò vôùi töông lai ôû khía caïnh kinh nghieäm vaø nhöõng baøi hoïc. Nhöõng baøi hoïc lòch söû, ñaëc
bieät laø nhöõng baøi hoïc ruùt ra töø nhöõng thaûm hoïa, caàn phaûi ñöôïc nhaéc ñi nhaéc laïi. Moïi söï boùp
meùo, che giaáu hoaëc thoåi phoàng caùc söï kieän lòch söû ñeàu laø toäi aùc” [83]. Baûng laûng trong taùc
phaåm cuûa oâng tinh thaàn hoaøi nghi veà lòch söû, bôûi leõ moät xaõ hoäi nhaân vaên, bieát ñeà cao phaåm
giaù luoân phaûi taïo ñieàu kieän ñeå caùc coâng daân tieáp caän vôùi moïi söï thật lòch söû, thuoäc laøu noù
ngay töø treân ghế nhaø tröôøng vaø khoâng ngöøng truy tìm caän caên nguyeân cuûa töøng söï kieän chaéc
chaén seõ aûnh höôûng ñeán hoï. Chaäm laøm ñieàu ñoù hoaëc laøm ngöôïc laïi vì baát cöù nguyeân nhaân gì
ñeàu laø voâ traùch nhieäm vaø voâ minh. Mang treân mình söù meänh nhaø vaên, oâng luoân taâm nieäm
khoâng theå khoán traéng cho lòch söû. Daãu raèng nhöõng caùi nhìn môùi veà lòch söû, veà con ngöôøi ñoâi
khi ñaõ taïo cho soá phaän vaên chöông Taï Duy Anh ñaày thaêng traàm vaø cha ñeû cuûa noù chòu
nhöõng heä luïy nhaát ñònh. Theá nhöng oâng vaãn saün saøng traû giaù ñeå böôùc ñi treân con ñöôøng heïp
vaø ñaày choâng gai. Bôûi leõ, phong traøo ñoåi môùi vaên hoïc thöïc söï naøo cuõng, neáu khoâng xuaát
phaùt töø, thì cuõng gaén lieàn vôùi nhu caàu taùi taïo lòch söû, töø ñoù, khoâng nhöõng hieän taïi ñöôïc ñoåi
môùi maø caû quaù khöù cuõng mang moät dieän maïo môùi, lòch söû ñöôïc vieát laïi. Trong khi nhöõng
ngöôøi thuû cöïu noã löïc – thöôøng laø moät caùch tuyeät voïng – duy trì nguyeân traïng quaù khöù,
nhöõng ngöôøi ñoåi môùi coù coá gaéng vieát laïi quaù khöù ñeå vun boài goác reã cho caùc döï phoùng höôùng
tôùi töông lai vaø ñeå moïi vaän ñoäng laïi ñöôïc tieáp tuïc.
Taï Duy Anh luoân noã löïc vöôït thoaùt chính mình, mieät maøi tìm kieám kyõ thuaät vieát
nhöng ít khi thoaû maõn vôùi noù. Trong quan nieäm cuûa oâng, saùng taùc ñoàng nghóa vôùi tìm toøi vaø
kyõ thuaät vieát. Kyõ thuaät, xeùt cho cuøng, laø noã löïc taïo ra hình thöùc vaø hieäu quaû cao nhaát cho taùc
phaåm. Noù thöôøng bò hieåu laàm hoaëc coá yù hieåu laàm laø tieåu xaûo ngheà nghieäp, nhöõng “ngoùn
ngheà”, nhöõng troø xieác, ñeå phæ baùng hoaëc boû qua noù. “Moãi khi ñaët buùt vieát laø xuaát hieän vaán ñeà
kyõ thuaät, tính toaùn veà keát caáu, gioïng keå, hình thöùc theå hieän, ngay caû khi moät nhaø vaên naøo ñoù
tuyeân boá anh ta chæ saùng taùc theo baûn naêng. Vaán ñeà coøn laïi laø anh ta coù khaû naêng thoaùt khoûi
söï vuïng veà hay khoâng. Theo oâng, moãi cuoán saùch phaûi khai phaù nhöõng ñieàu môùi meû, luoân luoân
tieàm taøng (vaø phaûi coù) khaû naêng taïo ra moät caùi gì chöa töøng coù, tröôùc heát laø chính noù, hoaëc
ñieàu quan troïng laø aán töôïng cuoái cuøng maø taùc phaåm gieo vaøo lòng ngöôøi ñoïc seõ nhö theá naøo
(chöù khoâng phaûi noù ñöôïc vieát theo coâng thöùc naøo…” [83].
Như vậy, những quan niệm về văn chương trên trang viết Taï Duy Anh, dù được kí thác
qua phát ngôn của nhân vật, hay là chính những phát ngôn trực tiếp của tác giả, dù bề ngoài có
vẻ thiếu nhất quán thì sâu bên trong mạch nguồn của nó vẫn có sự thống nhất. Với khát vọng
khơi mở một mô hình mới, một bút pháp mới là tâm huyết trăn trở với nghề. Ở từng thời điểm
ông đã từng khẳng định bằng những tìm tòi nghệ thuật riêng nhưng ông không thỏa mãn với
những gì đã có. Sự thỏa mãn là cái chết của nghệ thuật. Và suy nghĩ cho cùng thì mọi nỗ lực
tìm kiếm thể nghiệm đều nhằm tăng thêm khả năng biểu đạt cho văn chương, sao cho văn
chương có thể hiểu tâm hồn con người ngày một sâu hơn. Với ý nghĩ này, văn học là nơi lưu
giữ nhân tính, là sự xác lập những giá trị nhân văn nhân danh vẻ đẹp con người.
1.2.3. Đổi mới trong nghệ thuật thể hiện
Thực tiễn đổi mới trong hai thập kỉ qua đã thổi vào văn học luồng gió mới. Cùng với
thành công của Đại hội Đảng lần VI, cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với giới
văn nghệ là những yếu tố vô cùng quan trọng thúc đẩy quá trình đổi mới văn học. Hoà vào với
sự đổi mới nói chung của văn học, sáng tác của Tạ Duy Anh có những cách tân, đổi mới trên
nhiều phương diện: Đổi mới về quan niệm hiện thực của nhà văn, đổi mới quan niệm nghệ
thuật về con người, đổi mới trong nghệ thuật xây dựng nhân vật…
1.2.3.1 Đổi mới về quan niệm hiện thực của nhà văn
Trước năm 1975, hiện thực được các sáng tác văn học lựa chọn là hiện thực chính trị
rộng lớn. Sau 1975, văn học hưởng ứng chủ trương: “Đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” (Báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương - Đại
hội Đảng VI). Quan niệm về hiện thực của các nhà văn có sự đổi mới. Hiện thực được thể hiện
không đơn giản xuôi chiều như trước mà đa dạng, phong phú được soi chiếu từ kinh nghiệm
bằng cả kinh nghiệm cộng đồng lẫn kinh nghiệm cá nhân với quan điểm nhân bản khác nhau.
Hiện thực đa chiều đó là hiện thực chưa hoàn kết, không thể không biết hết đòi hỏi nhà
văn luôn phải khám phá, tìm tòi. Văn học tìm đến hiện thực cuộc sống đời tư phức tạp, từ số
phận của cá nhân đến số phận chung của cộng đồng đã đem lại cho văn học những hiện thực
mới mẻ, chân thực đậm chất nhân văn và thực sự gần gũi với con người. Nhân vật là phương
tiện cơ bản của nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để
thể hiện nhận thức của mình về cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về vấn đề nào đó của
hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong
một thời kỳ lịch sử nhất định.
Viết về nông thôn, Tạ Duy Anh đề cập đến số phận con người, số phận của những người
nông dân luôn phải sống trong sự đè nặng của biết bao thù hận, bao định kiến tối tăm, bảo thủ.
Chỉ ở một cái làng bé nhỏ thôi mà lúc nào cuộc sống cũng căng lên, ngột ngạt bởi các mối quan
hệ chằng chịt phức tạp và rất nhiều cuộc đời không được lựa chọn quyền sống cho chính mình.
Không khinh bạc, không gai góc, mỗi trang viết của Tạ Duy Anh cứ da diết một cảm giác của
những hồi ức đau đớn, nhức nhối. Tạ Duy Anh không viết về nông thôn rộng lớn chung chung,
ông là nhà văn viết về làng của mình – một làng quê nhỏ bé, tuy nhiên cái làng quê nhỏ bé ấy
lại không hề bình yên. Ở đó, cuộc sống luôn luôn bị khuấy đảo, sôi lên vì những quan hệ,
những mâu thuẫn, những tập tục cổ xưa làm điêu đứng biết bao số phận con người: Tạ Duy
Anh đặc biệt có thiên hướng đi sâu vào mặt tối những mảng khuất lấp của hiện thực nhưng bao
giờ từ đó, người đọc cũng nhận ra được những tia sáng nhân văn lấp lánh trong từng câu chữ.
Hơn nữa, các trang viết của ông đều hướng về một miền quê mà theo ông “lầy lội, tăm
tối và đầy thù hận”, cho nên không khí hội hè đình đám, tình cảm làng xóm thân tình đầm ấm,
hình ảnh những người nông dân đôn hậu mộc mạc… hầu như vắng bóng và không thuộc về
cảm hứng của ông. Đọc Tạ Duy Anh, người ta chỉ thấy sau cái vẻ thanh bình, bé nhỏ của làng
quê là sự ẩn giấu biết bao nhiêu bão tố. Với sự thâm trầm, sâu sắc, trải nghiệm của người đã
từng sống, chứng kiến (Tạ Duy Anh luôn nói rằng bản thân ông xuất thân từ làng, là đứa con
của làng) Tạ Duy Anh đã đem đến cho người đọc những góc nhìn sinh động, chân thực.
Đó là những người mang trong mình đầy những định kiến nặng nề, những nhận thức ấu
trĩ, bảo thủ, thù hận. Có lẽ chính cuộc sống khốn khó, vất vả, phải vật lộn với miếng ăn trên cái
mảnh đất “gan chó” ấy đã tạo ra họ những nếp nghĩ, nếp sống như vậy. Họ sống bằng hồi ức,
bằng những giai thoại và bằng cả những mối thù truyền lại từ bao kiếp trước. Bước qua lời
nguyền, Đắc đạo, Hóa kiếp… đều nói về những mối thù như vậy. Cuộc sống của họ vòng
quanh luẩn quẩn, họ tự làm khổ mình và làm khổ những thế hệ sau.
Cha của nhân vật Tôi (tức cậu Tư) trong Bước qua lời nguyền ngay từ khi con trai mình
còn nhỏ đã giáo dục con “khá cẩn thận” “Tôi phải nhớ rằng thành phần gia đình tôi bần nông”
[1, tr 137], “Và để ghi mối thù vào xương tủy, mỗi ngày bố tôi lại kể cho tôi nghe một chuyện
thời xưa về sự tàn ác của lão Hứa. Mỗi ngày một chuyện, lời kể của ông tuyệt vời như kể
chuyện cổ tích, khiến tâm hồn tôi thấm đẫm những hồi ức kinh hoàng không bao giờ còn hong
khô được nữa” [1, tr 139], Với riêng tôi và anh chị em tôi, đứa nào cũng thấm đẫm vào trí nhớ
một câu bất hủ “Lão Hứa và con cháu lão là kẻ thù truyền kiếp” [158]. Để rồi khi cậu con trai
cưng ấy làm trái ngược với tất cả những răn dạy và mong muốn của cha thì cậu không còn con
đường nào khác là phải rời nhà ra đi. Bản thân người nông dân cũng đau đớn khổ sở khi luôn
phải nuôi dưỡng trong mình, cho con cháu mình mối thù như thế (cha của cậu Tư đã từng bạc
hết cả đầu) nhưng họ cũng không thể và không cho phép mình được nguôi quên. Quá khứ là
một cái gì đó nặng nề. Như cha của cậu Tư, luôn khắc ghi trong tâm khảm mình hình ảnh của
cha và người em ruột chết một cách thảm thương vì tay lão Hứa. Bởi vậy, bắt tay với kẻ thù sẽ
còn như một việc làm tán tận lương tâm, bất trung bất hiếu.
Nhân vật người cha trong Vòng trầm luân trần gian cũng nuôi một mối thù sâu sắc. Nỗi
hận trong quá khứ không lúc nào được người cha quên nhắc lại cho con mình. Và ông minh
chứng bằng những hồi ức rành rẽ, đầy tính thuyết phục: “Thằng nào bôi đen lý lịch nhà anh?
Thằng nào lệnh mang cứt đổ vào cửa nhà anh? Chính cái thằng đập cả bàn thờ nhà anh vì nghi
có truyền đơn Việt Minh. Mày bảo tao phải quên đi những thằng như thế à?” [92].
Thế giới nội tâm của họ cũng đầy phức tạp, luôn tồn tại những nỗi dằn vặt, vò xé, đau
đớn. Họ sống, ứng xử theo những quan niệm và hồi ức của chính mình. Khi họ đã mang một
nỗi hận nào đó thì cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ mang nó suốt cuộc đời. Hơn thế, còn truyền
kiếp lại cho những đời con cháu họ, đừng mong chờ hai chữ vị tha. Tuy nhiên, Tạ Duy Anh lại
viết về những vấn đền này với sự cảm thông, chia sẻ. Có những đòi hỏi quá sức chịu đựng của
con người. Bản thân những người nông dân đôi khi không hề muốn khoét sâu hơn vết hằn quá
khứ nhưng tất cả những gì họ đã trải qua luôn nhắc nhở và không cho phép họ bội tín với những
lời thề, những ràng buộc vô tình.
Không chỉ luẩn quẩn, tăm tối với những hận thù, người nông dân trong cái làng Đồng bé
nhỏ ấy còn tự làm khổ mình và làm khổ người khác với những nhận thức ấu trĩ và những định
kiến sai lầm. Trong một số tác phẩm của Tạ Duy Anh hay láy đi láy lại môtíp những người con
gái xinh đẹp vượt trội trong làng luôn luôn phải chịu một cuộc sống cô độc, ghẻ lạnh bởi họ bị
coi là hiện thân của tình yêu, ác quỷ về hãm hại dân làng, thậm chí có khi họ còn bị chôn sống
(Thiên thần ác quỷ, Truyền thuyết viết lại, Ánh sáng nàng...). Cái đẹp là sự lạc loài, nó làm
người ta nhớ đến những bi kịch của làng từ trong truyền thuyết.
Bản chất của người nông dân là hiền lành, thường thích cuộc sống an phận ít ham hố
danh lợi nhưng khi họ có trong tay một quyền lực nào đó thì cũng nảy sinh rất nhiều những thói
hư tật xấu khác nhau. Đó có thể là thói chuộng hư danh, quan liêu, bảo thủ, ngu dốt. Nhưng
trong Lũ vịt trời, nhân dân mất trắng vụ lúa bội thu chỉ vì chờ đợi các “quan huyện” về tham
quan. Không nhận ra trách nhiệm và sai lầm thuộc về mình, các cán bộ xã lại còn cản trở công
việc vớt vát thiên tai của bà con. Giữa lúc thóc rơi xuống nước, có thể đồng loạt nảy mầm thì
ban quản lý chỉ biết “qua ngót chục cuộc họp, lấy biểu quyết, vạch kế hoạch thực hiện” để rồi
cuối cùng năm đó, chỉ được mùa vịt trời. Đó cũng còn có thể là sự tham lam, mưu mô xảo
quyệt, tranh giành chức tước. Triết lý của ông Hương (Vòng trầm luân trần gian) “Khôn sống
mống chết”. Ông tiêu diệt những mầm mống định chống lại ông từ trong trứng nước. Và chú
Hổ, con người trực tính, ngay thẳng cũng đã sập bẫy và bị làm cho tê liệt về mặt tinh thần. Hóa
ra, người nông dân khi đặt vào trong vòng danh lợi cũng ham hố xảo quyệt như ai. Và với bản
chất là sự ít học, ít giao tiếp cộng thêm thói gia trưởng, bảo thủ cố hữu khi lên làm lãnh đạo,
người nông dân đã không bắt kịp với đời sống mới, gây ra khá nhiều những sai lầm. Và từ đó,
khát vọng có thể bước qua những định kiến chật hẹp, trói buộc, “những cấm đoán phi lý và phi
nhân tính được nhân danh những điều thiêng liêng”, có thể “bước qua lời nguyền”.
Viết về cuộc sống thành thị, mỗi tác phẩm của Tạ Duy Anh như một “lát cắt” từ cái “bố
cục hoàn hảo” của một thời hiện đại. Với những ám ảnh nặng nề từ bức tranh hiện thực ngột
ngạt của quyền lực, cái chết, sự đồi bại… đẩy nhân vật đến đỉnh điểm của bi kịch, đã nói được
một cách vừa nghệ thuật, vừa trần tục những điều gai góc nhức nhối nhất của xã hội hiện đại:
sự băng hoại đạo đức, thói vụ lợi ích kỷ tàn nhẫn của con người. Có lẽ cuộc sống của con người
hiện đại là tổng thể của những phức điệu, từ tâm tư tình cảm đến công danh, vị thế, từ thế giới
tinh thần đến vật chất đời thường… Có thể là bình yên thật đấy, nhưng cũng có thể là ẩn chứa
trăm ngàn bão giông. Ánh sáng nàng, Gã và nàng, Ba đào ký, Những chuyện không phải
trong mơ, Bố cục hoàn hảo… đều cố gắng thể hiện cuộc sống tràn đầy đó. Một tình yêu đơn
phương, một tình cảm bất chợt trong lớp học tiếng Anh buổi tối, mâu thuẫn láng giềng chỉ vì
một ý nghĩ xấu chơi tình cờ… Đàn ông đàn bà, Ông ta và nàng, Gã và nàng, Lời chào thoảng
qua, Ngũ gia truyện… Hay gai góc hơn là chuyện mua danh, bán tước (Con ruồi)và biết bao
chuyện hỉ nộ ái ố đáng khóc đáng cười khác (Ba đào ký)… Tất cả những điều ấy, độc giả hiện
đại cảm thấy không xa lạ, bởi dường như đó chính là họ, là những gì đã trải qua hoặc đã từng
chứng kiến trong bầu không khí lúc nào cũng hối hả, căng lên.
Mỗi tác phẩm đã “phơi bày” đến cùng và thực sự đã có sức “đánh động”, “thức tỉnh”
mạnh mẽ. Chuyển hướng từ đề tài nông thôn ra thành thị, Tạ Duy Anh tiếp tục đi vào các vấn
đề gai góc, nhức nhối của cuộc sống chỉ có điều nó diễn ra từng ngày từng giờ, Điều đó cũng dễ
hiểu, bởi xã hội ngày càng phát triển, con người du nhập được thêm nhiều thứ văn minh thì
đồng thời với vấn đề đó là những cái xấu xa, rác rưởi. Lợi ích cá nhân đi kèm luôn với sự vụ
lợi, tính toán, lừa bịp. Giọng văn của Tạ Duy Anh vì thế cũng pha nhiều chất châm biếm sâu
cay khinh bạc hơn giai đoạn sáng tác trước.
Chọn phản ánh cuộc sống từ phía “khuất lấp”, từ sự chưa hoàn thiện, nhưng cái đích Tạ
Duy Anh hướng đến lại là cái đẹp, cái hoàn thiện. Từ “cái ác” để lay thức “cái thiện”. Điều này
lý giải vì sao hiện thực trong tác phẩm của Tạ Duy Anh thật gai góc, có khi như tàn nhẫn, lạnh
lùng, nhưng người đọc vẫn cảm nhận đằng sau con chữ là những thông điệp nghệ thuật thấm
đẫm chất nhân văn. Và đó cũng là hệ quả tất yếu từ quan niệm nghệ thuật giàu chất nhân bản
của Tạ Duy Anh. Một trong những đặc điểm của tư duy văn học mới là yêu cầu “nhận thức lại,
kiến giải lại, đánh giá lại kể cả quá khứ, hiện tại và tương lai”. Bằng chính quan niệm và sáng
tác của mình Tạ Duy Anh đã có những đóng góp đáng trân trọng vào việc khẳng định tư duy
văn học mới. Trở lại với những vấn đề của lịch sử, Tạ Duy Anh không chú mục và cũng không
nhằm tái hiện sự kiện lịch sử. Cái nhà văn quan tâm sâu sắc là số phận con người – những dấu
ấn của cuộc nhào nặn dữ dằn, nghiệt ngã của lịch sử, hằn đọng trên số phận của mỗi con người
và từ đó, cái đích hướng tới là những bài học nhân văn sâu sắc. Thông qua cuộc đời với đủ
cung bậc thăng trầm của một kiếp người. Tạ Duy Anh đã góp thêm “một giả thuyết văn học về
bản chất và thân phận người nông dân Việt Nam” (Hoàng Ngọc Hiến).
Từ quan niệm của mình, khi nhận thức lại hiện thực lịch sử, Tạ Duy Anh có cách nhìn
thẳng thắn; không khoan nhượng với tất cả những sai lầm, những mặt trái, tiêu cực. Tuy nhiên,
nhà văn luôn đặt tất cả nhân vật của mình trong mối quan hệ với lịch sử, thời đại để xem xét,
đánh giá và có xu hướng cắt nghĩa, lý giải mọi sai lầm đã qua thuộc về những hạn chế không
tránh khỏi của lịch sử. Chính nhờ thế, các nhân vật của Tạ Duy Anh khi đã trải qua hết thăng
trầm, biến cố của một đời thường có được sự bình tâm, chiêm nghiệm, nhìn nhận lại tất cả.
Điều độc giả nhận được từ tác phẩm của Tạ Duy Anh, do vậy là những chiêm nghiệm sâu xa,
thấm thía, đậm tính nhân văn về cuộc đời và thời cuộc. Và từ đó, là những bài học nhân văn sâu
sắc: “hãy tránh sự tái diễn tương tự bởi vì lịch sử luôn có nguy cơ lặp lại” và hãy biết “đòi cho
con người cuộc sống mà họ xứng đáng được hưởng”.
Tóm lại, hiện thực trong quan niệm của Tạ Duy Anh là một hiện thực bộn bề lo âu, gai
góc, được xoi xét, nghiền ngẫm ở nhiều tầng quan hệ song nó chủ yếu không phải là mục đích
phản ánh mà chính là phương tiện để tác giả trình bày những suy tư, khắc khoải về hai chữ:
“Con người”.
1.2.3.2 Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người
Văn học 1945 – 1975 với cảm hứng sử thi, văn học chủ yếu quan tâm đến con người
cộng đồng trong cái vai trò xã hội, trong tư cách là động lực Cách mạng. Sau 1975, cùng với
hiện thực đa chiều, quan niệm về con người cũng đa diện hơn, quan tâm hơn đến con người cá
nhân trong những hoàn cảnh xã hội cụ thể. Nền văn học mới thực sự đã cởi trói cho nhà văn, từ
cảm hứng sử thi lịch sử nay đã nghiêng hẳn sang cảm hứng thế sự về con người, đặt con người
vào trung tâm tác phẩm. Con người với tư cách cá nhân, đồng thời là thành viên của xã hội, con
người bình thường, con người của đời thường.
Bằng việc đổi mới quan niệm về con người: con người đa diện, nhiều chiều, văn xuôi
Việt Nam thời kì đổi mới đã đặt nền móng cho quá trình mở rộng các bình diện khám phá về
con người. Văn học sau đổi mới xem xét con người từ nhiều góc độ, nhiều hệ quy chiếu, nhiều
thang bậc giá trị, trên nền tảng nhân văn, nhân bản. Thay vì một cái nhìn phần nào giản đơn,
xuôi chiều về con người, văn học Việt Nam thời kì đổi mới mang đến một quan niệm toàn vẹn,
một nhãn quan mới, dưới ánh sáng đó, con người hiện lên như một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn, không
thể biết trước, không thể biết hết. Văn học thời kì này nhìn nhận con người độ lượng, tỉnh táo
hơn và cũng thận trọng hơn trước. Đã không còn những nhân vật “sạch sẽ”, được bao bọc bởi
một bầu không khí vô trùng như trước nữa. Các nhà văn thời kì này trình bày con người như nó
vốn có, không lý tưởng nó, thần thánh hoá nó. Bản chất con người luôn có sự song hành giữa
phần “con” và phần “người”, giữa ánh sáng và bóng tối, cao cả lẫn thấp hèn, rồng phượng lẫn
rắn rết, thiên thần lẫn ác quỷ… Sức hấp dẫn của văn xuôi hiện nay còn là ở chỗ văn học liên tục
phát hiện những cái khuất lấp, ẩn chìm, sức mạnh kì lạ đã chi phối và dẫn dắt số phận riêng của
mỗi cá nhân. Thế giới tâm linh, đời sống tâm hồn con người là một trong những đối tượng quan
trọng mà văn học chiếm lĩnh, khám phá, thể hiện. Nguyễn Minh Châu xác định: “Niềm hạnh
phúc lớn nhất và cũng là cái điều khổ ải nhất của một anh cầm bút xưa nay chính là việc khám
phá ra tất cả những cái gì khó nắm bắt nhất, xảy ra nơi cái thế giới bên trong con người” (Vài
ý nghĩ về hình thức và chất lượng).
Không chỉ nhìn con người đa dạng và nhiều chiều, một đổi mới đáng ghi nhận của văn
xuôi Việt Nam sau đổi mới là các nhà văn đã có sự quan tâm mạnh mẽ hơn đến số phận cá
nhân, hạnh phúc riêng tư của con người. Nếu như thời kì trước, văn học hầu như không có chỗ
cho sự tồn tại của cá nhân, bởi lẽ cá nhân đã được hoà tan trong cộng đồng thì nay con người là
trung tâm của sự phản ánh. Các nhà văn không chỉ đứng trên phương diện tập thể, cộng đồng để
phán xét con người mà đứng từ phương diện cá nhân để nhìn nhận, cảm thông chia sẻ với con
người. Chính vì thế, văn học thời kì này xuất hiện nhiều nhân vật có số phận bi kịch, đắng cay,
oan ức và những cá nhân lệch pha với cộng đồng. Với những lí do trên, văn học Việt Nam sau
đổi mới đã mở ra hướng khám phá mới trong sự tiếp cận và phản ánh con người, ngày càng
vươn tới một chiều sâu nhân bản: vì con người, cho con người.
Trong buổi trả lời phỏng vấn báo điện tử, Tạ Duy Anh đã phát biểu: “Con người nhỏ bé,
mù quáng, dễ bị cám dỗ và yếu đuối hơn những gì do kiêu ngạo – nó tưởng tượng về nó”. “Mỗi
người có một cách nhìn hiện thực được quy định trước hết bởi môi trường sống, khả năng nhận
thức, những ám ảnh về hạnh phúc và tai ương mà họ trải qua, chiều hướng tư tưởng mà họ
theo đuổi… Nó thuộc về sự bí ẩn cá nhân không thể lí giải bằng các quy luật bịa đặt chủ quan
như phần lớn nhà nghiên cứu thô thiển vẫn làm. Tôi được chuẩn bị từ chính cuộc đời để khai
thác hiện thực như những gì mọi người cho là gai góc” [6, tr 191].
Tạ Duy Anh đã đưa đến cho người đọc cái nhìn không đơn giản về con người, họ có thể
chỉ là những người lao động quanh năm bới đất lật cỏ nhọc nhằn kiếm ăn, không gây thù hận
chuốc oán với ai, nhưng khi đặt họ vào giai cấp, trong dòng họ nhất định thì ở họ lại tiềm ẩn
một sức mạnh tinh thần khủng khiếp, ông không chỉ nhìn con nguời ở hiện tại một mặt còn đặt
họ trong mối quan hệ với lịch sử, quá khứ để xem xét.
Tạ Duy Anh từng bộc bạch “Tôi là người thích đi mấp mé ở phần bờ vực của cái ác và
cái thiện với hy vọng có thể soi rọi vào nó ở những phần khuất lấp ít người chạm tới, vì tôi
không muốn đi như trẩy hội trên đường cái quan, mặt mũi ai nấy hơn hớn như sắp nhận chia
phần”. Có lẽ vì những quan niệm như vậy, mà khi viết về con người, Tạ Duy Anh có xu hướng
đi sâu khai thác và miêu tả những mảng tối, những phần chưa hoàn thiện về con người. Hơn
nữa, các trang viết của ông đều hướng về một miền quê mà theo ông “lầy lội, tăm tối và đầy thù
hận”, cho nên không khí hội hè đình đám, tình cảm xóm giềng thân tình đầm ấm, hình ảnh
những con người đôn hậu hầu như vắng bóng và không thuộc về cảm hứng của ông. Đọc Tạ
Duy Anh, người ta thấy được cái nhìn đầy chân thực và sinh động về con người. Có thể thấy Tạ
Duy Anh đi sâu vào trạng thái con người mấp mé giữa lằn ranh Thiện – Ác, con người bị lưu
đày trong cô đơn và tha hoá thành những bản sao.
Trong xã hội hiện đại, đầy tính cạnh tranh và thực dụng, con người tự phơi bày cái thấp
hèn, bản tính phi nhân, thú dữ. Tạ Duy Anh riết róng trình bày quan niệm “có một tí thánh
thần, một tí súc vật, một tí người, một tí quỷ, một tí sâu bọ… mỗi thứ một tí trong con người”.
Và cuộc đấu tranh chống lại cái ác, sứ mệnh cảnh tỉnh con người thật không chút dễ dàng.
Xa lạ với cảm hứng ngợi ca, ve vuốt, chiều chuộng, xu nịnh, mỗi trang văn của Tạ Duy
Anh là một sự khiêu khích, một lời chất vấn tư cách làm người. Nỗi buồn trước sự tha hoá của
con người, nỗi lo về thân phận con người, về sự biến mất của cá nhân là một chủ đề ám ảnh
trong tác phẩm của Tạ Duy Anh. Ông băn khoăn đi tìm nguồn gốc những nỗi khổ ải của con
người. Trong hành trình đó, ông nghiệm ra “Từ ánh sáng con người bước vào bóng tối với khát
vọng quằn quại đi tìm ánh sáng! Khởi thủy của bi kịch, tình yêu, niềm đam mê tự do, của nỗi
khổ… bắt đầu từ đấy…”. Cái nhìn này hoá thân vào những nhân vật luôn sống trong trạng thái
tinh thần căng thẳng, bị dằn vặt và muốn chuộc lỗi, những kiếp người đầy khổ đau, và niềm trắc
ẩn. Và cuộc sống hiểu theo ý nghĩa này là một hình phạt đối với con người. Bị bủa vây trong
nỗi sợ hãi, vong thân, vong bản, đánh mất mình là sự cảm nhận đau đớn về số phận con người,
là mối quan tâm lớn nhất của Tạ Duy Anh.
1.2.3.3 Đổi mới trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
Có nhiều phương pháp tái tạo hiện thực cho người cầm bút. Với Tạ Duy Anh thì nhiều
nhân vật như là một thủ pháp. Người ta nêu cao về cái chết của nhân vật trong Văn học hậu
hiện đại. Trên thực tế, bất kỳ một sự hiện diện nào thống trị toàn văn bản tác phẩm, ta cũng có
thể coi đó là nhân vật. Văn chương của Tạ Duy Anh vẫn còn nguyên những hình ảnh tinh khôi,
là con người bị cắt xén, chưa bị biến dạng, chưa bị vật hoá hoàn toàn. Hơn nữa nhân vật lại
nhan nhản đi đi lại tác phẩm (có lúc, nhà văn liệt kê hàng loạt người đã gặp trong cuộc đời, tự
thân sẽ hút vào mình toàn bộ thế giới mà nó đã gặp trong cuộc đời), thế giới mà nó đang sống,
dẫu nó không nhận ra được mối liên kết ấy, vì về mặt tự nhiên, sự tồn tại của con người luôn
gắn với hiện thực xã hội song tồn.
Mặt khác, nhân vật trong quan niệm của tác giả là phát ngôn cho một tư tưởng; một lời
nói, hình tượng hoá của cuộc đối thoại. Bởi vì chính tôi đã bị đày vào một thế giới không có
hình bóng. Trong cái thế giới ấy, tôi chỉ như một kẻ lưu lạc đi kiếm tìm chính tôi. Để chống lại
nỗi sợ, sự cô đơn, tôi vẫn chỉ có một cách là đối thoại với chính mình. Và những nhân vật mà
tôi tìm kiếm được chỉ là hình tượng hoá, dưới những hình thức khác nhau của cuộc đối thoại ấy.
Bởi thế dẫu có tước đi của hiện thực sự mô tả thì hiện thực ấy vẫn cứ thể hiện, cả cái hiện thực
bên ngoài và hiện thực bên trong con người, ở tất cả các chiều kích: dài của thời gian, rộng của
không gian và sâu của tâm hồn. Điều đáng nói là nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh đã
đổi mới những cái nhìn quen thuộc của cuộc sống.
Sẽ bắt gặp một phản đề khi khẳng định “nhân vật như là thủ pháp tái tạo hiện thực”
trong sáng tác của Tạ Duy Anh. Có lẽ rõ ràng giữa nhân vật với hiện thực xã hội, giữa bạn đọc
với thực tại trong tác phẩm hay cuộc đời đang sống. Vì rằng, tác giả luôn từ cái nhìn thì tiếp
diễn mà chiếu ngược trở về quá khứ đã qua. Vậy bộ mặt hiện thực trong sáng tác Tạ Duy Anh
có điều gì mới lạ từ phương thức tái tạo của nó. Tìm hiểu cấu trúc nhân vật, chúng ta sẽ chạm
được tới cái hiện thực ở đâu đó phía sau kia.
Tạ Duy Anh là một mẫu nhà văn của thời đại mới: nghiêm túc và tỉnh táo. Với nhà văn
“viết văn đương nhiên là một nghề, nó đòi hỏi chuyên môn sáng tác mang tính chuyên nghiệp
cao”. Vì thế nhà văn luôn viết với một ý thức tìm tòi và nỗ lực tìm tòi đổi mới: “Tôi không bao
giờ cho phép mình ngồi vào bàn viết mà lại thiếu sự nghiêm túc tỉnh táo. Khi viết, dù là bài
báo, tôi cũng chú ý từng chữ một. Bất cứ một sự buông thả nào cũng phải trả giá ngay” [10].
Tạ Duy Anh không nói “làm mới” là bản chất của hoạt động sáng tạo nhưng nhà văn
quan niệm: “Sáng tác đồng nghĩa với tìm tòi và kỹ thuật viết là điều quan trọng, trừ những ai
không định làm nhà văn chuyên nghiệp. Kỹ thuật, xét cho cùng, là nỗ lực tạo ra hình thức và
hiệu quả cao nhất cho tác phẩm”. Và “Đổi mới là một thuật ngữ phù hợp với chính trị hơn là
văn chương. Bản thân sáng tạo là khám phá những điều chưa bao giờ được biết đến về đối
tượng của nó và đây là điều kiện tiên quyết. Mỗi một tác phẩm đều đã bao hàm trong đó yếu tố
cách mạng về thủ pháp nghệ thuật hoặc quan niệm về hiện thực” [5, tr 396]. Nó cũng là lôgíc
của sự sáng tạo: “Suốt nhiều năm tôi đã vất vả tìm cách thoát khỏi chính mình. Và suy cho cùng
điều đó thuộc về lôgíc sáng tạo” [12].
Viết là sự quyện hoà của tất cả, kinh nghiệm, trải nghiệm và những lý thuyết đã được
“tiêu hoá” đến mức không còn cảm ngợp hay thấy sự kịch điểm của nó nữa. Nói cách khác,
ảnh hưởng đến tự nhiên, là ngẫu nhiên của sự trùng hợp hay học tập tiếp thu có mục đích. Cái
thống trị bao trùm khi nhà văn sáng tạo là “làm mới” cái sẽ viết ra. Có nghĩa “Điều duy nhất
khiến tôi quan tâm khi viết là chính mình có chán lối viết của mình hay không? Mỗi nhà văn
vẫn có một đường đi riêng với trái tim bạn đọc. Tôi đã chọn cái tạng của riêng tôi thì cũng sẽ
theo nó tới cùng. “Tôi luôn tìm cách phá bỏ thị hiếu thông thường của người đọc. Thị hiếu tạo
cho ta sự ổn định thẩm mỹ nhưng chính thị hiếu ấy ngăn cản sự cách tân. Tôi chấp nhận sự bài
xích, thậm trí nguyền rủa, để tạo ra một cảm nhận khác, một tư duy khác. Nghệ thuật không
phải một cuộc diễu hành, và nhà văn phải chấp nhận con đường mình chọn”.
Tiểu kết: Năm 1986, không khí tự do, dân chủ của Đại hội Đảng VI đã đưa đến cho văn
xuôi kỳ này những thay đổi lớn lao. Hướng cái nhìn trong lĩnh vực đời tư, thế sự cùng với cảm
hứng được nói “sự thật” vì tất cả, các nhà văn thời kỳ này đổi mới đã đem đến cho người đọc
những cái nhìn nhiều hướng nhiều chiều, không hề đơn giản về con người. Những số phận,
những cảnh đời, những chất sống sít của hiện thực… ùa vào những trang viết tạo nên một bức
tranh rộng lớn, đa dạng, phong phú màu sắc. Những gì ngại nói, kiêng nói một thời giờ đây
cũng được phơi bày, không ngại ngùng che đậy. Một không khí đổi mới nó bao trùm lên văn
học.
Hoàn cảnh ấy chính là một điều thuận lợi cho cây bút trẻ Tạ Duy Anh. Bắt đầu sự nghiệp
sáng tác hầu như đồng thời với giai đoạn mới, Tạ Duy Anh đã được hòa mình vào sự chuyển
mình đầy ý nghĩa của văn học, rút kinh nghiệm từ những hạn chế của văn chương một thời đã
qua. Ngay từ những sáng tác đầu tiên (hai chùm truyện ngắn Lũ vịt trời, Bước qua lời nguyền)
Tạ Duy Anh đã khẳng định được tên tuổi của mình và từ đó có những bước đi vững chắc được
bạn đọc biết đến như một nhà văn viết về làng của mình. Lấy chất liệu hiện thực từ một làng
Đồng nhỏ bé, nhưng những gì ông thể hiện qua trang viết của mình lại không hề bé nhỏ chút
nào. Người đọc luôn nhận được từ tác phẩm của Tạ Duy Anh những thông điệp mang tính sâu
sắc, từ đó tạo được những dấu ấn riêng, ghi nhận sự đóng góp, phát triển một tài năng, nhân
cách.
Với sự đổi mới quan niệm về con người, nhìn nhận con người từ những góc độ nhân bản
nhất. Tạ Duy Anh đã tiếp cận đời sống ở nhiều khía cạnh, góc độ khá sâu sắc. Con người trong
tác phẩm của ông được nhìn với cái nhìn không đơn giản, không hề tô vẽ, không đánh bóng.
Ông thường nhìn con người ở góc độ những mảng tối, mảng khuất lấp trong tâm hồn, ông cũng
đặc biệt có xu hướng đi vào những bất hạnh, khổ đau của con người để viết lên những trang văn
da diết, đau đáu những cảnh đời, thân phận. Con người thật nhỏ bé trước cuộc đời. Với độc giả
thì Tạ Duy Anh vẫn luôn được yêu mến qua những trang viết của mình. Làng Đồng bé nhỏ đã
góp một hình ảnh chân thực sinh động vào bức tranh nông thôn rộng lớn thời đổi mới. Sự thành
công của Tạ Duy Anh cũng cho thấy sự phát triển của một thế hệ nhà văn trẻ trong những nỗ
lực, cố gắng xây dựng nền văn học nước nhà thêm hoàn thiện.
Chương 2
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
TẠ DUY ANH
2.1. Nhân vật trong truyện ngắn
2.1.1. Khái niệm nhân vật
“Nhân vật trong văn học là con người được miêu tả trong văn học bằng phương tiện văn
học”[30] – Lý Luận Văn Học (tập 2), Nhà xuất bản Giáo Dục, 1987.
Nhân vật bao giờ cũng là linh hồn của tác phẩm, là trung tâm của mọi sự miêu tả nghê
thuật. Đó “chính là nơi tác giả gửi gắm thông điệp và độc giả tiếp nhận “giải mã” những vấn
đề hiện thực cốt yếu đặt ra trong tác phẩm” [16]. Nói như M.Gorki “Nghệ thuật bắt đầu từ nơi
mà người đọc quên tác giả, chỉ có trông và nghe thấy những con người do tác giả trình bày
trước người đọc”. Nhân vật do đó không chỉ là hình thức cơ bản thể hiện quan niệm nghệ thuật
về con người của nhà văn mà còn là hình thức cơ bản để khái quát những quy luật của đời sống
và là nơi tập trung mọi giá trị tư tưởng – nghệ thuật của tác phẩm.
Càng ngày các nhân vật văn học càng trở nên phong phú và đa dạng. và sự tìm tòi những
hình thức mới cho truyện ngắn trước hết cũng là tìm tòi đổi mới ở nhân vật. Bởi nhân vật là sự
phản ánh hình tượng con người của thực tại mà bộ mặt và đời sống tinh thần của con người
luôn biến đổi theo tiến trình lịch sử. Đó là cơ sở quyết định tính đa dạng và độ sâu sắc ngày
càng tăng của nhân vật trong lịch sử văn học. Mặt khác, nhà văn (chủ thể sáng tạo) qua các thời
đại không chỉ khám phá những nét mới trong tính cách con người mà còn luôn có ý thức tìm
đến những nguyên tắc, biện pháp tốt nhất để thể hiện con người sao cho đáp ứng được nhu cầu
thẩm mỹ của độc giả.
Nhân vật văn học là một hiện tượng đa dạng cho nên các phương diện loại hình của nhân
vật cũng hết sức đa dạng. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể phân thành các loại hình
nhân vật khác nhau. Chẳng hạn căn cứ vào vai trò của nhân vật đối với cốt truyện có thể phân
thành nhân vật chính (hoặc nhân vật trung tâm) và nhân vật phụ; căn cứ vào tư tưởng và quan
hệ với lý tưởng có thể phân thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện; căn cứ vào cấu
trúc nhân vật có thể phân thành nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách và
nhân vật tư tưởng.
Tuy nhiên đó không phải là những tiêu chí nhất thành bất biến bởi nhân vật càng trở nên
phức tạp thì càng khó phân loại. Trong thực tế sáng tác văn học thường có những trường hợp
bất tuân theo quy tắc. Có những nhân vật vừa mang đặc điểm của nhân vật loại này vừa mang
đặc điểm của nhân vật loại khác. Nhân vật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh cũng vậy. Chúng tôi
thấy rất khó có thể căn cứ vào một trong những tiêu chí trên để phân loại nhân vật trong truyện
ngắn Tạ Duy Anh mà lại cho kết quả thỏa mãn. Ở đó, vừa có những nhân vật có thể phân loại
theo tiêu chí này, lại vừa có nhân vật có thể được phân loại theo tiêu chí khác.
2.1.2. Vai trò của nhân vật trong truyện ngắn
Trong việc cảm thụ, thưởng thức và thẩm định tác phẩm văn chương, không phải ngẫu
nhiên mà tên tuổi của nhà văn thường nhắc đến trong sự liên hệ với nhân vật này hay nhân vật
khác của họ: Đostoyesky với Raskolnikov (Tội ác và trừng phạt), L.Tolstoy với Andrei
Bolkonsky, Natasa… (Chiến tranh và hòa bình), Victor Hugo với J.Valjean (Những người
khốn khổ), Lỗ Tấn với AQ (AQ chính truyện), Nguyễn Du với Thúy Kiều, Từ Hải (Truyện
Kiều), Vũ Trọng Phụng với Xuân tóc đỏ (Số đỏ)… Sở dĩ như vậy là vì sự thành công trong việc
xây dựng nhân vật là một dẫn chứng xác nhận rõ tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Nhưng nhân vật không chỉ là bằng chứng trong việc thẩm định, đánh giá tài năng của nhà
văn. Đặt trong một chỉnh thể nghệ thuật, nhân vật có một vai trò quan trọng đặc biệt, xét từ góc
độ chủ thể sáng tạo nghệ thuật là nhà văn, lẫn góc độ người tiếp nhận, phân tích, đánh giá tác
phẩm, nhất là đối với truyện ngắn.
Xét từ góc độ chủ thể sáng tạo nghệ thuật, nhân vật là phương tiện hàng đầu giúp cho nhà
văn khái quát các tính cách và số phận con người. Đồng thời qua nhân vật, nhà văn còn gửi gắm
quan niệm, suy tư, trăn trở… của mình về con người, cuộc sống. Nói cách khác, trong tác phẩm
thuộc loại hình tự sự, nhân vật xây dựng gắn liền với việc đặt ra và lý giải những vấn đề về con
người, cuộc sống, cũng như việc thể hiện lý tưởng thẩm mỹ – xã hội của nhà văn. “Nhà văn
sáng tạo nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan niệm về cá nhân đó.
Nói cách khác, nhân vật là phương tiện khái quát các tính cách, số phận con người và quan
niệm về chúng” [121, tr 64].
Nhân vật là công cụ quan trọng như vậy, cho nên những nhân vật được xây dựng thành
công bao giờ cũng là những khám của nhà văn đối với hiện thực, cuộc sống, con người, đồng
thời, cũng là những sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Những khám phá, sáng tạo này chính là
những đóng góp của nhà văn cho nền văn học dân tộc, trong lịch sử phát triển của nó.
Vai trò quan trọng của nhân vật xét từ góc độ chủ thể sáng tạo nghệ thuật tất nhiên sẽ quy
định vị trí hàng đầu của nó xét từ góc độ tiếp cận, tìm hiểu, đánh giá tác phẩm. Tiếp cận, tìm
hiểu tác phẩm, chúng ta không thể không theo dõi cuộc đời, số phận của nhân vật, hệ thống
nhân vật trong mối quan hệ với các biến cố, sự kiện, diễn ra trong các tình huống, cảnh ngộ
khác nhau. Trên cơ sở quá trình này, chúng ta mới có thể nắm bắt, làm sáng tỏ các đặc điểm
tâm lí, tính cách nhân vật, đồng thời qua đó, đúc kết, khái quát lại để xác định, đánh giá những
vấn đề sâu xa, cơ bản về cuộc sống, con người nhà văn đặt ra, cũng như tư tưởng, lí tưởng thẩm
mỹ – xã hội của nhà văn.
Với những tiền đề lí luận vừa trình bày, chúng tôi sẽ xác định, làm sáng tỏ một số vấn đề
về nội dung tư tưởng trong truyện ngắn Tạ Duy Anh. Nhân vật là một nhân tố đặc biệt quan
trọng của truyện ngắn. Có thể khẳng định, Tạ Duy Anh đã đạt được thành tựu đáng ghi nhận
trong việc xây dựng thế giới nhân vật vừa mang được dáng dấp của những nhân vật đã có trong
truyền thống, trước thời và cùng thời; vừa mang gương mặt mới với những phát hiện khá độc
đáo của nhà văn. Những nhân vật ấy còn là cả một thế giới nhân vật đông đúc và phong phú,
không có tiểu sử, lai lịch rõ ràng mà chỉ được xuất hiện gián tiếp qua ký ức, qua độc thoại nội
tâm hay hình dung tưởng tượng của nhân vật chính hoặc nhân vật khác, hoặc qua đối thoại giữa
các nhân vật với nhau nhưng lại cho phép người đọc hình dung rất rõ về đặc điểm tâm lý, bản
chất, cái hồn của nhân vật, vị trí của nhân vật trong con mắt đánh giá của tác giả. Đó cũng là
những nhân vật có khả năng đại diện cho rất nhiều kiểu người khác nhau trong xã hội. Tác giả
hoàn toàn ít chú ý đến việc miêu tả tỉ mỉ chân dung ngoại hình nhân vật, thậm chí cả tính cách
nhân vật mà tỏ ra rất tài tình trong việc viết lời đối thoại của nhân vật và miêu tả nhân vật khi
đối thoại. Đây chính là một sáng tạo rất độc đáo của nhà văn.
Nhân vật là để thể hiện con người mà quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố cơ
bản và then chốt của chỉnh thể nghệ thuật, nó chi phối toàn bộ tính độc đáo và hệ thống nghệ
thuật của chỉnh thể ấy. Thế giới nhân vật của Tạ Duy Anh đã thể hiện được chiều sâu và những
phát hiện mới trong cái nhìn về con người. Qua thế giới nhân vật này, nhà văn đã trình ra cả
một thảm trạng xã hội thời hiện đại với những tai họa đang lăm le giáng xuống đầu con người.
Từ đó, nhà văn lên tiếng cảnh tỉnh con người trước những tham vọng sục sôi và nguy cơ bị tha
hóa, biến dạng, méo xệch cả về tâm hồn và thể xác, đi đến kết cục cuối cùng là sự vong thân,
vong bản. Trong cái dòng đời xô bồ, hỗn tạp, đầy xáo trộn, con người dễ bị trôi theo những cám
dỗ, lầm lạc. Họ đứng trước nguy cơ bị nghiền nát, bị phân hủy, bào mòn. Để cứu được mình,
con người phải tìm thấy một mặt nạ, rồi cái mặt nạ ấy sẽ dần dần xâm thực và thay thế luôn bộ
mặt có thật khiến con người trở nên hoảng loạn với những nỗi sợ triền miên. Để chạy trốn nỗi
sợ ấy, con người gặp phải nỗi sợ khủng khiếp hơn. Từ đó, nhà văn cũng cảnh báo đối với sự dối
trá của con người ta đã trở thành thói quen của cuộc sống thường nhật gây nên sự nhiễu tâm của
các thế hệ là căn nguyên sâu xa nhất dẫn tới sự suy đồi. Xây dựng thế giới nhân vật này, Tạ
Duy Anh còn tiếp tục cuộc hành trình chưa kết thúc của nhân loại để trả lời câu hỏi: “Ta là ai?”
nghĩa là cuộc hành trình đi tìm cái bản thể của mỗi cá nhân con người.
2.2. Các kiểu loại nhân vật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh
Con người luôn luôn là đối tượng trung tâm của rất nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau,
trong đó có văn học. Từ xa xưa, trong thế giới của những câu chuyện thần thoại, ngụ ngôn – dù
con người không trực tiếp xuất hiện nhưng các thể loại truyện kể dân gian ấy vẫn nói về con
người, vẫn hướng về con người. Theo thời gian, văn học nghệ thuật càng phát triển thì việc đề
cập tới con người và tất cả những gì liên quan đến con người càng được chú trọng.
Lịch sử phát triển của nhân loại luôn là những bước đi liên tục, trong đó có tư duy của
con người. Ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn, con người lại có những cách quan niệm khác nhau về
chính mình và về đồng loại. Văn học Việt Nam, đặc biệt là truyện ngắn Việt Nam – qua nhiều
bước thăng trầm, đã có rất nhiều cách quan niệm khác nhau về con người. Mỗi nhà văn là
những thế giới riêng, luôn tiếp nhận những ảnh hưởng khác nhau dội đến từ cuộc sống bên
ngoài, do đó, quan niệm nghệ thuật nói chung – và quan niệm nghệ thuật về con người nói
riêng – của họ là hết sức phong phú đa dạng. Quan niệm này sẽ chi phối toàn bộ công việc sáng
tạo của nhà văn, nên dù việc tìm hiểu nó không hề đơn giản, chúng ta cũng cần phải xác định rõ
khi muốn tiếp cận các tác phẩm văn học của nhà văn ấy.
Từ sau đổi mới, nền văn học của chúng ta phát triển mạnh mẽ. Các nhà văn đã mạnh dạn
hơn khi bày tỏ quan điểm riêng của mình. Cách nhìn nhận và quan niệm về con người cũng có
những chuyển biến đáng kể. Trong thời chiến tranh, người ta lấy việc chọn lựa lí tưởng và hành
động cách mạng làm thước đo giá trị, phẩm chất của con người. Ở giai đoạn ấy, ta thường thấy
con người hiện lên với lí tưởng cộng sản, hành động quả cảm, khát vọng được xả thân vì tổ
quốc. Giờ đây, chiến tranh chỉ còn trong kí ức, con người được trở về với cuộc sống đời
thường, với những bộn bề lo toan cho cuộc sống thường nhật, cùng quá trình đấu tranh với
chính bản thân để tự hoàn thiện… Đây là thời điểm con người sẽ bộc lộ những phần thật nhất
trong bản chất người của mình. Những con người “hôm qua”, những anh hùng, hay những con
người thuộc về cộng đồng, về số đông, đã nhường chỗ cho những con người “hôm nay” hiện
lên với tư cách cá nhân, với tất cả sự phức tạp của cuộc mưu sinh khốc liệt và những cạnh tranh
của xã hội thuộc cơ chế thị trường. Thực tế đó đòi hỏi văn học phải chuyển đổi, cả về quan
niệm nghệ thuật, nội dung và cách viết.
Nguyễn Minh Châu – nhà văn đi tiên phong trong công cuộc đổi mới của nền văn học
nước nhà – đã bày tỏ quan niệm nghệ thuật về con người của mình, bằng việc đưa ra một thế
giới nhân vật với những cách gọi tên bước đầu gây nhiều bỡ ngỡ cho người đọc: con người đuổi
bắt ảo ảnh, con người đi tìm thế giới xung quanh và đi tìm cái tính chất tạp đa muôn màu muôn
vẻ của vũ trụ, của thế giới bao quanh con người và ngay ở trong nội tâm con người. Hòa trong
dòng chảy của khuynh hướng đổi mới, truyện ngắn Tạ Duy Anh cũng chứa đựng những quan
niệm hết sức mới mẻ, bất ngờ về con người.
Đi sâu vào tìm hiểu tác phẩm của Tạ Duy Anh, chúng tôi thấy nó đặt ra được những vấn
đề nghiêm túc về cuộc sống, chứa đựng những giá trị thẩm mỹ mới mẻ của một cây bút trẻ khao
khát sáng tạo. Từ quan niệm về hiện thực, về con người cho đến tổ chức cốt truyện, ngôn ngữ,
giọng điệu…, Tạ Duy Anh đều có nhiều tìm tòi cách tân mới lạ. Đặc biệt, thế giới nhân vật
trong sáng tác Tạ Duy Anh gây ấn tượng rất mạnh. Đó toàn là kiểu nhân vật “phi chính thống”,
nghĩa là rất khác với nhân vật của nhãn quan chính – tà, thiện – ác, ta – địch, cũng không xếp
vừa khung tính cách hay số phận điển hình. Đọc ông, đôi lúc có cảm giác đang bị nhân vật thôi
miên, ám ảnh. Đúng như M.Gorki nhận xét: “Nghệ thuật bắt đầu từ nơi mà người đọc quên tác
giả, chỉ có trông và nghe thấy những con người do tác giả trình bày trước người đọc”.
Nhân vật văn học là phương tiện tất yếu và quan trọng nhất giúp nhà văn khái quát các
tính cách xã hội và mảng đời sống gắn liền với nó. Tài năng của nhà văn gắn liền với những
nhân vật mà họ sáng tạo ra, bởi nhiều khi, ấn tượng về nhà văn, về tác phẩm lại bắt đầu từ ấn
tượng một nhân vật nào đó. Chính ở đây, Tạ Duy Anh đã cho thấy một khả năng dự cảm chân
thật về bản chất hiện tồn của con người. Mặc khác, hành trình tìm kiếm và xây dựng hệ thống
nhân vật của tác giả có ý nghĩa như một sự khai phá để làm mới, làm giàu cho văn xuôi Việt
Nam đương đại. Nó không chỉ thể hiện tinh thần nhân bản của tác giả mà còn xác nhận một tư
cách nhà văn hiện đại; tư cách người đối thoại với truyền thống và độc giả. Qua thế giới nhân
vật chúng tôi muốn làm rõ hơn những kiến giải của nhà văn về con người (Con người là ai? Vì
sao nó đau khổ? Vì sao nó tha hoá?...) cũng như ghi nhận nỗ lực thể nghiệm cách viết để đem
đến cho công chúng một kinh nghiệm thẩm mỹ mới của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật ấy
được bộc lộ qua các kiểu loại nhân vật cụ thể: Nhân vật tha hoá, nhân vật kiếm tìm, nhân vật
cô đơn, nhân vật sám hối, nhân vật hoàn thiện.
2.2.1. Nhân vật tha hoá
Có thể nói, kiểu nhân vật tha hoá xuất hiện từ rất lâu trong văn học thế giới. Ở phương
Tây, loại nhân vật này gắn với những tên tuổi lừng danh như Stendhal, Balzac, Puskin,
Chékhov… Ở Việt Nam, giai đoạn văn học 1930 – 1945, kiểu nhân vật này cũng đã xuất hiện
khá nhiều trong khuynh hướng văn học hiện thực phê phán, với các tác phẩm của Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… Đến giai đoạn 1945 – 1975, do chịu sự chi phối của những
điều kiện lịch sử đặc biệt, các nhà văn ít xây dựng loại nhân vật này. Sau 1975, khi chiến tranh
kết thúc, đời sống con người trở về với trạng thái bình ổn. Từ đó, con người thoát khỏi thời kì
mà “ý thức cộng đồng” là kim chỉ nam cho những nghĩ suy, tình cảm, hành động. Khi có dịp
tĩnh tâm nhìn lại mình, đối diện với mình cũng là lúc con người phải bước vào một cuộc chiến
mới – thầm lặng nhưng lại vô cùng dai dẳng, khốc liệt. Ở đó họ nhận ra những phần tốt đẹp và
cả phần khuất tối trong tâm hồn mình và trong tâm hồn người khác. Những tác động mạnh mẽ
từ cuộc sống xã hội nhiều khi đã làm con người không còn giữ được những bản tính tốt đẹp của
mình, làm họ mất đi tính người, tình người.
Tinh tế, nhạy cảm và hết sức thẳng thắn – Tạ Duy Anh đã nhận thấy và nêu ra những
phần xấu xa, bần tiện ấy trong mỗi con người. Trong phần lớn truyện ngắn của ông, người đọc
dễ dàng bắt gặp loại nhân vật tha hoá như vậy. Không tô vẽ để nhân vật trở nên đẹp đẽ hay
chắp cánh cho con người bay cao hoá thân thành những thiên thần, Tạ Duy Anh để cho họ sống
với tận cùng bản chất của chính mình.
Tha hoá là một thuật ngữ triết học, dùng để nói lên hiện tượng một người bị biến thành
người khác, đánh mất đi cái tôi bản nguyên tốt đẹp vốn có của mình, dưới tác động của môi
trường. Nhân vật tha hoá xuất hiện nhiều trong truyện ngắn của Tạ Duy Anh, làm thành hệ
thống, với những cấp độ sắc thái đậm nhạt khác nhau, từ những nguyên nhân đa dạng.
Những suy nghĩ, hành động, những toan tính của họ nhiều lúc khiến người đọc không
khỏi kinh hãi, bàng hoàng, xót xa. Ở một vài truyện, nhà văn đã đi vào lí giải quá trình tha hoá
của nhân vật: Nhân cách con người đánh mất mình (vong bản, vong thân) do một bàn tay phàm
tục nhào nặn, một thế lực vô hình nắm giữ số phận, con người không còn là mình nữa, nếu anh
ta dám là mình, anh ta sẽ trở thành “kẻ xa lạ” với cộng đồng. Nhưng hoà tan vào cộng đồng,
anh ta lại tự xa lạ với chính mình. Bi kịch tha hoá đã, đang và sẽ trở thành bi kịch nhức nhối
nhất của con người thời đại. Nói cách khác, văn minh vật chất càng phát triển, khoa học càng
tiến bộ thì nguy cơ rạn nứt những giá trị nhân văn, đẩy con người đến bờ vực tha hoá càng cao.
“Cuộc sống này tồn tại phải chăng bằng sự vờ vĩnh? Chao ôi, bao giờ con người ta mới gỡ
được chiếc mặt nạ phải đeo vào kể cả khi ngủ với tình nhân?” [5]. Không dễ nhận ra sự bào
mòn nhân cách khi mà khắp xung quanh hình như ai ai cũng thế cả. Người ta yên tâm bởi sự
hậu thuẫn của đám đông để rồi mất mình lúc nào không biết.
Đến bao giờ con người mới thôi không còn phải đứng trước sự lựa chọn nghiệt ngã: bán
linh hồn để giữ thể xác và ngược lại? Trong cuộc đời đầy bất trắc này: “Con người luôn có
nguy cơ bị biến thành kẻ khác, đánh mất cái bản gốc quý giá của mình”[5]. Tạ Duy Anh đã cắt
nghĩa bằng cái phi lý bày tỏ nỗi lo âu trước sự xuống cấp của ý thức con người. Mọi khái niệm
bị đánh tráo, lòng tốt bị nghi ngờ, thế giới toàn những kẻ sắm vai, đám đông trở nên không còn
gì đáng tin… Và khi sinh tồn trở thành nỗi bất an lớn nhất, con người càng lúc càng trở nên “xa
lạ”, “dửng dưng” với người đã phát hiện ra bi kịch này và chỉ ra nguyên nhân của nó.
Tạ Duy Anh không ngần ngại phơi bày cái xấu xa của con người trong xã hội. Viết về
tính ác của con người, Tạ Duy Anh không nhằm tuyên bố hay rao giảng những bài học hay đạo
đức này nọ. Văn của Tạ Duy Anh là văn chất vấn, gây cấn – nhưng chủ yếu mong muốn của
nhà văn là đánh thức cái Thiện trong mỗi con người. Mỗi tác phẩm là sự nhắc nhở lương tâm, là
sự phán xét mỗi khi con người không còn đủ nghị lực để đối diện với chính mình. Phải phơi
bày cái ác nhưng đồng thời cảnh tỉnh con người đang đứng trước nguy cơ bị cạn kiệt yêu
thương, bị tha hóa và bị nghiền nát. Điều này cần một thái độ tỉnh táo, lạnh lùng và quyết liệt
với cái ác, cái xấu, cái thấp hèn… Nhà văn đã giao cho nhân vật cái quyền tự lên án và tự biện
hộ, tự buộc tội và tự giải thoát, vừa là bị cáo, vừa là quan tòa xử tội trước tòa án lương tâm.
Đấy là cách can dự tích cực của nhà văn vào cuộc sống đương đại.
Viết về những vấn đề bức xúc của cuộc sống hiện đại, Tạ Duy Anh không tự giới hạn ở
một chủ đề nào nhưng xuyên suốt tất cả là nỗi lo âu thường trực của nhà văn trước sự lệch pha
giữa văn minh và văn hóa. Ông nhìn vào đời sống đô thị bằng con mắt hoài nghi; ở đó lòng tốt
bị nghi ngờ, bị từ chối (Gã lẩm bẩm), lời chào lại là nguyên nhân khơi mào một cuộc chiến
tranh làng xóm (Ngũ gia truyện), ở đó chuyện mua danh bán tước, thói học đòi làm sang đã trở
thành căn bệnh phổ biến (Ba đào ký, Con ruồi…). Ông hoang mang vì cảm thấy cái ác và cái
xấu tồn tại như một thứ khí quyển của xã hội hiện đại. Khao khát vươn lên và vượt thoát những
định kiến cũ kỹ, nhân vật trong tác phẩm Tạ Duy Anh là hành trình đi tìm cái bản thể ở mỗi con
người. Có thể khẳng định, dù viết về hiện tại hay quá khứ, bối cảnh nông thôn hay thành thị…,
các tác phẩm của Tạ Duy Anh đều gửi gắm những thông điệp về con người, đều là sự tra vấn
căn nguyên những đau đớn của con người.
Một trong những lý do mà tác phẩm Tạ Duy Anh gây sốc, gây phản ứng đa chiều ở người
đọc, khiến số phận tác phẩm của ông mang án lưu đày, đấy là trong tác phẩm của ông, sự thật
nghiệt ngã về con người độc ác được lạnh lùng phơi bày. Trong các sáng tác của Tạ Duy Anh,
từ truyện ngắn đến tiểu thuyết người ta bắt gặp đầy rẫy những cái ác, cái xấu. Dường như viết
về cái ác, cái xấu đã trở thành sở trường của nhà văn, nó xuất hiện nhiều đến mức trở nên phổ
biến. Các tác phẩm đã khai thác những vùng khuất tối của hiện thực, thẳng thắn chỉ ra: chính
nhận thức non kém, bệnh chủ quan duy ý chí của những kẻ thừa hành đầy háo danh đã gây ra
những bất công, ngang trái đó.
Trước thói quan liêu, hống hách đến mù quáng của mấy kẻ cầm quyền ở xã, gần ngàn
dân làng Cổ chỉ còn biết xót xa đứng nhìn làn mưa quất ràn rạt vào cánh đồng lúa chín. Một
mùa vụ bội thu phút chốc trộn lẫn với bùn. Trong Lũ vịt trời, Toản là người bất chấp tất cả và
lợi dụng hoàn cảnh để mưu đồ cá nhân, là Đảng viên công chức nhà nước nhưng lại không có
phẩm chất cách mạng, không có văn hóa. Con đường thăng tiến của Toản chủ yếu bắt đầu từ
việc tận dụng thành phần xuất thân là nông dân trong thời kì cải cách ruộng đất. Nếu rơi vào
thành phần bất lợi như địa chủ, cường hào… thì không ngần ngại đoạn tuyệt với cái gốc gác
của mình để tỏ lòng cương quyết đi theo cách mạng, trước tiên bằng việc đấu tố người ruột thịt
của mình. Ở Hóa kiếp, bi kịch của người dân là từ một kiểu cán bộ cơ hội, làm chủ tịch mà vẫn
ăn cắp, ăn trộm, ai phản đối lão lại giở chức tước chủ tịch ra dọa dẫm. Ông chủ tịch sẵn sàng
văng ra một câu thô tục “cười bòi ông đây này” [2, tr 106]. Làm một chủ tịch, đứng đầu một xã
mà khi tổ chức họp dân để đấu tố địa chủ, nói một câu ra hồn cũng không được, hô cho đám
đông mà phải suy nghĩ nát óc mới bật ra được một câu: “Tất cả tuyệt tự” (thay vì phải nói: “Tất
cả trật tự”) [2, tr 106]. Trong cái đầu tối tăm của lão chỉ có một nhận thức duy nhất về chức vụ
lão làm là “Làm cách mạng được lợi nhiều quá” [2, tr 105]. Với những ông chủ tịch như vậy thì
làm sao mà đời sống của nhân dân không khổ sở cho được.
Trong truyện ngắn Dịch quỷ sứ, Bùi Bằng Hữu – thư ký của Bùi N nhiều năm, anh ta
luôn “hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, vượt lên trên vai trò của một thư ký”. Rồi một ngày
anh ta thấy “yết hầu to dần ra, lưỡi tuồng như đầy cả khoang miệng” – anh ta mắc bệnh câm.
Các bác sĩ, chuyên gia nổi tiếng bó tay trước căn bệnh lạ. Cuối cùng một ông già dạy thú người
“suốt đời mơ ước truyền lòng yêu thương cho hổ báo” đã chữa khỏi bệnh cho Bùi Bằng Hữu.
Anh ta đâm đơn kiện ông già vì: “từ khi tôi nói được trở lại, tôi chẳng biết mình đang nói
những gì. Ngôn ngữ loài người đã tiến quá xa trong thời gian tôi lâm bệnh” và anh ta đòi trả lại
“quyền được câm”.
Ông già dạy thú đã tham khảo kết luận của các nhà cổ sinh học:
“Bùi Bằng Hữu
Da vàng.
Mũi tẹt.
Thuộc hệ Homo Sapien (Người khéo léo)”.
Ông quan sát phản ứng của Homo và phát hiện: “Khi thấy hai người cầm dao xông vào
nhau, tự nhiên Homo hớn hở như được của. Thấy đám ăn mày nhếch nhác, anh ta bập bẹ thốt
lên “tuyệt vời”. Gốc gác căn bệnh câm là ở chỗ: “khi anh ta cố tình gọi sai tên các sự vật, hiện
tượng, lập tức cơ chế sinh học thay đổi về mặt nào đó anh ta bị tước mất tư cách sinh vật
người”. Ông già dạy thú đã “buộc phải giết chết ba mươi năm làm người của anh ta” để mỗi
ngày dạy lại anh ta dăm ba từ cho đến khi anh ta không những biết nói mà còn biết viết đơn
kiện… Câu chuyện giàu tính ẩn dụ này nói với chúng ta sự tha hóa của con người. Khi hoàn
cảnh trở nên phi lý thì không điều gì không thể xảy ra với con người. Bùi Bằng Hữu bao lâu bị
trói chặt vào vị trí của một kẻ “ăn theo, nói leo”, “chuyên làm láo, báo cáo hay”… anh ta đã bị
“tước tư cách sinh vật người”, cũng coi như trở thành loài cầm thú! Tạ Duy Anh gọi đó là Dịch
quỷ sứ và “có quá nhiều người” mắc bệnh ấy trong cõi đời này. Khát khao tiến thân, làm nô lệ
cho quyền lực, bao người đã mắc bệnh câm theo nghĩa bóng? Con người phải biết cảnh giác với
những ham hố phù du nếu không muốn bị biến dạng, quái dị.
Từ cái ác của cả một tập thể khi nhân vật “tôi” chứng kiến sự hiếu sát của đám đông chôn
sống một bé gái chỉ vì cha mẹ của em mắc bệnh hủi (Ánh sáng nàng), đến cái ác ở từng cá
nhân. Một người cha đánh con tới mức bị thần kinh (Gã thọt), một khách làng chơi quăng cái
ghế để giết người nhân viên chỉ vì đã làm cho anh ta xấu hổ và tức giận (Rỗng). Trong tác
phẩm Tạ Duy Anh người ta nhiều khi vô tình gây nên tội ác mà không ý thức hết việc mà mình
đã làm, hoặc vì những lý do khó hiểu: một người yêu âm nhạc, có khả năng cảm nhận âm nhạc
gián tiếp gây ra cái chết của cô nhân viên trực tổng đài điện thoại chỉ vì lỗi không phải của cô
(Giai điệu đen). Người trong gia đình hãm hại lẫn nhau: Bà ngoại nhân vật “tôi” trong Vô ngôn
ngoại tình, lập mưu hãm hại người chồng để đưa chồng vào tù còn mình tự do đi theo một cuộc
tình mới. Ba anh em thông đồng nhau giết người bố đã quá ốm yếu vì tội lỗi của người bố này
trong quá khứ là đã giết mẹ của họ để tìm đến với người đàn bà khác, hay người chồng trong
Dưới đáy vực đang đêm từng bóp cổ vợ vì trong mơ người vợ nhắc đến một cái tên lạ nào đó.
Anh ta nhủ thầm: “Phải rạch lên khuôn mặt kia (khuôn mặt vợ mình) một nhát mới được và
trong đầu nghĩ ngay đến con dao cạo”. Nếu thống kê trong truyện ngắn Tạ Duy Anh thì mật độ
những kẻ thủ ác và những chuyện làm ác quá nhiều. Không giết người thì cũng mưu toan
chuyện giết người, hoặc chí ít có suy nghĩ về cái chết của người khác.
Nhiều người tỏ ra nghi ngờ giá trị nhân văn trong văn chương Tạ Duy Anh, bởi lẽ nhiệm
vụ của nhà văn chân chính là phải “đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”. Sứ mệnh
cao của văn chương là hướng con người tới Chân, Thiện, Mỹ. Không phải đến Tạ Duy Anh thì
nhân vật vô lương tàn nhẫn mới xuất hiện. Con người độc ác đã từng được các nhà văn bậc thầy
Banzac, Đoxtoiepxki mô tả, phân tích. Ở Việt Nam, nhà văn nổi tiếng viết về cái ác là Vũ
Trọng Phụng. Hòa Vang đã cố công nhận thức lại chính con người, bản chất người qua cuộc
tuyển “thiên sứ”. Những kết luận gây choáng váng được nhà văn đưa ra hết sức quyết liệt:
“Nhạt nhẽo là thuộc tính thứ nhất của con người. Gồng gánh suốt đời là thuộc tính thứ hai của
con người. Đau đớn thay, có thể ăn thịt người khi đói khát, cùng cực cũng là một thuộc tính của
con người…”[83]. Chỉ có điều, với phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa, các nhà văn
Banzac, Đoxtoiepxki đã miêu tả cái ác trong xã hội, cái ác khách quan được nhìn từ bên ngoài.
Còn trong sáng tác Tạ Duy Anh, tác giả không chỉ làm cho người đọc nhận thức được mặt trái,
hạn chế của con người mà con thể hiện dấu hiệu tự nhận thức trong văn học hiện nay.
Thực ra sự tồn tại của cái ác là một phần sự thật mà nhà văn có lương tâm không nên che
đậy người khác và huyễn hoặc bản thân mình. Nói như chính Tạ Duy Anh “Chúng ta không thể
chạy trốn cuộc đời và ngay chính cái chết cũng không giúp người ta trốn được nó một cách
tuyệt đối. Vì vậy, cần phải đối mặt và giải phẫu nó”[83]. Vì thế, viết về cái ác trong bản thân
con người chính là cách nhà văn chiếm lĩnh ở bề rộng và bề sâu của hiện thực đời sống. Cũng
cần phân biệt đối tượng mà nhà văn phản ánh và tư tưởng của nhà văn. Sự hiện diện của cái
xấu, cái ác trong tác phẩm vừa là phản ánh của hiện thực vừa là phản ứng đối với hiện thực.
Thực ra tái hiện cái ác cũng là hình thức chống lại cái ác. Văn chương Tạ Duy Anh nói nhiều
đến cái ác nhưng nhà văn lại là người tích cực chống lại cái ác dưới mọi hình thức. Chỉ có thể
làm được điều đó khi tìm ra chân tướng của cái ác và “Cái cách tôi tâm đắc nhất là mô tả kỹ
lưỡng, sống động về nó để mọi người dễ bề nhận ra. Cái đẹp chỉ biểu lộ rực rỡ nhất khi nó đối
lập với cái xấu” [34].
Tạ Duy Anh nói về cái ác một cách riết róng, triệt để, dấn sâu vào lý giải cái ác để người
ta ghê sợ, để lay thức cái thiện. Ông đã từng nói bản thân con người không thể loại bỏ được cái
ác ra khỏi đời sống nhưng cần phải nhận thức được bản chất của nó. Tạ Duy Anh tự đặt cho
mình sứ mệnh phải viết “để cho cái ác nếu không biến mất thì cũng vì những trang viết của tôi
mà mỗi ngày ít đi một chút, một chút như những hạt bụi”.
Thế giới nhân vật của Tạ Duy Anh vô cùng đa dạng và phong phú. Khi hiện thực đổ
bóng lên con người, nhân vật trở nên nguyên phiến một chiều. Tạ Duy Anh ít khi viết về những
mặt tích cực của hiện thực, của con người. Trong tác phẩm của ông là cả một thế giới rất nhiều
gương mặt méo mó, biến dạng, không ra người. Bộ mặt nhân vật ác quỷ luôn lẩn lút trong sáng
tác của Tạ Duy Anh, có khi không xuất hiện tạo thành cái ác chưa định hình. Nó chỉ được gọi
bằng những cái tên như “hắn, ông ta, lão già bóng tối…”. Bộ mặt ác quỷ ấy với những dã tâm
làm những điều xấu xa đã rình rập và bám gót con người, khiến cả thế giới như chìm vào mộng
mị, không lối thoát.
Chỉ trong một cái làng Đồng nho nhỏ mà nhan nhản những giống hại nhân, những thằng
ăn cháo đá bát, những thằng lừa thầy phản bạn, những thằng ngậm máu phun người, những kẻ
tàn hại cuộc sinh nhai của người khác, những thằng khẩu phật tâm xà… Thiên hạ thì “bát nháo
họa phúc thay nhau từng giờ” [5, tr 14]. “Bọn đâm thuê chém mướn nhiều như sâu bọ” [5, tr
170]. Đến mạng người và cuộc sống tinh thần của hàng ngàn kẻ ngu hèn vì tối tăm cũng chỉ độ
năm chỉ vàng chứ mấy. Thậm chí, “một chút vàng ấy thôi là con có thể giết bố, vợ có thể đầu
độc chồng, mẹ sẵn sàng chôn sống con, bạn bè phản nghịch nhau” [5, tr 78]. Đâu đâu cũng gặp
chuyện thủy khốc thần sầu. Xã hội cứ tràn lan, đầy ứ chuyện dữ dội và khủng khiếp.
Sống như vậy thì quả là đã mấp mé bên bờ vực của sự huỷ diệt. Tất cả các quan hệ đồng
loại từ quan hệ bạn bè, yêu đương đồng nghiệp đến quan hệ gia đình như vợ – chồng, cha –
con… đều bị biến dạng, tha hoá một cách khủng khiếp. Người với người trở nên lạnh lùng, tàn
nhẫn, nhiều khi thú tính lấn át tính người. Người ta đối với nhau không phải bằng tình nghĩa mà
bằng lợi nhuận và lừa lọc. Trò phản thầy, bạn bè phản nhau, em phản anh, vợ phản chồng, con
phản cha… bất chấp cả quỷ thần, luật pháp. Trong Vòng trầm luân trần gian, ông Hương có
cách trị người riêng. Đấu với ông chẳng khác nào “trứng chọi với đá” [1, tr 93]. Ngay kể cả
những tay rắn đầu nhất vừa qua bộ đội về cũng “chỉ vài tháng là biết mặt với ông” [1, tr 93]. Sở
trường của ông là gài bẫy để vu oan, đưa đối thủ vào tròng, lúc thì dùng “mỹ nhân kế” để vu
hãm hiếp, lúc lại dùng côn đồ để hành hung. Dần dần, ông tiêu diệt hết nhuệ khí của những kẻ
định vùng lên, dễ bề cùng bè phái vơ vét. Trong Lũ vịt trời, Hà – “Một đội thanh niên do ban
chỉ huy đội lập ra, chủ yếu dùng vào việc trả thù người dám đấu tranh. Nhẹ thì có cây, có con gì
họ triệt bằng hết. Nặng hơn hoặc tái phạm có thể đang tự dưng nhà động mồ động mả. Bếp,
chuồng lợn… cứ cháy đùng đùng mà chủ nhân đành chết cay chết đắng vì biết trước không thể
tìm ra thủ phạm” [1, tr 53]. Trong Tội tổ tông, lão Đình chỉ vì ăn một con lợn sữa mà bị tước
khỏi ghế chủ tịch. Có thể, những nhận thức của dân hạn hẹp đã đành, đằng này những vị tai to
mặt lớn cũng có câu trả lời xanh rờn. “Một đằng ăn lợn sữa, một đằng làm chủ tịch, ông chọn
lấy chứ” [2, tr 36].
Rồi còn biết bao nhân vật khác mải sắm vai đến nỗi đánh mất con người thật của mình
như Bùi Bằng Hữu (Dịch quỷ sứ), nhân vật “tôi” (Người khác)… Họ đều bị “tước mất tư cách
sinh vật người”, bị “đeo cái mặt nạ son phấn ấy và cố quên đi nó là mặt nạ giả” trong suốt cuộc
đời – đó là “nghiệt án”.
Càng ngày, sự băng hoại đạo đức con người càng làm các nhà văn hoang mang lo lắng.
Hồ Anh Thái thì rung chuông cảnh tỉnh ngày tận thế của cõi người, còn Tạ Duy Anh ráo riết
bày tỏ nỗi bất an khi nhìn thấy con người đang chao đảo, ngả nghiêng trên đôi bờ thiện – ác.
Liệu con người có tỉnh táo được chăng để vượt qua thử thách căng thẳng này khi cái thiện chưa
tiêu diệt được hoàn cảnh và vĩnh viễn cái ác? Khi ma quỷ cũng dự phần bất tử để làm mặt đối
lập trong thế giới này? Khi trong cuộc giao tranh ấy, “cái thiện đuổi theo cái ác, phía trước mặt
là một thảm cỏ, cái ác cứ dẫm bừa lên, còn cái thiện thì phải đi vòng tránh thảm cỏ vì không nỡ
làm dập cỏ xanh” (Dudixev). Khi xã hội hiện đại, đồng thời với văn minh là cái xấu xa, rác
rưởi, lòng người dễ bị dao động, thay đổi.
“Nghĩ rằng, văn học có thể làm cho trên thế giới này cái thiện thắng cái ác, đó là một ảo
tưởng. Nhưng văn học có thể góp phần giữ cái thiện ở thế cân bằng với cái ác, làm cho cái
thiện không bị chao đảo, nghiêng ngả, mất tự tin vào chính mình. Văn học không có khả năng
cải hoá cái ác cũng như cứu chữa những người bị bách hại, nhưng nó có thể ủng hộ, nâng đỡ
những người sống trong sạch, lương thiện, làm cho những người này không cảm thấy lẻ loi,
làm cho họ tin cách sống của mình là đúng… cầm bút và viết những dòng chữ về cái ác trên
mặt giấy tức là con người không còn bi quan nữa, tức là nhà văn tin rằng cái ác ít nhất cũng bị
vạch mặt” [35].
Cho nên Tạ Duy Anh không ngần ngại cho người đọc nhìn thẳng vào cái sự thật chát
chúa và tàn nhẫn. Ông mạnh dạn phơi bày tất cả những gì đáng kinh sợ nhất của con người và
bày tỏ ước vọng vào niềm tin hướng thiện. Dẫu biết rằng cuộc chiến chống lại cái ác không
tránh khỏi có lúc giống như cuộc chiến chống lại cối xay gió nhưng ông vẫn chống lại nó dưới
mọi hình thức, vạch trần chân tướng xấu xa của nó. Và ông tâm niệm: “Chúng ta không được
nản lòng ngay cả khi chẳng hi vọng gì, ngay cả khi thua thẳng cẳng” [5, tr 406]. Ông đã tìm về
cái ác để lay thức cái thiện, vì theo ông cái đẹp chỉ hiển lộ rực rỡ nhất khi đối lập nó với cái
xấu… Cái thiện có lui tạm thời, bị cái ác vượt qua nhưng nó vẫn ngầm sức mạnh để vượt lên
thắng thế. Bởi thế con người dù có xấu xa đến đâu thì ánh sáng của lương tâm vẫn có thể còn
rơi rớt lại, ánh sáng ấy làm cái ác có đôi lúc ngập ngừng chùn bước. Rồi có lúc ánh sáng ấy lại
bừng lên khiến con người phải tỉnh và nhìn nhận lại mình.
Nhân vật tha hóa mang theo tội lỗi tiền kiếp, cái ác có thể là bản chất, có thể do hoàn
cảnh đưa đẩy, có thể có của một thế lực hắc ám, thế lực của bóng tối… nhưng rõ ràng, Tạ Duy
Anh viết về mặt trái của cuộc đời để hướng tới mặt tốt, tươi sáng lung linh của cái thiện, cái
lương tri, của cái đẹp.
Như vậy, viết về sự tha hoá của con người nhà văn Tạ Duy Anh luôn tỏ ra lạnh lùng,
tỉnh táo. Sự phơi bày cái xấu, cái ác của ông nhiều khi thẳng thắn đến mức làm người đọc cảm
thấy e ngại. Tuy nhiên, khi làm việc ấy, nhà văn muốn ngầm gửi đi thông điệp: mong mỏi con
người hãy giữ gìn bản tính tốt đẹp của mình, hãy giúp cho con người thoát ra khỏi sự mông
muội, tăm tối, hãy giữ lấy nhân phẩm của mình và những người sống quanh mình trước sức
mạnh ghê gớm của đồng tiền cũng như lối sống sùng bái vật chất hiện thời.
2.2.2. Nhân vật kiếm tìm
Có thể nói rằng, kiếm tìm là một hoạt động mang tính chất đặc thù của con người. Nhờ
kiếm tìm, con người không dừng lại với đời sống cỏ cây mà luôn vươn đến những khát vọng,
hoài bão để ngày một hoàn thiện mình. Nếu các vĩ nhân đi kiếm tìm những điều lớn lao cho
nhân loại, để lại tên tuổi mình trong cõi nhân gian, thì những con người bình thường cũng luôn
theo đuổi những mục đích kiếm tìm của riêng mình, có khi đó là tình yêu, hạnh phúc song cũng
có khi là danh vọng tiền bạc…
Trong truyện ngắn Tạ Duy Anh, chúng ta có thể thấy rất nhiều những nhân vật kiếm tìm
như vậy, làm thành một hệ thống, với các thành phần, sắc thái đa dạng, và những mục tiêu khác
nhau. Kiếm tìm ý nghĩa tồn tại là cuộc hành trình vĩnh cửu của con người. Xuyên suốt nhiều tác
phẩm của Tạ Duy Anh có một nhân vật xưng “tôi”. Anh ta vừa là nạn nhân, là người “đã trải
nghiệm nỗi đau khổ của những cấm đoán phi lý và phi nhân tính” [9; tr 163], vừa là một đứa
con ngang ngạnh, “nổi loạn”, một “cái tôi” đang cựa quậy kiếm tìm con đường tự giải phóng.
Đúng như tên gọi của tác phẩm Bước qua lời nguyền, hai nhân vật chính cậu Tư và Quý
Anh đã gạt bỏ thù hận, vượt qua lời nguyền của thế hệ cha chú bằng tình yêu trong sáng. Nếu
Quý Anh khấn nguyện: “Cậu và tôi… và những mùa vàng rực nắng, chúng ta cùng là con đẻ
của một cuộc đời không hận thù” thì cậu Tư nhờ cánh diều tuổi thơ với tới bầu trời tự do: “Có
cái gì cứ cháy lên, cháy mãi trong tâm hồn chúng tôi. Sau này tôi hiểu đấy là khát vọng” [9, tr
67]. “Tôi hiểu rằng không ai đủ sức ngăn cấm được ước mơ. Tôi mơ tới một làng Đồng rồi đây
sẽ không còn tăm tối, đói khổ. Tôi mơ một đứa bé đẹp như thiên thần, ngước cặp mắt trong veo
hỏi tôi:
Cha ơi! Con là người phải không cha?” [9, tr 117].
Mang theo ước vọng tự giải thoát, các nhân vật “tôi” trong Bước qua lời nguyền, Truyền
thuyết viết lại… đã ra đi. Lựa chọn con đường ra đi không phải để chối bỏ quê hương mà vì
ngột ngạt trước cuộc sống bị cầm tù bởi thù hận, họ khát khao được giải phóng, họ đi tìm sức
mạnh để “sẽ quay lại giải hạn cho làng Đồng”. Họ mang theo câu hỏi nhức nhối: “Quá khứ ố
vàng, mối mọt liệu bao giờ mới được hong khô?”
Mỗi nhân vật ra đi để bắt đầu một cuộc kiếm tìm. Họ là những con người mang hy vọng
sống mãnh liệt. Trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật đi tìm cái Đẹp như ý nghĩa cao
quý nhất của cuộc đời. Bao nhiêu nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp đã chạy theo những giấc
mơ, những huyền thoại đẹp đẽ. Họ ra đi vì không hoà mình được vào cuộc sống trì trệ, mòn
mỏi; họ tìm kiếm những điều “thanh cao hoang tưởng” để bù đắp, khoả lấp sự trống vắng, thiếu
hụt trong đời sống cùng khốn thực tại.
Hành trình đi tìm của các nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh thường là hành trình tìm
về quá khứ. Nhiều nhân vật tìm về gốc gác của mình vì hoài nghi những “sự thật có sẵn”.
Thường họ tìm đến và lắng nghe câu chuyện kể của các lão làng (ví dụ: lão Vọ, lão Mị trong
Luân hồi, lão Đình trong Làng nhỏ thanh bình, Tội tổ tông…) để biết rõ nguồn cội và đi đến
sự thật cuối cùng về bản thân.
Nhân vật “tôi” trong truyện ngắn Vô ngôn sau cái chết của người mẹ đã quyết định tìm
về quê ngoại. Qua lời kể của lão quản trang và bà cụ – “bộ sử sống của làng”, tấm màn bí mật
được dần kéo lên. Nhân vật nhận ra quá khứ của mẹ không phải như những ghi chép giả dối
trong gia phả của ông trưởng tộc. Đó là quá khứ cay đắng, xấu xa, đầy nước mắt: “Dường như
tôi chẳng còn muốn biết thêm gì nữa. Có những bí mật của quá khứ nên giữ mãi là bí mật. Ôi
quê ngoại, người nhân hậu hay tàn nhẫn. Tôi thấy chua chát cho chính sự hăm hở của mình.
Bao nhiêu dịu ngọt tôi uống suốt thời thơ bé nhờ trí tưởng tượng, ai dè lại đắng đót đến nhường
này” [1, tr 106]. “Dường như những gì tôi vừa trải qua là một trò chơi đầy bí ẩn của kẻ có
quyền phán xét nó” [1, tr 107]. Từ câu chuyện lòng vòng trái ngược của quá khứ, nhân vật ý
thức rõ hơn về cuộc sống hiện tại của bản thân mình: sự có mặt của “tôi” ở trên đời, người vợ
hiền dịu, hai đứa con đẹp như tranh vẽ – “xét trên toàn cục, đó là một cuộc sắp đặp ngoạn mục,
hữu tình và có hậu”. Chính trên hành trình lội ngược về quá khứ, nhân vật mới tìm thấy ý nghĩa
đích thực của cuộc sống hiện tại của mình: cuộc sống của một nhân vật độc lập, tự xác định giá
trị bằng cách khước từ những huyền thoại giả dối…
Theo con đường trở lại ngày xưa của chàng trai trong Lãng du, người đọc được chứng
kiến sự đối lập giữa những gì còn in lại trong ký ức nhân vật và thực tại cách xa quá khứ ba
mươi năm. “Những thơ mộng, dịu dàng, mê đắm… vẫn hoàn toàn vắng bóng, thay vào đó là sự
cằn cỗi, hoang tàn, xấu xí. Xấu xí đến phát điên lên được” [1, tr 376]. Càng đi tìm, anh càng
thấy lo lắng, hoang mang, thiếu tự tin. Anh bị đánh cắp hết sạch, cứ đi mãi mà chẳng đến nơi
cần tìm. “Vẫn mất hút bóng dáng những thứ hiển hiện trong ký ức”, cái thiên đường ngày xưa
biến đâu mất, những hình ảnh đẹp như tranh vẽ mà anh đã mô tả say sưa cũng không còn. Rút
cuộc thì chẳng cứ miền đất nào nhưng anh vẫn tưởng đến hay anh đang lầm lẫn về mặt không
gian? Anh đã lạc đường một cách trầm trọng hay đang bị một thế lực vô hình chơi xỏ? “Đau
đớn. Nuối tiếc. Nhục nhã. Uất hận…” ngần ấy cảm giác không đủ để diễn tả tâm trạng nhân vật
trên cuộc hành trình đi tìm cái thị trấn thời thơ ấu. Tất cả là do: “ở anh thường trực nỗi hổ thẹn
của một người không thể chối bỏ sự tồn tại cả khi nó đang chối bỏ… điều chỉ có ở những trái
tim lớn luôn khao khát sự thanh sạch” [1, tr 394].
Vẻ ngoài như hoá đá nhưng bên trong nhân vật đang sôi sục, réo gào một khát vọng tự
xác lập bản thể cá nhân, chối bỏ “mặc định” của đám đông về mình. Anh ta đã gặp những
“người khác” trong chính mình. Tác giả cuốn Văn học hậu hiện đại - Những vấn đề lý thuyết
nhận định: “Khái niệm Người khác trong con người hay thái độ của bản thân nó đấu tranh với
cái khác lạ trong chính nó. Cái kẻ khác mà con người không tìm thấy trong chính bản thân
mình, cái kẻ khác mà sự hiện diện của nó trong vô thức làm cho con người không đồng nhất với
chính bản thân mình. Đồng thời tính chất “bí ẩn”, “vô thức” của con người khác đó đặt con
người ta mấp mé giới hạn, hoặc thường là nhân vật vượt khỏi những giới hạn “chuẩn mực tâm
lý, xã hội, đạo đức – những cái cung cấp cơ sở cứ khiến anh ta bị nhìn nhận như một kẻ điên
khùng, rồ dại” [17, tr 53]. Triền miên trong dòng “ý thức khốn khổ” nhân vật cố tìm cái bản thể
nguyên sơ, toàn vẹn. Những câu hỏi “Tôi là ai?”, “Tôi có được quyết định sự sống của mình
hay không?”… chính là nhu cầu tự vấn của con người có ý thức về mình. Phải làm thế nào để
trong một khoảng thời gian ngắn ngủi của đời người, chúng ta có thể vừa “sống với đời
thường” vừa “cùng với ước mơ phía trước” (Lưu Quang Vũ)? Các vấn đề đặt ra trong sáng tác
của Tạ Duy Anh cũng như nhiều nhà nhân văn chủ nghĩa cùng thời tiếp tục kích thích tinh thần
đối thoại, ý thức tự vấn ở mỗi độc giả.
Nhà văn có mong muốn nhìn thẳng vào lịch sử để nói thật, để lý giải những số phận
“lệch pha”, “trái chiều” với lịch sử. Nhân vật trở thành phương tiện để nhìn nhận lại lịch sử và
nhiều vấn đề trong đời sống con người, nhiều tác phẩm của Tạ Duy Anh đều lật lại những sai
lầm của cải cách ruộng đất, nhưng nhấn vào cái tính duyên cớ mà từ nó nuôi dưỡng dằng dai
niềm thù hận. Nhà văn phản đối mãnh liệt sự kéo dài của thù hận hết thời nay sang thời khác,
đời nay sang đời khác như sự kéo dài quán tính của một viên thuốc tròn độc hại trên đường
chạy không ma sát. Sự phản đối mạnh mẽ nhất, kẻ thù của niềm thù hận không có gì khác là
tình yêu.
Ngay từ truyện đầu tay, nhà văn đã muốn phá trói những ràng buộc của một truyền thống
lạc hậu trong lối sống. Sự thù hận làm mù trái tim con người, ngăn cản tình yêu. Thế hệ trẻ đòi
được nói lên những khát vọng chính đáng của mình, khát vọng của một thời đã hết chiến tranh,
những lỗi lầm lớn nhất, những bi kịch đau đớn nhất đều là trò chơi của lịch sử, nên cần phải
loại bỏ cái rào chắn ấy của tầm mắt con người để hướng về một cuộc sống tốt đẹp, rộng mở
hơn.
“… Chưa bao giờ tôi căm ghét đồng loại đến thế. Nửa đêm tôi lẻn dậy trốn khỏi nhà
cùng với cây vồ sàn bằng gỗ lim. Đây rồi, sự ngu ngốc, thói dởm đời, lòng thù hận, đều vì
những cây nấm độc này. Tôi đập nát tất cả bảy chiếc miếu thờ để suốt đêm ấy ngồi khóc âm
thầm như kẻ bị ruồng bỏ”.
Bây giờ các vị đã nằm cả đây, nơi trước kia chỉ là cái gò con ngựa. Bỗng dưng tôi cảm
thấy cô đơn. Đời người thật ngắn ngủi. Đôi khi có cảm giác người ta chưa kịp để lại gì cho trần
thế, đã mất hút trong sự lãng quên khắc nghiệt. Không biết ở dưới mồ có vị nào chưa yên giấc?
Tôi tha thứ cho các người. Bởi vì ngày ấy cũng đã mười năm. Mười năm đủ cho tôi thấm nỗi
đau của cả mấy thế hệ mà số phận bị nhào nặn bằng một bàn tay phàm tục.
Giờ đây giữa sự hoang lạnh của khu nghĩa địa, tôi lại nhớ đến cái đêm khủng khiếp ấy.
Tất cả các vị đang nằm ở đây đều có mặt để xét xử chúng tôi. Đêm ấy không có trăng nhưng
đầy sao và hương thơm của nàng toả ra từ đất. Lần đầu tiên trong đời, trái tim tôi nóng như
hòn than cháy ngùn ngụt trong ngực, khi tôi biết cảm nhận sự kỳ diệu của da thịt… Tôi và Quý
Anh, hai kẻ trong trắng như nhau, tội lỗi như nhau đã bước qua lời nguyền, đã ân xá cho nhau
trong sự chứng kiến của các thiên thần. Và đêm ấy các vị đã bọc chặt chúng tôi bằng giáo,
mác, bằng nỗi căm ghét phi lý. Dưới ánh đuốc các vị có thể thấy rõ dù chết chúng tôi cũng
không rời nhau…” [4, tr 79 – 80].
Đoạn văn trên làm người ta liên tưởng đến cái không khí khải huyền trước ngày Chúa
cứu thế. Những tiếng nói mạnh dạn, nồng nhiệt còn có phần bồng bột thách thức lại cả một quá
khứ u tối trong thù hận. Như để rung thêm một hồi chuồng thức tỉnh con người rơi vào cái vòng
luẩn quẩn u tối của niềm thù hận, xoáy sâu hơn vào tính vô nghĩa của nó, Tạ Duy Anh không
thoả mãn chỉ với Bước qua lời nguyền, cần phải viết thêm, cần phải viết nữa, viết cho đau đớn
và riết róng hơn. Thế nên, gần như ta gặp lại tình yêu giữa Quý Anh và cậu Tư là sự chống đối
với quá khứ đầy thù hận ở người con gái vẫn là lòng chung thuỷ chờ đợi, ở người con trai là
hành động bỏ nhà ra đi, phản ánh lại cả một thể chế xã hội và những cố chấp đã ăn sâu trở
thành căn cốt trong con người.
Trong truyện ngắn Người thắng trận Tạ Duy Anh cũng muốn nhắn gửi một điều còn lại
với thời gian không phải là “người thắng trận”… Trái tim nhạy cảm, nhân hậu của Đoan Trang
không chịu đựng nổi sự thảm khốc trong trận đấu. Nàng chết để “người thắng trận” đau khổ
tuyệt vọng bởi suốt đời không có được “báu vật Đoan Trang”, mà vì nó đã phải thắng đối
phương bằng mọi giá. Sau này, một viên tướng của Nguyễn Huệ trên đường thắng trận trở về
Thăng Long, dừng lại bên giếng nước. Nghe dân làng kể về cái chết của Đoan Trang, mặt viên
tướng của Nguyễn Huệ trầm tư… chỉ có nước trong cái giếng mà Đoan Trang trẫm mình mới
giặt sạch được chiếc khăn đẫm máu của viên tướng… Người đời nhớ mãi Đoan Trang, lập miếu
thờ nàng. Ngôi miếu thờ “trải bao thăng trầm vẫn thâm nghiêm giữa trời đất và trở thành biểu
tượng cho sự minh triết của dân gian”… Đây cũng là hy vọng của con người từ ngàn đời, song
lịch sử cứ lặp lại. “Ít lâu sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, người ta hỏi một nhà chính trị
thông thái: Cuộc chém giết có lặp lại không? Nếu lặp lại thì khi nào sẽ lặp lại? Ông trả lời:
Đến khi nào một thế hệ mới sẽ lớn lên mà không nhớ lại những khủng khiếp của chiến tranh
trước đó. Quá khứ nhất định quay trở lại với những kẻ quên quá khứ” [23]. Dấu ấn vẫn đang
nhức nhối trong ký ức những con người trải một đời, một phần đẹp nhất qua chiến tranh đã
gióng lên hồi chuông nhắc nhở: Xin hãy đừng quên và không được quên quá khứ, kể cả quá
khứ oai hùng và quá khứ đau thương, cả những vinh quang và cay đắng…
Những trang viết theo một phong cách khách quan khi tái hiện chiến tranh gắn với thân
phận tình yêu, hành trình lý giải bản chất con người trên mọi phương diện và mọi hoàn cảnh.
Chỉ để đặt thế giới vào đúng vị trí của nó ở không gian đa chiều, để con người xoá đi cái nhìn
phiến diện, để con người có ý thức “thức nhận lại” mọi vấn đề.
Các nhân vật kiếm tìm trong truyện ngắn của Tạ Duy Anh hầu hết đều là những con
người ra đi: Bước qua lời nguyền, Luân hồi, Truyền thuyết viết lại, Vô ngôn, Lãng du, Tội tổ
tông, Làng nhỏ thanh bình… Họ ra đi là để thực hiện những khát khao vươn tới những điều
lớn lao đẹp đẽ hoặc chí ít cũng là để tìm kiếm những điều mà bản thân họ chưa từng có trong
đời. Viết về những con người kiếm tìm, ngòi bút Tạ Duy Anh thường toát lên sự đồng tình, trân
trọng. Trong nhiều tác phẩm, các nhân vật kiếm tìm thường xưng “tôi”. Phải chăng đó chính là
sự hoá thân của tác giả trên hành trình kiếm tìm. Cuộc hành trình ấy không chỉ mang ý nghĩa cá
nhân mà nó là những cuộc kiếm tìm hướng về cái đẹp, cái cao cả trong cuộc đời này.
2.2.3. Nhân vật cô đơn
Bên cạnh những nhân vật tha hoá xuất hiện nhan nhản trong rất nhiều truyện ngắn của Tạ
Duy Anh, những nhân vật kiếm tìm hạnh phúc tình yêu, người đọc còn tìm thấy rất nhiều
những nhân vật cô đơn.
Họ cô đơn bởi nhiều lí do và một trong những lí do quan trọng nhất là vì họ quá khác biệt
so với thế giới xung quanh. Sự khác biệt đó biểu hiện ở hầu hết mọi phương diện: từ ngoại
hình, tính cách, phẩm chất, nhận thức, đến tư tưởng và quan niệm sống. Cô đơn cũng là nỗi ám
ảnh, nhức nhối trên mỗi trang viết của nhà văn Việt Nam họ Tạ này. Cô đơn không chỉ là âm
hưởng toát lên từ mỗi số phận nhân vật mà còn in dấu sâu đậm chính con người tác giả.
Như đã nói, Tạ Duy Anh là một cái tôi cô độc. Sự cô độc hình thành từ nhiều yếu tố gia
đình, quê hương và thời đại. Cô độc trong quá khứ, cô độc trong cả hiện tại. Mỗi khi cầm bút là
mỗi lần ông “sống trong tâm trạng của một người côi cút”. Một nhân vật độc giả trong tác phẩm
của ông đã thốt lên: “… Rất có thể chính tiên sinh là một khối cô đơn khủng khiếp và ông thiên
về những cảm hứng thê thảm chăng” [1, tr 364]. Ông ngưỡng mộ Đostoievxki và Nam Cao bởi
“họ dám và có đủ tài để sáng tác trong cô độc, họ không cần được đương thời chiếu cố và đều
chọn khổ đau thay vì hạnh phúc” [9, tr 156]. Ông quan niệm cô đơn là định mệnh và cũng là
yếu tính của các nhà văn hiện đại. Danh chức, danh phận của người nghệ sĩ nhiều khi đòi hỏi
nhà văn phiêu lưu với chính cuộc đời mình. Anh không thể lựa chọn cho đám đông, chạy theo
thị hiếu và thoả hiệp với nhu cầu vuốt ve ở họ. Và cô đơn là bi kịch là tất yếu của con đường
sáng tạo.
Đọc tác phẩm Tạ Duy Anh, bên cạnh ám ảnh bị săn đuổi, bị kết án là những ám ảnh
thường trực về nỗi cô đơn của con người. Mỗi thành viên trong Luân hồi là một ốc đảo riêng
biệt lạnh lùng, không đồng cảm, không chia sẻ: “Ròng rã ba tháng trời, bà nội tôi, cha tôi, mẹ
tôi và tôi trở thành những vai diễn nhàm tẻ trong một màn kịch câm khủng khiếp” [9, tr 194].
“Cha tôi tự chôn sống mình trong một không gian giống như nấm mồ”. “Bà nội tôi suốt mùa
mưa hầu như không mở miệng… Bà chỉ có mỗi việc đu đưa chân phải khi chân trái co lên và
ngược lại”. “Mẹ tôi tìm cách giết những con bọ chó nhảy lách tách khắp nơi”. “Tóm lại toàn bộ
cuộc đối thoại của chúng tôi qua nhiều ngày cộng lại chỉ gồm:
Bà tôi: đu đưa chân phải khi chân trái co lên.
Bố tôi: vặn vẹo phần từ vai trở xuống.
Mẹ tôi: đùa với bọ chó và nhìn mưa thở dài.
Tôi: mơ một thiếu nữ”. [9, tr 195 – 196].
Các nhân vật dường như sống trọn đời với nỗi cô đơn.
Dường như cái tên của truyện ngắn Luân hồi gắn với những thân phận cô đơn có từ kiếp
trước và còn kéo dài triền miên ở kiếp sau. Đi hết cuộc đời mà nhân vật vẫn không đủ tuổi để
sống với nỗi cơ đơn.
Trạng thái cô đơn thường biểu hiện sự trống trải trong tâm hồn. Bao nhiêu nhân vật đã
phải thốt lên trong nỗi cô đơn ngàn đời vây bủa. Đó là “tôi” trong Bước qua lời nguyền: “Bỗng
dưng tôi cảm thấy cô đơn”; là chú Hổ trong Vòng trầm luân trần gian: “Tôi cô đơn. Tôi muốn
thoát khỏi cuộc đời này”. Đó là cuộc đối thoại im lặng trong nỗi cô đơn kéo dài dằng dặc giữa
ông Nhị và người vợ trẻ hay buồn trong Chuyện không có chủ đề. Cho đến phút chót cuộc đời
được sống bên nhau, họ vẫn là những khối cô đơn đầy bí ẩn.
Kiểu nhân vật cô đơn gắn liền với cảm thức của nhà văn về con người thân phận: con
người nhỏ bé, đầy lo âu và bị lưu đày. Nhiều khi nhân vật hiện lên như một hữu thể bất lực
trong thế giới câm lặng tuyệt đối như bãi sa mạc mênh mông. Lão Nhị trong Chuyện không có
chủ đề mang một tâm hồn trĩu nặng nỗi ưu tư cô độc. Hàng ngàn đêm trôi qua, lão bị bỏ lại
trong căn nhà hoang vắng. Cái án mà lão đang mang chính là sự cô đơn. Hình ảnh người vợ
chết trẻ của lão cũng để lại một ám ảnh kinh sợ “nàng hoàn toàn mãn nguyện trong nỗi cô đơn
khủng khiếp” [1, tr 372].
Trong một số tác phẩm, nhân vật của Tạ Duy Anh dường như không có thời gian quá
khứ (ta không biết quá khứ của nhân vật ra sao hoặc nếu có thì quá khứ đó cũng rất lờ mờ).
Nhân vật càng không có thời gian cho tương lai (đó là một khái niệm không có trong ý thức của
nhân vật), chỉ có thời gian hiện tại, lúc nhân vật xuất hiện, xong đó là quãng thời gian đằng
đẵng một khối cô đơn khổng lồ. Cô đơn như một hình phạt, cô đơn như một tiền định. Cuộc đời
làm người của lão Mị trong Luân hồi chỉ được miêu tả trong khoảnh khắc của tiếng hú nhưng
dường như trong khoảnh khắc ấy, nhân vật đã sống cả đời người. “Lão quay bốn phương tám
hướng và tru lên như một con sói già của thuở khai thiên lập địa, trước khi từ giã đồng loại.
Tiếng hú chín tầng trời, vừa hùng tráng, vừa thê thảm. Tôi cảm thấy như đang nghe tiếng vọng
của cả một thời xa xưa, của tiền kiếp, của những số phận quằn quại ra đời trong vực thẳm âm u
của thời gian” [9, tr 198]. Tiếng hú vừa là thế giới riêng chất chứa những ám ảnh, vừa là
phương thức đối thoại đặc thù của nhân vật khi đột nhiên sau nửa đời sống cô độc có người đến
gần và cất tiếng chào lão. Mặt khác, nó tô đậm đặc trưng số phận của nhân vật: bơ vơ, cô độc,
xa lạ với tất cả. Nhân vật co mình lại, khép kín và sống trọn vẹn với sự cô độc.
Trong nỗi ám ảnh về nỗi cô đơn của kiếp người, Tạ Duy Anh dành sự chú ý đặc biệt cho
những người phụ nữ. Họ đẹp như những nhân vật nữ của truyền thuyết, giữa bao định kiến hận
thù, thù hận và hẹp hòi, họ là hiện thân của cái đẹp lạc loài. Chị Thư trong Truyền thuyết viết
lại gợi nhớ đến những nàng tiên trong chuyện cổ tích nhưng với số đông, “chị đã gợi dậy trong
ký ức làng Đồng nỗi kinh hoàng về một hiểm hoạ do một người đàn bà đẹp gây ra” [10, tr 179].
Người ta trút lên chị một nỗi hằn học vô cớ. Người ta hắt hủi chị như là “sự chối bỏ một điều vô
phúc từng xảy ra ở làng Đồng”. Chị cô đơn ngay giữa cộng đồng làng xóm. Chị lạc lõng với cái
nhan sắc lộng lẫy giữa những người đen đủi tật nguyền. “Quanh năm chị chỉ biết vụng trộm với
bọn trẻ” và nỗi cô đơn thấm đẫm trong những bài hát khe khẽ, buồn thảm thiết của chị.
Chị Thư không phải là trường hợp duy nhất bị ruồng bỏ bởi chính sắc đẹp của mình. Biết
bao nhiêu thảm cảnh chia lìa còn được kể lại như những lời đàm tiếu, dồn thổi. Quý Anh, Quý
Hương trong Bước qua lời nguyền là những tiên đồng lạc loài giữa thế giới hận thù, tăm tối.
Xây dựng nhân vật những bé gái và người phụ nữ như trên, Tạ Duy Anh đặt ra vấn đề số phận
của cái Đẹp. Tại sao họ lại thù nghịch với xóm làng? Tại sao họ lại phải chịu một kết cục đau
buồn, bị dập vùi, thậm chí bị huỷ diệt? Sự thật phũ phàng là: trong cuộc sống ngu muội, tăm
tối, cái Đẹp sẽ bị chối bỏ, cái Đẹp bị trơ trọi, cô đơn, lạc loài. Ở phương diện này, nhân vật phụ
nữ trong sáng tác Tạ Duy Anh vừa có ý nghĩa như những cái bóng hắt chiếu lại quá khứ kinh
hoàng vừa nổi bật ở khả năng cứu chuộc và tha thứ. Vẻ đẹp của họ thách thức những lời nguyền
độc ác và sự cô đơn, lạc loài của họ như cứu chuộc mọi tội lỗi ngu muội.
Có những người phụ nữ không tên, mang gương mặt đàn bà của chiến tranh. Nỗi cô đơn
của họ là những khát khao, ham muốn thầm kín phải cố nén. “Chiến tranh làm gì có sự thanh
bình”. Tuổi xuân qua đi, những đêm thâu hờ hững không tình ái. Dội vào nỗi buồn tủi của họ là
tiếng bánh xe đều đều và lời hát bập bõm, gãy khúc của gã thọt:
Thời gian trôi đi
Mang bóng dáng đông qua xuân về
Và nỗi nhớ anh chưa trở về…
Lộc cộc… lộc cộc… lộc cộc…
… Ở nơi xa ấy
Em vẫn sống yên vui thanh bình
Và luôn ước có anh bên mình
Lộc cộc… lộc cộc… lộc cộc…
Lời hát buồn thảm thiết, nó “đang khuấy động, đổ dông bão vào những cuộc đời phải
chôn đi mùa xuân của mình vì chiến tranh”. Những tiếng nấc nghẹn nén sâu trong lồng ngực
đọng lại nỗi buồn tủi, cô độc. Nó kết tụ lại nỗi tủi hờn, câm lặng của người đàn bà tuổi ba lăm
có tên là chị Túc trong truyện ngắn Xưa kia chị đẹp nhất làng. Không mấy ai còn nhớ “xưa
kia chị Túc xinh đẹp và tài đảm nhất làng”. Không còn những lời trầm trồ ngợi khen “Em là cô
Tấm trong phép màu chứ không phải là người trần mắt thịt!” [9, tr 32]. Hình ảnh hiện tại của
chị là “một thân phận héo mòn, cô đơn”, “âm thầm như một con vạc lẻ đàn”. Mênh mang trong
tác phẩm là âm hưởng ngậm ngùi thương cảm: “Chị chờ ai, chờ cái gì và điều đó đem lại cái
gì”. Cái điệp khúc bi tráng: “Ngày nào đó…” càng viền nổi gương mặt nàng Vọng phu hiện đại,
hoá đá cả sự chờ đợi và nỗi buồn cô đơn.
Vậy con người cô đơn vì đâu?
Khắc họa tâm trạng cô đơn, cảm giác lạc thời và lạc loài, tác phẩm Tạ Duy Anh muốn
đặt vấn đề tự tra vấn của con người hiện đại. Vì sao con người cảm thấy cô đơn trong cộng
đồng xã hội mà mình đang chung sống? Vì sao nó không thể tìm được sự đồng cảm, sẻ chia?
Và đây là một câu trả lời: cô đơn như một tiền định (có thể thấy rõ các nhân vật trong Luân hồi
đều là hiện thân của nỗi cô đơn bản thể, nỗi cô đơn định mệnh, bám đuổi mọi kiếp người từ khi
sinh ra đến lúc chết đi). Cô đơn như một hình phạt, cô đơn là cái án không có nguyên do, đơn
giản họ là con người (nhân vật trong Chuyện không có chủ đề). Cô đơn vì lạc lõng, lạc loài
(những nhân vật người phụ nữ). Và một câu trả lời khác: Cô đơn như một chọn lựa có ý thức.
Cô đơn vì tôi dám là tôi, tôi tự quyết, tự chọn mình, chứ không phải là đám đông nhiễu loạn, là
dân làng Đồng. Nói như Trần Thái Đỉnh: “Một khi đã ý thức sâu xa về tính chất độc đáo hiện
sinh của mình, con người tự cảm thấy cô đơn. Chính tôi sẽ chết cái chết của tôi, không ai giúp
tôi được. Vậy thì cũng chính tôi phải sống cuộc sống độc đáo của tôi, đừng để người ta sống
mất cuộc sống đó, nghĩa là tôi đừng sống theo đuôi “người ta”. Khi nào tôi đảm nhiệm lấy cô
đơn, đó chính là lúc tôi dám làm người có nhân vị độc đáo; khi đó tôi sẽ dám phát huy tất cả
những khả năng riêng biệt của tôi theo những đường lối chỉ tôi có, nên chỉ mình tôi biết phải
khai thác thế nào để có thể đạt tới mức toàn diện” [27, tr 55]. Ở các nhân vật ra đi và kiếm tìm
của Tạ Duy Anh đều ít nhiều có cái ý thức này.
Có một người đàn ông xưng “tôi” thường xuyên xuất hiện chứng kiến mọi sự đơn độc,
đau khổ của những người phụ nữ như chị Thư, Quý Anh, chị Túc… Đó là người dám chống lại
cả làng Đồng, bước qua lời nguyền, “băng qua ngàn năm để viết lại một truyền thuyết”. Nhưng
“tôi” cũng là người cô độc. Bên cạnh gương mặt người phụ nữ đẹp, lạc lõng và yếu đuối, lặp đi
lặp lại hình ảnh một chàng trai với những bước chân cô độc: “tôi lặng lẽ bước, nghe tiếng chân
mình cô độc trên con đường trải đầy lá rụng” [9, tr 175], “vào sáng ấy khi còn lại một mình với
những bước chân cô độc, tôi đã khóc thưởng thức” [9, tr 189], “tôi bước vội đi, lòng tan nát và
cay đắng đến cùng cực… Trong phút chốc tôi cảm thấy mình bị bỏ côi cút giữa cuộc đời đen
bạc” [9, tr 191], “tự dưng tôi cảm thấy mình bị rơi đến đáy của nỗi cô đơn” [3, tr 63]…
Với nhân vật này thì cô đơn, bản chất của nó là khao khát cái đẹp. Và như vậy, cô đơn
không chỉ là bi kịch mà còn là một nét đẹp của con người trên quá trình tự hoàn thiện. Các
nhân vật biết là cô đơn, biết là đơn độc nhưng vẫn không thôi ước ao, kiếm tìm. Trạng thái cô
đơn là trạng thái thích hợp nhất để con người ngắm nhìn, chiêm nghiệm lại của chính mình. Có
những phút giây bừng tỉnh, có những khoảnh khắc loé sáng trong tâm thức. Nhiều khi con
người chịu cô đơn để bảo toàn niềm tin và khát vọng của mình. Ở ý nghĩa này, thì dù con
đường kiếm tìm chân lý không có tận cùng nhưng cuộc sống đã mang ý nghĩa tốt đẹp.
Bên cạnh nỗi cô đơn thì con người cũng đầy lo âu, sợ hãi, đơn giản vì là con người. Con
người đảm nhiệm “thân phận đau khổ của nó”. Và lo âu, sợ hãi trở thành trung tâm của ý thức
về thân phận con người, thành những ám ảnh của các nhân vật văn chương. Có thể nói, nỗi sợ
bị săn đuổi là ám ảnh nổi bật của nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh. Vô vàn những nỗi
sợ luôn treo lơ lửng trên đầu nhân vật. Đọc Tạ Duy Anh, ta có thể gọi nhân vật bằng những tâm
lí ám ảnh sợ hãi. Trong truyện ngắn Ngôi nhà của cha tôi, nhân vật luôn bị ám ảnh về một
“hình nộm cha với dải băng đen bịt đen qua mắt”, về “những lỗ nhỏ đen xì trổ ra khắp nơi luôn
luôn ám ảnh tôi suốt thời thơ bé”. Với Vinh (Dưới đáy vực) nỗi ám ảnh còn khủng khiếp hơn
cả ám ảnh về cái chết; nỗi sợ bị bỏ sót dưới đáy vực đá. Ở lão Quán (Gã thọt) là cái ám ảnh về
cái chân dị thường hồi thơ bé và sau này, “gã vật vã sống với nhưng cơn ác mộng triền miên, từ
dạo bị ám ảnh bởi những người lính trở về”.
Ám ảnh thường trực trong tác phẩm Tạ Duy Anh là những mặc cảm về quá khứ đeo
đẳng, giày vò. Đó là thời con người bị cứng đờ vì thiên kiến, ngu muội đi vì thù hận, vầy vật
nhau trong các vụ quy kết, các cuộc đấu tố triền miên. Sống đã tăm tối, ngột ngạt vậy mà họ
“vẫn hẹn nhau xuống mồ” để đấu đá tiếp. Một lão Mịch “tím tái hết chân tay đấy nhưng còn hỏi
con luôn mồn thằng ấy, thằng nọ có vác mặt đến không thì lót lá dắt tay ra ngõ hộ” [9, tr 56].
Một ông bố mười năm mới ngồi nói chuyện lại được với con nhưng vẫn không ngừng tra xét,
gieo cấy hận thù: “Thằng nào bôi đen lý lịch của nhà mình? Thằng nào lệnh mang cứt đổ vào
cửa nhà anh… đập bàn thờ nhà anh?” [9, tr 85]. Dường như ý nghĩa đời sống của con người là
“đòi nợ”, là “còn chờ tính sổ nốt thằng ấy, có chết mới hả” [9, tr 214]. Con người bị cầm tù
trong các vòng lẩn quẩn, phi nhân tính “đời nọ làm tội đời kia, người này làm tội người khác…
tạo thành cái vòng trầm luân trên trần gian” [9, tr 97].
Tạ Duy Anh còn đi sâu nắm bắt và tái hiện thực trạng nông thôn những năm cải cách
ruộng đất. Đó là không khí căng thẳng, ngột ngạt đầy đe dọa của các vụ quy kết, đấu tố kinh
hoàng. Ám ảnh suốt thời thơ bé của nhân vật “tôi” trong Hóa kiếp là cảnh “Bố tôi vừa bị quy
Quốc dân đảng, bị trói ngồi xổm, cúi gằm mặt để tránh cơn phẫn nộ vẫn không thoát khỏi cái
đạp chân vào ngực ngã bật ngửa ra đất”.
Điển hình cho một nỗi sợ bị săn đuổi là nhân vật người cha trong truyện ngắn Một câu
chuyện cười. Ông luôn cảm thấy một thời hạn lưu đày sắp tới: “vừa mong ngóng chờ đợi, vừa
lo sợ điều chờ đợi ấy sẽ đến” [10, tr 412]. Ông thường dậy sớm, mũ áo chỉnh tề, vừa uống hớp
nước trà vừa ngóng ra cửa, tưởng như chỉ chờ một tiếng huýt sáo là ra đi”, Chính vì thế “suốt
ngần ấy năm ông không hề đi đâu để phải ngủ đêm ở một nơi nào khác”. Sự chờ đợi bất thường
của người cha đã gây nên những ám ảnh ghê gớm trong đứa con, nhân vật “tôi” chờ đợi một
cơn lốc hay một trận động đất cuốn phăng đi sự tẻ nhạt. “Tôi” cảm nhận mơ hồ về thời gian còn
người cha dường như mất hẳn ý thức về thời gian. Những năm tháng buồn tẻ kinh khủng, cảnh
vật xung quanh nhuốm màu thê lương. Một mùi ẩm mốc bao trùm, hai cây na già “lưng gập
xuống, oằn mình chèo chống với gánh nặng tuổi tác”, “tiếng côn trùng mệt lử, thoi thóp, rên
rỉ”… Tất cả thế giới tàn lụi, già cỗi, bị đóng kín gợi lên một cảm giác bị bất an, một cảm giác bị
trừng phạt.
Đặc biệt là những nhân vật vì một mối liên hệ với quá khứ lịch sử mà sống trong tâm
trạng lo âu chờ đợi hình phạt luôn làm nhân vật người cha. Người cha trong Luân hồi cứ phải
nhớ lại hình ảnh thê thảm nào đó mà ông không sao xóa đi được. Ông “tự chôn sống mình trong
một không gian giống như nấm mồ… trong khi chờ đợi phút chấm dứt một hình phạt” [9, tr
194]. Người cha trong Ngôi nhà của cha tôi đã hứng chịu một trận dập vùi của số phận đến nỗi
“ông cứ hay thảng thốt như đang chờ đợi một sự phán quyết nào đó” [9, tr 252]. Có một sợi dây
bí ẩn liên kết đám đông lại với nhau để phán xét ông và người lạ mặt được phái đến như để
thòng lọng vào cổ ông dắt xuống địa ngục. Lý do giải thích tâm trạng phấp phỏng, lo sợ, chờ
đợi một điều gì ghê gớm của người cha trong Một câu chuyện cười tưởng chừng phi lý lại
mang đậm tính hiện thực. “Hồi ấy tôi còn bé lắm. Hình như có một chuyện nghiêm trọng đã
xảy ra với cha tôi. Tôi chỉ nhớ láng máng, bằng những hình ảnh chồng chéo, lộn xộn rằng cha
tôi dính vào một vụ gì đó khiến một vài người, mặt nghiêm trang, lạnh như đá, vài lần kéo đến
nhà tôi. Tôi nghe loáng thoáng ai đó nhắc đến một lá thư nặc danh tố cáo cha” [9, tr 410]. Sau
cái ngày tháng ấy đã xa xăm tựa như cái một ngày xửa ngày xưa trong một câu chuyện cổ tích,
“tôi” – người con trai – tìm thấy một tờ giấy cũ nát, vàng ệch với dòng chữ: “Yêu cầu ông có
mặt tại nhà, để bất cứ khi nào cần, chúng tôi sẽ gọi” [9, tr 416].
Bất an, lo sợ về sự trừng phạt không rõ ràng, trạng thái này ở nhân vật người cha thường
đến mức tạo ra trùng điệp những ám ảnh tai họa. Chúng lây lan như bệnh dịch. Những đứa trẻ
con lớn lên đã bị cầm tù trong sợ hãi: “Cả nhà tôi sống những ngày vô cùng hoảng loạn”, “thời
thơ ấu của tôi bị tàn héo”, bị ám ảnh, bị đeo đẳng bởi cảm giác tội lỗi và một ngày đại họa. Với
tôi “đấy là những năm tháng buồn tẻ kinh khủng” và nỗi sợ hãi dày vò tưởng như có thể chìm
hút trong cuộc đời.
Người ta sống trong nỗi sợ tai họa có thể ập đến bất cứ lúc nào với bất cứ ai. Một cặp
tình nhân (Lạc loài) lần đầu tiên hẹn hò không phải là một buổi tối lãng mạn, thơ mộng. Không
phải đơn giản là anh đã có vợ và chị đã có chồng. Bủa vây xung quanh họ là tình trạng căng
thẳng lo âu quá mức. Càng đi sâu vào câu chuyện, người đọc cảm thấy những nỗi sợ vô cớ
ngấm sâu đang ăn mòn nhân vật, nó khiến buổi hẹn hò trĩu nặng nhưng hoang mang. “Họ vẫn
trong tình trạng bị bủa vây bởi cả ngàn nỗi sợ hãi. Bất cứ ánh mắt nào cũng đầy vẻ dò xét. Cuộc
sống có những lúc trở nên thật sự nguy hiểm và bất an” [9, tr 387]. Họ cố giấu ý nghĩ và tâm
trạng của mình nhưng không thể giấu được nỗi hoang mang, sợ hãi. “Anh sợ bất cứ sợi dây vô
hình nào bao bọc quanh anh, vì anh cựa quậy mà bị đứt, anh sợ chính bản thân mình. Dần dần
anh không thể sống mà thiếu nỗi sợ” [9, tr 390]. Còn chị thì “cứ phải ném xuống một cái gì
đó”, ánh mắt đầy lo lắng và vẻ ngoài tư lự. Nỗi sợ hãi cứ phình lên. Không có chỗ ẩn náu,
không có cảm xúc – thứ cần thiết nhất cho cả hai. Chỉ có cảm giác về sự bất an, nỗi mệt mỏi,
nhạt nhẽo và cả giả tạo. “Anh cố đi sát bên nàng tạo cảm giác che chở”, “anh cố tưởng tượng lại
ngày đầu tiên”, “anh cố sống lại cảm giác ghen tuông”, “anh ra sức nhớ xem khi anh ôm chầm
lấy nàng”, “anh kìm một tiếng thở dài”, “anh đang cố giấu đi nỗi mệt mỏi”… Tất cả đều vô
nghĩa và không thể cứu vãn. Họ như kẻ cô độc và bị đeo bám bởi một bóng đen khổng lồ bí ẩn.
Cảm nhận về nỗi sợ là một cảm nhận triết học mang tính ưu tư về nhân sinh. Nhân vật
của Tạ Duy Anh luôn bị ám ảnh bởi tai ương phi lý, còn người đọc ám ảnh bởi thân phận nhỏ
bé và cô độc của con người. Tại sao các nhân vật kia không thể sống bình thản? Tại sao họ cứ
nơm nớp đợi chờ một điều phi lý đã từng xảy ra cho đến… chết? Tại sao thế giới rộng lớn thế
mà con người không tìm nổi cho mình một chỗ đứng? Mỗi người dường như đang phải chịu
một định mệnh, họ có thể sẵn sàng bị buộc tội, bị truy đuổi. Tạ Duy Anh lý giải: “Thực ra nỗi
sợ ập đến ngay từ khi con người chui ra khỏi bụng mẹ, đối mặt với cái thế giới tươi đẹp nhưng
cũng đầy tai họa. Rồi có vô số điều không lường trước được. Rồi chiến tranh, sự phô diễn man
rợ của các loại quyền lực, đủ thứ biến cố khủng khiếp, những bóng ma tinh thần… cứ ngày đè
nặng lên đời sống con người khiến nó bị đè bẹp, dị dạng, tha hóa về đó, Tạ Duy Anh chỉ ra
thảm họa thật sự của nỗi khiếp nhược: “Hậu quả ghê gớm của nỗi sợ không ai còn dám sống
với chính mình và thay vì kiến tạo, họ tìm cách tàn phá… khi đó con người hoảng loạn và
không kiểm soát được hành động của nó. Nó sẵn sàng tham gia làm bất cứ việc gì mang tính
hủy diệt để tạo ra ảo tưởng thoát được nỗi sợ. Kết quả nó tạo ra những nỗi khổ khủng khiếp
hơn. Cứ thế con người bị cuốn vào vòng xoáy của cái ác”.
Viết về những con người cô đơn phải chăng Tạ Duy Anh mong muốn con người hãy xích
lại gần nhau, vượt qua tất thảy mọi thù hằn ngăn cách để được sống một cách thực sự có ý
nghĩa. Sự cô đơn của con người trong cuộc đời có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau và đó cũng không phải là một trạng thái tinh thần chỉ dành riêng cho người tốt, song có
một điều chắc chắn rằng: khi con người ta cô đơn cũng chính là lúc họ đang tìm về với chính
đời sống nội tâm để ý thức hơn về chính bản thân mình. Và cái thiện cũng nảy mầm từ đó.
2.2.4. Nhân vật sám hối
Khám phá con người khi nó mấp mé trên bờ vực của cái Thiện – cái Ác là một nguyên
tắc quan trọng trong việc xây dựng nhân vật của Tạ Duy Anh. Nói đến cái ác, cái xấu là để
hướng tới khẳng định phẩm chất, nhân cách của con người. Đã không còn kiểu nhân vật “đơn
trị” hoặc chỉ tốt hoặc chỉ xấu như trong văn học giai đoạn trước. Con người trong văn học
đương đại nói chung và trong sáng tác Tạ Duy Anh nói riêng là con người “đa trị”, nó luôn phải
đấu tranh để không bị dìm xuống vực thẳm của cái ác. Kiểu nhân vật sám hối chính là dạng
thức nhân vật phù hợp nhất với tư tưởng này.
Kiểu nhân vật sám hối đã xuất hiện trong: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tầu tốc
hành (Nguyễn Minh Châu), Sống với thời gian hai chiều (Vũ Tú Nam), Thời xa vắng (Lê
Lựu)… Đến sáng tác của Tạ Duy Anh, nó trở thành cảm hứng mang ý thức tự vấn, trở thành ám
ảnh nghệ thuật khiến người đọc không ngừng phải suy ngẫm một cách nghiêm túc về bản chất
con người.
Truyện ngắn Gã thọt như một lời xưng tội muộn màng đầy dằn vặt, ân hận của lão Quán.
Lão từng là tên đàn ông sung sức duy nhất tung hoành trong vương quốc đàn bà của làng những
năm binh lửa. “Gã ngủ với hết người này người khác”, “muốn chiếm đoạt ai lúc nào cũng
được”. Chiến tranh chấm dứt, ám ảnh người lính sẽ trở về làm gã vật vã sống với ác mộng triền
miên. “Thảng hoặc có quân nhân ghé vào nhà xin nước, gã liền trốn biệt vào buồng trong, lòng
phấp phỏm nghĩ đến tai hoạ sắp giáng xuống đầu” [9, tr 156]. “Gã sinh bệnh tâm thần, hầu như
mất hẳn chức phận trời trao cho người đàn ông”. Điều khiến gã thọt cảm thấy đáng sợ và đau
khổ hơn cả là phải sống vật vờ như một bóng ma trong căn nhà hoang lạnh. Người vợ sau đã bỏ
gã ra đi, đem theo đứa con gái ba tuổi cùng hy vọng “người ấy” của chị trở về.
Bi kịch của lão Quán chỉ thực sự bắt đầu khi lão nhận ra chính mình là nguyên nhân gây
nên nông nỗi bất hạnh cho con trai. Với nỗi đau này, lão không có quyền biện hộ hay tự giải
thoát. Trước kia, lão như một con thú hoang cuồng dục hành hạ, đánh đập vợ. Lão cũng tàn ác
với đứa con trai lên bảy tuổi của mình. Hành động “gã dang tay tát một cái như trời giáng vào
mặt thằng bé. Thằng bé tái lặng đi như bị cắt cổ, đầu ngoẹo sang một bên rồi ngã vật xuống” sẽ
giày vò đeo đẳng suốt cuộc đời của lão Quán. Lão co lại trong một thế giới riêng đóng kín,
không liên hệ gì với cộng đồng và âm thầm sống với đứa con trai tật nguyền. Hàng ngày, lão
làm đều đặn các việc, chăm sóc con vừa như muốn gấp gáp bù đắp cho con vừa như hành động
sám hối, mong hai cha con được sống những giờ phút thanh thản. Những giây phút lặng thầm
nhìn vào gương mặt con và lay gọi nó, lão luôn “canh cánh ý nghĩ về một tai họa nào cướp mất
thằng con dở câm dở điếc của lão. Giả sử sau tiếng gọi “Quân ơi!” bật ra từ cõi sâu thẳm yêu
thương của lão mà không có tiếng rao đáp lại, chẳng biết lão sẽ sống ra sao” [9, tr 141].
Khi con chết, lão Quán gục ngã. Mọi hành động sám hối đều vô ích. Lão Quán “hì hục
đào một cái huyệt ngay đầu mộ con”, “lão chết thê thảm bằng cách tự chôn mình”. “Hai tay lão
dang ra như hình một cây thánh giá”. Đó là cái chết tự giải thoát, tự trừng phạt – một lựa chọn
cuối cùng để bảo toàn chút nhân tính còn sót lại. Nó thể hiện khát vọng hướng thiện, được phục
sinh của con người.
Trong Bước qua lời nguyền, lão Hứa – tên địa chủ khét tiếng một thời giờ “suốt ngày
câm lặng, cặm cụi cùng vợ con cày xới mảnh vườn bé tẹo” [139]. Đi qua tất cả những thăng
trầm con người, dù ở tuyến nào cũng có cái thâm trầm khi nhìn lại cuộc đời “Cậu Tư ơi! Cậu cứ
lớn lên cậu sẽ hiểu tôi chả là cái gì trước số phận, trước thời thế. Tôi có trực tiếp đánh ông cậu
đâu. Tôi có trực tiếp chôn sống chú cậu đâu. Cuộc đời nó ắt phải thế” [148]. Đây không phải là
sự đổi lỗi cho lịch sử. Bản thân lão Hứa cũng đã nếm đủ những nhục nhã, đắng cay trả nợ cho
quá khứ của mình. Cái nhìn của lão là cái nhìn của một người đi đến cuối đường mới ngộ ra
chân lý, rất tiếc vì những lầm lạc nhưng tất yếu phải thế. Cuộc sống đôi khi phải trả giá bằng
chính nó. Rõ ràng sám hối đưa người ta vào nỗi đau khổ dằn vặt nhưng cũng là cách nâng con
người ta sống cao hơn, đẹp hơn.
Bên cạnh đó con người tự gây ra thù hận, định kiến, biến những người quanh mình trở
thành nạn nhân. Rồi đến lượt kẻ gây đau khổ cho người khác lại phải chịu nỗi khổ sở, dằn vặt.
Người đọc không thể quên lời nguyền độc địa bao năm còn in trên những gương mặt đã gần tàn
tạ, gương mặt của người cha đau khổ, bị vằm nát. “Bố tôi gục xuống và khi ngẩng lên tôi tưởng
như không tin vào mắt mình, mặt ông bị vò nát bởi hàng trăm nếp gấp khắc nghiệt. Trên khuôn
mặt ấy tôi thấy lại quá khứ vật vã đẫm máu và nước mắt…” [6, tr 81]. “Tóc ông bạc như cước,
xơ xác trên chiếc trán bị thời gian đào rãnh lô xô” [6, tr 53]. Lão Hứa, lão Tự một thời là lý
trưởng, địa chủ quyền sinh quyền sát, đến khi cải cách ruộng đất “sống lủi thủi như một con
chó lạc loài” “hiền lành mà nhu mì như hòn đất”, “gặp đứa trẻ lên sáu cũng nhất nhất đều lên
tiếng chào trước”. Rồi đến cả cái chết của họ cũng đầy tủi nhục, khốn khổ…
Lam lũ, tăm tối, ngu muội, thù hận, đã hủy hoại tính người, tình người. Nhưng họ không
thể “bước qua lời nguyền”, không thể quên được quá khứ để tha thứ cho nhau trong hiện tại. Sự
trì níu của những ân oán quá khứ vầy vật và kéo dài lê thê suốt đời họ. “Hình ảnh những người
thân của lão vẫn như nằm ngổn ngang trước mặt lão, ở đủ tư thế chết, làm sao bắt lão quên đi
cho được” [5, tr 176]. Dân làng Đồng thập thò miệng lỗ mà họ vẫn thù nhau ác liệt, dọa nhau
dưới mồ và để lại lời nguyền độc: “Còn làng Đồng thì còn mối thù với thằng Hứa và con cháu
hắn” [9, tr 60]; “Những người đang sống sẽ đem theo nỗi căm thù xuống mồ. Những người đã
chết sẽ đội đất chui lên để vạch trời ghi tội mi” [5, tr 213]; “Không đời nào tôi quên được mối
thù với ông. Phải để con cái ông nó thấu hiểu tội ác của bố nó. Đời cha ăn mặn, đời con khát
nước là luật từ thời thượng cổ, không ai chối được” [5, tr 118]…
Suy nghĩ và hành xử theo luật “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, “bố nợ con trả” là hệ
quả tất yếu dẫn đến “vòng trầm luân trần gian”, “đời nọ làm tội đời kia, người này làm tội
người khác…”. Đây là cơ sở xã hội của kiểu nhân vật sám hối, khi là tội đồ khi là nạn nhân.
Xung đột giai cấp sẽ không dữ dằn, tàn khốc đến thế nếu không hòa trộn với xung đột dòng họ
và thù hằn cá nhân.
Có một thế hệ trẻ ở làng Đồng như cậu Tư, Quý Anh và biết bao nhân vật “tôi” đã nghĩ
khác và sống khác chỉ vì họ đã từng là nạn nhân của thù hận. Hầu hết các nhân vật này đã
chứng kiến bầu khí ngột ngạt và “trải nghiệm nỗi khổ đau của những cấm đoán phi lý và phi
nhân”. Ngay từ khi lên bẩy tuổi, cậu Tư “đã được giáo dục khá cẩn thận về thành phần giai cấp,
về nghĩa vụ làm sáng danh cha anh mình” [9, tr 50]. Để cho con ghi mối thù vào xương tủy,
người cha hàng ngày bỏ công giảng giải, đã tái hiện một quá khứ đau thương, khốn khổ; “Mỗi
ngày một chuyện, lời kể của ông tuyệt vời như kể chuyện cổ tích khiến tâm hồn tôi thấm đẫm
những hồi ức kinh hoàng không bao giờ còn hong khô được nữa” [9, tr 53]. “Với riêng tôi và
anh chị em tôi, đứa nào cũng thấm đẫm vào trí nhớ một câu bất hủ: lão Hứa và con cháu lão là
kẻ thù truyền kiếp” [9, tr 77].
Cảm giác ngột ngạt, nặng nề trong bầu không khí làng Đồng lúc nào cũng sôi lên vì thù
hận là tâm trạng chung của các nhân vật nạn nhân. “Tôi” trong Bước qua lời nguyền ngày càng
cảm thấy “như bị ném vào tình thế phải che chắn tứ bề. Sẽ ứng xử ra sao cho ba vuông bảy tròn
giữa những con người cứng đờ vì thiên kiến” [9, tr 56]. Sau bao năm có dịp ghé về quê mà “tôi”
trong Vòng trầm luân trần gian vẫn như bị bủa vây giữa “hàng trăm ý nghĩ không được giải
tỏa” của ông bố, đã chuẩn bị cho cả tình huống xấu nhất có thể nhưng cũng không thể trút đi
khối đá nặng cứ đè chặt đời ông, không thể xua tan hình ảnh “mẹ tôi mặt tái nhợt, lắc đầu oán
trách tôi”. “Lại một đêm tôi thức trắng. Tôi nghĩ đến ông tôi. Tôi nghĩ đến bố tôi. Tôi nghĩ đến
kiếp người trôi nổi , bèo bọt, vật vờ. Tôi nghĩ đến làng Đồng bé nhỏ của tôi đã từng một thời
huy hoàng, giờ đây lầy lội, tăm tối, thù hận” [9, tr 86]. Khi nào làng Đồng thù hận mới thôi
không còn giày vò những người vô tội yếu đuối như Quý Anh, chị Thư, chú Hổ…
Suốt thời trẻ con, Quý Anh không ngớt bị hành hạ. “Lủi thủi như một con chó con bị đàn
ruồng bỏ” là thân phận của đứa trẻ có bố là địa chủ. Cơn khát trả thù của làng Đồng đang ngùn
ngụt cháy lây sang bọn trẻ. Những lời trêu chọc, những trận “đấu” con bé, những trận mưa đất
trút lên thân thể Quý Anh… đã tước mất niềm vui sống của một tâm hồn trong trẻo thơ ngây.
Trong cái vòng vây kinh hoàng ấy, nó luôn sợ hãi khép nép. Gương mặt đờ đẫn, tái mét, đôi
mắt trống rỗng, vô hồn, câm lặng và nhẫn nhục là hình ảnh Quý Anh – một nạn nhân bé bỏng.
Sự nhẫn tâm của người lớn đã hủy hoại cái đẹp trẻ thơ. Dường như con bé “đã trở thành tội
phạm thực sự”. “Sự ruồng rẫy của người đời đã in hẳn trong tâm hồn nó nỗi mặc cảm rằng có
đang phải trả nợ cho những việc bố nó từng làm” [9, tr 113].
Đối nghịch với thù hận là tình yêu. Giữa cậu Tư và Quý Anh đã nảy nở mối tình trong
trắng. Chủ ý của nhà văn là lấy tình yêu xóa đi thù hận, để bước qua lời nguyền và mong muốn
các thế hệ tiếp nối bứt phá khỏi sự kiềm tỏa, trói buộc của vòng trầm luân trần gian. Tuy nhiên,
những con người trẻ trung khao khát hạnh phúc ấy trước hết lại bị cột chặt vào danh dự gia
đình, dòng họ và tình yêu của họ rơi vào vòng xoáy thù hận: thù hận đang giơ móng vuốt đòi
bóp chết tình yêu.
Yêu Quý Anh – con gái kẻ thù truyền kiếp với gia đình – là một tội tày đình. Không thể
bảo vệ nổi tình yêu, lại mang mặc cảm tội lỗi, nhân vật “tôi” đã phải bỏ quê đi suốt mười năm.
Họ đầy khao khát nhưng cũng đầy mặc cảm bởi thân phận của một đứa con bị ruồng bỏ, với
cậu Tư “ai ngờ tôi là đứa phản bội bố tôi trước tiên”. Còn Quý Anh phải chờ đợi mòn mỏi trong
hy vọng và tuyệt vọng ngày trở về của người yêu. Chính cái khát vọng bước qua lời nguyền,
cứu rỗi thù hận đã tạo cho tác phẩm Tạ Duy Anh giá trị nhân bản sâu sắc. Các nhân vật nạn
nhân dù chịu sự ruồng bỏ của gia đình, bị nguyền rủa bởi dòng tộc, dân làng nhưng trong khi
dũng cảm chối bỏ quá khứ định kiến, tăm tối, họ đã dần vươn tới tự do. Vì vậy họ là nhân vật
nạn nhân nhưng cũng là nhân vật của khát vọng. Xét cho cùng thì quá khứ đầy đau thương, lỗi
lầm đã qua và con người và con người cần niềm tin để sống tốt đẹp hơn. Nói như lão Tự: “Cái
thời ấy dù sao cũng qua rồi. Các cháu nó chẳng có tội tình gì… đừng để chúng nó đòi nợ nhau”
[5, tr 119].
Thế giới nhân vật của Tạ Duy Anh đã thể hiện được chiều sâu và những phát hiện mới
trong cái nhìn về con người. Qua thế giới nhân vật này, nhà văn đã trình ra cả một thảm trạng
xã hội thời hiện đại với những tai hoạ đang giáng xuống đầu con người. Từ đó, nhà văn cũng
lên tiếng cảnh tỉnh con người trước những tham vọng sục sôi và nguy cơ bị tha hoá, biến dạng,
méo xệch cả tâm hồn lẫn thể xác, đi đến kết cục cuối cùng là sự vong thân, vong bản. Trong cái
dòng đời xô bồ, hỗn tạp, đầy xáo trộn, con người dễ bị trôi theo những cám dỗ, lầm lạc. Họ
đứng trước nguy cơ bị nghiền nát, bị phân hủy, bào mòn. Để cứu được mình, con người phải
tìm lấy một mặt nạ, rồi cái mặt nạ ấy sẽ dần dần xâm thực và thay thế luôn bộ mặt có thật khiến
con người trở nên hoảng loạn với những nỗi sợ triền miên. Để chạy trốn nỗi sợ ấy, con người
lại gặp phải những nỗi sợ khủng khiếp hơn. Xây dựng thế giới nhân vật, Tạ Duy Anh tiếp tục
cuộc hành trình chưa kết thúc của nhân loại để trả lời câu hỏi: “Ta là ai?”, nghĩa là cuộc hành
trình đi tìm bản thể của mỗi cá nhân con người. Có thể thấy một thế giới nhân vật đa dạng,
phong phú mà rất nhất quán trong sáng của Tạ Duy Anh. Mỗi kiểu nhân vật ấy là một phần
trong con người. Con người có phần tốt, phần xấu, phần sáng, phần tối, có muôn ngàn ngóc
ngách để nhà văn khơi những nguồn chưa ai khơi… Tất cả chỉ nhằm một mục đích cao cả: Đưa
con người đến bến bờ của Chân, Thiện, Mỹ, trả lại cho con người những gì họ đáng được
hưởng nhất…
2.2.5. Nhân vật hoàn thiện
Trong khi dốc toàn bộ tâm lực để diễn tả cái hiện thực tàn nhẫn và khủng khiếp, Tạ Duy
Anh vẫn luôn ao ước về một cái đẹp toàn mỹ vĩnh hằng. Niềm ao ước lớn lao và đẹp đẽ ấy, nhà
văn đã gửi gắm vào hình ảnh người phụ nữ – hình ảnh mà nhà văn cho là kết tinh tất cả những
gì cao đẹp và thiêng liêng nhất của loài người.
Nhà văn không ảo tưởng về cuộc sống mà lạnh lùng tàn nhẫn khi đi vào vạch trần những
thói hư tật xấu xa, sự băng hoại đạo đức đáng kinh sợ của con người trong cuộc sống hiện tại
với những kết cục khủng khiếp có thể xảy ra. Nhưng không vì thế mà đánh mất niềm tin vào
những gì tốt đẹp. Khát vọng về cái đẹp được Tạ Duy Anh gửi gắm trước hết ở nhân vật người
phụ nữ. Ông thừa nhận: “Tôi là người cầu toàn đam mê cái đẹp. Tôi luôn khát khao về một cái
đẹp toàn thiện. Và khao khát ấy tôi gửi gắm nơi người phụ nữ – kiệt tác hoàn hảo nhất của
chúa trời. Có thể bắt gặp ở bất kỳ tác phẩm nào của tôi hình bóng nàng. Họ, với tôi đều đẹp
một vẻ đẹp lý tưởng, phi xác thịt, đều hiện ra để cứu rỗi hoặc mở ra những chân trời ước vọng,
ở nơi ánh sáng trần gian tắt lụi, nơi cuối đường, nơi giáp ranh bóng tối”. Hiển hiện lên trong
tác phẩm Tạ Duy Anh, là những vẻ đẹp trọn vẹn tỏa sáng mang tên Quý Anh, Chị Thư, Chị
Túc…
Không riêng gì truyện ngắn mà trong toàn bộ các sáng tác của Tạ Duy Anh, hầu như
nhân vật nữ nào cũng đẹp, đẹp cả về hình thức lẫn tâm hồn, đẹp một cách mê hoặc và huyền ảo
cho dù nhân vật nào cũng không phải là nhân vật chính, nhân vật nào cũng chỉ được nhà văn
họa qua đôi nét, nhưng tự bản thân những nét ấy lại gợi lên một vẻ đẹp trọn vẹn và tỏa sáng.
Mỗi người, mỗi vẻ nhưng ai cũng lung linh như thiên thần bước ra từ truyện cổ tích. Chị Thư
trong Truyền thuyết viết lại vừa xinh đẹp, vừa dịu hiền nhưng chị lại bị “ruồng bỏ bởi chính
sắc đẹp của chị”, điều đó như là “sự chối bỏ một điều vô phúc từng xảy ra ở làng Đồng” [2, tr
23], thế giới của chị cuối cùng chỉ còn có trẻ con – những tâm hồn vẫn trong sáng, không
vướng bụi. Đến thời ấy, những tục lệ cũng đã mờ nhạt đi phần nào nhưng chị vẫn không được
tham dự vào cuộc sống cộng đồng. Quanh năm cô độc “chỉ vụng trộm chơi với bọn trẻ” cùng
“gương mặt buồn rười rượi” và “những bài hát buồn thảm thiết” [2, tr 23]. Còn nhân vật chị
Thư trong Thiên thần và ác quỷ cũng mang một nỗi bất hạnh tương tự. Chị bị “cả làng tin rằng
đích thị chị là yêu quái” [2, tr 62]. Mà vì đâu? Vì “chị xinh đẹp như một cái ngó sen. Da thịt chị
trắng ngần với một gương mặt có thể tỏa sáng” [2, tr 62]. Chị Túc trong Xưa kia chi đẹp nhất
làng có một “nhan sắc lộng lẫy” tựa như “không phải là người trần” lại “tươi rói như một
bông hoa” với “thân hình thon thả, bờ vai tròn trịa”, “đôi mắt như hai miếng cau bổ khéo”,
“đôi môi chín mọng” chỉ khẽ nở một nụ cười là đã có cả ngàn sức hút, cái nết chị vừa xinh đẹp,
vừa đảm đang lại dịu dàng, sâu sắc. Hội thi “Gái đảm hậu phương” chị Túc giành giải nhất ở tất
cả những phần thi trong tiếng reo hò như sấm của đám đông. Nhưng có lẽ, bất hạnh nhất là cô
bé trong Ánh sáng nàng bị cả làng đem đi chôn sống trong sự ngây thơ, không mảy may biết gì
về thảm họa. Thầy giáo, người đại diện cho tri thức của dân làng đã có những lập luận không
thể tin được “Nhân danh sự lành mạnh của cả cộng đồng, chúng ta hoàn toàn có thể bỏ nó như
loại bỏ cái dị tật. Nó chỉ khác chiếc đế giày, và nói chung cá nhân chúng ta đầu thế, ở chỗ
không thể dùng đinh ghép lại khi đã rời ra. Nó sẽ làm cỏ cây hoa trái tươi tốt. Nếu tái sinh có
một ý nghĩa triết học nào đó, thì không gì sâu sắc bằng thực tại chúng ta sắp chứng kiến” [4, tr
309]. Chao ôi, trí thức mà như vậy ư? Tri thức để thốt ra những lời như một tà giáo ấy ư? Đến
nền giáo dục của làng còn như vậy, thử hỏi làm sao cả làng không sống trong sự mông muội,
ngu dốt, tăm tối cho được? Quý Anh trong Bước qua lời nguyền gợi một vẻ đẹp trong suốt:
“khuôn mặt trong veo, cặp mắt trong veo với hai lọn tóc lắc lư trên má”. Vào tuổi mười bảy,
nàng đẹp như tiên sa… thanh sạch như thiên thần nhưng bị cả làng hắt hủi vì thuộc dòng máu
của kẻ đã từng ăn gan uống máu người. Ở giữa cuộc sống lầy lội của làng Đồng thì vẻ đẹp của
nàng càng thêm nổi trội. Nhưng xét cho cùng, hầu như họ cũng là một, họ là hiện thân của cái
đẹp lạc loài. Không hiểu sao khi viết về người phụ nữ, Tạ Duy Anh thường dành cho họ những
vẻ đẹp tuyệt vời trong sáng, thánh thiện. Bất chấp những tăm tối thù hận, bất chấp những định
kiến hẹp hòi, vẻ đẹp của họ vẫn tỏa rạng ngời, tựa như một sự cứu rỗi cho những kiếp người.
Qua những trang viết như vậy, Tạ Duy Anh đã đề cập đến một thực trạng khá đau lòng ở
nông thôn là xã hội tuy đã thay đổi nhưng nhiều làng quê vẫn còn bóng dáng của cơ tầng văn
hóa những định kiến lạc hậu cổ hủ làm cho cuộc sống mãi trong vòng tăm tối, u mê. Thật trớ
trêu là người nông dân đã mù quáng tin vào những thế giới tưởng tượng, những lý giải mông
muội cho tầm hiểu biết hạn hẹp để hành hạ ngay những người cùng mảnh đất sinh ra với mình.
Bệnh tật, đói rét, tai họa, mọi thứ đều ở nguyên nhân cái Đẹp. Ở đây Tạ Duy Anh còn đặt ra cả
một vấn đề về số phận của cái Đẹp. Trong cuộc sống bùn lầy tăm tối, cái đẹp lại gắn liền với sự
lạc loài cô đơn. Đẹp rất gần với tai họa. Tất cả những người phụ nữ mang sắc đẹp này đều
khộng được ngưỡng mộ như Vinh Hoa trong Phẩm tiết (Nguyễn Huy Thiệp). Nhân vật Đặng
Tiến Đông khi nhìn thấy Vinh Hoa đẹp lạ lùng đã đánh rơi cả kiếm. Nhưng “là người có học,
Đông biết anh hùng và mỹ nhân ở đời đều hiếm, nông nổi phạm đến là có tội với trời”. Đông
rước Vinh Hoa vào cung cả Quang Trung cũng phải kiêng nể, coi như vật báu không dám chạm
đến nàng. Còn những nhân vật phụ nữ đẹp trong sáng tác của Tạ Duy Anh không hề được nâng
niu trân trọng. Chị Thư, cô bé trong Thiên thần và ác quỷ, Truyền thuyết viết lại, Ánh sáng
nàng… họ có số phận bất hạnh: luôn bị hắt hủi, xa lánh, vùi dập, sống trong cô đơn thậm chí bị
hủy diệt. Người đàn bà đẹp làm khuynh đảo cả hai ông tổ làng Đồng sau khi bị chém chết, mắt
vẫn mở trừng trừng như quát hỏi: “Thằng vũ dũng kia, ta có tội tình gì? Sắc đẹp trời cho ta, chỉ
có những kẻ ngu muội mới không biết coi là báu vật” [4, tr 22]. “Ta có tội tình gì?”, phải, nàng
có tội tình gì, biết bao người con gái khác cũng có tội tình gì? Cái tội duy nhất ở đây là sự “ngu
muội” sự không có học, thói cổ hủ, lạc hậu đã truyền lại từ bao đời. Chừng nào cái Đẹp còn lạc
loài, còn bị dập vùi thì chừng ấy xã hội chưa thể vươn tới tầm cao được. Làng Đồng bởi thế cứ
quẩn quanh mãi trong tăm tối, hận thù. Với triết lý nhân văn sâu sắc này, tác phẩm Tạ Duy Anh
đã góp cho văn xuôi thời đổi mới tiếng nói khá mới mẻ.
Bên cạnh đó, Tạ Duy Anh còn chú ý đến khía cạnh nữa đó là số phận của những người
phụ nữ nông thôn trong bối cảnh chiến tranh. Những tác phẩm đi theo hướng này không nhiều,
nhưng cũng đủ hé mở những chiều sâu trong tâm hồn, những mảnh khuất lấp có thể chưa biết
đến trong cuộc sống người phụ nữ.
Cái nhìn của nhà văn dừng lại ở những thiệt thòi, những nỗi bất hạnh mà người phụ nữ
phải gánh chịu trong chiến tranh. Chiến tranh là niềm vinh quang, là vòng nguyệt quế nhưng
cũng là giọt nước mắt buồn tủi. Nhưng nỗi niềm chị Túc trong Xưa kia chị đẹp nhất làng mang
một vẻ đẹp hoàn hảo, chuẩn mực của người phụ nữ nông thôn: vừa xinh đẹp, vừa đảm đang lại
dịu dàng, sâu sắc. Nhưng chiến tranh đã lôi tuột tất cả những chàng trai trẻ của làng, chiến tranh
cũng làm bặt tin tình yêu thủy chung duy nhất của chị. Chị bước sang tuổi 30, rồi 35 lúc nào
không hay… Chị lang thang, chị tìm kiếm… Và kết cục cuối cùng thì chỉ còn là một chị Túc
trong những lời bàn tán, dị nghị không hay của dân làng, “không mấy ai còn nhớ xưa kia chị
Túc xinh đẹp và tài đảm nhất làng” [1, tr 27].
Còn trong truyện ngắn Gã thọt lại đề cập đến một khía cạnh khác. Đó là nỗi khổ không
thể nói ra của những khao khát, ham muốn âm thầm. Người phụ nữ nông thôn có thể sẵn sàng
là một hậu phương vững mạnh của tiền tuyến, nhưng cũng có thể rất yếu đuối trong những nỗi
niềm giấu kín như một ẩn ức. Tác phẩm đã cho ta thấy mặt phía bên kia của những cuộc đời.
Họ đâu phải thánh thần, họ là con người, là những người phụ nữ bình thường với những khát
khao. Tiếng bánh xe đều và lời hát của gã thọt như một mũi dao, khoan sâu vào nỗi buồn tủi
của họ. “Gã không biết khi chiếc xe của gã đi qua và tiếng hát của gã vang lên, có hàng chục
người muốn bốc cháy trên giường”. Chiến tranh là vậy, là hình ảnh “các đức ông chồng ngực
đỏ chói huân chương lũ lượt kéo về”, cũng là hình ảnh một người đàn bà “quỳ xuống trong cái
dáng vẻ thật thê thảm. Mắt chị ta trắng bệch mờ mịt hơi sương” với tiếng nấc đã từng nén sâu
trong lồng ngực “Tôi van anh! Tôi không thể chịu đựng được nữa. Ngày nào anh cũng hành hạ
tôi. Chiến tranh làm gì có sự thanh bình”, “Chiến tranh làm gì có sự thanh bình” câu nói ngắn
gọn nhưng có thể là sự trải nghiệm, sự chắt ra từ biết bao đêm thao thức nhớ nhung, cũng có thể
là từ cả những đêm biết bao phụ nữ như chị hàng xóm gã thọt, phải tự thỏa mãn cơn thèm khát
yêu thương của mình. Chiến tranh ở đây đã được nhìn dưới cái nhìn của một người đàn bà đau
đáu một nỗi buồn tủi phận.
Cả hai truyện ngắn Xưa kia chị đẹp nhất làng và Gã thọt, Tạ Duy Anh đã thể hiện
những góc nhìn đầy tính nhân bản, ông nhìn con người ở phương diện đời thường nhất, con
người nhất. Chị Túc Xưa kia chị đẹp nhất làng, những người phụ nữ chờ chồng ngoài chiến
trận Gã thọt đều mang trong mình đầy những khao khát, mong ước về một hạnh phúc riêng tư,
cá nhân. Nhưng hoàn cảnh ấy đã đẩy họ vào ngã rẽ, những đắng cay riêng.
Cũng qua hình ảnh những người phụ nữ này, Tạ Duy Anh đã cho thấy dấu ấn của văn
hóa nông thôn cổ xưa trong cuộc sống hiện tại ở những khía cạnh, góc độ khác. Với chị Túc,
điều đó hiện lên ở chính vẻ đẹp từ ngoại hình đến phẩm chất của chị. Đó là nét đẹp của sự mặn
mà, duyên dáng, đằm thắm dịu dàng của những cô gái thôn quê. Còn đối với những người đàn
bà đợi chồng thì người phụ nữ truyền thống hiện ra ở những kìm nén, chôn chặt những khát
khao, ham muốn trong lòng. Định kiến, quan niệm từ ngàn đời nay của lễ giáo phong kiến nông
thôn đã trở thành định kiến, quan niệm của chính họ. Họ tự khắt khe với bản thân mình, không
cho phép mình buông thả và khi đã không vượt qua được những ham muốn bản thân thì là cả
một sự dằn vặt, đau khổ, hối hận, dẫn đến những sự ra đi như người vợ sau của gã thọt.
Khát vọng cái đẹp còn được Tạ Duy Anh gửi gắm ở nhân vật trẻ con. Nhà văn đã đặt ra
một vấn đề để vĩnh cửu về sự tồn tại của con người. Đối mặt với một thế giới dữ dằn, lạnh lùng,
tàn khốc một hiện thực “nằm ngoài trí tưởng tượng về một xã hội văn minh”. Có thể nói, nhân
vật trong sáng tác Tạ Duy Anh có gương mặt “ác quỷ”, có gương mặt “thiên thần”, và đặc
biệt, nhân vật của ông thường ẩn chứa trong nó cả rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác
quỷ. Những nhân vật đó ẩn chứa rất nhiều góc khuất phức tạp, đa chiều. Nhân vật nào cũng
được đặt trong trạng thái, lựa chọn đấu tranh với xã hội, với môi trường sống, với kẻ thù, với
người thân với chính bản thân mình. Không bao giờ họ được phép lựa chọn một lần rồi xong,
chưa hết sự kiện này đã có tình huống khác đặt ra khiến cuộc đấu tranh, lựa chọn ấy chưa có
hồi kết. Con người giữa lằn ranh thiện – ác trong sáng tác của Tạ Duy Anh có sức hấp dẫn
riêng, ám ảnh người đọc, khiến người đọc không ngừng phải suy ngẫm một cách nghiêm túc về
bản chất con người, đâu là bề ngoài nông nổi, hời hợt, đâu là bản chất vĩnh hằng? Nó khiến con
người ta nhiều khi phải chấp nhận đau khổ để giữ gìn bản chất tốt đẹp của mình. Sự đấu tranh
giữa hai bờ thiện – ác nhiều khi khiến con người phải buộc lòng lựa chọn cái chết, nhưng đó là
sự lựa chọn cần thiết, dũng cảm. Đó là lý do vì sao trong tác phẩm Tạ Duy Anh xuất hiện nhiều
cái ác nhưng lấy cái ác để lay tỉnh cõi thiện, ấy mới là sự tìm tòi, thể nghiệm có ý nghĩa nhất
trong sáng tác của ông. Và cho đến bao giờ? Tạ Duy Anh vẫn luôn trăn trở một nỗi niềm: Làm
thế nào để đưa con người đến được với bến bờ đích thực của cả hai tiếng thiêng liêng: Con
người.
Tiểu kết: Trong số những thành công nghệ thuật của mình, việc sáng tạo một thế giới
nhân vật là một đóng góp nổi bật mà Tạ Duy Anh gửi vào rất nhiều tâm huyết. Xuất phát từ
quan niệm mới mẻ về một hiện thực “gai góc”, khám phá con người khi nó “bị đặt trong trạng
thái đấu tranh với xã hội, với môi trường, với kẻ thù, với người thân, với chính bản thân mình”,
Tạ Duy Anh đã tạo dựng nên những kiểu loại nhân vật phong phú, đa dạng.
Hành trình tìm kiếm cái bản thể nguyên sơ, toàn vẹn của con người, khát vọng tự xác lập
bản thể cá nhân bằng cách khước từ những huyền thoại giả dối, chối bỏ những “mặc định” sẵn
có của Tạ Duy Anh thể hiện ở nhân vật tha hóa, nhân vật kiếm tìm. Kiểu nhân vật cô đơn lại
gắn với cảm thức của nhà văn về cái mong manh, bé nhỏ của thân phận con người khi nó mấp
mé trên bờ vực của cái Thiện – Ác, để nó phải sống với mặc cảm tội lỗi, bị dằn vặt là tư tưởng
nổi bật toát lên từ kiểu nhân vật sám hối. Nhân vật hoàn thiện vừa thể hiện khao khát tự do cá
nhân và khao khát được sống đích thực là mình của con người. Có thể khẳng định, bằng thế
giới nhân vật của mình, hành trình văn chương của Tạ Duy Anh là hành trình đi tìm những giá
trị tương ứng với con người, với thời đại, những giá trị nhân bản bền vững.
Chương 3
THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
TẠ DUY ANH
Thủ pháp nghệ thuật có thể hiểu là tất cả những biện pháp, phương tiện nghệ thuật được
nhà văn sử dụng để làm nên tác phẩm. Tuân thủ những nguyên tắc sáng tạo của thể loại và thời
đại, mỗi nhà văn cũng đồng thời mang đến những bí quyết, những “ngón nghề” riêng. Tùy vào
sở trường, sở đoản của mình, mỗi nhà văn sẽ sử dụng một số các thủ pháp nghệ thuật nào đó
sao cho tác phẩm của họ đạt được hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Do đó, thủ pháp nghệ thuật
mang nặng dấu ấn, cá tính sáng tạo và góp phần quan trọng vào việc hình thành phong cách của
nhà văn. Tạ Duy Anh là nhà văn có cá tính rõ rệt, có cách viết riêng, độc đáo. Các đặc trưng
nghệ thuật ấy biểu hiện ở nhiều phương diện khác nhau, nhưng đậm nét nhất là các phương
diện: Ngôn ngữ nhân vật; Giọng điệu trần thuật; Kết cấu nghệ thuật; Chi tiết nghệ thuật kì ảo;
Môtíp nghệ thuật.
3.1. Ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp đặc thù của con người. Nó giúp cho con người có thể
hiểu được những tâm tư tình cảm của nhau, từ đó có thể xây dựng nên một xã hội bền vững,
phát triển. Văn học, với tư cách là một bộ môn nghệ thuật đặc biệt cũng dùng ngôn ngữ làm
phương tiện biểu đạt. Vì vậy, ngôn ngữ là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc thể hiện tính
cách và cá thể hoá nhân vật. Cũng giống như con người ngoài đời, nhân vật văn học biết suy
nghĩ hành động và nói năng. Ngôn ngữ của nhân vật cũng chính là ngôn ngữ của đời sống, nó
mang đậm dấu ấn cá nhân và phản chiếu mọi mặt trong tư tưởng, tình cảm con người.
3.1.1. Ngôn ngữ đối thoại
Trong văn xuôi, đặc biệt là trong truyện ngắn qua những lời đối thoại của nhân vật mà
chúng ta hiểu được tâm lí, tính cách, bản chất nhân vật. Cũng như qua đối thoại người đọc có
thể dự đoán được diễn biến của cốt truyện. Sở dĩ như vậy là vì “lời đối thoại gắn liền với việc
những người nói hướng vào nhau và tác động vào nhau. Lời nói con người, trước hết là sự đáp
đối với những lời nói của ai đó nói ra trước đó, và thứ hai nó hướng tới một kẻ xác định (trực
diện hay không trực diện)” [60, tr. 20]. Nhà văn nào khi cầm bút cũng muốn gửi gắm tư tưởng
của mình về hiện thực mà anh ta phản ánh. Trong tác phẩm tự sự, nhân vật là phương tiện để
nhà văn khái quát đời sống. Vì vậy, sự nhìn nhận mang tính chủ quan của nhà văn gửi gắm vào
nhân vật. Theo Tạ Duy Anh: “Từ ngữ không thể vô cớ mà thoát khỏi thân phận ký hiệu để có
đời sống và cũng không ai làm được cái việc thâu tóm chúng và sắp xếp lại cho nó có hồn. Quá
trình này luôn gắn với một chủ ý sáng tạo đầy phức tạp, thậm chí bí ẩn và luôn luôn hữu lý từ
vô thức” [8, tr 165].
Với Tạ Duy Anh, bạn đọc lắm lúc sởn gai ốc vì con chữ quá bạo liệt và thô bạo. Thứ
ngôn ngữ dung tục thể hiện rõ trong những đối thoại mang nhiều khẩu ngữ, lời ăn tiếng nói bỗ
bã, thô và tục của đời sống thường ngày, cả những thứ ngôn ngữ chua chát chợ búa, những
tiếng chửi không dè: “Đù mẹ anh, đẹp trai ra phết”, “Về cắt mẹ nó đi nhé!”, “Tiên sư mẹ con
hàng bấc, thở mạnh một cái đứt bố nó ra, suýt tụt cả quần” (Ánh sáng nàng); “Đ. mẹ thằng
già mù à?, Tại mày chứ tại tao à?” (Lão Cò ra tỉnh). Đặc biệt khi các nhân vật của ông có một
nỗi hận thù, căm hờn nào đó thì chẳng tiếc gì những lời uất ức rành mạch, miễn là nói đúng cái
suy nghĩ, tâm tư của mình. Lão Đình trong Tội tổ tông đã nói một cách đầy chiêm nghiệm: “Cả
cõi nhân gian này tôi đố anh tìm đâu ra một thằng người nào có số phận chó đểu hơn tôi. Đến
vợ con cũng ớn” [2, tr 31]. “Tuy ngồi đây nhưng những truyện trên trời, dưới bể, chuyện thế
giới… đừng có qua mặt tôi. Tôi biết hết vì sao thế giới cứ tan nát như hiện nay. Tôi biết, song
tôi… mặc mẹ chúng nó” [2, tr 36]. Nỗi uất ức của lão Đình bị mất chức vì ăn một con lợn sữa
như nén lại, tuôn ra những câu chửi đời, chửi mình một cách không thương tiếc. Còn lão Khổ
trong Lũ vịt trời khi bị mất trắng chỗ lúa trong tầm tay cũng đã uất ức: “Miếng ăn kề mồn còn
để mất , Ngu! Ngu!” [2, tr 49]. Rõ ràng nhà văn không hề né tránh và đánh bóng hiện thực.
Ngôn ngữ đời sống cứ hiện lên trần trục sống sít như bản thân nó phải vậy. Người nông dân ở
đây cũng được miêu tả như bản chất hiển nhiên, ít học vốn có, chẳng cần giữ gìn. Lão Hứa
trong Hóa kiếp khi bị đám đông cười vì sự ngu dốt đã văng ra một câu… không cần biết đối
với xung quanh, không cần nghĩ mình đang là cán bộ xã: “Cười bòi ông đây này” [2, tr106].
Có thể lược dẫn ra rất nhiều các kiểu ngôn ngữ như vậy. Người trong dân làng Đồng vì
thế hiện lên trong trang viết của Tạ Duy Anh thật chân thực. Họ sống, hành xử và… cả nói lên
cũng theo văn hóa của mình, bản chất của mình. Mà ở một làng quê tăm tối thù hận như vậy
không thể khác hơn là một thứ ngôn ngữ khô ráp, không hề đánh bóng của hiện thực. “Là
người thích đi mấp mé ở bên bờ vực của cái ác và cái thiện với hy vọng có thể soi rọi vào nó ở
những phần khuất lấp ít người chạm tới” [13], tất yếu Tạ Duy Anh phải tổ chức trong tác phẩm
của mình một thứ ngôn ngữ kết hợp của hai cực đối nghịch nhau: trắng – đen, thiện – ác, thứ
ngôn ngữ dung tục của đời thường.
Trong truyện ngắn Bước qua lời nguyền có đoạn:
- “Có thằng ăn trộm!
Lão Hứa suýt ngã vì sợ và xấu hổ. Lão nhè vội miếng khoai, xoa tay vào vạt áo, dùng
chân lấp lại chỗ đất lão vừa bới rồi quay lưng lại định lủi mất. Hình ảnh chú tôi chết đói, hình
ảnh ông tôi chết vì đòn như kêu gào tôi trả thù. Có lẽ bộ mặt tôi lúc đó gớm giếc lắm lão co rúm
lại.
- Lão Hứa!
Lão địa chủ xưa kia đổ khuỵu xuống.
- Lão có biết lão mắc tội gì không?
- Cậu Tư ơi, tôi đói quá!
- Lão đói nhưng lão chưa chết. Còn chú ta, ông ta đều chết về tay lão thì lão tính sao?
Lão Hứa mếu xệch miệng. Tôi tiếp:
- Chỉ vì một bát cơm nguội mà chú ta thành ma đói, lão có nhớ không?
- Tôi nhớ.
- Tại sao lão ác thế?
- Tôi van cậu Tư. Thì ông nhà đã đòi đủ ở tôi rồi mà!
- Chưa được bao nhiêu. Hôm nay lão phải trả nốt.
Tôi tiến lên, gí thanh nứa vạt đầu vào cổ lão Hứa. Lão địa chủ xưa kia vội đưa tay túm
ngang chiếc que.
- Kìa cậu Tư, tôi cắn rơm cắn cỏ lạy cậu. Cậu thử hỏi ông nhà xem, có phải có lúc tôi đã
tử tế với ông nhà không?
- Còn ông ta và chú ta, lão tử tế thế nào đấy à?
- Cậu Tư ơi!
Lão Hứa cuống quýt đẩy thanh nứa đang bị ấn mạnh thêm.
- Cậu cứ lớn lên đi cậu sẽ hiểu tôi chả là gì trước số phận, trước thời thế. Tôi có trực tiếp
đánh ông cậu đâu. Tôi có trực tiếp chôn sống chú cậu đâu. Cuộc đời nó ắt phải thế”.
Trong đoạn đối thoại trên, lời lão Hứa nói với cậu Tư không đơn giản là sự thanh minh
cho tội lỗi. Hai nhân vật cậu Tư và lão Hứa luôn hướng vào nhau nhằm hiểu biết lẫn nhau trong
quá trình giao tiếp. Các nhân vật tích cực đổi vai giao tiếp cho nhau và nội dung phát ngôn sau
cố gắng làm sáng rõ nội dung của những phát ngôn trước đó. Không chỉ vậy, nó còn liên kết
chặt chẽ với những phát ngôn trước đó. Cậu Tư hỏi lão Hứa: Chỉ vì một bát cơm nguội mà chú
ta thành ma đói, lão có nhớ không? Lão Hứa trả lời: Tôi nhớ! Khi cậu Tư hỏi tiếp: Tại sao lão
ác thế? Lập tức lão Hứa quả quyết: Tôi van cậu Tư. Thì ông nhà đã đòi đủ ở tôi rồi mà! Những
lời đối thoại trong đoạn trích trên còn sử dụng những mô hình cấu trúc ngữ pháp phức tạp nhằm
diễn đạt một cách rõ nhất tư tưởng, tình cảm nhân vật.
Trong truyện ngắn Luân hồi có đoạn: “Bà đang mường tượng một cách mãn nguyện đến
ngày người ta cho bà vào chiếc hòm gỗ vàng tâm – ước mơ lớn nhất của bà – rồi đặt cạnh mộ
ông tôi. Bà vẫn thường nói ra mồm ông tôi chỉ yêu bà lúc sắp nhắm mắt. Bà bảo thêm “Dòng
họ nhà này toàn thế cả”. Tôi hỏi: “thế có nghĩa là sao hả bà”. Bà đáp: “Bởi vì đàn ông từ bố
mày ngược lên toàn bất đắc chí… Vì thế mà tao thương con mẹ mày”.
… Đột nhiên bà nội bảo tôi:
- Con nhớ đóng cho ta cái quan tài bằng gỗ vàng tâm. Ta muốn chết một cách thơm tho.
Thế là bố tôi liếc xéo sang bằng cặp mắt rực lửa:
- Chết sẽ có người chôn. Không ai để thối rữa ra đâu mà sợ.
Mẹ tôi giật thót mình vì bị kéo ra khỏi dòng hồi tưởng về thời con gái, nói như van:
- Đừng ai nói đến chết chóc nữa. Tôi sợ quá!
Quay sang tôi, bà nói như để chấm dứt câu chuyện:
- Con cứ hứa cho bà yên lòng.
Bị tấn công, trong đó sự phởn chí đột xuất của tôi là đòn cân não, cha tôi chửi đổng:
- Mưa gió thế này đừng có đứa nào xỏ tao. Chọn ngày nắng ráo mà chết.
Tôi pha trò để lập lại trật tự, bởi tôi thấy rõ mẹ tôi sắp khóc:
- Con sẽ đóng một lúc ba cái, chất lượng theo yêu cầu.
Bố tôi cải chính:
- Bốn cái! Loại đàn ông như mày suốt ngày mơ vuốt ve đàn bà, chả nên sống”.
Những lời đoạn đối thoại trên cho thấy, một gia đình có bốn người, thuộc ba thế hệ (bà
nội tôi, cha tôi, mẹ tôi và tôi) không ai chịu hiểu ai, không ai chịu gần ai, mỗi người đều mang
nặng nỗi cô đơn tiền định, mỗi người một ký ức và sự mong chờ của họ cũng chẳng có điểm
chung. Ôi, luân hồi! trong khi vòng đời của người này sắp hết thì người khác nó lại đang mở ra.
Không ít người chờ đợi cái chết như một ân sủng. Tác giả Tạ Duy Anh ngầm gửi gắm những
triết lí về nhân sinh, về cuộc đời. Những triết lí đó của ông thường đặt vào những phát ngôn
trực tiếp của nhân vật. Nhân vật phát ngôn ra những triết lí ấy cũng không chỉ tập chung ở một
hạng người, một lớp người nào đó trong xã hội. Có khi ở những nhân vật có học hành đàng
hoàng tử tế, song cũng nhiều khi những triết lí ấy lại được đặt ở cửa miệng những người ít học,
thô mộc, dân dã. Thậm chí được trao vào lời của những kẻ phàm phu phục tử, những kẻ tha hóa
biến chất.
Đôi khi trong đối thoại, các nhân vật giao tiếp không hiểu được nhau vì dường như mọi
tâm tư, tình cảm họ cố dấu kín trong lòng. Chẳng hạn sự đối thoại giữa nhân vật “tôi” với lão
Mị trong Luân hồi:
- “Chào cụ! Cụ có nhớ cháu không?
Lão Mị chớp chớp cặp mắt tối om như miệng hai lỗ huyệt rồi lập bập nhè vội chiếc đầu cá
số chưa kịp nuốt.
- Hú!...
- Cháu đây. Cháu cụ Thủ đây, cụ quên rồi à?
- Hú… Hú…!
- Cháu là cháu nội cụ Trương, chả nhẽ cụ cũng không nhớ ư?
- Hú… Hú… Hú…!
- Thế cụ có biết bố cháu không?
Lão Mị hú một hồi dài… Lão quay bốn phương tám hướng và tru lên như một con sói già
của thuở khai thiên lập địa, trước khi từ giã đồng loại”. Tiếng hú của lão Mị như vọng xuống
chín tầng âm phủ rồi lại vang lên chín tầng trời, vừa hùng tráng, vừa thê thảm. Tiếng hú vừa là
thế giới riêng chất chứa những ám ảnh, vừa là phương thức đối thoại đặc thù của nhân vật khi
đột nhiên sau nửa đời sống cô độc có người đến gần và cất tiếng chào lão. Mặt khác, đối thoại
trên nó tô đậm đặc trưng số phận của nhân vật: bơ vơ, cô độc, xa lạ với tất cả. Nhân vật co lại,
khép kín và sống trọn vẹn với sự cô độc. Cách đối thoại này không làm cho các nhân vật xích
lại gần nhau, ngượi lại càng nới rộng thêm khoảng cách vốn đã rất khó lấp đầy giữa họ.
Một đặc điểm không khó nhận ra khi khảo sát ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Tạ
Duy Anh, đó là: Các lời thoại nhân vật thường ngắn ngủi, cộc lốc, rất ít từ đưa đẩy. Về cấu trúc
ngữ pháp, phần nhiều, các lời thoại đều là những câu đặc biệt: “Đừng xỏ lá thế, tôi van ông!
Cái gì? Tôi hắt ông ta ra: Bố mày thích chết chả lẽ không được? Không được! Giọng ông giám
đốc đổi sang lạnh lùng: Tưởng dễ thế à!” (Người khác) ), “Không chịu à? Phải tội… Không
định tố chứ? Không. Thề đi! Thề!” (Gã Thọt). Những lời thoại ngắn ngủi, cộc lốc ta cũng thấy
trong Lũ vịt trời:
- Ông Khổ đấy phải không?
- Ai… đấy?
- Con đây… Trung đây.
Trung đã bò đến gần lão, dỏng tai nghe động tĩnh rồi lại thì thào:
- Nhiều thóc quá. Đàn cứ tròn lại như cái nong.
- Mấy đêm rồi? – Lão Khổ cũng thì thào hỏi lại.
- Một tuần!
- Có biết ai không?
- Những người có vịt, chỉ mình ông là không biết thôi.
- Tao chịu phục tụi mày. Thảo nào!
- Biết làm sao được.
Thậm chí, kể cả phải nhắc nhở cảnh báo hoặc nhờ vả nhau người ta cũng rất kiệm lời:
“Một bận anh chặn tôi lại, riết róng: Tại sao chị Thư không lên đê? Em không biết. Mày có tin
chị Thư bị hủy không? Không. Nhắc lại! Không. Anh Tú dứ nắm đấm vào mặt tôi: Mày mà hở
ra với ai, tao đập chết”. (Truyền thuyết viết lại)… Với kiểu đối thoại cộc lốc này, các nhân vật
dường như bị đánh đồng, không còn phân biệt tôn ti trật tự. Sự kiệm lời của nhân vật khiến
người đọc nghi ngờ về đời sống tình cảm cũng như sự phong phú, sâu sắc trong thế giới tâm
hồn họ.
Qua sự ghi nhận sáng tạo của tác giả Tạ Duy Anh trên lĩnh vực ngôn ngữ nghệ thuật, ta
thấy các nhân vật đối thoại trong truyện ngắn Tạ Duy Anh luôn hướng vào nhau nhằm hiểu biết
lẫn nhau trong quá trình giao tiếp. Nội dung phát ngôn sau cố gắng làm sáng rõ nội dung của
những phát ngôn trước đó. Chứng tỏ ý thức chủ động sáng tạo của tác giả Tạ Duy Anh trong
việc lựa chọn và sử dụng tất cả mọi yếu tố, phương tiện, huy động mọi khả năng vốn liếng tiếng
nói của dân tộc cho mục đích thẩm mỹ của mình.
3.1.2. Ngôn ngữ độc thoại
Nếu đối thoại là một cách miêu tả nhân vật trong sự đối mặt của nó với người khác thì
độc thoại là để nhân vật tự nói với chính mình, tự bộc lộ những suy tư thầm kín “thể hiện trực
tiếp quá trình tâm lý, nội tâm, mô phỏng hành động, cảm xúc, suy nghĩ của con người trong
dòng chảy trực tiếp của nó” [206]. Độc thoại trở thành thủ pháp nghệ thuật hiệu quả khi diễn tả
quá trình tự ý thức của nhân vật, cho phép đi sâu vào thế giới nội tâm đầy bí ẩn của nhân vật.
Đó là những lúc nhân vật suy tư, trăn trở về cuộc sống, về con người, về những hoàn cảnh mà
mình chịu đựng, phải trải qua.
Ngôn ngữ độc thoại thường gắn với kiểu nhân vật tự ý thức, với những trạng thái tâm lý
– tư tưởng căng thẳng. Có thể thấy nhiều tác phẩm Tạ Duy Anh có điểm song trùng giữa “tôi” –
nhân vật – người kể chuyện và hình bóng cái tôi tác giả. Sự chuyển hóa, hòa nhập này khiến
mạch tự sự như những lời tự bạch của nhân vật. Tiếng nói của “tôi” trong Bước qua lời nguyền
cũng đa phần là lời kể hoặc những độc thoại nội tâm day dứt về một lối sống lạc hậu hoặc là
những hồi ức quá khứ. “… Chưa bao giờ tôi căm ghét đồng loại đến thế. Nửa đêm tôi lẻn dậy
trốn khỏi nhà cùng cây vồ sàn bằng gỗ lim. Đây rồi, sự ngu ngốc, thói dởm đời, lòng thù hận,
đều vì những cây nấm độc này. Tôi đập nát tất cả bảy chiếc miếu thờ để suốt đêm ấy ngồi khóc
âm thầm như kẻ bị ruồng bỏ. Bây giờ các vị đã nằm cả đây, nơi trước kia chỉ là cái gò con
ngựa. Bỗng dưng tôi cảm thấy cô đơn. Đời người thật ngắn ngủi. Đôi khi có cảm giác người ta
chưa kịp để lại gì cho trần thế, đã mất hút trong sự lãng quên khắc nghiệt không biết ở dưới mồ
có còn vị nào chưa yên giấc. Tôi tha thứ cho các người. Bởi vì ngày ấy cũng đã mười năm.
Mười năm đủ cho tôi thấm nỗi đau của cả mấy thế hệ mà số phận bị nhào nặn bằng một bàn
tay phàm tục. Giờ đây ở giữa sự hoang lạnh của khu nghĩa địa, tôi lại nhớ đến cái đêm khủng
khiếp ấy”. Đan xen giữa câu chuyện được kể là dòng hồi ức và chiêm nghiệm của nhân vật
“tôi”. “Tôi” vừa là lý giải bi kịch của người cha, của bản thân, của thời đại vừa bộc lộ tư tưởng
của mình. Qua tiếng nói độc thoại, bộc lộ tư tưởng của một thế hệ mới, dũng cảm bước qua
thành trì của quá khứ để yêu thương và quên hận thù. Những tiếng nấc nghẹn nén sâu trong
lồng ngực của cái nhìn đau đáu của người phụ nữ mãi đọng lại nỗi buồn tủi, cô độc. Nó kết tụ
lại nỗi tủi hờn, câm lặng của người đàn bà tuổi ba lăm có tên là chị Túc trong Xưa kia chị đẹp
nhất làng. Mênh mang trong tác phẩm là âm hưởng ngậm ngùi thương cảm: “Chị chờ ai, chờ
cái gì và điều đó đem lại cái gì”. Cái điệp khúc bi tráng: “Ngày nào đó…” càng viền nổi lên
gương mặt chị. Ẩn dưới hình thức ghi chép sổ tay, thư, nhật ký… lời độc thoại nội tâm của chị
Túc hướng tác giả giải mã thế giới tinh thần đẩy uẩn khúc của nhân vật.
Cuộc sống đời thường với chằng chịt những mâu thuẫn, nghịch lí cùng với nỗi ám ảnh
khôn nguôi bởi những năm tháng chiến tranh đã đẩy con người về trong cõi hỗn mang của kí
ức. Sau bao năm có dịp ghé về quê mà “tôi” trong Vòng trầm luân trần gian vẫn bị bủa vây
giữa hàng trăm ý nghĩ không được giải tỏa. “Lại một đêm tôi thức trắng. Tôi nghĩ đến ông tôi.
Tôi nghĩ đến bố tôi. Tôi nghĩ đến kiếp người trôi nổi, bèo bọt, vật vờ. Tôi nghĩ đến làng Đồng
bé nhỏ của tôi đã từng một thời huy hoàng, giờ đây lầy lội, tăm tối, thù hận” [9, tr 86]. Sự thật
về con người trong nhiều hoàn cảnh chỉ có thể bằng lời độc thoại mới soi sáng những vùng ẩn
khuất trong tâm tưởng, nhận diện cái đúng, cái sai, nhận thức được tốt – xấu, thiện – ác…
Trong Chuyện không có chủ đề “… Dưới ánh trăng vằng vặc, trong sự tĩnh lặng tuyệt đối, vợ
ông nằm như pho tượng, tóc xõa xuống ngực, để lộ phơi ra trước trời đất những đường nét
hoàn mỹ… Mắt ông tối sầm lại, nàng là người hay là yêu tinh? Rất có thể con hồ ly tinh nào đó
muốn rỡn chơi kẻ anh hùng, đội lốt làm người đàn bà đẹp đến nhức nhối nhường kia. Nàng tìm
gì khi âm thầm phơi mình ra trước vũ trụ huyền ảo?”. Đó là lời độc thoại của nhân vật lão Nhị,
hay buồn trong nỗi cô đơn kéo dài dằng dặc cho đến một ngày kia, lòng chĩu nặng bởi nỗi ưu tư
cô độc, cho đến phút chót cuộc đời được sống bên người vợ trẻ mà họ vẫn là những khối cô đơn
đầy bí ẩn. Qua lời độc thoại đó, nhà văn đã đi sâu vào phân tích mổ xẻ đời sống nội tâm con
người. Mỗi con người là một thế giới riêng tư vô cùng bí ẩn, không phải lúc nào cũng dễ dàng
tìm được sự đồng cảm, sự chia sẻ. Ngôn ngữ độc thoại mang chức năng rọi chiếu để nhân vật
nhận diện chính mình. Dòng độc thoại nội tâm triền miên, dòng “ý thức khốn khổ” là hành
trình nhân vật tìm mình.
Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm Tạ Duy Anh mang những đặc trưng riêng. Gắn với
quan niệm về hiện thực con người, ngôn ngữ nhân vật là phương diện biểu hiện và soi chiếu
trung thực thế giới tinh thần của nó. Sự “nhập cuộc” của tác giả hôm nay đã cuốn hút họ tham
gia thảo luận, lý giải nhiều vấn đề của thực tiễn đời sống, của nhân sinh để hướng tới sự thật,
chân lý. Có thể nói rằng, mức độ thành công của tác phẩm, sức cuốn hút của nó đối với người
đọc phụ thuộc vào khả năng thể hiện ngôn ngữ tạo ra những tiếng nói khác nhau trong tác
phẩm. Một đặc điểm dễ nhận thấy trong cách xây dựng nhân vật của Tạ Duy Anh là không tập
trung vào miêu tả tính cách nhân vật. Ông đặc biệt chú trọng tổ chức ngôn ngữ đối thoại, độc
thoại của nhân vật. Miêu tả nhân vật khi đang đối thoại, để nhân vật tự nói về mình qua độc
thoại là sở trường của nhà văn. Dù viết về con người trong quá khứ hay trong hiện tại, nhà văn
cũng vẫn muốn thông qua đó để phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống hôm nay. Thông
qua ngôn ngữ nhân vật, chúng ta có dịp hiểu sâu hơn cái ngồn ngộn, bộn bề, phức tạp của đời
sống nhân sinh, những tâm tư tình cảm cũng như những khát vọng luôn đi liền với những bi
kịch của con người. Không chỉ vậy, qua ngôn ngữ nhân vật, ta còn thấy được sự nhạy cảm, tinh
tế, bản lĩnh trung thực trong trái tim của một nhà văn chân chính – một người luôn nhìn thẳng
vào hiện trạng nhếch nhác, nham nhở đồi bại của cuộc đời để giúp cho con người hiểu rõ hơn
về mình, về đồng loại, tích cực đấu tranh với cái ác, cái xấu để hoàn thiện nhân cách cũng như
xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất thảy mọi người.
3.2. Giọng điệu trần thuật
Giọng điệu là linh hồn của tác phẩm, là cái thần của nhà văn. Nó là một “phạm trù thẩm
mỹ” có vai trò rất lớn tạo nên phong cách nhà văn. “Qua giọng điệu, bày tỏ thái độ, tình cảm
lập trường, tư tưởng đạo đức của mình với đối tượng được miêu tả” thể hiện trong “lời văn quy
định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thô sơ, thành kính
hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [31, tr 112 – 113]. Giọng điệu trong tác phẩm thường
hết sức đa dạng và phức tạp. Mỗi tác phẩm thường không chỉ có một giọng điệu đơn thuần mà
có sự đan xen của nhiều giọng điệu khác nhau trên cơ sở một giọng điệu mang tính chủ đạo.
3.2.1. Giọng chiêm nghiệm, suy ngẫm
Theo TS. Nguyễn Thị Bình, “Hứng thú nghiên cứu đời sống và trình bày trải nghiệm cá
nhân cùng thái độ hoàn toàn tự tin về mình” đã đem lại giọng điệu từng trải, chiêm nghiệm
trong văn học. “Điều này trước đây thường thấy ở văn Nguyễn Khải. Từ năm 1975 nó lan sang
nhiều như Lê Lựu, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Khắc Tường, Chu Lai, Nguyễn Minh Châu…”
[44, tr 366].
Trong hệ thống giọng điệu đa dạng của truyện ngắn Tạ Duy Anh thì giọng điệu chiêm
nghiệm, suy ngẫm được thể hiện rất sâu sắc với những suy tư về con người, cuộc đời, thời thế
và đồng loại… Các nhân vật sau khi nếm đủ những đắng cay cơ cực của một kiếp người, đều tỏ
ra rất thâm trầm trải nghiệm. Có khi chỉ một chi tiết, một sự kiện cụ thể nhỏ nhặt cũng được
nâng lên thành triết lý, thành quy luật chung của con người, cuộc đời. Sự chiêm nghiệm triết lý
cũng có rất nhiều trong suy nghĩ, trong cách nhìn nhận của nhân vật tôi – người đại diện cho thế
hệ tương lai trước quá khứ và nỗi khổ đau của cha ông mình, trước sự tăm tối, thù hận mãi của
những kiếp người. Sau 10 năm tha phương trở về của nhân vật tôi (Bước qua lời nguyền) đã có
cái nhìn già dặn sâu lắng: “Bỗng dưng tôi cảm thấy cô đơn. Đời người thật ngắn ngủi. Đôi khi
có cảm giác người ta chưa kịp để lại gì cho trần thế đã mất hút trong sự lãng quên khắc nghiệt.
Không biết ở dưới mồ còn vị nào chưa yên giấc? Tôi tha thứ cho các người. Bởi vì ngày ấy
cũng đã 10 năm. Mười năm đủ cho tôi thấm nỗi đau của cả mấy thế hệ mà số phận bị nhào nặn
bằng một bàn tay phàm tục” [1, tr 160]. “Nhưng cũng có khi là sự uất hận, muốn gào thét, đập
phá: mảnh đất chết tiệt! Tôi muốn gào thật to vào bầu trời hằn sâu, tôi muốn gào xuống tận âm
ty địa ngục cho kẻ thù nghe thấy, biết rằng chẳng để làm gì”[1, tr 143]. Hay “Tôi chống gậy
giờ dẫm đi trên con đường làng ngập phân trâu. Tôi muốn phạng thật mạnh vào cái gì đó. Tôi
ngửa cổ lên trời ứa nước mắt. Con người thật khốn khổ. Đời này làm tội đời kia, người này làm
tội người khác” [1, tr 401]. Trong Xưa kia chị đẹp nhất làng đã có những âm hưởng ngậm
ngùi thương cảm: “rồi cả làng lại thấy chị Túc ra đi âm thầm như con vạc lẻ đàn”, “chị chờ ai,
chờ cái gì và điều đó đem lại cái gì? Một thân phận héo mòn cô đơn” [1, tr 17]. Có lúc giọng
điệu lại xót xa cay đắng “giờ đây có ai về làng Hạ hỏi đến chị Túc sẽ được mọi người trả lời
thế này chị Túc chửa hoang phải không? Cả làng ai còn lạ? Một dạo chị ấy điên tình bỏ đi lang
thang rồi đem về một đứa con…”, “Vâng, cứ hỏi chị Túc chửa hoang thì cả làng chẳng ai lạ.
Không mấy ai còn nhớ xưa kia chị Túc xinh đẹp và tài đảm nhất làng” [1, tr 27]. Trong Bước
qua lời nguyền giọng ngậm ngùi được thốt ra từ một nhân vật nổi tiếng ác bá một thời: “cậu
Tư ơi! Cậu cứ lớn lên đi rồi cậu sẽ hiểu tôi chả là gì trước số phận, trước thời thế. Tôi có trực
tiếp đánh ông cậu đâu. Tôi có trực tiếp chôn sống chú cậu đâu. Cuộc đời cũ ắt nó phải thế” [1,
tr 148].
Hầu hết các nhân vật “tôi” đều là những con người trải nghiệm, chiêm ngẫm và am hiểu
lẽ đời. Tất nhiên điều này họ chỉ nhận ra khi bản thân đã ngấm đầy thương tích và đổ vỡ. Cái
nhìn của họ về cuộc đời, về danh vọng, về tự do, về công lý… hòa trong giọng triết lý nhẹ
nhàng mà cay đắng thế sự. “Đời đáng ngán thật”, câu than ngắn mà như một tiếng thở dài,
“kiếp người thật phù du bèo bọt”. Danh vọng “là thứ đôi khi rất hão huyền, khốn nạn, hiển
nhiên nhất ở sự phù phiếm”. Mỗi tác phẩm là một sự đảm nhận đau đớn về kiếp người ngắn
ngủi. Trong truyện ngắn Tội tổ tông mô tả khoái cảm man rợ của lão Đình khi đánh nhau với
bày dơi quạ. Bóng đêm tan loãng, lão trở lại lặng lẽ, lầm lũi như một pho tượng đá ngàn năm
trơ trụi. Ai có thể chia sẻ những “cuộc tâm sự” đắng ngắt của lão: “Cả cõi nhân gian này tôi đố
anh tìm đâu ra một thằng người nào có số phận chó đểu hơn tôi. Đến vợ con nó cũng ớn…”.
Người duy nhất được lão bộc bạch gan ruột cũng chẳng thể làm gì giúp lão. Để tri ân lão Đình,
anh ta “viết những dòng tâm sự kính gửi ông Adam và bà Eva đang hạnh phúc ở cõi vĩnh hằng”
[9, tr 174]. Phải chăng đây vừa là cái nhìn phản tỉnh về sứ mệnh của nhà văn, vừa là cái cận
vấn không khoan nhượng về ý nghĩa cuộc sống của con người? Cảm nhận sự mong manh về
của số phận con người tác phẩm Tạ Duy Anh bao giờ cũng chất chứa những nỗi lo âu, khắc
khoải. Trong một khoảnh khắc nào đó, nhiều nhân vật đã thốt lên: “Cuộc đời thật ngắn ngủi!”.
Buồn thay, đó là kết quả của sự chiêm nghiệm chứ không phải là cảm xúc nhất thời. Ở phương
diện này, tư tưởng Tạ Duy Anh có điểm tương đồng với Kafka, và nhân vật trong tác phẩm của
Tạ Duy Anh dường như là những hậu duệ của một kiểu nhân vật Kafka.
Giọng chiêm nghiệm, suy ngẫm trong truyện ngắn Tạ Duy Anh chứa đầy nỗi niềm suy tư
khiến người đọc phải chìm sâu vào thế giới nội tâm để cùng băn khoăn thao thức, cùng tâm sự
và cùng giãi bày chia sẻ. Với giọng điệu này, mỗi người đọc dường như cũng tìm được sự đồng
cảm về cảnh ngộ, về tâm trạng, về những thăng trầm chìm nổi của kiếp người.
3.2.2. Giọng đay đả, tự vấn
Truyện ngắn Tạ Duy Anh ẩn chứa một giọng đay đả tự vấn để nhìn sâu hơn vào hiện
thực cuộc sống và bản thân mình. Trong cung bậc phong phú và khó phân tách của giọng điệu
trần thuật Tạ Duy Anh, giọng đay đả tự vấn nói lên là một giai điệu “riết róng” và “ám ảnh”.
Nó không ngừng đưa ra câu hỏi và truy tìm lời giải đáp. Không đi thẳng vào vấn đề, nhìn thẳng
vào vấn đề gai góc của cuộc sống. Những suy tư về cuộc đời toát ra từ truyện ngắn Bước qua
lời nguyền, Vòng trầm luân trần gian… được thể hiện tập trung và dồn nén trong cái “tôi” tự
vấn về bản thân mình. Không chỉ dừng lại ở câu hỏi: Tôi là ai? Theo cách nói vốn quen thuộc
trong truyền thống, với Tạ Duy Anh nó còn là ở chỗ con người tự dành cho mình một khoảng
thời gian để suy nghĩ và truy tìm mình, để tránh rơi vào chỗ trống của sự vong thân, vong bản.
Từ đó làm thế nào để cho môi trường sống trong sạch cho thế hệ tương lai.
Tạ Duy Anh khác các nhà văn cùng thời khi đi thẳng vào những vấn đề gai góc của xã
hội hiện đại. Vẫn là ở chỗ văn học xưa và nay đều xoay quanh vấn đề cái “tôi” – bản ngã và
cuộc chiến giữa cái thiện – cái ác, sự tha hóa về đạo đức nhân phẩm… Nhìn nhận với một góc
độ mới là sự đay đả tự vấn là một điểm mới trong truyện ngắn của Tạ Duy Anh, càng đay đả tự
vấn bao nhiêu nhà văn càng làm cho những trang viết của mình tuột khỏi tâm trí người đọc, tạo
được giọng điệu có chiều sâu nhân bản và mang tầm vóc nhân loại. Day dứt, trăn trở, khắc
khoải, riết róng về vấn đề nhân sinh và luôn tự vấn, ấy chính là giọng chủ trong tác phẩm của
nhà văn Tạ Duy Anh, giọng điệu khá riêng biệt so với lớp nhà văn đương đại. Đây là đặc điểm
đưa Tạ Duy Anh trở thành nhà văn của đạo đức và bảo vệ niềm tin cho con người.
Trước hết là những mặc cảm về quá khứ đeo đẳng, giày vò. Con người cả cuộc đời chìm
trong bóng tối của thù hận, quy kết, đấu tố triền miên. Cảm nhận của nhân vật “tôi” trong Bước
qua lời nguyền: “Đời người thật ngắn ngủi. Đôi khi có cảm giác người ta chưa kịp để lại gì cho
trần thế đã mất hút trong sự lãng quên khắc nghiệt”. Dường như tác phẩm của Tạ Duy Anh (mà
rõ nhất ở Bước qua lời nguyền, Vòng trầm luân trần gian) lại tiếp tục xới lên những vấn đề
mới. Cả cuộc đời quá ngắn ngủi, con người “đã thấy mệt mỏi đến tận cùng trong cuộc loại trừ
nhau”, rốt cuộc “điều khủng khiếp của đời người là sự vô nghĩa” và việc không chịu tìm ra lý
do tồn tại của mình sai lầm lớn nhất của con người. Vì vậy, trên hành trình tìm lại “ánh sáng
ban đầu” các tác phẩm của Tạ Duy Anh đều mang cảm hứng yêu thương và sự thỏa mãn khát
vọng yêu thương, chẳng có con đường nào khác là bước qua lời nguyền, gạt bỏ đi hận thù của
quá khứ, ân xá cho nhau. Nhưng Tạ Duy Anh là nhà văn muốn bảo vệ cái đẹp, cái thiện và giữ
vững niềm tin cho con người nên không xa vào chất giọng cay đắng hay cười cợt mỉa mai. Đôi
khi nhà văn cười những thói xấu của người đời, cái cười để tẩy sạch và thanh lọc, nhân vật tự
trào, tự giễu như một sự tự ý thức về bản thân, nhân vị mình trong cuộc đời mà giữ cho lòng
bình an.
Thứ hai, là giọng điệu đay đả tự vấn được thông qua việc phơi bày hiện thực và cái xấu
của con người trong xã hội hiện đại. Một mặt là những ám ảnh về quá khứ đeo đẳng để đánh
thức cái thiện trong mỗi con người, là sự thức tỉnh lương tâm, là sự phán xét của mỗi con người
khi phải đối diện với chính mình. Phơi bày cái xấu để cảnh tỉnh, để nhân vật phải vật lộn, giằng
xé trong sự đấu tranh quyết liệt với cái xấu, cái ác, cái thấp hèn để con người tự lên án, tự biện
hộ cho chính mình. Họ vừa là bị cáo vừa là quan tòa trước tòa án lương tâm của chính mình.
Đây cũng chính là sự tham gia tích cực của nhà văn vào cuộc sống đương đại.
Bên cạnh đó, trong truyện ngắn Tạ Duy Anh nhân vật trí thức được nhắc đến không
nhiều, nhưng lại hay có những triết lý kiểu trí thức và cảm giác kiểu trí thức. Chính vì thế, nhân
vật phải “mượn” giọng trí thức. Giống với Nam Cao, Tạ Duy Anh cho mình sự lãnh đạm của
người trí thức trong lối mô tả hiện thực, nhất là về những cái xấu, cái ác. Tuy nhiên, nếu như
nhân vật trí thức của Nam Cao là đại diện cho tầng lớp thì nhân vật ở truyện ngắn của Tạ Duy
Anh chỉ mượn danh trí thức. Nên giọng điệu trần thuật của nhân vật “tôi” là giọng giả danh trí
thức.
Với sự phối hợp của nhiều giọng điệu khác nhau, đi lên từ những trải nghiệm và đắng
cay nước mắt đã tạo cho văn chương Tạ Duy Anh có một sức hút lạ kỳ. Nó khơi gợi người đọc
sự đồng cảm, bao dung thấu hiểu, chia sẻ… Viết về những cái xấu, cái ác, có một cái gì cứ đay
đả, day dứt, khắc khoải về nhân sinh, nhân phẩm. Nó khẩn khoản một khát vọng truy tìm căn
nguyên nhưng lời đáp cứ xa xăm vời vợi, lơ lửng đâu đây, để lại đắng cay trong lòng người.
Chính vì lẽ đó, tác phẩm Tạ Duy Anh đã đi vào lòng người với chiều sâu của tình yêu thương,
của một khát vọng luôn muốn giải thoát cho bao kiếp người khỏi sự trầm luân, khổ ải. Bởi vậy
giọng điệu cũng đã góp phần quan trọng tạo nên giá trị nhân bản và thành công trong tác phẩm
của ông.
3.3. Kết cấu nghệ thuật
Thuật ngữ kết cấu được sử dụng khá rộng rãi ở nhiều lĩnh vực như khoa học kỹ thuật, hội
họa, điện ảnh… và cả trong sáng tác văn học.
Nói tới kết cấu là nói tới sự sắp sếp, phân bố các thành phần khác nhau của các hình thức
nghệ thuật tác phẩm. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, kết cấu là “toàn bộ tổ chức nghê
thuật phức tạp và sinh động của tác phẩm” [31, tr 31]. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở
sự tiếp nối bề mặt, ở những tương phản bên ngoài giữa các bộ phận chương, đoạn mà còn bao
hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm.
Kết cấu tác phẩm trong phần sâu sắc nhất của nó không phải là sự liên kết theo những
công thức, biện pháp có sẵn mà là liên kết theo sự phát triển đời sống và suy nghĩ của nhà văn
tạo thành một hệ thống liên kết tạo ra hiệu quả tư tưởng – thẩm mỹ. Hiểu như vậy thì “kết cấu
là toàn bộ tổ chức tác phẩm trong tính độc đáo, sinh động và gợi cảm của nó” [30, tr 91]. Mọi
phương diện tổ chức tác phẩm, từ nhỏ nhất như ví von, ẩn dụ, mỉa mai, câu, đoạn cho đến tổ
chức trần thuật, hệ thống hình tượng, thể loại, cốt truyện… đều thuộc phạm vi kết cấu. Chúng
kết hợp nhau để tạo ra tính hình tượng và chiều sâu nội dung của tác phẩm.
Kết cấu cũng là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. “Lựa chọn một
kết cấu nào nhà văn bao giờ cũng nhằm nâng cao sức biểu hiện của đề tài và chủ đề, tăng
cường sức tác động nghệ thuật, phục vụ tối đa cho nhiệm vụ nghệ thuật và tư tưởng tác phẩm”
[30, tr 94].
Kết cấu thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn và không bao giờ tách rời với nội
dung cuộc sống, tư tưởng trong tác phẩm. Vì kết cấu tác phẩm thể hiện quá trình vật lộn của
nhà văn với tài liệu sống để biểu hiện một chân lý khái quát. Nó phản ánh quá trình tư duy của
nhà văn và quá trình vận động của tư duy ấy. Tư tưởng sống động của nhà văn bao giờ cũng
biểu hiện trong kết cấu qua kết cấu. Còn tác phẩm văn học là những sáng tạo độc đáo không lặp
lại, mà cái quyết định chiều sâu cuộc sống là tâm hồn nghệ sĩ trong tác phẩm. Cho nên, kết cấu
chỉ có ý nghĩa khi nào nó phục vụ cho việc biểu hiện một nội dung nhất định.
Kết cấu tồn tại ở hai cấp độ: cấp độ hình tượng và cấp độ trần thuật. Hai cấp độ này kết
hợp với nhau làm cho kết cấu tác phẩm có thêm những bình diện đặc thù.
Cấp độ hình tượng “gắn liền với toàn bộ tổ chức của thế giới nghệ thuật bao gồm hệ
thống các nhân vật, hệ thống các sự kiện, tình tiết và trình tự xuất hiện của chúng, tương quan
các chi tiết tạo hình, biểu hiện tạo nên bức tranh sinh động về cuộc sống, các tương quan về
không gian và thời gian. Đây là cấp độ kết cấu bề sâu, gắn liền với ý đồ nghệ thuật và các tính
cách được phản ánh”.
Cấp độ trần thuật, còn gọi là kết cấu văn bản trần thuật bao gồm sự liên tục của các biện
pháp trần thuật, cũng như sự tổ chức các câu, sự vận dụng các phương thức tu từ. Ở cấp độ này
người ta thường nói đến bố cục như là một kết cấu bề mặt, bao gồm sự sắp xếp, phân bố các
phần của nội dung vào các mảng của trần thuật như chương, đoạn…
Nói cách khác, kết cấu văn bản nghệ thuật của tác phẩm văn học là sự tổ chức ở bình
diện trần thuật. Đó là sự phân bố thế giới hình tượng qua một văn bản ngôn từ nhằm đạt được
hiệu quả tư tưởng thẩm mỹ. Văn bản ngôn từ nào cũng có mở đầu và kết thúc. Chuỗi ngôn từ
mở đầu cho đến kết thúc là một trật tự cố định không thể thay đổi. Đồng thời ngôn từ nào cũng
là một quan hệ giữa lời nói và khách thể lời nói, tạo thành tính hai bình diện của nó. Nhà văn
phải vận dụng các trật tự cố định của ngôn từ và tính hai bình diện của nó để tổ chức trần thuật
nhằm tạo được hiệu quả tạo thành và biểu hiện tối đa. “Nhiệm vụ của nhà văn là nhào nặn vốn
sống để xây dựng thành những sinh mệnh nghệ thuật – tái hiện những bức tranh đời sống giàu
tính khái quát, nghĩa là phải tổ chức lại chất liệu sống, bỏ bớt đi những cái thừa, phát triển
thêm cái chưa có, nối liền cái xa nhau, tạo thành một chỉnh thể mang giá trị nghệ thuật” [64].
Vì vậy, trước khi bắt đầu sáng tác, bao giờ nhà văn cũng quan tâm đến việc làm thế nào để tác
phẩm trở nên hấp dẫn, ấn tượng, với người đọc, đồng thời còn phải chuyển tải được tối đa ý đồ
nghệ thuật của mình. Để làm được điều đó, bên cạnh việc chọn đề tài, thể loại, nhân vật… việc
lựa chọn một hình thức kết cấu cho tác phẩm như là một thao tác tất yếu đồng thời nảy sinh.
Kết cấu tác phẩm là “toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ
nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình”, nó không bao giờ tách rời nội dung cuộc
sống và tư tưởng trong tác phẩm. Ở mỗi thời kì, mỗi thể loại, mỗi cá nhân nhà văn, cách thức tổ
chức tác phẩm có những đặc thù khác nhau. Vì vậy, có thể nói, ở mỗi nhà văn, chúng ta có thể
tìm thấy những nét tiêu biểu của phong cách nghệ thuật qua nhiều thủ pháp nghệ thuật trong đó
có nghệ thuật kết cấu tác phẩm. Tạ Duy Anh là nhà văn thu hút được đông đảo dư luận những
năm sau đổi mới, điều này có nhiều nguyên do. Song trong đó, cách thức tổ chức kết cấu tác
phẩm cũng là một nhân tố quan trọng.
3.3.1. Cách mở đầu tác phẩm
Là một nhà văn hiện đại, Tạ Duy Anh kế thừa một cách rất hợp lí kết cấu của văn chương
truyền thống để tạo ra những nét riêng khó hòa lẫn trong nghệ thuật tự sự của mình. Có khá
nhiều truyện ngắn của Tạ Duy Anh mở đầu theo công thức truyền thống: Xưa kia chị đẹp nhất
làng, Luân hồi, Con vẹt, Chuyện của đời người… Với cách mở đầu này, người đọc có thể
nắm bắt được lai lịch, xuất thân của nhân vật ngay từ khi mới tiếp xúc với tác phẩm.
Trong truyện ngắn Xưa kia chị đẹp nhất làng Tạ Duy Anh đưa ra lời giới thiệu hết sức
ngắn ngọn về nhân vật: “Ngày ấy, chị Túc xinh lắm. Ở tuổi mười tám chị tươi rói như một bông
hoa. Với thân hình thon thả, bờ vai chị tròn trịa, lẳn trong chiếc áo màu nâu tươi. Cặp môi chín
mọng của chị khẽ mở ra, để lộ nụ cười có sức hút mê mệt. Cặp mắt giống như hai miếng cau bổ
khéo của chị chớp nhìn xuống đất. Chị xinh đẹp nhưng chẳng kiêu chút nào. Tiếng cười của chị
vô tư như chính vẻ duyên dáng của chị, chân trắng ngần bước đi mềm mại”. Chính vẻ đẹp từ
ngoại hình đến phẩm chất của chị, chị Túc hiện thân cho vẻ đẹp của một người phụ nữ nông
thôn truyền thống: vừa đẹp nết, vừa đẹp người. Đó là nét đẹp của sự mặn mà, duyên dáng, đằm
thắm dịu dàng của những cô gái thôn quê. Cô gái ấy đầy những khát khao yêu thương nhưng
cũng đầy rụt rè, cả thẹn, đã phải ân hận, trách mình mãi vì không để cho bạn trai chỉ được một
lần cầm tay trước lúc lên đường ra mặt trận. Cái nhìn của nhà văn dừng lại ở sự thiệt thòi,
những nỗi bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh chịu trong chiến tranh.
Truyện Luân hồi, có cách mở đầu hơi dài dòng:“Tôi sinh ra từ những cơn mưa. Vào một
đêm sâu thẳm nào đó, trong nỗi cô đơn khủng khiếp, cha tôi lang thang đi tìm một miền khô
ráo. Ông đã nằm mơ thấy trước tất cả những gì sẽ diễn ra. Trong cơn dập vùi của trời đất, ông
thấy tôi mang hình một quả cầu lửa…”. Song, chính những chi tiết này, người đọc khó nắm
được lai lịch nhân vật, lai lịch một dòng họ mà hiểu được khát khao chính đáng của những con
người trong dòng họ này, với những nỗi ám ảnh thôi thúc nhân vật kiếm tìm suốt thời trai trẻ.
Ở đoạn văn mở đầu truyện ngắn Con vẹt, tác giả viết “Giáo sư Bạch là một người đáng
kính không chỉ do tuổi tác. Những công trình khoa học của ông, dù lớn hay nhỏ, đều khiến đồng
nghiệp và bạn đọc nói chung ngạc nhiên trước hết bởi tính đa tài của chủ nhân. Cùng một lúc
ông là nhà ngôn ngữ học, văn hóa học, sử học, nhà phê bình, nhà thơ, triết gia… Nhưng ông
thích mọi người gọi theo lối xưng hô hiện đại: Giáo sư Bạch”. Trong đó, tác giả cung cấp cho
người đọc thông tin về nhân vật: tên, tuổi tác, công việc, chức vụ… Đồng thời qua các giới
thiệu nhân vật người đọc còn hình dung ra tính cách nhân vật.
Trong truyện ngắn Chuyện của đời người, ngay trong phần mở đầu tác phẩm, Tạ Duy
Anh đã giới thiệu về nhân vật, làng quê – nơi nhân vật sinh sống: “Tôi sinh ra và lớn lên ở một
cái làng nhỏ nằm chơ vơ giữa bốn bề đồng nước. Làng Trại của tôi nghèo lắm. Có những
người từ khi tôi biết đến lúc chết vẫn lầm lụi sống bằng cách vắt kiệt sức mình…”. Qua đó
người đọc hình dung được sợi dây gắn bó máu thịt của nhân vật với nơi chôn rau cắt rốn xiết
bao thân thương của mình.
Bên cạnh đó cách xử lý không gian, thời gian nghệ thuật cũng là yếu tố hết sức quan
trọng, truyện ngắn Xưa kia chị đẹp nhất làng của Tạ Duy Anh viết về cuộc đời của người phụ
nữ trước, trong và sau chiến tranh. Vì viết về cả đời người, lại không cho chọn moment để lảy
ra vấn đề – nên tác giả đã lựa chọn thao tác thích hợp là kể lúc “tuổi 18”, “chị Túc sang tuổi
20”, “rồi tuổi 25 lúc nào chị cũng không nhớ”, “bước sang tuổi 35”, “người đàn bà ấy sắp
sang tuổi 40”. Điểm nhìn tác phẩm được đặc vào nhân vật tôi – người kể chuyện – một đứa trẻ,
là nhân chứng của cả cuộc đời chị Túc – cô gái đẹp nhất làng sau mấy chục năm chiến tranh trở
thành “chị Túc chửa hoang”, “cuộc sống im lặng như người câm”. Toàn bộ cuộc đời của
người phụ nữ hiện ra lần lượt qua từng thời gian tuổi tác chất chồng. Để tăng thêm độ dài thời
gian, tác giả sử dụng thời gian bỏ bẵng và thời gian phiếm chỉ – “không còn nhớ bao nhiêu lượt
đơn vị bộ đội dừng chân ở làng tôi”, hay “cũng vài chục lần làng tôi háo hức chờ những lá
thư”. Những yếu tố thời gian này đan xen với từng bước thời gian cụ thể làm tăng thêm độ
khuyếch tán thời gian. Mấy chục năm trở nên đậm đặc, lê thê, in dấu của sự chờ đợi, hủy hoại,
tàn phá lên bi kịch cuộc đời phụ nữ sau chiến tranh.
Chọn thao tác kể theo dòng thời gian khách quan có hạn chế là khó đi vào tâm lý nhân
vật (bởi vì nếu dừng lại ở tâm lý thì câu chuyện sẽ dài dòng, dàn trải, vượt quá sức tải của thể
loại). Vì vậy để đi vào nội tâm nhân vật Tạ Duy Anh kết hợp ở cuối truyện dạng thức nhật ký.
Lúc này điểm nhìn di chuyển vào bên trong nhân vật, nhân vật tự bộc bạch tâm trạng, thế giới
bên trong được soi rọi, câu chuyện có thêm sức nặng của chiều sâu tâm lý.
Nhìn chung Xưa kia chị đẹp nhất làng có kết cấu không thuần nhất. Nửa đầu truyện theo
kiểu truyền thống, thời gian thuận chiều – lớp trước lớp sau, sự kiện này tiếp sự kiện kia. Nửa
sau tác phẩm dường như là một văn bản khác. Nhân vật không còn được thể hiện qua giọng kể
của người kể chuyện thông suốt mà nhân vật tự bộc lộ mình. Kết thúc tác phẩm điểm nhìn lại
đặt vào nhân vật đám đông, thông báo và phán xét cuộc đời chị Túc. Ở những truyện viết về cả
cuộc đời người các tác giả thường xây dựng những mốc thời gian. Mốc thời gian là yếu tố nghệ
thuật có giá trị khái quát cao. Các mốc thời gian thể hiện bề dày câu chuyện, khắc họa dòng đời
đang trôi chảy không ngừng. Bằng cách ấy truyện ngắn bộc lộ bản năng dồn nén của thể loại
trong việc xây dựng cả đời người. Mỗi mốc thời gian sẽ đánh dấu một sự kiện trong đời nhân
vật. Ở một số truyện các mốc thời gian diễn ra liên tiếp, dồn dập khiến thời gian trở nên gấp
gáp, căng thẳng. Đặc điểm này góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy hành động nhân vật,
tạo nên sự tăng tốc ở truyện ngắn.
Ở Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh khoảnh khắc bỏ bẵng ấy là mười năm, kể từ
đêm cuối cùng của nhân vật tôi “căm thù đồng loại, đập tan bảy cái miếu thờ trong làng rồi
khóc thầm ra đi” đến khi nhân vật trở về trong một kì nghỉ phép. Mười năm ấy là khoảng trống
thời gian không được tác giả nhắc đến nhưng lại có tác dụng lớn trong ý thức nhân vật. “10
năm đủ cho tôi thấm nỗi đau của cả một thế hệ…” Ở đây thời gian trần thuật đã rút ngắn đi rất
nhiều so với thời gian câu chuyện. Câu chuyện của mấy chục năm – ba thế hệ cô đúc lại trong
một chuyến về phép ngắn ngủi của nhân vật. Xét toàn bộ nội dung ta thấy hành động nhân vật
diễn ra ít. Thế nhưng bằng biện pháp xây dựng thời gian ngắt quãng giữa quá khứ, hiện tại,
tương lai, ảo, thực (ở khu nghĩa địa) – câu chuyện đã bộc lộ chiều sâu cũng như vấn đề khái
quát người viết muốn nêu ra, đó là vấn đề “có những lời nguyền con người phải dũng cảm bước
qua”.
Tuy nhiên, nói như vậy cũng không có nghĩa là Tạ Duy Anh hoàn toàn chối bỏ kiểu kết
cấu truyền thống, ngược lại, ông đã có ý thức kế thừa một cách tích cực một số đặc điểm trong
kiểu kết cấu này để tạo ra một kiểu kết cấu riêng, độc đáo. Mở đầu theo công thức truyền thống,
dẫn đắt người đọc đi từ lai lịch, xuất xứ nhân vật, sự kiện nhưng Tạ Duy Anh đã phá bỏ những
phán đoán tuân theo quy luật lôgíc thông thường để tạo ra những cách kết thúc mới, buộc người
đọc phải suy nghĩ, trăn trở. Nói cách khác là ông kéo người đọc vào quá trình đồng sáng tạo
thực thụ với mình.
3.3.2. Cách kết thúc tác phẩm
Trong kết cấu nếu chú ý phân tích thì các yếu tố như nhân vật, cốt truyện, tổ chức đối
thoại, sử dụng các chi tiết nghệ thuật, cách kết thúc truyện quan hệ với nhau, soi sáng lẫn nhau
theo hệ thống mở, hướng chủ yếu là khám phá, tìm hiểu đời sống con người trong quan hệ với
tự nhiên, xã hội và chính bản thân nó. Như vậy, ở góc độ tổ chức tác phẩm theo ý đồ sáng tạo
của tác giả, gần đây là một lối viết khơi gợi nhiều hơn là thuyết lý, hay tuyên truyền dạy bảo
theo một công thức định sẵn. Hướng về sự thật đời sống, ý thức về sự phức tạp đa dạng của
cuộc đời, của số phận con người, tác giả “bỏ ngỏ” tác phẩm của mình để người đọc cùng tham
gia tranh luận “Kết cấu truyện ngắn sau 1975 tự do và uyển chuyển hơn, nó không tuân thủ
theo nguyên tắc. Kết cấu truyền thống là kết thúc có hậu, giải quyết hoàn toàn các vấn đề.
Đoạn kết trong truyện ngắn gần đây đã tạo ra khoảng trống, khiến độc giả cũng trở thành kẻ
đồng sáng tạo” [75, tr 33].
Nếu trong văn xuôi truyền thống, người đọc đã rất quen với những kết thúc khép kín,
nghĩa là ở đó người ta không chờ đợi một sự quay ngược hay thay đổi nào nữa của câu chuyện
thì ở truyện ngắn Tạ Duy Anh điều này hoàn toàn có thể xảy ra. Mở đầu theo lối truyền thống,
kết thúc theo lối hiện đại, truyện ngắn Tạ Duy Anh trở thành những kết cấu không khép kín.
Khảo sát truyện ngắn Tạ Duy Anh, chúng tôi nhận thấy ông đã sáng tạo ra nhiều kiểu kết thúc
không khép kín khá độc đáo: kết thúc bỏ lửng, kết thúc với nhân vật chính tiếp tục ra đi, kết
thúc mở ra nhiều kiểu khác nhau trong việc giải quyết các xung đột và số phận nhân vật, kết
thúc đảo ngược so với cổ tích, và thực tế lịch sử…
Cũng giống như một số nhà văn hiện thực khác như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp… trong một số truyện
ngắn của mình, Tạ Duy Anh đã sử dụng kiểu kết thúc bỏ lửng. Kết thúc khi sự việc chưa hoàn
chỉnh, nhân vật chưa đi hết con đường đời của mình cũng như số phận của nhân vật chưa được
ngã ngũ. Đọc Chí Phèo của Nam Cao, người đọc cũng từng trăn trở: Không biết rồi đây Thị Nở
sinh con trai hay gái? Số phận của đứa bé thế nào? Nó sẽ trở thành người lương thiện hay rồi sẽ
trở thành một kẻ giống như cha nó, hay giống những kẻ du thủ du thực khác đầy rẫy trong các
vùng nông thôn ngột ngạt… Đọc truyện ngắn Tạ Duy Anh, người đọc sẽ triền miên trong cảm
giác day dứt tương tự.
Với Vòng trầm luân trần gian, một truyện ngắn viết về hiện thực của cuộc sống được
xem là khá thành công của Tạ Duy Anh. Trong số rất nhiều nhân vật và sự kiện, Tạ Duy Anh
chọn ra và dừng lại khá kĩ ở một số các sự việc tiêu biểu của một gia đình, một dòng họ trong
sự tối tăm hận thù… “Tôi chống gậy, dờ dẫm đi trên con đường làng ngập phân trâu. Tôi lẩm
bẩm nguyền rủa con đường. Tôi muốn phạng thật mạnh vào cái gì đó. Tôi ngửa cổ lên trời, ứa
nước mắt. Con người thật khốn khổ. Đời nọ làm tội đời kia; người này làm tội người khác… tạo
thành cái vòng trầm luân ngay trên trần gian…”, Và rốt cục, cuộc sống của họ sẽ như thế nào?
Không ai biết được, kể cả tác giả, và người đọc sẽ cứ băn khoăn, day dứt mãi với rất nhiều câu
hỏi trước kiểu kết thúc bỏ lửng như vậy của tác phẩm, cuối cùng nhân vật chính tiếp tục ra đi.
Tác phẩm Vòng trầm luân trần gian không thể kết thúc được khi sự ngưng đọng và bất công
tàn bạo đang đè nặng lên cuộc sống con người làng quê. Thời gian của câu chuyện không có
điểm dừng như kiểu kết thúc truyền thống, và điều đó mở ra không gian không giới hạn hành
trình ra đi của nhân vật trong lòng độc giả về những cuộc hành trình tiếp theo của nhân vật trên
bước đường thoát ra khỏi sự bế tắc, sự tăm tối hận thù, để vươn tới những khát vọng cao đẹp.
Phải có Bước qua lời nguyền mới phù hợp với xu thế phát triển của đời sống, không đưa
ra cách kết luận duy nhất, không nói lời cuối cùng với bạn đọc, Tạ Duy Anh còn sáng tạo đưa
ra nhiều khả năng lí giải về số phận nhân vật cũng như giải quyết các xung đột trong truyện
ngắn này: “Bố tôi gục xuống và khi ông ngẩng lên tôi tưởng như không tin vào mắt mình: mặt
ông bị vò nát bởi hàng trăm nếp gấp khắc nghiệt. Trên khuôn mặt ấy tôi thấy lại cái quá khứ
vật vã đẫm máu và nước mắt mà bố tôi vừa căm ghét vừa hãnh diện. Trên khuôn mặt ấy như
vừa thoáng hiện hình ảnh ông tôi, chú tôi, bị xé nát trong tiếng kêu cứu tuyệt vọng. Giá còn
nước mắt hẳn ông đã khóc. Tiếng ông khô khốc:
- Chờ nhau ngần ấy năm… thời buổi này không dễ có mấy người. Anh chị đã quyết, tôi cũng
không dám cản. Nhưng tôi chỉ xin ở anh một yêu cầu.
- Vâng, bố cứ nói.
- Anh hãy đợi khi nào tôi chết đi hẵng đưa nó về ở cái nhà này. Tôi biết nói ra điều ấy không
xứng đáng với một ông bố. Nhưng tôi không thể… anh hiểu ý nguyện của tôi chứ?
Bố tôi lại gục xuống như vừa bị cả một khối nặng khủng khiếp đè lên vai. Hình như ông đã
khóc được”.
Trong truyện ngắn Xưa kia chị đẹp nhất làng, có nhiều đoạn kết, dưới dạng nhật ký, viết
thư... Để chấm dứt mạch truyện thường là chưa đi đến đâu: Điệp khúc “Ngày… ngày… ngày
nào cũng thế! Giờ đây có ai về làng Hạ, hỏi đến chị Túc sẽ được mọi người trả lời thế này: Chị
Túc chửa hoang phải không? Cả làng ai còn lạ? Một dạo chị ấy điên tình bỏ đi lang thang rồi
đem về một đứa con, chẳng hiểu sao từ bấy đến nay sống im lặng như người câm... Rồi không
mấy ai trong số họ còn nhớ xưa kia chị Túc xinh đẹp và tài đảm đang nhất làng”.
Không chỉ được quyền “tùy ý lựa chọn”, qua các đoạn kết trong tác phẩm, người đọc còn
có thể nhìn nhận về nhân vật, sự kiện ở các điểm nhìn khác nhau. Tạ Duy Anh đưa ra một loạt
đoạn kết, càng nhiều đoạn kết – khả năng gợi mở của truyện càng lớn, tác giả đồng thời đưa ra
nhiều cách nhìn cho người đọc về một tác phẩm.
Trong sáng tác của Tạ Duy Anh còn có hiện tượng những nhân vật, những chủ đề trở đi,
trở lại và như vậy việc tìm kiếm cốt truyện sẽ trở nên dễ dàng hơn khi người đọc nhận ra tính
liên văn bản. Chẳng hạn như: Nhân vật người cha trong (Bước qua lời nguyền, Vòng trầm
luân trần gian, Ngôi nhà của cha tôi, Một câu chuyện cười…) Chỉ cần có một “lí do” là nhà
văn có thể sáng tác một truyện ngắn, đối thoại hoặc tiếp tục đối thoại về một luận đề nào đó mà
cuộc sống đặ ra. Lạc loài chẳng hạn, lấy một cuộc hẹn hò ngoài vợ, ngoài chồng của một đôi
nam nữ làm nguyên cớ, tác giả tiếp tục nghiền ngẫm về chủ đề nỗi sợ. Bên cạnh đó, đọc tác
phẩm của Tạ Duy Anh người đọc sẽ rất khó tóm tắt tác phẩm chỉ vì sự phá hủy logic tuyến tính
mà còn vì sự lắp ghép, cắt dán các tình tiết làm cho mạch truyện bị xáo trộn và truyện hiện lên
đầy đủ các giai đoạn, … nhưng không theo một trình tự “biên niên”. Nhà văn “chuyển kênh”
liên tục từ quá khứ sang thực tại. Và tại điểm dừng của mỗi kênh ông cũng không kể trọn vẹn
một biến cố mà chia nhỏ, cắt nhỏ ra, phân bố lại. Thời gian đứt quãng như vậy khiến mỗi đoạn
truyện – một “lát cắt”, một “mảnh nhỏ” và toàn bộ tác phẩm là sự ghép lại những “mảnh nhỏ”
ấy. Có thể đọc từ đầu đến cuối mà cũng có thể đọc bắt đầu từ bất cứ đoạn nào? Đảo lộn trật tự
thời gian chuyển sự chú ý từ sự việc sang nội tâm nhân vật một nội tâm rất lắm khi khi mù mờ,
lộn xộn những ảo giác huyễn tưởng, những ám ảnh vô thức… là thủ pháp thường được sử dụng
để gợi đến cái hỗn loạn phi lý của dòng đời đồng thời nó cũng hé mở bi kịch của con người khi
khủng hoảng niềm tin, lạc hướng bởi “tính chất vớ vẩn đong đưa của cuộc đời”. Tạ Duy Anh đã
bước đầu sử dụng biện pháp lắp ghép để kết cấu cốt truyện. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho ta thấy
sự chi phối một trong những phương diện cơ bản về hình thức tác phẩm.
Qua việc phân tích cách tổ chức các yếu tố để tạo nên hình tượng nghệ thuật, thể hiện
cách nhìn con người, trình độ chiếm lĩnh con người của tác giả, ta có thể thấy được kết cấu
truyện ngắn của Tạ Duy Anh là kết cấu mở. Nhờ kiểu kết cấu này mà những thủ pháp biểu hiện
như đã trình bày ở trên khai thác chất văn xuôi của đời sống. Kết cấu theo xu hướng nói trên,
truyện ngắn Tạ Duy Anh không chịu đầu hàng trước hiện thực phức tạp và đa chiều của đời
sống đầy biến động hôm nay. Với cách xây dựng kết thúc như vậy, Tạ Duy Anh đã đi ngược lại
quy luật cổ tích. Ông không ru ngủ người đọc trong cảm giác ngọt ngào, ông giúp người đọc
sực tỉnh sau những huyền thoại để nhận ra mặt trái của cuộc sống, để gấp trang sách lại rồi mà
lòng người đọc chẳng thể nào yên. Mở đầu theo công thức truyền thống, kết thúc theo lối hiện
đại, rất riêng rất độc đáo, đây hẳn là một trong những nét ấn tượng của nghệ thuật kết cấu trong
truyện ngắn Tạ Duy Anh.
3.4. Chi tiết nghệ thuật kỳ ảo
Chi tiết nghệ thuật kỳ ảo rất cần được xem xét, nhìn nhận trên nhiều phương diện, bởi nó
là sự thể hiện một quan niệm mới của nhà văn về thế giới, là sự chiếm lĩnh hiện thực hết sức
sinh động. Nó bao gồm nhiều hình thức nghệ thuật cụ thể như: đối thoại tâm linh, cổ tích hoá,
huyền thoại hoá… Giai đoạn đổi mới, nền văn học của chúng ta có nhiều thay đổi. Bên cạnh
việc đổi mới nội dung, các tác giả văn học còn chú ý đổi mới trên bình diện nghệ thuật. Trong
đó, yếu tố kì ảo được đưa vào sáng tác khá phổ biến, trở thành một dòng riêng với khá nhiều tên
tuổi như: Lưu Minh Sơn, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Hoà Vang, Phạm Hải Vân, Nguyễn Huy
Thiệp và Tạ Duy Anh. Lí giải về điều này có nhiều cách, song có thể hiểu rằng: Kể từ sau khi
cuộc chiến tranh vệ quốc kết thúc, những vấn đề rộng lớn, những tình cảm lớn thuộc về một
thời đã dần nhường chỗ cho những vấn đề về số phận cá nhân. Đề tài của văn học không chỉ
dừng lại ở hiện thực khách quan mà đã chuyển dần sang địa hạt tâm linh, những trăn trở uẩn
khúc đang diễn ra quyết liệt trong tâm hồn con người. Những diễn biến tâm linh rất khó nắm
bắt, những hiện tượng con người không tự lý giải được bằng hình thức suy lý một thời là những
nhân tố quyết định hướng các nhà văn đến với địa hạt của yếu tố kỳ ảo. Yếu tố kỳ ảo là một
hình thức đắc dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng khó nắm
bắt của con người, để từ đó “thấu triệt” con người ở phần nhân tính, mơ hồ và huyền diệu. Yếu
tố kỳ ảo có thể thể hiện ở một số phương diện như: thế giới đa chiều và con người tâm linh;
những giấc mơ bí ẩn của con người. Điều này xuất phát từ quan niệm mới mẻ về hiện thực;
hiện thực được phản ánh có thể chỉ là phương tiện của nghệ thuật chứ không chỉ là mục đích
cuối cùng của nghệ thuật. Sự có mặt của những yếu tố kỳ ảo, phi lý có một vai trò đặt biệt với
nhãn quan về nhân vật.
Sử dụng chi tiết nghệ thuật kỳ ảo được coi là những biểu hiện quan trọng của quá trình
đổi mới nghệ thuật tự sự. Nó hướng tới việc sáng tạo những hình tượng nghệ thuật giao tiếp, có
tầm khái quát lớn, hàm chứa những ẩn ức sâu sắc. Đặc biệt nó gia tăng khả năng khám phá thế
giới nội tâm đầy phức tạp và bí ẩn của con người, mở ra những bình diện mới cho việc chiếm
lĩnh cuộc sống. Theo Hồ Anh Thái: “Không gợi dậy được những yếu tố huyền ảo thì nhân vật,
hiện thực chỉ còn là một cái xác khô cứng thô sơ mà thôi”.
Truyện ngắn Con vẹt được xây dựng trên mối quan hệ lạ lùng giữa giáo sư Bạch và con
vẹt. Nàng – con vẹt trở thành duy nhất, vô giá với giáo sư Bạch. Nàng được yêu chiều, õng ẹo
và kiểu cách như một người tình. Nàng được dạy cách học nói thứ ngôn ngữ cao cấp. Hơn nữa,
trong kế hoạch cuả giáo sư Bạch thì nàng sẽ thành một nhà ngôn ngữ, thậm chí một nhà thơ.
Theo giáo sư: “Chỉ cần nó thành thạo một trăm từ có tần suất trong ngôn ngữ giao tiếp hàng
ngày là coi như nó ăn đứt vô khối đồng nghiệp của ông. Ông đã từng thử làm một phép thống
kê để tìm số từ của một nhà thơ, một nhà báo, một nhà phê bình… và đi đến kết luận: chỉ cần
100 từ là có thể làm luôn một lúc cả ba nhà” [1, tr 11 – 12]. Cũng theo sự quan sát và theo dõi
của ông thì nàng học rất chăm chỉ và đầy hứng thú, thông thái một cách lạ lùng. Một con vẹt
được gọi là “nàng” đầy âu yếm trân trọng vì vốn từ của nó phong phú và nó thông minh hơn
nhiều đồng nghiệp của giáo sư Bạch. Có những người chỉ có hư danh, thực chất là lười nhác,
kém cỏi, vô liêm sỉ: “Chỉ cần lặp lại 100 từ là có thể làm luôn một lúc cả ba nhà. Hoá ra sự lặp
lại các từ cao gấp 100 lần số từ tung vào tác phẩm nào đó và thực chất của sáng tạo ở ta phần
lớn chỉ là bắt chước cho khéo, cho điêu luyện…”. Nhân vật con vẹt không mang yếu tố thần kỳ
mà mang cái phi lý của đời sống. Nó trở thành một phương tiện soi chiếu “từng góc kín bưng”
trong tâm hồn giáo sư Bạch. Con vẹt được huấn luyện cuối cùng đã đi chệch ra ngoài tầm kiểm
soát của giáo sư Bạch. Cái khả năng và ý hướng sáng tạo của nó làm ông khó chịu. Khi con vẹt
trở nên xuất sắc kiểu “đồ đệ đã vượt quá sư phụ rồi đó” thì lập tức ông tỏ ra hoảng loạn vì hình
như trình độ ngôn ngữ của con vẹt đã vượt quá xa so với những điều giáo sư dạy dỗ. Bắt đầu
bằng sự nghi ngờ, sự bất phục tùng, muốn chỉnh sửa và cuối cùng là sự nhạo báng, giễu cợt:
- “Tôi phì cười đây này…”
Giáo sư Bạch đã giết con vẹt bởi không đủ bản lĩnh nhìn thẳng vào sự thật. Ông thấy khó
chịu, sợ hãi – nỗi sợ của người ưa kiểu cách, quen nghe những lời du dương, sự khó chịu của kẻ
đạo mạo trưởng giả, háo danh bị hạ bệ.
Bằng những yếu tố phi lý hoặc kỳ ảo: mắc bệnh câm (nói được nhưng loài người nghe
thường không hiểu gì), chưa xác định được chủng loại người, kiện một ông già dạy thú chữa
khỏi bệnh câm cho mình, nhân vật Bùi Bằng Hữu trong Dịch quỷ sứ được hiện lên đầy đủ là
con người sống giả dối, điêu trá, là dạng tầm gửi quen dựa dẫm kẻ khác. Theo kết luận của ông
già dạy thú thì anh ta thuộc hệ Người khéo léo. Người này đã thay đổi cơ chế phản ứng, có sự
trái ngược hoàn toàn với những biểu hiện tâm lý thông thường. “Khi anh ta cố tình gọi sai tên
các sự vật, hiện tượng, lập tức cơ chế sinh học thay đổi và về mặt nào đó anh ta bị tước mất tư
cách sinh vật người”. Những yếu tố kỳ ảo này khẳng định một sự thật hiện tồn trong đời sống
xã hội: Rất nhiều người coi nói dối như nguyên tắc ứng xử, nói dối thành một nạn dịch.
Có nhiều chi tiết phi lý, hoang đường làm nổi bật tính ác đến mức kinh dị của con người.
Nhân vật trong Ánh sáng nàng hiện lên vừa trần trụi vừa ma quái, như là sự đổ vỡ thảm hại của
tư cách con người: “Thời trẻ cụ từng là nỗi khiếp đảm của đám đàn bà… Hồi làm lính lê dương,
cụ chén trẻ con hơn vịt nuốt nhái. Rồi để bù lại, cụ vác của quý đi khắp nơi với một tốc độ chỉ
có thể nói là thần tình khiến số trẻ cụ nuốt vào bụng chẳng thấm vào đâu so với số trẻ cụ tạo ra.
Về già cụ ăn tất tật những gì vô tình nuốt được. Cụ nuốt cả giày trẻ con… Cuối cùng cụ gặm
quần áo mặc trên người, gặm chăn chiếu, nhai gỗ như nhai rau ghém đến nỗi cứt cụ ỉa ra đốt
cháy bùng…” [9, tr 281]. Khi chết “bụng cụ nổ tung, lòng gan biến đâu mất chỉ còn lại những
thứ chưa kịp tiêu: Chiếc giày trẻ con, quân bài ngà, thịt ướp, quần lót… Nhưng cũng ngay lập
tức lão con trai cụ ra lệnh đóng chặt các cửa lớn, cửa nhỏ, lỗ thông hơi, lỗ chó… Lão cúi xuống
vốc lên một vốc vàng. “Ai ngờ cụ là cả một kho báu!”… Hồi đó cụ theo xếp bốt đi càn… thì ra
có bao nhiêu ngón tay đeo nhẫn cụ nuốt cả” [9, tr 283 – 284]. Để khái quát về một thế giới nhân
vật với những hiện tồn bất ổn. Tạ Duy Anh dùng chi tiết nghệ thuật kỳ ảo, tính phi lý thể hiện
đậm nét ở chỗ: nhân vật không đi đến một kết quả nào! Cuộc kiếm tìm của nhân vật chỉ là cuộc
kiếm tìm vô vọng.
Thế giới đa chiều là thế giới ở đó tồn tại song song những yếu tố khả giải – bất khả giải,
duy lý – phi lý, tất nhiên – ngẫu nhiên. Thế giới ấy không được nhìn nhận một cách an nhiên
như trước mà đã đầy nỗi niềm khắc khoải âu lo. Nếu như ở giai đoạn trước, thế giới được nhìn
nhận với con mắt lạc quan đầy tin tưởng, con người luôn tin vào ý chí, sức mạnh và những quy
luật đã chiếm lĩnh được, thì giờ đây, con người nhận ra rằng thế giới vẫn mang trong mình nó
nhiều điều bí ẩn, những điều con người chưa thể biết trước và đầy bất trắc. Những điều đó
thuộc về cái ngẫu nhiên. Nó là một khả năng có thể đem lại cho con người niềm vui, hạnh phúc
nhưng cũng có khi lại là nỗi đau, niềm bất hạnh và những tấn bi kịch.
Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Tạ Duy Anh vừa mang những nét chung của cái kỳ ảo
Phương Đông vừa mang nét riêng phản ánh bầu không khí thời đại. Yếu tố kỳ ảo giai đoạn này
đã có sự phát triển một bậc so với hình thức kỳ ảo truyền thống. Nó không đơn thuần là hình
thức chuyển tải các vấn đề đạo đức theo kiểu “thưởng thiện, phạt ác” của ông Bụt, bà Tiên
trong cổ tích, nó còn là sự sợ hãi, trăn trở của con người nhân tính, khát vọng, tự do, dân chủ
thấm đẫm tinh thần thời đại.
3.5. Môtíp nghệ thuật
3.5.1. Môtíp “tội ác và trừng phạt”
Đôi khi, ngỡ Tạ Duy Anh lặp lại những môtíp đã có trong văn học trước đó. Nhưng
không phải, trong tác phẩm của nhà văn hay xuất hiện những môtíp không đi đến tận cùng, nửa
môtíp; thậm chí tái sử dụng môtíp theo kiểu chống ngược lại môtíp đã có, phản môtíp. Tạ Duy
Anh đã “lạ hóa” những môtíp truyền thống trong văn học.
“Tội ác và trừng phạt”, thuở sơ khai chỉ là chân lí “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” để
thỏa mãn mong ước của người xưa, những con người tiên phong thêu dệt nên bầu trời cổ tích;
về sau, nó là thuyết nhân quả của đạo Phật để răn dạy con người. Môtíp này được Tạ Duy Anh
sử dụng trên một tư duy mới. Những hình thức nguyên thủy của tư tưởng này hoàn toàn thuần
chất và nhân hậu, nó là chân lý, chưa phải là bản chất, chưa lần tìm đến những sợi tinh vi của
mục đích, động cơ, trạng thái và sự sám hối, nỗi thống khổ như là hình thức trừng phạt cao
nhất.
Có thể nhận thấy trong sáng tác của Tạ Duy Anh, hầu hết nhân vật đều ngập chìm trong
vũng bùn của sự hận thù, độc ác. Nhưng rồi cuối cùng chính con người lại phải gánh chịu
những hậu quả nặng nề do chính bản thân nó gây ra. Với Tạ Duy Anh, cái ác là sự tối tăm, thù
hận, ngu dốt và lầm lẫn… Sự trừng phạt có thể là một tai nạn ngẫu nhiên nào đó bên ngoài hoặc
bản thân con người đã từng nhúng tay vào tội ác ấy tự trừng phạt, ác giả thì ác báo. Lão Phụng
chết vì một thứ trừng phạt đến từ bên ngoài, sự hoang tưởng có một bầy âm binh đuổi theo
khiến lão sa xuống vực chết. Sự trừng phạt còn di chuyển đến tận đời sau theo kiểu “đời cha ăn
mặn đời con khát nước”. Lão Tự đã phải gánh chịu sự trừng phạt như một kẻ bị ruồng bỏ
(giống như bọn Lý Bá ngày kia), mà đó khác nào bị tước đoạt quyền làm người. Hình phạt cao
nhất, đau khổ nhất chính là sự tự trừng phạt. Nhân vật Tạ Duy Anh thường sống đọa đày dằn
vặt, ôm trong lòng một vết thương lúc nào cũng lở lói và treo trước mắt, đó chính là sự ám ảnh
khiến cuộc đời còn lại của nhân vật luôn giằng co, bị quăng lên, quật xuống không ngớt. Nhưng
hình phạt khủng khiếp nhất, với Tạ Duy Anh lại chính là cuộc sống trần thế. Bởi cuộc sống, nếu
con người không tự tạo cho mình được thiên đường thì rất dễ rơi vào địa ngục.
Với môtíp “tội ác và trừng phạt” của văn học dân gian. Tạ Duy Anh đã cấp cho nó một
cách nhìn, một quan niệm mới của con người thời hiện đại, thời đại của sự đổ vỡ niềm tin vào
những chân lý tuyệt đối. Đối với ông, tội ác có nguồn gốc từ sự tăm tối, ngu muội và thù hận,
nhưng đôi khi còn ẩn sâu mơ hồ trong tiềm thức của con người, đeo bám con người, là một thứ
ngón tay trỏ luôn chỉ đạo dẫn dắt con người mà họ không thể nào cưỡng lại được. Còn sự trừng
phạt khủng khiếp nhất không phải là lưu đày tù ngục, hay cái chết, mà chính là “bắt về trần
sống tiếp”. “Ở một khía cạnh nào đó, sống là một cuộc đi đày, và cái chết là dấu hiệu đầu tiên
của tự do” [3, tr 254]. Môtíp này có phần thể hiện sự bi quan và hoài nghi, hoang mang của tác
giả đối với cuộc sống, nhưng đó là một sự thật dù đau lòng trong cảm thức của con người thời
hiện đại.
3.5.2. Môtíp giấc mơ, ác mộng
Giấc mơ vốn là một hoạt động tâm thần không phụ thuộc vào lí trí, diễn ra trong giấc
ngủ. Freud và các nhà nghiên cứu phân tâm học khác cho rằng giấc mơ vừa là “người gác giấc
ngủ” vừa “thực hiện một ham muốn” thường bị kìm nén bởi một cá nhân có ý thức. Trong
truyện ngắn Tạ Duy Anh, giấc mơ thường phản ánh những khát vọng, những ham muốn mà con
người không hoặc chưa đạt được trong cuộc đời thực.
Những giấc mơ không phải là xa lạ trong văn học dân gian và văn học hiện đại đặc biệt là
người đọc đã khá quen thuộc khi đọc Kafka, Nguyễn Minh Châu, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy
Thiệp… Thực chất nó là một thành tố của thế giới tâm linh, được đưa vào tổ chức nghệ thuật
của tác phẩm. Song cái tinh tế hàm ẩn trong vấn đề triết lý, nhân sinh của văn chương hiện đại
nằm ở chỗ nó như một phóng dụ về thân phận con người. Quả vậy, từ những giấc mơ nhân vật
của Tạ Duy Anh đúng là những con người lo âu, thường biến, tha hóa, luôn bị ám ảnh bởi mặc
cảm tội lỗi. Sự kết hợp giữa giấc mơ, hiện tượng biến dạng trong tác phẩm của Tạ Duy Anh là
một thủ pháp nghệ thuật quan trọng để khắc họa nhân vật. Nó đưa người đọc như lạc vào thế
giới nửa hư, nửa thực tràn đầy niềm lo âu và khao khát hoàn nguyên.
Tạ Duy Anh đưa nhân vật của mình vào trong những giấc mơ chập chờn. Nhân vật “tôi”
trong Luân hồi là người con bị người cha ruồng bỏ ngay từ giây phút chuẩn bị chào đời. Sống
với một ký ức ẩm ướt, cô đơn và xa lạ giữa gia đình, nhân vật dường như luôn bị một cái gì đó
kiềm tỏa, khó lý giải. Chính qua giấc mơ, thế giới nội tâm, cả phần vô thức, tiềm thức của nhân
vật mới phơi mở. “Đêm ấy tôi ngủ lại bên cạnh lão Mị. Tôi mơ thấy hàng ngàn con rắn bò ra từ
bụng tôi. Tôi chồm dậy nôn thốc nôn tháo tất cả số rắn đã nuốt trong cuộc rượu… Tôi lao bổ ra
khỏi lều trong tâm trạng nửa thức nửa ngủ. Tôi cảm thấy xiên vào mặt. Tôi chạy luật quật trên
những con đường ngoằn nghoèo, nhan nhản cạm bẫy. Tiếng hú của lão Mị vọng sang từ phía
bên kia vực tối, nơi kiếp trước của tôi chỉ là một cục máu đỏ tím. Cơ man là rắn. Chúng quấn
vào chân tôi. Tôi thò tay ra móc chúng ra nhưng chỉ thấy toàn rớt rãi” [9, tr 202 – 203]. “Tôi
thấy nàng bồng lão Mị trần truồng đỏ hỏn. Tôi thấy cha tôi bồng mẹ tôi trong tiếng cười ròn tan
của bà nội. Chúng tôi rồng rắn nhau đi về phía bên kia của tiếng hú. Sau lưng chúng tôi là ác
mộng, là những cơn mưa trước phút luân hồi”. Đó là nỗi ám ảnh, mặc cảm về tội tổ tông, là sự
nối tiếp quá khứ trong hiện tại, là khát vọng hướng tới cái vô tận của nhân vật “tôi”. Hình ảnh
cha mẹ, bà nội, tiếng hú, những cơn mưa triền miên – biểu tượng của sự lãng quên và ngưng tụ,
đã được đánh thức dậy, vụt thăng hoa trong sự hòa hợp của hai cá thể “tôi” và chị giáo góa.
Sự đan cài cái quái đản với thường nhật khiến một số tác phẩm Tạ Duy Anh rất gần với
văn học phi lý. Ở Ngôi nhà của cha tôi là nỗi lo sợ đầy phi lý của người cha, là căn nhà được
thiết kế dị thường đậm dấu ấn sự sợ hãi của chủ nhân nó. Nhân vật “tôi” cũng là một phần
thuộc về cái thế giới ẩm ướt đó. “Từ rất bé tôi đã khốn khổ với những cảnh hoan lạc do tôi
tưởng tượng ra và không ít đêm tôi thấy mình trong tay một mụ chuột cống mốc dầu. “Mình sẽ
thành chuột là cái chắc”. Ý nghĩa này dần dần trở thành niềm mong đợi của tôi” [9, tr 255].
Phản ánh của nhân vật trước sự biến dạng, sự tha hóa là chấp nhận, thậm chí thành niềm mong
đợi. Nó gợi lên một cảm quan bi đát, một sự bất lực như trạng thái tinh thần của nhân vật.
Có giấc mơ biến dạng giống như sự điệp lại của một ám ảnh, mang tính chất kết tội và
hoán đổi ngôi vị. Đó là giấc mơ của lão Đình trong Bí mật của vĩnh cửu, của giáo sư Bạch
trong Con vẹt. Để đàn sáo ở lại vườn nhà, tránh rơi vào tay gã Phỉ, lão Đình đã bắt tay vào việc
làm một chiếc lồng rất đẹp giống như một cung điện nhỏ. Lão không thể hiểu nổi những lý lẽ
riêng thuộc về cuộc sống tự nhiên và tự do. Khi lão ngất ngây say sưa với ý tưởng mình cũng là
lúc: “Lão gà gật và lạc vào những giấc mơ chập chờn. Trong khi nửa thức nửa ngủ, lão thấy lão
biến thành con sáo. Lão bị cắt lưỡi học tiếng người. Bù lại, lão được ở trong một chiếc lồng sơn
son thiếp vàng, ăn bột trứng tẩm mật ong. Bỗng ở đâu xuất hiện con rắn loang lổ. Lão sợ rúm
ró, phá lồng chui ra. Lão lao đầu xuống đất trong cái ý thức bay lên bầu trời” [9, tr 249]. Về sau
này, khi lão Phỉ chết do bị rắn độc cắn, thì những ám ảnh đó vẫn còn đeo bám lão: “Choán hết
tâm trí lão là hình ảnh một con rắn đen xì, khoắng đuôi loạn xạ trong chiếc lâu đài, trở thành
nỗi bí ẩn lớn nhất đời lão” [9, tr 251].
Giáo sư Bạch cũng bị ám ảnh bởi khả năng hoán đổi ngôi vị trong mối quan hệ với con
vẹt thông minh. “Những giấc mơ của giáo sư Bạch trở nên nặng nề, u ám. Một đêm nọ ông rơi
tõm vào cơn ác mộng sau khi quá mệt mỏi. Trong mơ ông thấy mình ở trong lồng còn con vẹt
thì đang đi đi lại lại, bóp đầu tìm những câu có thể dạy cho ông. Nó đi lạch bạch trên đôi chân
ngắn cũn cỡn. Chợt nó dừng lại như một nhà hùng biện, ngửa cổ, ưỡn ngực đọc ngân nga chính
khổ thơ mà ông đã dán ngay trước bàn làm việc. Con vẹt đọc một cách đắc chí rồi cứ thế ngửa
cổ cười sằng sặc…, trong mơ ông thét vào mặt con vẹt:
– Ta thà chết…” [9, tr 357].
Giấc mơ của giáo sư Bạch khúc xạ những băn khoăn, day dứt về chính hành vi của ông
ta. Nó là sự phân hóa, là sự hạ bệ, phỏng nhại đang tạo ra những kẻ đồng dạng. Chính qua giấc
mơ, Tạ Duy Anh đã đặt nhân vật vào trong tình huống “tới hạn”, để diễn đạt những tham vọng
vô nghĩa, hão huyền của nó. Tạ Duy Anh thường mượn giấc mơ để cho nhân vật tự giác về sự
trừng phạt. Thức dậy sau giấc mơ, các nhân vật như bừng tỉnh và biết ghê sợ cái ác. Nhiều khi
chính những hư ảo chập chờn, những ám ảnh tâm linh lại là con đường ngắn nhất để tìm lại
nhân tính và khả năng phục thiện của con người. Như vậy, bằng thủ pháp giấc mơ biến dạng,
nhân vật trong tác phẩm của Tạ Duy Anh thường được soi chiếu từ những ám ảnh, những ẩn ức
thầm kín riêng tư mà đôi khi chính cho bản thân người trong cuộc cũng không cảm nhận được
một cách thực sự rõ ràng. Đây trước hết là một sáng tạo nghệ thuật làm phát lộ phần khuất chìm
trong bóng tối, một “gương mặt” người không quen thuộc. Thông qua cái chập chờn, mơ hồ, Tạ
Duy Anh nêu bật những sự thật cốt lõi nhất, bản chất nhất trong đời sống tinh thần và tình cảm
của con người.
Việc sử dụng môtíp giấc mơ, ác mộng đã giúp nhà văn thâm nhập được vào những vùng
bí ẩn của đời sống nội tâm con người. Sự có mặt của những yếu tố này làm cho tác phẩm của
Tạ Duy Anh càng thêm độc đáo, hấp dẫn.
3.5.3. Môtíp tình yêu cứu rỗi
Khát vọng cứu rỗi được Đoxtoiepxki trao gửi Đức Chúa Giêsu. Với nhà văn Nga này, thì
chúa Giêsu vừa là chân lý vừa là cái Đẹp vừa là cái Thiện, là người duy nhất có khả năng loại
trừ cái ác và phục hồi sự thống nhất hài hòa bác ái giữa con người. Với Sechxpia, tình yêu có
sức mạnh xóa bỏ hận thù và kết nối yêu thương. Tạ Duy Anh đi tìm một triết lý riêng về con
người: sự cứu rỗi và giải thoát dựa trên những nhân cách trong sạch và tình yêu.
Khát vọng cứu rỗi được Tạ Duy Anh gửi gắm trước hết ở nhân vật người phụ nữ. Ông
thừa nhận: “Tôi là người cầu toàn đam mê cái đẹp. Tôi luôn khao khát về một cái đẹp toàn
thiện. Và khao khát đấy tôi gửi gắm nơi người phụ nữ – kiệt tác hoàn hảo nhất của chúa trời”.
“Có thể bắt gặp ở bất kỳ tác phẩm nào của tôi hình bóng nàng”. Họ với tôi đều đẹp một vẻ đẹp
lý tưởng, phi xác thịt, đều hiện ra để cứu rỗi hoặc mở ra những chân trời ước vọng, ở nơi ánh
sáng trần gian bị tắt lụi, nơi cuối cùng con đường, nơi giáp danh với bóng tối”. Hiển hiện lên
trong tác phẩm Tạ Duy Anh, là một vẻ đẹp trọn vẹn tỏa sáng mang tên Quý Anh, Chị Túc, Chị
Thư…
Trước tối tăm thù hận và tội ác thì tình yêu được coi là “phúc âm” duy nhất còn lại để
cứu chuộc và tha thứ. Quý Anh trong (Bước qua lời nguyền, Hoá kiếp) là những tiên đồng lạc
loài giữa thế giới thù hận tăm tối, không chỉ cứu ông bố khỏi một trận đòn “hội chợ” mà cao
hơn hóa giải lòng thù hận như một con quỷ dữ trong “trái tim bé con” của nhân vật “tôi”. Với
Quý Anh, nhân vật “tôi” bao giờ cũng có cảm giác của chàng hoàng tử trong truyện cổ tích.
Giữa bạo lực, tối tăm, người con gái mang dáng dấp một tiên nữ này đã đem đến dâng tặng cậu
Tư những giấc mơ thanh sạch và khát vọng tự do. Tình yêu của cậu Tư – Quý Anh là ân xá cho
nhau và ân xá cho thù hận. “Bước qua lời nguyền” để yêu thương, mối tình của họ không chỉ
“cứu rỗi một dòng họ ngu tối trong thù hận” mà còn mang ý nghĩa giải thoát đối với định kiến
chật hẹp và cách hành xử của dân làng Đồng.
Đọc tác phẩm của Tạ Duy Anh, luôn có một nhân vật đi qua, dừng bước chiêm ngắm và
được cứu rỗi từ những người phụ nữ, đó là gương mặt người đàn ông trong khoảnh khắc tuyệt
vọng. Khi nhân vật “tôi” (Truyền thuyết viết lại) phút chốc cảm thấy mình “bị côi cút giữa bãi
đời đen bạc” thì có một hình ảnh hiện lên “an ủi, xoa dịu nỗi đau khôn cùng trong tôi”, đó là
chị Thư. Chìm trong lửa đạn chiến tranh và chết chóc, có người lính vẫn tìm được nơi trú ẩn dịu
mát ở hình ảnh chị Túc. Gửi thư cho chị, anh viết: “Thật kỳ lạ khi tôi có cảm giác tất cả đều
bình yên, tưởng như chiến tranh bị đầy lùi mãi, chỉ còn như một dư âm. Và tôi chờ đợi. Em có
biết tôi chờ đợi điều gì không? Tôi… chờ em bước ra từ vầng trăng. Em sẽ băng bó vết thương,
làm nguội mặt đất bởi em là vị Phúc thần của những người lính trận như tôi...” [9, tr 27].
Ở truyện Lãng du, trong hành trình vĩnh cửu đi tới cái Đẹp, nhân vật nữ Tạ Duy Anh là
khởi nguồn, là sự bắt đầu. Có hai tiếng nói, hai dòng suy nghĩ cùng tồn tại trong tác phẩm. Một
(của tràng trai) thì hoang mang, thoái chí, chờ dấu hiệu bỏ cuộc: “hay mình đi lạc”, “mình lầm
lẫn từ đoạn nào nhỉ”, “chả nhẽ cơ sự lại tồi tệ đến mức này sao”, “nhất định có chuyện chơi xỏ
nào đó”; một (của cô gái) thì cương quyết, thôi thúc “đi tiếp đi anh!”, “Em cần đến tận nơi chứ
không muốn bỏ cuộc giữa chừng” [1, tr 379]. “Anh đang đi tìm cơ mà, sao có thể khẳng định
vật gì đó bị mất khi chưa tìm một cách cẩn thận” [1, tr 386]. Chính nàng là ngọn lửa soi đường.
Ở nàng toát lên ánh sáng trải mãi ra đến vô tận. “Có cái gì như đang bay lên ở đâu đó kèm theo
sự lụi tàn của những điều xấu xa, nhếch nhác, phản trắc, thù nghịch… Anh chỉ thấy rõ một
điều, từ cặp mắt, vẻ mặt – nổi bật với vầng trán thanh khiết – của nàng đang ngời sáng, thứ ánh
sáng của sự cứu chuộc và tha thứ. Ngập trong ánh sáng thì ngay cả những khổ đau cũng có
hương vị ngọt ngào” [1, tr 395].
Xây dựng môtíp tình yêu cứu rỗi, Tạ Duy Anh làm nổi bật lên trong hình tượng nhân vật
với những ý nghĩa; thứ nhất, song song với triết lý con người mãi mãi trên hành trình kiếm tìm
– đó là cuộc hành trình vĩnh cửu, không có đích – là tiếng nói đầy niềm tin: không phải cuộc
kiếm tìm nào cũng vô vọng. Triền miên tự vấn, khao khát tìm lại thiên đường ngày xưa, nhân
vật đã thấy được ánh sáng cứu rỗi, nâng đỡ mọi nỗi tuyệt vọng từ Nàng, “Ánh sáng nàng”;
thứ hai, cùng với ánh sáng đó là sự lụi tàn của những thói hư tật xấu, tàn nhẫn. “Nó đẩy tất cả ra
rìa: quyền lực, lịch sử, nỗi sợ hãi… Nó còn lại duy nhất và chỉ nhờ nó con người mới thoát khỏi
nỗi ám ảnh bị bỏ rơi giữa trùng trùng tai họa” [3, tr 113]. Vì vậy, văn chương Tạ Duy Anh tuy
gai góc, riết róng, vô số “chuyện tàn ác, liêm sỉ và vô lương tâm” nhưng thực chất mục đích vẫn
là hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ.
Như vậy, với việc lặp lại môtíp tình yêu và cứu rỗi, Tạ Duy Anh thường đặt nhân vật của
mình trong khát vọng vươn tới cái Đẹp và cái Thiện. Nhân vật trong sáng tác của ông, dù là
những con người đứng trên ranh giới bờ vực Thiện – Ác, bước qua hay gục ngã thì cuối cùng
họ đã biết nhận về sự sám hối lương tâm, hướng tới bản chất Thiện. Đây là một cái nhìn tràn
đầy tinh thần nhân văn của Tạ Duy Anh.
Tiểu kết: Về thủ pháp nghệ thuật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh, ông đặc biệt chú ý đến
ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại của nhân vật. Trong tác phẩm của ông, đây là thủ pháp
nghệ thuật hiệu quả khi diễn tả quá trình tự ý thức, tự thức tỉnh nhân vật. Bên cạnh đó, sử dụng
nhiều giọng điệu trần thuật khác nhau, kết cấu nghệ thuật, sử dụng các chi tiết nghệ thuật kỳ
ảo, sử dụng môtíp nghệ thuật (“tội ác và trừng phạt”, “giấc mơ, ác mộng”, “tình yêu cứu rỗi”)
đã mở ra một bình diện mới cho việc chiếm lĩnh và khám phá thế giới nội tâm đầy bí ẩn và
phức tạp của con người. Mỗi nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh vì vậy có tầm khái quát,
hàm chứa cả những ẩn ức lẫn những nghiệm sinh sâu sắc. Từ thế giới nhân vật đó, Tạ Duy Anh
mang đến cho người đọc những day dứt, trăn trở khôn nguôi trước ý nghĩa làm người. Xuyên
qua một thế giới đầy những ám ảnh, tăm tối, tàn ác, vẫn lấp lánh niềm tin, sự sót thương và câu
hỏi đầy lòng tự trọng cuả con người – lời kêu gọi của con người dũng cảm tranh đấu với hoàn
cảnh, với chính mình luôn hiện diện trong từng trang tác phẩm và mỗi nhân vật của Tạ Duy
Anh.
KẾT LUẬN
Tạ Duy Anh vẫn tự cho mình là lão già họ Tạ (Lão Tạ) “một gã mặt như cái bị rách, rất
không ưu nhìn”, gần ba mươi năm viết văn chỉ nhận một vị trí khiêm nhường: “Tôi chỉ nói
những điều chẳng có gì mới”, nhưng thực ra đó là một hành trình sáng tạo, kiếm tìm đầy bản
lĩnh và trách nhiệm. Tạ Duy Anh hiện đang được xem là một nhà văn trẻ được dư luận quan
tâm, một cây bút sung sức với nhiều thể nghiệm văn chương táo bạo. Tác phẩm của Tạ Duy
Anh đã khẳng định được chỗ đứng trong lòng công chúng để hôm nay khi nói đến nền văn xuôi
Việt Nam đương đại thì người ta không thể không nhắc tới tên ông, từ đó tạo ra “từ trường
riêng” hấp dẫn và lôi cuốn độc giả.
Tạ Duy Anh là một nhà văn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn học Việt Nam
thời kì đổi mới. Có thể nói, Tạ Duy Anh là sản phẩm tất yếu của sự gặp gỡ giữa tài năng nghệ
thuật với khát vọng dân chủ và đổi mới của văn nghệ sĩ mà sự vận động của ý thức xã hội cũng
như ý thức văn học sau 1975 (đặc biệt là sau 1986) mang lại. Thời gian trôi qua, kể từ khi Tạ
Duy Anh xuất hiện trên văn đàn đến nay thấm thoát đã hơn hai mươi năm. Trong khoảng thời
gian gần một phần ba đời người ấy, Tạ Duy Anh gặt hái cho mình cả những vinh quang, ngọt
ngào xen lẫn những đắng cay.
Truyện ngắn là một thành tựu nổi bật nhất trong văn nghiệp của ông. Không chỉ vậy, nó
còn là một thể loại đã tạo nên sức ám ảnh ghê gớm, làm trĩu nặng tâm tư độc giả. Là một nhà
văn có cá tính sáng tạo độc đáo, Tạ Duy Anh đã tạo dựng cho mình một phong cách nghệ thuật
riêng không thể nhầm lẫn.
Trước hết, truyện ngắn Tạ Duy Anh chuyển tải thành công các quan niệm nghệ thuật và
thông điệp văn chương của nhà văn. Đó là những quan niệm mới mẻ, táo bạo và độc đáo. Thứ
hai, dù viết về nông thôn, đô thị, hay về số phận con người; dù ngợi ca, phê phán hay tự vấn, Tạ
Duy Anh luôn chọn một chỗ đứng (và nhiều chỗ đứng) mang tính hiện đại và nhân văn. Cuộc
sống trong truyện ngắn của ông hiện lên với tất cả vẻ bề bộn, phức tạp của cõi nhân sinh vốn
đầy ắp nhọc nhằn. Với quan niệm văn chương phải “bất chấp hết”, phải “ngập trong bùn”,
phải “sục tung lên”, ông đã lách sâu ngòi bút sắc lạnh của mình vào hiện thực trần trụi của
cuộc đời, bắt chúng phải hiện lên với cả những phần khuất tối – đôi khi sự thẳng thắn ấy khiến
nhiều người đọc phải e ngại. Trên sơ sở ấy, nhân vật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh đã thoát
khỏi cái nhìn nguyên phiến, một chiều của một giai đoạn văn học trước đó để trở nên sống
động, chân thực, đa diện, đa chiều… giống như những con người ta vẫn thường gặp trong cuộc
sống thường nhật. Với quan niệm: dùng văn chương để phản ánh chân thực hiện trạng xã hội,
Tạ Duy Anh thường khắc hoạ nhân vật từ góc độ con người xã hội. Cũng chính vì thế, nhân vật
của ông ít khi là một tính cách toàn vẹn, mà chủ yếu hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã
hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại xã hội. Bằng các tác phẩm của mình, thông qua thế
giới nhân vật, Tạ Duy Anh thể hiện một sự đổi mới trong tư duy nhận thức và tư duy sáng tạo.
Để đi sâu, mở rộng quan niệm nghệ thuật về con người, nghệ thuật thể hiện của Tạ Duy
Anh còn có những nét khó nhầm lẫn như: Ngôn ngữ nhân vật; giọng điệu trần thuật; kết cấu
nghệ thuật; chi tiết nghệ thuật kỳ ảo; môtíp nghệ thuật. Những yếu tố này xuất hiện với mật độ
khá dày đặc trong sáng tác Tạ Duy Anh để từ đó giúp ông có thêm những “kênh” mới để khám
phá và tìm hiểu đời sống cũng như bản chất con người theo những cách thức của riêng mình.
Đặc biệt, trong nghệ thuật kết thúc tác phẩm, Tạ Duy Anh không tuỳ tiện giải quyết các
vấn đề bộn bề phức tạp của cuộc sống theo ý tưởng chủ quan của mình, ngược lại ông để cho
người đọc tự do hình dung, phán đoán, suy luận. Kết thúc để ngỏ trong khá nhiều truyện ngắn
thực sự là cách thức mà Tạ Duy Anh tạo ra để vẫy gọi người đọc cùng tham gia vào quá trình
đồng sáng tạo nghệ thuật với mình. Và cũng chính khi đó, người đọc có dịp chiêm nghiệm cũng
như thấm thía hơn về ý nghĩa của cuộc sống cũng như ý nghĩa của sự sống, sự tồn tại của chính
bản thân mình.
Có thể nói, với những tìm tòi, sáng tạo trong tác phẩm của mình, Tạ Duy Anh đã dấn
thân vào một cuộc thử nghiệm đầy sóng gió. Từ đó, ông đã thực sự mang đến cho người đọc
những day dứt, trăn trở khôn nguôi trước những vấn đề thực tế của cuộc sống. Và với những
đóng góp lớn lao về cả phương diện nội dung lẫn nghệ thuật – truyện ngắn Tạ Duy Anh xứng
đáng trở thành một món ăn tinh thần đầy hữu ích cho độc giả nhiều thế hệ cả ở trong nước lẫn
ngoài nước.
TRUYỆN NGẮN TẠ DUY ANH (Khảo sát trong luận văn)
1. Bước qua lời nguyền
2. Xưa kia chị đẹp nhất làng
3. Luân hồi
4. Vòng trầm luân trần gian
5. Dịch quỷ sứ
6. Đắc đạo
7. Thiên thần và ác quỷ
8. Bí mật của vĩnh cửu
9. Lão Cò ra tỉnh
10. Nghịch lý cuộc đời
11. Sự khắc nghiệt của đá
12. Bố cục hoàn hảo
13. Những chiếc gáy
14. Chiếc giầy pha lê
15. Nhân vật lạ
16. Tội tổ tông
17. Gã lẩm bẩm
18. Người thắng trận
19. Mê hồn trận
20. Con ruồi
21. Ngũ gia truyện
22. Phở gia truyền
23. Ngôi nhà của cha tôi
24. Ánh sáng nàng
25. Lãng du
26. Đàn ông và đàn bà
27. Lũ vịt trời
28. Hóa kiếp
29. Con vẹt
30. Truyền thuyết viết lại
31. Giai điệu đen
32. Lạc loài
33. Người Khác
34. Một câu chuyện cười
35. Bên ngoài thời gian
36. Gã lộn ngược
37. Rỗng
38. Hắn
39. Trong bóng tối
40. Chuyện không có chủ đề
41. Chuyện của đời người
42. Quả trứng vàng
43. Bức tranh của em gái tôi
44. Vó ngựa trở về
45. Củ khoai nướng
46. Những chuyện không phải trong mơ
47. Ngày hội cuối cùng
48. Hiệp sĩ áo cỏ
49. Dưới đáy vực
50. Gã thọt
51. Làng nhỏ thanh bình
52. Vô ngôn
53. Ba đào kí
54. Luyện thành cao thủ
55. Gã và nàng
…
TAØI LIEÄU THAM KHAÛO
1. Tạ Duy Anh (1990), Bước qua lời nguyền (tập truyện ngắn), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
2. Tạ Duy Anh (1991), Khúc dạo đầu (tiểu thuyết), Nhà xuất bản thanh niên.
3. Tạ Duy Anh, (1994), Luân hồi (tập truyện ngắn), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
4. Tạ Duy Anh, (1995), Người thắng trận – truyện ngắn trên báo văn nghệ (1987 – 1995), Nhà
xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.
5. Tạ Duy Anh, (2002), Nhân vật – tác phẩm chọn lọc, tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn,
kịch. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
6. Tạ Duy Anh (2002), Đi tìm nhân vật (tiểu thuyết), Nhà xuất bản văn hóa dân tộc.
7. Tạ Duy Anh (2004), Thiên thần và sám hối (tiểu thuyết), Nhà xuất bản Đà Nẵng.
8. Tạ Duy Anh (2004), Bố cục hoàn hảo (tập truyện ngắn), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.
9. Tạ Duy Anh (2004), Ngẫu hứng Sáng – Trưa – Chiều – Tối (tản văn), Nhà xuất bản Hội nhà
văn, Hà Nội.
10. Tạ Duy Anh (2004), Ba đào ký (tục biên), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.
11. Tạ Duy Anh, (2005), Lão Khổ (tiểu thuyết), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
12. Tạ Duy Anh, (2007), Người khác, (tập truyện ngắn), Nhà xuất bản Hà Nội.
13. Tạ Duy Anh, (2008), Truyện ngắn chọn lọc, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.
14. Phan Thị Vàng Anh, (1993), Khi người ta trẻ, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội.
15. Tạ Duy Anh, “Bất kỳ sự buông thả nào cũng phải trả giá”.
http://www.vnExpess.net/Vietnam/Van-hoa/guong-mat-nghe-sy/10/3B9D723F./.
16. Tạ Duy Anh, Mô típ “tội ác và trừng phạt” sẽ còn ám ảnh các nhà văn. Hồ Thị Hòa phỏng
vấn. http://www.eVan.com.vn/... Thứ năm, 27.5.2004.
17. Tạ Duy Anh, Cần phân biệt giữa “sống để viết” và “viết để sống”. Từ Nữ Triệu Vương
phỏng vấn. http://eVan.com.vn/... Thứ Hai, 2.10.2004.
18. Tạ Duy Anh, “Nhà văn chả cứ phải đi thực tế”.
http://.laodong.com.vn/pls/pld/folder$.view_item_detail (116551).
19. “Tạ Duy Anh sợ được dư luận nuông chiều”. http://www.VnExpress.net/Vietnam/van-
hoa/2004/08/3B9D591A/.
20. Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện – ác. http://www.vnn.vn/van-
hoa/diembao/2004/09/260794/#02.
21. Tạ Duy Anh – “Nhà văn Tạ Duy Anh không từ bỏ gốc gác nhà quê”.
Vnexpress.net/Vietnam/vanhoa/guongmat – nghe si/2005/06/03.
22. Tạ Duy Anh – “Chỉ thân xác không thôi rất đáng sợ”.
http://www2.vietnamnet.vn/service/2006/09/20.
23. Tạ Duy Anh – Tạ Duy Anh “Tôi là người không dễ bị khuất phục”
http://www.evan.com.vn/news/chandung/2005/11/03.
24. Tạ Duy Anh – “Tôi sẵn sàng trả giá cho sự mạo hiểm”. http://www.vnExpress.net/van-
hoa/guongmatnghesi.
25. Vũ Tuấn Anh, (1995), “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí văn học số 4.
26. Đào Tuấn Ảnh, (2005), “Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện đại”, Tạp
chí nghiên cứu văn học số 8.
27. Lại Văn Ân, (1985), “Văn xuôi gần đây – diện mạo và vấn đề”, Tạp chí Đất Quảng, số
(36), (tháng 9 và 10).
28. Lại Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến, (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới – những vấn đề lí
thuyết, Nhà xuất bản Hội nhà văn, trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.
29. Lại Văn Ân, (1987), Đóng góp của văn học vào tiến trình ý thức xa hội, Nhân dân (ra ngày
19 tháng 4).
30. Y Ban, (1991), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, in trong tập Truyện ngắn chọn lọc 1975 – 1990,
Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
31. M. Bakhtin, (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản,
Hà Nội.
32. M. Bakhtin, (1993), Những vấn đề thi phap1Dostoievski, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
33. Báo Giáo dục và Thời đại, số 80 năm 2004.
34. Báo pháp luật, số 140 năm 2004.
35. Báo Thể thao và văn hóa, số 47 năm 2004.
36. Nguyễn Đức Bình, (1992), Về công tác lí luận trong giai đoạn hiện nay, Nhà xuất bản Sự
thật, Hà Nội.
37. Chu Quốc Bình, (1996), Mỗi người đều là một vũ trụ, Văn nghệ trẻ (số 15, ra ngày 1 tháng
4).
38. Phan Bình (bản dịch), Văn học hậu đổi mới ở Việt Nam, nhìn từ Pháp.
39. Thụy Bình, Thiên lương trong “Muối của rừng” www.evan.com.vn.
40. Nam Cao, (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
41. Khuê Các, Nhân đọc “Vàng Lửa”, của NHT, www.talawas.org.
42. Trần Cương, (1997), “Sao đổi ngôi – một ghi nhận thành công về chất người chiến sĩ”, Tạp
chí văn học số 1 (tháng 1 – 2) 1986, in lại trong sách: Tác phẩm và dư luận, Nhà xuất
bản Hội nhà văn, Hà Nội.
43. Trần Cương, (1995), “Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau những năm 80”, Tạp chí văn
học số 4.
44. Nguyễn Minh Châu, (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
45. Trần Duy Châu, (1992), Đôi điều về cái ác, Văn Nghệ số (51).
46. Ngô Thị Kim Cúc, Đọc sách Thiên Thần sám hối của Tạ Duy Anh: nếu…
http://netsoft.vnn.vn/data_htlm/membership/Phuong Vy/20004052143048.
Thienthansamhoi.htm...
47. Nhật Chiêu, Giấc mơ bướm của Trang tử và Borges, www.evan.com.vn
48. Nhật Chiêu, Thiền và hậu hiện đại, www.evan.com.vn.
49. Nhật Chiêu, Tiên, Động Từ Thức, Mây, Bạch Dương, Người ăn gió, Chùm truyện ngắn,
www.tienve.org.
50. Nguyễn Văn Dân, (1997), “Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại – Vài
nhận xét tổng quan”, Tạp chí văn học, số 2.
51. Phan Cự Đệ, (1986), “Mấy vấn đề lí luận của văn xuôi hiện nay”, Tạp chí văn học, số 5 (ra
tháng 9 – 10).
52. Nguyễn Đình Đăng, Nhà văn Việt Nam của tôi www.evan.com.vn
53. Phong Điệp, Đánh giá thành tựu Văn học Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới,
www.vietnamnet.com.vn.
54. Trần Đạo, Nguyễn Huy Thiệp – Thời điểm của câu hỏi, thời điểm của con người
www.vietnamnet.com.vn..
55. Hà Minh Đức, (1998), Văn học Việt Nam hiện đại – Bình giảng và phân tích tác phẩm, Nhà
xuất bản Thanh niên.
56. Hà Minh Đức, (1990), Những chặng đường phát triển của văn xuôi cách mạng, Văn nghệ,
ra số ngày 18/8. In lại trong: Khảo luận văn chương, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội, năm 1997.
57. Hà Minh Đức, (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nhà xuất bản
Sự thật, Hà Nội.
58. Huyền Giang, (1995), “Có quan những niệm về con người và cá nhân của phương Đông
không?” Tạp chí văn học, số 6.
59. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình, (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn
xuôi Việt nam sau cách mạng tháng Tám – Chương trình KHCN cấp nhà nước KX – 07,
Hà Nội.
60. Nguyễn Văn Hạnh, (1993), “Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về
con người”, Tạp chí văn học, số 3.
61. Nguyễn Văn Hạnh, (1995), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Bài giảng cho lớp cao
học và nghiên cứu sinh, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP Hồ Chí
Minh.
62. Nguyễn Văn Hạnh, (1998), Sự tiến bộ trong văn học, Bài giảng chuyên đề tiến sĩ cho
nghiên cứu sinh, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP Hồ Chí Minh.
63. Nguyễn Văn Hạnh, (1998), Về tiến trình hiện hóa của văn học Việt Nam, Văn nghệ (ra ngày
19 tháng 12).
64. Phan Trọng Hậu, Văn hóa hậu hiện đại nhìn từ nhiều phía, báo văn nghệ số 33, ra ngày
19.08.2006.
65. La Khắc Hòa, Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, www.vienvanhoc.org.vn.
66. Nguyễn Hoà, 20 năm lí luận phê bình, ngày rất gần và chuyện xa xưa,
www.vienvanhoc.org.vn.
67. Võ Thị Hảo, (1995), Tuyển tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Thanh niên Hà Nội.
68. Phạm Thị Hoài, (1999), Mê lộ, Nhà xuất bản Tổng hợp Phú Khánh.
69. Phạm Thị Hoài, (1995), Thiên sứ, Nhà xuất bản Hội nhà văn.
70. Phạm Thị Hoài, (1995), Kiêm ái, in trong tập: Man nương, Nhà xuất bản Hà Nội.
71. Châu Minh Hùng, Hình thức đa thanh mới qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
72. Châu Minh Hùng, Tiếng nói của cái tục trong văn Nguyễn Huy Thiệp www.evan.com.vn.
73. Lê Thị Hường, (1995), “Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí văn học, số
5.
74. Lê Thị Hường, (1994), “Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí
văn học, số 2.
75. Nguyễn Văn Kha, Con người cá nhân trong truuyện ngắn 1975 – 1990.
76. Nguyễn Vy Khanh, Nguyễn Huy Thiệp – Những chuyện huyền kì: núi sông và nước
www.evan.com.vn.
77. Nguyễn Khải, (2002), Tuyển tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Hội nhà văn.
78. Ma Văn Kháng, (2003), Tuyển tập truyện ngắn (4 tập), Nhà xuất bản Công an Nhân dân.
79. Lê Minh Khuê, (1995), Truyện ngắn Lê Minh Khuê, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội.
80. Thụy Khuê. Tạ Duy Anh, Người đi tìm nhân vật. www.talawasorg. Paris.com.vn. 2.3.2003.
81. Nguyễn Kiên, (1991), Vài nét về văn xuôi 1990, Nhân dân (ra ngày 26 tháng 1).
82. Phùng Ngọc Kiếm, (1995), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 (Bộ phận
văn học cách mạng), Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội.
83. Lí Lan, (2000), Người đàn bà kể chuyện, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh.
84. Cao Kim Lan, Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hậu hình thi
pháp hậu hiện đại, www.vienvanhoc.org.vn.
85. Nguyễn Văn Long, (2006), Nguyễn Văn Thìn (đồng chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975,
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nhà xuất bản Giáo dục.
86. Phong Lê, (2001), Văn học Việt Nam hiện đại – Những chân dung tiêu biểu, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội.
87. Phương Lựu (chủ biên), (2004), Lí luận văn học, Nhà xuất bản giáo dục.
88. Trần Nhất Lý, Tìm hiểu Nguyễn Huy Thiệp từ “ Phẩm Tiết”, Theo Thể thao văn hoá .
89. Nguyễn Đăng Mạnh, (2001), Nhà văn – tư tưởng – phong cách, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội.
90. E.M. Meletinsky, (2004), Thi pháp của Huyền thoại, Trần Nho Thìn và Song Mộc dịch,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
91. G.N Pospelov, (1993), Dẫn luận nghiên cứu văn học (2 tập), Nhà xuất bản Giáo dục.
92. Nguyên Ngọc, Văn xuôi Việt Nam hiện nay, lôgic quanh co của các thể loại, những vấn đề
đang đặt ra và triển vọng www.vietnamnet.com.vn.
93. Lã Nguyên, “Nhìn lại các bước đi, lắng nghe những tiếng nói” www.vietnamnet.com.vn
94. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn), (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất
bản Văn hoá thông tin.
95. Vương Trí Nhàn, (ra ngày 10/3/2006) Giăng lưới bắt… lí luận, báo Thể thao và Văn hoá.
96. Vương Trí Nhàn, (1980), Sổ tay người viết truyện ngắn, Nhà xuất bản tác phẩm mới – Hội
nhà văn Việt Nam.
97. Vương Trí Nhàn, (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành Phố Hồ Chí
Minh.
98. Trần Thị Mai Nhân, Tìm hiểu phương thức “Huyền thoại hoá” trong một số tiểu thuyết
Việt Nam thời kì đổi mới, www.vienvanhoc.org.vn.
99. Nhiều tác giả, (1995), Ánh trăng, Nhà xuất bản Hội nhà văn, tuần báo Văn nghệ.
100. Nhiều tác giả, (1994), Bến trần gian, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
101. Nhiều tác giả, (1994), Hồi ức binh nhì, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
102. Nhiều tác giả, (1995), 21 truyện ngắn trên báo Văn nghệ, Nhà xuất bản Hội nhà văn.
103. Nhiều tác giả, (1989), “Nguyễn Huy Thiệp, Tác Phẩm và dư luận”, Tạp chí Sông Hương +
Nhà xuất bản trẻ.
104. Nhiều tác giả, (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản giáo dục.
105. Nhiều tác giả, (1983), Từ điển văn học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội.
106. Nhiều tác giả, (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới – những vấn đế lí thuyết, Nhà xuất
bản Hội nhà văn, trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông tây.
107. Vũ Ngọc Phan, (1998), Nhà văn hiện đại (tập1), Nhà xuất bản văn học.
108. Vũ Trọng Phụng, (2005), Tuyển tập truyện ngắn (tập 1), Nhà xuất bản Văn học.
109. Huỳnh Như Phương, (1991), “Văn xuôi Việt Nam những năm 80 và những vấn đề dân
chủ mới của nền văn học”, Tạp chí văn học số 4.
110. Huỳnh Như Phương, (1994), Những tín hiệu mới, Nhà xuất bản Hội nhà văn.
111. Lữ Phương, (1992), Về tính đặc trưng của văn nghệ, Văn nghệ, số 24.
112. Nguyễn Minh Quân, Liên văn bản – sự triển hạn đến hạn đến vô cùng của tác phẩm văn
học, www.tienve.org.
113. Đặng Văn Sinh, Đọc lại “ Tướng về hưu” www.vietnamnet.com.vn.
114. Trần Đình Sử (chủ biên), Tự sự học, Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nhà xuất bản Đại
học sư phạm.
115. Hồ Anh Thái (Tuyển), (2005), Văn mới năm năm đầu thế kỷ, Nhà xuất bản Hội nhà văn,
Hà Nội.
116. Hồ Anh Thái (Tuyển), (2006), Văn mới 2006, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.
117. Bùi Việt Thắng, (1991), “Văn xuôi gần đây và quan niệm con người”, Tạp chí văn học, số
5.
118. Bùi Việt Thắng, (1992), Bình luận truuyện ngắn, Nhà xuất bản văn học Hà Nội.
119. Bùi Việt Thắng, (2000), “Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí Nhà văn, số 1.
120. Bùi Việt Thắng, (2000), Truyện ngắn – Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nhà
xuất bản đại học Quốc gia Hà Nội.
121. Bùi Việt Thắng, (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
122. Nguyễn Huy Thiệp, (2006), Tiểu Long nữ, Nhà xuất bản Công An nhân dân.
123. Nguyễn Huy Thiệp, Tuổi Hai mươi yêu dấu, www.NguyenHuyThiep.vn.
124. Nguyễn Huy Thiệp, (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và giới
thiệu, Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn.
125. Bích Thu, (1996), “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí văn học, số 9.
126. Bích Thu, (1995), “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống mô típ
chủ đề”, Tạp chí văn học, số 4.
127. Nguyên Trường, (2005), Tạ Duy Anh, gương mặt nổi bật trên văn đàn. Văn học và tuổi
trẻ, số 2.
128. Nguyễn Huy Thiệp, (2006), Giăng lưới bắt chim (Tạp văn, tiểu luận, phê bình, giới thiệu),
Nhà xuất bản Hội nhà văn.
129. Lê Ngọc Trà, Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới www.vienvanhoc.org.vn.
130. Nguyễn Mạnh Trinh, Văn học trong nước, hé nhìn www.Vietnam net .
131. Nguyễn Thanh Xuân, Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn
132. Trần Ngọc Vượng, Tục hoá quay về để tiến tới, www.vienvanhoc.org.vn.