ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------
NGUYỄN THANH HỒNG
XUÂN DIỆU TRONG DÒNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 1930-1945
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Người hướng dẫn : PGS.TS Lƣu Khánh Thơ
HÀ NỘI - 2011
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xuân Diệu là một trong những tác giả lớn trong nền văn học Việt Nam.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Xuân Diệu đã có nhiều đóng góp quan
trọng cho nền văn học hiện đại trước và sau cách mạng và để lại một khối
lượng đồ sộ các tác phẩm gồm nhiều thể loại khác nhau : thơ, bút kí, tiểu luận,
phê bình văn học...Ở lĩnh vực nào Xuân Diệu cũng đạt được những thành tựu
xuất sắc tạo nên những dấu ấn mang bản sắc riêng. Bạn đọc biết nhiều đến ông
với tư cách là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, chàng “hoàng tử của
thi ca Việt Nam hiện đại” và là nhà thơ tình sống để yêu và phụng sự cho tình
yêu. Với tư cách là nhà thơ, Xuân Diệu trở thành một hiện tượng hiếm có của
phong trào Thơ Mới và đưa nó lên đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Sáng tác
của ông không chỉ phong phú về mặt số lượng mà còn dày dặn về mặt chất
lượng. Bạn đọc mến mộ tài năng của Xuân Diệu, yêu quý những trang thơ của
ông bởi ở đó có một cái tôi thi sĩ luôn rạo rực tình yêu đến khát khao, cháy
bỏng, một tình yêu cuộc sống, lòng yêu đời, yêu người đến thiết tha.
Đọc những trang thơ của ông, chúng ta cảm nhận được một tâm hồn
tươi trẻ, sống để yêu, để khát vọng, để bừng sáng, cảm mà ngấm mà thấm hết
tình yêu “cho đến mãi muôn đời, đến tan cả đất trời” “mới thôi dào dạt” của
Xuân Diệu. Cái tôi thi sĩ ấy luôn rạo rực, cuống quýt, hối hả gấp gáp với nhịp
trôi chảy của thời gian để toàn tâm toàn ý toàn hồn và “sắc nhọn giác quan”
cho cuộc sống hiện tại.
Song Xuân Diệu còn được biết đến là một trong những nhà văn tài
năng của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945. Nói đến dòng truyện ngắn trữ
tình là nói đến một đội ngũ đông đảo các cây bút đã thành danh trên văn đàn
văn học nghệ thuật như: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Đỗ
Tốn, Ngọc Dao, Thanh Châu…Những tên tuổi trên đã tạo nên và đưa dòng
2
truyện ngắn trữ tình trở thành một trong những dòng truyện ngắn nổi bật trên
văn đàn thời bấy giờ. Lối viết với sức lan tỏa sâu rộng, với những trang văn
nhẹ nhàng nhưng rung động, sâu sắc đã ngấm ngầm thấm sâu vào lòng người
đọc tạo nên những ấn tượng khó phai mờ và những rung cảm thẩm mỹ khẽ
khàng mà thật tinh tế, sâu xa. Vì thế quan tâm và tìm hiểu về Xuân Diệu trong
mảng văn xuôi nói chung và về truyện ngắn trữ tình nói riêng sẽ vừa thấy
được thấy được mối tương quan của văn xuôi trữ tình Xuân Diệu với văn xuôi
trữ tình đương thời, đồng thời nhận ra được phong cách riêng của ông cũng
như những đóng góp của Xuân Diệu cho dòng truyện ngắn trữ tình.
Bên cạnh đó có thể thấy rằng, nếu thơ là địa hạt cho Xuân Diệu kết tinh
những tình cảm, cảm xúc dạt dào thì văn xuôi lại cho phép ông phát biểu và
trình bày quan điểm, tư tưởng sáng tác một cách đầy đủ hơn, rành mạch hơn và
sâu sắc hơn. Đó là sự nối dài, mở rộng ý tưởng mà ông đã từng gửi gắm, từng
nói đến…Những sáng tác văn xuôi của ông trong đó phải kể đến tập Phấn
thông vàng (1939) và Trường ca là sự tiếp nối và hoàn chỉnh hơn những tư
tưởng của Xuân Diệu trong thơ mà cụ thể là tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió.
Điều đó đồng nghĩa với việc muốn hiểu rõ về con người Xuân Diệu, các quan
điểm sáng tác, ý thức nghệ thuật của Xuân Diệu một cách toàn diện thì cần
phải nghiên cứu các sáng tác bằng văn xuôi của ông.
Trong chương trình giáo dục bậc trung học phổ thông và đại học hiện
nay, Xuân Diệu là tác gia lớn được quan tâm, cũng như những sáng tác của
ông được tìm hiểu, học tập và nghiên cứu. Tiếp cận Xuân Diệu với tư cách
không chỉ là một nhà thơ lớn mà còn là một nhà văn xuất sắc sẽ đóng góp
thêm cái nhìn đầy đủ hơn về ông.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Xuân Diệu
trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945” làm đối tượng nghiên cứu cho
luận văn này.
2 Lịch sử vấn đề
3
Xuân Diệu được xem là một tài năng đa dạng, một nghệ sĩ lớn, một nhà
văn hóa lớn. Vì thế, những sáng tác của ông đã được bạn đọc và những nhà
nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu về
văn xuôi Xuân Diệu. Trong số đó có thể kể đến những bài viết tiêu biểu gồm:
Vũ Ngọc Phan, tác giả của Nhà văn hiện đại đã rất tinh tế khi phát hiện
ra chất thơ chan chứa ở văn xuôi Xuân Diệu; “Xuân Diệu ở đâu cũng đem
theo một hồn thơ bát ngát và mộng mơ. Trong quyển Phấn thông vàng mà
Xuân Diệu gọi là một tập tiểu thuyết ngắn, tôi chỉ thấy thơ là thơ. Không phải
thơ bằng những câu có vần, có điệu, không phải thơ ở những lời gọt đẽo mà là
thơ ở những lối diễn tính tình cùng tư tưởng, ở những cảnh vật cỏn con mà tác
giả vẽ nên nhưng nét tỉ mỉ, khi ảm đạm lúc xinh tươi tuỳ theo cái hứng sáng
tạo của tác giả” [72,52].
Đồng thời, Vũ Ngọc Phan sau khi đọc Phấn thông vàng cũng đưa ra
nhận xét về mố i quan hệ giữa ý và lời văn Xuân Diệu : “lời chẳng qua chỉ là
những dấu hiệu để ghi những ý nghĩ và tình cảm, vậy cứ gì lời thanh, lời thô,
lời nào phô diễn được hết tình ý đều có thể dùng được cả” [72,53].
Huy Cận - người bạn thân thiết nhất của Xuân Diệu trong bài Phấn
thông vàng và những truyện ngắn trữ tình của Xuân Diệu đưa ra nhận xét về
một đặc trưng của văn xuôi Xuân Diệu: “Truyện mà gần như không có truyện,
không phải là truyện đời mà là chuyện tâm hồn, còn văn là những bài thơ văn
xuôi dạt dào cảm xúc, gợi cảm cực kì [11,442] và chính Xuân Diệu cũng cho
rằng: Tâm hồn người có biết bao nhiêu là chuyện. Vấn đề tâm hồn mà Xuân
Diệu muốn nói ở đây là vấn đề nhân bản chủ nghĩa, trong đó tác giả đầu tư cảm
nghĩ của mình về cuộc sống, về con người, nhưng trong đó cũng đầy rẫy những
nét, những tình tiết của cuộc đời “thiên hạ”. Rõ ràng là tác phẩm của một người
có các thớ lòng đã gắn bó xoắn xuýt với đồng loại” [11,442].
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh trong nghiên cứu về lối viết văn
4
xuôi của Xuân Diệu, khẳng định ngay rằng cái đ iều tưởng như “chơi vơi”,
tưởng như “trẻ con học nói, hay người ngoại quốc võ vẽ tiếng Nam, câu văn
tuồng bỡ ngỡ” lại chính là chỗ “Xuân Diệu hơn người”. Sở dĩ theo Hoài
Thanh, đó là do “dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể đi theo những điều sẵn
có, ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu văn cũng phải lung lay” [11,116].
Tác giả Lưu Khánh Thơ cũng dành nhiều tâm huyết viết về Xuân Diệu
trong rất nhiều các bài viết và công trình nghiên cứu của mình. Trong đó đáng
ý chú là bài “ Xuân Diệu - một tài năng đa dạng” (in trong Xuân Diệu về tác
giả và tác phẩm, NXB Giáo dục 2003), tác giả đã đánh giá một cách khái
quát, toàn diện về sự sáng tạo của Xuân Diệu trên suốt nửa thế kỷ, ngoài
những nhận định về thơ, tiểu luận, phê bình, dịch thuật…Tác giả đã đưa ra
những nhận xét về văn xuôi Xuân Diệu (Thời trước cách mạng 1945): “Đặc
điểm nổi bật trong văn xuôi Xuân Diệu thời kỳ này là trữ tình lãng mạn.
Những trang văn thật đẹp với những câu văn, những hình ảnh được trau
chuốt, gọt giũa kĩ càng. Câu văn giàu nhạc điệu, không sa vào biền ngẫu, song
lại luôn tạo được âm hưởng riêng. Chất thơ thẫm đẫm trên từng trang văn
xuôi Xuân Diệu”. Và khẳng định âm hưởng chủ đạo trong truyện ngắn, bút kí
Xuân Diệu là tấm lòng yêu tha thiết với cuộc sống và tình yêu; “bao trùm lên
trang văn Xuân Diệu là niềm khao khát gắn bó với cuộc đời, là một tình yêu
say đắm không giới hạn”[72,43].
Đồng thời, tác giả Lưu Khánh Thơ cũng đưa ra lời nhận định: “Trong
văn xuôi trước Cách mạng, Xuân Diệu đã sớm hình thành một giọng điệu
riêng, tinh tế, tự nhiên, mượt mà, pha chút buồn duyên dáng. Văn xuôi trong
Phấn thông vàng và Trường ca dường như là sự nối dài, mở rộng những ý
tưởng mà ông đã từng gửi gắm, từng nói đến trong Thơ thơ và Gửi hương cho
gió. Có thể dễ dàng tìm thấy trong văn xuôi những hình ảnh, những tư
tưởng nghệ thuật mà Xuân Diệu đã nhiều lần nói tới trong thơ. Ở văn xuôi, với
những đặc trưng riêng của thể loại, Xuân Diệu đã giãi bày được đầy đủ, rõ ràng
5
và đậm nét hơn những quan niệm về tình yêu, con người và cuộc sống.”
Mã Giang Lân trong bài Sự đa dạng của Xuân Diệu cũng thống nhất về
vẻ đẹp và chất thơ lai láng trong văn Xuân Diệu: “Văn Xuân Diệu cũng mang
một hình thức hoàn mỹ và rất thơ” [72,38]
Là một người quan tâm và nghiên cứu sâu sắc về Xuân Diệu, Trong Vài
cảm nghĩ về văn xuôi Xuân Diệu, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đề cập tới
toàn bộ văn xuôi của Xuân Diệu trước và sau cách mạng. Ông nhận định:
“Văn xuôi Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu gồm trong hai tập
Phấn thông vàng và Trường ca. Phấn thông vàng là một tập tùy bút tâm tình
(tác giả gọi là “truyện ý tưởng”). Xen vào đấy có một ít truyện ngắn: Người học
trò tốt. Cái hỏa lò, Đứa ăn mày, Tỏa nhị kiều. Trường ca là áng văn thật đẹp,
lời trau ý chuốt, chứa đầy thơ.
Cả hai tác phẩm đều mang một đặc tính chung: Tính trữ tình “mà nội
dung trữ tình khi thì sôi sục mãnh liệt…khi thì tha thiết vỗ về như ru lòng
người trong tình thương mến” [72,98].
Về nghệ thuật văn xuôi Xuân Diệu, ông cho rằng văn xuôi Xuân Diệu
có thể coi giống như những tứ thơ được chau chuốt công phu, cầu kì mà ở đó
“kĩ thuật thơ còn giúp cho Xuân Diệu điểm xuyết trong những bài viết của
mình những chi tiết, hình ảnh đẹp, vừa ngụ nhiều ý nghĩa vừa đầy chất
thơ…[72,106]. Bởi “văn xuôi Xuân Diệu là văn xuôi của một người làm thơ,
của một thi sĩ đầy kinh nghiệm” [72,104].
Nhìn chung, các tác giả đều đã đề cập ít nhiều đến mảng văn xuôi của
Xuân Diệu và những đóng góp của ông đối với nền thơ ca trước và sau Cách
mạng. Điều đó cho thấy cho thấy văn xuôi Xuân Diệu đã được các nhà nghiên
cứu quan tâm, đánh giá. Song, phần nhiều các nhà nghiên cứu mới đi vào một
số khía cạnh nhất định trong mảng truyện ngắn của Xuân Diệu, còn thiếu một
cái nhìn bao quát về phần đóng góp cũng có nhiều giá trị này của ông.
6
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn có một cái nhìn có hệ thống và
đầy đủ hơn về mảng truyện ngắn trữ tình của Xuân Diệu trong dòng truyện
ngắn trữ tình 1930-1945. Qua đó có thể thấy được sự phong phú, đa dạng
trong sự nghiệp sáng tạo của một tác gia lớn trong văn học Việt Nam hiện đại.
3 Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
3.1 Phạm vi
- Toàn bộ truyện ngắn của Xuân Diệu qua: Tập truyện ngắn Phấn
thông vàng (1939) và Trường ca (1945) cùng một số tác phẩm lẻ in trong
Tuyển tập Xuân Diệu 2, Nxb Văn học Hà Nội 1987.
- Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo thơ, bút kí, phê bình tiểu luận của
Xuân Diệu để hiểu rõ hơn tâm thế sáng tạo nhiều mặt của tác giả.
- Tìm hiểu truyện ngắn trữ tình của một số nhà văn khác cùng thời
trong cái nhìn so sánh, đối chiếu để làm nổi rõ những đặc điểm chung và
riêng của Xuân Diệu.
3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
3.2.1 Phƣơng pháp thống kê
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để xem xét các yếu tố về nghệ
thuật trong sáng tác của Xuân Diệu từ đó làm nổi bật hơn những đóng góp của
ông cho nghệ thuật dòng truyện ngắn trữ tình giai đoạn 1930-1945
3.2.2 Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi tiến hành phân tích các truyện
ngắn tiêu biểu của Xuân Diệu làm sáng tỏ những đặc điểm lớn có tính đặc
trưng trong truyện ngắn trữ tình của ông, đồng thời làm rõ hơn những nét tiêu
biểu của nội dung và hình thức nghệ thuật của các truyện ngắn.
3.2.3 Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
Để nhìn nhận rõ hơn về truyện ngắn Xuân Diệu có ý nghĩa và có đóng
góp như thế nào cho dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, chúng tôi sẽ so
7
sánh, đối chiếu nhà văn Xuân Diệu và những sáng tác của ông với những tác
giả cùng thời như Thạch Lam, Thanh Tịnh…để thấy được rõ nét hơn nét đặc
trưng trong truyện ngắn trữ tình Xuân Diệu so với các tác giả cùng thời.
3.2.4 Phƣơng pháp lịch sử
Nhìn nhận truyện ngắn trữ tình Xuân Diệu trong quan hệ tương cận với
lịch sử phát triển của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, trong việc nhìn
nhận quá trình sáng tác và quan niệm nghệ thuật của tác giả. Mặt khác những
yếu tố liên quan đến cuộc đời và những trải nghiệm cuộc sống của Xuân Diệu
cũng cần được quan tâm nhìn nhận phân tích để có thể thấy được sự ảnh
hưởng của nó đến phong cách sáng tác của nhà văn.
4. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của luận văn được phân
bố trong ba chương :
- Chương 1 : Dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945 và sự
nghiệp sáng tác của Xuân Diệu
- Chương 2 : Truyện ngắn Xuân Diệu nhìn từ phương diện nội dung
- Chương 3: Truyện ngắn Xuân Diệu nhìn từ một số phương diện
8
nghệ thuật
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
DÒNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH VIỆT NAM 1930-1945
VÀ CON ĐƢỜNG SÁNG TÁC CỦA XUÂN DIỆU
1.1 Dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945
1.1.1 Quan niệm về truyện ngắn và truyện ngắn trữ tình
1.1.1.1 Quan niệm về truyện ngắn
Truyện ngắn vốn là một thể loại phổ biến của nền văn học hiện đại. Đã
từ lâu, quan niệm về “truyện ngắn” đã được đề cập đến trong nhiều tài liệu
của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Như theo Ruby V. Redinger
trong Bách khoa toàn thư Mỹ (Encyclopedya American) xác định: “Truyện
ngắn là một hình thức văn học, bản chất của nó bao hàm trong những từ làm
thành phần cấu tạo nên tên gọi của nó. Với tư cách là một câu chuyện, nó kể
lại một chuỗi sự kiện hoặc một biến có liên quan đến con người trong hoạt
động thể chất hoặc tinh thần. Vì thế, giống mọi hình thức văn xuôi hư cấu
khác, nó mô tả bằng ngôn ngữ, và hành động của nó phụ thuộc vào sự tiếp
xúc trực tiếp đạt được giữa người đọc và đối tượng miêu tả. Với tư cách là
truyện ngắn, dĩ nhiên, nó không thể thực hiện mối tiếp xúc trực tiếp này bởi
các phương tiện phổ biến đối với tiểu thuyết, như là xây dựng nhân vật chậm
rãi, miêu tả thật chi tiết và lặp lại. Đặc biệt là nó phải miêu tả với độ nhanh
nhạy và trọn vẹn giống như một tấm gương” [10,19].
Trong Từ điển thuật ngữ văn học của các tác giả Trần Đình Sử, Lê
Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi viết: “…truyện ngắn thường hướng tới việc khắc
hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay
đời sống của tâm hồn con người…Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra
trong một thời gian, không hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra
một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người…Yếu tố quan trọng bậc nhất
của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn
9
mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.” [24,37]
Từ điển tiếng Việt do GS Hoàng Phê (chủ biên) cho rằng: truyện
ngắn là “ truyện bằng văn xuôi, có dung lượng nhỏ, số trang ít, miêu tả một
khía cạnh tính cách, một mẩu trong cuộc đời của nhân vật” [54,1034] ; trữ
tình là: “ có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện những ý nghĩ,
xúc cảm, tâm trạng riêng của con người, kể cả bản thân người nghệ sĩ, trước
cuộc sống”. [54,1035]
Nói tóm lại, dù đề cập đến như thế nào nhưng nhìn chung đã có những
điểm thống nhất trong khái niệm của các nhà nghiên cứu được đề cập đến
trong những điểm như sau:
Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung truyện ngắn bao trùm
gần hết các phương diện của cuộc sống con người và xã hội.
Nét độc đáo của nó là ngắn. Nên cốt truyện của truyện ngắn thường
giới hạn về thời gian, không gian. Nó thường là yếu tố để nhân vật trong
truyện nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời, về con người. Kết cấu của
truyện ngắn thường không nhiều tuyến, nhiều tầng mà thường được xây dựng
theo hai chiều; liên tưởng và tương phản.
Truyện ngắn thường có ít nhân vật và sự kiện phức tạp. Nhân vật
truyện ngắn thường là hiện thân của một ý thức xã hội, một trạng thái tồn tại
của con người hoặc một trạng thái quan hệ xã hội, ít khi tạo thành một thế
giới hoàn chỉnh, một tính cách đầy đặn như trong tiểu thuyết, dù ít nhiều nó
có mang những đặc tính của tư duy tiểu thuyết. Có lẽ vì thế mà truyện ngắn
mang những đặc điểm thể tài riêng biệt, chỉ thực sự phát triển gắn với nền văn
học hiện đại; gắn với sự xuất hiện và phát triển của báo chí.
Yếu tố ngôn ngữ; lời kể và cách kể chuyện và chi tiết là một trong
những yếu tố được đánh giá rất cao nhằm đem lại cho người viết truyện ngắn
những điều mình mong muốn.
1.1.1.2.Quan niệm về truyện ngắn trữ tình
Truyện ngắn trữ tình không phải là một cái tên xa lạ đối với những nhà
10
nghiên cứu văn học và đối với bạn đọc. Mặc dù chưa có khái niệm chính thức
về “truyện ngắn trữ tình” song nó đã được các tác giả đề cập đến với những
tên gọi, định nghĩa khác nhau. Truyện ngắn trữ tình cũng là tên gọi quen
thuộc trong nhiều bài viết, công trình nghiên cứu bàn về vấn đề này. Có thể kể
đến là: Truyện ngắn một số vấn đề nghề nghiệp – Vương Trí Nhàn ( Sổ tay
truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, 1980), Về chất thơ trong truyện ngắn –
Nguyễn Kiên ( 03/1996), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại – Bùi Việt Thắng ( Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000), Luận án tiến sĩ
Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 : Thạch Lam – Thanh Tịnh – Hồ Dzếnh của Phạm Thị Thu Hương
(1945), Luận án tiến sĩ Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại (Trên
cơ sở tư liệu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945) của Nguyễn Văn
Đấu (2001)…
Về thuật ngữ “trữ tình”, trong Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Nếu tự
sự thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả bằng con đường tái hiện lại một
cách khách quan các hiện tượng đời sống, thì trữ tình lại phản ánh đời sống
bằng cách bộc lộ trực tiếp thức của con người, nghĩa là con người tự thấy
mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế
giới và nhân sinh. Phương thức trữ tình cũng tái hiện các hiện tượng của đời
sống, như trực tiếp miêu tả phong cảnh thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiều sự
kiện tương đối liên tục…nhưng sự tái hiện này không mang mục đích tự thân,
mà tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng của
mình. Tác phẩm trữ tình thể hiện tâm trạng. Do đó nó thường không có cốt
truyện, hiểu theo nghĩa chặt chẽ của từ này và dung lượng của nó thường
ngắn (vì một trạng thái tâm trạng không thể kéo dài)…”[24,373]
Trong Từ điển Tiếng Việt viết về thuật ngữ “trữ tình”: “có nội dung
phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện ý nghĩa, xúc cảm, tâm trạng riêng của
con người, kể cả bản thân người nghệ sĩ, trước cuộc sống.”
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã đề cập đến trong bài viết của mình
về loại hình truyện ngắn trữ tình khi ông phân chia truyện ngắn thành hai dạng
11
“Nhìn vào thực tế: có truyện có cốt truyện thật đầy đủ, các khâu thắt nút, cao
trào, mở nút. Ngược lại, có truyện gần như thơ, rất khó tóm tắt được cốt
truyện” [43,147]. “…Nhưng có một tiêu chuẩn nữa đáng chú ý hơn, tạo nên hai
cực của truyện ngắn – như Antônốp mệnh danh. Một, đó là loại truyện kể về
một trường hợp đặc biệt nào đó, và một loại kể về những sự kiện đơn giản,
bình thường”, loại truyện thứ hai “xuất hiện muộn hơn, khi mà yêu cầu đặt ra
đối với văn học không phải chỉ là việc miêu tả những cái kì dị, lạ lùng, mà cả
những cái bình thường” [43,148]. Tác giả cũng khẳng định “một xu hướng của
truyện ngắn hiện đại là đi vào tâm lý, dựng lên những “ca” tâm lý gây ấn tượng
mạnh mẽ - lối viết này vẫn bị buộc tội là lảng tránh cốt truyện, tuy xét về một
mặt nào đó, đây là một sự lảng tránh cần thiết, mà cũng là cách lảng tránh
thông minh bậc nhất [43,149]. Như vậy, Vương Trí Nhàn đã nêu ra những nét
khác biệt giữa truyện ngắn trữ tình và truyện ngắn truyền thống (truyện có cốt
truyện nổi bật). Ông đã chỉ ra rằng truyện ngắn trữ tình là một xu hướng phát
triển của truyện ngắn hiện đại: “Thêm nhiều truyện ngắn trữ tình, bên cạnh
những truyện ngắn có cốt truyện sắc nhọn như đã quen biết” [43,154]. Đồng
thời, ông nhấn mạnh đó là “loại truyện ngắn gần với thơ, chỉ cốt tạo ấn tượng,
ngoài ra không quan tâm gì tới nhân vật, cốt truyện gì hết” [43,150].
Năm 1996, Nguyễn Kiên cũng có những lời bàn gián tiếp về truyện
ngắn trữ tình trong bài Về chất thơ trong truyện ngắn. Sau khi khẳng định:
“Sự thâm nhập của thơ vào truyện ngắn là một yếu tố tự nhiên, gây kích thích,
thuộc quy luật vận động nội tại của nghệ thuật”, nhà văn đã nhắc đến loại
truyện ngắn “Từ ý tưởng nghệ thuật đến giọng điệu, hơi văn…đều hòa hợp và
cùng mang cái phẩm chất trữ tình gần với thơ” [33,297]. Tác giả bài viết nhận
thấy “truyện ngắn hiện đại gần với thơ, vì trong sự phá cách của nó, nó sử
dụng những thao tác nghề nghiệp gần gũi với cách tư duy nghệ thuật của
thơ”[33,300].
Một công trình nghiên cứu tương đối công phu và quy mô truyện ngắn
từ định nghĩa, nguồn gốc, đặc trưng thể loại, sự phát triển…đến các kiểu
truyện ngắn đáng ghi nhận là cuốn Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và
12
thực tiễn thể loại của Bùi Việt Thắng. Trong công trình nghiên cứu này, tác
giả sau khi chia truyện ngắn thành năm loại hình cơ bản đã đi vào một số nét
khái quát của từng loại hình, chú ý là phần viết về truyện ngắn trữ tình mà tác
giả gọi là “truyện ngắn tâm tình”, ông gọi và cho rằng: “Truyện ngắn tâm tình
là truyện ngắn thiên về tính trữ tình, gần với thơ, trong truyện ta cảm nhận
được tâm thức hoặc nhân cách nhân vật hơn là ý nghĩa của câu truyện”
[65,136], hay “ Truyện – tâm tình còn được gọi là truyện ngắn gần với thơ vì
trong đó có sự phối hợp giữa sự diễn tả cảm xúc trữ tình với kể chuyện”
Truyện ngắn trong bản chất của nó là một thể loại tự sự - trữ tình cô đúc, ý
ngoài chữ, tạo ấn tượng và liên tưởng [65,138]… “Trong kiểu truyện ngắn –
tâm tình, sự cảm thụ thiên nhiên trong toàn bộ các giác quan là một đặc điểm
trong cách miêu tả của nhà văn” [65,140].
Tác giả Bùi Việt Thắng cũng nêu lên những đặc điểm cơ bản của
truyện ngắn tâm tình là tính tự sự giảm dần, tính trữ tình tăng lên “Tính phi
cốt truyện: truyện ngắn trữ tình không kể lại được vì cốt truyện không tiêu
biểu, nếu có thì đó lại là cốt truyện bên trong – tức cốt truyện tâm lý diễn tả
những tâm trạng điển hình của nhân vật…Cấu trúc của truyện rất lỏng lẻo –
sự lỏng lẻo cố ý để làm cho truyện co dãn linh hoạt phù hợp vớ việc thể hiện
các sắc thái tâm lý, tình cảm của con người” [65,136-137].
Nhà văn Nguyễn Minh Châu lại lý giải về bản chất của loại truyện này:
“Có những người viết truyện ngắn sau khi đã diễn tả cái diễn biến bên ngoài,
hoặc tả hết sức tiết kiệm mà chỉ chuyên chú vào cái bên ngoài, vào cái mà
nhân vật thu nhận được ở bên trong tâm hồn họ, bằng những câu đối thoại,
bằng những phản ứng tâm lý rất tinh tế. Vì thế đã đẻ ra một loại truyện ngắn
mà ta thường gọi là truyện không có cốt truyện. Chẳng qua chỉ là một thủ
đoạn văn học cốt để nhân vật và phần nội tâm của nhân vật trực tiếp tiếp xúc
với người đọc” [65,138].
Ngoài những bài viết, những công trình nghiên cứu vừa nêu còn có
những luận án, luận văn, khóa luận đề cập tới truyện ngắn trữ tình. Đầu tiên
phải kể đến luận án của tiến sĩ Phạm Thị Thu Hương: Ba phong cách truyện
13
ngắn trữ tình trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 (Thạch Lam –
Thanh Tịnh – Hồ Dzếnh). Tuy mục tiêu của luận án tập trung vào nghiên cứu
phong cách sáng tác của ba nhà văn nhưng trong quá trình tiến hành đề tài, tác
giả đã nêu lên được những ý kiến có giá trị về loại hình truyện ngắn trữ tình:
“Trong tác phẩm trữ tình, yếu tố chủ quan của nhà văn bao giờ cũng rất đậm
nét, và nó được thể hiện ở tất cả các phương diện nghệ thuật: Dù tả cảnh, tả
ngoại hình nhân vật hay tả nội tâm nhân vật…Truyện ngắn trữ tình thường
không có cốt truyện. Nó có kết cấu gần với câu thơ trữ tình. Truyện ngắn trữ
tình thường đi sâu miêu tả một cách tinh tế những phản ứng của tâm thức đối
với “kinh nghiệm sống” (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Ý nghĩa của truyện
thường gắn với không khí, tâm trạng…bàng bạc trong tác phẩm” [27,7]. Theo
tác giả luận án, “Truyện ngắn trữ tình đã đưa vào văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam một chất thơ man mác, bàng bạc rất riêng. Truyện ngắn trữ tình mang lại
cho người đọc một cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng, sau những trang viết tràn trề
hiện thực của các nhà văn hiện thực”.
Năm 2001, với luận án “Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại
(Trên cơ sở cứ liệu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945)” tiến sĩ
Nguyễn Văn Đấu đã chứng minh được có ba loại hình truyện ngắn hiện đại cơ
bản là: “Truyện ngắn – kịch hóa, truyện ngắn – trữ tình hóa, truyện ngắn –
tiểu thuyết hóa”. Trong chương viết về truyện ngắn – trữ tình hóa, người viết
đã phát hiện nhiều điểm độc đáo trong tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật,
tổ chức trần thuật của loại hình truyện ngắn này. Theo luận án “Truyện ngắn –
trữ tình hóa về cơ bản không phải là truyện về quan hệ xã hội, truyện về cuộc
đời cùng với những sự thay đổi khôn lường của nó. Nó là truyện về thế giới
đời sống đã được nội cảm hóa đậm nét, là truyện tâm hồn, tình cảm, truyện về
sự giác ngộ, thức tỉnh niềm vui, nỗi buồn của con người trước cuộc
sống…Chức năng chủ yếu của cốt truyện là thể hiện trạng thái tâm tưởng của
con người trước đời sống” [17,107]. Sự kiện nội tâm là chất liệu cơ bản của
truyện: “Ở truyện ngắn – trữ tình hóa, sự kiện hành động thường chỉ giống
như cái mắc áo để sự kiện nội tâm như chiếc áo trùm lên” [17,113]. Xét về
14
cấu trúc – chức năng, nhân vật văn học có bốn loại nhưng “loại nhân vật tiêu
biểu của truyện ngắn – trữ tình hóa thường là nhân vật loại hình và nhân vật
tư tưởng. Qua nhân vật, các cây bút trữ tình chủ yếu không nhằm khái quát
tính cách, khái quát bản chất xã hội – lịch sử của con người mà nhằm bộc lộ
một tư tưởng có ý nghĩa nhân sinh sâu rộng” [17,121]. “Chi tiết nội tâm là
chất liệu chủ yếu trong xây dựng nhân vật” [17,126]. Trần thuật trong truyện
ngắn – trữ tình hóa có “Chức năng cơ bản là chức năng gợi cảm” [17,135].
Như vậy, có thể coi đây là công trình đầu tiên có nhiều đề xuất mới mẻ, có
những nhận định về đặc trưng loại hình truyện ngắn trữ tình khá sâu sắc.
Khi tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn trữ tình, Nguyễn Thị Duyên cho
rằng đối tượng của truyện ngắn trữ tình là “thiên nhiên gợi cảm xúc, cảm giác
nhẹ nhàng” [16,10] và “con người với cảm xúc, tâm tư biến chuyển nhẹ
nhàng” [16,15]. Trong truyện ngắn trữ tình, “cốt truyện không có nhiệm vụ
tạo kịch tính, gây căng thẳng. Cốt truyện trong truyện ngắn trữ tình không tái
hiện các xung đột xã hội, mà hướng tới tạo ra các tình huống khơi gợi trạng
thái tâm tưởng, cảm xúc, suy tư của con người. Hướng tới nhiệm vụ như vậy
nên truyện ngắn trữ tình thường tạo nên những cốt truyện giảm nhẹ kịch tính,
những truyện dường như “không có chuyện” và sử dụng cốt truyện tâm lý”.
Theo tác giả, truyện ngắn trữ tình có ba kiểu kết cấu thường gặp là: kết cấu
hồi tưởng, kết cấu cảnh tình tương ứng, kết cấu lắp ghép. Về trần thuật,
“Truyện ngắn trữ tình khá tiêu biểu cho loại truyện để đọc – tức là chỉ thấy
thú vị khi đọc, còn khi kể thì sự hấp dẫn của nó không còn nữa” [17,36], điểm
nhìn trần thuật mang đậm dấu ấn chủ quan, nhịp điệu trần thuật khoan thai,
giọng điệu trần thuật sâu lắng thiết tha và biểu cảm…
Như vậy, qua các công trình nghiên cứu, ta đã có thể xác định đặc trưng
của truyện ngắn trữ tình và bước đầu khẳng định được vị trí và vai trò quan
trọng của loại hình truyện ngắn này trong lịch sử phát triển truyện ngắn nói
riêng và các thể tài văn học nói chung.
Song, qua các công trình nghiên cứu, chúng tôi cũng nhận thấy:
Thứ nhất, không phải mọi truyện ngắn trữ tình đều có chất thơ và cũng
15
không phải chỉ riêng truyện ngắn trữ tình mới có chất thơ. Thực tế, nhiều
truyện ngắn – kịch hóa, truyện ngắn – tiểu thuyết hóa thấm đẫm chất thơ
(Chẳng hạn, truyện ngắn của Nam Cao). Trong khi đó, một số truyện ngắn trữ
tình hiện thực lại không hề có chất thơ. Ví như truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp tạo nhiều sức gợi, có trữ tình nhưng không có chất thơ. Kết luận chất thơ
chỉ phù hợp với truyện ngắn trữ tình lãng mạn.
Thứ hai, vấn đề có cốt truyện hay không có cốt truyện (hiểu theo quan
niệm truyền thống) phụ thuộc vào phong cách sáng tác của nhà văn. Chẳng
hạn, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao thích tạo dựng những cốt truyện sắc nhọn
còn Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu lại không lựa chọn kiểu
cốt truyện đó. Nhưng đặc điểm cấu trúc của truyện ngắn trữ tình không nằm ở
các thành phần mà nó có, không hề phụ thuộc vào việc nó có cái này mà thiếu
cái kia. Đặc điểm cấu trúc của nó nằm ở khuynh hướng giải cấu trúc, tái cấu
trúc các hình thức thể loại truyền thống.
Do những hạn chế trong nghiên cứu, nhiều tác phẩm truyện ngắn trữ
tình chưa hoàn toàn được lý giải đúng đắn. Nhược điểm này thể hiện rõ nét
trong những công trình phân tích sáng tác của những nhà văn cụ thể như
Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh. Chẳng hạn, Vũ Ngọc Phan đã từng
cho rằng truyện của Thạch Lam “ Nhiều truyện không được đậm đà, làm
cho người đọc dễ chán”, Thạch Lam “cố ý làm cho đơn giản, đơn giản cả
về văn lẫn cốt truyện, nên làm mất cả hứng thú” [11,49]…Hay như Vũ
Ngọc Phan cho rằng văn xuôi Xuân Diệu rất chú trọng vào việc phô diễn ý
nghĩ và tình cảm con người nên không quá chú ý đến lời, bởi thế, bất luận
là lời thanh hay lời thô ông đều không đắn đo khi sử dụng, miễn sao nói
được hết ý nghĩ và tình cảm của mình: “Có lẽ Xuân Diệu chú trọng về ý
nghĩ về tình cảm thái quá nên không nghĩ đến sự lựa lời, dùng chữ
[11,209]. Tuy nhiên, những nhận xét này không hoàn toàn chính xác.
Vì thế, hiểu đúng cấu trúc thể loại truyện ngắn trữ tình chính là khẳng
định giá trị nghệ thuật đích thực của các tác phẩm này, đồng thời khẳng định
16
được tài năng, sáng tạo độc đáo của các nhà văn.
Dẫu sao khám phá của những người đi trước cũng trở thành cơ sở, gợi
ý cho chúng tôi tiếp tục tìm hiểu về thể loại này cũng như làm sáng rõ những
nét tiêu biểu và đặc trưng của truyện ngắn trữ tình Xuân Diệu trong dòng
truyện ngắn trữ tình 1930-1945.
1.1.2 Dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 trong tiến trình văn học
Việt Nam hiện đại
1.1.2.1 Vị trí, đặc trưng của dòng truyện ngắn trữ tình
Truyện ngắn hiện đại nói chung và truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945
nói riêng đã phát triển thành nhiều dòng, nhiều khuynh hướng văn học. Khảo
sát về truyện ngắn giai đoạn này ta thấy có ba khuynh hướng (loại hình) văn
học tiêu biểu mà tên gọi chung của chúng chỉ có ý nghĩa tương đối đã được
các nhà nghiên cứu định danh, đó là: truyện ngắn – kịch hóa, truyện ngắn –
trữ tình hóa và truyện ngắn tiểu thuyểt hóa.
Trong đó, truyện ngắn – kịch hóa, là tác phẩm tự sự kể lại câu chuyện
mà nòng cốt là một hành động của nhân vật đang tự diễn ra trong môi trường
xung đột giàu kịch tính. Đại diện tiêu biểu là Nguyễn Công Hoan.
Khuynh hướng thứ hai là truyện ngắn – tiểu thuyết hóa, là tác phẩm
tự sự cỡ nhỏ nhưng có cấu trúc “phức hợp”. Truyện thường tập trung vào
việc phân tích, lý giải quá trình đời sống, tính cách và thân phận con người.
Đại diện là Nam Cao.
Và khuynh hướng thứ ba là truyện ngắn – trữ tình hóa, là tác phẩm tự
sự thuật lại một câu chuyện để tạo ra ấn tượng về thế giới đang tồn tại trong
tâm tưởng con người. Đại diện cho khuynh hướng này là những tên tuổi đã
từng được định danh như: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh…
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chủ yếu đi sâu nghiên cứu
truyện ngắn trữ tình giai đoạn 1930 – 1945, tìm hiểu những đặc trưng của nó
rồi soi vào tác phẩm cụ thể, đặc biệt là qua sáng tác của Xuân Diệu để làm rõ
17
văn xuôi của ông trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945.
Về vị trí của dòng truyện ngắn trữ tình, chúng tôi đồng tình với ý kiến
của Ts Phạm Thị Thu Hương khi đưa ra nhận định rất đúng đắn: “Nếu xét
trong lịch sử của dòng truyện ngắn trữ tình thì có thể nhận thấy nó chỉ thực sự
phát triển khi văn chương Tự Lực văn đoàn và thơ của phong trào Thơ mới
đạt đến những thành tựu rực rỡ. Phần lớn truyện ngắn trữ tình thường xuất
hiện sau 1936, và từ 1936 – 1945 truyện ngắn trữ tình mới thực sự trở thành
một dòng với số lượng tác giả, tác phẩm đáng kể và trong phong cách đã có
sự định hình” [27,160]. Về đóng góp đặc sắc của dòng truyện ngắn trữ tình,
theo tác giả luận án “Truyện ngắn trữ tình đã đưa vào văn xuôi nghệ thuật
Việt Nam một chất thơ man mác, bàng bạc rất riêng. Truyện ngắn trữ tình
mang lại cho người đọc một cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng sau những tràn trề
hiện thực của các nhà văn hiện thực” [27]
Như vậy có thể thấy, văn chương của Tự lực văn đoàn và Thơ Mới đạt
đến những thành tựu rực rỡ đã tạo đà cho truyện ngắn trữ tình phát triển mà
tác giả tiêu biểu nhất cho dòng truyện này chính là Thạch Lam. Từ đó có thể
nhìn nhận mạch truyện này khởi nguồn và đạt được những thành tựu đặc sắc
trong giai đoạn 1930-1945
Đến giai đoạn 1945-1955, truyện ngắn trữ tình có phần chững lại do
giai đoạn này truyện ngắn theo phong cách sử thi và thể loại kí phát triển
mạnh hơn.Từ 1955-1975 và những năm tám mươi của thế kỉ XX, thể loại
truyện ngắn nghiêng sang truyện ngắn thơ.
Cuối thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI, thể loại truyện ngắn nói
chung và dòng truyện ngắn trữ tình có xu hướng phát triển mạnh trở lại với
những tên tuổi như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bản,
Linh Vang, Mai Linh và đặc biệt là cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư.
Nói tóm lại, dòng truyện ngắn trữ tình ngày càng khẳng định được vị
thế và vai trò của mình trong dòng truyện ngắn Việt Nam nói riêng và làm
phong phú thêm các thể loại văn học nói chung. Chỗ đứng của truyện ngắn
18
trữ tình đang ngày càng củng cố trong lòng bạn đọc.
Như ở trên đã nói, các công trình nghiên cứu đã chứng minh trong văn
học Việt Nam có ba khuynh hướng truyện ngắn tiêu biểu. Điều này cho thấy
dòng truyện ngắn trữ tình có một vị trí ngang bằng và độc lập với các dòng
truyện ngắn khác. Với những đóng góp không nhỏ, truyện ngắn trữ tình có
một vị trí quan trọng trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam hiện đại và
tạo nên sự đa diện cho bộ mặt văn học dân tộc. Tuy các công trình có những
cách tiếp cận, lý giải khác nhau nhưng chúng tôi thấy vẫn có sự thống nhất
trong việc nêu lên những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn trữ tình với đặc
trưng nổi bật như:
- Truyện ngắn trữ tình gần với thơ, mang đậm chất thơ.
- Truyện ngắn trữ tình, tính chủ quan của người nghệ sỹ sáng tạo cũng
được thể hiện tương đối đậm nét.
- Về bút pháp nghệ thuật: hướng nội, tuân theo nguyên tắc miêu tả và
xây dựng nhân vật, thường chú trọng miêu tả đời sống bên trong – thế giới
nội tâm, đặc biệt là thế giới của cảm xúc, cảm giác với những rung động
tinh vi nhất
- Nhân vật truyện ngắn trữ tình thường không được tập trung khắc họa
thành những tính cách điển hình mà chủ yếu được khám phá, tái hiện thế giới
nội tâm với những cảm giác.
- Về cốt truyện: Truyện ngắn trữ tình thường phi cốt truyện hoặc chỉ có
cốt truyện tâm lý giàu sức gợi.
- Kiểu kết cấu truyện: theo nguyên tắc đối lập (ánh sáng – bóng tối,
buồn – vui, quá khứ - hiện đại, làng (nông thôn) – phố (thành thị), ấm –
lạnh…) có kết cấu gần với cấu tứ của thơ trữ tình.
- Ngôn ngữ: câu văn mượt mà, giàu hình ảnh, đậm chất nhạc, chất thơ.
Với những đặc trưng nổi bật như trên, chúng ta có thể thấy với sự góp
mặt của mình, dòng truyện ngắn trữ tình đã tự tạo ra dòng chảy riêng của
19
mình và làm phong phú thêm cho thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam,
đồng thời đóng góp những gương mặt tiêu biểu, các nhà văn tài năng cho nền
văn học dân tộc.
1.1.2.2 Một vài gương mặt tiêu biểu tạo nên dòng truyện ngắn trữ
tình Việt Nam 1930-1945
Thạch Lam :
Thạch Lam (sinh năm 1910, mất năm 1942), tên thật là Nguyễn Tường
Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân là người khởi xướng một cách không
chính thức đồng thời cũng là đại điện tiêu biểu của dòng truyện ngắn trữ tình
1930-1945. Truyện của Thạch Lam đem đến cho văn xuôi đương thời một
cách cảm thụ tinh vi, bình dị, mới mẻ, đầy khám phá đối với thế giới nội tâm
của con người. Ông đặc biệt tinh tế khi phát hiện, phân tích những biến thái
nhỏ nhất của tâm hồn. Thạch Lam thường khai thác chất thơ trong đời sống
hằng ngày. Ông quan tâm, phơi bày đời sống nội tâm tinh tế, phong phú của
nhân vật hơn là những biến cố, sự kiện bề ngoài hay những xung đột giàu
kịch tính. Truyện của ông thường mang yếu tố phi cốt truyện, loại truyện
không có truyện. Hai đứa trẻ không hề có hàng động phát triển xung đột, mà
chỉ toát lên một tâm trạng, một không khí. Nó chỉ là câu chuyện kể lại cái
cảnh hai chị em ngồi trong một ngôi hàng tạp hoá nghèo nàn trong một buổi
tối như bao buổi tối khác. Buổi tối – bầu trời và những liên tưởng, những kỉ
niệm. Ở đây, người đọc không chỉ cảm nhận được tâm hồn đầy lãng mạn với
những ước mơ đẹp đẽ của hai đứa bé nghèo ở một cái gác xép nhỏ mà còn
cảm thấy hồn quê hương, đất nước toả ra từ cái không gian thanh bình thấm
đẫm chất thơ của những buổi chiều “ êm như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu
ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, những buổi tối có “vòm trời
hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom
đóm bay là trên mặt đất hay len vào những cành cây” và những đêm mùa hạ
êm ả như nhung và thoảng qua gió mát”… Sở trường của Thạch Lam trong
truyện ngắn là đưa ra một biến thái về tâm hồn, một chuyển hướng tâm lý. Từ
buồn ra vui, từ giận ra thương, từ lãnh đạm ra tha thiết, từ yêu ra ghét, hay
20
ngược lại. Một anh chàng ăn chơi trác táng về nhà khuya mệt mỏi chán
chường, sáng dậy bỗng thấy vui vẻ nhẹ nhàng trước cảnh trời ngày mai tươi
mát và hình ảnh bà mẹ già trìu mến phúc hậu (Buổi sớm, Nắng trong vườn).
Những biến đổi tình cảm như trên làm phần then chốt ở Cơn giận, Sợi tóc,
Tình xưa, Bên kia sông...Nhà phê bình Phong Lê nhận xét “Ở thế giới nghệ
thuật truyện ngắn Thạch Lam, tất cả đều hiu hiu, đạm đạm, không có sự chói
gắt, không có những vang động mạnh, nhưng lại gợi bao ám ảnh về số phận
con người. Những truyện hay của Thạch Lam, thường có nhiều bóng tối:
không phải cái “tối như mực”, mà là cái tối hoàng hôn, của ánh ngày tàn”
[8,92]. Thời gian nghệ thuật của ông là hiện thực được kéo lùi về quá khứ
(Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ). Không gian nghệ thuật của ông thường
là các phố huyện, chợ huyện phố ga (Cô hàng xén, Tối ba mươi, Nhà mẹ Lê).
Nhân vật của ông phần nhiều không rõ tính cách, chỉ bộc lộ những tâm trạng,
những nét tâm lý. Đó là những con người nội tâm, có tâm hồn tinh tế, thường
tự cảm về mình, giàu xúc cảm và ít hoạt động. Truyện của ông giống như
những bài thơ trữ tình, mà ở đó thiên nhiên được miêu tả không chỉ qua thị
giác, thính giác mà còn ở cảm giác: “…Trên con đường gạch Bát Tràng rêu
phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây xuống nhảy múa theo chiều gió.
Một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí… Yên tĩnh quá, không một
tiếng động nhỏ ở trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều
ngừng lại trên bực cửa…bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc
rực rỡ chàng đem ở ngoài trời vào” (Dưới bóng hoàng lan); “Ở ngoài, trăng
rằm vằng mặt sân và các lá lan đen sẫm lấp lánh ánh trăng cong” (Tình
Xưa)...,và những trạng thái thay đổi thật tinh tế trong trâm hồn con người: “
Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vướng phải” (Dưới bóng
hoàng lan); “ đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều
quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của cô. Liên không hiểu tại sao, những
chị thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn” (Tình xưa)…, với
một giọng văn rất riêng: thủ thỉ, nhẹ nhàng, đôi khi gần như thì thầm: “chúng
tôi nghe ngóng cái yên lặng của buổi trưa, hình như theo dòng nước trôi ánh
21
nắng đi xa” (Nắng trong vườn); “Gió thơm nhẹ và thoang thoảng tới bông
hồng nhung thẫm tan vào đêm tối… cánh hồng nhung đen thẫm…đẫm một
mùi hương nồng và ân ái”(Đêm sáng trăng)…Với những truyện ngắn mang
một phong cách độc đáo, riêng biệt, Thạch Lam quả đã có đóng góp rất lớn
cho sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam và đặc biệt là ông đã để lại những
ảnh hưởng rất rõ rệt cho những nhà văn khác như Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh , Đỗ
Tốn, Ngọc Giao, Thanh Châu…
Thanh Tịnh:
Thanh Tịnh vốn là người con xứ Huế vì thế lòng ông sâu nặng với quê
hương cố đô nên sự nghiệp văn chương của ông mang nặng tâm hồn Huế. Xứ
Huế là xứ mơ màng, xứ thơ nên truyện Thanh Tịnh mang đầy chất thơ, cũng
vì thế những tập truyện ngắn: Quê mẹ (1941), Hai chị em (1942), Ngậm cải
tìm trầm (1943) phần lớn viết về Huế, nơi ông sinh ra và lớn lên đầy kỉ niệm.
“… Những truyện ngắn Tình thư, Amculixe mang đầy tính cách Huế và xứng
đáng là người công dân, một người con yêu của xứ Huế mộng mơ…[55;56].
Thạch Lam trong bài đề tựa về tập truyện Quê mẹ năm 1941 cũng coi
Thanh Tịnh là nhà văn xứ Huế và ông cũng nêu lên sự chi phối mạnh mẽ của
con người thi sĩ đối với cái nhìn cuộc sống. Thạch Lam đã có những cái nhìn
nhận xét tinh tế, xác đáng về văn xuôi Thanh Tịnh: “ Thanh Tịnh có lẽ là nhà
văn đầu tiên ở miền Trung đã trình bày mối dây liên lạc nối ông với đồng nội,
quê hương, những dây liên lạc nhẹ như tơ hồng ngày thu, nhưng không kém
phần vương vít và quyến luyến có lẽ linh hồn người ở nhiều nơi có nhiều màu
sắc khác nhưng mà tác giả chỉ tả cái vẻ êm ả và nên thơ. Tâm hồn ưa thích cái
gì vừa đẹp đẽ vừa nhè nhẹ, tác giả không lách đi sâu, nhưng dừng lại ở một
làn gió, ở một cái thoảng hương thơm hoa cỏ bốn mùa [35,348]. Đặc biệt,
Thạch Lam tìm thấy trong Quê mẹ một lòng yêu quê hương xứ sở đằm thắm
thiết tha của Thanh Tịnh, một thứ tình yêu mộc mạc “pha chút buồn Á Đông”.
Tất cả đều được Thanh Tịnh kể lại bằng một giọng điệu êm ái nhẹ nhàng,
giọng điệu mà Thạch Lam so sánh với tiếng sáo nhỏ và thanh…“ông đã muốn
là người mục đồng ngồi dưới bóng tre thổi sáo để ca hát vẻ đẹp của đời thôn
22
quê” [34,350].
Trước 1945, Thanh Tịnh vừa làm thơ vừa viết văn. Trong cuốn Thi
nhân Việt Nam (1942), Hoài Thanh và Hoài Chân chọn và giới thiệu hai bài
thơ của tác giả này là Mòn mỏi và Tơ trời với tơ lòng. Nhưng người đọc nhớ
tới Thanh Tịnh và yêu mến ông chủ yếu qua truyện hơn là qua thơ. Tập truyện
ngắn Quê mẹ (1941) đủ đưa ông vào vị trí những tác giả viết truyện ngắn nổi
tiếng giai đoạn 1930- 1945. Trong số các nhà văn truyện ngắn theo khuynh
hướng trữ tình thì có lẽ Thanh Tịnh là người gần gũi với Thạch Lam nhất. Vũ
Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã xếp Thanh Tịnh vào dòng tiểu thuyết
tình cảm với Thạch Lam và ông nhận thấy “Thứ tình cảm ở Thạch Lam là thứ
tình êm dịu nhẹ nhàng, thứ tình cảm của người dân quê hồn hậu trung kỳ diễn
ra trong khung cảnh sông nước đồng ruộng…” Theo Vũ Ngọc Phan, bởi vì
tác giả của tập Quê mẹ là một thi sĩ nên “Cái tình quê trong hầu hết các truyện
ở tập Quê mẹ bao giờ cũng rung rinh lai láng trong đêm trăng rằm, trên những
mặt sông còn im hay trong những buổi chiều tà gió hiu hắt thổi. Tình trăng
nước đó là tất cả những cái làm tài liệu cho Thanh Tịnh để xây dựng nên
truyện trong tập Quê mẹ [52;1106].
Nhân vật của Thanh Tịnh, dù là anh trí thức tiểu tư sản, người dân quê,
cô thôn nữ, người lái đò thì hầu như đều đi về gắn bó với không gian làng Mỹ
Lý. Trong cái không gian quen thuộc ấy, ngòi bút tinh tế của ông hướng tới
khám phá, phát hiện những vẻ đẹp bình dị trong cuộc sống như tình yêu, tình
bạn, tình vợ chồng, tình cha con, tình cảm gắn bó của con người với quê
hương. Tất cả đều được ông trình bày một cách nhẹ nhàng, thanh thoát và
đằm thắm.
Hồ Dzếnh :
Rất gần gũi và bị ảnh hưởng về phong cách viết từ Thạch Lam là nhà
văn mang trong mình hai dòng máu Việt – Hoa, nhà văn Hồ Dzếnh. Hồ
Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh, sinh năm 1916, mất năm 1991. Truyện ngắn
của Hồ Dzếnh là nỗi đau và niềm cảm thương, cả hai đều vô hạn, ẩn chứa,
tiềm tàng như hai con suối được khơi lên với một tiết tấu khi dạt dào, lúc
23
thấm thía, ngân nga và không lúc nào ngừng nghỉ. Hai con suối ấy đều là hoài
niệm, từ cái nhìn ngược lại phía sau, phía quá vãng của chủ thể sáng tạo – mà
ở đây cũng là chủ thể trữ tình. Vì vậy, bao giờ cũng bâng khuâng, man mác.
Tuy viết không nhiều, nhưng với tập truyện ngắn Chân trời cũ , Hồ Dzếnh đã
để lại nhiều dư vị đặc biệt trong lòng độc giả bởi tấm lòng nhân hậu, giàu
thương cảm, ở sự gắn bó với quê hương, và ở ngòi bút trữ tình thấm đượm,
chan chứa chất thơ. Mỗi truyện ngắn ở đây là một cảnh đời của người thân
trong gia đình hoặc người trong làng xóm của tác giả lúc tuổi thơ, cũng là một
mảnh tâm hồn của nhà văn cất giữ trong đó. Tác phẩm có chất thơ của hoài
niệm buồn thương, cũng là chất thơ toát lên từ những cuộc đời vất vả đau
thương của con người Việt Nam, quê ngoại mà tác giả gắn bó bằng cả máu
thịt và tâm hồn mình. Ở Hồ Dzếnh, tình cảm gắn bó tha thiết đối với đất nước
Việt Nam, “ dải đất súc tích những tinh hoa của văn chương, những công
trạng lịch sử” (Chị Yên), hoà với lòng yêu thương, quý trọng vô hạn đối với
người mẹ, người chị nuôi, “ những người đàn bà Việt Nam đã làm nên đất
nước này, người đàn bà chỉ biết có chịu khó vì chồng con, không bao giờ một
lời phàn nàn hay oán giận, mà cái ước mong sung sướng nhất là cứ được hi
sinh mãi”(Thạch Lam - Tựa Chân trời cũ). Văn Hồ Dzếnh thường đượm
buồn, song không phải thứ buồn mà thi vị ngọt ngào mà là nỗi buồn của chính
những “ số phận bắt buộc phải buồn rầu”, “ người nào cũng mang một tâm
hồn đau khổ”. Kể và cuộc đời đau khổ của những người thân yêu đó, Hồ
Dzếnh thường day dứt, xót xa. Văn Hồ Dzếnh giàu cảm xúc, ý vị, tuy mực
thước, trau chuốt, mà đầy lắng đọng. Đó là chất giọng tâm tình cử nhẩn nha
mà khắc họa, mà lưu giữ trong tâm trí người đọc bao cung bậc thiết tha, buồn
vui, yêu ghét…Văn ông âm vang một nhạc luật, một tiết tấu khi tha thiết, khi
hùng hồn, cuốn người đọc cùng đi bằng một thứ ma lực vô hình khó lòng
cưỡng nổi. Thiên nhiên trong truyện ngắn Hồ Dzếnh thật đa dạng trong sự liên
tưởng đầy chất thơ: “ Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng
hôn ở đây không như hoàng hôn ở Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây ưu
hoài như một chinh phụ nhớ chồng” (Ngày gặp gỡ). Hồ Dzếnh có một khả
24
năng diễn tả tâm trạng mơ hồ rất tốt, nhiều đoạn văn của ông đầy sự lung linh,
huyền bí, xa xôi, lơ lửng: “Fin đắm chìm trong công việc, trong lòng trẻ nhỏ
thốt nổi dậy một thứ rung động thầm kín, cái cảm giác đẹp đẽ mà tôi không tìm
thấy được nữa trên đường đời…Nhiều lúc Fin nghiêng đầu, lắng tai và không
khí, tựa hồ như nghe ngóng một tiếng gì huyền bí, trong cái dáng điệu lơ đãng
rất đáng yêu ”(Trong bóng rừng). Đây là đoạn tả cảm giác của tác giả trước cái
đẹp của Fin, một bông hoa rừng thật đẹp nhưng xa lạ, một thứ hương thơm mà
kẻ nhìn ngắm nó không thể cầm nắm được trong tay. Văn xuôi của Hồ Dzếnh
đã thật sự mở rộng khả năng của truyện ngắn trữ tình. Phá bỏ cái khung chật
hẹp của thể loại, đưa vào đó cái kích thích tối ưu của sự tự biểu hiện, ông đã tạo
nên sự giao thoa, nối tiếp giữa truyện và thơ, không cần cốt truyện hấp dẫn,
không cần nhân vật có tính cách độc đáo. Truyện ngắn Hồ Dzếnh thường bao
trùm dung lượng của cả một đời người, của cả một kiếp người. Ông không kể
và tả tỉ mỉ các biến cố bất hạnh đẩy nhân vật đến tình trạng trôi dạt, bi đát mà
thường dùng bút pháp tự sự khái quát. Cái quan trọng chính là thái độ riêng tư,
niềm thương cảm xót xa của ông trước những cảnh ngộ, biến cố ấy. Vì vậy dấu
ấn của tình cảm, cảm xúc và trạng thái tinh thần của người trần thuật thường
lấn lướt hơn, được tô đậm hơn so với biến cố và sự kiện bên ngoài. Cốt truyện
trong Chị Yên được kiến tạo bởi sự liên kết các trạng thái tâm lý gồm sự ân hận
vì hành vi bất công, thô bạo đối với Yên trong quá khứ; nỗi căm phẫn nghẹn
ngào trước người cậu khốn nạn đã làm tan nát cả đời chị; lòng đau xót cho cái
chết bi thảm của chị và của chồng chị. So với Thạch Lam, Hồ Dzếnh bộc lộ
mình qua những dòng độc thoại rộng rãi, chủ quan và thống thiết hơn. Do vậy,
truyện ngắn của ông giống như tuỳ bút thơ.
Thanh Châu, Ngọc Giao là những cây bút mà tên tuổi gắn liền với tờ
Tiểu thuyết thứ bảy trong suốt thời gian dài.
Thanh Châu tên thật là Ngô Hoan, sinh năm 1912, quê tại huyện Diễn
Châu, Nghệ An. Ngòi bút Thanh Châu trước năm 1945 nhẹ nhõm, trong trẻo,
trong những truyện tình thoáng qua, chỉ còn lại như một kỉ niệm đẹp không
phai mờ. Chất lãng mạn ở Thanh Châu không phải là thứ lãng mạn phóng
25
đãng “vui vẻ, trẻ trung”, mà thường là những rung cảm nghệ sĩ trước cái đẹp,
cái thiện, ít nhiều mang màu sắc lí tưởng. Nhân vật trong truyện ngắn Thanh
Châu thường xuất hiện nhiều giới công chức sang trọng, nghệ sĩ, dân trung
lưu thị xã, thị trấn, dân nghèo cư ngụ ven thành phố. Cốt truyện của Thanh
Châu đơn giản, tình huống nhẹ nhàng, tình tứ mơ màng buồn thương như Hoa
ti gôn, Tà áo lụa,…Truyện của ông thường chứa đựng những yếu tố tinh thần:
tâm trạng xót xa trước kiếp người bất hạnh; thái độ tán thành đức hy sinh,
lòng thuỷ chung; sự trân trọng đối với những tình cảm trong sáng: “ Cả đêm,
Bình mơ thấy một tà áo mỏng như sương bay trong ánh trăng thanh” (Tà áo
lụa). Truyện của Thanh Châu có khả năng giúp con người hướng thiện, có khi
làm thức dậy trong con người những cảm nhận nhẹ nhàng nhưng nhuốm ý vị
triết lí hướng thượng: “Vô ích cả, vô ích cả. Lại bên bờ ta đây mà nghe ngóng
một vài điều huyền bí về cõi đời này và cõi đời bên kia. Như thế còn hơn…”
(Ở Tây Hồ, một chiều sang xuân). Thanh Châu chuyên đi vào những trạng
thái tâm hồn nhân vật, ông đi tìm và thể hiện những vẻ đẹp tâm hồn, lắng
nghe, rượt đuổi, cố nắm bắt và thể hiện cho bằng được những cung bậc tinh tế
của tâm hồn. Các sự việc, tình tiết thuộc đời sống sinh hoạt hằng ngày của
nhân vật chỉ còn là nguyên cớ để bộc lộ thế giới nội tâm. Lời văn của Thanh
Châu rất đẹp, thanh lịch và sang trọng: “Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép
rơi ra. Những nụ hoa chúm chím hình như quả tim vỡ làm mấy mảnh, đỏ
hồng như nhuộm máu đào” (Hoa ti gôn), “Ban đêm, đó mới là lúc các loài
thảo mộc đua nhau sống. Một trận gió nhẹ thổi qua làm run rẩy và rời rụng
những cánh hoa trên đám lá đen. Tôi chợt hiểu tại sao đến cây cỏ cũng sống
vội vàng, mãnh liệt” (Vườn chanh).
Ngọc Giao
Ngọc Giao (1911-1997), cũng như Thanh Châu, được coi là nhà văn”
chuyên về tình cảm” (lời Phùng Tất Đắc), thường đi vào những cảnh ngộ
ngang trái, đượm buồn. Trước 1945, truyện ngắn của Ngọc Giao thường
nghiêng về đề tài đời sống tình cảm, đó là thứ tình cảm bi thương sầu uất.
Ngọc Giao đã tái hiện trong tác phẩm những cảnh đời ngang trái: thân phận
26
thảm thương đặc biệt của những người làm nghề “ xướng ca” (Yên hoa, Đời
tư Lã Bố), những ông già bà già bất hạnh và con cái bất hiếu (Đời nó thế, Thời
gian),…Giữa những vùng nhân thế tối tăm, Ngọc Giao nhận thấy không ít con
người vẫn giữ được trái tim trong sáng, lòng nhân ái, đức hy sinh…Một số
truyện ngắn của ông còn bày tỏ dấu ấn tình cảm gắn bó với quê hương đất
nước, gắn bó với nơi “ chôn rau cắt rốn”, với phong tục tập quán cổ truyền,
danh lam thắng cảnh, tinh thần thượng võ và nghĩa hiệp( Bến đò Rừng, Cô gái
làng Sơn Hạ,…)
Đỗ Tốn
Đỗ Tốn (2920- ?). Quê gốc ở Hà Nội. Truyện ngắn của ông thường là
những truyện không có truyện, trong đó tác giả sử dụng bút pháp gợi nhiều
hơn tả, viết bằng cảm giác hơn là nghĩ. Tâm hồn nhạy cảm đã giúp nhà văn
cảm nhận thật tinh tế những màu sắc, mùi vị của đồng quê cùng những biến
đổi mơ hồ, khó nắm bắt trong thế giới nội tâm của con người. Tình quê
hương, Duyên số, Hoa vông vang kể về những tình yêu trong sáng, ngập
ngừng cùng những rung động mong manh đầu tiên trong đời của con người,
một thứ tình yêu vừa khờ dại, vừa ngây thơ mà bất cứ ai cũng từng có. Tâm lí
nhân vật trong Định mệnh được khắc hoạ khá tỉ mỉ và sâu sắc : biết là trái đạo
nhưng Phong không thể trốn chạy tình yêu, chàng yêu chính em họ của mình,
và Lan – em họ chàng - thoạt đầu chỉ nhận lời yêu anh vì thương hại, nhưng
rồi cũng bị cuốn theo cơn lốc tình ái đó, đến khi nhận ra mối nguy hiểm đang
chờ đợi ở phía trước, Lan đã chủ động rời xa Phong và đẩy anh chàng đến kết
cục bi thảm. Với cái già dặn của một người đã sống nhiều, trải nhiều, ông đã
viết về những cảnh đời, kiếp người mòn mỏi, tàn lụi đi theo thời gian (Chú
tôi, Một kiếp người). Ông gửi gắm những chiêm nghiệm độc đáo về cuộc đời,
tình yêu qua những chi tiết ngỡ như không có gì, như hình ảnh “cây na bên
vại nước trước căn bếp mà khói đang nặng nề chui ra mái rạ” (Một kiếp sống),
hay hình ảnh loài hoa vông vang “đương kín đáo cúp lại trong gió chiều êm
27
đềm…để sớm mai trở ra” (Hoa vông vang).
Một nhà văn tiêu biểu không thể không nhắc đến của dòng truyện ngắn
trữ tình này là Xuân Diệu - đồng thời cũng là đối tượng chính luận của luận
văn – do đó chúng tôi không đề cập ở phần này.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu
1.2.1 Đôi nét về tiểu sử của Xuân Diệu
Nói đến Xuân Diệu (1916-1985), trước hết phải nói đến cuộc đời của
ông. Xuân Diệu là bút danh, tên thật là Ngô Xuân Diệu. Cha ông là Ngô Xuân
Thọ, vốn quê ở xã Trảo Nha, nay là thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà
Tĩnh, đỗ tú tài kép Hán học, vào Bình Định dạy học, lấy vợ là Nguyễn Thị
Hiệp, sinh ra Xuân Diệu tại Gò Bồi, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Xuân
Diệu thuở nhỏ sống ở quê mẹ, đến năm mười tuổi sống với cha.
Xuân Diệu trải qua quá trình đào tạo quy củ. Thuở nhỏ học chữ Nho và
chữ Quốc ngữ với cha. Năm 1927, ông học trường Cao đẳng tiểu học Quy
Nhơn, được cấp học bổng và nội trú tại trường. Năm 1934, Xuân Diệu đỗ
Thành chung tại trường Quy Nhơn sau đó học ở trường Bưởi (Hà Nội) (1936-
1937) và trường trung học Khải Định (Huế) vào năm 1938-1939.
Năm 1940, Xuân Diệu đỗ tham tá nha Thương chính, được bổ vào Sở
Đoan Mỹ Tho và vào làm ở ti Thương chính Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền
Giang). Sau 4 năm làm công chức, ông thôi việc, ra Hà Nội sống bằng nghề
viết văn. Xuân Diệu là người thứ hai sau Tản Đà, một con người dám sống
hết mình với nghiệp văn chương cao đẹp.
Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ Ngày Nay
và Tiền Phong. Ông là một trong những người sáng lập Đoàn báo chí Việt
Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam.
Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến
như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
mới”, “ông hoàng của thơ tình”.
Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938-1940) và cũng
28
đã là một trong những chủ soái của phong trào Thơ Mới. Tác phẩm tiêu biểu
của ông ở giai đoạn này: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), tập
truyện ngắn Phấn thông vàng (1939).
Hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió được giới văn học xem như là hai
kiệt tác của ông ca ngợi tình yêu và qua các chủ đề của tình yêu là ca ngợi sự
sống, niềm vui và đam mê sống. Và ca ngợi tình yêu thì làm sao mà không ca
ngợi tuổi trẻ, mùa xuân, ca ngợi thiên nhiên là tổ ấm và cái nôi của tình yêu. Và
Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc đến đau đớn nỗi thời gian trôi chảy, sự mong
manh của đời người cũng như lòng khát khao vĩnh cửu, tất cả đã được diễn tả
bằng những câu thơ xúc động, có khi đậm đà triết lý nhân sinh.
Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh. Ngày 19 tháng
8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu hăng hái hoạt
động văn nghệ phục vụ hai cuộc kháng chiến. Sau Cách mạng Tháng Tám,
ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của
Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn
tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc.
Năm 1948, Xuân Diệu được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn
nghệ Việt Nam. Sau đó, ông là ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt
Nam các khóa I, II, III (1957-1985). Xuân Diệu đã tham gia Ban chấp hành và
nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó, Xuân Diệu
trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một “dòng
thơ công dân”. Bút pháp của ông chuyển biến phong phú về giọng vẻ: có
giọng trầm hùng, tráng ca, có giọng chính luận, giọng thơ tự sự trữ tình. Tiêu
biểu là: Ngọn Quốc Kỳ (1945), Một Khối Hồng (1964), Thanh Ca (1982),
Tuyển Tập Xuân Diệu (1983)…
Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được
bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ
Đức năm 1983. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996). Tên
29
của ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội
1.2.2 Sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu
Xuân Diệu, đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất
có giá trị. Hơn năm mươi năm lao động miệt mài trong thế giới nghệ thuật ấy,
con người và thơ văn của Xuân Diệu đã có sự chuyển biến rõ nét từ một nhà
thơ lãng mạn thành nhà thơ cách mạng. Đó là bước chuyển tất yếu của một trí
thức yêu nước, một tài năng nghệ sĩ. Thơ văn Xuân Diệu có đóng góp lớn vào
quá trình phát triển của văn học Việt Nam. Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn học
của nhà thơ qua thơ và văn xuôi:
Về lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính
trước và sau Cách mạng Tháng Tám.
Trước Cách mạng Tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn.
Các tác phẩm chính tập thơ Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Nội
dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này là:
Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng,
mãnh liệt với cuộc đời ; Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái Tôi bé nhỏ giữa dòng
thời gian vô biên, giữa không gian vô tận; Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà
thơ nảy sinh một triết lý về nhân sinh: lẽ sống vội vàng; nỗi khát khao đến
cháy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc đời đầy những hương sắc và
thể hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ phàng
trước cuộc đời…
Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới,
nhà thơ đã đi từ "cái tôi bé nhỏ đến cái ta chung của mọi người" (P.Eluya).
Xuân Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ cách mạng say mê, hăng say hoạt
động và ông đã có thơ ngay trong giai đoạn đầu. Xuân Diệu chào mừng cách
mạng với Ngọn quốc kì (1945) và Hội nghị non sông (1946) với tấm lòng tràn
đầy hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển
trong tâm hồn và thơ ca. Ý thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí
30
thức yêu nước trước thực tế cuộc sống, đất nước đã đem đến cho ông những
nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say viết về Đảng, về
Bác Hồ, về Tổ quốc Việt Nam, về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội miền
Bắc và công cuộc thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập Riêng
chung (1960), Hai đợt sóng (1967), tập Hồn tôi đôi cánh (1976).
Từ những năm sáu mươi trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ
tình Xuân Diệu lúc này không vơi cạn mà lại có những nguồn mạch, cảm
hứng mới. Trước cách mạng, tình yêu trong thơ ông hầu hết là những cuộc
tình xa cách, cô đơn, chia ly, tan vỡ... nhưng sau cách mạng, tình yêu của hai
con người ấy không còn là hai vũ trụ bé nhỏ nữa mà đã có sự hòa điệu cùng
mọi người. Tình cảm lứa đôi đã hòa quyện cùng tình yêu Tổ quốc. Xuân Diệu
đã nhắc nhiều đến tình cảm thủy chung gắn bó, hạnh phúc, sum vầy chứ
không lẻ loi đơn côi nữa (Dấu nằm, Biển, Giọng nói, Đứng chờ em). Nhiều
tập thơ được ông xuất bản trong thời gian này: Một khối hồng (1964), Tôi
giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982)…
Bên cạnh tố chất thơ ca bẩm sinh như thế, Xuân Diệu còn rất thành
công trong lĩnh vực văn xuôi. Các tác phẩm chính Trường ca (1939) và Phấn
thông vàng (1945). Các tác phẩm này Xuân Diệu viết theo bút pháp lãng mạn
nhưng đôi khi ngòi bút lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực (Cái hỏa lò, Tỏa
nhị Kiều)….
Ngoài ra Xuân Diệu còn có đóng góp trong việc phê bình văn học, dịch
thuật thơ nước ngoài. Các tác phẩm tiêu biểu Ký sự thăm nước Hung, Triều
lên, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập thơ dịch Vây giữa tình yêu( dịch thơ
của Blaga Đimitơrôva (1968) và Việt Nam hồn tôi (1974).... Một loạt các tiểu
luận, bút kí, tráng ca có giá trị được ông xuất bản trong suốt sự nghiệp sáng
tác của mình gồm: Tập tiểu luận Thanh niên với quốc văn (1945). Đây cũng là
tập tiểu luận đầu tiên đươc ông xuất bản. Từ đó, một loạt các tập tiểu luận, bút
kí, khác đã được ông giới thiệu đến bạn đọc: tập bút kí Việt Nam nghìn dặm
(1946), tiểu luận Ba thi hào dân tộc (1959), tiểu luận Phê bình và giới thiệu
thơ (1960), tiểu luận Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm và tập kinh nghiệm
31
sáng tác Trò chuyện với các bạn trẻ làm thơ (1961), tập tiểu luận Dao có mài
mới sắc (1963), tập tiểu luận Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966), Đi trên
đường lớn (1968), Thơ Trần Tế Xương (1970), tập tiểu luận Đọc thơ Nguyễn
Khuyến (1971 )và Cây đời mãi mãi xanh tươi (1971), Mài sắt nên kim (1977),
Lượng thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy (1978). Tập tiểu luận Thơ Á Nam
Trần Tuấn Khải, Công việc làm thơ (1984).
Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp rất to lớn với sự
nghiệp văn học Việt Nam. Vũ Ngọc Phan từng nhận xét “Xuân Diệu là người
đem nhiều cái mới nhất cho thơ ca hiện đại Việt Nam”. Sự đóng góp của
Xuân Diệu diễn ra đều đặn và trọn vẹn trong các thể loại và các giai đoạn lịch
sử của dân tộc. Chính vì thế có thể nói rằng, Xuân Diệu xứng đáng là một nhà
32
thơ lớn, nhà văn hóa lớn.
CHƢƠNG 2
TRUYỆN NGẮN XUÂN DIỆU
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG TRỮ TÌNH
2.1 Những quan điểm về nghệ thuật
Ban đọc đã biết đến quan điểm nghệ thuật rất rõ ràng của Xuân Diệu
được gửi gắm một cách trực tiếp và gián tiếp qua nhiều bài thơ, đặc biệt là bài
Là thi sĩ. Đây có thể nói là bài thơ vừa thể hiện rõ quan niệm cá nhân của
người thi sĩ trẻ về thơ ca và nghệ thuật vừa chứa đựng trong nó quan điểm khá
tiêu biểu của những nhà Thơ Mới lãng mạn. Và trong những tác phẩm văn
xuôi trữ tình của mình, Xuân Diệu đã thể hiện một cách hệ thống và tập trung
những suy nghĩ của ông về nghệ thuật. Có thể nêu ra đây những tác phẩm tiêu
biểu như: Người lệ ngọc, Chú lái khờ, Phấn thông vàng…
Khảo sát các tác phẩm văn xuôi trữ tình của Xuân Diệu chúng ta có thể
nhận thấy, những tư tưởng nghệ thuật tươi mới và độc đáo rất đáng được lưu
ý của ông. Có thể nói, Xuân Diệu đã trang trải trên những trang văn của mình
rất nhiều tư tưởng, cảm xúc mà ông không thể chuyển tải trong thơ.
2.1.1 Ngƣời nghệ sĩ là ngƣời có tâm hồn thành thật, trái tim đa tình
Với Xuân Diệu, thiên tài của nghệ sĩ là ở trái tim - một trái tim đắm say
giầu tình cảm biết rung động trước cuộc đời. Là nhà thơ của niềm giao cảm
với đời, Xuân Diệu cũng là một nhà văn trữ tình. Linh hồn của mọi tác phẩm
Xuân Diệu thực chất là trữ tình. Phương thức trữ tình là chủ đạo, là đặc trưng
sáng tác của Xuân Diệu. Dù làm thơ hay viết văn xuôi, bút ký, tùy bút…ông
đều thâm nhập vào đối tượng bằng con tim nóng hổi giàu cảm xúc của mình,
sáng tạo nó, chuyển hóa nó để cho nguồn mạch trữ tình tuôn trào. “Có thể nói
trên đời này có bao nhiêu cách để tiếp xúc với đời: Xuân Diệu đều không bỏ
qua và đều khai thác triệt để... cả một đời lao động miệt mài cật lực cho đến
hơi thở cuối cùng. Vì động cơ nào vậy? Vì đấy là một trái tim nóng bỏng, trái
tim của một con người sinh ra để mà yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm đầy
tính nhân bản kia”. Ta dễ dàng nhận thấy tính đặc trưng trong văn xuôi Xuân
33
Diệu là ở nội tâm, là sự giãi bày của chủ thể sáng tạo. Mọi biến cố và chi tiết
bên ngoài chỉ là duyên cớ, nguồn cơn cho khả năng tự biểu hiện của mình
Xuân Diệu đã cho biết: “Trong phần nhiều truyện của tôi, vai chính không
phải là một người mà là một nỗi lòng, một tình ý hay một con vật, một đồ
dùng..., nói vật, nói đồ dùng nhưng chẳng qua lấy nó làm cái giá, cái giàn để
mắc, để cài vào đó nỗi lòng của mình”[2,9].
Môi trường và hoàn cảnh xuất thân cũng là một yếu tố tác động làm
ảnh hưởng cảm quan sáng tác của người nghệ sĩ. Với Xuân Diệu, dòng máu
giao hòa giữa “cha đàng ngoài” “mẹ ở đàng trong” phần nào ảnh hưởng đến
tâm hồn ông: ông Đồ Nghệ “cha đàng ngoài” đã truyền cho ông dòng máu
cần cù và nghị lực khác thường, truyền cho ông lòng nhiệt huyết với sự
nghiệp để có thể sống mãi với đời. Còn cô hàng nước mắm ở Vạn Gò Bồi,
"mẹ ở đàng trong" đã đem đến cho ông những nồng nàn của gió, sóng biển
Quy Nhơn, góp phần làm phong phú tâm hồn ông. Lại là thân phận con vợ lẽ,
phải xa mẹ từ nhỏ, thiếu tình thương, nên ông càng khao khát tình thương.
Điều ấy giúp ta hiểu ở Xuân Diệu một trái tim thiết tha vồ vập bám lấy cuộc
sống giao cảm hết mình đối với mọi người chia sẻ với mọi người và mong
mọi người hãy chia sẻ với mình. Vì thế đọc những trang văn của ông, ta thấy
được cuộc đời thực của chính tác giả.
Tình người nghệ sĩ cũng như phấn thông vàng, mở rộng, tung bay để
dâng hiến cho đời món ăn tinh thần vô giá mà không hề mưu lợi. Nếu người
đời coi những gì nhận được là hạnh phúc thì người nghệ sĩ lại lấy sự cho đi,
sự ban tặng làm hạnh phúc. Thi sĩ cứ hãy đắm say trong sáng tạo để phát hiện
đến cùng những tinh túy nhất của cuộc đời người nghệ sỹ.
Trong truyện ngắn Chú Lái Khờ, Xuân Diệu đã đưa hình tượng chú lái
khờ lên thành biểu tượng của thi nhân, của người nghệ sĩ nói chung. Người
nghệ sĩ tâm hồn giàu có thành thật, khác nào chú lái khờ. Đó là người có số
thiên kim, có khả năng làm giàu nơi "mười ngón tay" tài hoa của mình: "Ngọc
vàng sai khiến ở mười ngón tay. Một bước chân đi có thể rơi từng mớ châu
báu". Chú đi khắp bốn phương, càng đi, của cải càng chạy về tay chú lái. Chú
34
giàu có gồm huyền, ngọc trai, vàng, bạch kim...nhưng chú chẳng hề ham hố
giữ gìn tiếc gì nó. Chú ghé vào chốn Hồng - Lâu uống rượu, "chú say, hay
chú tự say chứ rượu làm sao say được chú. Chú vẫn tỉnh nhưng chú muốn
khờ". Tính phong lưu, tấm lòng rộng mở chú đã tạo cơ hội cho mỹ nữ, người
đời lấy hết vàng bạc châu báu lụa là gấm vóc. Người đời chưa chịu lấy hết
chú tự tay lấy để dâng người đời vậy. Mọi người được vàng bạc một cách dễ
dàng, lại bảo chú là khờ, khúc khích cười chế nhạo. "Chú Lái thực sự là một
anh khờ, không biết phòng ngừa, không chịu cẩn thận: ngọc trai đã mất, bao
giờ về Hợp Phố nữa đâu". Nhưng chú chẳng khờ đâu, chỉ là giả vờ khờ mà
thôi vì "khách có phải là lái buôn đâu: khách là một tấm lòng thơ, trời đem
đạo giữa phong trần, cho đầy thêm cái chất sầu não”3. (Chú lái khờ)
Thông qua hình tượng Chú Lái Khờ, Xuân Diệu muốn phát biểu quan
điểm nghệ thuật của mình, nói lên thiên chức, nghệ thuật của người nghệ sĩ:
Tài năng thiên bẩm trời cho của người nghệ sĩ là hết sức quí giá là bao châu
báu ngọc ngà. Để dâng hiến thứ châu báu ấy một cách vô tư và hào hiệp cho
cuộc đời, người nghệ sĩ phải “ghé vào nhân gian, trọ một vài đêm, tìm đôi an
ủi. Người đời tìm đến chàng, ai cũng lấy được ngọc châu. Và họ lấy chưa vừa
ư? , thì người thi sĩ tự tay lấy vào cái lõi sống của mình để mà phân phát”.
Bên cạnh đó, qua hình tượng Chú Lái Khờ, Xuân Diệu bày tỏ quan
điểm về thiên chức nghệ thuật của nghệ sĩ. Công việc sáng tác của người nghệ
sĩ là phải làm sao được thể hiện hết mình, được nói thực lòng, vì sáng tạo
nghệ thuật bao giờ cũng đòi hỏi sự chân thực. Nội tâm giàu có của người nghệ
sĩ không phải tự nhiên mà có. Nó phải được tích lũy bằng vốn sống từ cuộc
đời. Người nghệ sĩ phải gắn bó với cuộc đời mới có được. Và chỉ có cuộc đời
trần tục mới là nơi nuôi dưỡng tâm hồn cao quí của người nghệ sĩ. Tài năng,
đức độ thiên bẩm của người nghệ sĩ là quí giá vô ngần.
Chính lòng người, chính tâm hồn là cái căn bản, là điều cốt yếu mà
Xuân Diệu mong muốn khám phá. Phải chăng Xuân Diệu đã gửi gắm, đã hóa
thân vào nhân vật chàng họa sĩ để tự bạch tâm hồn mình: “Ờ sao chàng không
phung phí như thông? Sao chàng nghĩ chi đến sự thiên hạ nhận?” (Phấn
35
thông vàng). Tình người nghệ sĩ cũng như phấn thông vàng, mơ mộng, tung
bay để dâng hiến cho đời món ăn tinh thần vô giá không hề mưu cầu lợi lộc.
Nếu người đời coi những gì “nhận được” là hạnh phúc thì người nghệ sĩ lại
lấy sự “cho đi, sự ban tặng” làm hạnh phúc. Cái đích vươn tới của người thi
sĩ là sự đắm say trong sáng tạo để phát hiện đến cùng những tinh túy nhất
trong cuộc đời. Đó là thiên chức của người nghệ sĩ.
Xuân Diệu quan niệm công việc sáng tác của người nghệ sĩ là lấy từ lõi
sống của mình những giá trị quý báu và bởi thế là được thể hiện hết mình.
Được nói thực lòng, nói từ nội tâm của chính mình là một ước nguyện đồng
thời cũng là một quan niệm đúng đắn của người nghệ sĩ, vì sáng tạo nghệ
thuật bao giờ cũng đòi hỏi sự chân thực, cho rằng nội tâm giầu có của người
nghệ sĩ có được là nhờ chất liệu cuộc đời, nhờ sự gắn bó của người nghệ sĩ
với cuộc đời. Chỉ có cuộc đời trần tục mới là nơi nuôi dưỡng tâm hồn cao quý
của người nghệ sĩ. Văn chương là của người, thơ cũng là của người và nhà
nghệ sĩ đừng mơ tưởng một thế giới nào khác ngoài cuộc đời này ngay ở trần
gian này. Trong bài tiểu luận Thơ của người Xuân Diệu nhấn mạnh đến
những nghệ sĩ có ảo tưởng thoát ly cuộc đời “Muốn ra ngoài cuộc đời, họ xây
nên những cung điện bằng sương mù, những đền đài bằng xương máu, họ trèo
lên ở trên những bọt xà phòng ngũ sắc và bảo: Đây là quả đất của chúng tôi.
Nhưng thiên hạ tọc mạch nhìn xem, thì hỡi ôi! Những vật liệu những gạch đá
họ dùng đều ở trong cuộc đời cả”.
Như vậy để được nói thực người nghệ sĩ không được tách rời đời sống,
phải luôn gắn bó với đời, đặt mình trong quan hệ với đời, giao hòa, gắn kết
chặt chẽ với nó. Ông thủ thỉ khuyên dặn: “Cứ việc ở trong đời và tạo nên
những cung điện thực, vô cùng đẹp đẽ, bằng những vật liệu của trần gian”.
Lời kết của thiên tùy bút Thơ của người cũng chính là lời nhắn nhủ của Xuân
Diệu với mình, với mọi người nghệ sĩ: “Đi ra ngoài đời, lại hóa vẫn ở trong
đời”. Vậy là có gần đời, có “ở trong đời” mới được nói thực nói đúng những
gì cuộc đời đã có, để người đời hiểu được tâm can người nghệ sĩ, hiểu được
36
điều mình viết và cần nó cho cuộc đời này. Đó cũng chính là tiền đề tạo nên ở
xuân Diệu thứ văn xuôi mượt mà, ý vị say mà tỉnh, ảo mà thực, mơ hồ mà
không kém phần rõ nét.
Với trái tim sôi nổi ham sống yêu người, yêu đời cùng với cặp mắt
“xanh non”, tâm hồn người nghệ sĩ luôn rộng mở nhạy cảm trước mọi bước đi
của thời đại, con người, thiên nhiên, vạn vật. Trước cuộc đời, trái tim Xuân
Diệu vô cùng nhạy cảm và trí tuệ giàu sức liên tưởng, mọi vật đều có thể giúp
ông nảy sinh cảm xúc bật ra ý thơ, tứ truyện. Không phải bỗng dưng ông đem
chuyện cái giường ra để mà nói, mà kể lể trong một truyện ngắn. Truyện cái
giường chính là chuyện về thân phận con người đang tàn tạ với thời gian “Tôi
càng cũ đi. Sự hư hỏng càng gấp; cũng như một người càng già những sự yếu
đuối càng rủ nhau đến thật nhanh. Đoạn sau này, mỗi tháng đem đến một sự
siêu vẹo, mỗi ngày một sự mòn mỏi, rồi bỗng chốc hiện ra nào mộng hư, nào
chốt gẫy, nào là vần thủng, chân què. Rồi tôi run lên như một kẻ già, gỗ kêu
răng rắc như một ông cụ rũ xương; tôi lòng khòng, mọt đến ăn tôi, cọt kẹt
suốt đêm ngày”. (Truyện cái giường)
Lời của cái giường là lời của một kiếp người chìm nổi mòn mỏi theo
tháng năm. Nếu không phải là người có trái tim đa cảm, dễ xúc động, cảm
thương với số phận bất hạnh của con người thì không thể viết nên những dòng
nhân tình như thế.
Trong truyện Tỏa nhị kiều ta lại bắt gặp ở ông một trái tim đa cảm, dễ
xúc động, trước một hoàn cảnh một lối sống rất khác với nhịp sống dạt dào
trong lòng ông. Chỉ vài lần đến thăm anh bạn trên gác phải đi qua nhà chủ,
thấy hai cô con gái nhà chủ ngồi buồn thiu ở mép giường, ông đã từ cảnh và
người ở đây viết nên thiên truyện. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời buồn tẻ
của hai cô gái Hà thành có cách sống mờ mờ nhạt nhạt khiến tác giả phải
thốt lên một cách chua chát: “Tôi thương hai cô gái như hai con vật ngẩn
ngơ trong rừng lạnh, khi chiều giăng lưới qua muôn gốc cây. Buổi chiều của
hai cô mờ nhạt và kéo dài, hai cô lẫn trong mù sương”. (Tỏa nhị kiều )
Với một trái tim dễ xúc động, Xuân Diệu cho rằng người nghệ sĩ luôn
37
rộng mở tâm hồn để được đón nhận mọi tình cảm tốt đẹp của con người và cuộc
đời. Người nghệ sĩ phải có một trái tim lớn và những cảm xúc của họ phải mạnh
mẽ, dâng trào. Xuân Diệu diễn đạt cái bất thường, phi thường ấy trong một cách
nói ấn tượng : “Người nghệ sĩ bao giờ cũng điên. Nhưng điên trong cuộc đời thú
vị gấp ngàn lần ngoài cuộc đời…cái điên của người nghệ sĩ phải là sự si mê, sự
say đắm, sự cảm xúc quá mức thường” (Thơ của người). Hơn nữa, cái gọi là cảm
xúc quá mức thường ấy lại được chắt lọc qua một trái tim đa tình, đa cảm, dễ
rung động như một sợi tơ ắt sẽ tạo nên một tác phẩm văn chương đích thực. Nó
chính là sản phẩm tinh thần của nhà văn ghi lại cuộc đời và những con người
hiện tại trong cuộc đời này làm phong phú thêm cho tâm hồn độc giả, góp phần
khẳng định thiên chức của một người nghệ sĩ chân chính.
2.1.2 Nghệ thuật là sự ban tặng. Nghệ sĩ là kẻ hiến dâng
Sáng tạo nên hình tượng nhân vật chàng họa sĩ trong Phấn thông vàng
cũng là cách để nhà thơ gửi gắm những khát vọng về nghệ thuật. Trong tác
phẩm, chàng họa sĩ nhìn thấy phấn thông vàng bay rợp không gian, chàng
nghĩ, mình phải “tìm lại cuộc đời, ăn vào sự sống mà yêu, yêu... mà cho, cho
tất cả lòng tươi thắm của chàng, ba năm dòng chàng tưởng đã cạn rồi, nhưng
kỳ thực vẫn là một nguồn vô tận”. Xuân Diệu không phải chỉ yêu cuộc sống
mà ông còn muốn “lấy lửa chuyển những lòng giá đúc”, muốn truyền nhiệt
tình sống của mình cho mọi người.
Cả tập truyện Phấn thông vàng là sự lan tỏa tâm hồn, một nỗi niềm
khao khát, một ngọn sóng triều dâng, yêu thương vỗ mãi vào đời: “chỉ sợ ta
nghèo không đủ tình để mà vung phí, ta không thêm thiên hạ cho lại, nhưng ta
cứ cho, tự khắc thiên hạ cũng đem đến cho ta”.
Đây giống như một tuyên ngôn nghệ thuật về sự dâng hiến của đời
người nghệ sĩ, suốt đời lo lắng trăn trở, sợ “không đủ tình” để chia cho thiên
hạ. Cho mà không mong được nhận lại. Xuất phát từ ý tưởng trên Xuân Diệu
cứ hồn nhiên mà viết, viết theo tâm tưởng của chính mình để được thả sức
hiến dâng, giãi bày mọi tâm sự từ cõi lòng mình, tâm hồn mình. Ta hãy nghe
38
tác giả tự nói về ý đồ sáng tác trong tập truyện ngắn trữ tình của mình:
“Các bạn đừng tìm ở đây chuyện chàng này và cô kia. Tâm hồn người
có biết bao là chuyện! Các bạn vào đây sẽ thấy một giàn thiên lý và mấy con
ong và một trái tim đang đập theo những nhịp đời. Thương vay: Một buổi
chiều len lỏi vào một tâm hồn người. Tỏa nhị Kiều: Cái nhạt tẻ của cuộc đời,
một buổi chiều trong nhà và trong tâm lý. Và Phấn thông vàng tình yêu độ
lượng giữa cuộc đời bát ngát. Và Truyện cái giường bài ca của sự sống”.
Đúng là một trái tim đang đập theo những nhịp đời để thấu hiểu ngóc
ngách của cuộc đời. Và như con ong chăm chỉ hút nhụy hoa về làm mật, con
tằm cần mẫn nhả tơ làm đẹp cho đời, người nghệ sĩ như ông quan niệm phải
dâng trọn cuộc đời mình cho công việc sáng tạo nghệ thuật, tạo nên: “một
chiếc cầu nối giữa tác giả và bạn đọc, một chiếc cầu bằng tơ, bằng ánh trăng,
bằng những rung động tinh tế của lòng người và những làn sóng dặt dìu của
tạo vật nữa”.
Với Xuân Diệu, làm thơ viết văn thực sự là một nghề, đã là nghề thì
phải sống chết với nó, phải vất vả vì nó. Để những cảnh đời, cảnh vật được
lên trang giấy, người nghệ sĩ phải dồn tâm lực, thậm chí phải đau đớn mới
có được. Nó được sinh ra từ những rung động thật sự, từ những say mê sáng
tạo đích thực, từ tình cảm nhiệt thành cháy bỏng chứ không phải nông cạn
hời hợt.
Người lệ ngọc, một câu chuyện có mầu sắc hoang đường của Xuân
Diệu được thai nghén trong một thời gian khá dài 1937 – 1943 chứng tỏ sự
chiêm nghiệm và nghĩ ngợi kỹ lưỡng điều mà tác giả muốn gửi gắm. Ông xây
dựng hình ảnh người lệ ngọc, hình ảnh ẩn dụ của thi nhân như một con người
đặc biệt, kỳ dị. Người đó sinh ra không biết khóc, “trong hai mươi năm người
không khóc, vẫn có đôi mắt ráo khô. Nhưng đôi mắt xanh sâu đẹp chưa từng
có trên đời, mà trong sao! Veo veo như tỏa ra ánh sáng”. Có lẽ bao nhiêu cảm
xúc đã được tích tụ trong chàng, để rồi bỗng một hôm “cả người chàng đùn
đùn như chứa một cơn giông, xương thịt chuyển như có bão, một ngọn gió
thần chạy đi các ngả, chàng run và tái đi, chàng cảm thấy một cái gì vẫn đùn
39
tới như mây, ngập lên như lụt. Ngực chàng tức như sắp tung sương”. Phải
chăng đó là nguồn sống là xúc cảm đã chín trong tâm hồn thi nhân chờ đợi
bao lâu. Và chàng đã khóc ra những giọt lệ bằng ngọc: “ người – không –
khóc đã thành người – lệ - ngọc”. Những giọt nước mắt chính là những hạt
ngọc long lanh trong sáng, vừa vô giá vừa quý giá vô ngần. Đó chính là hình
ảnh của sự kết tinh cảm xúc, là sự thai nghén để sản sinh cho đời những tác
phẩm văn chương có giá trị đích thực.
Sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi người nghệ sĩ phải có quá trình nung nấu,
phải dày công vun đắp khó nhọc mới có được. Không phải ngẫu nhiên người lệ
ngọc với đôi mắt xanh sâu đẹp chưa từng có trên đời phải hai mươi năm sau
mới khóc, mới vọt trào thành lệ ngọc. Điều đó chính là nhờ chàng qua “Hai
mươi năm mục kích bao nhiêu cảnh tượng, chàng chỉ nín lại để kết tinh cảm
xúc, và con mắt ráo chỉ để chờ khóc một lần cho xứng đáng; cả người chàng
thu vén; tâm hồn vật vã mới bật lên thành những hạt lệ châu”. Như vậy, muốn
có một tác phẩm nghệ thuật xứng đáng người nghệ sĩ phải toàn tâm, toàn ý để
tạo ra nó, cuối cùng chẳng qua cũng chỉ là làm đẹp cho đời, cho phong phú tâm
hồn người đời và người nghệ sĩ lấy đó làm niềm vui lớn nhất của họ. Giống
như Chú Lái Khờ sau khi đã mở rương hòm ban phát cho mọi người tất cả tài
sản của mình, người thi sĩ cũng khờ như chú lái. Sau khi đã ban phát hết châu
báu, chú “ mỉm miệng cười hân hoan như một vị phật. Hòm rương tuy nhẹ
nhưng tài chí không vơi thì chú lái còn buồn nỗi chi”.(Chú lái khờ)
Có thể nói Xuân Diệu là người hiểu hơn ai hết: Tình cho đi không lấy
lại bao giờ, nhưng ông vẫn nguyện dâng cho đời khát khao được cống hiến
được lan tỏa thanh âm và hương sắc cho muôn đời sau. Xuân Diệu cho đó là
điều an ủi lớn đối với người nghệ sĩ. Trong bài An ủi giữa loài người ông viết:
“Tấm lòng thơ của tôi chỉ thấy an ủi khi nghĩ đến người ta. Người ta sẽ không
nghĩ đến tôi, nhưng tôi cũng không cần họ nghĩ, tôi chỉ thấy bớt buồn đành
sống vui yên. Vì có triệu người ngoài kia… trước biển loài người tôi quên
nghĩ đến thân mình”.
Đây chính là nỗi niềm tâm sự về cuộc đời người nghệ sĩ cũng có ý
40
nghĩa như một thông điệp về tư tưởng nghệ thuật mà Xuân Diệu muốn gửi
đến mọi người. Một lời tâm sự hết sức thành thật từ một trái tim chân thành,
vừa như thủ thỉ tâm tình vừa như khuyên dặn của một con người ý thức cao
về nghệ thuật.
Như trên đã nói, Xuân Diệu thực sự coi lao động nghệ thuật là một
nghề, thành công và thất bại là không thể tránh khỏi. Đồng thời người nghệ sĩ
cũng chịu không ít khổ đau buồn thương từ mọi phía đời sống thường nhật
dội đến.
Lấy hình ảnh người lệ ngọc làm biểu tượng của người nghệ sĩ, ta thấy
cuộc đời người lệ ngọc là những lần sinh ngọc kế tiếp nhau. Mỗi lần sinh
ngọc đều có sự chuyển hóa chứa đựng một ý nghĩa ẩn dụ khác nhau gián tiếp
bộc bách quan niệm của Xuân Diệu về nghệ thuật.
Hình ảnh đầu tiên là sự chuyển hóa từ người không khóc thành người –
lệ - ngọc. Đây là sự chuyển hóa tất yếu của đôi mắt xanh sâu đã chứng kiến
bao cảnh đời. Người nghệ sĩ cũng vậy, luôn có một nhãn quan khác thường “
Người thi sĩ đi cảm thông đã hầu hết cảnh trời”.
Sau năm năm tình yêu đến, “bởi tình yêu chàng thêm cảm thông với
vạn vật”. Vậy là tình yêu đã nâng đỡ cho chàng, chàng trở thành một nghệ sĩ
toàn vẹn, “ mắt chàng cũng dường bằng thơ phú của thi sĩ”. Nhưng vì nhu cầu
cuộc sống, vì miếng cơm manh áo đeo đẳng bám riết, khiến cho bao ước mơ
cao xa tan biến. Người ta buộc phải làm những gì trái với hoài bão thuở ban
đầu của mình; “ hồn thanh cao của chàng đẹp như vũ trụ mà phải sa vào cái
cảnh đem hồn đi rao”. Ngọc dần mất sắc, không trong suốt, đẹp như xưa.
Người lệ ngọc càng ngày càng rơi vào cảnh túng quẫn. Chàng đau khổ
bước qua lời nguyền: “ Nhất quyết chừa cái nghề bán ngọc, cái sự không phải
của người làm! Thế mà một ngày túng quá chàng đã nảy ra cái ý rụng rời:
chàng nghĩ đến những viên ngọc của mình. Chàng bán ngọc đây. Chàng bán
mình đấy! Chàng sẽ tệ hơn người con gái bán thân, chàng sẽ phái bán chính
cái hồn chàng đó. Càng ngày chàng càng trụy lạc dần. Đôi mắt xanh giờ đây
41
dù sâu hoắm, màu xanh có bóng mây qua chỉ vì những lần gắng gượng vặn
hồn mình để sinh ra ngọc. Vậy là đầu óc chàng chỉ xoay quanh những kế để
khóc được, chỉ gợi những chuyện trăm thảm nghìn sầu, xót thương ly
biệt…Tìm mọi cách kích thích nội tâm, chàng đã thành một cái máy”.
Từ cách sinh ngọc của người lệ ngọc, ta liên tưởng đến cuộc đời của
người nghệ sĩ. Người viết văn không có con đường nào khác là phải lao động
cật lực, phải biết tự yêu cầu cao đối với công việc của chính mình và phải
thực sự có tài, hơn thế nữa phải tự mình nghiêm khắc với mình. Nếu không sẽ
thất bại, thậm chí thui chột mầm văn chương. Đòi hỏi nhà văn phải có tài là
một qui luật khách quan của xã hội , nhờ có tài, người nghệ sĩ mới đem được
điều cảm xúc của mình hòa vào chất liệu của đời sống, của mọi vấn đề mới
tạo được tác phẩm có giá trị lớn.
Đồng thời, công việc viết văn không đơn giản, phải rất công phu, vì
phải đối đầu với những thói thường của đời người và của bản thân nghề
nghiệp. Trong cuộc đời lao động nghệ thuật, nếu chỉ muốn có danh lợi, thì sẽ
đánh mất sự hồn nhiên trong sáng của nghề nghiệp. Viết văn cũng vậy phải
xuất phát từ bản chất nghệ thuật, đến với nó bằng thái độ tự nguyện, vì nhu
cầu của tâm hồn, vì sự thúc đẩy bên trong chứ không thể gò ép, khiên cưỡng “
Nước mắt ngọc đối với chàng đã thành một cái nghề. Gian nhà ở, bữa cơm; lệ
ngọc. Trang giấy viết, bức tranh treo; lệ ngọc. Gương lược của người yêu, đôi
giày, áo mới cùng ở lệ ngọc cả. Cho đến cuộc chơi thuyền - bữa rượu nhỏ;
chút phong lưu nào cũng ở giọt lệ chi ra”. Vậy là cuộc sống của chàng cần
ngọc để bán, chàng phải tự hành xác lấy gai châm vào quanh mắt để lệ rơi ra,
kết ngọc, nhưng bây giờ : “ngọc của chàng không hồn nhiên, đọng phải kích
thích, vặn vẹo nên kém vẻ đẹp trong sáng tinh túy mất đi, sắc ngọc mà cũng
thấy rõ phần mệt nhọc. Lệ chi ra không trong suốt như xưa. Một vẻ đục bao
lấy viên ngọc, cho đến người mua cũng trông thấy. Giá ngọc sụt đi.”
Cơm áo không đùa với khách thơ là một sự thật khắc nghiệt của cuộc
đời. Nhưng trong mọi hoàn cảnh người nghệ sĩ phải luôn tỉnh táo, giữ mình,
dẫu biết rằng cuộc đời đầy gai lửa và nhiều cám dỗ, nếu không vững vàng sẽ
42
gục ngã, liên tiếp sai lầm, thất bại. Ngọc hết tình chàng hết. Người lệ ngọc
trắng tay, mình gầy xác ve tâm hồn mệt mỏi chán trường “ Mắt chàng đã đỏ
như san hô. Tất cả điệu nhạc xanh veo veo như tỏa ra ánh sáng đã biến từ lúc
nào! Người mình yêu cũng đã bỏ đi. Thân hình rạc như con ve sắp cuối hè,
đôi mắt như máu mà thêm lửa.”
Mùa xuân đã sang. Pháo giao thừa nổ năm mới đã đến, cuộc đời đáng
lẽ sang trang mới tươi đẹp hơn. Song người lệ ngọc tài hoa mới ba mùa xuân
đã phải trả giá quá đắt cho những gì chàng đã làm. Cuối tác phẩm là hình ảnh
Người lệ ngọc: “chàng tĩnh tâm. Linh hồn người như thắm lại, hồi xuân. Có lẽ
người đã nhuần thấm trở lại bắt đầu tự phút này”.
Pháo giao thừa nổ như sự bừng sáng của tâm hồn: “Cả tâm hồn người đẹp
rực rỡ như tự tha thứ… Người lệ ngọc khóc ra máu”. Một lần nữa Xuân Diệu nói
đến sự thức tỉnh, sự thanh lọc chính ngay trong con người nghệ sĩ. Và như vậy,
trong câu chuyện Người lệ ngọc này, mỗi lần sinh ngọc đều tiềm ẩn một ý nghĩa,
một quan niệm về nghệ thuật văn chương của Xuân Diệu. Có được một tác
phẩm văn chương người nghệ sĩ phải lao động thật sự, phải lao tâm khổ tứ. Giá
trị của mỗi tác phẩm, sự trân trọng, quý mến của độc giả đối với tác phẩm đó
phụ thuộc vào ý thức nghệ thuật vào sự chân thành, sự hồn nhiên của người cầm
bút. Điều đó làm nên sự thành công hay thất bại của nhà văn.
2.2 Phản ánh bức tranh thiên nhiên
2.2.1 Phản ánh thiên nhiên, cảnh vật tƣơi đẹp, tràn đầy sức sống
Cũng giống như nhiều nhà văn của chủ nghĩa lãng mạn, Xuân Diệu
dành nhiều trang viết của mình để ca ngợi thiên nhiên. Bởi lẽ Xuân Diệu vốn
là thi sĩ của cái đẹp. Trái tim ông luôn rộng mở đón nhận và đắm say cái đẹp
và tình yêu, thiên nhiên vốn là những chủ đề mà ông đặc biệt quan tâm.
Trong những trang viết của mình, dù tình yêu là đối tượng phản ánh chính
song bao giờ Xuân Diệu cũng dành cho thiên nhiên sự ưu ái. Những sáng tác
của mình dù là thơ hay là văn, Xuân Diệu cũng trải lòng để tận hưởng hết cái
đẹp của thiên nhiên của tạo vật với cái nhìn say đắm. Tình yêu của ông dành
cho tuổi trẻ bao nhiêu thì nó cũng phải ít nhiều gắn và gần gũi với thiên nhiên
43
như “một cặp chim chuyền” (Thơ Duyên- Xuân Diệu ).
Song đến với cảnh đẹp và thiên nhiên, Xuân Diệu lại không trốn tránh
xã hội khi ông muốn thoát khỏi trần tục hay bay lên chốn tiên cảnh mà thiên
nhiên trong văn xuôi Xuân Diệu cũng như những trang thơ của ông đều là
cảnh vật từ tự nhiên, là cuộc sống hiện tại của trần gian. Không có chỗ cho
cảnh vật hay thiên nhiên trong quá khứ hay tương lai. Tất cả vẻ đẹp của bức
tranh thiên nhiên được cảm nhận bằng “con mắt trần tục” và cảnh diễn ra ở
thời khắc của hiện tại.
Ở Xuân Diệu, chúng ta nhận thấy thiên nhiên được miêu tả theo lối thụ
cảm chủ quan độc đáo của nhà văn. Qua đôi mắt bỡ ngỡ, thèm khát, đắm say
và với đôi mắt xanh trong vắt, ông nhìn muôn vật và chính qua cái nhìn ấy mà
bỗng muôn vật như rực rỡ hào quang. Xuân Diệu luôn nhìn trời đất như một
chốn địa đàng đầy mê đắm. Ở đó cái gì cũng đẹp, cũng say, cũng căng đầy
sức sống. Sự chiếm lĩnh thiên nhiên, ngoại giới qua cảm giác và bằng cảm
giác đã đưa lại những bức tranh thiên nhiên màu sắc và ánh sáng, tràn trề
nhựa sống.
Xuân Diệu đã chào đón mùa xuân bằng tấm lòng rạo rực, đắm say của
mình trong hàng loạt các bài thơ “Xuân rụng, Xuân không mùa, Xuân đầu, Nụ
cười xuân…Và trong Lệnh- tác phẩm mở đầu của thiên Trường ca, đã vẽ nên
một bức tranh thiên nhiên tràn ngập ánh sáng của sự sống mùa xuân:
“Lệnh đã truyền ra. Đất vâng trước nhất. Suốt một đêm trường, đất
không sao ngủ được. Đất cựa mình vì xốn xang trong da thịt…Đất mẹ đã
nghe muôn con đòi nở, muốn vượt chồi lên trên đất, thở ra ánh sáng trời.
Hàng triệu mầm hé ra khép vào, đầu nhỏ ngướng lên, chân mạnh căng thẳng,
ngứa cả mình đất...”
“Ánh Sáng nhún nhẩy tươi cười, không chút lo lắng…Ánh sáng đứng
một chỗ mà ở khắp nơi, con mắt điện quang thấu suốt muôn trùng, chăm nom
từng nụ mầm non, từng vỏ sâu bọ. Nàng ôm những thân cây giá lạnh, sưởi
những luống đất hẩm hiu. Nàng lách vào kẽ lá, cho mầu thanh non biến thành
lục đậm. Cho đến những cội tùng già yếu, nàng cũng gõ mãi ngoài vỏ, đến nỗi
44
một ngày kia bật ra mầm xanh.
Mùa xuân đem đến cho cảnh vật tươi vui nhiều màu sắc và muôn vật
bừng sức sống rực rỡ. Xuân Diệu đã phát hiện ra vẻ đẹp ngay chính từng sự
vật hiện hữu của mùa xuân.
“Lệnh đốt pháo đầu. Muôn tiên đã nấp sau mành. Chim chóc cũng lên
dây cổ họng. Mặt trời đã xé làn sương mỏng, xé màn mơ mộng còn ấp ủ non
sông. Nhạc vàng reo, hương nồng tỏa: “công chúa xuân nương hiện hình !”
Dường như mùa xuân trở thành một ngày hội vui lớn mà người chủ trì
cho hội vui năm nay chính là “nàng xuân nương”. Cách nói cách điệu, tượng
trưng hóa đã khiến người đọc có thể cảm nhận hết được tinh túy của đất trời
vui hội xuân.
“Sương đeo một triệu đôi hoa tai cho nàng, nàng cười một nghìn miệng
hoa, tóc nàng gió xuân lan tỏa, nàng cười một nghìn miệng hoa, nàng mặc
chín triệu lá non; má nàng điểm đôi chút sương hồng, tóc nàng gió xuân lan
tỏa. Muôn lời của Vũ trụ đồng tấm tắc khen nàng công chúa con chung.
Xuân nương ! Xuân nương ! Hội mừng nàng, hội của nàng sẽ lâu chính
mười ngày, gấp thêm chín mươi đêm vui suốt sáng. Nàng ra đời, nàng lại về !
Nàng không mỏi tái sinh!” (Lệnh)
Xuân Diệu đã thể hiện một cảm quan hoàn toàn khác với các nhà văn
xưa và khác cả những nhà văn lãng mạn cùng thời với ông. Nếu các nhà văn
xưa thường miêu tả thiên nhiên bằng những hình ảnh ước lệ tượng trưng và
nhiều nhà văn thời nay lại coi thiên nhiên chỉ là phương tiện để làm rõ hơn
cảm xúc, tâm trạng của con người thì Xuân Diệu lại không như thế. Ông luôn
coi thiên nhiên như một chủ thể hữu hình có đời sống với vẻ đẹp và sức sống
riêng của nó. Mặt khác những cảm nhận của Xuân Diệu về thiên nhiên cho
thấy ông không hề tìm kiếm vẻ đẹp đâu xa mà tìm nó ngay trong mầm của sự
sống hiện tại. Trong văn xuôi cũng như trong thơ của ông không có chỗ cho
những vẻ đẹp mang tính hình thức, ước lệ tượng trưng mà luôn ấm nóng hơi
thở của cuộc đời, của thực tại đang diễn ra trước mắt ông.
45
Vì thế thiên nhiên hiện lên trong những truyện ngắn trữ tình của ông
đều là những vẻ đẹp đúng vào độ chín, rực rỡ và căng tràn nhựa sống. Thiên
nhiên của Xuân Diệu đem lại cho người đọc một cái nhìn tươi trẻ và người ta
cảm nhận được không chỉ đọc qua những trang thơ của ông mà qua những
trang văn của ông cái thần thái của cảnh vật. Cảnh đẹp bởi cảnh có thanh, có
sắc, có nét chấm phá chứ không đẹp bình thường, giản đơn. Cảnh ông chọn
không quá đặc biệt ; đó có khi chỉ là một rừng thông (Phấn thông vàng), đó
có thể là con suối - suối tóc đẹp (Suối tóc đẹp) của người con gái thiên nhiên.
Đó là suối cá vàng nhưng lại mang cái nét đặc sắc riêng. Hay có thể coi đó là
chất “nhựa sống” tạo nên mạch nguồn tuôn chảy và làm cảnh vật bừng lên sức
sống của nó. Rừng thông đẹp bởi đúng thời khắc thụ phấn, suối cá vàng đẹp
bởi sự trong trẻo, mềm mại, trong ngần như trinh tiết người thiếu nữ - nàng
công chúa xinh đẹp. Đó cũng có thể chỉ là một loài hoa vô cùng bình thường
(hoa phượng), nhưng lại gần gũi vô cùng với cuộc đời của những ai đã từng
cắp sách tới trường. Đó có thể chỉ là một khoảnh khắc giao mùa: Thu nhưng
lại gợi biết bâng khuâng, xao xuyến và cả những day dứt trong tình yêu
Có lẽ vì thế mà đọc những trang truyện ngắn của ông, chúng ta không
thấy bất ngờ khi vẻ đẹp của ông tôn vinh lại là loài hoa phượng chứ không
phải tùng, trúc, cúc, mai… Xuân Diệu phát hiện ra nét riêng, nét độc đáo và
sâu sắc nhất của loài hoa từng nở đỏ chói những góc phố mỗi khi hè về, một
thứ hoa thật đặc biệt bởi nó gắn với cả một tuổi thơ những ai đã từng cắp sách
tới trường. Vì thế, hoa phượng - loài hoa của tuổi học đường được ông gọi là
“hoa học trò”.(Hoa học trò) Có thể nhìn nhận điều đó để hoàn thiện bức tranh
phong phú màu sắc trong sáng tác của Xuân Diệu cả thơ và văn xuôi.
2.2.2 Thể hiện niềm khao khát giao cảm giữa thiên nhiên và con ngƣời
Người xưa có câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” để thể hiện
mối liên hệ mật thiết giữa cảnh vật thiên nhiên và con người. Trong dòng
truyện ngắn trữ tình 1930-1945, chúng ta có thể thấy thiên nhiên chiếm một vị
trí quan trọng để thể hiện sự hòa điệu giữa tình và cảnh, giữa thiên nhiên và
con người. Thiên nhiên nhiều khi đã trở thành một không gian nghệ thuật
46
giúp cho nhân vật trong các tác phẩm truyện ngắn trữ tình bộc lộ, tâm trạng
cảm xúc. Thậm chí nó còn tham dự vào câu chuyện giống như “một nhân vật”
không thể thiếu.
Cùng trong mạch chảy của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, song
có thể thấy mỗi nhà văn có mối liên hệ với thiên nhiên theo những hướng
khác nhau:
Trong các truyện ngắn của Thạch Lam, thiên nhiên thường gắn bó hài
hòa với tâm trạng và cảm xúc của nhân vật. Tâm hồn rất mực nhạy cảm với
cái đẹp của Thạch Lam đã phát hiện ra thiên nhiên như một đối tượng để gửi
gắm cảm hứng khách quan của chủ thể thẩm mỹ. Trong tư cách này, thiên
nhiên cũng là một nhân vật trữ tình và dâng hiến vẻ đẹp của mình cho con
người, an ủi, giúp con người bớt cực nhọc hay làm cho tâm hồn thêm thư thái,
nhẹ nhõm hơn. Hãy thử cùng bước vào Dưới bóng hoàng lan” để thấy hết và
cảm nhận được cái không gian nên thơ đầy tình tứ trong trẻo thanh khiết và sự
ngọt ngào trong chút duyên tình đôi lứa “Giàn thiên lý pha xanh một bên tà áo
trắng của Nga. Những búp hoa lý non và thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào đám
lá…Thanh dắt nàng đi thăm vườn, cây hoàng lan cao vút cành lá như chào
đón hai người. Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng thơm
như có giắt hoàng lan [87, 498-499].
Hay vẻ đẹp tươi mới của người thiếu nữ trong vườn: “Người cô nổi
trên nền lá xanh như một bông hoa trong sáng sớm. Tà áo trắng của cô theo
chiều gió bay phấp phới với tất cả ánh nắng lá cây, bóng cây mắt cũng như
đang tưng bừng dồn múa chung quanh người thiếu nữ ấy (Nắng trong vườn).
Đối với Thanh Tịnh, con người gắn bó với làng quê, thiên nhiên được
Thanh Tịnh sử dụng như một phương tiện để truyền đạt sự thay đổi ý thức,
tình cảm và tạo nên môi trường giao tiếp cho nhân vật. Chẳng hạn như dưới
ánh trăng bao dung, hiền dịu, người ta nói với nhau những điều không thể nói
vào lúc khác. Cô Thảo mượn cây thanh trà và ánh trăng để nhắc và xin phép
chồng về ăn giỗ bên nhà ngoại (Quê mẹ), chị Sương giãi bày về mối tình thầm
47
kín của mình, cô Hoa bàn với chồng về nơi sinh con (Con so về nhà mẹ).
Nhà văn Hồ Dzếnh lại dùng thiên nhiên để tạo nên tình huống khởi
thủy để làm nảy sinh xúc cảm, đánh động những kí ức, khơi sâu tâm trạng hồi
ở nhân vật. Trong hoài niệm của mình, Hồ Dzếnh thấy hình ảnh làng quê “với
lũy tri vây kín xã Hòa Trường êm ái” (Sáng trăng suông), nhớ về người cha,
ông lại hồi tưởng “Nói đến rừng, tôi quên sao được lớp nhà lá đẹp đẽ của ba
tôi dựng trên một cánh đồng lớn” (trong Chân trời cũ).
Đỗ Tốn coi thiên nhiên như cái cớ để bộc lộ tình cảm sâu kín của
những đôi lứa. “Giao vui cười hớn hở bảo Tuyền: Đẹp quá, ta chạy lên đồi
xem trăng đi. Giao vừa nói vừa bước lên…đưa tay nắm một bên quai nón
Tuyền đang cầm kéo nàng chầm chậm chạy ngược lên đồi gió - Nhìn trăng
cười e thẹn” (Duyên số).
Còn Xuân Diệu đã tìm đến với thiên nhiên như một đối tượng thẩm mỹ
nhằm thể hiện sự hoà điệu giữa tâm hồn con người với ngoại giới. Thiên
nhiên thường được nhìn qua cảm xúc, qua tâm trạng theo hướng cảnh và tình
giao hoà, quyện chặt vào nhau. Để có sự giao hoà, giao cảm giữa thiên nhiên
và con người, Xuân Diệu thường lấy thiên nhiên đặt trong bối cảnh tâm lý
thích hợp, hoà đồng với những sắc thái tình cảm và tâm trạng nhân vật; miêu
tả các biến thái của tâm hồn, trạng thái tinh thần được gợi mở từ những thay
đổi của thiên nhiên. Và quan trọng hơn, thiên nhiên dù đẹp đến đâu vẫn gắn
bó, vẫn luôn là đối tượng xuất phát từ chính vẻ đẹp của con người.
Ông phát hiện ra một thứ hoa- thứ hoa nở vào mùa hè gắn với tiếng ve
và đặc biệt gần gũi với các bạn học sinh mỗi khi kết thúc năm học. Ấy là Hoa
học trò. Đó là hoa phượng “Phượng không thơm, phựơng không hẳn đã đẹp
nhưng phượng đỏ và nhiều, phựơng có linh hồn sắc sảo mênh mang” (Hoa
học trò).
Phải chăng cái linh hồn sắc sảo, mênh mang của phượng chính là ẩn
chứa những nghịch ngợm, sắc thắm, tươi xanh của những cô cậu học trò và
những tình cảm lưu luyến mỗi khi năm học kết thúc. Cho nên Xuân Diệu đã
48
nhìn ra hoa phượng đi về giữa niềm vui và nỗi buồn. Vui vì một năm học vất
vả đã trôi qua và thế là học trò lại được thoải mái nghỉ ngơi, chơi vui vẻ, còn
buồn vì phải chia xa bạn bè, thầy cô, mái trường.
Thế chăng mà hoa phượng đầy nỗi niềm và tâm trạng như vậy :
“ Ai dạy cho hoa phượng cái màu xa xăm? Phượng vui cái vui tươi như
là làm cho thái quá để che dấu cái sầu uất…Phượng xui ta nhớ…người sắp xa
còn đứng trước mặt…nhớ một bãi biển sóng chấp chóa… Hoa học trò thả
những cánh son xuống cỏ đếm từng giây phút xa bọn học sinh. Hoa phượng
rơi…hoa phượng khóc… hoa phượng mơ, hoa phượng nhớ…Hoa phượng
đẹp với ai khi học sinh đã đi cả rồi” (Hoa học trò).
Cái độc đáo là Xuân Diệu thấy phượng có hồn như một sinh thể, một
người bạn tâm tình thật sự của con người để chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của
lòng người. Hẳn những ai đã một thời cắp sách tới trường, đọc những trang
văn này của Xuân Diệu mà lòng không bồi hồi, xao xuyến, không có chút nhớ
nhung về “tuổi học trò” của mình và cả sắc đỏ đến cháy lòng của hoa phượng
- hoa học trò.
Có lẽ vậy, mà bức tranh thiên nhiên trong truyện ngắn trữ tình Xuân
Diệu thường giàu màu sắc, hương thơm, ánh sáng và mang đầy đủ tâm trạng.
Thiên nhiên như có linh hồn, có sự sống, có sức khơi gợi và đánh thức trong
tâm hồn những kỷ niệm của tuổi học trò, tuổi yêu đương và đặc biệt gắn kết
với vẻ đẹp của con người.
Nếu các nhà văn xưa nói đến Thu là nói đến sự phai tàn, úa rụng, là sầu
thương, li biệt thì vẻ Thu mà Xuân Diệu phát hiện hoàn toàn khác. Thu là một
dấu hiệu của sự sống và quan trọng hơn nó còn mang vẻ đẹp của hình tượng
người thiếu nữ tươi trẻ :
“ Mùa thu đến với cõi đời như cô gái xưa đi về nhà chồng. Nàng bước
rất khoan thai, tà áo thướt tha chân không có tiếng. Thân hình nàng uốn éo,
thanh quý, mặt ngọc của nàng che sau cánh quạt mở, thỉnh thoảng cánh quạt
khẽ chếch để lộ đôi mắt êm như màu xanh buổi chiều” (Thu).
Thu cũng không phải là sự héo úa, cũ nát mà”…lá lại thêm xanh, ấy là
49
mùa thu đã về (Thu).
Thu cũng không còn là mùa ly biệt, cách xa mà là mùa của tình yêu dịu
dàng: “Thu không phải là mùa sầu. Ấy là mùa yêu…Sắc trời xanh xuống ôm
lấy lứa đôi như một tấm áo che sương” (Thu).
Bên cạnh đó, cùng trong mạch nguồn sáng tác của các nhà văn trong
dòng truyện ngắn trữ tình nên Xuân Diêu cũng có sự đồng điệu với họ khi coi
thiên nhiên cũng như người bạn tâm tình có vai trò làm dịu nhẹ nỗi đau, nỗi
buồn của con người. Có lẽ vậy mà Xuân Diệu và các nhà văn trong dòng
truyện ngắn trữ tình 1930-1945 đều quan tâm đến một thời khắc của thiên
nhiên là “Chiều”:
Nếu Thạch Lam thấy khung cảnh bình yên êm ả của phố huyện “Chiều.
Chiều rồi. Một chiều êm ả như ru. Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ như
nhung và thoảng qua gió mát” (Hai đứa trẻ), Hồ Dzếnh thấy “Trời chiều sàng
từng giọt hoàng hôn xuống tóc” người chị dâu Trung Hoa (Người chị dâu tôi)
và se lòng “dưới nắng vàng vọt của chiều hè, tôi nhận thấy mẹ tôi vui mừng
một cách đau khổ” thì Xuân Diệu lại thương xót và chia sẻ với bà cụ trong
“Chiều lên dần dần, chiều không xuống…hoàng hôn..buổi chiều len vào tâm
tư, theo ngõ của hai mắt” (Thương vay).
Cũng vì thế mà chàng họa sĩ trong Phấn thông vàng đã được thiên
nhiên làm dịu đi vết thương lòng đang âm ỉ đau nhức. Khi nhìn phấn thông
lan tỏa khắp khu rừng, sự hồi sinh dường như trở lại trong trái tim chàng họa
sĩ trẻ:
“Lòng chàng đã nguội lạnh, tưởng chừng không thể phục sinh nữa..
nhưng “ rừng thông vừa chín” và đứng giữa ngàn thông reo vi vút và đứng
giữa “một trận mưa phấn thông vàng”, lòng họa sĩ mới thơi thới trở lại.(Phấn
thông vàng.)
Như vậy, thiên nhiên trong truyện ngắn trữ tình Xuân Diệu không chỉ
còn là bức tranh huyền diệu tràn đầy sức sống mà còn giao hòa, giao cảm, sẻ
chia cùng con người như những người bạn tâm tình, qua đó, thể hiện khát
khao gắn bó hòa hợp giữa thiên nhiên cảnh vật và cảm xúc trong thế giới nội
50
tâm của con người.
2.2.3 Thiên nhiên hữu tình trong màu sắc tính dục
Được mệnh danh là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ, nên tâm hồn Xuân
Diệu cũng luôn tươi trẻ với những đam mê, khao khát. Qua con mắt đa tình
của ông, mọi cảnh vật trong đời sống luôn tràn trề sinh lực và ở trong trạng
thái “yêu nhau”. Có thể nói rằng, thiên nhiên trong văn xuôi trữ tình Xuân
Diệu trước cách mạng tháng Tám là thế giới tràn sức sống bén duyên nhau.
Mọi sự vật hiện tượng thường được ông nhìn qua lăng kính của tình yêu.
Đây cũng là điều khiến Xuân Diệu khác các nhà thơ hiện đại khác và
khác cả với những nhà văn, nhà thơ lãng mạn cùng thời. Chỉ có Xuân Diệu
mới có cách nhìn mới mẻ, cách tân như thế về sự vật. Cái hay, cái tài của
Xuân Diệu là ông đã biến những sự vật vô tri vô giác trở nên giàu cảm xúc
yêu đương giống như con người. Thiên nhiên không chỉ gần gũi mà tự tách ra
thành một chủ thể có suy nghĩ, tình cảm riêng của mình, dựa trên quan hệ chủ
sở hữu. Ở đây chúng tôi muốn nói đến một điều đã tạo nên dấu ấn riêng của
Xuân Diệu trong những trang văn xuôi của ông.
Trong thế giới nghệ thuật của ông không chỉ có “Anh”, “Em” mới có
thể bày tỏ tình cảm da diết, nỗi khát khao mong chờ của mình mà sự vật, cảnh
vật thiên nhiên dường như cũng đang ngấm ngầm trao duyên, tìm kiếm để
trao nhau sự đắm đuối. Ta hãy nghe Xuân Diệu diễn tả về tình yêu của rừng
thông; “ tình yêu dồi dào gấp mấy loài người…Gió trở qua trời rộng, nhị của
thông đầu rừng lại đến gặp thông cuối rừng, và tất cả nhị của thông rừng này
đi đến một rừng thông nào khác…có lẽ ở đằng chân trời; một rừng thông chưa
chín hoa đang đứng chờ nhị của rừng thông này đến…(Phấn thông vàng).
Qua những thống kê của chúng tôi về đối tượng miêu tả thiên nhiên
trong các sáng tác văn xuôi của Xuân Diệu chúng tôi thấy, ông không coi
thiên nhiên như một khách thể đứng ngoài những cảm xúc, suy tư của con
người mà thiên nhiên trở thành một chủ thể để diễn tả cái thần thái, cái khát
51
khao của con người. Ở đâu, Xuân Diệu cũng thấy cảnh vật trong thế giới xung
quanh mình đều đang ngấm ngầm trao duyên, vật này rạo rực, khao khát vật
kia, vật kia đang phập phồng đón chờ vật nọ. Tất cả đều đang thiết tha tỏ tình.
Cho nên trong con mắt của con người hữu ý này, cái rao rắc của phấn
thông vàng, của rừng thông vừa độ chín, bỗng trở thành một cảm giác rất
thăng hoa trong cảm xúc của con người. Ấy là “yêu nhau”, Xuân Diệu đã
thấy được “muôn cây chắc đương khoái lạc vì đương sống việc ái tình: đó là
nhị thông thoát hoa đực bay tìm hoa cái”, là “ái tình tản mạn ôm ấp không
gian ấy là rừng thông đang yêu” (Phấn thông vàng).
Chính vì nhìn sự vật luôn ở điểm giao hòa, giao thoa nên Xuân Diệu
luôn gán cho chúng có đôi, có lứa. Rừng thông trong cái say của tình yêu thì
hoa đực tìm hoa cái. Và dưới con mắt đầy ý nhị tình duyên của Xuân Diệu thì
đến ngọn nến cũng có đôi : đôi vợ chồng. Tìm đến những trang viết của Xuân
Diệu về “người học trò tốt”, chúng ta thấy nếu nhân vật chính là anh Tư mải
miết học, học quên ngày tháng, quên sức khỏe và quên cách sống thế nào là
hạnh phúc ở đời. Khác hẳn với anh Tư một mình đơn độc “học với hai mắt, học
với hai tai, học với một đầu, học với một miệng” thì những vật dụng giúp anh
học tập lại thật hữu tình “…trong ấy có hai cây nến, có một cặp vợ chồng
nến...”(Người học trò tốt). Quả là một phát hiện khác lạ và đặc sắc của Xuân
Diệu về tình yêu, sự sống của con người.
Chỉ có Xuân Diệu mới đem cảm xúc luyến ái như nguồn nhựa sống chảy
tràn trong khắp cơ thể của tạo vật, khiến sự vật này khao khát tìm đến sự vật
kia, hoa trống tìm hoa mái, sự vật đắm đuối trong không gian đầy chất ái tình:
“ Trong đêm nhung, hoa trống cách hoa mái, gọi nhau bằng chút niềm
bối rối trong không khí, chỉ gần nhau bằng phấn hương. Có những đóa hoa
của muôn người, ứng với nhau thì đến được với nhau gắn thành đóa cảm giác.
Thời gian đừng đi qua, những cặp môi người đánh dấu vào nhau để lấy một
phút giây cực lạc, cùng khấn ép một khoảng nhỏ thời gian và từ ấy trong kỉ
niệm trăm năm còn mãi một điểm hồng” (Trong vườn mơn trớn).
Cảnh vật trong đêm trăng lên trên dòng sông bỗng hiện lên như có sự
52
giăng mắc nối kết của tạo vật trong khắp không gian tạo nên mối giao hòa
ngất ngây men tình “Ở đây, tạo vật đang tắm ái tình. Người ta vào hẳn trong
yêu mến, vu vơ…Cây cối đu đưa, lá tre nhỏ sột soạt làu nhàu. Phong cảnh tợ
hồ thanh tao, nhưng kì thực lẩn vẩn những chiều khơi trêu, lơi lả. Gió trăng
không ngây thơ, gió trăng hữu ý quá. Phong cảnh không những có linh hồn.
Phong cảnh đương khoái lạc trong thịt da…không gian quặn lại vì sung
sướng…yên lặng và đầy nhớ nhung” (Thân Thể).
Chính thế, thật tự nhiên và cũng thật đúng đắn làm sao khi Xuân Diệu
thấy đóa hồng nhung là “đóa hôn”. Ôi, hoa hồng !Loài hoa được mệnh danh
là chúa tể của các loài hoa. Cánh hoa khoe sắc. Những cánh hoa dầy, đầy ắp
hương thơm, lúc e ấp, lúc nở rộ nhưng lúc nào cũng đỏ thắm. Cái vẻ căng
mọng, đẹp đẽ của đóa hồng kia khiến xuân Diệu nhìn và thấy vẻ đẹp của đôi
làn “môi hôn”. Nụ hoa chúm chím bừng nở kia bỗng hóa thành “ đóa hôn”,
dịu dàng duyên dáng trong một không gian cũng đắm chìm của yêu đương
(Trong vườn mơn trớn).
Nếu các nhà văn lãng mạn cùng thời khác chỉ thấy thiên nhiên có mối
quan hệ mật thiết gắn bó và là một trong những yếu tố góp phần làm cho thế
giới cảm xúc của nhân vật trữ tình trong tác phẩm trở nên rõ nét hơn thì Xuân
Diệu đã làm một điều khác biệt là thổi linh hồn tình cảm vào sự vật và luôn
nhìn chúng trong trạng thái “đôi lứa”.
Ngay cả bên trong suy nghĩ, ý nghĩ của nhân vật, Xuân Diệu cũng nhìn
chúng trong trạng thái có đôi. Đọc tác phẩm Thân thể, nếu lúc đầu suy nghĩ là
hai phần nửa của con người - một đại diện cho bên tốt, một đại diện cho bên
xấu thì sau đó, chúng trò truyện, khuyên lơn, mắng mỏ, trách cứ nhau như vợ
nói với chồng: “Rồi thì vừa an ủi, vừa càu nhàu, chúng ta nói tỷ, nói tê, nói
thầm nói thỉ với cái thân thể như vợ khuyên chồng”
Cảnh trời đất sang xuân qua con mắt Xuân Diệu lại càng vô cùng tình tứ:
“ Đất cựa mình xốn sang trong da thịt…đất mẹ sung sướng đất mẹ lo
âu, đất mẹ nằm sinh và làm việc.
Gió đưa duyên bướm, gió làm mối lái cho hoa. Gió múa điệu lẳng lơ,
53
nói lời cợt ghẹo. Vạn vật nghe gió mà rợn tình”. (Lệnh).
Như vậy với cặp mắt, xanh non, biếc rờn, Xuân Diệu đã tạo ra một chủ
thể thiên nhiên bừng bừng sức sống. Tâm hồn giàu cảm xúc của Xuân Diệu
đã tạo nên trong văn xuôi của ông thế giới thiên nhiên của màu sắc, âm thanh,
hương vị và trạng thái ngất ngây của tình yêu, của men tình nồng như chính
con người Xuân Diệu, luôn vồ vập, khát khao tình yêu cháy bỏng. Quả là
Xuân Diệu đã truyền cả tính đa tình của mình vào thiên nhiên, sự vật.
Thế giới ái tình của thiên nhiên trong văn xuôi trữ tình Xuân Diệu với
lối cảm thụ trước Cách mạng tháng Tám là sự tiếp nối “vườn tình mơn trớn”
trong “thời tươi” mà Xuân Diệu đã thể hiện rất thành công trong những
trang thơ của ông.
2.3 Quan niệm về thời gian
Thời gian vốn là một đại lượng được con người nhận biết rất rõ trong
cuộc sống. Từ thời xa xưa, thời gian được nhận biết khi con người phân biệt
được sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa các mùa trong một năm và cả ý thức
về sự sống và cái chết. Ngay từ thời xa xưa, con người đã có nhận thức về thời
gian khi phân biệt ngày và đêm, giữa các mùa trong một năm. Ngay cả đời
người cũng được nhận biết từ sự ý thức về sự sống và cái chết của con người.
Đến thời trung cổ, người ta quan niệm thời gian là sự vận động mang tính chu
kỳ: đó là sự biến chuyển từ ngày sang đêm, từ mùa này sang mùa kia (hết hạ
rồi sang thu sang đông rồi lập xuân…) từ năm này qua năm khác; thời gian cứ
đều đặn nhịp nhàng trôi…Vì thế mỗi nhà văn, nhà thơ lại nhìn thời gian với
một quan niệm, một ý nghĩa riêng.
2.3.1 Thời gian luôn chuyển động và thay đổi không ngừng
Thời gian là một phạm trù mà nhiều nhà văn, thơ đã đề cập đến trong
tác phẩm của mình. Trong số các nhà văn lãng mạn Xuân Diệu là một người
luôn ý thức về thời gian.
Đối với nhiều nhà văn, nhà thơ, thời gian là một phương tiện nghệ
thuật góp phần thể hiện nội dung tư tưởng và chủ đề của tác phẩm. Theo quan
điểm này thì thời gian cùng với không gian chính là một những yếu tố của
54
phương diện đề tài và là một trong những nguyên tắc cơ bản để tổ chức tác
phẩm. “Thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng
nghệ thuật”[24,322]. Đây chính là thời gian nghệ thuật.
Đến với Thơ mới và thơ Xuân Diệu, thời gian không còn được tính
theo chiều vĩ mô mà được tính bằng thời gian tâm trạng, đời tư. Không chỉ
những trang thơ của ông thấm đẫm nỗi đau về thời gian mà trong những trang
văn xuôi của ông, thời gian đã trở thành “nỗi ám ảnh” (Đỗ Lai Thúy). Thời
gian là “đại lượng tiêu cực, là thù địch với tuổi xuân” (Trần Đình Sử).
Trong đội ngũ các nhà Thơ Mới, có lẽ Xuân Diệu là người duy nhất đã
dành một bộ phận không nhỏ những sáng tác của mình để đàm đạo trực tiếp
về thời gian, qua đó, ông đã khái quát chúng thành những tư tưởng mang ý
nghĩa triết học. Chắc hẳn nếu bạn đọc đã từng biết những bài như Thời gian,
Đi thuyền, Giờ tàn, Giã từ thân thể, Hết ngày hết tháng, Chiếc lá…sẽ không
xa lạ với quan niệm thời gian mà Xuân Diệu đã gửi gắm: Thời gian luôn luôn
chuyển động và thay đổi không ngừng. Vì thế Xuân Diệu không ngừng tiếc
nuôi thời gian và nhắc nhở chúng ta hãy biết nâng niu, quý trọng thời gian và
làm cho nó trở nên có ý nghĩa hơn.
Nhạy bén với từng bước đi, từng thời khắc của thời gian nên Xuân
Diệu đã đưa ra một quan niệm về thời gian thật độc đáo :
“ Thời gian chỉ là sự cử động. Nếu tôi đứng, nếu máu tôi ngừng, nếu tôi
không biết đời bên trong và không hay đời bên ngoài thời gian của tôi không
còn nữa… nhúc nhích là thời gian, cử động thay đổi là thời gian”. Rõ ràng,
Xuân Diệu đã ý thức được thời gian là vận động không ngừng. (Thương vay).
Như vậy về thời gian, không gian, Xuân Diệu cũng có những ý nghĩ
độc đáo. Theo ông, thời gian, không gian chỉ có ý nghĩa khi là thời gian,
không gian sống thật sự với đời. Có nghĩa là con người không sống thì không
có thời gian.
Cũng chính bởi ý thức về thời gian và luôn gắn thời gian với tình yêu
và tuổi trẻ nên Xuân Diệu đã đưa ra một phát hiện rất thú vị về thời gian tâm
55
lý của đôi lứa yêu nhau.
Đối với những đôi lứa ấy, “Hơn nửa tháng trời có phải ít đâu. Ngần ấy
thời gian cũng đủ cho người ta đi vòng quanh thế giới” (Thư tình mùa thu).
Quả thật đối với những người đang yêu nhau, chờ đợi là một việc tưởng
chừng như là thiên thu và thời gian của tạo hóa bỗng bị giãn nở đến mức cực
đại hoặc bị thu ngắn lại đến mức không ngờ.
Cũng chính vì ý thức thời gian trôi chảy, nên Xuân Diệu mới bần thần
“giã từ tuổi nhỏ”. Ông ý thức được thời gian “một đi không trở lại” nên mới
thiết tha, nài nỉ mong “Em Tuổi Nhỏ”- chính là tuổi thơ quay về.
“Không biết anh em tôi bỏ đi lúc nào, nhưng bây giờ thì em đã đi rồi.
Tội nghiệp cho em tôi! Thỉnh thoảng em còn về thăm, nhưng chúng tôi không
dám ở lâu cùng nhau; và dường như tôi có đôi ý xua đuổi. Bây giờ thì em còn
thương tình mà trở lại thăm viếng, chứ mười năm, hai mươi năm nữa! Tôi có
gọi có van rát cổ, vỡ tiếng, em tôi cũng chẳng trở về”
“…Thế là em đi, còn ta thui thủi về một mình, con đường thơ mộng đã
trở thành con đường đời, ta bước đau thương, vì lòng ta trống cả em! Ta
không muốn quay đầu lại nhìn; em đi rồi, ta phải thành một người lớn, phải
siêng năng chứ, nào là công việc, nào là cuộc sống, nào là cái đời...”(Giã từ
tuổi nhỏ).
Đọc những dòng văn này, chúng ta bỗng thấy đồng điệu đến kì lạ với
Xuân Diệu. Dường như dòng thời gian của tuổi thơ đang chầm chậm quay về,
với những trò chơi con trẻ, những nghịch ngợm rất đỗi đáng yêu của tuổi nhỏ,
cái thời vụng dại, bé con không bao giờ quay trở lại, nhưng lại ở sâu trong kí
ức mỗi người. Xuân Diệu đã làm cho mỗi người đều tìm thấy mình trong
những trang viết của ông. Và có lẽ vì thế, thời gian mà ông cảm nhận càng trở
nên tinh tế và sâu lắng.
Thời gian trong văn xuôi Xuân Diệu còn là phản ánh sự vận động hàng
ngày của con người. Nhiều khi người ta lặp đi lặp lại những việc, những hành
động ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác mà không ý thức được
thời gian phũ phàng đang trôi qua. Vì thế Xuân Diệu nuối tiếc cho những con
56
người “sống hoài, sống phí, sống không ra sống”. Về điều này, Xuân Diệu
dường như sự gần gũi với Thạch Lam khi cảm nhận được sự lặp lại đơn điệu,
buồn tẻ của nhịp thời gian lên số phận và cuộc đời các nhân vật của mình.
Chúng ta thử nhìn vào cuộc sống của hai nàng Quỳnh và Giao trong
Tỏa nhị kiều
“ Tôi biết hai cô không có việc gì làm. Họ chẳng mấy lúc đi chơi. Họ
để cho ngày tháng qua. Họ là hai cái cây - họ lại còn thua hai cái cây, bởi vì
còn ra hoa, ra trái, chứ đời con gái của họ, họ biết làm gì? Không sắc, không
duyên, và cũng không tiền; chỉ có hiền lành…” (Tỏa nhị kiều).
Thời gian trong nhịp điệu cuộc sống đến mức tẻ ngắt của hai nàng
Quỳnh và Giao trong Tỏa nhị kiều có sự đồng điệu thời gian trong Hai đứa
trẻ của Thạch Lam trong buổi chiều, đêm nào cũng thấy bằng ấy hoạt động,
bằng ấy con người, bằng ấy tâm trạng giống hệt nhau…Cũng giống như nhân
vật Liên trong Một đời người sẽ sống cho đến hết cuộc đời với những ngày đi
làm nhà máy và có thể bị đối xử tàn tệ, bị chửi rủa, đánh đập không có chút
ánh sáng. Cô chấp nhận cuộc sống ấy mà không dám vượt ra ngoài nó và coi
như đó là số phận của mình. Tâm trong Cô hàng xén là cuộc đời của con
người nhẫn nại với chuỗi ngày bất di bất dịch. Cái nhịp điệu cũ mòn nhẫn nại
ấy đan xen vào cuộc đời cô. Ngay đến cái sự kiện xáo trộn nhất là Tâm đi lấy
chồng cũng không làm thay đổi lắm những nhịp điệu, những tháng ngày rong
ruổi với đôi đòn gánh trên vai với những gánh hàng xén “cả cuộc đời
nàng…toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ.”
Chúng ta đã biết thời gian tuyến tính thì không thay đổi. Thời gian
trong vũ trụ thì muôn đời vẫn cứ thế. Chỉ có con người là cảm nhận về thời
gian khác nhau mà thôi. Là một nghệ sĩ, thời gian vũ trụ càng bị đồng hóa và
khúc xạ qua cái nhìn chủ quan của Xuân Diệu. Có thể nhìn nhận một điều,
Xuân Diệu là con người của thời gian hiện tại. Hiếm khi ông cho nhân vật của
mình ru ngủ, tiếc thương quá khứ hay mịt mù hướng đi của tương lai. Cuộc
sống của ông là ở hiện tại với những cuộc đời con người cũng rất thực tại. Đó
57
là thời gian, là cái chu trình, cái nhịp sinh học tác động lên tất cả mọi người
dù muốn hay không. Vì thế nó đến và trôi qua trong sự nuối tiếc. Và Xuân
Diệu là người thấy nuối tiếc nhất, xót xa nhất khi thời gian trôi qua:
“ Dậy, dậy, tôi ơi! Kỷ niệm chực biến! Hình bóng em nhỏ sắp tan!
Thôi, em đi, ta ở, ta dậy, em về; thà xa nhau trong chút bóng trăng tàn, để
phút ly biệt còn đượm phấn xanh, chứ không chịu chia phôi giữa bụi bặm ồn
ào, làm mất cả thiêng liêng của nỗi luyến tiếc. Hỡi em Tuổi Nhỏ, giã từ, từ
giã! Ly biệt, biệt ly! Níu em nói chưa dứt lời, em đã đi mất!
Ta ở lại một mình. Thời gian đẩy sau lưng, cuộc đời kéo trước mặt,
chân trái rời xa thời nhỏ, chân trước bước vào thời nào đây? Ta nuốt đắng
cay, cười gượng mà để cho hoa tàn, mà mong có trái đậu; hôm nay ta xua tuổi
nhỏ để khỏi chậm chân trong cuộc thế; một mai sự dời dẫu dãi, lúa gặt, việc
xong, chạy đi tìm em, em tan mất rồi!
Thời gian lạnh lắm, cái gì vào đó mà còn được đâu! Hôm nay còn gặp
tuổi nhỏ năm ngoái, năm sau tuổi nhỏ chắc đã mờ bóng; vài năm sau nữa, ôi
thôi, em chết thực rồ! Nhớ mà thỉnh thoảng về thăm anh, em nghe; chớ vội
tan trong thời giờ, mà để anh già cỗi. Giã từ.
Em Tuổi Nhỏ! Xa nhau rồi, giờ lại gặp nhau; gặp nhau thêm lần này, lần
sau có gặp nhau chăng nữa? Bao giờ mới đến lần sau? Em chịu về thăm anh
chăng? Ngày mai soi gương, có tình cờ thấy hai ta chung một bóng?” (Giã từ
tuổi nhỏ).
Đối với ông, đã là thời gian sống, sống mãnh liệt, sống hưởng thụ thật
sự cuộc đời này thì tất nhiên phải là thời gian gắn với mùa xuân và tuổi trẻ,
gắn với cái hiện tại, cái hữu hiệu, cái nhỡn tiền nhưng làm sao có thể kéo dài
được tuổi trẻ và những giây phút hiện tại. Quan niệm sống của Xuân Diệu tất
nhiên mâu thuẫn với sự trôi chảy của thời gian, lời văn của ông vì thế mà “vội
vàng”, “giục giã”:
“Gấp đi em, mau đi em, hoa ở tuổi em mới thật là hoa, để nâng niu
hôn hít, thêm dăm tuổi nữa đi hoa chỉ trồng cho đẹp nhà, hãnh diện với
58
khách qua đường...Mau đi em, gấp đi em cái vốn ngây thơ khô cạn. Thế nào
rồi việc đời cũng đến. Gấp đi em, hãy chuyện trò cũng tạo hóa, mau đi em
vơ vẩn cho nhiều” (Giao lại).
Càng thấy được bước thời gian tồn tại và chi phối vạn vật, biến tất cả từ
thời tươi sang thời phai. Xuân Diệu càng cố níu kéo thời gian. Lý giải quan
niệm của Xuân Diệu về thời gian, chúng ta có thể thấy sở dĩ ông lại luôn níu
kéo, nuối tiếc thời gian đến như vậy là vì:
Đối với Xuân Diệu, điều đó đã trở nên ám ảnh nhà thơ với những trăn
trở từ thuở thiếu niên, thôi thúc tác giả sáng tạo bền bỉ để giành trọn cuộc đời
cho sáng tạo chân chính. Cuộc đời lao động nghệ thuật chăm chỉ của Xuân
Diệu để lại một di sản nghệ thuật đồ sộ. Động lực thôi thúc ông làm được điều
to lớn ấy có phải chăng xuất phát từ nỗi trăn trở mà ông có từ thuở thiếu niên;
Xuân Diệu sợ chết. Cái chết là nỗi ám ảnh lớn trong tâm khảm của nhà thơ
khiến ông luôn lo sợ về sự thay đổi trôi chảy của thời gian .
Mặt khác, Xuân Diệu luôn khao khát giao hòa, giao cảm với cuộc đời
nên ông rất nhạy cảm với những chuyển biến của đất trời và sự di chuyển của
thời gian bằng những cảm nhận rất tinh tế. Tác giả ý thức được sự trôi chảy,
một đi không trở lại của thời gian.
Bên cạnh đó, Xuân Diệu một mặt vừa tiếp thu tư tưởng của cổ nhân, mặt
khác, bằng những liên tưởng độc đáo, bằng tâm hồn nhạy cảm, Xuân Diệu lại ý
thức “dòng thời gian” kéo theo sự lụi tàn của thiên nhiên và cuộc sống. Xuân
Diệu không hề nuôi giấc mộng lên tiên, không than khóc với quá khứ, chạy
trốn lên chốn bồng lai tiên cảnh hay vũ trụ siêu thoát cùng thăm thẳm hư vô.
Con người ấy “chân hóa rễ để hút màu dưới đất”. Ông sống với thực tại và coi
thực tại là cõi duy nhất xứng đáng để thưởng thức mọi khát vọng và lạc thú ở
đời. Với cái tôi tiểu tư sản và mang trong mình sức trẻ, Xuân Diệu đòi hỏi được
có tình cảm, tình yêu và cuộc sống vật chất. Vì thế Xuân Diệu lo sợ cái quy
luật tàn tạ của đời sống và lo sợ nhịp thời gian chảy trôi, luôn luôn “ vội vàng”,
cuống quýt”.
59
2.3.2 Thời gian - sự song hành và đối lập của “thời tƣơi” và “thời phai”
Trên cái gốc là lòng ham yêu, ham sống, những cảm xúc về thời gian
của Xuân Diệu trong cả các sáng tác thơ và văn đều hiện lên rất rõ nét, thậm
chí ám ảnh ông. Chính vì quan niệm thời gian một đi không trở lại nên Xuân
Diệu ít khi nhìn thời gian theo sự vận động một chiều của nó: quá khứ - hiện
tại - tương lai. Chính vì luôn coi thời gian là “kẻ thù đáng gờm nhất” (theo
cách nói của Nguyễn Đăng Mạnh), đồng thời là “đại lượng tiêu cực, là kẻ
thù với hạnh phúc và tuổi xuân”
(Trần Đình Sử), cho nên trong cả những trang thơ và trong văn xuôi
của mình, đối với Xuân Diệu, thời gian có hai thì: “ thời tươi” và “thời
phai”.
Nếu trong những trang thơ, chúng ta hơn một lần bắt gặp khoảng “thời
phai” này :
“Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”
( Vội vàng )
Thì trong những trang văn của ông ta cũng thấy ông phản ánh “thời tươi” và
“thời phai” rất sâu sắc.
Xuân Diệu đã sớm nhận ra rằng tuổi trẻ con người là “thời tươi” và nó
không quay trở lại bao giờ :
“Em có mười sáu tuổi chỉ một lần, em không có đến hai lần cái tuổi hai
mươi, em chẳng bao giờ có lại tuổi mười tám. Em chỉ có một tuổi vui…”(Giã
từ tuổi nhỏ).
Chính vì ý thức được sự trôi chảy của thời gian nên Xuân Diệu đã nhìn
ra sự tàn tạ của chiếc giường qua năm tháng. Ông chia thời gian – quãng đời
sống của cái giường ra làm hai chặng, như hai phần của cuộc đời con người-
như quá trình lên dốc và xuống dốc gắn với thời tươi - lúc chiếc giường được
trọng dụng và thời phai- khi chiếc giường đã cũ kĩ và bị bỏ đi (Truyện chiếc
60
giường).
Quãng thời gian đẹp đẽ nhất của chiếc giường thật giống với cô gái trẻ
còn duyên “kẻ đón người đưa”. Cái giường đẹp bởi gắn với thời tươi sắc mà
Xuân Diệu đã đặt cho đúng một từ nhưng ý nghĩa thật chính xác “mới” :
“…Xưa kia, tôi đẹp, tôi mới. Tôi lại đẹp nhất, mới nhất, không một kẻ
nào cùng loài có thể sánh được kiểu tối tân của tôi. Suốt tỉnh nhỏ, người ta
đều biết đến tiếng cái giường ở tiệm đồ gỗ X. Bao nhiêu người thèm thuồng
đã đến mặc cả…bao nhiêu người đã trầm trồ” (Truyện cái giường).
Và nay, khi thời gian đi qua, thời tươi qua đi, chiếc giường bắt đầu tàn
tạ. Nó xuống cấp dần, cũ kĩ, hỏng hóc và cuối cùng bị vứt bỏ. Thời phai của nó
đã đến:
“ Bây giờ tôi cũ, tôi xấu, tôi hư. Những hình dáng thuở trước tân thời,
bây giờ lại cổ hủ. Tôi đã thấy những chiếc chiếu dần dà rách, những cái gối
dần dà mềm nhũn, những cái chăn dần dà mòn thủng, những cái màn hư hỏng
từng miếng một, để lọt muỗi vào. Chiếu, chăn, màn, gối lần lượt tiếp nhau vào
cõi tan nát; cái giường ở lại làm sân khấu cho sự đổi thay…Tôi càng cũ đi, sự
hư hỏng càng đến gấp, cũng như một người càng già, những sự yếu đuối càng
rủ nhau ùa đến thật nhanh. Ðoạn sau này, mỗi tháng đem đến một sự xiêu
vẹo, mỗi ngày một sự mòn mỏi, rồi bỗng chốc hiện ra nào mộng hư, nào chốt
gãy, nào ván thủng, chân què. Rồi tôi run lên như một kẻ già, gỗ kêu răng rắc
như một ông cụ rũ xương; tôi lòng khòng yếu đuối, mọt đến ăn tôi, cọt kẹt
suốt đêm ngày...” (Truyện cái giường).
Như vậy, chỉ từ câu chuyện về cái giường, từ một sự vật tưởng chừng
vô tri vô giác, Xuân Diệu lại cho người đọc cảm thấy xót xa vì sự trôi chảy
của thời gian. Cùng với ngày tháng qua, Xuân Diệu đã cho chúng ta thấy
được sự vật bị bào mòn tàn tạ đến thế nào.
Vì thế, trong quan niệm của Xuân Diệu đã bộc lộ rõ sự phũ phàng của
thời gian. Nó là tác nhân của sự tàn lụi, tàn phai của vạn vật cũng như của đời
người. Sự thay đổi vị trí từ quan trọng đến vô dụng của chiếc giường đã tố
61
cáo mãnh liệt độ phai tàn phôi pha mà vạn vật đều phải sợ :
“ Hai người chủ càng năm càng phát đạt, sự giàu sang cứ đến rất đều
nhịp, lòng người bởi thế cũng đều nhịp mà tùy thời. Người ta mấy mươi lần
bắt tôi đổi chỗ, mang từ phòng này sang phòng khác, đặt hết lối dọc đến lối
ngang. Ban đầu tôi là chỗ nằm của ông chủ bà chủ, Rồi năm năm sau, một cái
giường nguy nga tráng lệ đến làm bật hẳn sự hèn kém của tôi. Tôi thành chỗ
nằm của những người khách đến ở vài ngày. Rồi tôi lại được thành chỗ nằm
của một bọn trẻ con, chúng mình nhẹ song những cách tàn phá của chúng thì
rất nặng. Chúng trèo lên mình tôi, và đi guốc, đi giầy lên, và nhảy nhót đùng
đùng, và đánh lộn nhau ầm ĩ. Từ nhà trên tôi đã xuống nhà giữa, rồi tôi lại
xuống nhà dưới, rồi cuối cùng tôi lại xuống nhà bếp, hứng lấy khói bụi mồ
hóng, làm chỗ ngủ cho đầy tớ. Rồi thì đầy tớ cũng không thèm tôi nữa: tôi thì
quá già mà họ lại giàu thêm. Cuối cùng, họ đẩy tôi vào đây, tôi sẩy vào đây.
Khi họ mang tôi lên vai vứt ra khỏi cuộc đời, bao nhiêu xương xóc của tôi đã
kêu to lên một lần cuối cùng, và tôi biết rằng tôi đã hết” (Truyện cái giường).
Nói tóm lại, chúng tôi nhận ra rằng trong văn xuôi Xuân Diệu, phạm
trù thời gian được biết đến với những yếu tố sau:
Thời gian đã không còn là một công cụ nghệ thuật mà còn trở thành đối
tượng phản ánh, đối tượng nhận thức. Thời gian trở thành một lực lượng để
đối địch lại sự tồn tại của con người. Thời gian không phải là thời gian tuyến
tính mà thời gian là sự cử động. Nó trôi chảy, một đi không trở lại. Cho nên
Xuân Diệu luôn nuối tiếc và muốn níu kéo bước thời gian.
Thời gian diễn ra trong sự phôi pha, ngắn ngủi của sự vật, gắn với hai
thì “thời tươi” và “thời phai”. Sự xuân sắc, tươi tắn hay tàn tạ phôi pha của
sự vật và con người đều gắn với thời gian. Vì vậy, Xuân Diệu muốn nhắn nhủ
mỗi người hãy biết nâng niu và trân trọng thời gian của mình.
2.4 Quan niệm về tình thƣơng con ngƣời và tình yêu đôi lứa
2.4.1 Mở rộng tâm hồn về phía những kiếp người cùng khổ, đói
nghèo, tủi nhục
Văn học giai đoạn 1930-1945 thường đề cập đến hai vấn đề của những
62
người dân Việt Nam thời kì đó nói chung và những người nông dân nghèo
khổ thời bấy giờ, về chuyện cái ăn cái mặc, về cái đói và cái nghèo mà như
nhiều người gọi là “Cái đói” và “Miếng ăn”. Trong nền văn học giai đoạn
này, ta bắt gặp hình ảnh và số phận của những con người bế tắc, thậm chí đi
vào đường cùng như số phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám ; bi kịch tha hóa của họ trong Chí Phèo của Nam Cao hay bi kịch
sống mòn của những tiểu tư sản trí thức như Thứ trong Sống mòn, Hộ trong
Đời thừa của Nam Cao. Tất cả họ đều có số phận tăm tối, mịt mù và bế tắc.
Cái đói và miếng ăn khiến các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn
1930-1945 nhìn người nông dân Việt Nam bằng những cái nhìn bi quan, chán
nản. Dường như trong sáng tác của họ (Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên
Hồng…), cái đói cái nghèo như một sợi dây trói vô hình thít chặt lấy số phận
những người nông dân lam lũ. Vì cái đói, miếng ăn họ buộc phải gắn số phận
mình vào hai ngã rẽ: một là cái chết đau đớn vật vã để bảo toàn danh dự, nhân
phẩm và cái nhân tính còn sót lại, hai là bị phá sản và đi vào con đường bần
cùng hóa, lưu manh hóa. Và như lời Vũ Ngọc Phan cũng đã nói khi đọc tác
phẩm của Nguyên Hồng: “Ông đã tả những cảnh nghèo, cảnh khổ của mấy
hạng người sống ngoài rìa xã hội một cách bình tĩnh không xen lấy một lời
bình phẩm để mặc cho những việc ông tả tự gây lấy cho người đọc những
cảm tưởng vui buồn, vì riêng những việc ấy đã hùng hồn rồi.”
Cùng phản ánh thế giới hiện thực khách quan những năm 1930-1945
ấy, song khác với những nhà văn hiện thực, luôn đề cập những vấn đề nóng
bỏng và bức xúc của xã hội một cách trực tiếp, sinh động những áp bức bất
công cùng những thối nát, mục ruỗng trong xã hội, các nhà văn lãng mạn lại
đi vào những vấn đề nhỏ nhặt rất thường nhật của cuộc sống. Và trong dòng
chảy ấy, Xuân Diệu cũng hướng ngòi bút của mình phản ánh những con
người bình dân, những người nghèo trong xã hội. Dù được biết đến nhiều với
tâm hồn trẻ trung của nhà thơ “tình yêu và tuổi trẻ”, song trái tim rộng mở yêu
thương và tâm hồn nhạy cảm của Xuân Diệu còn hướng tới những kiếp người,
63
những mảnh đời và cuộc đời của những con người bất hạnh, nghèo đói.
Nếu các nhà văn hiện thực nhìn nhận và đánh giá và miêu tả cuộc sống
qua lăng kính chủ quan của mình bằng con mắt “tả chân”, “tả thực” thì các
nhà văn lãng mạn lại lấy cảm hứng trữ tình làm cảm hứng bao trùm mà cốt lõi
của nó là sự cảm thông, sẻ chia, lòng thương cảm. Có lẽ thế mà Xuân Diệu đã
nói: “Bao giờ lòng thương cũng có duyên cơ ở trên đời cùng cực, đau đớn,
khốn khổ, rách rưới, cô đơn này …”(Thương vay).
Tình thương của nhà văn được thể hiện một cách gián tiếp thông qua
hình ảnh một bà lão nghèo trong một buổi chiều muộn “cả mình đen, chỉ cái
nón xám. Tuy nhiên tôi cũng đoán được những miếng vải vá nơi cổ áo dài lỗ
đổ không toàn màu”. “ Một bà già. Lưng khòm chân chậm. Mắt bà lão mở lim
dim, mà bóng thì mờ thế này, thế có khác gì nhắm? Tay xách một cái rổ,
không thấy được những thức gì trong ấy. Có chỉ là rổ không. Còm. Dáng đi
run. Lặng thinh, lẽ lặng thinh, không có một tiếng. Như ngủ. Lặng thinh”
(Thương vay).
Lúc này Xuân Diệu đã hóa vào nhân vật trữ tình “tôi” để xót xa thay cho
thân kiếp già nua, tàn tạ, nghèo khổ của bà cụ già. Cái bóng của bà trong buổi
chiều gợi lên trong lòng tác giả nỗi buồn về nhân tình thế thái. Phải chăng nhà
thơ của những xúc cảm “thức nhọn giác quan” và sống cho hiện tại bỗng thấy
cái vệt tối trong đời sống của con người: Đó là cái buổi chiều tà buồn bã mang
trong nó cũng là những con người có số phận khổ cực, tăm tối.
Thật ra “thương vay” là tình cảm của rất nhiều nhà văn lãng mạn lúc bấy
giờ. Tự thương cảm về thân phận số kiếp con người là tâm trạng chung của
nhiều nhà văn trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945. Nếu đối với các nhà
văn hiện thực xã hội chủ nghĩa, ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người thường
nằm ở các phạm trù đạo đức. Cái nhìn về số phận con người của các nhà văn
hiện thực thường đặt con người ở ranh giới giữa sự sống và cái chết, giữa
lương thiện và bất lương (Chí Phèo của Nam Cao), những vấn đề phản ánh
mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, giữa mong muốn
khát khao lớn lao và thực tế cuộc sống tầm thường (Sống mòn của Nam Cao)
64
thì đối với nhiều nhà văn lãng mạn, mâu thuẫn đó được phản ánh thông qua
những chuyện thường ngày, những mâu thuẫn trong cuộc sống thường nhật.
Có thể không nói quá rằng, các tác phẩm của dòng truyện ngắn trữ tình đã tạo
ra trong nó một xã hội đông đúc của những con người là nạn nhân của đói
nghèo; từ những người nông dân, chị đi ở, anh phu xe, bà lão già, đứa trẻ nhỏ
đến những nhà nho thất thế và cả những trí thức. Cái vòng luẩn quẩn mang
tên hành trình số phận của họ nhiều khi được sắp xếp với chuỗi: Không việc
làm – Nghèo đói - rồi Chết. Các nhà văn lãng mạn ít khắc họa hiện thực một
cách khắc nghiệt, gai góc, xù xì như các nhà văn hiên thực song lại có sức gợi
và ám ảnh người đọc đến kì lạ.
Hai đối tượng được nhiều nhà văn trong dòng truyện ngắn trữ tình
1930-1945 (Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh…) hướng tới đó chính là phụ
nữ và trẻ em, những người phụ nữ với duyên phận lỡ làng, bất hạnh hoặc
nghèo khó và những đứa trẻ thì đã sớm chịu sự nghèo khổ, vất vả và bị tước
đi quyền được yêu thương (trong Đói, Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa, Cô
hàng xén, Một đời người, Tình trong câu hát, Tình thư, Bên con đường sắt,
Sáng trăng suông, Người chị dâu tôi, Em Dìn..).
Cũng chính từ trái tim ấm nóng yêu thương và xót xa trước những cảnh
đời bất hạnh, Xuân Diệu thấy thương những cảnh đời, những số phận của
những con người ấy. Đó là sự vất vưởng của thằng Miêng trong Đứa ăn mày,
đó là thân phận nghèo đói, ăn nhờ ở đậu của mẹ con Siêu trong Cái hỏa lò, đó
là cái đáng thương của bà lão ăn mày trong Thương vay, đó là sự tội nghiệp
của Quỳnh và Giao trong Tỏa nhị Kiều, đó là sự bơ vơ của những linh hồn tội
nghiệp; bọn chó mèo hoang .
Khi nói về những người phụ nữ, Xuân Diệu đã phác họa hình dáng bà
cụ nghèo đi trên con đường Nam Giao vào buổi trời chiều để từ “cái cớ” đó,
cài vào lòng thương xót và bộc lộ những suy nghĩ và tình cảm dành cho bà:
“…Cả mình đen, chỉ cái nón xám. Tuy thế, tôi cũng đoán được những miếng
vải vá nơi áo dài lổ đổ không toàn màu. Phải rồi, một bà già. Lưng khòng
65
chân chậm…một người bằng thịt, bằng xương - thịt khô và xương gầy - với
một lịch sử chắc chắn khổ sở hết chín phần mười, với chút sống còn sót giữa
lòng, như hòn lửa nhỏ còn lấp dưới tro.
Bà lão về đâu? Một ổ rơm nép bên đường, hay một cái chòi lạc giữa
những bụi cây? Về một túp lều xa hay không về túp lều nào cả? Trên vùng
hẻo lánh kia, còn nhà cửa nào nữa! Ai sẽ nấu cơm cho bà ăn? Diêm ở đâu để
bà nhóm lửa? Về đâu? Ngừng lại nơi đâu?” (Thương vay.)
Những câu hỏi dồn dập được cất lên, hỏi chính mình, hỏi mọi người và
chất chứa lòng xót thương vô hạn của Xuân Diệu trước bà cụ - con người đại
diện của những người dân quê lam lũ, cơ cực, nghèo hèn, đưa cuộc đời chìm
dần trong bóng tối, trong màn đêm dày đặc u uất.
Xót thương bà lão, Xuân Diệu cũng khiến người đọc cảm thông với
người phụ nữ nghèo khổ phải rời chồng về ở nhà nhà mẹ đẻ trong truyện Cái
hỏa lò. Người phụ nữ ấy đã phải chịu thiệt thòi trong hôn nhân, hạnh phúc.
Những dòng tự thuật của cậu bé nhỏ sáu tuổi (Siêu - nhân vật trong câu
chuyện) cho ta biết tình cảnh đó: “ Má tôi đã lấy thầy tôi, xuất giá sao chẳng
tòng phu?”- Đó là người phụ nữ đó lấy chồng song lại không được ở cùng
chồng, “về bên ngoại ở”, bữa ăn hàng ngày khi “ăn riêng” chỉ có “chén muối
vừng mặn, nhiều màu trắng, ít màu vàng” mặn chát. Đó là người phụ nữ mà
khi sinh con phải chịu cảnh nghèo đói, hai tháng trời chỉ “ăn cơm với muối
rang” “ lại đau mê man”, bệnh tật mà chỉ chữa bằng “ nước tiểu của thằng nhỏ
bên láng giềng, bỏ thêm chút tiêu sọ”. Đó là người phụ nữ phải chịu ảnh thân
ăn đậu, ở nhờ thật bấp bênh, tủi hổ:
“- Thế đấy, mẹ con mình ở nhờ ở cậy, ăn chực ăn xin. Mẹ con nghèo xác xơ,
chẳng có gì hết. Ai muốn đuổi mà chả được. Bơ vơ... bơ vơ...” (Cái hỏa lò).
Xuân Diệu cũng thương những người phụ nữ, mặc dù không phải nạn
nhân của cái đói nghèo, song họ lại phải chịu cái bế tắc, bất hạnh trong cuộc
đời và chịu nỗi đau khổ về tinh thần. Đó là cuộc đời của Quỳnh và Giao trong
Tỏa nhị kiều. Hai cô chỉ” như hai cái cây- họ lại còn thua hai cái cây, bởi cây
còn ra hoa, ra trái, chứ đời con gái của họ, họ biết làm gì ?…không sắc không
66
duyên và cũng không có tiền, chỉ có hiền lành”. Ta thấy họ với cuộc đời mờ
nhạt, không có lối thoát. Dù không bắt gặp họ với những lo toan hàng ngày vì
miếng cơm manh áo nhưng họ lại chịu nỗi buồn, một nỗi buồn không ngớt và
sự day dứt về tâm hồn.
Bên cạnh số phận của những người phụ nữ bất hạnh, Xuân Diệu cũng
dành nhiều tình cảm khi viết về những đứa trẻ nhỏ.
Thằng Miêng - thằng em xấu số của Sơn bỏ nhà đi hoang, phải sống
kiếp của một đứa ăn mày “một đứa nhỏ, một thằng ăn mày nằm ngủ. Tay nó
co lại dưới đầu làm gối. Chân nó vì lạnh gió nên cũng co lại; mặt nó khuất vì
cả mình nó rút cong như con tôm. Áo quần nó bằng vải đen, nhưng cái dơ bẩn
lộ trắng hẳn ra cùng những vệt mồ hôi khô, thứ mồ hôi người ta gọi “mồ hôi
muối”, vì mặn lắm và đọng trắng như nước biển. Thằng nhỏ nằm xây lưng ra
ngoài đường. Cổ đầy ghét. Tóc dài phủ tai, xuống ót, làm thành một cái đuôi
nhọn” (Đứa ăn mày).
Vì thế mượn tâm sự của cậu bé Sơn, Xuân Diệu cũng kín đáo bộc lộ
lòng xót thương với đứa em tội nghiệp “Cặp mắt lạ quá, thảm quá…vừa ngủ,
vừa trắng vì đói, vừa xanh vì sợ, vừa bàng hoàng trông thấy Sơn nên lác đi”.
Nó khiến lòng Sơn đau điếng, nghẹn ngào òa khóc vì thương em “có nước
mắt, và những cơn quặn lòng, ruột gan xoáy lại” song chỉ biết thở dài vì
“không có một xu mà cho em” và đành nhường cho em cái áo cụt của mình-
vật duy nhất mà Sơn có thể dành cho nó.
Còn trong Cái hỏa lò, tình thương của Xuân Diệu lại được bộc lộ khi
ông khắc họa hình ảnh cậu bé Siêu sáu tuổi- và cũng là hình bóng của tuổi thơ
của chính ông phải chịu nhiều thiệt thòi, đau buồn. Siêu sống thiếu thốn tình
yêu thương của cha và mẹ bởi “mẹ Siêu xa thầy Siêu”, Siêu sống với thầy nên
“trời dun dủi thế nào” Siêu được” rời nhà thầy tôi trong hai tháng” “được về
với má trong ít lâu” “tại nhà bà ngoại”. Sự thiếu thốn đói nghèo đã khiến cậu
bé sớm nhận ra “muối vừng sao ngon bằng thịt cá” nên Siêu “chẳng ăn” với
mẹ mà ăn cùng bà vì cơm bà “có cá chiên, có tôm kho, có rau, canh, có cả thịt
nướng” khiến Siêu “ăn bằng mắt đến hai lần rồi”. Vì thế, cậu bé còn non nớt ý
67
nghĩ ấy dành tình cảm để oán hận “cái hỏa lò”. Chỉ vì cái hỏa lò dùng cho bữa
cơm chiều mà chị Bốn giận mẹ, mẹ tức chị, khiến dì cháu “kình nhau”, bà
giận, Siêu buồn, tủi thầm cho má, còn bữa cơm chiều thì” còn gì nữa đâu, nồi
niêu vỡ cả, thịt cá đổ rồi”. Cái hỏa lò là nguyên nhân của sự rạn nứt tình cảm
“người ta rủ nhau đau khổ vì một ít đất nặn” (Cái hoả lò).
Cái òa khóc của Siêu, khóc như gió như mưa” và ghét “cái hỏa lò khốn
nạn, cái hỏa lò ác nghiệt” cũng chính là sự tủi thân cho tình cảnh nghèo túng và
những thua thiệt trong cuộc đời đứa con của người mẹ chịu cảnh lẽ mọn mà
tuổi thơ Xuân Diệu đã phải trải qua. Đây cũng chính là điều khiến ông dễ đồng
cảm với những kiếp người bất hạnh, thiếu tình yêu thương trong cuộc đời.
Xuân Diệu còn mở rộng trái tim của mình để hướng tới những linh hồn
tội nghiệp, đáng thương. Đó là bọn chó mèo hoang “ Không ai nuôi, bọn nó đi
hoang; chúng bơ vơ, cực khổ, chúng đói khát, dơ nhớp, chúng thất nghiệp.
Những chó mèo hoang không thể lại thành chó sói hay mèo rừng. Chúng đành
phải thất thơ thất thểu, rách rưới, lang thang…”. Cuộc đời của chúng thật tội
nghiệp, bởi chúng là những kiếp bơ vơ, bị vứt bỏ và không được quan tâm đến.
“Bọn nó trung thành quá nên cứ luẩn quẩn chung quanh người. Bọn nó
hiền quá, thật thà quá để người ta đánh một cách dễ dàng, rồi kêu những tiếng
đau đớn như bị gãy xương và vỡ trái tim”
Và vì thế, Xuân Diệu cảm thấy ám ảnh, vì không thương xót và quan
tâm đến hết được chúng : “Sơn bước đi, như người ta đau đớn ngoảnh mặt
tránh một cách thê thảm. Cũng như lòng Sơn, chân Sơn không thể nào nhẹ
được, tuy chàng nhất định không ngoảnh lại, sợ gặp đôi mắt thảm thiết của cái
linh hồn đầu đường xó chợ kia. Sơn rùng mình, vì chàng thấy mình đương
dẫm lên tình của một con chó rách, dẫm lên trái tim tội nghiệp của một con
vật tồi tàn. Và Sơn hoa mắt đi, tưởng chân mình dính xương, máu nát tan như
xương máu của một con chó chết chẹt ô tô” (Chó mèo hoang).
Nỗi niềm ấy của tác giả lúc này, không chỉ là niềm xúc cảm với bọn
chó mèo hoang mà rộng hơn là sự rung động, thương cảm cho những kiếp
68
người không nơi nương tựa, phải bơ vơ sống vất vưởng và bị xã hội bỏ mặc.
Và cũng như Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh…; Xuân Diệu
không chỉ tả những cảnh nghèo, đói, rách của họ để thương mà còn phát hiện
ra sự thanh cao, đẹp đẽ trong thế giới nội tâm của nhân vật.
Với bà cụ già ăn xin trong Thương vay là hiện thân của sự đau khổ
nhưng dường không phải đi ăn xin mà “nghèo như vậy sao lại làm thinh mà
đi, gặp khách không đón xin tiền? Cũng không nói, không rên, cũng không
ngừng...”. (Thương vay) .Điều này đã làm nhân vật tôi rất ngạc nhiên vì thái
độ và nhân cách của bà cụ.
Người phụ nữ - mẹ Siêu chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh, nhưng lúc nào
trong mắt đứa con cũng là người “má chịu khổ vì sinh con ra”, là người” có
hay đanh đá cùng ai đâu” mà “được tiếng là hiền hậu, thiệt thà, ai ăn hiếp
cũng được.” (Cái hỏa lò).
Đến bọn chó mèo hoang thì Xuân Diệu vẫn phát hiện ra bản chất chúng
là mèo, dù phải lang thang đói khát, song vẫn giữ được cái sạch sẽ “Hễ thong
thả là chúng liền tỷ mỷ tắm gội. Những cơn đói không bắt chúng lành tính
sạch sẽ, tuy là mèo hoang, chúng vẫn còn là mèo.(Chó mèo hoang)
Nói tóm lại, có thể thấy rằng, cũng vì mở rộng tâm hồn về phía những
kiếp người cùng khổ, đói nghèo, tủi nhục mà Xuân Diệu thấy được những nét
đẹp trong tâm hồn của chính những con người ấy. Ông cũng giống như nhiều
nhà văn trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 đã thể hiện sự thông cảm
và sẻ chia với các nhân vật của mình. Thậm chí cao hơn, ông không đứng
ngoài để quan sát, miêu tả, tỏ lòng thương xót mà bộc lộ nó một cách trực tiếp
trong tác phẩm.
2.4.2 Triết lí về tình yêu, hạnh phúc trong cuộc sống
Tình yêu vốn là điều thầm kín vẫn âm thầm tồn tại trong ước muốn
và tâm linh của bao thế hệ Á Đông như một “cái bánh” được Xuân Diệu “bẻ
đôi” bằng những phát hiện tinh vi.
Theo ông, tình yêu là một tình cảm đặc biệt. Có lẽ ông quan niệm lòng
người là những tình cảm thông thường ngoài tình yêu, giúp đỡ cho người ta
69
sống cân bằng cho nên ông đã phân biệt lòng người và ái tình.
“Sự thực của ái tình nó khác với sự thực của lòng người. Lòng chúng ta
muốn yên, nhưng ái tình thì hiếu sự. Tình yêu không thèm ở lại trong một tấm
lòng mệt mỏi, tình yêu bỏ mà đi. Lòng người và tình yêu là hai sự thực khác
nhau và đối nhau, một đằng chỉ riêng ưa chuyện lì lợm, sự bình yên, một đằng
muốn lay chuyển, sôi nổi cử động. Lòng người như vật chất luôn sắt đá...Ái
tình như sự sống làm việc luôn, nồng cháy luôn và xây dựng cho vật chất.
Lòng người như đất chỉ cốt nằm ỳ, ái tình là ý xuân, bắt sự lười biếng phải
hăng hái, bồng bột lên để sinh hương sắc” (Cái dây không đứt).
Truyện Cái giây là bức thư của một cô gái tên Thu gửi người yêu tên
là Hứa. Người con gái viết: “anh muốn tình yêu là một sợi thừng buộc những
chiếc thuyền to hơn là những giây tơ treo vài đóa hoa mảnh khảnh”. Triết lý
về tình yêu: “Một trái tim chín muồi phải rời, cái giây giằng lâu phải đứt”.
Tình yêu cũng vậy, như cái giây, giằng lâu tất sẽ đứt. Đáp lại bức thư này,
Xuân Diệu xây dựng câu chuyện khác. Như tiêu đề câu truyện Cái giây không
đứt Xuân Diệu trình bày qua một bức thư của một chang trai tên là Hứa gửi
cho người yêu tên Thu. Một bức thư tình của chàng trai muốn cứu vãn sự rạn
nứt của tình yêu. Nhưng chính những lời lẽ có tình, có lý đã thuyết phục kết
cho những ai bước vào con đường yêu đương: “Hai người đều vui lòng chịu
sự trói buộc của tình ái, để được cái thoát ly, thoát ly khỏi mọi điều cặn bã
thấp kém của đời thường”. Để khẳng định một tình yêu với đầy đủ cung bậc
của nó, Xuân Diệu viết: “Luôn luôn thắc mắc, toan không ngớt, xôn xao
không ngừng, yêu như thế tức là đổ dầu cho đến sáng mai. Thêm củi cho lửa
không tàn, là giữ màu tươi thắm, thêm bao thú vị cho tình yêu, yêu như thế
quả là sẽ thêm tơ chỉ cho sợi giây thêm bền, chứ đâu có phải giằng kéo sợi
dây cho mình?”.
Một phát hiện khác tình yêu là sự lệ thuộc là sự trói buộc tự nguyện và
đầy thú vị. Những người yêu nhau cất đi sự tự do và tự nguyện trở thành nô
lệ của nhau – nô lệ trong hạnh phúc. Vì vậy bao giờ tình yêu cũng là sự đòi
70
hỏi, là nỗi phiền hà.
“Chúng ta muốn êm đềm, chẳng phải nhọc nhằn gì. Nhưng khi yêu
tình yêu có ngủ đâu. Đó là nỗi kiếm tìm ngờ vực, đòi hỏi van xin, là sự ghen
tuông, là cách chinh phục...Em thấy yêu anh thì nói yêu anh, nhưng một lời
nói không phải một cái gối người ta cứ dựa đầu mãi. Tình em cho hôm nay
ngày mai chắc đâu như cũ: Bảo anh không phiền hà em sao được. Tình yêu
mạnh mẽ hơn lễ độ, đã yêu thì hóa làm rầy nhau. Em mất tự do nhưng kẻ lấy
không phải là anh, mà chính là tình yêu của chúng ta. Và anh cũng mất tự do
và cũng không phải em lấy”. Tuy nhiên đây là sự trói buộc để cùng dìu nhau
bay lên cõi cao cả của tâm hồn. Xuân Diệu gọi thế là một cuộc thoát ly. “Hai
người đều chịu sự trói buộc của tình ái để được thoát li, thoát li khỏi mọi
điều cặn bã trong đời thường” (Cái dây không đứt).
Phát hiện tinh vi của Xuân Diệu còn ở cách chỉ ra tình yêu như một phép
nhiệm mầu, nó chiếm lòng ta tự lúc nào chẳng biết, chỉ thấy một cảm giác thực
ấm và sự tuân thủ. Đọc văn ông, người con gái thấy lại cái đỏ mặt của sự lưu
luyến còn e ấp, người con trai thấy lại cái hồi hộp chờ đợi, ước mong:
“Gió thu lẻn vào lòng ta rất giỏi, che kín áo ai chẳng ăn thua gì.
Nhưng tình yêu lẻn vào lòng người còn giỏi hơn gió thu. Và bây giờ thực
ấm. Mà lắm khi tình yêu chẳng thèm lẻn đâu, nàng công chúa ấy đi vào
trong cung của lòng ta theo cửa Ngọ Môn, đi rất thẳng mà cửa nào cũng
không dám cưỡng lại”. (Thư tình, mùa thu). Chính vì vậy mà: “Giấu sự giàu
có tiền tài, việc ấy còn dễ. Chứ giấu sự giàu có của lòng ta, sự ấy làm sao
được, nhất là khi ta thấy luyến ái một người, tự nhiên tràn đầy hân hoan và
tối tăm lo ngại” (Thư tình mùa thu).
Tình yêu bao giờ cũng đòi hỏi cao độ. Đối với nó, cái gì cũng có thể
trở thành vô cùng to tát. Đấy cũng là một phát hiện thú vị của Xuân Diệu:
“Tình yêu có mực thước bao giờ. Lúc nào người ta cũng quá đáng.
Người ta thẩn thơ một cách dễ dãi, và không hiểu vì sao nhưng điều cỏn con,
những ý vụn vặt lại bỗng dưng hệ trọng lên, có thể làm ngạt được người viết
71
thư cũng như người xem thư” (Sợ).
Và điều này, có lẽ sẽ bổ ích cho những chàng trai nào lần đầu hò hẹn.
Khi yêu phải tỏ tình từ từ, đột ngột quá, mãnh liệt quá có thể khiến cho
người yêu hoảng sợ:
“Tình yêu to lớn mênh mông khác gì một con sông to, một biển cả.
Người ta ngợp bởi thấy tình nhiều, bởi cái nhiều bao giờ cũng làm cho ta tự
thấy mình ít, ta không kịp ngó, ta cảm xúc không hết, ta thấy cái nhiều tràn
ngập ta, lụt đến quá cổ ta. Ta sợ nhiều nước hay nhiều trời...huống chi nhiều
tình ái, một thứ không gian vô hình ảnh. Nếu gió mát quá làm người ta ngợp
sợ thì sự êm đềm, quá thiết tha, quá yêu mến lại xui người ta sợ sệt đến bao
nhiêu. Đó là một sự thực, tình yêu nhiều làm cho người ta sợ” (Sợ). Mà cứ
chi các chàng trai lần đầu ngỏ ý, ai cũng thế thôi, cái “sợ” khi đón nhận tình
yêu bao giờ cũng đi kèm với sự thất bại trong cách chinh phục.
Yêu theo ái tình và phải biết vun đắp cho ái tình bởi Xuân Diệu thấy
trong tình yêu được sự nồng nàn là điều khó:
“Sự dịu dàng là mảnh khảnh hơn hay sự nồng nàn mảnh khảnh hơn.
Giữ sự dịu dàng là trò chơi chứ giữ sự nồng nàn là một điều khó” (Cái dây
không đứt). Một nhận xét tưởng như là một nghịch lý, thực ra thì rất chính
xác và sâu sắc: Tình yêu đòi hỏi cao độ. Nhưng phải chăng đó cũng là lý do
chóng tàn của tình yêu?
Thế nào là hạnh phúc trong tình yêu? Xuân Diệu đã diễn tả rất tinh vi
niềm sung sướng lớn lao của những người yêu nhau trong cuộc tiếp xúc ban
đầu, dù chỉ là sự gặp gỡ của hai bàn tay yêu:
“Những cơn điên dại của hình vóc chưa chắc chắn đã ban hạnh phúc
thấm thía cho người ta bằng hai bàn tay nắm nhau lần đầu. Cái bánh con con
nên ta hưởng tận cùng cả mùi vị. Niềm vui ái tình thật mênh mông. Ta nghe
cái ấm nóng hay cái mát mẻ ta cân cái sức nặng nhẹ, một chút nhíu dạ, một
làn ép nhỏ cũng cho ta bồi hồi đo độ tình yêu”.
Ngay cả sự giận dỗi của tình yêu cũng là một hạnh phúc. Xuân Diệu
72
cho rằng giận nhau cũng có cái thú của nó, còn giận nhau nữa” và “nếu động
bất thường với nhau mà rẽ hết với nhau ngay thì ở trên đời chẳng có cặp đôi
nào cả” (Cái dây không đứt).
Ở khía cạnh ngược lại, khi tình yêu có cơ may tồn tại, Xuân Diệu cũng
tỏ một thái độ dứt khoát: “Hai người rất muốn chung hợp song đã không ăn ý
nhau thì thà rời nhau đến còn có thể nhớ mà thương nhau. Nếu cố gắng, cố
gần, e rồi đến ghét nhau mất” (Phấn thông vàng) bởi: “Sự cố nhiên của lòng
mình không cố nhiên chút nào cả đối với đời” (Phấn thồng vàng).
Xuân Diệu còn có một phát hiện độc đáo về thời gian trong tình yêu.
Đó là một thời gian tâm lí rất đặc biệt – tâm lí của những người yêu nhau, quĩ
thời gian tạo hóa dường như vô nghĩa: “Hơn nửa tháng trời có phải là ít đâu.
Ngần ấy thời gian cũng đủ cho người ta đi vòng quanh thế giới” (Thư tình
mùa thu). Tất nhiên mọi thứ tình cảm, mọi sự chờ mong đều khiến cho thời
gian kéo dài. Nhưng trong tình yêu thì sự kéo dài thật là khủng khiếp, dường
như không chịu nổi.
Truyện Người học trò tốt là câu chuyện về một con người say mê,
không hề biết mệt mỏi, suốt đời phấn đấu cho “sự học hành, trong sự chinh
phục ngôi thứ, bằng cấp, và chỗ làm”. Và chàng đã đạt được tất cả, quyền cao
chức trọng, giàu sang, vinh hiển. Để có những cái đó, chàng Tư phải đánh đổi
bằng tuổi xuân của chính mình. Trong câu chuyện này, Xuân Diệu cũng có
dịp đan gài vài câu mang tính trữ tình triết lý: “Con gái! Họ bóp trái tim ta…
trong lòng bàn tay của họ...”. Để nhấn mạnh sự “vô lý”, sự lãnh cảm của loại
người chỉ biết lấy cái danh làm mục đích, Xuân Diệu viết: “...ái tình đã ngoan
ngoãn vâng theo chịu nén một bề, đã tàn rồi, không nở lại nữa...”
Với Xuân Diệu, thành thực là nguồn gốc của mọi phát hiện, mọi sáng
tạo. Bằng chứng tiêu biểu nhất về sự thành thực này, có lẽ là phát hiện như
một tình cảm lý tưởng, nghĩa là chỉ có sự hòa hợp thuần túy trong tâm hồn.
Sự thành thực đã khiến Xuân Diệu không ngần ngại nói đến cơ sở nhục thể
của tình yêu. Tất nhiên có những quan hệ nhục thể mà không có tình yêu,
nhưng tình yêu đích thực coi quan hệ nhục thể là một khát khao chính đáng.
73
Khát khao đó được cực tả trong “đóa hôn” thiêng liêng: “Nhưng đóa hoa của
hai mặt xứng nhau thì đến được tầm nhau, gắn thành đóa hoa cảm giác. Thời
gian đương đi qua, đôi cặp môi người đóng triện vào nhau để lây một phút
giây cực lực, cùng gắn ép một quãng nhỏ không gian, và từ ấy, trong kỷ
niệm trăm năm còn giữ mãi một điểm hông” (Đóa hồng nhung).
Cái hôn của tình yêu tuy là một tiếp xúc nhục thể, nhưng nó đâu phải
chỉ là quan hệ nhục thể. Nó còn là giao cảm tuyệt vời của những tâm hồn
yêu nhau. Đó là sự hòa trộn cả tâm hồn lẫn thể xác: “Đóa hôn như hoa lan,
thích tỏa hương nơi im lặng. Đóa hôn như hoa lan, thích tỏa hương nơi im
lặng. Đóa hôn như hoa quỳnh, thích nở lúc đêm thanh. Phải cho đất ngủ
dưới lời ru của muôn trời, sao xanh nhấp nhánh cẩm canh, vũ trụ mơ màng
như sơ khai, bấy giờ đóa hôn đẹp nhất mới nở. Đóa hôn đẹp nở thì người
lặng, máu ngừng, hồn điến vì yêu, chứ đâu phải những cái hôn nở ngày nở
trưa, đầu đường xó chợ, là cái thứ hoa tạp nham vật dục” (Đóa hồng nhung).
Chính hồn người tạo nên hương sắc của “đóa hôn” cao quý:
“Hồn không đẹp đẽ thì ngửi được đóa hồng nhung sao? Hồng nhung
là sắc của hồng tâm, nhung là vẻ nhung của hồn, có dễ bạ ai cũng hái được ở
bất cứ đâu” (Đóa hồng nhung)
Hiểu như thế cái hôn trở thành một phần thưởng vô cùng quí giá và
thiêng liêng trời đất ban cho nhân loại:
“Khi hái được đóa hôn thì đất trời cũng sá ngừng lại cho ta sung
sướng, chúa trời như bà mẹ thương mến các con, hương rừng qua mũi, suốt
ngọt vào lòng, tình ái muôn năm, lấy môi đóng triện”.
Mỗi một cái hôn như một điểm hồng trong trí nhớ, nó cũng thiên biến
vạn hóa thể hiện đủ mọi cung bậc của tình yêu:
“Người con trai mới lớn lên, không phân biệt cặn kẽ. Có cái hôn ấm,
thơm, và dòn, nhai được thành tiếng, ấm như vừa dang nắng, thơm như cây
mới ra hương”.
Có cái hôn nhẹ, nhẹ quá, lâng lâng như chỉ đụng vào bóng trăng, vừa
74
động tới tan dường tuyết đọng. Có cái hôn ngọt ngào như êm cái khát ngàn
năm, có cái hôn mê ly, như đã chết một kiếp. Có cái hôn mơ màng, để môi
nghỉ tê tái trên môi, và hồn tự nhiên vớ vẩn ở đâu trong những truyện thần
tiên. Có cái hôn chờ đợi lâu hàng năm đến khi được thì sức ào đến quá
mạnh, tưởng hồn văng ra ngoài đầu. Có cái hôn tủi tủi nước mắt sắp rơi, môi
có thể òa ra khóc được: hôn mà bận nhớ cái sầu người yêu dấu đã chất nặng
vào lòng ta.
Những hồn tê điến hay quặn cong, những cái hôn khoái lạc không bao
giờ bì được cái hôn yêu đương...” (Đóa hồng nhung).
Xuân Diệu cho rằng cái hôn là “của quý thất lạc, cái kho vàng chìm mất
trong biển tháng ngày. Người Á Đông không biết đến cái hôn là một điều dại
dột vô lí. Và tham lam, ham hố, Xuân Diệu ước “có một đạo bùa phục sinh cho
những đóa môi xưa sống lại, với màu tươi, sắc ướt, vẻ ngọt, mùi thơm, cho con
trai đời xúm lại mà hôn, rồi bấy giờ sẽ tan tành, như thế cho khỏi ân hận!..”
(Đóa hồng nhung).
2.5 Quan niệm về tuổi trẻ và sự sống
2.5.1 Quan niệm về tuổi trẻ - mùa xuân của cuộc đời
Là nhà thơ của tình yêu, lại được tiếp thu làn gió mới tân tiến từ nền
văn hoá Pháp, nói đến mảng văn xuôi Xuân Diệu không thể không nói đến
tuổi trẻ.
Bằng cặp mắt “xanh non” biếc rờn của mình, Xuân Diệu luôn thấy “sự
sống chẳng bao giờ chán nản.” Ông chọn hình ảnh con người trẻ trung - “ trẻ
người và trẻ lòng” để nói hộ nỗi lòng và quan điểm nghệ thuật của ông. Xuân
Diệu đã sớm đưa ra những lời phát biểu của ông về tuổi thanh xuân, tuổi trẻ
qua những trang thơ của ông :
“... Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất những chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”
Cho nên trong những trang văn xuôi của mình, một lần nữa Xuân Diệu
75
lại nêu quan điểm, ý kiến của mình “Ngắm lại tuổi xuân thật chẳng dài, tuổi
đẹp trai chẳng lâu gì lắm nên đẹp trai thật là một hạt ngọc trong đời”. Thời
của “hạt ngọc” ấy là thời của sức mạnh và vẻ đẹp thể hiện trên từng đường nét
khỏe khoắn thanh tú của cơ thể.
Dưới con mắt “xanh non”, “biếc rờn” của Xuân Diệu, cuộc đời mở ra
trước mắt biết bao tươi đẹp, từ những hình ảnh thiên nhiên, nụ cười xuân,
khúc nhạc thơm, vầng trăng náo nức, buổi chiều ngẩn ngơ…Đến hình ảnh của
giang sơn tuổi nhỏ luôn đem đến cho con người bao niềm vui khích lệ. Khác
với các tác giả cùng thời – Chế Lan Viên muốn chối bỏ hiện tại để quay về
quá khứ, tìm lại một thời dĩ vãng vàng son, Huy Cận trốn mình trong “nỗi sầu
vạn cổ”, Xuân Diệu xem thế giới là nơi hội tụ của niềm vui, nơi mà sự sống
biểu hiện mức hoàn thiện và gợi cảm nhất. Xuân Diệu yêu đời, yêu người, ca
ngợi cuộc sống dồn tụ ở mùa xuân, mùa của thiên nhiên, những dấu hiệu của
sự sống dang lên, và tương ứng tuổi trẻ, tuổi thanh xuân là mùa xuân của đời
người. Hình ảnh một con người trẻ trung (trẻ người và trẻ lòng) được Xuân
Diệu khắc họa đậm nét trong câu chuyện Đẹp trai. Xoay quanh nét đẹp của
tuổi thanh xuân, của cuộc đời trai trẻ trong mỗi con người, ông nghiệm thấy:
“ngắm lại tuổi xuân thật chẳng dài, tuổi đẹp trai chẳng lâu gì lắm nên sắc đẹp
trai thật là một hạt ngọc trong đời”. Thời của “hạt ngọc” ấy là thời của sức
mạnh và vẻ đẹp thể hiện trên từng đường nét khỏe khoắn, thanh tú của cơ thể.
Khi nói về tuổi trẻ, người ta thường nhắc đến tuổi hai mươi và coi đó
như một mốc son trong cuộc đời trai trẻ của mỗi con người. Tuổi hai mươi
với nhiều hoài bão, dự định. Tuổi hai mươi với vẻ đẹp cường tráng, đúng độ
rực rõ nhất. Song riêng Xuân Diệu lại cho chúng ta một cách nhìn mới mẻ, về
sự rực rõ của tuổi thanh xuân. Đó là tuổi mười chín: “Mười chín tuổi mặt trời
đang óng ả, ánh sáng ca lanh lảnh tiếng đời ngân,…mười chín tuổi thanh tân,
gánh nhẹ nhõm trên thân hình măng mọc”. Tuổi mười chín đẹp biết bao, óng
ả biết bao, vừa chứa đựng sự thanh tân, vừa chứa đựng sự khỏe mạnh, tuổi
của sự “giòn dã”. Tác giả nhắc đi nhắc lại cái tuổi bước sang mười chín, “đêm
76
tan, rõ ràng là một buổi rạng ngày. Tuổi mười tám đã dương tráng, nhưng
chưa được dòn dã, đến mười chín tuổi thì thực sự dòn dã mà đang còn nụ hoa,
cái tuổi đó là tuổi đẹp trai nhất”.
Vẻ đẹp đó vừa kết tụ ở hình tượng nghệ thuật vừa mang hơi dương ấm
ấm của mùa xuân, vừa rực rỡ như ánh mặt trời. Bởi “con trai đẹp giòn; núi
khảng khái, không lả lướt bằng song. Người con trai đẹp là sống.”
Một phát hiện mới của Xuân Diệu và có lẽ cũng chính là lý do chính để
ông chọn tuổi mười chín thay vì hai mươi vì ẩn chứa sau vẻ đẹp cường tráng rất
đàn ông của tuổi thanh xuân là vẻ đẹp tâm hồn thanh khiết, vô tư trong sáng
“chưa hề oán hận”. Đó là sự kết hợp hoàn hảo trong một con người của “ một
thân thể khỏe mạnh, tươi giòn và tâm hồn thanh cao bộc lộ tính cách đàn ông”
“đôi mày to mạnh, chưa cứng rắn như mày đàn ông, còn sót lại chút óng tơ của
mi tuổi nhỏ, cái mũi thẳng, miệng đẹp đẽ tươi cười, dưới cằm đã lộ chiều quả
Dường như vẻ đẹp cường tráng, sức thanh xuân của tuổi trẻ của người
quyết” (Đẹp trai).
trai trẻ được Xuân Diệu cảm nhận bằng chính những biến đổi trải nghiệm qua
thời trai trẻ của ông và những xúc cảm mà ông đã từng được chiêm nghiệm.
Vì thế con người trẻ không phải hẳn là họ có tuổi trẻ. Xuân Diệu còn đưa ra
một quan niệm và cách hiểu sâu xa, thấm thía hơn rất nhiều. Ông lý giải vẻ
đẹp của con người không hẳn là ở tuổi trẻ mà vẻ đẹp là ở sự sống.
Xuân Diệu cho rằng tuổi thanh xuân là tuổi đẹp nhất trong mỗi cuộc
đời con người. Quý mỗi giây, mỗi phút cuộc đời nên hòa trộn trong tâm hồn
đầy chất thơ ấy là sự quan sát, theo dõi từng bước phát triển của cơ thể con
người và ông thấy cái đẹp và cái mạnh trong mỗi con người cứ lớn dần theo
năm tháng, một quy luật tất yếu của tự nhiên, vẻ đẹp trẻ trung ấy sẽ một đi
không trở lại.
“Mười bốn tuổi chỉ là một thằng con nít; mười sáu tuổi còn rụt rè như
con gái; mười bảy, rồi mười tám, lúc ấy hơi dương mới ấm áp như mùa xuân
mới về. Bước sang mười chín đêm tan, rõ ràng là một buổi rạng ngày…rồi
sang hai mươi…; hăm hai rực rỡ hoàn toàn; hăm bốn: cái đẹp hóa thành cái
77
manh, hăm sáu: đó là tuổi một người đàn ông” (Đẹp trai).
Vẻ đẹp cường tráng của tuổi thanh xuân được kết tụ ở hình tượng nghệ
thuật vừa mang hơi dương ấm áp của mùa xuân, vừa đẹp rực rỡ, như ánh mặt
trời. Cuối cùng Xuân Diệu đưa ra một kết luận: “người con trai đẹp như chim
kêu, có mặt trời súc tích ở trong cửa sổ…con trai đẹp giòn; núi khảng khái,
không lả lướt bằng sông…người con trai đẹp là sống”. Ca ngợi cái đẹp ở tuổi
sung sức ấy Xuân Diệu thấy thân thể con người còn là “một tòa thiên thể, một
lầu sức lực” và ông nói rõ thêm “nghĩa là một kho khoái trá” (Thân thể). Vậy
là với Xuân Diệu tuổi mười chín, hai mươi là tuổi để con người hào hứng
bước ra cuộc sống và hưởng thụ mọi cái đẹp cùng sự lạc thú trong đời.
Như vậy, trong quan niệm của Xuân Diệu cái đẹp nhất của cuộc đời
con người là tuổi thanh xuân và chính ở tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại ấy,
con người thể hiện một vẻ đẹp hoàn thiện cả về hình thể và sự phong phú
trong tâm hồn.
Không chỉ chú ý ca ngợi vẻ đẹp đầy nam tính của người con trai, một
lần nữa ta lại thấy những lời say sưa ca ngợi vẻ đẹp đầy nữ tính của người con
gái. Xuân Diệu nâng niu, trân trọng, sánh ngang nó với vẻ đẹp của thiên
nhiên: “con gái đẹp như hoa, con gái đẹp mềm mại, con gái đẹp như bướm
lượn, có uyển chuyển mà không có reo ca” (Đẹp trai).
Mê cái đẹp, say cái đẹp, Xuân Diệu ca ngợi cái đẹp ở nhiều góc độ khác
nhau và ta cũng như được thấy hình ảnh của chính tác giả: “Nhà thi sĩ ấy là một
chàng trai trẻ, hiền hậu và say mê, tóc như mây, vương trên đài trán thơ ngây,
mắt như bao lưu luyến mọi người và miệng cười mở rộng như một tấm lòng ân
ái…” [25,200]. Với Xuân Diệu tuổi thanh xuân đẹp biết bao, nó chứa đựng niềm
vui và hứa hẹn cho những ngày hiện tại. Vì thế ở Xuân Diệu, gắn bó với cuộc
đời là gắn bó với tuổi thanh xuân, nó là “xuân vĩnh viễn” “xuân không mùa”.
Văn xuôi trữ tình Xuân Diệu không nói nhiều đến tương lai cũng không
tìm về quá khứ mà luôn thiết tha với hiện tại, với cái bây giờ. Sự thiết tha với
hiện tại của Xuân Diệu như một dòng cảm xúc chảy tràn trên những trang văn
của ông. Hiện tại trong quan niệm của Xuân Diệu đó là những gì đẹp nhất, rực
78
rỡ và viên mãn nhất. Vì thế, ông nhìn hai bàn tay tinh hoa của hai cánh tay, như
đôi cánh thiên nhiên, sinh động duyên dáng như cánh bướm, cánh hoa : Một đóa
linh động. Đóa hoa thần diệu! Biết xòa ra, khép vào và cầm nắm, mơn
man…đập như cánh chim…” (Đôi bướm). Hơn thế nữa Xuân Diệu còn nhìn
cuộc đời với đôi mắt thật lãng mạn, nhìn những đóa hồng nhung thành những
cặp môi hôn và gọi là những “đóa hôn” (Đóa hồng nhung). Rõ hơn bất cứ nghệ
sĩ lãng mạn nào, Xuân Diệu rất quý vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của sự hòa
nhập thiên nhiên với con người và cuộc sống. Xuân Diệu muốn sống mãi với
tuổi trẻ, tình yêu và mùa xuân. Ông muốn níu màu hiện tại, thiết tha với hiện tại,
ca ngợi hết cái thời đáng sống ấy chỉ có ở trong cuộc đời thực.
Ca ngợi cái đẹp thể hiện niềm thiết tha với thực tại nhưng Xuân Diệu
luôn nhận thấy tuổi trẻ rồi cũng qua đi vì “ thời gian cứ đẩy sau lưng, cuộc đời
kéo trước mặt”…“thời gian lạnh lắm cái gì vào đó mà còn được đâu”. Ông
luôn lo lắng nhận ra từng giây, từng phút thời gian gian đang mau chóng lấy
đi cái đẹp: “cái đẹp mau biến hóa lắm thay”, nên Xuân Diệu càng thiết tha với
nó muốn nó tồn tại mãi trước sự trôi chảy của thời gian, ông luôn luôn vội
vàng giục giã “gấp đi em, mau đi em” (Giao lại).
Ca ngợi cái đẹp như một chủ đề lặp đi lặp lại trong văn xuôi Xuân Diệu
thời kì này. Viết theo mạch cảm xúc nên văn xuôi của ông thường đắm chìm
trong tâm trạng ngẩn ngơ, nuối tiếc vẻ đẹp hiện tại. Ông kêu gọi “và các anh,
các bạn, sao không ráng lùi lại thời kỳ tự phá, giữ lại cho lâu những bắp thịt
của ngực nở, của tay cứng, của chân vâm! Ta sẽ thấy chán chường, ta sẽ già”.
(Thân thể)
Ước ao thời hiện tại đừng qua đi, để cho tuổi của sự hùng dũng còn mãi
và những bắp thịt của ngực, của tay còn mãi, để “tuổi trẻ chẳng bao giờ thành
tuổi già”. Nhưng đó chỉ là ước muốn không thể thành hiện thực vì thời gian sẽ
chẳng chiều được lòng thi nhân, tuổi trẻ rồi cũng đi qua, “như đã tàn rồi, không
trở lại nữa”. Nhận thức rõ ràng điều đó nên Xuân Diệu không trốn chạy cuộc
sống mà bám riết vào cuộc sống trần thế, đem hết mình ra để mà sống. Chính
những dòng này, tư tưởng này bộc lộ rõ hơn ở đâu hết điều làm nên sự phong
79
phú đến tràn đầy, sự tươi mới đáng ngạc nhiên của hồn thơ Xuân Diệu. Ở Xuân
Diệu cuộc sống quý giá vô ngần, phải sống thể nào với hiện tại để từng giây phút
trôi qua, không phải nuối tiếc ân hận. Muốn tận hưởng cái đẹp, tận hưởng một
cách trọn vẹn hạnh phúc ở đời, con người cần trẻ trung khỏe mạnh, cả về thể xác
lẫn tâm hồn, phải thức nhọn mọi giác quan mà “say”, mà “thâu” mà “ôm” trọn
cái đẹp của cuộc đời vào tấm lòng trẻ trung của mình bởi tuổi trẻ là tối cao.
2.5.2 Quan niệm về sự sống
Với Xuân Diệu, “sự sống chẳng bao giờ chán nản” từ thơ đến văn xuôi, ông luôn thể hiện cái tôi trữ tình, khao khát được giao hòa, giao cảm, gắn kết với cuộc đời, đồng thời phải sống hết mình với nó.
Luôn bám riết lấy sự sống nên cuộc sống trong sáng tác của Xuân Diệu
phải là cuộc sống mạnh mẽ của một con tim tràn đầy, nóng bỏng, căng phồng
niềm khao khát sống, thèm sống, được sống: “con người ấy uống cạn một
cách vồ vậy cái ly tràn đầy sự sống”. Yêu đời ham sống, ông luôn tìm kiếm và
phát hiện cho được cái đẹp và niềm vui trong cuộc sống.
Những quan niệm về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc như trên
là những biểu hiện cụ thể, thiết yếu của cuộc sống con người. Nói đến sự sống,
Xuân Diệu không nói đến một sự sống chung chung mà là sự sống của một cá
thể con người. Không những thế, sự sống còn được thể hiện trong cái cõi sống
của con người. Và bao trùm lên tất cả, đó là sự sống trên thế giới này.
Toàn bộ sự nghiệp văn học của Xuân Diệu có một tư tưởng chi phối,
đó là niềm khát khao, giao cảm với cuộc đời, và đó cũng là triết lý sống của
ông. Cho nên, nếu thơ là nguồn cảm hứng tất bật giúp ông làm chiếc cầu nối
giao cảm trực tiếp với cuộc đời trần thế, Xuân Diệu muốn thả tâm hồn sôi nổi
và tinh tế của mình để tìm đến với những tâm hồn bè bạn, ở mọi chân trời góc
bể, ở mọi thế hệ, ở mọi thời khắc thì các sáng tác văn xuôi lại giúp Xuân Diệu
có được mảnh đất phì nhiêu, màu mỡ để cắm rễ sự sống được thiết tha hơn,
tận hưởng hơn. Có lẽ, trong các nhà Thơ mới chưa có ai bộc lộ lòng ham sống
đến mức thiết tha, cuồng nhiệt như Xuân Diệu:
80
“Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời”
(Hư vô)
Với ông, cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta biết sống mạnh
mẽ, “Sống toàn tim! Toàn trí! Sống toàn hồn! sống toàn thân! Và thực sự
nhọn giác quan”. Không phải ngẫu nhiên mà trong thơ Xuân Diệu đầy ắp
những từ “sống”, “sự sống”, “sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ chất chen
kho mộng chắc với tình bền”. Vì thế, trong văn xuôi, Xuân Diệu không chịu
sống bình thường, tầm thường. Con người Xuân Diệu gắn bó mật thiết sâu
nặng với đời, bám riết vào sự sống. Một trái tim đa cảm, khát sống và yêu quý
sự sống, song với Xuân Diệu, cái tôi cá nhân phải được tồn tại một cách đầy ý
nghĩa trong cuộc sống. Đó là ý tưởng mà Xuân Diệu kiên định theo đuổi suốt
cả đời mình, Ông khẳng định sự sống của cái “tôi” ấy trong quan hệ hòa hợp
với đời. Có thể nói, suốt cuộc đời Xuân Diệu là một cuộc hành trình đi tìm sự
đồng điệu trong tâm hồn người với đời, nhưng hành trình ấy không phải là
đứng đợi mà là cuộc tìm kiếm say mê và không ít đau đớn.
Trong cuộc tìm kiếm đó Xuân Diệu đã rút ra cho mình một quan niệm
sống đẹp, sống hết mình cho cuộc sống, thể hiện khát vọng sống nhiệt thành,
mãnh liệt cao độ, không chấp nhận cuộc sống lạnh lùng, hờ hững, mờ mịt,
đơn điệu.
Xuân Diệu tìm thấy mạch nguồn của sự sống ngay trong chính hiện tại,
trong từng giây phút ta thở và trong từng thời khắc ta sống. Cái đẹp của cuộc
đời chính là được sống và sống sao cho có ý nghĩa ở đời. Vì thế ông đưa tư
tưởng và triết lý về cuộc sống của mình thông qua hình tượng các nhân vật
trong Tỏa nhị kiều. Hai nàng Quỳnh và Giao là hai con người. Họ sống nhưng
lại không phải là sống bởi họ “là hai cái cây, họ ngây ngây, thơ thơ” (chứ
không được ngây thơ), họ lặng lẽ và ngơ ngác, “ấy là hai hột cơm”.
Nếu hiểu một cách nào đó thì cuộc đời của họ cũng có bi kịch. Bi kịch
ở chỗ không sao thoát khỏi cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt tù túng của chính
mình. Hay có thể nói họ chết chìm trong chính cuộc sống mà chính họ tạo ra.
81
Một cuộc sống chẳng có điều gì để đau buồn, chẳng có điều gì để mơ ước để
hy vọng. Họ không thay đổi, không buồn thay đổi mà cũng chẳng thể thay đổi
cái nhịp điệu tẻ ngắt đến phát sầu như thế.
Mà bản thân trái tim luôn khao khát yêu đương, luôn đập nhịp đập đến
cháy bỏng với cuộc đời như Xuân Diệu thì không thể chấp nhận điều đó.
Cuộc sống đơn điệu tù đọng của hai cô gái, hai nàng Kiều là cuộc sống không
có linh hồn. Xuân Diệu muốn, Xuân Diệu ước, Xuân Diệu thầm mong “giá họ
đàng điếm, hung dữ, trơ trẽn, lẳng lơ thì tôi sẽ vui khi thấy họ có việc” đằng
này họ “ngồi trong một buổi chiều rất đỗi ngẩn ngơ, một buổi chiều triền
miên của sự vật và linh hồn. Một buổi chiều trong nhà và trong tâm lý” (Tỏa
nhị kiều).
Và cách miêu tả của ông về cuộc sống của Quỳnh, Dao, Phan và
những con người ấy chính là cách mà Xuân Diệu đã đứng lên tuyên chiến
môt cách quyết liệt với lối sống “mòn” và cái cảm giác “đìu hiu của cái ao
đời bằng phẳng”.
Vì thế, Xuân Diệu thương, thương thay cho hai cô, cho cái ao đời bằng
phẳng vô vọng vô nghĩa lý của hai cô. Chỉ qua hình mẫu hai nàng Kiều ấy thôi
nhưng ý nghĩa nhân văn thì vô cùng sâu xa mà triết lý nhân sinh về cuộc đời về
con người mới thật sâu sắc. Chúng tôi đánh giá cao Xuân Diệu ở chỗ, chính
ông chứ không phải ai khác đã cất lên một tiếng nói về cách sống về “phương
pháp” sống trên đời. Cuộc sống bên ngoài thật sôi động và rộn ràng sẽ không
thể có những con người thờ ơ, sống hoài sống phí đến như vậy.
Ông khao khát trái tim luôn được đốt cháy lên bằng ngọn lửa tình yêu
cuộc sống. Vì thế, ngay từ khi còn rất trẻ, chàng trai Xuân Diệu đã tuyên
chiến một cách quyết liệt với lối sống “mòn” mà ông đã hình ảnh hóa là “Nỗi
đìu hiu của cái Ao đời bằng phẳng” (Tỏa nhị Kiều). Xuân Diệu lớn tiếng bộc
lộ triết lý sống của mình:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Đây quả là một thái độ nhân sinh tích cực. Thái độ dứt khoát không
82
chấp nhận lối sống tẻ nhạt, đơn điệu, mù tối, vô danh vô nghĩa, một cuộc sống
kéo dài lê thê, trì trệ. Đó không phải sống mà là sự tồn tại sinh học! “Một phút
huy hoàng” đó không phải chỉ để thỏa mãn cái “tôi” khép kín, chỉ biết cho
mình. Nó toát lên một khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng được giao hòa,
cảm thông. Bởi không thì cuộc đời sẽ “buồn le lói” biết bao nhiêu! Cho nên,
nhà thơ trải đi những hạt “Phấn thông vàng”, “gửi hương” của lòng mình
“cho gió” bốn phương với mong mỏi đến được với những tâm hồn đồng điệu,
đồng cảm...
Như một tất yếu, con người khát vọng, khát yêu, khát khao giao cảm ấy
đã trở thành một nhà thơ tình, một nhà thơ tình mà cho đến nay, sau cả thế kỷ
nào ai đã vượt qua! Bởi một sự thật là trên đời này có gì khiến cho con người
cảm thấy được sống đầy đủ, ý nghĩa và mãnh liệt bằng tình yêu! Hơn nữa, có
gì tuyệt vời, có niềm giao cảm nào làm ngây ngất chính con người bằng tình
yêu! Xuân Diệu không bằng lòng với thứ tình yêu mờ nhạt bằng cách huy
động cả tâm hồn lẫn thể xác, mọi giác quan để tận hưởng nó, đến mức độ ham
hố, vồ vập luôn “thèm muốn vô biên tuyệt đích”. Có thể nói, đây là lần đầu
tiên ở Việt nam, tình yêu được quan niệm một cách táo bạo nhưng chân thành
và mới mẻ đến thế. Tình yêu đó vừa trần tục nhưng cũng lại vừa lý tưởng, bởi
nó đòi hỏi sự giao hòa một cách tuyệt đối giữa hai tâm hồn, hai cá thể con
người bằng xương bằng thịt.
Trong quan điểm sống của Xuân Diệu thời kỳ trước cách mạng bộc lộ
rõ triết lý hưởng thụ. Trong các sáng tác văn xuôi, Xuân Diệu cũng gửi gắm
khát vọng hưởng thụ này. Ở truyện Người học trò tốt (trong tập Phấn thông
vàng), Xuân Diệu đã sáng tạo nên hình tượng một cậu học trò chăm chỉ - ông
Huyện Tư. Tư đã “bóp nghẹt thương nhớ”, “bóp nghẹt thanh xuân”, trước
mọi thú vui. Và rồi, ngày trở thành ông huyện Tư cũng là ngày anh “hết muốn
mọi thứ”, “ái tình đã ngoan ngoãn vâng theo chịu nén bề, đã tàn rồi, không
nở lại nữa”. Trước hiện thực ấy, Xuân Diệu buông những lời ngán ngẩm:
“Thanh xuân đã qua bên cạnh chàng... và khi chàng thành công là lúc chàng
thất bại hẳn”. Bởi cuộc đời này buồn chán hơn, vô nghĩa hơn khi người ta
83
không có tình yêu, không biết yêu...
Như vậy, trong quan điểm về lẽ sống và cách hưởng thụ cuộc sống của
Xuân Diệu, chúng ta còn nhìn thấy khao khát của bản thân Xuân Diệu và
những người thanh niên tri thức “thế hệ 1930” ấy. Họ có một sự thức tỉnh về
ý thức cá nhân lớn hơn với nhu cầu tự khẳng định mình, tìm lấy chỗ đứng
84
trong xã hội.
Chƣơng 3
TRUYỆN NGẮN XUÂN DIỆU NHÌN TỪ MỘT SỐ
PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1 Kết cấu
3.1.1 Khái niệm kết cấu
Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những
chỉnh thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận...Tất cả những yếu tố, bộ
phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó
nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất định...gọi là kết cấu. Nói cách
khác, kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của tác phẩm
văn học. "Kết cấu là phương tiê ̣n cơ bản và tất yếu củ a khái quát nghê ̣ thuâ ̣t , đảm nhiê ̣m các chứ c năng rất đa da ̣ng : bô ̣c lô ̣ tốt chủ đề và t ư tưởng của tác phẩm; triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện ; cấu trú c hơ ̣p lý hê ̣ thống tính cách; tổ chứ c điểm nhìn trần thuâ ̣t củ a tác giả ; tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là mô ̣t hiê ̣n tươ ̣ng thẩm mỹ ; [24,131-132]. Mô ̣t kết cấu nhuần nhi ̣, hài hòa sẽ trở thành một phương tiê ̣n nghê ̣ thuâ ̣t đắc du ̣ng góp phần thể hiê ̣n bề sâu, tầng sâu nô ̣i dung tác phẩm và tài năng , phong cách củ a nhà văn. Như vâ ̣y, kết cấu củ a truyê ̣n ngắn trữ tình là mô ̣t phư ơng diê ̣n nghê ̣ thuâ ̣t cho phép các nhà văn đi sâu khá m phá đờ i sống bên trong củ a con ng ười một cách đầy đủ sâu sắc mà đô ̣c đáo.
Kết cấu tr ước hết là một yếu tố của hình thức nên vai trò của nó đ ược
dung như
thể hiê ̣n trong viê ̣c thực hiê ̣n nhiê ̣m vu ̣ đối vớ i các yếu tố củ a nô ̣i chủ đề, tư tưởng, tính cách, cốt truyê ̣n và các yếu tố ngoài cốt truyê ̣n . Xét đến cùng, kết cấu tuân thủ những yêu c ầu tối cao củ a nô ̣i dung mà nó thể hiê ̣n . Là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác p hẩm, kết cấu không chỉ là sự tiếp nối bề mă ̣t tổ chứ c các bô ̣ phâ ̣n chư ơng, đoa ̣n mà bao hàm sự liên kết bên trong, là nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm
Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Nếu khái niệm cốt truyện
85
nhằm chỉ sự liên kết những sự kiện, hành động, biến cố...trong tác phẩm tự sự
và kịch thì kết cấu là một khái niệm rộng hơn nhiều. Nó cũng không phải là
bố cục. Bố cục là sự sắp xếp các phần, các chương, các đoạn, các khổ
thơ...Ðây chỉ là sự tổ chức hình thức bên ngoài của tác phẩm. Nói cách khác
bố cục mới chỉ là kết cấu bề mặt của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu rộng và
phức tạp hơn nhiều. Bên cạnh việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố của tác phẩm,
kết cấu còn bao hàm sự liên kết bên trong, những mối liên hệ qua lại giữa các
yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm, trong đó có cả yếu tố của
bố cục.
3.1.2 Kết cấu trong truyện ngắn trữ tình của Xuân Diệu
Trong các loại kết cấu, khảo sát trong truyện ngắn của Xuân Diệu có thể
nhận thấy: Hầu hết truyện ngắn Xuân Diệu đều được cấu từ từ hình thái của
truyện ý tưởng có kết cấu tâm lý; kết cấu theo dòng tâm trạng của nhân vật trữ
tình. Đây là sự sáng tạo độc đáo của Xuân Diệu. Nói là sáng tạo bởi thời bấy
giờ đã mấy ai viết loại truyện ngắn này. Ông không đi theo kiểu truyện mà các
nhà văn thường thể hiện. Truyện theo một ý nghĩa thông thường là loại “tác
phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó – qua con người,
hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể truyện nào đó”. Các truyện của
Xuân Diệu viết “không theo phép cũ” tức là không theo những quy định
nghiêm ngặt của tác phẩm tự sự truyền thống. Và ông gọi đó là “lối tiểu thuyết
ý tưởng (roman á idées)”. Xuân Diệu có chủ kiến khi sáng tác loại truyện này.
Ông viết “Ở lối truyện ý tưởng, truyện là một cái cớ để cởi mở tấm lòng” [2,8].
Và với hình thái truyện ý tưởng, với kết cấu tâm lý, Xuân Diệu đã dễ
dàng hơn trong việc trình bày các quan điểm, tư tưởng của mình.Trong tất cả
các truyện của mình, điều mà Xuân Diệu quan tâm không phải là câu chuyện
diễn ra như thế nào mà là ông đã nghĩ về nó ra sao. Các sự kiện, nhân vật,
tình tiết đều được xây dựng, khắc họa sao cho có thể phô diễn một trạng
huống nhân thế nhất định. Ông luôn luôn chọn một cách đi, một điểm nhìn
phù hợp để dẫn dắt người đọc vào niềm cảm xúc mà ông gửi gắm trong tác
86
phẩm.
Tác phẩm của Xuân Diệu được thể hiện dưới nhiều dạng thức: hoặc là
trực tiếp đề cập tới trạng huống tinh thần nhân thế, hoặc là gián tiếp thông
qua một câu chuyện hết sức đơn sơ. Các trạng huống nhân thế ở đây cũng
hết sức đa dạng: nỗi buồn, tình thương, sự cô đơn, sự thất vọng và hy vọng,
sự vùng vẫy hướng tới một cách sống mạnh mẽ; sự khao khát được chia sẻ
với đời và được đón nhận: sự hướng tới cái đẹp và đặc biệt là sự phân tích
mổ xẻ, lí giải, phát hiện các trạng thái của tình yêu.
Liên kết tất cả những trạng huống ấy trong tác phẩm Xuân Diệu là dòng
tâm trạng, là mạch cảm xúc mãnh liệt của cái “tôi” Xuân Diệu mà chúng tôi
gọi là kết cấu theo dòng tâm trạng của nhân vật. Dòng tâm trạng đỡ nâng, gắn
kết những mảnh đời những trạng huống tinh thần lại với nhau, tạo nên tính
mạch lạc, tính chỉnh thể của văn Xuân Diệu. Một “ít chuyện đời” nếu có thì
chỉ như “cái giá”, “cái giàu” được bố trí trước sau sao cho phù hợp để dòng
tâm trạng được tuôn chảy dễ dàng, tạo nên chất thơ trong văn xuôi Xuân
Diệu.
Đặc điểm của loại truyện ý tưởng là không có cốt truyện rõ ràng. Xuân
Diệu tự bộc lộ “Xin đừng tìm trong Phấn thông vàng” những truyện có đầu
đuôi, có công việc, có sáng hôm trước và chiều hôm sau. Ở đây chỉ có một ít
đời và rất nhiều tâm hồn, hợp lại thành bao nhiêu nghĩ ngợi bâng khuâng,
không cốt để giải trí người ta, mà trái lại, để xui trí người thêm bận vẩn vơ,
lưởng vưởng” [2,7]. Như vậy, truyện của Xuân Diệu không có cốt truyện rõ
ràng và cả nhân vật cũng được xây dựng nhằm để thể hiện cho một “ý tưởng”
chủ quan nào đó của tác giả. Chính bởi đặc điểm này mà nhà nghiên cứu
Nguyễn Đặng Mạnh, khi đánh giá Phấn thông vàng và Trường ca, cho rằng:
“Cả hai tác phẩm đều mang đậm một đặc tính chung: tính trữ tình” [76,98].
Đọc những truyện ngắn của Xuân Diệu, ta sẽ không tìm được những
xung đột, mâu thuẫn gay cấn có tính chất xã hội. Ở đây chỉ có một ít cảnh đời
nhưng lại có nhiều tâm hồn quây tụ lại. Nó thuộc về những nỗi niềm thầm kín
trong lòng, khiến ta thấy vẩn vơ, ta chỉ cảm nhậm mà không thể nhìn thấy
87
được. Thường trong các câu chuyện, Xuân Diệu chú trọng đến việc mình nghĩ
về nó ra sao chứ không để ý đến việc nó diễn ra như thế nào. Nghệ thuật là ở
chỗ ông rất khéo chọn cho mình một hướng mở, một điểm nhìn phù hợp để
dẫn dắt người đọc hòa vào cảm xúc, vào cái điều mà ông muốn tự bạch trong
tác phẩm.
Trong các truyện Thương vay, Tỏa nhị Kiều, dòng cảm xúc của tác giả
nhập vào nhân vật “Tôi” để được thương cảm cho tình cảnh của nhân vật.
Đứng trước cuộc đời hai cô gái Quỳnh, Giao, hai sự “như không”, tác giả mở
rộng liên tưởng họ như những vật vô tri, vô giác...Và cuộc sống thật đáng
buồn, đáng thương của hai cô gái được tác giả liên tưởng đến các cụ già yếu
ớt, đến cái nhạt nhẽo của ngày này tiếp ngày nọ. Đó là chi tiết làm cái cớ để
tác giả đan cài vào đó tấm lòng thương cảm vô hạn mà chính tác giả cũng thú
nhận: “tôi không thấy rõ duyên cớ, tôi chỉ thương mà thôi”. Qua những mảnh
đời nhạt nhẽo, mù tối và vô nghĩa ấy, Xuân Diệu muốn bày tỏ niềm xót
thương với những kiếp đời không biết sống mà đánh mất ý nghĩa của sự sống,
đồng thời bộc lộ một thái độ sống tích cực: dứt khoát không chấp nhận lối
sống tẻ nhạt, mù tối, vô nghĩa.
Ở trường hợp khác, người viết lại hóa thân vào nhân vật, đóng vai như
một người trong cuộc. Đó là nhân vật Siêu (Cái hỏa lò), là Hứa (Cái giây
không đứt), Sơn (Đứa ăn mày)... Chính nhờ nấp bóng dưới các nhân vật này,
tác giả có dịp bộc lộ được những tâm tư, suy nghĩ của mình, từ những việc
nhỏ nhặt, bình thường... đến những hoài niệm xa xăm, những nuối tiếc, day
dứt. Cũng có khi tác giả lại bộc lộ cảm xúc của mình một cách gián tiếp trong
vai người kể chuyện. Chẳng hạn như trong các truyện: Chú Lái Khờ, Người lệ
ngọc, Người học trò tốt... Và đáng lưu ý là truyện Phấn thông vàng. Câu
chuyện là những cảm xúc của một chàng trai trẻ triền miên trong nỗi buồn của
một kẻ luôn đơn phương trong tình yêu, một kẻ chẳng gặp may trong tình
duyên. “Nhưng chính tình yêu của loài cây xa xôi viễn vọng... không tính
toán” đã như một phép lạ nhiệm mầu giúp chàng vượt qua được chính mình,
tìm lại cái khát khao tình ái, cái sung sướng, hạnh phúc được sống trong tình
88
yêu đích thực. Qua hình tượng nhân vật chàng họa sĩ, tác giả đem đến cho
người đọc một quan niệm đẹp về một tình yêu chân chính của con người. Yêu
là đem hạnh phúc đến cho người, là không toan tính và không cần đền đáp...
như “tình yêu của loài cây xa xôi viễn vọng” kia.
Cũng có khi cảm xúc của Xuân Diệu lại được nhân hóa lên, nội tâm
hóa vào những đồ vật thiên nhiên. Đó là trường hợp truyện Hoa học trò. Xuân
Diệu mượn tình cảm và con mắt của lũ học trò mà miêu tả hoa phượng. Hoa
phượng vẫn như cảm nhận thông thường là biểu tượng cho mùa hè, mùa thi
cử, phượng thấu hiểu những tình cảm vui, buồn của tuổi học trò. Đến kì nghỉ
hè, lũ học trò phải tạm xa trường, phượng ở lại một mình. Phượng buồn,
phượng lim dim ngủ. Gió thổi qua, hoa phượng giật mình, một cơn mưa hoa
rụng. Hoa tàn theo tháng ngày, lần lượt lìa cành. Màu đỏ sẫm, mục nát trên
thảm cỏ, nhưng vẫn lưu luyến giành lại một chút vui vẻ bằng mấy bông
phượng cuối mùa để nói lời chia ly đầy cảm động: “Anh em học cho hay, hoa
phượng sẽ gặp lại các anh lúc cuối năm trong lời chia ly rẽ rời, và lại nói cùng
các anh cái tâm sự thiết tha của mùa hạ” (Hoa học trò). Trong trang viết của
Xuân Diệu, hoa phượng là thứ hoa “không thơm”, “chưa hẳn là đẹp”, nhưng
lại có “một linh hồn sắc sảo mênh mang”. Nó gắn với những vui buồn, vương
vấn của tuổi học trò và gợi biết bao hoài niệm về một thời cắp sách.
Tất cả những truyện ý tưởng của Xuân Diệu đều không có truyện mà
thường chất chứa những suy tư, cảm xúc của tác giả về một cảnh đời, một
mảnh đời hay những xao xuyến của lòng người...để từ đó khơi gợi lên trong
người đọc những trăn trở, nghĩ suy về sự sống, về tuổi trẻ cũng như nghệ
thuật. Truyện vì thế luôn được người đọc tiếp nhận như những thông điệp
giàu ý nghĩa triết lý nhân sinh.
Truyện ngắn của Xuân Diệu thiên về thể hiện cảm xúc, cảm giác tâm
trạng con người hơn là sự miêu tả thế giới khách quan. Để khai thác triệt để
thế giới cảm xúc, cảm giác tâm trạng, Xuân Diệu có tài đặt nhân vật vào các
tình huống truyện để khêu gợi tâm lý. Ở đây, nhà văn có vẻ khách quan khi
tạo cái cớ cho nhân vật giãi bày nỗi niềm tâm sự. Vì thế, tình huống truyện
89
góp phần thể hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của con người. Dĩ
nhiên, tình huống truyện còn góp phần làm nổi bật tính cách và bộc lộ cảm
xúc tâm trạng nhân vật. Điều này, ta có thể lấy bất cứ truyện nào cũng có thể
thấy rõ nghệ thuật tạo tình huống truyện của Xuân Diệu.
Trong truyện Giao lại, Xuân Diệu tạo ra tình huống tâm trạng cho nhân
vật “Anh” đứng trước cảnh phải chia tay với “Giang sơn tuổi nhỏ” đầy thơ
mộng, lưu luyến và bịn rịn. Xuân Diệu viết: “Giang sơn tuổi nhỏ, tôi buông ra
mà không muốn buông hẳn, lòng băn khoăn không biết những vưu vật của tạo
hóa, bạn sau tôi có biết giữ gìn chăng?”.
Tâm trạng nhân vật có sự giằng co, vui buồn, luyến tiếc, xót xa vì phải
rời xa cái thiên đường tuổi nhỏ - một thứ vườn trời đầy sự quyến rũ khi “mỗi
sáng mai, tung chăn đã nghe rạo rực tiếng mùa; chim hót trên cành gần cửa,
máu reo khắp cả tứ chi. Bừng mắt dậy, mà cả trời đất cũng bừng mắt dậy...”
Cuộc sống đẹp đẽ làm sao, nhưng người ta không thể ở mãi cái tuổi
mười lăm, mười sáu ấy được. Phải “Giao lại”, phải “nhường chỗ cho em đi
đến” một cách vui vẻ, tự nguyện: “thôi anh bước qua, giao lại cho các em,
giao lại cho các em; chúc các em muôn nghìn tươi đẹp!”. Tình huống “giao
lại” được Xuân Diệu dẫn dắt trong thế giằng co nhưng không thể “cưỡng lại”.
Sự dẫn dắt đó giúp người đọc nhận rõ hơn tâm tư của nhân vật, tâm trạng đó
được diễn giải vừa tự nhiên, vừa hợp logic.
Cũng tương tự, trong truyện Tỏa nhị Kiều, tác giả đặt nhân vật “Tôi”
vào tình huống là người hàng ngày chứng kiến cảnh sống nhạt nhẽo như
không của các nhân vật Quỳnh, Giao và Phan rồi để nhân vật bộc lộ những
thương cảm của mình trước cuộc sống của họ. Từ đó, người đọc nhận ra triết
lý về một cuộc sống nhạt nhẽo, bằng phẳng như cái ao đời tù đọng, một cuộc
sống không ra sống mà tác giả gửi trong tình huống truyện.
Cho nên, nhìn từ đặc điểm kết cấu tạo tình huống truyện, ta thấy trong
truyện của Xuân Diệu không xuất hiện những tình huống gay cấn, ly kỳ.
90
Truyện thường giản đơn, thưa thoáng, gọn nhẹ, ít sự kiện, nhưng lại giàu cảm
xúc, cảm nghĩ, tạo những tình huống để nhân vật có cơ hội bộc lộ suy nghĩ
cùa mình.
Chúng ta có thể tìm thấy ở văn xuôi Xuân Diệu nhiều trạng huống tâm
trạng; có khi chỉ đơn thuần là sự tả, có khi lại là sự lí giải, thậm chí là những
triết lý, có khi đi từ thất bại đến chiến thắng hoặc chỉ là sự chấp nhận tuân
thủ qui luật... để từ đó Xuân Diệu gửi đi những thông điệp khẳng định, ngợi
ca hay xót thương hoặc phủ định...Tất cả được cuốn vào mạch chảy của
dòng tâm trạng thường tuôn trào một hơi, một mạch suốt chiều dài tác phẩm
Như vậy, với cách tạo tình huống truyện đặt trong kết cấu theo kiểu tâm
lí; kết cấu theo dòng tâm trạng, nhân vật không được dựng nên bởi chuỗi các
sự việc chính xoay quanh nhân vật, biến cố, sự việc hay hành động mà chủ
yếu bằng diễn biến tâm lý, cảm xúc. Với Xuân Diệu, “truyện đời chỉ là cái cớ
để cởi mở những chuyện lòng. Đúng như ông đã nói, ở văn xuôi của ông, dù
là truyện cũng có rất “ít đời” nhưng bù vào đó là “rất nhiều tâm hồn” hợp
lại. Hầu như không có dấu ấn của thế sự, cái mà Xuân Diệu mang đến cho ta
là thế giới của niềm cảm xúc. Nó thuộc về tâm linh, nơi mà người ta dường
như chỉ cảm thấy mà không nhìn thấy
Qua kết cấu tâm lý; kết cấu theo dòng tâm trạng của nhân vật trong
các truyện ngắn của Xuân Diệu, chúng tôi thấy đây cũng là kết cấu được
nhiều tác giả trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 (Thạch Lam, Hồ
Dzếnh, Thanh Tịnh, Thanh Châu) sử dụng trong các sáng tác của mình. Nhờ
kiểu kết cấu này mà các truyện ngắn của họ thường có cốt truyện cơ bản, ít
nhân vật, hành động, số lượng nhân vật cũng không nhiều. Vậy mà chính
những truyện tưởng chừng đơn giản ấy lại làm rung động và ưu tư biết bao
thế hệ bạn đọc. Nhờ vào cách chọn được một kết cấu phù hợp đã tạo nên
những sức hấp dẫn lớn lao cho những truyện ngắn của Xuân Diệu nói riêng
và dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 nói chung.
3.2 Nhân vật
91
3.2.1 Nhân vật trữ tình mang yếu tố tƣ tƣởng
Vào thế giới truyện ngắn của Xuân Diệu trước cách mạng, người ta
thấy mỗi tác phẩm thường có một nhân vật trung tâm, thể hiện tư tưởng của
tác phẩm. Thông qua nhân vật này, tác giả trực tiếp phát biểu quan điểm của
mình về thế giới, thể hiện tâm trạng của mình trước những cảnh đời. Có thể
xem đây là nhân vật trữ tình duy nhất thể hiện tính chất độc thoại đầy chất
thơ của tác phẩm. Các nhân vật khác chỉ là những cái cớ, những cái bóng,
nếu không giữ vai trò làm nền cảnh thì cũng chỉ là nguyên nhân để nhân vật
trữ tình phát biểu những suy tưởng của mình.
Chính vì thế nhân vật nhiều khi là sự hóa thân của tác giả để trình bày
những quan niệm, quan điểm nhân sinh...Nhà văn thường gửi gắm vào nhân
vật của mình những suy tư, trải nghiệm, những đúc kết, nhận xét khái quát
thiên về lý tính, đậm màu sắc của một triết nhân.Nhân vật trong văn xuôi
Xuân Diệu không được xây dựng theo những nguyên tắc nghiêm ngặt như
trong tác phẩm tự sự truyền thống. Truyện của Xuân Diệu vì thế thiên về thể
hiện cảm giác, cảm xúc, tâm trạng con người cái tôi chủ thể trữ tình hơn là
miêu tả bức tranh xã hội...Cho nên, thế giới nhân vật trong truyện ý tưởng ít
hành động mà thường đi sâu suy nghĩ, hồi tưởng, liên tưởng...
Trong 24 truyện (17 truyện trong tập Phấn thông vàng và 7 truyện
trong tập Trường ca) Xuân Diệu đã tạo ra một thế giới nhân vật. Nét chung
của nhân vật trong văn xuôi Xuân Diệu là không giống nhân vật trong tác
phẩm tự sự “được khắc họa đầy đặn, nhiều mặt”. Song ở truyện ý tưởng, nhà
văn có nhiều lợi thế hơn khi không những làm nhiệm vụ của một nhà văn mà
còn cất lên tiếng nói của một triết nhân. Dòng cảm xúc, dòng ý tưởng là sợi
dây để nhà văn giăng mắc vào đó những “cảm niệm triết học” của mình khi
dẫn dắt nhân vật qua những sự kiện, biến cố...
Nhân vật trữ tình của Xuân Diệu xuất hiện dưới nhiều dạng thức. Có
khi là sự hóa thân của một nhân vật cụ thể, trong cuộc như Siêu trong Cái hỏa
lò, Hứa trong Cái dây không đứt, Sơn trong Đứa ăn mày... Có khi lại xuất
hiện gián tiếp trong vai người kể truyện như ở Chú Lái Khờ, Người lệ ngọc,
92
Người học trò tốt, Phấn thông vàng...có khi xuất hiện trong vai nhân vật tôi
như ở Giã từ tuổi nhỏ, Thư tình, mùa thu Thương vay, Tỏa nhị Kiều...Có khi
được nội hóa vào những đồ vật, hoặc thiên nhiên như ở Hoa học trò, Truyện
cái giường. Có khi tác giả trực tiếp mở lòng mình cho dòng cảm xúc tuôn trào
liên tục, sôi nổi như ở Lệnh, Trong vườn mơn trớn, Đẹp trai.
Chẳng hạn như chàng họa sĩ trong truyện Phấn thông vàng. Đó quả là
hình bóng của cái “tôi” Xuân Diệu. Chàng đã dâng hiến lòng mình cho ba mối
tình: “ba lần chở, ba lần mất, dốc cạn hết cả nhụy lòng”... “chàng thất tình như
một người triệu phú bỗng dưng chỉ còn hai bàn tay không” (Phấn thông vàng).
Đau khổ, thất bại đó dẫn đến những tác phẩm do chàng tạo ra cũng như vô hồn,
vô nghĩa. “Những tranh chàng vẽ, dẫu rằng đẹp, song không có tinh thần sự
sống, sắc màu không hồi hộp niềm yêu”. Và rồi sự tình cờ, ngẫu nhiên đưa
chàng đến với rừng thông. Chàng chứng kiến vẻ đẹp của rừng thông xa lạ kia,
chàng cảm nhận sâu sắc hơn điều này: “Tình yêu của loài cây xa xôi, viễn vọng
như thế, không tính toán gần gũi như của loài người”. Từ đó, chàng họa sĩ “đã
mở lòng nhận lấy bài học ngụ trong bài thơ của phấn thông vàng”. Bài học này
chính là của Xuân Diệu, mang tính chất triết lý, nhưng được nhân vật phát
ngôn. Chính bài học đó đã đem lại cho chàng họa sĩ cảm hứng sáng tạo. Chàng
“vội vàng chạy về quán trọ để rồi đi tìm lại cuộc đời, lăn vào sự sống mà yêu,
yêu mà cho, cho tất cả lòng tươi thắm của chàng, ba năm ròng chàng tưởng đã
cạn rồi, nhưng kỳ thực vẫn là một nguồn vô tận”.
Qua nhân vật họa sĩ, tác giả muốn bày tỏ một nguyên lý cơ bản của
sáng tạo nghệ thuật. Đó là chừng nào anh đánh mất tình yêu với cuộc sống,
với cuộc đời này thì chừng ấy anh chẳng có thể sáng tác được gì, nếu có thì
tác phẩm của anh cũng chỉ là sự lắp khép những câu chữ mà thôi. Phải thực sự
yêu, thực sự dâng hiến cho cuộc đời, không xin, không đòi lại, thoát ra khỏi
tính toán, vụ lợi, lúc đó tác phẩm của người nghệ sĩ mới như gió kia đưa
hương về muôn nơi, cho cuộc đời, như hoa thông kia đem tình yêu cho mọi
chốn, mọi nẻo, không hề toan tính vị kỷ. Ý nghĩa triết lý nhân sinh và ý nghĩa
93
nghệ thuật từ nhân vật họa sĩ là như vậy.
Theo Xuân Diệu, đã sinh ra trên đời mang lấy nghiệp “đa đoan” nghệ sĩ
thì phải “sống toàn thân và thức nhọn giác quan”. Người nghệ sĩ cũng như
phấn thông vàng, như Chú lái khờ. Chú là người giàu có nhưng không hề ham
hố, giữ gìn, không tiếc gì. Chú đã cho đời tất cả của cải. Từ hình tượng chú lái
khờ, Xuân Diệu muốn nói lên cái thiên chức nghệ sĩ của mình. Người nghệ sĩ
không thể đóng kín tâm hồn mà phải mở rộng để đón nhận và ban phát những
tình cảm tốt đẹp cho cuộc đời, cho mọi người, như chú lái khờ, hào phóng ban
phát ngọc vàng châu báu cho bốn phương.
Mến yêu cuộc sống, Xuân Diệu muốn thổi bùng lên khát vọng sống,
khát vọng hưởng thụ trong mỗi con người. Ông lên án cuộc đời buồn tẻ, nhịp
sống lê thê, lay lắt kéo dài trong những khuôn thước, quy định luân lý xưa cũ.
Cho nên, khi viết Tỏa Nhị Kiều và Người học trò tốt, Xuân Diệu muốn đem
đến cho người đọc một thứ triết lý nhân sinh là cách sống. Sống là cống hiến
và hưởng thụ. Hai phạm trù đó phải hài hòa. Cậu học trò Nguyễn Trung Tư
(Người học trò tốt) suốt đời học, lúc nào cũng đứng nhất, lúc nào cũng thủ
khoa. Cậu có một ý chí học đến kỳ lạ: “Chàng học trong ngày và trong đêm,
cả trưa và cả khuya”. Nhân vật này đối lập với hai nàng Quỳnh và Giao Tỏa
nhị Kiều. Hai cô là kiểu nhân vật chẳng có gì nổi bật, chẳng có niềm say mê
nào. “Hai cô không có việc gì làm”, “Không sắc, không duyên, và cũng không
có tiền, chỉ có hiền lành”. “Hai cô cũng hết vào lại ra”. Đối với hai cô, cái gì
đang đợi ở phía trước? Kết cục của câu chuyện Người học trò tốt cũng không
sáng sủa hơn. Đó cũng là một cái chết khi đang sống. Một cuộc sống chỉ tồn
tại sinh học, không biết tận hưởng niềm vui của cuộc đời. “Chàng tự đẩy
mình vào sự học hành, trong sự chinh phục ngôi thứ, bằng cấp, và chỗ làm; và
khi chàng thành công là lúc chàng thất bại hẳn”. Hai truyện ngắn, hai kiểu
nhân vật nhưng đều đi đến cùng một quan điểm triết lý nhân sinh của Xuân
Diệu. Đó là khẳng định giá trị đích thực ở đời này. Trong cuộc sống, con
người phải biết cách sống, biết cách tận hưởng những lạc thú tự nhiên vốn dĩ
94
của con người và rất người.
Ở Truyện cái giường, nhân vật nấp dưới số phận một cái giường, một
hình ảnh ẩn dụ về số phận của cuộc đời con người. Cái giường cũng bước
những thăng trầm của cuộc sống. “Xưa kia, tôi đẹp, tôi mới. Tôi lại đẹp nhất,
mới nhất, không một kẻ nào cùng loại có thể sánh được”...Cái giường trở
thành người bạn chí thiết của con người và chứng kiến hết thảy niềm vui, nỗi
buồn của con người. Ở đây, Xuân Diệu muốn ca ngợi ý nghĩa cuộc đời, ý
nghĩa sự sống. Ông muốn nhấn mạnh như một triết lý gửi vào nhân vật tượng
trưng này là lòng thương cảm cho cái giường. Chính cái giường, làm sân khấu
cho sự đổi thay. Cái giường như một chủ thể trữ tình, một nhân vật ý thức
được về ý nghĩa cuộc sống và cả sự đổi thay của lòng người. Mượn lời cái
giường. Xuân Diệu viết: “Mười bốn năm trời, đời của tôi chẳng mấy chốc mà
già với đời của người. Mọi vật đều thay bậc đổi ngôi, sự dâu bể của cuộc đời,
cho đến gỗ cũng phải chịu”. Đi tìm lời an ủi cho những số phận như cái
giường, kết thúc câu chuyện, Xuân Diệu bộc lộ một quan điểm của thuyết
luân hồi. Cái giường có khát khao được biến thành khói để bay về xứ sở rừng
xanh, nơi đã sinh ra nó: “Lửa hồng đâu? Ta nhớ rừng xanh! Ta nhớ đời cây!
Ta muốn về quê hương, quê hương chung của muôn vật muôn loài, ở đó tất cả
đều như nhau, không phân biệt gì nữa”...
Ở tác phẩm Đứa ăn mày, số phận của thằng Miêng được gợi ra qua ký
ức của anh trai nó. Và thực chất câu chuyện về đứa em xấu số bị nhà bỏ và
cũng bỏ nhà đi hoang là cách để Xuân Diệu đặc tả tâm trạng của Sơn, là tình
cảm của Sơn đối với đứa em mình.
Trong truyện Sợ, Xuân Diệu xây dựng một mối tình của hai nhân vật
Phi và Châu. Đây là hai cá tính nhưng có nét chung là lớp thanh niên lớn lên
trong nề nếp, chưa bị cái nhơ bẩn của cuộc đời làm hoen ố. Buổi đầu từ biết
đến yêu, “Châu và Phi đồng một niềm dịu dàng êm ái”. Nhưng rồi họ dần dần
xa nhau bởi đi vào ái tình, những quan niệm về tình yêu của Châu “Ái tình
như một sự tiến tới: Cho thêm, đòi mãi, yêu dấu thêm luôn” khiến cho Phi
“sợ”. Vì thế, Xuân Diệu viết “Tình yêu có mực thước bao giờ! Lúc nào người
95
ta cũng quá đáng”. Hai người vẫn yêu nhau nhưng cô gái không chấp nhận
tình yêu quá mãnh liệt của Châu. Bởi vì chỉ một nguyên nhân: “Nàng sợ, nàng
sợ...” Đối với Châu, “Chỉ biết rằng Châu đã được một bài học khôn, giá bằng
nước mắt”. Bài học đó là: Tình yêu chỉ có thể được duy trì, bền vững khi có
sự đồng cảm của hai trái tim và có được hay không là do quan niệm về tình
yêu của mỗi người. Câu chuyện vì thế không những hàm chứa một triết lý mà
còn ánh lên vẻ đẹp của một tứ thơ. Cho nên, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Mạnh có tổng kết: “...Văn xuôi Xuân Diệu là văn xuôi của một người làm
thơ, của một thi sĩ đầy kinh nghiệm. Đọc những áng văn của ông, thấy rất
nhiều kỹ thuật thơ được vận dụng”[72,104].
Cái dây không đứt là một bức thư tình thú vị, là tâm sự của một
chàng trai đang yêu, là cách chinh phục làm hòa sự giận hờn, tìm lại sự nồng
nàn trong tình yêu.
Tám bức thư tình, mùa thu “lại là cả một lớp tâm trạng của một chàng
trai đang yêu”. Từ cái thư lần đầu “sợ sệt và ngại ngùng như sẽ có điều
không hay xảy tới” cái ước mong được chấp nhận và cả sự không dấu được
lòng ta khi quyến luyến một người, có cả cái cảm giác “dài ghê gớm quá”
của sự chờ đợi... Có thể nói Thư tình, mùa thu mang theo chín bậc tình yêu”
đầy lo âu, hồi hộp, nhớ nhung, cả nỗi khát thèm được ngắm nhìn người yêu
“một chút” để thấy “nhiều chút đê mê”.
Thân thể cũng là tác phẩm chứa đầy khát khao đến với tình yêu bảy
chàng trai trẻ khi người ta có tuổi hai mươi.
Sợ lại một sắc thái riêng. Đó là đối lập giữa cái ào ạt, mạnh mẽ trong
tình yêu của Châu và sự sợ hãi không kịp, không thể đón nhận tình yêu của
Phi – một tâm hồn á Đông “chỉ có sự bình yên nghỉ ngơi...”
3.2.2 Nhân vật mang yếu tố tự truyện
Nhà văn Mỹ Thomas Wolf cho rằng: “Mọi tác phẩm nghiêm túc suy đến
cùng đều là có tính chất tự truyện, một người nếu muốn sáng tạo một cái gì
chân thực và có giá trị thì phải sử dụng kinh nghiệm và tài liệu trong cuộc sống
96
của mình” Quả thật, mỗi nhà văn khi cầm bút đều xuất phát từ nhu cầu giải
phóng tư tưởng và bộc lộ cái tôi cá nhân, bởi vậy có thể tìm thấy ở mỗi trang
viết những trải nghiệm, suy ngẫm và cái tôi rất riêng của ông ta. Nhà văn lấy
chính cuộc đời mình làm chất liệu trong sáng tác là chuyện vốn không xa lạ,
tuy nhiên tùy thuộc vào mục đích cũng như cách thức thể hiện để độc giả có
đọc tác phẩm như là tự truyện của nhà văn hay không. Mục đích của tự truyện
là tìm hiểu một con người có thật với lịch sử hình thành nhân cách, còn tiểu
thuyết, mặc dù cũng sử dụng nhân vật, cốt truyện đó nhưng được hư cấu hóa,
hoặc được cấp cho một lớp vỏ hư cấu.
Theo quy ước của Philippe Lejeune, người kể chuyện trong tự truyện
đồng nhất với nhân vật chính và đồng nhất với tác giả. Tuy nhiên, từ đời thực
đến cái tác giả kể lại, được viết ra đã là một khoảng cách, bởi vậy sự đồng
nhất tác giả - người kể chuyện - nhân vật chính trong tự truyện chỉ là tương
đối. Đó chính là những ký ức được lưu giữ về một thời kỳ đã qua từ trải
nghiệm một quãng đời của nhà văn. Có thể thấy, yếu tố tự truyện xuất hiện
thể hiện nhu cầu được bộc lộ cái tôi, ý thức phản tỉnh và khuynh hướng nhận
thức lại thực tại.
Xuân Diệu cũng là một trong những nhà văn có nhu cầu bộc lộ cái tôi
và ý thức phản tỉnh một cách rõ nét. Điều đó không có nghĩa là chỉ có một
mình ông mới có nhu cầu đó mà các nhà văn lãng mạn cùng thời cũng sử
dụng chất liệu là cuộc sống đời thực và phản ánh qua lăng kính chủ quan và
tác phẩm của mình.
Trong số các nhà văn lãng mạn thuộc dòng truyện ngắn trữ tình 1930-
1945 chúng ta có thể thấy Xuân Diệu có những nét khá gần gũi với Hồ Dzếnh
khi lấy chính “ đời thực, việc thực” để làm chất liệu cho tác phẩm của mình.
Nếu nhà văn của Chân trời cũ đem những hoài niệm của tuổi thơ, của
con người mang trong mình hai dòng máu Hoa- Việt, để luôn đau đáu nỗi tư
hương qua nhân vật người chị dâu của tôi, em Dìn…thì Xuân Diệu, trong một
tiểu luận mang tên Những bước đường tư tưởng của tôi (1958), Xuân Diệu
kể: ông là con một tú tài nho nghèo, dạy học, từ nông thôn chuyển dần ra
97
thành phố. Một chi tiết có ý nghĩa quan trọng hơn: ông là con vợ bé. Điều oái
oăm ở đây là lúc này, má ông vẫn ở với bà ngoại, còn Xuân Diệu cũng như
người em trai là Tịnh Hà (Ngô Xuân Sanh) thì ở với đại gia đình, tức bố (mà
ông gọi là thầy) và vợ cả của bố (mà ông gọi là mẹ). Bên ngoại cách bên nội
độ vài cây số; lâu lâu, bà má tội nghiệp mới được phép đến thăm hai cậu con
trai, mà cũng chỉ đứng ngoài cửa, chứ không vào nhà; rồi lại lâu lâu, hai cậu
con trai lại trốn về thăm má, thăm ngoại, cho đỡ nhớ thương. Hồi ký Tuổi trẻ
Xuân Diệu (do Tịnh Hà ghi) và cuốn sách Đi hoang của Tịnh Hà (cả hai chỉ
được xuất bản với một số lượng ít ỏi) cho biết: trong khi Xuân Diệu chọn con
đường cắn răng cam chịu, ngoan ngoãn sống với thầy mẹ, dồn tất cả tâm sức
vào học, vì biết rằng chỉ có học giỏi mình mới nên người, đền đáp xứng đáng
công ơn má là người đã rứt ruột đẻ ra mình thì Tịnh Hà uất ức, phẫn nộ, đã
phải bỏ cái đại gia đình kia để sống kiếp lang thang. Chính những năm tháng
tuổi thơ ấy cùng với những biến cố gắn với người em trai Tịnh Hà mà Xuân
Diệu đã kể lại trong truyện Đứa ăn mày. Nỗi niềm của Sơn- nhân vật trong
truyện cũng chính là tâm sự và nỗi niềm của một người anh như Xuân Diệu.
“Thằng Miêng cũng chỉ là một con chó hoang hay một con mèo hoang.
Sơn biết thế rõ lắm. Mỗi lần thấy dáng bộ thất thơ không cửa không nhà của
một con mèo hay con chó, Sơn lại thương thằng Miêng, đứa em xấu số, bị nhà
bỏ, và cũng bỏ nhà, đi hoang. Truyện dài lắm. Dài lắm lắm. Sơn không dám
nhớ lại. Những sự khổ xúc xích với nhau thành một cái vòng luẩn quẩn, sờ
đến khâu này, tức nhiên động tới khâu kia. Chỉ biết rằng bọn chó mèo hoang
làm cho Sơn đớn đau: chúng động tới những hình ảnh tồi tàn, thất thiểu của
thằng Miêng, những kỷ niệm mà Sơn gắng đẩy vào một chỗ vắng vẻ, quên
lãng nhất của lòng mình.”(Đứa ăn mày ).
Ở một nét nào đó trong Chó mèo hoang, chúng ta thấy bóng dáng hình
ảnh em trai Tịnh Hà được Xuân Diệu khắc họa qua nhân vật thằng Được:
“ Đã mấy lần, Sơn nghe thằng Được cau có. Bởi vì mèo ăn hết cơm,
hết cá, hết phần của nó đi. Nó ăn sau nên nhà trên ăn còn thừa món gì, thì mèo
đã hưởng trước nó, đến lúc nó bưng xuống thì bao nhiêu đĩa đã sạch bong”
98
(Mèo hoang)
Cái tình cảnh của thằng Được trong phận tôi đòi, đứa ở trong truyện
có nét giống với những gì mà Hữu Nhuận đã kể lại về Tịnh Hà: “Ở nhà mẹ
lớn, Tịnh Hà trở thành một thứ đứa ở, ăn mặc thiếu rách và luôn luôn được
“dạy dỗ” bằng nhiều hình phạt nặng nề…”[42,30].
Bạn đọc nào đã cầm trên tay tập truyện Phấn thông vàng thì không thể
bỏ qua được truyện Cái hỏa lò. Đây có thể coi là một trong những truyện
chứa nhiều yếu tố tự sự cũng như có cốt truyện tương đối rõ ràng mang nhiều
yếu tố tự truyện về chính tuổi thơ của Xuân Diệu:
“Mẹ của Siêu, Siêu gọi bằng má. Má Siêu xa thầy Siêu, về bên ngoại ở,
Siêu con cá nhỏ giữa hai dòng nước, được về với má trong ít lâu…Khi lên
sáu, không biết trời dun dủi thế nào, tôi được rời nhà thầy tôi trong hai tháng,
về ở với má tôi, tại nhà bà ngoại.” ( Cái hỏa lò ).
Như đã nói ở trên, Xuân Diệu - vì là con phận lẽ, nên được thầy đưa về
sống với mẹ cả. Thỉnh thoảng, Xuân Diệu mới được về ở với mẹ đẻ của mình.
Vì thế ngay trong truyện, Xuân Diệu cũng đã nói rõ cho người đọc biết cái
tình cảnh ấy “ không biết trời dun dủi thế nào, tôi được…về ở với má tôi, tại
nhà bà ngoại”.
Và có lẽ cái tình cảnh, lấy chồng nhưng lại không ở với chồng, phải về
sống nhờ mẹ (bà ngoại Xuân Diệu) cũng được cảm nhận qua tâm hồn nhạy
cảm của cậu bé Siêu trong truyện- hay chính là hóa thân tự truyện của nhà văn
về tuổi thơ của mình:
“ Tôi bỗng nghe trong bếp có tiếng kình nhau. Chị Bốn tôi với má tôi
chứ còn ai. Chị Bốn là cháu ngoại cũng như tôi, song chị là của bà, hầu hạ bà
từ nhỏ đến lớn; má tôi là con, song không thiết bằng. Má đã lấy thầy tôi, xuất
giá sao chẳng tòng phu ? Má phải nể chị. Song má không né. Ấy thế mới bất
hòa. Cách suy nghĩ này thuộc về ngày nay, tôi đã lớn, nhớ lại chuyện xưa, xét
đoán lại…”(Cái hỏa lò).
Việc má về ở nhà bà nhưng lại không ăn chung cơm thịt, cơm cá với bà
và Siêu mà lại ở dưới bếp “ăn riêng” chút cơm với muối vừng mặn chát hay
99
chuyện má của Siêu gây hấn với chị Bốn vì tranh dùng chung chiếc hỏa lò
được cậu bé cảm nhận: “chắc má ức, má ghen, má xẳng xớm trong lòng, vì
thấy má rời nhà cửa rồi, không còn chặt chẽ bằng một người cháu ngoại” (Cái
hỏa lò). Tất cả nội dung, tất cả những chi tiết trong câu chuyện đều khiến
người đọc xúc động về một tuổi thơ với thân phận con lẽ mọn của Xuân Diệu.
Gắn với đó là những kí ức tuổi thơ của một đứa bé giàu tình cảm - một trái
tim giàu tình thương, tình yêu của Xuân Diệu.
3.3 Ngôn ngữ
3.3.1 Khái niệm ngôn ngƣ̃
“ Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng
của văn học. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình
chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm; nó cũng là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng
trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm…”[22,148]. M.Gorki cũng từng
nói “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất củ a văn ho ̣c ". Vì trong tác phẩm văn ho ̣c, ngôn ngữ văn ho ̣c là mô ̣t trong những yếu tố quan tro ̣ng nhất thể hiê ̣n cá tính sáng tạo, phong cách và tài năng nghê ̣ thuâ ̣t củ a nhà văn.
Ngôn ngữ trong tác phẩm nghệ thuật ngôn từ là một mã phức tạp được
cấu tạo nên từ hệ thống tín hiệu thứ nhất - ngôn ngữ tự nhiên. Khi tham gia
vào việc cấu thành tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, nghĩa là tín hiệu ngôn ngữ
đã có một chức năng thẩm mĩ, trở thành yếu tố tạo thành của hình tượng
nghệ thuật. Nói cách khác, nó trở thành tín hiệu thẩm mĩ có giá trị biểu đạt
mới. Hệ thống tín hiệu là cái chung. Sử dụng ngôn ngữ theo những mục đích
nhất định là cái riêng. Mỗi nhà văn do xu hướng, sở trường, thị hiếu, tập
quán, tâm lý xã hội, cá tính mà hình thành lối nói riêng. “Nếu tác giả không
có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả” [34-
115]. Sự độc đáo, đặc sắc không lặp lại của tất cả các yếu tố sáng tác, lối
nghĩ, lối cảm, lối thể hiện, cách sử dụng từ ngữ, ngữ pháp, kết cấu đoạn
mạch, thủ pháp tu từ tạo nên lời văn riêng của nhà văn. “Nó là cái đi chệch
của một cái toàn thể, hệ thống so với cái toàn thể của ngôn ngữ nói
100
chung”[34-153].
Dưới đây, chúng tôi tiến hành khảo sát và tìm hiểu sự vận dụng hệ
thống tín hiệu ngôn ngữ vào việc hình thành lời văn nghệ thuật của Xuân
Diệu ở cách sử dụng từ ngữ.
3.3.2. Cách sử dụng từ ngữ trong truyện ngắn Xuân Diệu
Trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, các nhà văn thường sử
dụng thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, mang tính hình tượng cao. Có thể nói,
bằng sức gợi tả cảm xúc, cảm giác thông qua hệ thống ngôn từ, các tác giả
của dòng truyện ngắn trữ tình đã mở rộng cánh cửa đi vào khám phá thế giới
nội tâm của nhân vật, soi chiếu và lý giải những rung động, những biến đổi
tinh vi trong đời sống tâm hồn con người, đồng thời mở ra những cánh cửa
khác đến với thế giới vạn vật xung quanh, thiên nhiên và cảnh vật.
Xuân Diệu là một trong những nghệ sĩ đi tiên phong trong việc giải
phóng từ ngữ khỏi những khuôn khổ chật hẹp của văn thơ truyền thống và
thổi vào đó làn gió mát của cái mới và sự cách tân. Vì vậy, Xuân Diệu rất có
ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ nhằm tăng giá trị biểu đạt cho những
sáng tác của mình. Quả như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nói “văn xuôi
trước Cách mạng của Xuân Diệu là "những áng văn thật đẹp, lời chau, ý
chuốt, chứa đầy chất thơ” [72,98].
Nhìn chung, những "lời chau ý chuốt" này được Xuân Diệu xây dựng
hầu hết bằng những từ thuần Việt. Ông rất ít sử dụng những từ Hán Việt, chỉ
có rất ít trường hợp có lẽ không chọn được từ thuần Việt thay thế thì tác giả
mới dùng từ Hán Việt. Hệ thống từ ngữ trong văn xuôi Xuân Diệu chứng tỏ
tiếng Việt đã đến độ hoàn toàn có khả năng diễn tả đầy đủ, sát thực, sinh
động mọi cung bậc tình cảm phong phú và tinh vi của con người. Đồng thời
đó cũng là cách biểu hiện, là cách để Xuân Diệu rời xa, chống lại những ước
lệ mòn sáo của văn học trung đại.
Hầu như tất cả các loại từ của tiếng Việt đều được Xuân Diệu sử dụng
vào việc xây dựng tác phẩm của ông. Tuy nhiên, sự độc đáo trong việc sử
101
dụng từ của Xuân Diệu nổi bật hơn cả ở một số trường hợp.
3.3.2.1 Sử dụng danh từ:
Chúng ta biết rằng, danh từ là loại từ dùng để định danh. Văn xuôi
Xuân Diệu là cả một thế giới trữ tình. Xuân Diệu đã kết hợp danh từ với một
tập hợp từ khác tạo thành thành cụm danh từ:
Cùng một danh từ "cái hôn", Xuân Diệu tạo ra những cụm danh từ
khác nhau biểu cảm các trạng thái khác nhau của sự tiếp xúc nhục thể kỳ
diệu này.
- Cái hôn khoái lạc; Cái hôn ngọt ngào; Cái hôn ấm; Cái hôn nhẹ; Cái
hôn chờ đợi lâu ngàn năm; Cái hôn tủi tủi; Cái hôn yêu đương; Cái hôn mơ
màng; Cái hôn nhẹ; Cái hôn mê ly…
Cùng chỉ một danh từ “con đường”, song Xuân Diệu đã kết hợp danh
từ này với các từ ngữ khác để tạo thành: Con đường sắc xanh không dải
nhựa; Con đường thơ mộng; Con đường đời; Con đường mờ mịt; Con đường
phiêu lưu vạn dặm phong trần…
Và “buổi chiều”, cái thời khắc dễ làm tâm hồn người ta nảy sinh
những cảm xúc, được Xuân Diệu miêu tả với những sắc thái:
- Buổi chiều triền miên của sự vật và linh hồn
- Buổi chiều rất đỗi ngẩn ngơ
- Buổi chiều trong nhà và trong tâm lí
Bằng cách kết hợp này Xuân Diệu đã tạo nên một sắc thái nghĩa mới
cho danh từ. Mỗi danh từ tham gia vào sự kết hợp này bao nhiêu lần sẽ có
bấy nhiêu sắc thái mới.
Mặt khác, cách kết hợp này còn tạo ra những ngữ danh từ có phần phụ
sau là một tập hợp các từ có tác dụng biểu cảm, khu biệt nét nghĩa cho thành
phần trung tâm. Vì vậy, các tên gọi của Xuân Diệu không chỉ dừng lại ở
cách gọi tên thông thường mà trở thành những tên gọi có dấu ấn, vừa để gọi
tên nhưng cũng đồng thời ghi lại những cảm xúc, cảm giác, ấn tượng gắn với
102
chính nó.
Thí dụ khi miêu tả hình ảnh Em Tuổi Nhỏ lúc biệt ly với nhân vật tôi -
anh Người lớn - để vào quá khứ (trong tác phẩm "Giã từ tuổi nhỏ") Xuân
Diệu viết:
- Miệng cười gượng
- Môi thắm hơi buồn
- Mắt xanh quá
Hoặc đây là những gì anh Người lớn đã giao lại cho em Tuổi nhỏ:
- Hiên trường có tiếng guốc vang
- Nhà chơi đầm ấm những chiều mưa
- Mảnh sân rộn ràng khi ong vỡ
- Khoảng vườn hoang dại để những chiều hồn bạn ra ngồi mà tủi
thương.
- Ngọn đèn canh thâu ánh vàng thao thức
- Chiều duyên dáng cách thơ ngây
- Nắng vàng thương nhớ
- Mây sớm an lành
Và những tên gọi có dấu ấn này thực ra là cách để cho Xuân Diệu cụ thể
hóa những trạng thái cảm xúc cô đọng trong thế giới trữ tình của mình ở tuổi
thơ, đồng thời khiến cho lời văn của ông trở lên xúc tích mà giàu hình ảnh.
Nếu để ý thêm một chút, chúng ta cũng nhận ra rằng, Xuân Diệu rất
hay sử dụng các danh từ được kết hợp với các tính từ để tăng thêm sức biểu
hiện và hình ảnh cho các sự vật được ông miêu tả. Ngay nhan đề của các tác
phẩm cũng được Xuân Diệu ý thức sử dụng các cụm danh từ ( Danh từ +
tính từ ):
- Chú lái khờ
- Phấn thông vàng
103
- Người học trò tốt
- Bà chúa vinh quang
- Suối tóc đẹp
3.3.2.2 Việc sử dụng động từ
Là con người luôn nóng hổi nhịp đập với tình yêu, với cuộc sống,
Xuân Diệu sử dụng khá nhiều các động từ, đặc biệt là sử dụng khá nhiều
động từ chỉ trạng thái hay còn gọi là động tính từ như: vui, buồn, sung
sướng, vuốt ve, xót xa, nhớ, yêu, khát khao, lo âu, làm duyên, say mộng, thơ
thẩn... để giãi bày tường tận những sắc thái của lòng người trong các sáng
tác văn xuôi của mình
Bên cạnh đó, Xuân Diệu cũng đã đưa động từ vào ngữ động từ - tính
từ, nhằm tạo sắc thái nghĩa cụ thể cho động từ, giúp ông có thể bộc lộ tận
góc cạnh những trạng thái của lòng người:
- Thắc mắc lẫn kinh dị trong nỗi xót thương
(Thương vay)
- (Rét đông) khía vào thịt da làm dậy cả máu xương
(Giã từ tuổi nhỏ)
- Say điên vui dại hòa lẫn trong ngây ngất của người khờ
(Chú Lái Khờ)
- (Nắng hạ) đốt người một cách cực lạc
- Van rát cổ
- Nhớ thương hoài
- Giã từ ly biệt
- Cười gượng
- Nuốt đắng cay
104
(Giã từ tuổi nhỏ)
Có khi ngay cả những động tính từ có sắc thái biểu cảm cao nhưng
Xuân Diện vẫn đặt chúng vào ngữ động từ nhằm tăng thêm sức biểu cảm của
chúng.
- Đau khổ ê chề (Phấn thông vàng)
- Mê đắm quá (Phấn thông vàng)
- Nghẹn ngào phồng cả mắt (Giã từ tuổi nhỏ)
- Mê mẩn làm sao (Phấn thông vàng)
- Ngây ngất thêm (Chú Lái Khờ)
3.3.2.3 Sáng tạo nghĩa và dùng từ linh hoạt.
Xuân Diệu sáng tạo nghĩa từ trong một số ít trường hợp nhưng có thể
nói mỗi trường hợp đều để lại một ấn tượng riêng rất Xuân Diệu. Và qua đó
cũng có thể thấy được điều mà Hoài Thanh đã từng nói về ông: "Xuân Diệu
viết văn tựa như trẻ con học nói hay như người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng
Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng bỡ ngỡ ấy là chỗ Xuân Diệu hơn
người..." [85-105].
Diễn tả những rung động tinh vi nhất của con người Xuân Diệu đã
chọn từ vốn không có nghĩa và tạo cho nó nghĩa rất đắt trong văn cảnh:
"Đóa hôn nở thì người lặng, máu ngừng, hồn "điến" vì yêu..." (Đóa
hồng nhung).
Hoặc có trường hợp Xuân Diệu dùng từ chỉ hành động cụ thể để biểu
đạt một sự trừu tượng, khó nắm bắt, tạo nên nét nghĩa mới cho từ:
"Thương hay yêu? ở Huế người ta xô bồ trong một chữ nửa chừng. Kẻ
tình nhân phải sờ trong giọng nói chữ thương, phải vào trong lõi của tiếng
chập chững thả một cách ngọt ngào, phải len vào tìm gặp ý sâu" (Cái dây
không đứt).
Có khi Xuân Diệu lại sáng tạo từ mới bằng cách đảo trật tự từ:
"Cứ mỗi mùa gái tơ đến lứa thì trai tơ cũng lồ lộ một vừng. Mặt trời
105
trai trẻ mọc ở khuôn mặt hùng anh".
(Đẹp trai)
Có khi chỉ là sự ghép từ một cách táo bạo mà tạo ra từ mới:
- Lời rượu mạnh (Sợ)
- Mặt quang đãng (Chú Lái Khờ)
- Lòng người rét mướt (Thư tình mùa thu)
- Thiên đường luôn luôn (Giã từ tuổi nhỏ)
- Cái sầu nghỉ hè (Hoa học trò)
- Sáng sớm nồng giọng thư cưu v.v. (Suối tóc đẹp)
Cả những cảm giác tưởng chừng như người ta chỉ cảm thấy mà không
nhìn thấy. Xuân Diệu cũng tìm ra những cách để định lượng cụ thể: chẳng hạn:
- Ai ở trên đời đổ xuống từng triệu thúng buồn (Thương vay)
- Ấy là trên đời đổ xuống một cục bóng (có hình người)
- (Và lòng chàng) một suối ngọt, một vườn thơm
(Phấn thông vàng)
Nếu coi nghệ thuật ngôn từ là cuộc tìm tòi, phát hiện những tín hiệu
thẩm mĩ có giá trị, thì Xuân Diệu quả đã tìm ra cả một thế giới tín hiệu.
Sức hấp dẫn của văn xuôi Xuân Diệu được tạo bởi một phần ở sự diễn
đạt bằng cách cụ thể hóa, gọi tên những trạng thái trữ tình của lòng người, bên
cạnh những yếu tố khác, việc sử dụng các loại từ như đã kể trên là một phần
sáng tạo độc đáo trong các tác phẩm văn xuôi Xuân Diệu.
3.4 Giọng điệu
3.4.1 Khái niệm giọng điệu
Chúng ta đã biết: giọng điệu là âm thanh được con người phát ra với sự
can thiệp của trường độ, cường độ, âm sắc, âm lượng của nó. Giọng điệu
trong văn học là phạm trù có liên quan đến các yếu tố tạo nên văn phong bao
gồm: cách diễn đạt, hình tượng, cú pháp, âm thanh, nhịp điệu.
Giọng điệu vừa biểu hiện một thái độ về đối tượng thẩm mỹ trong tác
106
phẩm văn học vừa là thái độ của người phát ngôn văn học đối với người nghe.
Giọng điệu trở thành một yếu tố quan trọng góp phần tạo ra đặc trưng riêng
cho mỗi loại hình văn học và cũng góp phần xác định phong cách của mỗi
một nhà văn, một trào lưu văn học. Giọng điệu và ngôn ngữ gắn bó trong
quan hệ tương hỗ.
Giọng điệu là một yếu tố nghệ thuật quan trọng “Giọng điệu phản ảnh
lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất
lớn trong việc tạo phong cách của nhà văn có tác dụng truyền cảm cho người
đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định nhà văn chưa thể viết được tác phẩm mặc
dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp xong hệ thống nhân vật” [24,91]. Nghiên cứu tác
phẩm văn học mà bỏ qua yếu tố giọng điệu là tước đi cái phần quan trọng tạo
nên bản sắc độc đáo của tác phẩm, khẩu khí và nét bút của nhà văn. [24]
3.4.2 Giọng điệu văn xuôi Xuân Diệu
Nói đến dòng truyện ngắn trữ tình lãng mạn 1930-1945, chúng ta
thường nghĩ ngay đến lối văn mượt mà, đằm thắm, nhẹ nhàng mà khi nhìn
vào tổng thể thấu suốt cả dòng truyện ngắn trữ tình, chúng ta thấy giọng
điệu tâm tình, thiết tha và lay động đến tận sâu tâm hồn người đọc đã trở
thành yếu tố bao trùm lên các tác phẩm của các nhà văn trong dòng văn học
này. Chất giọng đặc trưng của các nhà văn trong dòng truyện ngắn trữ tình là
sự kết hợp hài hòa của cảm xúc và giọng điệu để từ đó những số phận những
con người và sâu hơn nữa là thế giới của cảm giác, tâm trạng, cảm xúc. Song
mỗi nhà văn của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 lại sử dụng giọng điệu
riêng để thể hiện những thế mạnh của mình.
Giọng văn Thạch Lam là “giọng văn đầy ám ảnh” bao giờ cũng thủ
thỉ, nhẹ nhàng, đôi khi gần như thì thầm…”. Giọng điệu của Thạch Lam “đó
là giọng điệu nhẹ nhàng, tâm tình, gợi mở, khơi sâu và nội dung cảm giác”.
Còn Thanh Tịnh- nhà văn của “làng” lại là “một giọng điệu trần thuật xen
lối trào phúng nhẹ nhàng với trữ tình sâu lắng”[84,98] Đó là“một giọng điệu
trữ tình chân chất, dân giã, mộc mạc, đằm thắm tình người”. Nhà văn Hồ
Dzếnh lại khiến bạn đọc phải ám ảnh bởi “giọng điệu tự thuật cùng dòng
107
cảm xúc dạt dào, đượm buồn trong mặc cảm, day dứt”[84,114]. Đỗ Tốn, tác
giả của tập Hoa vông vang chỉ gồm tám tác phẩm song cũng đóng góp vào
cho dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 “ giọng hoài niệm về kí ức tuổi
thơ, một dĩ vãng đẹp với những mối tình không kết thành đôi, được phô diễn
qua những trang văn đầy cảm giác”[84,115]
Tìm hiểu giọng điệu truyện ngắn trữ tình của Xuân Diệu có thể thấy
nổi bật lên là giọng điệu tâm tình tinh tế, mượt mà, sâu sắc. Với những sắc
thái khác nhau, giọng điệu tâm tình giúp Xuân Diệu có thể nói được những
điều thầm kín lòng người. Đồng thời, giọng tâm tình cũng là đặc điểm riêng
biệt tạo nên sự độc đáo của văn Xuân Diệu, nhất là trong việc tạo chất thơ.
Giọng điệu tâm tình trong văn xuôi Xuân Diệu có các sắc thái chính
sau đây:
Thứ nhất là giọng điệu nồng nàn, sôi nổi, thiết tha. Đây có thể được
coi là giọng cơ bản của văn xuôi Xuân Diệu.
Ý thức được quy luật của tạo hóa, sự trôi chảy của thời gian, ông giục
giã mọi người hãy tận hưởng hết hương sắc ở đời, đừng hoài phí những gì
mà cuộc đời ban tặng với giọng vừa như dỗ dành, vừa như thuyết phục song
vẫn thật tha thiết, nồng nàn:
“Gấp đi em, mau đi em, hoa ở tuổi em mới thật là hoa, để nâng niu
hôn hít, thêm dăm tuổi nữa hoa chỉ trông cho đẹp nhà...Gấp đi em, mau đi
em, cái vốn ngây thơ trời cho chỉ mấy năm trời, cái suối mộng mơ chẳng
mấy lúc mà nguồn khô cạn...Gấp đi em chuyện trò cùng tạo hóa, mau đi em
vơ vẩn cho nhiều”(Giao lại).
Nhưng có lẽ đây mới thực là Xuân Diệu, sục sôi đến mãnh liệt:
“Anh yêu em đứt ruột, yêu quặn lòng, điên dại, ghê gớm yêu tưởng giết
được người, yêu tưởng chết. Em có thấy máu của hồn anh trên trang giấy
chăng? (Sợ).
Cái nuối tiếc cho việc tận hưởng đôi môi xinh cũng được Xuân Diệu thể
hiện bằng giọng thật khao khát, nồng nàn:
108
“Tiếc cho những môi nhỏ xinh xinh tô màu cánh sen, nói ra những
tiếng uốn éo thanh tao, tiếc cho những môi xưa chết đi mà chưa được dùng...
Ta muốn có một đạo bùa phục sinh những đóa môi xưa, sống lại đây
với màu tươi sắc ướt vẻ ngọt, mùi thơm, cho con trai đời xúm lại mà hôn, rồi
bấy giờ cũng tan tành, như thế cho khỏi ân hận...”(Vườn mơn trớn).
Không chỉ vậy, ở trong thơ cũng như văn xuôi, ta đều thấy một Xuân
Diệu với trái tim phập phồng ấm nóng của tình yêu, của khát khao yêu
đương. Nên giọng văn có nhiều khi trở nên tha thiết đến sôi sục:
“Ta khát. Xin cho ta uống trong đôi tay hồng của nàng, cái nước hồng
có ánh vàng kia: trong đôi tay hồng của nàng, đẹp quí như vàng.”
Ta khát, khát chết vì nàng.”
“― Anh khát, khát chết vì tình em, khát giết người vì em.”
“― Ta khát, khát giết được người vì nàng.” ( Suối cá vàng)
Với tư cách là một cây bút trữ tình văn xuôi, mỗ i truyện ngắn, tản văn
của Xuân Diệu là cả một thế giới hình tượng đan dệt, mở rộng, giao hòa với
nhau. Nhưng đặc điểm này cũng tồn tại trong văn xuôi của Xuân Diệu. Là một
nhà thơ viết văn xuôi, Xuân Diệu đã có một cách nhìn và cảm riêng với tác
phẩm đi liền với một phong cách riêng. Đó là sự gắn kết tự nhiên giữa tư duy
luận lý và tư duy hình tượng. Nói cách khác, tư tưởng được diễn đạt, được
hiện thực hóa thông qua những hình tượng sinh động và biến ảo.
Thứ hai là giọng xót thương. Chính tình thương mến nhiều khi làm
cho Xuân Diệu không giấu nổi sự xót xa bằng cái giọng dồn dập như có hơi
thở nhịp đập của tim “Thôi thế là nghĩ vẫn vơ nghĩ mờ nghĩ mịt. Bà già hay
hiện hình của sự khổ đau. Nghèo như vậy sao lại làm thinh mà đi gặp khách
dám nói xin tiền? Cũng không nói, cũng không rên, cũng không ngừng.
Dưới nón chỉ thấy đen. Mà gặp tôi, sao không ngướng nón lên một chút? Bà
lão về đâu? Một ở rơm nép bên đường, hay một cái chòi lạc giữa những bụi
cây. Về một túp lều xa hay không về túp lều nào cả? Trên vùng hẻo lánh kia
còn nhà cửa nào nữa? Ai sẽ nấu cơm cho bà ăn? Diêm ở đâu để bà nhóm
109
lửa? Về đâu, ngừng lại nơi đâu?
Đêm dày thêm, chỉ còn mực xạ. Không kẻ dẫn đường, không một
chiếc gậy, bà lão mất trong u uất, lặng im, trong giấu che, bí mật. Lòng tôi
thắc mắc lẫn kinh dị trong nỗi xót thương” (Thương vay).
Đối với những kiếp sống mờ mờ nhân ảnh, ông biểu lộ lòng xót
thương thấm thía và đầy sầu muộn:
“Tôi thương hai cô như hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh, khi
chiều giăng lưới qua gốc cây. Buổi chiều của hai cô mờ nhạt và kéo dài, hai
cô lẫn trong mù sương... Đáng tội nghiệp nhất là hai cô chỉ biết buồn lặng
nhưng buồn lâu... Tôi không thấy rõ nguyên cớ, tôi chỉ thương mà thôi,
thương một cách thành thực và dễ dàng. Tôi đã cảm giùm cho hai kẻ ngơ
ngác, và lặng thinh ngắm một cảnh tà dương” (Tỏa nhị Kiều).
Ngay cả trong cách phản ứng gay gắt, phủ nhận kiếp sống mờ lặng
một cách dứt khoát, ông cũng nói bằng những giả định, khiến nó nhẹ nhàng
hơn, dễ chấp nhận hơn: “Giá họ đừng hiền lành như thế thì hơn, giá họ đàng
điếm hung dữ trơ trẽn, lẳng lơ tôi sẽ được vui vì thấy họ có chuyện. Tôi sẽ
được cười nếu thấy họ đua xe đạp; tôi sẽ được thản nhiên nếu thấy họ đỏm
dáng, chòng ghẹo bất cứ người nào.
Tôi ước gặp họ chửi mắng người ở, đánh đập con sen. Tôi mong họ
ngoa mồm lên, lay động hai cặp môi son đỏ choét. Tôi muốn mặt họ bự
phấn, tôi cầu cho họ làm bộ làm tịch lố lăng bao nhiêu cũng được, thà họ
làm cho tôi ghét, còn hơn làm cho tôi thương” (Tỏa nhị Kiều).
Vốn là con người yêu cuộc sống, ham cuộc sống và luôn muốn tận
hưởng cuộc sống cho đúng nghĩa sống. Vì thế mà giọng văn ông có chút gì
tiếc nuối đến thiết tha cho những ai không sống đúng nghĩa:
“ Thế đấy anh Tư ạ! Anh đã không vui trong lúc học. Anh hiện đang
buồn trong khi yêu. Nhưng anh bắt đầu sống đi! Hãy thử đốt lòng anh; nó
khô từ khi nhỏ đến giờ, cố nhiên nó dễ cháy lắm.
Chàng đã theo danh hay theo lợi? Theo tiếng gọi mãnh liệt của sách
110
hay tiếng kêu gấp rút của...của cái gì đây? Chàng làm việc để làm chi?
Chàng không biết vui sướng hay sao? Bí mật! Người ta kinh hãi trước sự
khó hiểu. Sao Tư chẳng sống đi, tiêu tiền đi, chơi bời đi! Người ta không tin
rằng có thể có linh hồn vô lý ấy.
Trời ơi, chủ nhật xuân hát ngoài kia, sao ông hậu Tư năm nay mới
hăm ba tuổi đầu, không chạy ra đuổi vài con bướm? (Người học trò tốt)
Thứ ba là giọng vỗ về êm ái, rất thiết tha, như ru lòng người trong
tình thương mến:
“Có phải em tôi đêm nay về đó không? Ngày nghỉ, đêm thanh, chiếc
hoa sao tạt bay qua cửa, trăng lành, gió dịu, ta soi trộm vào gương thoáng
thấy hình ta thoáng thấy hình em. Tuổi Nhỏ đấy ư? Hai ta còn một đêm dài.
Ngồi đây em, nằm đây em, dựa đậy em, em ở lại đây em đừng đi nữa
nhé...Nằm trên ngực anh đây con chim êm ái, đưa tôi bồng ru chút nào, cậu
con trai măng tơ, em của tôi đây, tôi đấy thực là yêu quá...”(Giã từ tuổi nhỏ).
Lời dỗ dành có khi thật là ngọt ngào “Thôi, Thu của Hứa chịu thua rồi nhé!
Em Thu của Hứa đương nhức đầu chứ gì...” (Cái dây không đứt).
Thứ tư, có khi Xuân Diệu lại viết bằng giọng thủ thỉ, thân mật mà
người ta vẫn đọc được cái xốn xang:
“Ngày bạn đọc! Hôm nay màu thu đã rõ rồi đây: Tôi biết lòng bạn run
run lành lạnh, nho nhỏ ngân nga vì hơi heo may...Mùa thu! Ai không nghe
như chàng trai kia tiếng kêu vời vợi của không khí? Ai không run nỗi hàn
của tâm lí trước khi run nỗi rét thịt của da. Lạnh lùng sắp tới, lòng ai không
rộng thêm, bỗng dưng có khoảng trống cứ to dần. Ai không cần góp nhiều
tình, thực nhiều tình như người ta cất sẵn than củi để phòng khi mưa gió?
Bức thư tình của mùa thu, ai sẽ cho tôi, cho anh, cho bạn: Ai cũng
vậy, hễ mùa thu đến là cần rất nhiều âu yếm, như trong ngực bỗng dưng có
năm sáu trái tim. Ai may thêm áo, ai mặc thêm những lớp áo tình cho muôn
lòng người rét mướt? Mỗi bức thư tình một khuôn nhung ấm, những cặp tình
111
nhân đừng quên” (Thư tình mùa thu).
Thứ năm là giọng triết lý. Xuân Diệu thường viết bằng giọng triết lý
khi muốn diễn đạt những phán xét về qui luật của cuộc sống. Song có lẽ,
Xuân Diệu triết lý thì cũng là bộc lộ cái trữ tình đằm thắm của mình nên triết
lý của ông luôn được viết trên một nền tâm trạng nhất định, triết lý mà vẫn
tâm tình:
Có khi nhẹ nhàng mà thuyết phục: "Em có mười sáu tuổi chỉ một lần,
em không có đến hai lần cái tuổi vui, em sẽ có một trăm năm buồn. Tất cả
đều tuỳ ở em đó, xấu đẹp ở tại lòng em". (Giã từ tuổi nhỏ).
Có khi thấm thía xót xa: "Ở đời khổ xúc tích lại với nhau thành một
cái vòng luẩn quẩn, sờ đến khâu này động đến khâu kia" (Thương vay).
"Bao giờ lòng thương lại chẳng có duyên cớ ở trên cái đời cùng cực
đau khốn khổ này" (Thương vay).
Nhưng cũng có khi trong giọng triết lý của Xuân Diệu vẫn có chất
đắm say, sôi nổi: "Tình yêu có mực thước bao giờ. Lúc nào người ta cũng
quá đáng. Người ta thẩn thơ một cách dễ dãi và không hiểu vì sao những
điều cỏn con, những ý vụn vặt lại bỗng dưng hệ trọng lên có thể làm ngạt
được người viết thư cũng như người xem thư (Sợ)...
Ông cũng lý giải về tình yêu và cuộc đời bằng giọng thật thấm thía
song nhẹ nhàng mà sâu sắc: “ Hai người rất muốn chung hợp, song đã không
ăn ý, thì thà rời nhau để còn có thể nhớ lại mà thương nhau. Nếu cố gắn, cố
gần, e rồi đến ghét nhau mất.” ( Phấn thông vàng).
Hay ông lý giải về cuộc đời, tình người và tình yêu:
“Trời muốn lạnh, nên người ta cần nhau hơn. Và người nào chỉ có một
thân thì cần một người khác. Xuân, người ta vì ấm mà cần đôi. Cho nên
không gian đầy những lời nhớ nhung, những linh hồn cô đơn thả ra những
thở dài để gọi nhau...” (Thu).
Hay mượn lời cái giường, ông cũng nói : “Mười bốn năm trời, đời của
tôi chẳng mấy chốc mà già với đời của người. Mọi vật đều thay bậc đổi ngôi,
112
sự dâu bể của cuộc đời, cho đến gỗ cũng phải chịu”( Truyện cái giường).
Như vậy, với những sắc thái giọng đ iệu khác nhau, Xuân Diệu đã tạo
được dấu ấn cho giọng điệu văn xuôi của mình. Đó là lời thúc giục nồng nàn
của tuổi trẻ, khát sống, thèm yêu. Đó cũng là lời thủ thỉ tâm tình đượm một
nỗi buồn thương. Đó là sự bày tỏ nồng nàn tha thiết những mong mỏi và khát
vọng của ông về người nghệ sĩ, về văn chương. Qua giọng văn của ông, ta
hình dung một con người đang từ tốn nói về mình, nói cho mình và cho
người khác về những ấn tượng, những trải nghiệm trong cuộc sống cũng như
những tư tưởng hoặc đã được nghiền ngẫm kỹ lưỡng, hoặc như bột phát
phải lên tiếng trước những vấn đề của văn chương. Bản chất của văn ông là
chia sẻ, tha thiết, do vậy mà văn Xuân Diệu luôn thấm thía, luôn thân mật tự
nhiên, lôi cuốn và thuyết phục người nghe. Mỗi chữ, mỗi câu văn của ông
như một giọt của tâm hồn và tư tưởng chắt lọc qua ngòi bút của một con
người luôn khao khát giao cảm với con người và tạo vật, vô cùng thiết tha
113
với quốc văn, tiếng mẹ đẻ và văn chương nước nhà.
KẾT LUẬN
Khi Xuân Diệu đột ngột ra đi không chỉ có giới hoạt động văn học
nghệ thuật mà còn biết bao thế hệ bạn đọc cảm thấy ngỡ ngàng bởi “một cây
nằm xuống, cả khoảng trời trống vắng” [86,133]. Điều đó đã nói lên vai trò
to lớn của Xuân Diệu đối với văn học giai đoạn 1930-1945 nói riêng và nền
văn học dân tộc nói chung. Đọc những trang văn, trang thơ của ông, người ta
luôn thấy bừng cháy “cái tôi” rạo rực, say mê, luôn hối hả gấp gáp, luôn giục
giã, cuống quít, tràn đầy ham hố và ngập tràn tình yêu và nỗi cô đơn bất tận.
Nhưng ẩn sâu dưới cái tôi phong phú màu sắc ấy là một tấm lòng yêu đời,
yêu người, yêu cuộc sống đến thiết tha cháy bỏng.
Truyện ngắn trữ tình Xuân Diệu trước Cách mạng là phần sáng tạo
độc đáo của ông. Những trang văn xuôi, trang đời với những suy tư, triết lý,
với những tâm sự cảm xúc của con người ấy đã thực sự trở thành một phần
không thể thiếu của văn học trữ tình giai đoạn 1930-1945. Và chúng ta cũng
không thể không nhắc đến hai tập Phấn thông vàng và Trường ca, hai tập
truyện ngắn tiêu biểu thể hiện rõ phong cách sáng tác của Xuân Diệu và làm
nổi bật cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của ông; đậm tính trữ tình và
giàu chất thơ.
Mặc dù tác phẩm truyện ngắn của Xuân Diệu trước Cách mạng chỉ là
một con số khiêm tốn đối với những tác phẩm thơ của chính ông và so với số
lượng các truyện ngắn của các nhà văn trong dòng truyện ngắn trữ tình giai
đoạn 1930-1945 song những gì mà nó mang lại cho dòng truyện ngắn trữ
tình 1930-1945 là điều đã được khẳng định và ghi nhận. Trong đó, tác phẩm
Tỏa nhị Kiều cùng với các sáng tác thơ khác của Xuân Diệu đã được đưa vào
giảng dạy trong chương trình phổ thông trung học và nhiều tác phẩm văn thơ
khác là đối tượng của nhiều bài viết, công trình nghiên cứu ở các bậc học cao
hơn là sự khẳng định tài năng và cũng là phần thưởng xứng đáng đối với
Xuân Diệu.
114
Qua những truyện ngắn trữ tình của ông, đặc biệt trong giai đoạn
1930-1945, chúng ta có thể thấy hiện lên những nét nổi bật về phương diện
nội dung và phương diện nghệ thuật mà Xuân Diệu đã rất có ý thức sáng tạo
để góp phần làm phong phú thêm những khía cạnh của cuộc sống con người,
của xã hội đương thời với tư cách là một trong những nhà văn tiêu biểu của
dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945. Đặc biệt, ông đã giúp con người có
nhu cầu khám phá chính bản thân và thế giới tâm hồn bên trong qua sự tự ý
thức về cái tôi sâu sắc. Cùng với Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ
Tốn, Thanh Châu…, Xuân Diệu đã tạo nên một lối đi riêng và khẳng định
hơn nữa vị thế của dòng truyện ngắn trữ tình trong nền văn học dân tộc.
Với Xuân Diệu, con người là trung tâm và trữ tình là phương thức chủ
đạo trong truyện ngắn của ông giai đoạn 1930-1945. Thế giới cảm xúc ấy đã
được gợi mở bằng cái tôi trữ tình đầy cảm xúc. Vì thế, dù hiện lên dưới bất kì
hình thức nào, cái tôi của Xuân Diệu cũng mang một nét riêng, phập phồng,
ấm nóng hơi thở từ cuộc sống hiện tại với những khát khao được sống hưởng
thụ cho đúng nghĩa sống và níu kéo bước trôi chảy của thời gian. Cái tôi
nhiều chiều đa nghĩa ấy làm cho mạch trữ tình tuôn trào từ ngọn bút của
Xuân Diệu và làm cho thế giới nghệ thuật trong các truyện ngắn của ông có
một điểm tựa vững chắc và bám rễ lâu bền trong lòng người đọc. Từ đó, ông
đã làm nổi bật và tạo nên những ấn tượng khó phai mờ, đem đến những rung
động khẽ khàng mà tinh tế, đầy sức gợi và ám ảnh, lại không kém phần triết
lý sâu sắc cho các truyện ngắn trữ tình của mình.
Truyện ngắn trữ tình Xuân Diệu là sự nối dài và mở rộng thêm những
tư tưởng, những tình cảm và cảm xúc của thơ Xuân Diệu. Vì thế những quan
niệm triết lý đã được “thơ hóa” bằng hình ảnh cụ thể cô đúc thì nay lại được
văn xuôi diễn tả cụ thể và rõ hơn. Trong đó, chúng ta thấy nổi bật lên những
ấn tượng tiêu biểu sau:
Thứ nhất: Xuân Diệu đã thể hiện và phát biểu thành một hệ thống
những quan điểm về người nghệ sĩ và thiên chức của người nghệ sĩ. Theo
ông, người nghệ sĩ là loại người đặc biệt khác thường mà điều làm nên người
115
nghệ sĩ thiên tài chính là trái tim. Tư chất nghệ sĩ rõ nhất ở chỗ họ dễ xúc
động và giàu tình cảm. Và người nghệ sĩ có tâm hồn giàu có thành thật chẳng
khác nào người có “số thiên kim”. Song nội tâm giàu có của người nghệ sĩ
không phải tự nhiên mà có. Nó phải được tích lũy bằng vốn sống, sự hiểu
biết, trải nghiệm và kinh nghiệm từ chính cuộc đời của người nghệ sĩ và
người nghệ sĩ phải gắn bó với cuộc đời mới có được. Đồng thời, Xuân Diệu
chỉ ra, người nghệ sĩ không thể đóng kín tâm hồn mình mà phải mở rộng “tự
tay lấy vào cái lõi sống của mình và phân phát” thì mới thật sự có ý nghĩa.
Với những triết lý về nghệ thuật, Xuân Diệu cũng khẳng định quy luật thành
công hay thất bại trong sáng tạo nghệ thuật. Theo ông, sáng tạo nghệ thuật
đòi hỏi người nghệ sĩ phải nung nấu dày công vun đắp khó nhọc mới có
được. Chính vì thế Xuân Diệu đã phát biểu người viết văn không có con
đường nào khác phải lao động cật lực, phải tự mình nghiêm khắc với mình,
đem cảm xúc của bản thân hòa vào chất liệu của đời sống thì mới sáng tạo
nên những tác phẩm có giá trị. Cho nên, họ phải biết vượt qua những cám dỗ
và vật chất tầm hèn cùng gánh nặng “cơm áo gạo tiền” để luôn tỉnh táo, giữ
mình. Có thể nói, Xuân Diệu đã đem lại tiếng nói chân chính về nghệ sĩ-
nghệ thuật.
Thứ hai: Trong thơ cũng như văn xuôi Xuân Diệu không thể thiếu
thiên nhiên. Nếu thiên nhiên đối với nhiều nhà văn trong dòng truyện ngắn
trữ tình chỉ là phương tiện để làm rõ nét hơn con người (nhân vật trung tâm)
của câu chuyện thì Xuân Diệu đã làm được hơn thế. Thiên nhiên trở thành
đối tượng trung tâm, là đối tượng để phản ánh. Xuân Diệu dành cho thiên
nhiên cái nhìn ưu ái và trong con mắt ông thiên nhiên luôn tươi đẹp, tràn đầy
sức sống.
Vốn là con người của tình yêu và tuổi trẻ, luôn khao khát tình yêu nên
văn xuôi Xuân Diệu có một nét riêng khác với tất cả các nhà văn trong dòng
truyện ngắn trữ tình 1930-1945 là thiên nhiên của ông đượm màu sắc tính
dục. Xuân Diệu đã nhìn thiên nhiên qua lăng kính ái ân. Chỉ ông mới thấy
thiên nhiên khêu gợi, quyến rũ. Chỉ ông mới thấy thiên nhiên cũng muốn
116
được yêu và khao khát yêu như con người. Vì thế Xuân Diệu đã truyền cho
thiên nhiên con mắt ái tình của mình để hưởng thụ cảm xúc của tình yêu và
những cung bậc của tình yêu lứa đôi ân ái. Điều này chính là sự tiếp nối, sự
quấn quýt, giao hòa thấm đậm hương vị tình ái mà Xuân Diệu đã thể hiện rất
thành công trong những bài thơ của ông.
Thứ ba: Thời gian vốn là một đại lượng trong đời sống của con người,
được nhiều nhà văn sử dụng như một phương tiện nghệ thuật nhưng với
Xuân Diệu, thời gian đã trở thành hơn thế. Không chỉ là một phương tiện
nghệ thuật, thời gian trong văn xuôi Xuân Diệu đã trở thành một phạm trù
mang tính triết học, trở thành “một nỗi ám ảnh” trong suốt cuộc đời sáng tác
của Xuân Diệu. Có thể nói Xuân Diệu là người đầu tiên trong các nhà văn trữ
tình lãng mạn đưa ra những quan điểm mang tính triết lý về thời gian. Thời
gian là sự chuyển động và trôi chảy không ngừng. Với một trái tim ấm nóng,
luôn khát khao sống và tận hưởng, Xuân Diệu lo sợ thời gian “ một đi không
trở lại”. Xuân Diệu cũng gắn thời gian với hai thì “thời tươi” và “thời phai”.
Vì thế ông luôn níu bước trôi chảy của thời gian.
Thứ tư: Xuân Diệu đã phát biểu sâu sắc về kiếp sống của con người và
tình yêu đôi lứa. Cũng như nhiều nhà văn lãng mạn thời bấy giờ, Xuân Diệu
cũng hướng trái tim và tình cảm cho những kiếp người bất hạnh, nghèo khổ
trong cuộc đời. Đồng thời, ông cũng phát biểu những quan điểm của mình về
tình yêu khi khẳng định tình yêu là một phần của cuộc sống “làm sao sống
được mà không yêu” và tình yêu không có giới hạn. Những cung bậc cảm
xúc, những nghi ngờ, ghen tuông khiến tình yêu lúc dạt dào, nồng thắm, lúc
sôi nổi thiết tha, lúc băn khoăn day dứt.
Thứ năm, Xuân Diệu đã khẳng định tuổi trẻ - sức sống tràn đầy và là
tuổi đẹp nhất của mỗi con người, đồng thời ông đưa ra một quan điểm nhân
sinh tiến bộ về cách sống trên đời. Ông không đồng tình với lối sống tẻ nhạt,
đơn điệu. Ông đòi hỏi một cách sống hưởng thụ, cống hiến cho cuộc đời và
con người.
Về phương diện nghệ thuật, Xuân Diệu đã thể hiện tài năng độc đáo
117
của mình khi chọn lựa kết cấu, nhân vật và sử dụng từ ngữ một cách đầy điêu
luyện và rất có ý thức sáng tạo. Xuân Diệu đã đưa các danh từ, cụm danh từ
tạo nên những ý nghĩa mới, mang dấu ấn riêng. Ông sử dụng động từ và sử
dụng những biện pháp tu từ đặc sắc nhằm tạo nên sắc thái ý nghĩa mới cho từ
ngữ và thể hiện được rõ nét nhất thế giới trữ tình phong phú.
Như vậy, truyện ngắn trữ tình của Xuân Diệu đã góp phần khẳng định
sức sống lâu bền của dòng truyện ngắn trữ tình1930-1945 trong lòng bạn đọc
và công chúng. Thêm một lần nữa, Xuân Diệu đã làm lan tỏa những rung
động sâu xa cho thế giới nội tâm của con người qua những truyện ngắn trữ
tình của mình. Là một nhà thơ viết văn nên Xuân Diệu đã biến sở trường của
ông tạo nên tính nhạc điệu và lời văn mềm mại, giàu sức khơi gợi và làm tỏa
sáng hơn nữa chất thơ man mác cho dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945.
Có ai đó đã từng nói rằng “Văn xuôi cần phải có cánh. Đôi cánh ấy chính là
thơ “. Chất thơ chính là chiếc cầu nối mềm mại đưa văn xuôi thấm vào hồn
người êm ái và dịu dàng hơn bao giờ hết. Chính L. Tônxtôi từng thốt lên:
“Tôi không bao giờ hiểu đâu là ranh giới giữa văn xuôi và thi ca”. Và Xuân
Diệu chính là người làm cho ranh giới ấy trở nên mong manh hơn bao giờ
hết. Và “hoàng tử của thi ca” đã chắp thêm đôi cánh cho những sáng tác
truyện ngắn của mình.
Tìm hiểu truyện ngắn Xuân Diệu trong dòng truyện ngắn trữ tình
1930-1945, chúng tôi mong muốn góp phần vào việc nhìn nhận đánh giá một
cách toàn diện và đầy đủ sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu nhằm khẳng định
ông không chỉ là một nhà thơ lớn của dân tộc ông còn là một nhà văn tài
năng, tâm huyết với nghề. Mỗi chữ, mỗi câu văn của ông, dù viết về thiên
nhiên, sự vật hay tình yêu, dù kể chuyện vui hay chuyện buồn, dù viết về
mình hay về người đều là chắt lọc của một tâm hồn luôn khát khao giao cảm
với con người và cuộc đời.
Chúng tôi hy vọng sẽ có điều kiện để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện
118
hơn nữa những suy nghĩ bước đầu đã được trình bày trong luận văn này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tác phẩm của Xuân Diệu:
1. Xuân Diệu toàn tập (2001) – Tập I – Phần thơ – Nxb Văn học
2. Xuân Diệu toàn tập (2001) – Tập II – Phần văn xuôi – Nxb Văn học
3. Xuân Diệu toàn tập (2001) – Tập III – Nxb Văn học
4. Xuân Diệu toàn tập (2001) – Tập IV – Nxb Văn học
5. Xuân Diệu toàn tập (2001) – Tập V – Nxb Văn học
6. Xuân Diệu toàn tập (2001) – Tập VI – Nxb Văn học
II. Nghiên cứu – lý luận – phê bình:
7. Vũ Tuấn Anh. Thạch Lam văn chương và cái đẹp – Tạp chí Văn học
số 6,1992
8. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (tuyển chọn và giới thiệu). Thạch Lam về
tác gia và tác phẩm – Nxb Giáo dục, 2001
9. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên). Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt
Nam từ cuối thế kỉ XIX đến 1945 – Nxb Văn học,2001
10. Lê Huy Bắc. Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại
– NXB Đại học quốc gia Hà Nội, H, 2000
11. Huy Cận. Phấn thông vàng Tập truyện ngắn trữ tình độc đáo của
Xuân Diệu- Tuyển tập Huy Cận (tập 2) – NXB Văn học, Hà Nội, 1986
12. Nam Chi. Trường hợp Xuân Diệu – Con người và tác phẩm, 1987
13. Thanh Châu- Trong bóng tối
14. Lê Tiến Dũng. Xuân Diệu một đời người – một đời thơ – Nxb Giáo
dục Hà Nội, 1993
15. Hồ Dzếnh (1942).Chân trời cũ, Nxb Á Châu, Hà Nội
16. Nguyễn Thị Duyên. Đặc trưng truyện ngắn trữ tình (qua sáng tác của
Đỗ Chu) – Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Hà Nội, 2007
17. Nguyễn Văn Đấu. Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại –
119
Luận án TS (2001)
18. Phan Cự Đệ. Phong trào Thơ Mới – Nxb Khoa học, 1966
19. Phan Cự Đệ. Tập thơ “Riêng chung” của Xuân Diệu – Cuộc sống và
tiếng nói nghệ thuật – Nxb Văn học, 1972
20. Nguyễn Đăng Điệp. Giọng điệu thơ Xuân Diệu trước 1945 – Tạp chí
Văn học số 2/2001.
21. Hà Minh Đức. Một thời đại trong thơ ca (về phong trào thơ mới 1932
- 1945) – Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002
22. Hà Minh Đức(chủ biên), Lý luận văn học – Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội,2001.
23. Hà Văn Đức. “Thạch Lam” Sách văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2000
24. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi. Từ điển thuật ngữ
Văn học – Nxb Giáo dục, 2004
25. Bùi Hiển - Tâm cảnh tình yêu (Trong tập “ Bạn bè một thuở) – Nxb
Hội nhà văn,1999
26. Bùi Công Hùng. Xuân Diệu nhà thơ lớn của nền thơ Việt Nam hiện
đại – Văn nghệ quân đội – 3/1986
27. Phạm Thị Thu Hương, Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong văn
học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 – Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn,
Đại học Sư phạm Hà Nội, 1995
28. Lê Quang Hưng. Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước
1945– Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002
29. Lê Quang Hưng. Cảm xúc thời gian trong thơ Xuân Diệu – Tạp chí
Văn học số 1/1987
30. Khrapchenko M.B. Cá tính sáng tạo và sự phát triển văn học – Nxb
Tác phẩm mới.
31. Nguyễn Hoàng Khung. Phong trào Thơ Mới. In trong tập “Lịch sử
120
Văn học Việt Nam” – Tập V – Phần 1 – Nxb Giáo dục Hà Nội, 1978.
32. Nguyễn Hoành Khung. Lời giới thiệu văn xuôi lãng mạn Việt Nam,
tập 1 – Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,1989
33. Nguyễn Kiên.Về chất thơ trong truyện ngắn – Tạp chí Văn học số
3/1996
34. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa. Phong cách học tiếng Việt – Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1995
35. Thạch Lam. Tựa Quê mẹ của Thanh Tịnh – Nxb Đời nay, Hà
Nội,1941, in lại trong Thạch Lam, tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội, 1998
36. Mã Giang Lân. Xuân Diệu – Nhà thơ Việt Nam hiện đại – Nxb thành
phố Hồ Chí Minh, 1993
37. Thế Lữ. Tựa tập “Thơ thơ” Xuân Diệu về tác giả về tác phẩm – Nxb
Giáo dục – tái bản 2001.
38. Phương Lựu (chủ biên). Lý luận văn học – Nxb Giáo dục – Tái bản
lần thứ 4, 2004.
39. Nguyễn Đăng Mạnh. Vài cảm nghĩ về văn xuôi Xuân Diệu, in trong
Xuân Diệu về tác giả và tác phẩm , Nxb Giáo dục, 2003
40. Nguyễn Đăng Mạnh. Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung phong
cách – Nxb Văn học, 2003
41. Nguyễn Thị Hồng Nam. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ
Xuân Diệu – Tạp chí Văn học số 12/1995
42. Lữ Huy Nguyên. Xuân Diệu – Thơ và đời – Nxb Văn học, 2006
43. Vương Trí Nhàn. Xuân Diệu – Chưa ai thông cảm hết nỗi cô đơn của
tôi – Những kiếp hoa dại – Hội Nhà văn, 1993
44. Vương Trí Nhàn. Truyện ngắn một số vấn đề nghề nghiệp (Sổ tay
người viết truyện ngắn – Nxb Tác phẩm mới – Hội nhà văn Việt Nam, H.1980)
45. Nhiều tác giả. Thạch Lam- Về tác giả, tác phẩm – Nxb Giáo dục,
2001
121
46. Nhiều tác giả. Từ điển triết học – Nxb Sự thật, 1976
47. Nhiều tác giả. Từ điển tiếng việt – Nxb Văn hóa – Thông tin 1999-
2000
48. Nhiều tác giả. Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam 1930 – 1945 – Nxb
Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.
49. Nhiều tác giả. Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc – Nxb
Văn hoá – Thông tin, 2000.
50. Nhiều tác giả. Văn chương Tự lực văn đoàn – Nxb Giáo dục, 2001.
51. Nhiều tác giả. Văn học Việt Nam 1930 – 1945– Nxb Đại học và Giáo
dục chuyên nghiệp, 1988
52. Vũ Ngọc Phan. Xuân Diệu – nhà văn hiện đại – Nxb Tân Dân, 1942
53. Vũ Ngọc Phan. Nhà văn hiện đại, 4 tập – NXB Thăng Long, Sài Gòn,
1960
54. Hoàng Phê (chủ biên). Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, H
1992
55. Ngô Văn Phú( Chủ biên). Thanh Tịnh, nhà văn xứ Huế – Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội, 1993
56. Vũ Đức Phúc. Cái riêng và cái chung của tập thơ “Riêng chung” –
Nghiên cứu văn học 10/1961
57. Vũ Quần Phương. Vài kỷ niệm về anh Xuân Diệu – Xuân Diệu con
người và tác phẩm – Tác phẩm mới, 1987
58. Vũ Quần Phương. Lời giới thiệu Hồ Dzếnh – Tác phẩm chọn lọc –
Nxb Văn học, Hà Nội,1998
59. Lê Thị Hồ Quang. Mùa thu còn là một biểu tượng thời gian trong con
mắt Xuân Diệu – Tạp chí Ngôn ngữ số 15 năm 2001
60. Nguyễn Xuân Sanh. Xuân Diệu đôi suy ngẫm về bạn – Tạp chí Văn
học số 12/1995
61. Chu Văn Sơn. Ba đỉnh cao Thơ Mới: Xuân Diệu – Nguyễn Bính –
122
Hàn Mặc Tử - Nxb Giáo dục, 2003
62. Nguyễn Hữu Sơn. Đời và thơ Xuân Diệu – Đôi điều nhớ và cảm nhận
Tạp chí Văn học số 12/1995
63. Trần Đăng Suyền. Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo –
Nxb Văn học, 2004
64. Trần Đình Sử. Thời gian và quy cách là một chỉnh thể hình tượng
nghệ thuật – Luận án phó Tiến sĩ.
65. Bùi Việt Thắng. Truyện ngắn – Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn
thể loại – Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
66. Bùi Việt Thắng. Bình luận truyện ngắn – Nxb Văn học Hà Nội, 1999
67. Hoài Thanh. Thi nhân Việt Nam (viết chung) – Nxb Văn học, tái bản,
1988
68. Hoàng Trung Thông. Lời giới thiệu tuyển tập Xuân Diệu – Nxb văn
học – Hà Nội, 1983
69. Hoàng Trung Thông. Xuân Diệu từ nhà thơ lãng mạn đến nhà thơ
hiện thực – T1 – Nxb Văn học, 1986
70. Lưu Khánh Thơ. Thơ tình Xuân Diệu – Luận án phó Tiến sĩ – Viện
Văn học – 1994
71. Lưu Khánh Thơ. Cái tôi trữ tình và phương thức biểu hiện cái tôi tình
yêu trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng – Tạp chí Văn học số 10/1994
72. Lưu Khánh Thơ (Tuyển chọn và giới thiệu). Xuân Diệu, về tác giả và
tác phẩm – Nxb Giáo dục, 2005.
73. Lưu Khánh Thơ. Thơ và một số gương mặt Việt Nam hiện đại – Nxb
Khoa học xã hội, 2005.
74. Lưu Khánh Thơ. Xuân Diệu, một tài năngXuân Diệu về tác gia và tác
phẩm – Nxb Giáo dục,2005
75. Lưu Khánh Thơ (giới thiệu và tuyển chọn ), Xuân Diệu tác phẩm chọn
lọc – Nxb Giáo dục 2009
76. Bích Thu - Lưu Khánh Thơ (tuyểnchọn), Bùi Việt Thắng (giới thiệu)
123
.Tuyển tập truyện ngắn lãng mạn 1930-1945 – Nxb Văn học- Hà Nội, 2003
77. Lý Hoài Thu. Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945 – Nxb
Giáo dục, 2003
78. Nguyễn Thị Bích Thu- Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 30-45 (nhìn
từ góc độ thi pháp thể loại) – Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, 2007
79. Nguyễn Bích Thuận (Nghiên cứu và biên soạn). Xuân Diệu – Nxb
Đồng Nai, 2002
80. Hữu Thuận (biên soạn). Xuân Diệu – Con người và tác phẩm – Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 1987
81. Đỗ Lai Thúy. Con mắt thơ – Nxb Lao động, 1992
82. Thanh Tịnh –Tác phẩm chọn lọc – Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1998
83. Đỗ Tốn. Hoa vông vang – Nxb Đồng Tháp, 1989
84. Lê Minh Truyên. Thạch Lam với Tự lực văn đoàn, luận án tiến sỹ –
Viện Văn học, 2003
85. Hoài Thanh, Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam – Nxb Văn học Hà
Nội1995
86. Hà Xuân Trường. Một cây lớn nằm xuống cả khoảng trời trống vắng
in trong Xuân Diệu con người và tác phẩm – Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987
87. Vũ Thanh Việt. Thơ lãng mạn – Những lời bình- Nxb Văn hóa Thông
124
tin, 2000.