ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ AN NI ĐẶC TÍNH DÂN TỘC TRONG VIỆC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TRONG GIA ĐÌNH (Nghiên cứu trường hợp dân tộc Tày, xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn)

Chuyên ngành Mã số

: Xã hội học : 60 31 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS. Phạm Văn Quyết Hà Nội, 2009

MỤC LỤC

Trang

MỤC LỤC .................................................................................................................... 1

DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................................ 3

DANH MỤC CÁC HÌNH .............................................................................................. 3

DANH MỤC CÁC HỘP ................................................................................................ 3

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 4

1. Lý do lựa chọn đề tài ....................................................................................... 4

2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ............................................ 6

3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................ 6

4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ..................................................... 6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................. 7

6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết ...................................................... 8

NỘI DUNG CHÍNH ................................................................................................... 10

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU10

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng ........................................... 10

1.2. Hệ thống lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu ............................................ 10

1.3. Hệ thống khái niệm sử dụng trong đề tài ................................................... 13

1.4. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .................................................................... 18

1.5. Vài nét về địa bàn nghiên cứu .................................................................... 24

CHƢƠNG 2. ĐẶC TÍNH DÂN TỘC TRONG VIỆC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO

TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TRONG CÁC GIA ĐÌNH DÂN TỘC TÀY ................... 26

2.1. Kiến thức của cha mẹ trong lĩnh vực giới tính và tầm quan trọng của giáo dục

giới tính đối với trẻ vị thành niên ...................................................................... 26

2.1.1. Hiểu biết của cha mẹ về tuổi dậy thì, sự thay đổi tâm sinh lý và các mối

quan hệ bạn bè của con ................................................................................ 26

2.1.2. Quan niệm của cha mẹ về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân và

những điều cấm kỵ của dân tộc Tày liên quan tới vấn đề này .................... 38

2.1.3. Nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục giới tính đối với trẻ vị thành

niên ............................................................................................................... 44

2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục giới tính cho con trong độ tuổi vị thành

niên của cha mẹ người Tày ................................................................................ 46

2.2.1. Các nội dung về biến đổi tuổi dậy thì cha mẹ người Tày dạy cho con46

2.2.2. Phương pháp giáo dục giới tính của cha mẹ với con trong tuổi vị thành

niên ............................................................................................................... 53

2.2.3. Đánh giá của cha mẹ về kiến thức giới tính của con ......................... 61

2.3. Giáo dục giới tính trong gia đình nhìn từ góc độ trẻ vị thành niên ............ 63

2.3.1. Đánh giá về vai trò của gia đình trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị

thành niên ..................................................................................................... 63

2.3.2. Mong muốn về các thông tin giới tính được cung cấp ...................... 66

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................................ 68

1. Kết luận ..................................................................................................................... 68

2. Khuyến nghị ............................................................................................................. 70

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1. Hiểu biết của cha mẹ về sự thay đổi cơ thể ở con trai và con gái khi dậy thì 29

Bảng 2.2. Nhận xét của cha mẹ về sự thay đổi tâm lý khi trẻ dậy thì 30

Bảng 2.3. Tương quan giữa sự cần thiết trao đổi với con về biến đổi tuổi dậy thì và có

nói chuyện với con về vấn đề giới tính 45

Bảng 2.4. Tương quan giữa người có quyền quyết định cao nhất trong gia đình và người

nói với con về vấn đề giới tính 54

Bảng 2.5. Tương quan giữa thái độ của cha mẹ người Kinh và người Tày khi con hỏi về

vấn đề giới tính 56

Bảng 2.6. Tương quan giữa thái độ trả lời con về vấn đề giới tính và thời điểm chủ động

nói với con về vấn đề này 58

Bảng 2.7. Tương quan giữa hình thức cung cấp thông tin giữa cha và mẹ 60

Bảng 2.8. Tương quan giữa trình độ học vấn của cha mẹ và việc giới thiệu sách, báo, tạp

chí cho con tìm hiểu các kiến thức giới tính 60

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1. Tương quan giữa hiểu biết của cha và mẹ về số lần cần thay băng vệ sinh 33

Hình 2.2. So sánh giữa tâm trạng của cha mẹ người Tày và người Kinh khi con gái trong

tuổi vị thành niên mang thai 40

Hình 2.3. Hành động của cha mẹ khi con gái có thai 41

Hình 2.4. So sánh sự cần thiết trao đổi với con về các vấn đề liên quan tới tuổi dậy thì

giữa cha mẹ người dân tộc Kinh và dân tộc Tày 45

Hình 2.5. Hình thức cung cấp thông tin về giới tính cho trẻ vị thành niên 59

DANH MỤC CÁC HỘP

Hộp 2.1. Lễ cúng sláo lườn của người Tày 42

Hộp 2.2. Chuyện của Lộc Thị B 52

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Trong vài thập niên gần đây, các công trình nghiên cứu về tâm lý học, giáo dục

học cho thấy gia tốc phát triển của trẻ em rất nhanh. Điều này biểu hiện thông qua sự

trƣởng thành và chín muồi nhanh về sinh lý giới tính (tuổi dậy thì phát triển sớm hơn) và

sự phát triển của tâm lý giới tính (nhu cầu quan hệ giới tính phát triển, quan hệ với bạn bè

khác giới, ứng xử với bạn khác giới…). Ở lứa tuổi dậy thì, các em bắt đầu nảy sinh sự tò

mò khám phá bản thân, những cảm xúc, tâm lý, các trạng thái tình cảm mới mẻ, khác biệt

với những gì các em đã từng trải qua trƣớc đây. Mặc dù vậy, những kiến thức đƣợc trang

bị cho các em về vấn đề giới tính, tình bạn, tình yêu còn rất hạn chế và không đầy đủ,

chính xác. Là một nƣớc Á đông, giáo dục giới tính (GDGT) là một là một đề tài tế nhị

nên từ xƣa đến nay ít đƣợc đề cập tới. Nhiều ngƣời quan niệm rằng việc dạy dỗ cho trẻ

em về vấn đề này chính là “Vẽ đƣờng cho hƣơu chạy”. Chính vì vậy, trong một thời gian

dài trƣớc kia, cả nhà trƣờng, gia đình và xã hội đều hạn chế đề cập tới. Hiện nay, quan

niệm về vấn đề này đã cởi mở hơn nhƣng việc GDGT cũng còn nhiều bất cập. Trong nhà

trƣờng, những nội dung này thƣờng đƣợc lồng ghép trong môn Sinh học và Giáo dục

công dân. Cả giáo viên và học sinh đều có tâm lý ngại ngùng, xấu hổ khi giảng dạy về sự

phát triển của sinh lý nam và nữ. Trong gia đình, không phải bậc phụ huynh nào cũng có

kiến thức đầy đủ và hiểu đƣợc tầm quan trọng trong việc GDGT cho con ở lứa tuổi vị

thành niên (VTN). Nhƣ vậy, cả gia đình và nhà trƣờng đã không thực hiện đƣợc chức

năng giáo dục, cung cấp các thông tin hữu ích nhất, giải đáp những thắc mắc cho trẻ

trong lứa tuổi từ trẻ em dần trở thành ngƣời lớn. Trong khi ngoài xã hội, với sự bùng nổ

của các phƣơng tiện truyền thông đại chúng thì trẻ VTN lại có nhiều nguồn khác nhau để

tiếp cận với những loại thông tin này. Chính bởi sự lan tràn về thông tin nhƣ vậy khiến

VTN gặp nhiều khó khăn trong việc thu đƣợc với những thông tin mang tính khoa học,

thực sự cần thiết với các em.

Theo thống kế của Hội Kế hoạch hóa gia đình, cũng bởi thiếu sự hiểu biết trong

cách ứng xử trong tình bạn, tình yêu, cùng kiến thức hạn chế về vấn đề sức khoẻ sinh sản,

sức khoẻ tình dục mà Việt Nam mỗi năm có 1,2 triệu – 1,6 triệu ca nạo phá thai, trong đó

20% ở lứa tuổi VTN và là một trong ba nƣớc có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới [41]. Tại

bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004 có trên 30.000 trƣờng hợp nạo phá

thai, trong đó gần 5.000 em gái dƣới 19 tuổi [16]. Các trƣờng hợp nạo phá thai đều để lại

những hậu quả rất lớn cho chính bản thân nạn nhân và gia đình, xã hội.

Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số năm 1999, cả nƣớc có gần 24 triệu

ngƣời ở lứa tuổi VTN, thanh niên (10-24 tuổi), chiếm 31,6% tổng dân số. 22,2% nam

thanh niên chƣa lập gia đình đã có quan hệ tình dục (QHTD) trƣớc hôn nhân, trong số đó

có 21,5% QHTD với gái mại dâm; có trên 30% số ca nạo phá thai là phụ nữ trẻ chƣa lập

gia đình [17]. Nhìn vào những số liệu trên đây, thật đáng lo ngại cho tƣơng lai của thế hệ

trẻ nƣớc ta. Chính vì vậy, việc GDGT cho VTN, thanh niên dù không còn sớm nhƣng vẫn

có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Về đồng bào dân tộc ít ngƣời, một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ QHTD trƣớc hôn

nhân của thanh niên nhóm dân tộc thiểu số đã lập gia đình 15-24 tuổi tƣơng ứng là 39,8%

và 26,1% cho nhóm nam giới và nữ giới. Đây đƣợc coi là hành vi bình thƣờng theo

phong tục tập quán của một số dân tộc thiểu số. Tỷ lệ này cao hơn so với nhóm thanh

niên tuổi 18-25 chƣa lập gia đình (nam: 13,6% và nữ 2,2%). Trong số nữ thanh niên trả

lời đã QHTD trƣớc hôn nhân có 26,8% số chƣa lập gia đình trả lời đã từng có thai. Nhƣ

vậy cứ 4 ngƣời đã QHTD trƣớc hôn nhân thì 1 ngƣời đã mang thai [6].

Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có số dân khoảng

1.500.000 ngƣời, đông nhất trong các dân tộc thiểu số nƣớc ta. Ở Lạng Sơn, dân tộc Tày

chiếm số lƣợng đông đảo nhất. Là một dân tộc thiểu số lại nằm ở tỉnh phía Bắc Việt

Nam, đời sống của ngƣời dân ở đây còn gặp nhiều khó khăn và nhận thức cũng còn nhiều

hạn chế. Chính vì vậy, sự quan tâm của cha mẹ tới GDGT cho con cái trong lứa tuổi

VTN còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, yếu tố văn hóa dân tộc cũng có những ảnh hƣởng

nhất định tới việc GDGT cho con cái. Nghiên cứu “Đặc tính dân tộc trong việc giáo dục

giới tính cho trẻ vị thành niên trong gia đình (nghiên cứu trường hợp dân tộc Tày tại

xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn)” nhằm tìm hiểu các yếu tố, các đặc

trƣng của tộc ngƣời có ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới nhận thức của cha mẹ về tầm quan

trọng của việc GDGT cho con cái trong lứa tuổi VTN, cũng nhƣ những nội dung, phƣơng

pháp, cách thức họ dạy dỗ con về vấn đề này.

2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn

2.1 Ý nghĩa khoa học

- Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho việc xây dựng một chƣơng trình hỗ

trợ, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho cha mẹ thuộc nhóm các dân tộc ít ngƣời trong việc

GDGT cho con ở lứa tuổi VTN.

- Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ thêm những khái niệm, phƣơng pháp

của Xã hội học, góp phần bổ sung các tri thức thực tiễn vào hệ thống tri thức và phƣơng

pháp nghiên cứu môn xã hội học Gia đình, xã hội học Văn hóa.

2.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Kết quả nghiên cứu nhằm làm rõ yếu tố, các đặc trƣng của tộc ngƣời có tác động

tới việc GDGT cho con cái của cha mẹ, từ đó góp thêm tiếng nói vào việc tuyên truyền

giúp ngƣời dân và đặc biệt các bậc phụ huynh thuộc các dân tộc ít ngƣời có thêm hiểu

biết, nhận thức về tầm quan trọng của việc GDGT cho con cái ở lứa tuổi VTN, cũng nhƣ

hiểu rõ các nhu cầu, mong muốn của các em khi đƣợc học về vấn đề này.

- Kết quả nghiên cứu sẽ đƣợc gửi tới các nhà tài trợ cho một dự án phát triển cộng

đồng dành cho nhóm dân tộc thiểu số để hỗ trợ về kiến thức, kỹ năng cho phụ huynh, từ

đó giúp tăng cƣờng mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái thông qua các hình thức GDGT.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu nhằm tìm hiểu yếu tố văn hóa dân tộc trong quá trình GDGT cho trẻ

VTN trong gia đình, thể hiện qua những khía cạnh:

- Nhận thức của cha mẹ trong các gia đình dân tộc Tày về tầm quan trọng của việc

GDGT cũng nhƣ kiến thức của họ trong lĩnh vực này.

- Đặc tính dân tộc trong các phƣơng pháp và nội dung của cha mẹ để GDGT cho

trẻ VTN.

- Nhận xét của trẻ VTN về các kiến thức cha mẹ cung cấp cũng nhƣ đánh giá về

vai trò của gia đình trong việc GDGT cho chính các em.

4. Đối tượng, phạm vi và khách thể nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đặc tính dân tộc trong việc GDGT cho trẻ VTN trong gia đình ngƣời dân tộc Tày.

Tuy nhiên, nội dung GDGT trong nghiên cứu này đƣợc giới hạn trong khía cạnh cha mẹ

dạy dỗ cho trẻ VTN về những biến đổi tâm sinh lý trong lứa tuổi dậy thì và cách vệ sinh

thân thể, những cách ứng xử trong mối quan hệ bạn cùng giới, khác giới, trong tình bạn,

tình yêu.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian nghiên cứu: Tại 6 bản thuộc xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh

Lạng Sơn.

- Thời gian nghiên cứu: Tháng 2 năm 2008 - tháng 9 năm 2009

4.3. Khách thể nghiên cứu

- Các bậc cha mẹ trong các gia đình dân tộc Tày có con trong lứa tuổi 13 - 18

- Trẻ em trong lứa tuổi 13 – 18 có cha, mẹ là ngƣời dân tộc Tày

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp thu thập thông tin

5.1.1. Phương pháp phân tích tài liệu

Phƣơng pháp này đƣợc vận dụng trong quá trình tác giả xây dựng đề cƣơng nghiên

cứu cũng nhƣ trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.

Tài liệu là kết quả nghiên cứu của các đề tài, các dự án đã có, bài viết trên các báo

in, tạp chí, các trang báo điện tử và các số liệu thống kê có liên quan tới đề tài nghiên

cứu.

5.1.2. Phương pháp quan sát

Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong quá trình thu thập số liệu tại địa bàn nghiên

cứu. Tác giả đã có 3 tuần sống cùng một gia đình ngƣời dân tộc Tày và tiếp xúc với nhiều

bậc cha mẹ, VTN ngƣời Tày trong quá trình PVS và phỏng vấn bằng bảng hỏi tại xã Tân

Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.

Các thông tin thu đƣợc từ phƣơng pháp quan sát có ý nghĩa hết sức quan trọng

trong nghiên cứu này. Đó là những thông tin bổ sung, kiểm chứng cho các thông tin thu

đƣợc từ các phƣơng pháp khác.

5.1.3. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi

Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng với cha mẹ là ngƣời dân tộc Tày, có con trong độ

tuổi 13 – 18 tại 6 thôn của xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, Lạng Sơn. Tác giả đã tiến

hành phỏng vấn bằng bảng hỏi với 145 vị phụ huynh và xử lý toàn bộ số phiếu thu về.

Bảng hỏi đƣợc xây dựng với 27 câu hỏi chia làm 5 phần bao gồm: kiến thức của

cha mẹ về vấn đề giới tính, các nội dung về giới tính cha mẹ dạy dỗ con cái, thái độ về

QHTD, mang thai trƣớc khi cƣới, cách thức dạy bảo con cái về vấn đề giới tính và thông

tin chung về bản thân, gia đình ngƣời đƣợc phỏng vấn. Do đặc thù là nhóm ngƣời ở vùng

cao, trình độ học vấn hạn chế, lại là những ngƣời dân tộc thiểu số nên các câu hỏi đƣợc

đƣa ra hết sức đơn giản với từ ngữ dễ hiểu, tránh dùng các thuật ngữ chuyên môn, khoa

học vẫn thƣờng hay dùng khi đề cập tới vấn đề GDGT.

Bảng hỏi thu về đƣợc xử lý trên phần mềm SPSS.

5.1.4. Phương pháp phỏng vấn sâu

- Phỏng vấn sâu (PVS) đƣợc áp dụng với 15 trẻ em trong độ tuổi 13 – 18 tuổi

nhằm tìm hiểu những kiến thức của các em về vấn đề giới tính, cảm giác của các em khi

trải qua giai đoạn có sự thay đổi về cơ thể, tâm lý, các thông tin nhận đƣợc từ cha mẹ

cũng nhƣ đánh giá vai trò của cha mẹ trong việc dạy dỗ các em về vấn đề này.

- PVS cũng đƣợc sử dụng với 8 cha mẹ có con trong tuổi 13 – 18 để tìm hiểu

những phong tục tập quán của ngƣời Tày có ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới các vấn đề giới

tính cha mẹ dạy dỗ cho con, nhận thức của họ về tầm quan trọng của việc GDGT cho con

cũng nhƣ phƣơng pháp giáo dục của cha mẹ.

Các thông tin thu đƣợc từ PVS đƣợc xử lý trên phần mềm Nvivo.

5.2. Phương pháp chọn mẫu

Toàn bộ cha mẹ trong các gia đình dân tộc Tày có con trong độ tuổi 13 – 18 ở xã

Tân Thanh đều đƣợc mời tham gia phỏng vấn bằng bảng hỏi. Tổng số mẫu đƣợc phỏng

vấn bằng bảng hỏi là 145. Mẫu đƣợc chọn để PVS là có chủ định phù hợp với mục đích

nghiên cứu.

Theo Tổ chức Y tế thế giới, VTN đƣợc định nghĩa là nhóm ngƣời trong độ tuổi 10

– 19. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, tác giả chọn nhóm VTN trong độ tuổi 13 – 18

cũng nhƣ các bậc phụ huynh có con trong độ tuổi này bởi thực tế ở Việt Nam, độ tuổi dậy

thì trung bình ở nữ là 14,4 [6, tr.16] và khi tròn 18 tuổi cá nhân đã hoàn toàn trở thành

một thực thể độc lập, chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật.

6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết

6.1. Giả thuyết nghiên cứu

- Cha mẹ ngƣời dân tộc Tày có giáo dục con về vấn đề giới tính nhƣng chỉ dựa trên trải

nghiệm của bản thân.

- Tâm sự, giải thích, nói chuyện trực tiếp là hình thức chủ yếu cha mẹ giáo dục giới tính

cho con trong tuổi VTN.

- Gia đình không phải là nguồn chính cung cấp thông tin giới tính cho trẻ vị thành niên.

- So với cha mẹ ngƣời Kinh ở Nam Định, tỷ lệ cha mẹ ngƣời Tày ở Tân Thanh nhận thức

đƣợc tầm quan trọng của việc GDGT cho trẻ VTN thấp hơn.

Điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội, đặc trưng tộc người

6.2. Khung lý thuyết

Hình thức và nội dung GDGT

Nhận thức của cha mẹ về tầm quan trọng của GDGT cho trẻ VTN

Kiến thức và kỹ năng của cha mẹ trong việc GDGT cho trẻ VTN

Kết quả

Đánh giá về vai trò của gia đình trong việc GDGT từ góc độ trẻ VTN Mong muốn của trẻ VTN về vấn đề cung cấp thông tin GDGT

NỘI DUNG CHÍNH

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận cơ bản, là nguyên tắc cho mọi khoa

học nói chung và khoa học xã hội nói riêng. Vận dụng tổng hợp những lý luận này tuân

theo các yêu cầu sau:

- Những quy luật vận động phát triển của xã hội phải đƣợc xem xét khách quan

nhƣ nó đang tồn tại;

- Những hiện tƣợng xã hội phải đƣợc xem xét trong mối quan hệ biện chứng với

nhau;

- Xem xét các hiện tƣợng xã hội phải hƣớng đến cái bản chất, không tới cái ngẫu

nhiên, bất bình thƣờng;

- Tuân thủ các nguyên tắc lịch sử cụ thể;

- Xem xét yếu tố con ngƣời mang bản chất xã hội, trong tính hiện thực của nó

“con ngƣời là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, đồng thời cũng là chủ thể của

xã hội; từ đó coi việc ra sức phát huy nhân tố con ngƣời, con chiến lƣợc con

ngƣời là điểm mấu chốt của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Trong đề tài này, các nguyên lý cơ bản nêu trên đƣợc vận dụng để tìm hiểu tính

dân tộc trong việc GDGT cho trẻ VTN trong gia đình ngƣời dân tộc Tày. Cụ thể là tác giả

tìm hiểu các phong tục, những kiêng kỵ của tộc ngƣời có ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới việc

GDGT cho trẻ; sự giao lƣu văn hóa, kinh tế có tác động tới nội dung, phƣơng pháp giáo

dục trẻ ra sao.

1.2. Hệ thống lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu

1.2.1. Phương pháp luận dân tộc học

Phƣơng pháp luận dân tộc học cũng là một lĩnh vực xã hội học quan tâm tới vì nó

nghiên cứu toàn bộ tri thức, hành vi ứng xử, những quá trình, nếp sống, lối sống của một

nhóm ngƣời trong xã hội trên cơ sở giải thích những loại hành động xã hội, những phong

tục tập quán truyền thống của xã hội. Tác giả nổi tiếng của trƣờng phái phƣơng pháp luận

dân tộc học là Harold Garfinkel.

- Phƣơng pháp nghiên cứu thiết chế xã hội: Để nghiên cứu thiết chế xã hội, việc

nghiên cứu môi trƣờng thiết chế, mối quan hệ của môi trƣờng thiết chế có ý nghĩa quan

trọng để xác định những mô hình hành vi ứng xử, xác định phong tục tập quán của các

nhóm xã hội khác nhau. Do đó, mỗi thành viên trong cộng đồng có xu hƣớng tuân thủ các

giá trị của tập thể hay các mô hình mà mọi ngƣời xung quanh thừa nhận. Theo Harold

Garfinkel, để nghiên cứu thiết chế cần sử dụng phƣơng pháp phân tích đàm thoại, qua đó

có thể hiểu một cách chi tiết, cụ thể những cơ cấu cơ bản của tƣơng tác ngƣời trong đàm

thoại, trên cơ sở đó nghiên cứu đƣợc những hành vi hoặc phản xạ vô thức tiềm ẩn.

- Phƣơng pháp nghiên cứu hành vi thƣờng ngày: Trong quá trình nghiên cứu hoạt

động thƣờng ngày, những cân nhắc, tính toán của các chủ thể hành động chính là hình

thức gián tiếp mô tả, đánh giá những ý tƣởng hoặc những tình huống xã hội đặc thù. Để

nghiên cứu hành vi thƣờng ngày, các phƣơng pháp tƣờng thuật, mô tả, phân tích đàm

thoại đƣợc sử dụng một cách triệt để. Trên cơ sở đề nghị đối tƣợng bị nghiên cứu tƣờng

thuật lại những hành động cụ thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, nhà nghiên cứu có

thể đánh giá mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng hoặc cả cộng đồng với toàn xã hội.

Đây là những phản ánh chủ quan về đời sống xã hội khách quan, từ đó giải thích đƣợc

mô hình hành vi của các nhóm dân cƣ.

- Cũng theo Harold Garfinkel, thói quen xã hội và những hành vi tiềm thức có ý

nghĩa quan trọng giúp xác định mô hình ứng xử, phong tục tập quán của cá nhân và nhóm

xã hội. Những thói quen và hành vi tiềm thức đó thƣờng đƣợc bộc lộ trong các đàm thoại

khi chủ thể không có ý thức kiểm soát lời nói hoặc hành vi của mình vì bị lôi cuốn vào

mục tiêu của cuộc đàm thoại. Chính vì vậy, hành vi tiềm thức và thói quen xã hội là

những đối tƣợng nghiên cứu quan trọng theo lý thuyết phƣơng pháp dân tộc học.

Tóm lại, trong nghiên cứu này, phƣơng pháp luận dân tộc học đƣợc sử dụng để

nghiên cứu về các đặc trung của tộc ngƣời có ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới nhận thức cũng

nhƣ hình thức, nội dung đƣợc cha mẹ lựa chọn trong việc GDGT cho trẻ VTN trong các

gia đình ngƣời dân tộc Tày một cách khách quan, không áp đặt ý thức chủ quan của tác

giả. Việc cùng sống, sinh hoạt và tiếp xúc với ngƣời Tày trong 3 tuần giúp tác giả tìm

hiểu đƣợc cuộc sống thực tế của ngƣời Tày ở Lạng Sơn.

1.2.2. Thuyết Vai trò xã hội

Vai trò là tập hợp các mong đợi, các quyền và những nghĩa vụ đƣợc gán cho một

địa vị cụ thể. Những sự mong đợi này xác định các hành vi của con ngƣời đƣợc xem nhƣ

là phù hợp và không phù hợp đối với ngƣời chiếm giữ một địa vị. Mỗi cá nhân có một

loạt vai trò đƣợc đem lại từ những hình mẫu xã hội khác nhau mà anh ta tham dự. Trong

cả cuộc đời, mỗi cá nhân thực hiện một số những vai trò khác nhau và tổng hợp tất cả các

vai trò xã hội của anh ta đã thực hiện từ khi sinh ra cho đến lúc chết tạo thành nhân cách

xã hội của chính ngƣời đó.

Tƣơng ứng với mỗi quan hệ xã hội, cá nhân có một địa vị xã hội, nhƣng cá nhân

thƣờng có rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau, do vậy họ cũng có nhiều địa vị khác nhau.

Mỗi địa vị đó tƣơng ứng với một vai trò cụ thể. Chính vì vậy một cá nhân luôn có nhiều

vai trò khác nhau. Do đó, Merton đã đƣa ra khái niệm hệ vai trò để chỉ một cấu trúc gồm

các vai trò và các quan hệ của chúng mà cá nhân thực hiện khi nắm giữ một địa vị xã hội

nhất định.

Talcott Parsons đã phân tất cả các loại vai trò đa dạng khác nhau của cá nhân

thành năm loại cơ bản:

- Một số vai trò đòi hỏi sự kiềm chế tình cảm khi thực hiện, trong khi một số vai

trò khác lại không cần sự kiềm chế này.

- Một số vai trò xã hội dựa trên địa vị đã có sẵn, một số vai trò dựa trên địa vị

đạt đƣợc.

- Một số vai trò đƣợc xác định hẹp còn một số khác lại đƣợc xác định rộng.

- Một số vai trò đòi hỏi các cá nhân có thái độ ứng xử với mọi ngƣời theo các

nguyên tắc chung; ngƣợc lại, một số vai trò khác đòi hỏi phải đối xử với ngƣời

khác theo cách đặc thù vì những quan hệ đặc biệt với họ.

- Các vai trò khác nhau có những động cơ khác nhau.

Theo năm loại vai trò do Parsons phân định, trong gia đình, vai trò của cha mẹ dựa

trên địa vị đã có sẵn, và khi đó gia đình trở thành một thiết chế giáo dục, đóng vai trò xã

hội hóa trẻ em và do đó, cha mẹ đóng vai trò là những nhà sƣ phạm, giúp con cái hòa

nhập, thích nghi với xã hội. Trong nghiên cứu này, vai trò xã hội của cha mẹ đƣợc xem

xét từ khía cạnh giáo dục, xã hội hóa cho con ở tuổi VTN về vấn đề tuổi dậy thì, tình bạn

tình yêu.

1.2.3. Thuyết Tương tác xã hội

Tƣơng tác là đơn vị cơ bản của sự kiện xã hội mà tại đó con ngƣời định hƣớng

hành vi của họ vào nhau mà trong đó, trƣớc tiên, những ngƣời tham gia phải thông tin

cho nhau về hoàn cảnh tƣơng tác. Tƣơng tác chịu ảnh hƣởng của chuẩn mực và vai trò xã

hội, của hình mẫu hành vi đƣợc thừa nhận và cả kỳ vọng của những ngƣời tham gia.

Tƣơng tác xã hội là khái niệm trung tâm trong tƣ tƣởng xã hội học của Simmel.

Cơ sở xuất phát điểm của Simmel là tác động qua lại giữa các bộ phận của thực tiễn:

“Chúng ta phải chấp nhận nhƣ là 1 nguyên tắc hợp thức cho cả thế giới là tất cả đều nằm

trong một quan hệ qua lại nào đó”. Theo Simmel, xã hội là kết quả của tác động qua lại

giữa các cá thể, các nhóm và thành phần xã hội khác cấu tạo nên, trong đó các nhân tố

không chỉ là các cá thể mà còn là các nhóm, các thành phần xã hội đông đảo khác.

Trong nghiên cứu này, thuyết Tƣơng tác xã hội đƣợc sử dụng để lý giải cho cách

thức các bậc cha mẹ lựa chọn để trò chuyện, tâm sự, dạy dỗ con cái về vấn đề liên quan

tới tuổi dậy thì, các cách ứng xử trong mối quan hệ giữa bạn cùng giới, bạn khác giới, về

tình bạn, tình yêu.

1.3. Hệ thống khái niệm sử dụng trong đề tài

1.3.1. Đặc tính dân tộc

Đặc tính là tính chất riêng, không giống với tính chất các sự vật khác.

Dân tộc là tên gọi chung những cộng đồng ngƣời cùng chung một ngôn ngữ, lãnh

thổ, đời sống kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc. Theo cách hiểu

của các nhà dân tộc học, dân tộc thực chất phải đƣợc hiểu là tộc ngƣời (ethnic). Tộc

ngƣời là hình thái đặc biệt của một tập đoàn xã hội xuất hiện không phải do ý nguyện của

con ngƣời mà là trong kết quả của quá trình tự nhiên lịch sử. Điểm đặc trƣng của các tộc

ngƣời là có tính bền vững và giống nhƣ là những quy tắc, các tộc ngƣời tồn tại hàng

nghìn năm. Mỗi tộc ngƣời có sự thống nhất bên trong xác định, cả những nét đặc thù để

phân định nó với các tộc ngƣời khác [14].

Theo đó, trong nghiên cứu này, đặc tính dân tộc đƣợc hiểu là những nét tiêu biểu,

đặc trƣng về văn hóa, phong tục tập quán, suy nghĩ, lối sống (sinh hoạt, giao tiếp, thói

quen...) của nhóm ngƣời dân tộc thiểu số, cụ thể là dân tộc Tày.

Trong đời sống hàng ngày, ngƣời Tày rất coi trọng thứ bậc tôn ty trật tự trong gia

đình. Việc cha mẹ dạy bảo con cái rất đƣợc quan tâm tới tuy nhiên chỉ ở góc độ giáo dục

cách ứng xử, lễ phép thông thƣờng. Những vấn đề “tế nhị”, “nhạy cảm” liên quan tới mối

quan hệ nam nữ, sự phát triển tâm sinh lý tuổi dậy thì ít đƣợc đề cập tới một cách thẳng

thắn. Mẹ thƣờng nói riêng với con gái, cha ít nói với con trai bởi chính trong suy nghĩ của

mình họ cũng cho rằng các em khắc lớn khắc biết.

1.3.2. Khái niệm Giới

Khái niệm giới đƣợc hiểu là những đặc điểm, tính cách, cách ứng xử, vai trò và

trách nhiệm của con trai và con gái mà xã hội quy định. Các đặc điểm này đƣợc hình

thành từ cuộc sống, chịu ảnh hƣởng của gia đình, bạn bè, tôn giáo, văn hóa, nhà trƣờng,

báo chí… Các đặc điểm này có thể thay đổi đƣợc.

1.3.3. Khái niệm Giới tính

Giới tính là khái niệm chỉ tập hợp những đặc điểm, tính chất riêng biệt tạo nên sự

khác nhau giữa nam và nữ, những đặc điểm ấy giúp ta phân biệt đƣợc dễ dàng nam và nữ.

Giới tính hình thành từ hai nguồn gốc:

- Nguồn gốc sinh học: nam với nhiễm sắc thể XY, nữ là nhiễm sắc thể XX; nhiễm

sắc thể quy định tính trạng nam, nữ là Y, X. Cấu tạo cơ thể, nội tiết, tâm sinh lý bắt

nguồn từ đó.

- Nguồn gốc xã hội: tình cảm, ý thức đƣợc hình thành qua giao tiếp dƣới ảnh

hƣởng của giáo dục, xã hội. Mỗi xã hội có sự phân công lao động riêng, có quan niệm về

giới tính theo những chuẩn mực đạo đức và văn hóa nhất định.

Nhƣ vậy, giới tính là chỉ sự phân biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ, theo đó các

đặc điểm về giới tính không thể thay đổi đƣợc trừ khi phẫu thuật.

1.3.4. Khái niệm Giáo dục giới tính

Có nhiều định nghĩa khác nhau về GDGT.

1.3.4.1. Định nghĩa của A.G.Khơricôpva và D.B.Kôlêxốp

“GDGT là một quá trình hƣớng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất,

những đặc trƣng và khuynh hƣớng phát triển của nhân cách nhằm xác định thái độ xã hội

cần thiết của con ngƣời đối với những thuộc giới khác” [29, tr.15]

Định nghĩa này cho thấy phạm vi của GDGT không chỉ bó hẹp ở việc giáo dục

mối quan hệ giữa nam và nữ mà bao gồm cả việc giáo dục những mối quan hệ nam nữ

trong đời sống cũng nhƣ học tập, lao động, nghỉ ngơi, giải trí… Giáo dục cho con ngƣời

biết rèn luyện những phẩm chất giới tính nhằm phát huy thế mạnh của giới tính.

1.3.4.2. Định nghĩa theo Bách khoa toàn thư y học phổ thông (Pêtrôpxki chủ biên)

“GDGT là hệ thống các biện pháp y khoa và sƣ phạm nhằm giáo dục cho nhi

đồng, thanh niên và thiếu niên có thái độ đúng đắn đối với các vấn đề giới tính” [29,

tr.16]. Định nghĩa này ngoài góc độ giáo dục còn đứng ở góc độ y học để xem xét nội

dung GDGT, giúp thế hệ trẻ biết bảo vệ sức khoẻ của chính mình và những ngƣời khác

trong quan hệ nam nữ.

1.3.4.3. Định nghĩa theo Từ điển bách khoa về giáo dục

“GDGT là giáo dục về chức năng làm một con ngƣời có giới tính. Điều quan trọng

là đề cập vấn đề giới tính một cách công khai và đầy đủ trong lớp học, từ nhà trẻ đến đại

học, giúp cho học sinh cảm thấy an toàn và tự do trong việc biểu lộ các cảm xúc liên

quan đến đời sống giới tính”. Định nghĩa này nêu bật đƣợc bản chất của công tác GDGT,

đó là sự định hƣớng cho thế hệ trẻ cách sống đúng đắn của con ngƣời có giới tính. Việc

giúp cho thế hệ trẻ “làm một con ngƣời có giới tính” là việc làm hết sức cần thiết trong

cuộc sống. Nhiều ngƣời không nhận thức đƣợc việc thiếu “nữ tính” của phụ nữ hoặc

“nam tính” của đàn ông là một tai hại. Những “tính nam”, “tính nữ” này không thể hình

thành một cách tự nhiên mà con ngƣời phải trải qua một quá trình đƣợc giáo dục, đƣợc

rèn luyện mới có đƣợc. Ngay chức năng giới tính mà thiên nhiên đã ban phú cho ngƣời

đàn ông và ngƣời đàn bà đó là chức năng truyền giống ở đàn ông, chức năng sinh đẻ ở

đàn bà cũng cần đƣợc giải thích làm sáng tỏ cơ sở khoa học của sự hoạt động có quy luật

của hành vi tình dục nhằm mang lại “sự an toàn và tự do” cho con ngƣời. Con ngƣời chỉ

cảm thấy “tự do” khi đã nắm vững đƣợc cái “tất yếu”, những quy luật phát triển sinh lý,

tâm lý của con ngƣời.

1.3.4.4. Định nghĩa của D.N.Ixaev và V.E.Kagan

Theo D.N.Ixaev và V.E.Kagan, GDGT cần đƣợc hiểu theo hai nghĩa. Trƣớc hết,

theo nghĩa rộng, thuật ngữ GDGT chỉ sự ảnh hƣởng của môi trƣờng đến sự phát triển tâm

lý tình dục và sự hình thành cá nhân. Môi trƣờng bao quanh con ngƣời là thực thể nhiều

mặt và cơ động, không phải lúc nào cũng hoạch định đƣợc hay mong muốn đƣợc những

ảnh hƣởng của nó. GDGT là một bộ phận hợp thành của giáo dục học đại cƣơng “Giáo

dục phải đảm bảo sự phát triển tự do và vui sƣớng của mọi thể hiện tăng trƣởng của con

ngƣời từ bầu vú mẹ đến chiếc giƣờng chung vợ chồng” [29, tr.17].

Theo nghĩa hẹp, GDGT là một quá trình tác động có hệ thống, đƣợc hoạch định và

thực hiện một cách có ý thức, hƣớng tới kết quả cuối cùng xác định vào sự phát triển tâm

lý và thể chất của em trai và em gái với mục đích tối ƣu hóa sự phát triển nhân cách và

hoạt động của chúng trong mọi lĩnh vực của đời sống có liên quan tới các mối quan hệ

của hai giới.

Tóm lại: GDGT là một vấn đề quan trọng trong việc giáo dục sự phát triển toàn diện của

con ngƣời. GDGT nhằm bồi dƣỡng cho thế hệ trẻ những hiểu biết cần thiết về giới tính,

giúp họ có thái độ và kỹ năng giao tiếp, ứng xử lịch sự, văn minh trong quan hệ với ngƣời

khác giới trong hoạt động và đời sống xã hội. GDGT chủ yếu hƣớng vào thế hệ trẻ trƣớc

hôn nhân. Ở nhiều nƣớc, GDGT đƣợc tiến hành từ lứa tuổi mẫu giáo và đặc biệt đƣợc

quan tâm ở giai đoạn tuổi dậy thì và thanh niên.

Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, các nội dung GDGT cha mẹ ngƣời Tày dạy con đƣợc

nghiên cứu là:

- Giải thích về sự thay đổi của cơ thể khi trẻ bƣớc vào tuổi dậy thì

- Hƣớng dẫn vệ sinh thân thể khi con có những dấu hiệu dậy thì

- Hƣớng dẫn cách ứng xử trong cuộc sống hàng ngày với ngƣời lớn tuổi, bạn cùng giới,

bạn khác giới.

1.3.5. Khái niệm Vị thành niên

VTN là giai đoạn đặc biệt của cuộc đời con ngƣời. Đó là bƣớc quá độ từ tuổi ấu

thơ trở thành ngƣời lớn. Có nhiều quan điểm khác nhau về tuổi VTN. Sự phân chia độ

tuổi VTN ở các quốc gia, các chủng tộc và các khu vực khác nhau cũng rất khác nhau.

Tuy nhiên, có một điểm thống nhất là VTN nghĩa là ngƣời chƣa trƣởng thành và còn do

ngƣời lớn giám hộ.

Theo WHO, VTN có độ tuổi từ 10 đến 19 tuổi. Trên cơ sở quan niệm này, ngƣời

ta thƣờng phân chia VTN thành ba nhóm: VTN sớm: 10 – 14 tuổi, VTN trung: 15 – 17

tuổi và VTN muộn: 18 – 19 tuổi.

Ở Việt Nam, pháp luật quy định từ 18 tuổi trở lên thì một con ngƣời có đầy đủ

những quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân độc lập. Từ 18 tuổi họ có quyền kết hôn

và sinh con, nghĩa là khi đó họ không còn là VTN nữa. Do vậy, VTN ở nƣớc ta thƣờng

đƣợc xác định trong độ tuổi từ 10 đến trƣớc 18 tuổi.

VTN là giai đoạn trải qua quá trình dậy thì ở cuộc đời con ngƣời. Chính vì thế, ở

giai đoạn này từng bƣớc có sự thay đổi toàn diện về tâm sinh lý và tình cảm:

- Sự phát triển của các cơ quan sinh sản, sự xuất hiện của ham muốn tình dục. Nếu

trƣớc đây nhu cầu tình dục tồn tại ở dạng tiềm năng thì nay nó trở thành một động lực

thực sự và đƣợc biểu hiện một cách nào đó trong các hành vi của chủ thể.

- Sự thay đổi những năng lực tâm lý, đó là sự biểu hiện của cá tính, sự hiện diện rõ

nét của các kiểu dạng tâm lý, VTN tự ý thức về bản thân, đề cao cái tôi cá nhân, muốn

khẳng định mình, muốn trở thành ngƣời lớn.

- Xuất hiện những sắc thái tình cảm khác nhau do sự biến đổi của các năng lực

tình dục và tâm lý. Những trạng thái tình cảm luôn biến đổi thất thƣờng là nét đặc trƣng

của tuổi VTN. Vì thế ở VTN xuất hiện những tình cảm mới lạ, những bất thƣờng trong

ứng xử, hành vi và có sự thay đổi rõ nét trong mối quan hệ với gia đình, bạn bè và xã hội.

Nhƣ vậy, trong giai đoạn không còn là trẻ con cũng chƣa trở thành ngƣời lớn, đặc

trƣng cơ bản của VTN là sự tăng trƣởng nhanh về thể chất với việc hoàn thiện cơ quan

sinh sản và sự phát triển về nhân cách.

1.3.6. Khái niệm Gia đình

Gia đình đƣợc tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO)

định nghĩa: “Gia đình là một nhóm ngƣời có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có

cùng ngân sách chung”. Nhƣ vậy, gia đình là một nhóm xã hội đặc biệt gắn bó với nhau

bởi huyết thống và tình cảm. Gia đình đƣợc hình thành trên cơ sở hôn nhân, và quan hệ

huyết thống có đƣợc từ hôn nhân đó.

Gia đình là một thiết chế đặc biệt, có nhiều chức năng khác nhau và đầu tiên phải

kể tới là chức năng xã hội hóa. Gia đình là môi trƣờng giáo dục đầu tiên giúp cá nhân

thích nghi, làm quen với đời sống xã hội. Chính vì vậy, gia đình có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng trong việc giáo dục cho các thành viên để hòa nhập với xã hội.

1.3.7. Giáo dục giới tính cho vị thành niên trong gia đình

GDGT là một phần của hoạt động giáo dục trong gia đình, chuẩn bị các kiến thức

cần thiết cho VTN để các em có tâm lý vững vàng, biết cách ứng phó với những thay đổi

bất ngờ về sinh lý cũng nhƣ tâm lý ở độ tuổi mới lớn. Tuy nhiên hiện nay việc GDGT

trong các gia đình Việt Nam nói chung và gia đình ngƣời dân tộc Tày nói riêng vẫn chƣa

đƣợc chú trọng và quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề

này có ý nghĩa quan trọng để góp phần thúc đẩy việc nâng cao vai trò của gia đình trong

việc GDGT cho thế hệ tƣơng lai.

1.4. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

1.4.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về vấn đề giáo dục giới tính

GDGT không phải là một chủ đề mới trong các nghiên cứu, bài viết, đã có rất

nhiều nghiên cứu, bài báo, sách viết về đề tài này ở những khía cạnh khác nhau.

Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả xin đề cập tới một số bài viết, nghiên

cứu, luận án tiêu biểu trong lĩnh vực này.

Cuốn sách “Giáo dục giới tính” của tác giả Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Thị Đoan,

nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1997 khẳng định tầm quan trọng của việc

GDGT, đó là quá trình rèn luyện cho thế hệ trẻ những phẩm chất, tính cách, hành vi và

thái độ cần thiết, đúng đắn trong quan hệ với ngƣời khác giới, hình thành ở họ những

quan hệ đạo đức lành mạnh cũng nhƣ tình cảm trong sáng, đẹp đẽ giữa nam và nữ. Từ

cuốn sách này, ngƣời đọc sẽ có ý thức về việc GDGT là một phần quan trọng trong nội

dung giáo dục đời sống gia đình. Tuy nhiên, cuốn sách này cũng chỉ dừng lại ở việc cung

cấp các kiến thức cơ bản về vấn đề GDGT cho trẻ em trong gia đình.

Cuốn sách “Giáo dục giới tính vì sự phát triển của vị thành niên” của Bác sỹ Đào

Xuân Dũng, nhà xuất bản Đại học Quốc gia năm 2002 giới thiệu một cách toàn diện đầy

đủ về vấn đề GDGT, từ định nghĩa về GDGT, mục đích, ý nghĩa, nội dung, phƣơng pháp

GDGT tới vai trò của gia đình, của cha mẹ trong việc hình thành nhân cách cho con cái.

Nhƣng cuốn sách này cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu một cách tổng quát các nội dung

GDGT cần thiết cho VTN.

Cuốn sách “Giáo dục giới tính cho con” của nhóm tác giả Nguyễn Thanh Bình,

Vũ Thị Sơn, Lƣu Thu Thủy và Đào Thị Oanh, nhà xuất bản Giáo dục năm 2001 đề cập

tới vai trò của gia đình trong GDGT và những vấn đề chung của gia đình với việc GDGT

cho con, những nội dung GDGT cụ thể, những điều cần quan tâm trong GDGT qua từng

giai đoạn phát triển tâm lý giới tính, cách giải quyết một số tình huống điển hình có thể

xảy ra trong thực tế.

Cuốn sách “Tâm lý học giới tính và giáo dục giới tính” của tác giả Bùi Ngọc

Oánh, nhà xuất bản Giáo dục năm 2006 đã nêu lên những vấn đề chung về giới tính và

tâm lý học giới tính, các khái niệm giới và giới tính, sự hình thành và phát triển giới tính,

một số vấn đề điển hình của đời sống giới tính, GDGT và những vấn đề thực tiễn. Các

vấn đề lý luận, thực tiễn trong cuốn sách này đƣợc trình bày theo hƣớng hệ thống hóa lý

luận cơ bản của khoa học giới tính, và mối tƣơng quan giữa chúng với các chuyên ngành

khoa học có liên quan.

Bài viết “Về vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ em trong gia đình” của tác giả

Nguyễn Thị Tố Quyên trên Tạp chí Xã hội học số 1, năm 2005 cho thấy 61,6% bố mẹ

thấy cần thiết phải trao đổi với con về vấn đề giới tính, trong đó 56,6% ông bố và 64,3%

bà mẹ cho rằng cần phải giáo dục về vấn đề này (trang 87). Liên quan tới phƣơng pháp

GDGT, bài viết cũng đã chỉ ra một thực tế ngoài việc trò chuyện trực tiếp, có tới 20,5%

ông bố và 24,2% bà mẹ cho rằng chỉ cần GDGT, tình dục và SKSS cho con bằng việc

mua sách báo cho chúng tự học, không cần trao đổi hay nói chuyện trực tiếp về vấn đề

này. Bài viết này đã chỉ ra đƣợc thực trạng hiện nay trong việc GDGT của các gia đình,

tuy nhiên chƣa lý giải đƣợc những nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó.

Luận án phó tiến sỹ khoa học tâm lý “Những yếu tố tâm lý trong sự chấp nhận

giáo dục giới tính cho thanh niên, học sinh” của tác giả Bùi Ngọc Oánh đã phát hiện

đƣợc những yếu tố tâm lý ảnh hƣởng tới sự chấp nhận GDGT ở thanh niên học sinh, từ

đó đề xuất một số phƣơng hƣớng, biện pháp nhằm nâng cao sự chấp nhận đó ở thanh

niên, học sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ tìm hiểu sự chấp nhận GDGT trong

nhà trƣờng mà chƣa đề cập tới khía cạnh GDGT trong gia đình.

Luận án tiến sỹ giáo dục “Một số biện pháp giáo dục giới tính cho sinh viên Đại

học Sư phạm” của nghiên cứu sinh Phan Bích Ngọc nhằm đánh giá thực trạng sử dụng

biện pháp GDGT cho sinh viên đại học sƣ phạm và đƣa ra các biện pháp, nội dung

GDGT cho họ. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào nhóm đối tƣợng đặc thù là

sinh viên trong trƣờng Đại học Sƣ phạm.

Tóm lại, các cuốn sách, bài viết nêu trên mới chỉ đƣa ra đƣợc những nội dung

nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản cho ngƣời đọc cũng nhƣ nêu lên tầm quan trọng,

vai trò của gia đình, nhà trƣờng trong việc GDGT cho VTN, thanh niên. Hai luận án đã

tìm hiểu ở những khía cạnh cụ thể hơn trong việc GDGT cho sinh viên, học sinh.

Trong phạm vi nghiên cứu “Đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính cho

trẻ vị thành niên trong gia đình”, tác giả đi sâu vào tìm hiểu vấn đề GDGT cho trẻ vị

thanh niên trong nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể ở đây là dân tộc Tày ở Lạng Sơn

nhằm tìm ra những nét khác biệt trong quá trình GDGT cho trẻ ngƣời dân tộc cũng nhƣ

nhận thức, hiểu biết của chính các bậc phụ huynh về lĩnh vực này và đánh giá của cha

mẹ, trẻ VTN về vai trò của gia đình trong việc GDGT.

1.4.2. Lược sử quá trình giáo dục giới tính

1.4.2.1. Quá trình giáo dục giới tính trên thế giới

GDGT là một vấn đề đƣợc nhiều nƣớc ở Châu Âu tiến hành từ rất sớm. Năm 1921

Thụy Điển đã nghiên cứu vấn đề GDGT. Ngay từ thời đó Thụy Điển đã coi tình dục là

quyền tự do của con ngƣời, là quyền bình đẳng nam nữ, là trách nhiệm đạo đức của công

dân đối với xã hội. Năm 1942, Bộ Giáo dục Thụy Điển quyết định đƣa thí điểm giáo dục

tình dục vào nhà trƣờng và đến năm 1956 thì dạy phổ cập trong tất cả các trƣờng từ tiểu

học đến trung học [29, tr.9].

Sau Thụy Điển, các nƣớc Đông Âu nhƣ Đức, Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc và các

nƣớc Tây Âu, Bắc Âu khác đều coi giáo dục tình dục là một vấn đề lành mạnh, đem lại tự

do cho con ngƣời vì họ quan niệm rằng cần nói rõ cho mọi ngƣời hiểu biết những quy

luật hoạt động của tình dục. Sau đó, nhiều nƣớc ở châu Mỹ La tinh, vùng Caribê cũng

quan tâm đến giáo dục tình dục.

Tuy nhiên, những năm 1960 trở về trƣớc vấn đề GDGT chỉ đƣợc quan tâm ở từng

nƣớc riêng lẻ thuộc khu vực châu Âu, châu Mỹ. Đối với các nƣớc châu Á, GDGT là lĩnh

vực “cấm kị” xuất phát từ quan niệm phong kiến và tôn giáo, trong khi đó châu Á và

châu Phi lại là những vùng dân số tăng nhanh nhất thế giới. Trái lại, ở những quốc gia

giàu có dân số không tăng, thậm chí có những nƣớc còn giảm sút số dân thuộc lớp trẻ

nhƣ Ôxtrâylia, Cộng hòa Liên bang Đức, Đan Mạch, Bỉ, Italia… Những nƣớc này tỷ lệ

sinh bình quân hàng năm là mức thấp nhất của thời đại. Tình trạng sinh ít, dân số già,

thiếu sức lao động trẻ đã làm cho một phần sản xuất nông nghiệp giảm. Thực trạng đó đòi

hỏi Nhà nƣớc phải có những chính sách khuyến khích sinh đẻ nhiều đối với các cặp vợ

chồng trẻ. Nhƣ vậy, ở các nƣớc giàu và nghèo, dù đứng ở hai cực dân số đối lập nhau

song đều có nhu cầu về nâng cao chất lƣợng cuộc sống của mỗi cá nhân và cuộc sống văn

minh của toàn xã hội.

Trong những năm 1984, 1986, các Hội nghị UNESCO đã làm sáng tỏ những yêu

cầu về giáo dục đời sống gia đình và GDGT trong quá trình giáo dục ở các nƣớc khu vực

châu Á – Thái Bình Dƣơng. Nội dung và phƣơng pháp GDGT ở các nƣớc có thể có

những khía cạnh khác nhau vì mỗi dân tộc đều có những phong tục tập quán, những đình

hƣớng giá trị về tgd, về nam, nữ khác nhau. Nhƣng tất cả đều thống nhất ý kiến về tầm

quan trọng và sự cần thiết phải GDGT cho thế hệ trẻ, giúp họ làm chủ quá trình sinh sản

của mình một cách khoa học, phù hợp với tiến bộ của xã hội.

1.4.2.2. Giáo dục giới tính ở Việt Nam

Nhận thức về giới có từ rất sớm trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Trong ca

dao, truyền thuyết, dân ca, nghệ thuật, khảo cổ… của các dân tộc đều cho thấy ngay từ

thời xa xƣa, ông cha ta đã có quan niệm về giới, “Trời – Cha”, “Mẹ - Đất”, Trời – Đất

nhƣ một cặp Nam – Nữ. Trong nền văn hóa Chàm có những tƣợng thờ bằng đá thể hiện

quan niệm rất rõ về đặc điểm giới và giới tính.

Nhận thức về giới và GDGT trong văn hóa còn đƣợc thể hiện trong các phong tục,

đặc biệt là trong các lễ hội cổ truyền của nhiều địa phƣơng. Nói chung, ngƣời Việt cổ có

quan niệm tƣơng đối đầy đủ về các yếu tố của vấn đề tâm sinh lý giới tính, khá cởi mở,

phóng khoáng về tình dục, coi đó là hành động tự nhiên, cần thiết để bảo tồn và phát triển

nòi giống, có quan hệ đến sự phồn thịnh và hạnh phúc của quốc gia, dân tộc.

Sau khi tiếp nhận ảnh hƣởng của văn hóa Nho giáo với chữ Lễ đƣợc đề cao, dần

dần khía cạnh tâm lý xã hội của giới tính đƣợc khai thác nhằm phục vụ lợi ích của giai

cấp phong kiến, tạo nên sự bất bình đẳng về giới. Hàng rào lễ giáo đƣợc dựng lên, ngăn

chặn một cách giả tạo sự tiếp xúc giữa những ngƣời khác giới. Những chuyện liên quan

đến khía cạnh sinh lý của giới tính và tình dục trở thành điều cấm kỵ đối với giới trẻ.

Toàn xã hội đƣợc hƣớng dẫn bởi những thuyết giáo đạo đức “Trung, Hiếu, Tiết hạnh”

phục vụ cho quân quyền, phụ quyền và nam quyền. Chính vì vậy, GDGT với ý nghĩa

chân chính của nó đã bị “né tránh”.

Ngày nay, Nhà nƣớc Việt Nam đã coi giáo dục dân số là công tác thuộc chiến lƣợc

con ngƣời. Hàng loạt chủ trƣơng đƣợc thực hiện nhằm xã hội hóa công tác giáo dục dân

số một cách hữu hiệu, trong đó có chủ trƣơng thực hiện khuyến nghị của Hội nghị tƣ vấn

khu vực về giáo dục dân số năm 1986 ở Băngkok, gồm 4 điểm: Giáo dục đời sống gia

đình, Giáo dục giới tính, Giáo dục tuổi già và Giáo dục về đô thị hóa.

Trong năm 1985, Trung ƣơng Hội Liên hiệp phụ nữ đã triển khai phong trào giáo

dục “Ba triệu bà mẹ nuôi con khỏe, dạy con ngoan”, trong đó có nội dung GDGT cho con

ở lứa tuổi dậy thì. Đây là lần đầu tiên ở nƣớc ta vấn đề GDGT đƣợc tiến hành rộng rãi và

gián tiếp thông qua việc cung cấp kiến thức khoa học cho các bà mẹ có con ở lứa tuổi dậy

thì. Tuy nhiên, hình thức chủ yếu đƣợc sử dụng ở đây là nói chuyện, diễn giảng và các

nhà thuyết giảng hầu hết không phải nhà chuyên môn nên hiệu quả chỉ mang tính chất

phong trào.

Tới năm 1988, một đề án có quy mô to lớn nghiên cứu về GDGT và dân số kế

hoạch hóa gia đình cho học sinh, đề án VIE/88/P09 đã đƣợc tiến hành với sự tài trợ của

Quỹ dân số Liên hiệp quốc UNFPA và sự giúp đỡ kỹ thuật của UNESCO. Đề án do Bộ

Giáo dục và Đào tạo , Viện khoa học giáo dục Việt Nam thực hiện với sự chỉ đạo và tham

gia trực tiếp của các nhà khoa học trong và ngoài ngành giáo dục. Đề án đã xây dựng

chƣơng trình, sách giáo khoa và giảng dạy thí điểm thành công ở 19 tỉnh thành trong cả

nƣớc.

1.4.3. Mục đích, nhiệm vụ và nội dung của giáo dục giới tính

1.4.3.1. Mục đích của giáo dục giới tính

“Mục đích của GDGT là nhằm hình thành ở ngƣời học sự hiểu biết đúng đắn về

bản chất các tiêu chuẩn và tâm thế đạo đức trong lĩnh vực quan hệ của hai giới và nhu cầu

hành động theo các tiêu chuẩn và tâm thế đó trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động” [19].

Điều đó có nghĩa là GDGT nhằm làm cho ngƣời học:

- Hiểu đƣợc ý nghĩa xã hội trong các mối quan hệ giữa mình với ngƣời khác;

- Biết cách tìm đƣợc lối giải quyết đúng đắn các vấn đề đạo đức cụ thể, xuất hiện trong

lĩnh vực các quan hệ theo tinh thần của đạo đức xã hội;

- Kiên định trƣớc ảnh hƣởng của tƣ tƣởng cổ vũ cho tính phóng đãng về tình dục và thái

độ hƣởng thụ đối với ngƣời khác giới, coi thƣờng các giá trị đạo đức.

1.4.3.2. Nhiệm vụ của giáo dục giới tính

- Giúp cho thế hệ trẻ có hiểu biết nhất định về giới tính và có kỹ năng xây dựng các quan

hệ của mình với ngƣời khác trên cơ sở tính đến những đặc điểm giới tính của họ. Hình

thành và giáo dục một số phẩm chất đạo đức giới tính (biết yêu thƣơng, quan tâm đến

ngƣời thân xung quanh mình, có ý thức trách nhiệm và tôn trọng mọi ngƣời, mong muốn

đem lại điều tốt lành cho ngƣời khác…)

- Giáo dục cho thanh thiếu niên nguyện vọng có một gia đình hạnh phúc, khỏe mạnh, ít

con (1 hoặc 2 con) và có thái độ tự giác, có trách nhiệm đối với việc nuôi dƣỡng và giáo

dục con cái.

- Giáo dục thái độ có trách nhiệm đối với sức khoẻ của mình và của ngƣời khác. Biết đề

phòng tác hại của các mối QHTD quá sớm và ý thức không chấp nhận thái độ vô trách

nhiệm, nhẹ dạ trong lĩnh vực quan hệ thầm kín nhất với ngƣời khác giới.

1.4.3.3. Nội dung của giáo dục giới tính

GDGT có thể chia ra thành ba nội dung:

- Giáo dục tâm lý nhân cách, các đặc điểm tâm lý (hành vi, đạo đức, phép ứng xử của

từng ngƣời), thái độ đối với vợ, chồng, với con và những ngƣời khác trong xã hội.

- Giáo dục sinh lý, đời sống sinh sản: đặc điểm và những điều cần biết về vấn đề sinh lý,

giới tính về hôn nhân và đời sống vợ chồng cho mỗi lứa tuổi, mỗi giới.

- Giáo dục xã hội: nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của từng giới đối với xã hội và

ngƣợc lại.

1.4.4. Ý nghĩa của giáo dục giới tính trong sự phát triển nhân cách của trẻ

GDGT là hệ thống các biện pháp y khoa và sƣ phạm nhằm giáo dục cho mỗi

ngƣời hay từng giới có thái độ đúng với các vấn đề giới tính. GDGT tạo điều kiện cho sự

phát triển hài hòa của thế hệ trẻ, cho sự hình thành đầy đủ giá trị chức năng sinh sản, cho

việc nâng cao những kiến thức về tình dục học, góp phần củng cố hôn nhân và gia đình.

Ở tuổi dậy thì, GDGT giúp các em điều khiển có ý thức các vấn đề tình dục, ở tuổi thanh

niên, giúp cho mọi ngƣời xây dựng đƣợc gia đình hạnh phúc.

GDGT góp phần quan trọng trong phát triển nhân cách, giúp cho thế hệ trẻ chuẩn

bị tốt hành trang vào đời, giáo dục họ trở thành những con ngƣời giàu về trí tuệ, phong

phú về tinh thần, lành mạnh trong lối sống, sẵn sàng kế tục sự nghiệp cha anh, mang hết

khả năng cống hiến cho đất nƣớc, cho nhân dân vì sự trƣờng tồn và phát triển của dân

tộc. Vì vậy, GDGT có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện mục đích giáo dục là giúp cho

thế hệ trẻ làm chủ đƣợc văn hóa đạo đức trong lĩnh vực các quan hệ qua lại giữa hai giới,

giáo dục họ có đƣợc nhu cầu và nguyện vọng tuân theo những chuẩn mực đạo đức của xã

hội; giữ gìn và phát huy những tinh hoa trong truyền thống văn hóa của dân tộc, trong

quan hệ ứng xử, giới tính. Có thể nói, GDGT góp phần quan trọng trong việc hình thành

và phát triển nhân cách toàn diện của trẻ VTN.

1.5. Vài nét về địa bàn nghiên cứu

Xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn là một xã miền núi, phía Bắc tiếp

giáp Trung Quốc (dài 7,65km), có hai chợ tại mốc 15 và nhiều đƣờng mòn qua biên giới.

Toàn xã có 6 thôn bản, 2 khu tại cửa khẩu mốc 15. Diện tích tự nhiên là 2.179,98ha,

trong đó đất canh tác làm ruộng có 159,7ha.

Dân số toàn xã tính tới 1/7/2007 có 444 hộ với 2006 nhân khẩu. Số dân cƣ ở các

nơi khác đến tạm trú tại 2 khu chợ cửa khẩu là 888 hộ với 2695 ngƣời, chủ yếu kinh

doanh buôn bán. Với vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế nhƣ vậy, Tân Thanh đƣợc xác định là

một địa bàn trọng điểm với các diễn biến phức tạp về kinh tế, an ninh, chính trị, trật tự an

toàn xã hội.

Đƣợc sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc, trong những năm gần đây, đời sống của

ngƣời dân ở Tân Thanh đã có nhiều thay đổi, đƣợc cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, cùng với

đó, các tệ nạn xã hội cũng phát triển theo. Lợi dụng chính sách mở cửa quan hệ buôn bán

Việt Nam – Trung Quốc, các loại tội phạm hoạt động qua biên giới nhƣ chuyển tiền giả,

vũ khí, ma tuý, buôn bán phụ nữ, trẻ em đã xuất hiện. Điều này có tác động không nhỏ

tới đời sống của ngƣời dân nơi đây.

Trƣớc kia, Tân Thanh là địa bàn cƣ trú của hai dân tộc chính là Tày và Nùng. Tuy

nhiên, từ khi mở cửa biên giới với các hoạt động giao lƣu thƣơng mại, ngƣời Kinh tới

Tân Thanh sinh sống và làm ăn ngày một nhiều. Và một lần nữa sự giao thoa văn hoá

giữa các dân tộc lại có điều kiện phát triển. Bên cạnh những nét đặc trƣng dân tộc vẫn

còn lƣu giữ đƣợc, nhiều yếu tố đã có sự biến đổi để thích nghi trong thời đại mới.

Điểm nổi bật của ngƣời Tày ở Tân Thanh là việc cấm nam nữ chƣa kết hôn ngủ

với nhau trong nhà bởi hành động nhƣ vậy làm dơ bẩn cửa nhà, khi đó gia đình phải tổ

chức lễ cúng sláo lƣờn để rửa sạch nhà, chuộc lỗi với ông bà tổ tiên. Ngày nay, với sự

phát triển của các nhà nghỉ, khách sạn cũng nhƣ ảnh hƣởng bởi phim ảnh, sách báo,

thông tin từ internet, các đôi nam nữ cũng biết cách tìm những địa điểm kín đáo, thuận

tiện không phải trong nhà để có QHTD với nhau.

Con gái đã lấy chồng không còn đƣợc coi là thành viên trong gia đình bố mẹ đẻ, vì

vậy khi hai vợ chồng về bên ngoại cũng phải ngủ riêng. Cũng nhƣ vậy, 5 tháng sau khi

sinh con ngƣời phụ nữ mới đƣợc phép về nhà bố mẹ đẻ bởi quan niệm gái đẻ là ngƣời

không sạch sẽ, làm ô uế cửa nhà.

Trƣớc kia, việc có thai trƣớc khi cƣới là điều hoàn toàn bị cấm kỵ ở Tân Thanh.

Khi đó ngƣời con gái phải khai thật bố đứa trẻ và hai gia đình buộc phải làm lễ cƣới.

Nhƣng ngày nay với sự phát triển của y học và những biến đổi trong lối sống, suy nghĩ,

ngƣời con gái có thể đi nạo phá thai và trong trƣờng hợp không chịu nổi sự kỳ thị của

mọi ngƣời xung quanh sẽ sang Trung Quốc sống. Có thể thấy rằng đây đƣợc coi nhƣ lối

thoát cho những cô gái trót lầm lỡ ở Tân Thanh bởi điều kiện dễ dàng sang Trung Quốc.

Với những đặc điểm riêng khác biệt của tộc ngƣời trong bối cảnh giao lƣu, hội

nhập mạnh mẽ về văn hoá, lối sống… của nền kinh tế thị trƣờng đã làm nên những thay

đổi đáng kể trong văn hoá của ngƣời Tày ở Tân Thanh.

Chương 2. ĐẶC TÍNH DÂN TỘC TRONG VIỆC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO

TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TRONG CÁC GIA ĐÌNH DÂN TỘC TÀY

2.1. Kiến thức của cha mẹ trong lĩnh vực giới tính và tầm quan trọng của giáo dục giới

tính đối với trẻ vị thành niên

2.1.1. Hiểu biết của cha mẹ về tuổi dậy thì, sự thay đổi tâm sinh lý và các mối quan hệ

bạn bè của con

Để trở thành những bậc cha mẹ, ai cũng phải trải qua thời kỳ trƣởng thành với

những thay đổi, biến chuyển về tâm sinh lý. Chính vì vậy, bậc phụ huynh nào cũng có

những hiểu biết nhất định về vấn đề này, nếu không phải là những kiến thức đọc đƣợc

trong sách vở, báo chí thì đó cũng là những trải nghiệm thực tế từ chính bản thân mỗi

ngƣời. Tuy nhiên, các kiến thức này sẽ có sự khác nhau theo vùng miền, trình độ học vấn,

kinh nghiệm sống của mỗi vị phụ huynh. Trong đề tài này, tác giả tập trung vào một

nhóm đối tƣợng khá đặc biệt, đó là những ông bố, bà mẹ ngƣời dân tộc Tày có con trong

độ tuổi VTN để tìm hiểu sự khác biệt của một nhóm dân tộc ít ngƣời.

2.1.1.1. Hiểu biết của cha mẹ về tuổi dậy thì của con

Khi đƣợc hỏi về độ tuổi dậy thì của con, có tới 20 trong tổng số 145 phụ huynh

(13,8%) hoàn toàn không biết con mình có dấu hiệu dậy thì khi chúng bao nhiêu tuổi.

Chính những bận rộn, lo toan để kiếm sống hàng ngày khiến bố mẹ không có thời gian

quan tâm, chăm sóc và để ý tới sự phát triển của con cái. Đây cũng là thực tế đáng lo ngại

bởi việc không hiểu biết về giai đoạn trƣởng thành của con đồng nghĩa với việc không

cung cấp cho chúng các kỹ năng, kiến thức để ứng xử với những tình huống bất ngờ nhƣ

hành kinh, mộng tinh, tạo ra tâm lý hoang mang, lo lắng cho VTN.

Tuy nhiên, trên thực tế, trẻ VTN ở Tân Thanh bước vào tuổi dậy thì muộn hơn so

với trẻ VTN thành thị nhưng sớm hơn một chút so với trẻ VTN nông thôn.

Theo kết quả thu đƣợc qua khảo sát, tuổi dậy thì trung bình ở em nữ (xuất hiện

hành kinh) là 14,47 và em trai (có hiện tƣợng mộng tinh/xuất tinh) là 15,6. Nhìn chung,

nữ giới thƣờng dậy thì sớm hơn nam. Nếu ở lứa tuổi 13, nữ VTN có hiện tƣợng kinh

nguyệt chiếm 38,6% thì ở các em nam tỷ lệ này là 16,2%. Vào độ tuổi 15, 69,3% thiếu nữ

đã có kinh nguyệt và 33,3% nam giới xuất hiện mộng tinh/xuất tinh.

So sánh tuổi dậy thì trung bình của trẻ VTN ngƣời Tày ở Tân Thanh với kết quả

điều tra SAVY chúng ta thấy có những nét khác biệt nhất định. Nếu tuổi trung bình của

lần đầu tiên xuất tinh/mộng tinh của nam VTN thành thị là 15,4 và nam VTN nông thôn

là 15,7 thì tuổi của nam VTN ngƣời Tày ở đây là 15,6. Đối với nữ thành thị, tuổi trung

bình xuất hiện dấu hiệu kinh nguyệt là 14, trong khi ở nông thôn độ tuổi này là 14,6 và ở

nữ VTN ngƣời Tày là 14,47 [6, tr.37]. Thời điểm xuất hiện các dấu hiệu của tuổi dậy thì

ở cả nam và nữ đều có liên quan tới chế độ dinh dƣỡng. Những con số trên cũng đã một

phần chứng minh đƣợc rõ ràng ở khu vực thành thị với các điều kiện vật chất đầy đủ,

khẩu phần ăn đủ chất hơn nên trẻ em dậy thì sớm. Ngƣợc lại, ở nông thôn khi điều kiện

kinh tế còn nhiều khó khăn, chế độ ăn uống hạn chế cùng với việc lao động sớm khiến

các em có sự phát triển chậm hơn về mặt cơ thể. Tân Thanh tuy là một xã miền núi của

tỉnh Lạng Sơn nhƣng lại có sự giao lƣu về kinh tế, du lịch trong khoảng 15 năm trở lại

đây. Đặc biệt nơi đây với cửa khẩu Tân Thanh nổi tiếng, là điểm trao đổi, buôn bán sầm

uất với nƣớc bạn Trung Quốc nên đời sống kinh tế nhìn chung so với các vùng nông thôn

khác ở Việt Nam cũng có sự phát triển hơn. Chính vì lẽ đó, trẻ em ở đây cũng đƣợc

hƣởng chế độ dinh dƣỡng tốt hơn nên có dấu hiệu dậy thì sớm hơn.

Tuy nhiên, có một đặc điểm cần phải lƣu ý khi đề cập tới hiểu biết của cha mẹ về

tuổi dậy thì của trẻ VTN, đó là cũng có một số bậc phụ huynh không chắc chắn với câu

trả lời mình đƣa ra, họ thƣờng dựa theo sự “phỏng đoán”: “Con chú xuất tinh năm 18

nhưng nó không kể với ai đâu, kể nó sợ… chú đoán thế vì hồi xưa bằng tuổi nó mình

cũng thế” (PVS bố, 46 tuổi, 3 con trong tuổi VTN) “Con trai cũng để ý chứ, nó lớn 15,

16 tuổi tinh trùng cũng xuất… mỗi buổi sáng nó dậy mình cũng để ý nó, biết nó. Không

nhìn thấy nhưng đoán mò như thế” (PVS mẹ, 41 tuổi, 3 con trong tuổi VTN), Con trai thì

cô không để ý lắm, nhưng năm kia, 18 tuổi thì cô cũng để ý nửa đêm dậy thay quần thì cô

cũng chắc chắn là có (cười) (PVS mẹ, 43 tuổi, 1 con trong tuổi VTN).

Những sự phỏng đoán này thƣờng chỉ xảy ra với con trai bởi hiện tƣợng xuất

tinh/mộng tinh cũng không làm thay đổi, xáo trộn quá nhiều tới cuộc sống, sinh hoạt của

các em. Tuy nhiên, sự xuất hiện của kinh nguyệt với các em gái là một việc “bất bình

thƣờng” bởi có hiện tƣợng “chảy máu”. Chính bởi sự lo lắng đó, các em đều tìm tới sự

giúp đỡ của những ngƣời tin cậy nhƣ mẹ, chị hoặc bạn bè cùng lứa. Vì vậy ngƣời mẹ có

thể nắm bắt đƣợc chính xác thời điểm dậy thì của con gái.

2.1.1.2. Hiểu biết của cha mẹ về những biến đổi tâm sinh lý khi trẻ dậy thì

2.1.1.2.1.Hiểu biết về sự thay đổi cơ thể khi trẻ dậy thì

Dậy thì là giai đoạn đánh dấu một bƣớc phát triển mới trong cuộc đời mỗi con

ngƣời. Đây là giai đoạn từ trẻ em đang dần trở thành ngƣời lớn với những biến đổi về tâm

sinh lý. Một trong những biểu hiện rõ rệt nhất có thể quan sát đƣợc, đó là sự thay đổi về

mặt cơ thể của mỗi đứa trẻ.

Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát, có 19 cha mẹ trong tổng số 145 ngƣời (chiếm

13,1%) đƣợc hỏi hoàn toàn không để ý tới sự thay đổi về cơ thể của con khi chúng bƣớc

vào tuổi dậy thì. Lý do họ đƣa ra để giải thích cho sự thiếu quan tâm này hầu hết đều là

“đi làm cả ngày, làm gì có thời gian để ý”, “nó khắc lớn khắc biết thôi”, “không nhớ

được nó thay đổi đâu”. Nhƣ vậy, các bậc phụ huynh này do phải lo toan, bƣơn chải kiếm

sống nên cũng không thể dành nhiều thời gian chăm lo, để ý tới con mình đƣợc. Tìm hiểu

mối quan hệ giữa yếu tố kinh tế gia đình và nhận biết về sự thay đổi cơ thể khi trẻ dậy thì,

tác giả cũng thu đƣợc kết quả tƣơng tự.

Với hệ số Cramer’s V = 0,224, p = 0,026, ta có thể khẳng định đƣợc rằng hai yếu

tố này có mối quan hệ với nhau. 100% các gia đình kinh tế khá giả đều nhận thấy những

thay đổi khi con dậy thì, trong khi tỷ lệ này ở các gia đình kinh tế nghèo chỉ là 73,5%.

Nhƣ vậy, gia đình có điều kiện kinh tế tốt hơn cha mẹ sẽ có nhiều thời gian, sự quan tâm,

để ý tới con cái hơn.

Bên cạnh đó, trong việc chăm lo cho con cái, bao giờ ngƣời mẹ cũng có sự quan

tâm sâu sát tới con nhiều hơn ngƣời cha (Cramer’s V = 0,207, p = 0,013). Nếu chỉ có

78,7% số ông bố đƣợc hỏi nhận thấy cơ thể con mình có sự thay đổi khi bƣớc vào tuổi

dậy thì 92,9% số bà mẹ nhận ra điều đó. Trong gia đình ngƣời Tày, mặc dù không có sự

phân công công việc cụ thể nhƣng việc chăm sóc, giáo dục, dạy dỗ con cái đƣợc mặc

định là việc của ngƣời mẹ “cái này chỉ mẹ nó thôi, chú không biết, không để ý đâu, mẹ để

ý thôi… chú không có thời gian ở nhà, bận nhiều việc, ngày đi suốt cả ngày” (Nam, 42

tuổi, 1 con trong tuổi VTN). Chính vì vậy, những sự thay đổi về cơ thể chỉ có ngƣời mẹ

mới nhận ra: “Nó còn nhỏ thì chưa thấy kinh nguyệt, nó lớn lên trưởng thành nó có kinh

nguyệt, thế thôi… Con trai cũng để ý chứ, nó lớn 15, 16 tuổi tinh trùng cũng xuất… Mặt

nó có nhiều trứng cá, kể cả bây giờ mình kinh nguyệt cũng thế, đến tháng có kinh nguyệt

mặt cũng mọc nhiều trứng cá lắm, đến lúc xong cái kinh nguyệt kia thì trứng cá không

thấy đâu.” (Nữ, 41 tuổi, 3 con VTN), “Dấu hiệu là ngực nở này, xong thấy kinh nguyệt

này, thế thôi”(Nữ, 41 tuổi, 1 con VTN), “Vẫn để ý con mình chứ, dấu hiệu của dậy thì

lúc thì nó còn bé thì nó vẫn nói tiếng khác, xong bây giờ lớn rồi, đến năm nay thì nó mới

đổi giọng, đấy là đứa con trai, còn con gái thì nó không đổi giọng” (Nữ, 38 tuổi, 2 con

VTN)

Mặc dù tỷ lệ cha mẹ có để ý tới sự thay đổi cơ thể của con là 86,9% nhƣng không

phải tất cả trong số họ đều có hiểu biết đúng về sự phát triển này. Rất nhiều ngƣời đã trả

lời sai hoặc không biết trả lời nhƣ thế nào khi đƣợc hỏi về vấn đề này.

Bảng 2.1. Hiểu biết của cha mẹ về sự thay đổi cơ thể ở con trai và con gái khi dậy thì Đơn vị: %

STT Sự thay đổi

1 Cơ quan sinh dục lớn, Cả trai và gái 49,2 Chỉ con trai 7,1 Chỉ con gái 8,7 Không biết 34,9 sẫm màu

73.0 16,7 2,4 7,9

2 Mọc lông ở bộ phận sinh dục, lông nách 3 Mộng tinh, xuất tinh 4 Bắt đầu có kinh nguyệt 5 Vỡ giọng 6 Mọc râu 7 Vú phát triển 2,4 1,6 31,7 7,9 11,9 88,1 2,4 60,3 81,7 0,8 2,4 89,7 0,8 1,6 79,4 7,1 6,3 7,1 8,7 7,9

Hai đặc điểm có thể nhận thấy dễ dàng nhất thể hiện sự khác biệt rõ rệt về giới

tính là “mọc râu”, “xuất tinh, mộng tinh” ở nam và “vú phát triển”, “có kinh nguyệt” ở nữ

nhƣng tỷ lệ trả lời đúng đều chƣa tới 90%. Điều này cho thấy sự hiểu biết yếu kém của

cha mẹ về những kiến thức cơ bản này, đó cũng chính là sự thờ ơ, thiếu quan tâm tới con

cái. Đây là một thực trạng đáng báo động trong nhóm ngƣời dân tộc Tày nơi đây.

Một điểm khá đặc biệt khi tác giả tiến hành điều tra là những câu trả lời sai hoặc

không biết thƣờng thuộc về nam giới khi hỏi về sự thay đổi của cơ thể nữ giới và ngƣợc

lại. Nhƣ vậy, những vị phụ huynh này chỉ biết về sự thay đổi cơ thể của chính giới mình

vì họ đã có kinh nghiệm và từng trải qua thời kỳ đó. Trình độ học vấn thấp, ít đƣợc tiếp

cận với sách báo, các phƣơng tiện truyền thông dẫn tới việc cha mẹ không hiểu biết một

cách đầy đủ về sự thay đổi cơ thể khi trẻ đến tuổi dậy thì.

2.1.1.2.2. Những thay đổi tâm lý khi trẻ dậy thì

Nếu tỷ lệ cha mẹ không nhận thấy sự thay đổi về cơ thể khi con bƣớc vào tuổi dậy

thì chiếm 13,1% thì không nhận ra thay đổi trong tâm lý chiếm 28,3%. Thay đổi cơ thể là

điều dễ nhận ra nhất nhƣng một số cha mẹ cũng không nhận thấy thì tỷ lệ không nhận ra

đƣợc sự thay đổi của con trong tâm lý cao hơn gấp đôi cũng là điều dễ hiểu. Không có

thời gian quan sát để nhận thấy những thay đổi trong cơ thể con mình thì sự biến đổi về

mặt tâm lý càng khó nhận ra. Chỉ khi nào cha mẹ thật sự quan tâm, để ý và với bản năng

tinh tế, nhạy cảm của những ngƣời làm cha, làm mẹ họ mới có thể nhận ra đƣợc.

Bảng 2.2. Nhận xét của cha mẹ về sự thay đổi tâm lý khi trẻ dậy thì

Đơn vị: %

STT Sự thay đổi về tâm lý Không Có

71,2 Không biết 1,0 27,9 1 Tò mò, thích tìm hiểu về mối quan hệ giữa con trai và con gái

57,7 69,2 1,0 0,0 41,3 30,8 3 2 Quan tâm hơn tới ngƣời khác phái Tính cách thay đổi thất thƣờng, khi buồn khi vui

4 Muốn làm theo ý thích bản thân

69,2 63,5 0,0 1,0 30,8 35,6 5 Quan tâm tới hình dáng bên ngoài nhiều hơn

Trong các dấu hiệu trên, sự tò mò, thích tìm hiểu về mối quan hệ giữa con trai và

con gái đƣợc các vị phụ huynh nhận thấy ở con mình nhiều hơn cả (71,2%). Sự thay đổi

về cơ thể tạo ra sự tò mò, khơi dậy trong các em sở thích tìm hiểu, khám phá không chỉ

bản thân mình mà còn cả ở giới kia. Bên cạnh đó, “tính cách thay đổi thất thƣờng” và

“muốn làm theo ý thích bản thân” cũng là những tâm lý xuất hiện ở nhiều em (69,2%).

Đây là lứa tuổi chƣa thực sự trƣởng thành nhƣng cũng không còn là trẻ con nên các em

luôn có xu hƣớng tự khẳng định mình để đƣợc mọi ngƣời công nhận là “ngƣời lớn”. Việc

luôn làm theo ý thích của bản thân mình nhƣ là một sự tự khẳng định đó. Ở tuổi dậy thì,

cùng với sự thay đổi hình dáng bên ngoài, các em bắt đầu có ý thức về đẹp, xấu, phù hợp,

không phù hợp do đó cũng để ý, quan tâm tới dáng vẻ bên ngoài nhiều hơn (63,5%). Mặc

dù rất tò mò, thích tìm hiểu về mối quan hệ giữa con trai và con gái nhƣng tỷ lệ các em có

sự quan tâm tới ngƣời khác chỉ là 57,7%. Đây là những trẻ VTN ngƣời dân tộc Tày nên

các em vẫn còn nhút nhát, không dám tự do bộc lộ sự quan tâm của mình với ngƣời khác

giới. Ngoài ra, các vị phụ huynh còn nhận xét về những biến đổi tâm lý khác của trẻ khi

bƣớc vào tuổi dậy thì, đó là “ngoan hơn”, “hiền hòa hơn”, “thích ăn mặc đẹp” và cũng “đi

chơi nhiều hơn”. “Trước kia nó còn nhỏ, bây giờ nó lớn đi ra đường gặp bạn bè thì nó

cũng học được các bạn các bè, cô giáo dạy dỗ cũng được khôn ngoan hơn” (Nữ, 41 tuổi,

3 con VTN). “Bây giờ nó làm gì nó cũng, ví dụ con trai cô để ý nó làm gì trong gia đình

nó cũng biết hơn, sáng dậy thấy chú trọng đến bản thân hơn, bắt đầu trưởng thành thì nó

biết ăn mặc khác hẳn, biết xoay xở mặc quần áo, biết làm đẹp mình, hay soi gương…

Con gái về cái ăn mặc lại biết sành điệu hơn….Trước đây nó trẻ con, ăn nói bô bô, nhiều

khi nó không để ý gì cả, nhưng đến lúc ấy thì nó nói gì cũng để ý, nhẹ nhàng hơn, hay để

ý nhiều cái vấn đề, ăn nói lễ phép, ngoan ngoãn hơn” (Nữ, 43 tuổi, 1 con VTN).

Bƣớc vào tuổi dậy thì, khi không còn là trẻ con nữa, các em cũng đã có đƣợc nhận

thức rõ ràng hơn, hiểu đƣợc đúng sai phải trái, biết điều tốt, điều hay để có những cách cƣ

xử cho phù hợp. Ý thức về bản thân, về cái đẹp cùng với điều kiện thuận lợi ở khu vực

cửa khẩu, nơi hàng hóa Trung Quốc chiếm phần lớn và giá cả phải chăng, việc làm đẹp ở

tuổi này nhƣ một nhu cầu tất yếu của các em.

“H: Còn về tâm lý, tính cách của em khi nó lớn thì cô thấy thế nào?

TL: Có thay đổi lời ăn tiếng nói, có đỏng đảnh, rồi ăn chơi.

H: Cũng ăn chơi, như thế nào à?

TL: Thì cũng ăn chơi đua đòi theo các bạn.

H: Cũng để ý về quần áo, đầu tóc?

TL: Ừ, rồi, quần áo thì không phải nói.

H: Có bao giờ cô bảo nó là quần áo này không nên mặc, mẹ thấy cái áo này nó thế này

thế kia?

TL: Có chứ

H: Khi ấy thì em ấy nói như thế nào?

TL: Nó bảo con thích mặc, mốt bây giờ nó thế

H: Rồi nó vẫn mặc?

TL: Ừ”

(Nữ, 45 tuổi, 2 con trong tuổi VTN)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bản chất, mục tiêu, nội dung và phƣơng pháp giáo dục dân số, VIE/88/P.10.

2. TS. Nguyễn Thanh Bình (chủ biên) (2001), GDGT cho con, Nhà xuất bản Giáo

dục;

3. Vũ Thị Thanh Bình (2006), Kết quả chương trình giáo dục dân số, sức khỏe sinh

sản VTN ở trường trung học phổ thông, Tạp chí nghiên cứu lý luận của Ủy ban

Dân số - Gia đình và Trẻ em kỳ 1;

4. Bộ Y tế (2006), Báo cáo điều tra ban đầu, Thực trạng cung cấp và sử dụng dịch

vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản tại 7 tỉnh tham gia chương trình quốc gia 7 do

UNFPA tài trợ, Dự án VIE/01/P10;

5. Bộ Y tế (2001), Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn

2001 – 2010, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân;

6. Bộ Y tế, Tổng cục thống kê, UNICEF, WHO (2005), Điều tra quốc gia về VTN và

Thanh niên Việt Nam;

7. Phan Hữu Dật (1999), Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam, Nhà xuất bản Đại

học quốc gia Hà Nội;

8. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1997), Xã hội học đại cương, Nhà xuất bản Đại

học quốc gia Hà Nội;

9. Đào Xuân Dũng (1997), Giáo dục sức khỏe sinh sản cho VTN, Phƣơng pháp, nội

dung, mục đích chƣơng trình hợp tác y tế Việt Nam – Thụy Điển, lĩnh vực

BMTE/KHHGĐ, Hà Nội;

10. BS. Đào Xuân Dũng (2002), GDGT vì sự phát triển của VTN, Nhà xuất bản Đại

học quốc gia Hà Nội;

11. Vũ Cao Đàm (2000), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội;

12. Bế Viết Đẳng (2006), Dân tộc học Việt Nam, định hướng và thành tựu nghiên cứu

(1973-1998), Nhà xuất bản Khoa học xã hội;

13. Gunter Endruweit (1999), Các lý thuyết xã hội học hiện đại, Nhà xuất bản Thế

giới;

14. Lê Sĩ Giáo (chủ biên) (2009), Dân tộc học đại cương, Nhà xuất bản Giáo dục;

15. Giáo dục dân số (1993), Kế hoạch hóa gia đình;

16. Lê Thanh Hà, Trẻ nạo phá thai: tƣơng lai dằn vặt

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=92481&ChannelID=19

4 cập nhật 22h ngày 7/10/2007.

17. Phƣơng Hiếu, Hơn 30% ca phá thai là của phụ nữ trẻ chƣa chồng,

http://vdcnews.socbay.com/hon_30__ca_pha_thai_la_cua_phu_nu_tre__chua_cho

ng-268435456-600584073-0, cập nhật 11h23 ngày 12/9/2009.

18. Trịnh Quân Huấn (2007), Tỷ lệ nhiễm HIV, giang mai và các hành vi nguy cơ lây

nhiễm HIV trong nhóm đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Báo cáo kết quả

nghiên cứu đề tài cấp Bộ;

19. Phan Thị Huệ (1992), Thuật tâm lý, Nhà xuất bản tổng hợp Tiền Giang;

20. Lê Ngọc Hùng (2003), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Nhà xuất bản Đại học quốc

gia Hà Nội;

21. Nguyễn Mỹ Hƣơng (2001), Những yếu tố ảnh hưởng đến mang thai VTN, Tạp chí

Dân số và phát triển, số 2;

22. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng (2006), Những điều cần biết khi con bước vào tuổi

VTN, Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em Hà Nội;

23. Nguyễn Linh Khiếu (chủ biên) (2003), Gia đình trong giáo dục sức khỏe sinh sản

VTN, Nhà xuất bản Khoa học xã hội;

24. Nguyễn Linh Khiếu (2007), Tìm hiểu một số nghiên cứu về lĩnh vực sức khỏe sinh

sản VTN trong thời gian qua, Tạp chí Gia đình và trẻ em, kỳ 1;

25. Nguyễn Linh Khiếu (2007), Vấn đề sức khỏe sinh sản VTN nước ta hiện nay, tạp

chí Gia đình và trẻ em;

26. Nguyễn Văn Lê – Nguyễn Thị Đoan (1997), GDGT, Nhà xuất bản Đại học quốc

gia Hà Nội;

27. Hoàng Lƣơng (1998), Một số kiêng kỵ và tục lệ liên quan đến sinh đẻ, chăm sóc

trẻ sơ sinh của người Dao Tả pan và Dao áo dài ở Hà Giang, Ký yếu hội thảo

Quốc tế về sự phát triển văn hóa xã hội của ngƣời Dao, Trung tâm Khoa học Xã

hội;

28. Một số vấn đề chiến lƣợc về tài nguyên thiên nhiên – môi trƣờng, Hà Nội, 1986.

29. Phan Bích Ngọc (2000), Một số biện pháp GDGT cho sinh viên đại học Sư phạm,

Luận án tiến sỹ giáo dục;

30. Nhiều tác giả (1991), Bách khoa phụ nữ trẻ, Nhà xuất bản Hà Nội;

31. Bùi Ngọc Oánh, Những yếu tố tâm lý trong sự chấp nhận GDGT của thanh niên

học sinh, Luận án Phó tiến sỹ khoa học sƣ phạm – Tâm lý, Trƣờng Đại học Sƣ

phạm Hà Nội I;

32. PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh (2006), Tâm lý học giới tính và GDGT, Nhà xuất bản

Giáo dục;

33. Hoàng Phê (chủ biên) (2002), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất

bản Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học;

34. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị (2001), Dân tộc học, Nhà xuất

bản Quân đội nhân dân;

35. Nguyễn Hƣơng Quế (2002), Những yếu tố tác động đến việc mang thai và nạo phá

thai ở tuổi thanh thiếu niên, tạp chí Dân số và phát triển;

36. Quỹ dân số thế giới, GDGT – tình dục và sức khỏe sinh sản, Dự án GDGT – tình

dục và sức khỏe sinh sản dành cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;

37. Quỹ dân số thế giới, Trò chuyện về giới tính, tình dục và sức khỏe sinh sản, Dự án

GDGT – tình dục và sức khỏe sinh sản dành cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó

khăn;

38. Nguyễn Thị Tố Quyên (2005), Về vấn đề GDGT cho trẻ em trong gia đình, Xã hội

học số 1 (89);

39. Phạm Văn Quyết (1998), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia Hà Nội;

40. TS. Đỗ Ngọc Tấn và Phạm Minh Sơn (2004), Chương trình giáo dục dân số sức

khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình cho học sinh trung học phổ thông, tạp chí

Dân số và phát triển;

41. Đức Trung, Chuyện “tế nhị” không đơn giản,

http://www.hanoimoi.com.vn/vn/46/174949/ cập nhật 11h11 ngày 12/9/2009.

42. Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trƣờng trong Phát triển (CGFED),

Báo cáo nghiên cứu cơ bản – Dự án, Nâng cao kiến thức về Giới và các vấn đề về

Sức khỏe sinh sản cho các hộ gia đình nông thôn Việt Nam;

43. Nguyễn Thiện Trƣởng, Hội nghị quốc tế dân số và phát triển Cairô và Chƣơng

trình dân số - Kế hoạch hóa gia đình của Việt Nam với vấn đề sức khỏe sinh sản

VTN.

44. Viện nghiên cứu phát triển xã hội (2007), Báo cáo đánh giá nhu cầu học tập về

sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục của học sinh khiếm thính trường THCS Xã

Đàn;