BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. Hồ CHÍ MINH
PHẠM THỊ TRÚC LINH
ĐẶC ĐIỂM KỊCH NGUYỄN ĐÌNH THI
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 5.04.33
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KH: PGS-TS PHÙNG QUÝ NHÂM
TP.HCM - 2003
CHÂN DUNG NGUYỄN ĐÌNH THI VÀ DANH MỤC CÁC
VỞ KỊCH CỦA ÔNG ĐƯỢC SẮP XẾP THEO TRÌNH TỰ
THỜI GIAN
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã được sự giúp đỡ động viên của
quý thầy cô và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Phùng Quý
Nhâm, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp toi hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh 7- 2003
PHẠM THỊ TRÚC LINH
MỤC LỤC
4TCHÂN DUNG NGUYỄN ĐÌNH THI VÀ DANH MỤC CÁC VỞ
KỊCH CỦA ÔNG ĐƯỢC SẮP XẾP THEO TRÌNH TỰ THỜI GIAN4T
..................................................................................................................... 3
4TLỜI CẢM ƠN4T ............................................................................................ 4
4TMỤC LỤC4T .................................................................................................. 5
4TDẪN NHẬP4T ................................................................................................ 8
4T1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI4T .............................................................................. 8
4T2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ4T ..................................................................................... 9
4T3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU4T ....................................................................... 13
4T4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU4T ............................................................ 14
4T4.1 Phương pháp phân tích - tổng hợp:4T .................................................... 14
4T4.2 Phương pháp hệ thống4T ........................................................................ 14
4T4.3.Phương pháp so sánh4T .......................................................................... 15
4T4.4.Phương pháp phân loại4T ....................................................................... 15
4T5.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN4T ............................................................... 15
4T6.KẾT CẤU LUẬN VĂN4T ............................................................................ 15
4TCHƯƠNG 1: NỘI DUNG KỊCH CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI4T ........... 17
4T1.1.VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ.4T ........................................................................ 17
4T1.2. CÁC MẢNG ĐỀ TÀI CỦA KỊCH NGUYỄN ĐÌNH THI4T ................... 19
4T1.2.1 Kịch viết về đề tài lịch sử.4T ............................................................... 21
4T1.2.2 Kịch viết theo truyện cổ tích truyền thuyết.4T .................................... 25
4T1.2.3 Kịch viết về đề tài kháng chiến chống Pháp - Mỹ.4T ......................... 31
4T1.3 NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU TRONG KỊCH CỦA NGUYỄN ĐÌNH
THI4T ................................................................................................................ 35
4T1.3.1 Nỗi suy tư, day dứt về lịch sử dân tộc - một thời đại nhức nhối đã
4T1.3.3 Sự trăn trở và hoài vọng về đạo đức, nhân sinh được thể hiện qua
qua nhưng mãi còn đọng lại...4T .................................................................. 35
4T1.3.4 Niềm tự hào về một dân tộc anh hùng, một thời đại hào hùng.4T ...... 60
4TCHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT KỊCH CỦA NGUYÊN ĐÌNH THI4T .... 70
4T2.1 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT.4T ......................................... 70
4T2.1.1 Thế giới nhân vật đa dạng, phong phú trong kịch Nguyễn Đình Thi4T
một thế giới hư ảo, huyền bí.4T .................................................................... 54
4T2.1.2 Các kiểu nhân vật trong kịch Nguyễn Đình Thi.4T ............................ 71
4T2.1.2.1 Nhân vật lịch sử4T ....................................................................... 72
4T2.1.2.2 Nhân vật truyền kỳ4T ................................................................... 77
4T2.1.2.3 Nhân vật biểu trưng4T ................................................................. 81
4T2.1.2.4 Nhân vật con người mới trong chiến tranh4T .............................. 85
4T2.2 XUNG ĐỘT KỊCH4T ................................................................................. 90
4T2.2.1Xung đột giữa tham vọng của quyền lực và quyền sống hạnh phúc
.................................................................................................................. 70
4T2.2.2 Xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh, giữa người anh hùng yêu
của con người.4T .......................................................................................... 91
4T2.2.3 Xung đột giữa thiện và ác - Giữa tình yêu nhân tính và dục vọng thú
nước và bè lũ cướp nước.4T ......................................................................... 95
4T2.2.4 Xung đột hiểu lầm - một bi kịch gia đình4T ..................................... 103
4T2.3 NGÔN NGỮ KỊCH4T .............................................................................. 104
4T2.3.1 Ngôn ngữ đối thoại4T ........................................................................ 105
4T2.3.1.1 Chất văn học thâm trầm, sâu lắng trong ngôn ngữ kịch Nguyễn
tính4T .......................................................................................................... 100
Đình Thi4T ............................................................................................. 105
4T2.3.1.2 Chất triết lý trong ngôn ngữ kịch Nguyễn Đình Thi4T ............. 108
4T2.3.1.3 Chất dí dỏm, hài hước trong ngôn ngữ kịch Nguyễn Đình Thi4T
4T2.3.1.4 Chất khẩu ngữ trong ngôn ngữ kịch của Nguyễn Đình Thi4T... 114
4T2.3.1.5 Chất hành động trong ngôn ngữ kịch Nguyễn Đình Thi4T ....... 118
4T2.3.2 Ngôn ngữ độc thoại4T ....................................................................... 121
4T2.3.2.1 Độc thoại bộc lộ nội tâm nhân vật.4T ........................................ 122
4T2.3.2.2 Chất truyền cảm trong ngôn ngữ độc thoại4T ........................... 125
4T2.3.3 Tính cô đọng, hàm súc trong lời chú thích nghệ thuật4T .................. 127
4T2.3.4 Điểm hạn chế trong ngôn ngữ kịch của Nguyễn Đình Thi xét từ góc
............................................................................................................ 110
4TKẾT LUẬN4T ............................................................................................ 134
4TTHƯ MỤC THAM KHẢO4T .................................................................. 139
độ sân khấu.4T ............................................................................................ 131
DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài trong đội ngũ văn nghệ sĩ khá
đông đảo của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác nhạc, làm thơ, viết
văn, kịch, tiêu luận phê bình... ở mỗi lĩnh vực, Nguyễn Đình Thi đều gặt hái
được những thành công, để lại dấu ấn tài hoa riêng trong sự tìm tòi, sáng tạo
của mình.
Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Thi chủ yếu được hình thành và
phát triển từ sau Cách mạng tháng Tám. Những sáng tác của ông chất chứa
nhiệt tình và nguồn cảm xúc mãnh liệt trước thực tế cuộc sống. Chính vì vậy,
văn thơ của ông mang chất khỏe khoắn, mạnh mẽ, được nhiều thế hệ bạn đọc
yêu mến. Những ai đã trải qua những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường hẳn
không thể quên được hình ảnh chú mèo con dễ thương gan dạ trong tác phẩm
Cái tết của mèo con hay hình ảnh Tổ quốc đẹp nhưng đau thương trong bài thơ
Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Những tác phẩm đó đã góp phần giúp cho tên
tuổi của Nguyễn Đình Thi sống mãi trong lòng bạn đọc bao thế hệ.
Riêng về kịch, một trong ba phương thức phản ánh cuộc sống của văn học
đòi hỏi tính cô đọng và sức sáng tạo lớn, Nguyễn Đình Thi cũng đã có những
đóng góp quan trọng. Nhiều tác phẩm kịch của ông được người đọc quan tâm,
tìm hiểu như: Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Tiếng sóng, Giấc mơ, Hoa và Ngần...
và đặc biệt là vở Rừng trúc, một vở kịch khá tâm huyết của Nguyễn Đình Thi
được dàn dựng trên sân khấu gần đây, gặt hái được nhiều thành công với sự
góp mặt của đông đảo diễn viên nghệ sĩ tài danh (Nhà hát Tuổi trẻ biểu diễn
năm 1999). Rừng trúc còn vinh dự được chọn làm tiết mục tham dự Hội diễn
sân khấu cuối cùng của thê kỷ khai mạc ngày 12-10-1999 tại Hà Nội.
Tuy nhiên, về mặt nghiên cứu văn học, việc tìm hiểu kịch của Nguyễn
Đình Thi nhìn chung vẫn còn khá giản lược, chưa có ngòi bút nào đi sâu phân
tích, đánh giá một cách toàn diện và hệ thống xuất phát từ đặc điểm thể loại. Vì
vậy, có thể nói tìm hiểu kịch của Nguyễn Đình Thi đang còn là vấn đề mới mẻ,
hấp dẫn cho những ai có điều kiện quan tâm.
Riêng bản thân người viết, sau một thời gian suy nghĩ, cân nhắc đã mạnh
dạn chọn đề tài tìm hiểu về đặc điểm kịch của Nguyễn Đình Thi hầu mong
được đi sâu nghiên cứu những đặc điểm thật riêng, thật đặc sắc tạo nên chân
dung Nguyễn Đình Thi, người mà bằng tài năng và tâm huyết của mình đã cho
ra đời mười vở kịch thật có giá trị nhưng cho đến nay có thể nhận thấy chưa có
một công trình nghiên cứu và giới thiệu nào xứng đáng với tầm vóc của nó.
Đồng thời, chúng tôi cũng muôn góp thêm một phần sức mình vào công trình
nghiên cứu chung về tác giả Nguyễn Đình Thi để qua đó thấy được những
đóng góp quí báu của ông đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
Hơn nữa, những trang viết của chúng tôi hôm nay còn thay cho nén nhang
chúng tôi thành kính đưa tiễn Nguyễn Đình Thi, ông đã vĩnh viễn ra đi vào
ngày 18 tháng 4 năm 2003 sau một cơn bệnh hiểm nghèo. Chúng ta thương tiếc
từ giã nhà văn có thể được xem như là cây đại thụ của nền văn học Việt Nam,
từ giã một người nghệ sĩ đa tài có gương mặt đôn hậu và nụ cười trong sáng.
Mười năm trước, dường như đã nghĩ tới một ngày này, Nguyễn Đình Thi viết
"Anh đi không vội vàng. Anh biết - Con đò vẫn đang đợi ..."(32, 599). Hôm
nay ngày ấy đã đến ở tuổi 79 nhưng có lẽ ông đã mãn nguyện với những gì
mình đã làm được ở cuộc đời này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Về kịch của Nguyễn Đình Thi, đến nay chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống. Phần nhiều những trang viết
nghiên cứu về kịch của ông chỉ là những bài tiểu luận, bài giới thiệu ngắn. Gần
đây, một số bài đã được giáo sư Hà Minh Đức và Trần Khánh Thành đã tập
hợp lại và cho in trong quyển: Nguyễn Đình Thi, về tác gia và tác phẩm, Nhà
xuất bản Giáo dục ấn hành năm 2000. Nhìn chung các bài viết cũng đã đề cập
đến những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch của Nguyễn Đình Thi tuy
mức độ đậm nhạt có khác nhau.
Cũng như các tác phẩm kịch của Nguyễn Đình Thi, các bài viết nghiên
cứu về kịch của ông chủ yếu xuất hiện từ sau năm 1975, tiêu biểu có thể kể các
bài viết của: Trần Hữu Tá, Marian Tkatchep, Tất Thắng, Phan Trọng Thưởng,
Sao Mai, Hà Minh Đức, Trần Bạch Đằng ... Ở mỗi bài viết, tùy theo dụng ý
riêng của từng tác giả mà những vấn đề về đặc điểm nội dung và nghệ thuật
kịch Nguyễn Đình Thi được đề cập đến một cách khác nhau nhưng nhìn chung
các nhà nghiên cứu đều thống nhất đánh giá khá cao tài năng viết kịch của
Nguyễn Đình Thi ở cả hai mặt nội dung và nghệ thuật.
Trước hết, về nội dung kịch Nguyễn Đình Thi, có rất nhiều ý kiến đánh
giá của các nhà nghiên cứu, phê bình kịch. Hà Minh Đức trong bài viết dài giới
thiệu về sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Thi đã có những nhận xét xác
đáng khi cho rằng: "Ông (Nguyễn Đình Thi) vừa quan tâm tới việc phản ánh
hiện thực trực tiếp qua kịch và ông cũng đặc biệt chú ý đến những vấn đề đặt ra
cho muôn đời: thiện và ác, chính và tà, hạnh phúc và bất hạnh, hy vọng và
tuyệt vọng, những bi kịch của kiếp người và những phẩm chất cao cả trong đời.
Có thể nói phần lớn kịch Nguyễn Đình Thi đều khai thác từ những câu chuyện
lịch sử, có phần chính sử và phần nhiều là những chuyện mang màu sắc dân
gian." (33, 24) và ông đã khẳng định: "Cái gốc của tất cả những câu chuyện xa
xôi và gần gũi ấy đều quy tụ lại ở cái gốc nhân bản. Chuyện của con người,
chuyện của muôn đời không có gì xa lạ mà gần gũi, xót xa, đớn đau." (33, 28).
Tất Thắng, trong bài viết Thế giới kịch của Nguyễn Đình Thỉ đã nhận xét: "Thế
giới kịch của Nguyễn Đình Thi là một thế giới như hư, như thật, nó kỳ ảo như
một giấc mơ nhưng lại sờ sờ ra đấy như một Hòn cuội và trong cái thế giới ấy,
Nguyễn Đình Thi đã làm hiển hiện lên trước mặt ta, trong sự tiếp nhận của ta,
những con người, những cảnh đời vừa quen vừa lạ, vừa thấy đây như một dòng
sông, một bến nước, một người vợ đêm đêm chờ chồng... mà thoắt cái đã trở
thành cái bóng oan nghiệt, đã biến đi xa vời vợi như mặt trăng tròn ở tít chân
trời cao"(33, 357). Có lẽ ông đã đánh giá khá cao về kịch của Nguyễn Đình Thi
khi cho rằng đó là: "một thế giới văn hoa nơi mà dấu vết văn hóa cổ kim và
đông tây, dân gian và bác học... được hội tụ nhân bản và tinh thần nhân đạo nó
có sức mạnh kỳ diệu đưa con người và cảnh đời từ hiện thực trở thành huyền
thoại" (33, 365). Phan Trọng Thưởng trong bài rừng trúc của Nguyễn Đình Thi
và một số vấn đề lý luận sáng tác về đề tài lịch sử đã nhận thấy ở Nguyễn Đình
Thi "khả năng khai thác vào các sự kiện lịch sử tưởng như đã cũ để tìm ra trong
đó những bài học mới về đạo đức nhân sinh; khả năng lý giải những vấn đề lớn
đặt ra cho mọi thời đại" (33, 367) và còn phát hiện được "Trong kịch của ông
(Nguyễn Đình Thi), ta luôn nhận thây một sự cảm khái và thái độ bất nhẫn về
thân phận của con người trước quyền lực" (33, 372).
Trần Bạch Đằng có hai kì báo liên tiếp đăng bài: Tiễn anh Nguyễn Đình
Thi - Nhớ lại "Nguyễn Trãi ở Đông Quan" trên báo Công an TPHCM như lời
tiễn biệt nhà văn Nguyễn Đình Thi khi hay tin ông từ giã cõi đời. Nội dung bài
báo, ngoài việc nhắc lại những kỉ niệm giữa tác giả và Nguyễn Đình Thi, lòng
trân trọng và thương tiếc một nhà văn tài hoa đã ra đi mãi mãi, tác giả đã cho
đăng lại bài Nhân xem Nguyễn Trãi ở Đông Quan được viết cách đây 23 năm,
khi vở kịch vừa mới ra đời. Trong bài đó, có đoạn ông viết: "Trong Nguyễn
Trãi ở Đông Quan, Nguyễn Đình Thi nêu lên các tiền đề và quá trình chín muồi
tư tưởng của Nguyễn Trãi giữa lúc ông ở vào độ tuổi 21-31: cứu nước đi với
cứu dân, lòng yêu nước đi với biện pháp yêu nước..." (2, 9). Ngoài ra, ông cũng
rất xem trọng sự phù hợp giữa chủ đề vở kịch đối với hiện thực: "đã là sáng tác,
dù lịch sử tận nghìn xưa đi nữa, chủ đề vẫn phải gần gũi với chúng ta, bởi vì
ngày nay, vì chúng ta mà lịch sử đã giới thiệu, khắc họa... Không thể bảo rằng
tác giả không gửi gấm gì cả khi làm sống lại con người cũ, không đặt vào lời
nói của con người cũ những tâm tư, tình cảm mà tác giả muốn biểu lộ." (2, 9)
Về nghệ thuật viết kịch, Nguyễn Đình Thi gặt hái được rất nhiều thành
công, đặc biệt ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống xung
đột và nghệ thuật sử dụng ngôn từ... Đầu tiên là bài viết về vở Giấc mơ và tác
giả của Marian Tkatchep, một nhà văn Nga, ông đã tinh tường nhận ra: "Tài
năng thi ca và âm nhạc của Nguyễn Đình Thi đã quyết định một phần quan
trọng cái đặc sắc của công việc soạn kịch của ông" (33, 390). Điểm qua một số
vở kịch của Nguyễn Đình Thi, ông nhận xét:
"Bầu trời các vở kịch của Nguyễn Đình Thi rất phong phú về màu sắc và
rất nhiều chất thơ. Các nhân vật của ông không đóng kịch, không! Họ sống
cuộc sống của họ, thật đến từng chi tiết nhỏ. Họ lôi kéo chúng ta vào kích cỡ
thời gian của họ, làm chúng ta đau đớn, yêu thương, cười đùa, khóc lóc và thù
ghét với họ" (33, 391). Trần Hữu Tá trong bài viết về tác giả Nguyễn Đình Thi
in trong giáo trình Văn học Việt Nam (1945-1975), dù đi sâu vào phân tích tài
năng của Nguyễn Đình Thi ở ba lĩnh vực: thơ, tiểu thuyết, lý luận phê bình,
song ông cũng không quên có vài nhận xét về kịch khi cho rằng: "Kịch Nguyễn
Đình Thi thiên về tính trữ tình và triết lý. Nhiều vở có lẽ là thứ văn để đọc hơn
là để diễn "(19, 247). Đây dường như cũng là nhận xét của nhiều nhà nghiên
cứu khi đọc kịch Nguyễn Đình Thi. Không những thế, ông còn phát hiện ra
"một nét góp phần làm nên cái riêng của Nguyễn Đình Thi, không chỉ trong thơ
mà cả trong truyện, kịch: thế giới tâm hồn cao đẹp của nhân vật trữ tình thường
phảng phất một chút ngậm ngùi, đau xót. Ngậm ngùi, đau xót ngay cả trong
những tình huống vui: ngày chiến thắng, khi trùng phùng, đoàn tụ (18, 226).
Hà Minh Đức nhận thấy: "Nguyễn Đình Thi đã bộc lộ mặt mạnh của ngòi
bút kịch bằng cách đột phá vào thế giới bên trong của nhân vật và qua đôi
thoại, độc thoại để đưa nhân vật vượt lên. Chất suy nghĩ, tầm vóc của sự suy
nghĩ đã tạo cho nhân vật của Nguyễn Đình Thi một cốt cách riêng. Các nhân
vật đều có ý thức và chủ động trong hành động." (33, 25-26). Bên cạnh đó, khi
bàn về xung đột trong kịch của Nguyễn Đình Thi, Hà Minh Đức cũng có nhận
xét: "Xung đột kịch của Nguyễn Đình Thi không phải là những tình huống mâu
thuẫn đúc lại thành xung đột có tính cách sách vở mà được khai thác từ cuộc
đời thật trong thời gian và không gian khác nhau." (33, 27). Tất Thắng, trong
bài Thế giới kịch của Nguyễn Đình Thi cũng đã viết: "Ta không thấy ở đây mối
xung đột được trình bày theo kiểu Aristốt, tức là được trình bày trong hành
động, từ giao đãi tới thắt nút, đến... tạm thời hoa hoãn và đến giải tỏa trong kết
thúc. Cái môi xung đột kịch rất cổ điển và rất phương Tây này không có chỗ
trong kịch Nguyễn Đình Thi... hình thái xung đột quán xuyến các vở kịch của
Nguyễn Đình Thi là sự diễn tả cuộc sống như ta thấy và như ta tưởng, như ta
chứng kiến và như ta ao ước, như ta trải nghiệm và như ta khát khao để cho ta
luôn ở trạng thái lo âu đến khi sợ hãi." (33, 363-364).
Qua các bài viết, bài báo, ta nhận thấy ý kiến của các nhà nghiên cứu nhìn
chung đều thống nhất đánh giá khá cao tài năng viết kịch của tác giả Nguyễn
Đinh Thi, ở cả hai mặt nội dung và nghệ thuật, đặc biệt đề cao giá trị hiện thực
có được ở các tác phẩm kịch của Nguyễn Đình Thi. Những vấn đề được phản
ánh trong kịch của ông rất gần gũi với cuộc sống và mang tính nhân bản. Nhìn
tổng quát các bài nghiên cứu về kịch Nguyễn Đình Thi, ta thấy thiếu một công
trình mang tính toàn diện và có hệ thống. Các ý kiến đánh giá, nhận định về
đặc điểm kịch của Nguyễn Đình Thi được các nhà nghiên cứu đề cập đến trong
bài viết của mình với một dung lượng nhỏ để kết hợp lý giải, phân tích những
vấn đề có tính bao quát, tổng hợp khác nhưng nhìn chung, những ý kiến, nhận
định ấy đều xác đáng, có thể làm cơ sở để triển khai những đề tài khoa học sâu
hơn.
Trên tinh thần kế thừa, học tập và tiếp thu thành tựu của những người đi
trước, chúng tôi cố gắng đi vào tìm hiểu về đặc điểm kịch của Nguyễn Đình
Thi một cách cẩn thận ở cả hai mặt nội dung và hình thức. Thiết nghĩ đây cũng
là vấn đề hấp dẫn cho những ai thật sự quan tâm đến nền văn học của nước
nhà, nhất là ngày nay khi mọi giá trị văn học đều được khẳng định một cách
xứng đáng.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Như đã nói ở phần lý do chọn đề tài, Nguyễn Đình Thi là một nhà nghệ sĩ
đa tài thể hiện ở các lĩnh vực: thơ, văn xuôi, nhạc, kịch... Những cống hiến của
ông đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà thật đáng trân trọng. Vì không có
điều kiện để tìm hiểu hết những sáng tác của Nguyễn Đình Thi nên luận văn
này chỉ tập trung khai thác những đặc điểm chủ yếu về kịch của ông, mảng văn
học mà từ trước đến nay vẫn chưa được nhiều ngòi bút đào sâu tìm hiểu. Như
chúng ta đều biết, so với văn xuôi và thơ, kịch là một thể loại văn học khá đặc
biệt, hiện diện cả trong nghệ thuật lẫn văn học. Cả hai mặc dù có tính chất độc
lập nhưng lại tạo thành một khối thống nhất có liên quan chặt chẽ với nhau.
Kịch của Nguyễn Đình Thi có một số tác phẩm đã được hiện hình dưới ánh đèn
sân khấu như: Con nai đen, Hoa và Ngần, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng
trúc. Tìm hiểu được kịch của Nguyễn Đình Thi ở cả hai lĩnh vực văn học và
nghệ thuật là một điều đáng quý. Tuy nhiên, do tầm hiểu biết và tính chất của
ngành học, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu đặc điểm kịch của Nguyễn Đình
Thi dưới dạng kịch bản, một trong ba phương thức cơ bản của văn học. Còn
nghệ thuật biểu diễn sân khấu, nơi quy tụ tổng hòa các nghệ thuật: đạo diễn,
diễn viên, âm nhạc, trang trí, phục trang, tiếng động, ánh sáng... có lẽ nên dành
cho một ngành học khác, chuyên về nghệ thuật sân khấu.
Trong quá trình nghiên cứu về đặc điểm kịch của Nguyễn Đình Thi,
chúng tôi nhận thấy sự thành công của ông ở cả hai phương diện: nội dung và
nghệ thuật, cả hai gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Do vậy, ở luận văn
này, chúng tôi có tham vọng tìm hiểu ở cả hai phương diện trên nhưng chỉ
dừng lại ở những đặc điểm tiêu biểu và nổi bật nhất để qua đó thấy được những
đóng góp đặc sắc của Nguyễn Đình Thi ở thể loại này. Ngoài ra, để có thể thấy
rõ hơn những nét riêng về kịch của Nguyễn Đình Thi, chúng tôi sẽ đối chiếu,
so sánh với một số tác phẩm kịch của Nguyễn Huy Tưởng và các tác giả khác.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
4.1 Phương pháp phân tích - tổng hợp:
Phân tích - tổng hợp là phương pháp không thể thiếu đôi với mọi công
trình khoa học. Trên cơ sở những tư liệu đã được thu thập, thống kê, chúng tôi
tập trung xoáy sâu vào những tiêu điểm cần thiết có tác dụng hình thành nên
đặc điểm kịch của Nguyễn Đình Thi theo những nguyên tắc nghệ thuật nhất
định. Từ đó rút ra được những kết luận đúng đắn.
4.2 Phương pháp hệ thống
Luận văn sử dụng phương pháp này để xác lập tính nhất quán trong
phong cách nghệ thuật của tác giả. Những đặc điểm về kịch của Nguyễn Đình
Thi được nghiên cứu trong luận văn không chỉ tồn tại trong một tác phẩm mà
còn hiện diện trong nhiều tác phẩm tạo nên đặc trưng phong cách của ông.
4.3.Phương pháp so sánh
Trong khi nghiên cứu về kịch của Nguyễn Đình Thi, đặc biệt là những tác
phẩm kịch lịch sử, kịch viết theo truyện truyền thuyết, cổ tích, chúng tôi cố
gắng so sánh với những tài liệu lịch sử, với những tác phẩm văn học dân gian
để qua đó thấy được sự sáng tạo rất đáng trân trọng của ông trong thể loại kịch
nói. Đồng thời, trong quá trình phân tích, chúng tôi có so sánh với các sáng tác
của Nguyễn Đình Thi ở những thể loại khác, cũng như với các tác phẩm kịch
của các tác giả khác để góp phần khẳng định những nét riêng trong phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi.
4.4.Phương pháp phân loại
Phương pháp này được dùng khi tìm hiểu những biểu hiện cụ thể, chi tiết
về đặc điểm kịch của Nguyễn Đình Thi để có thể có được những chứng cứ cụ
thể, chính xác trong nghiên cứu, giúp cho việc trình bày vấn đề thêm tính
thuyết phục.
5.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Với phạm vi của đề tài và trong khuôn khổ của một luận văn Cao học,
chúng tôi cố gắng để mong có được những đóng góp, dù nhỏ. Thứ nhất là đưa
ra một cái nhìn tương đối toàn diện và hệ thống về nội dung và nghệ thuật kịch
của Nguyễn Đình Thi. Thứ hai là trong từng đặc điểm cố gắng tìm hiểu một
cách kĩ lưỡng, thấu đáo nhằm chỉ ra những nét riêng thật đặc sắc góp phần
khẳng định thêm vị trí và tên tuổi của Nguyễn Đình Thi trên văn đàn.
6.KẾT CẤU LUẬN VĂN
Do khuôn khổ và dung lượng của đề tài có giới hạn nên khi nghiên cứu về
đặc điểm kịch của Nguyễn Đình Thi, người viết tìm hiểu ngay vào hai vấn đề
chủ yếu là nội dung và nghệ thuật kịch của ông. Có thể nói thê giới kịch của
Nguyễn Đình Thi được thể .hiện cụ thể và sinh động khi hai vấn đề trên được
tìm hiểu một cách nghiêm túc và cẩn thận. Trong hai chương, chương một là
nội dung kịch Nguyễn Đình Thi và chương hai là nghệ thuật kịch Nguyễn Đình
Thi thì dung lượng chương hai có phần nhiều hơn do đây là chương có khá
nhiều dẫn chứng. Như vậy luận văn ngoài phần dẫn nhập (9 trang), kết luận (4
trang), thư mục tham khảo (3 trang), phần nội dung (114 trang) sẽ được trình
bày thành hai chương chính:
Chương 1: Nội dung kịch của Nguyễn Đình Thi (51 trang)
Chương 2: Nghệ thuật kịch của Nguyễn Đình Thi (63 trang)
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG KỊCH CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI
1.1.VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ.
Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20-12-1924 ở Luông Phabăng (Lào). Quê gốc
của ông ở Phú Xuyên (Hà Sơn Bình) nhưng sau đó gia đình ông đã chuyển ra
làm ăn sinh sống ở ngoại thành Hà Nội. Cha ông là viên chức Sở Bưu điện
Đông Dương, có thời gian sang làm việc ở Lào (lúc ấy Việt Nam, Lào,
Campuchia đều là thuộc địa của Pháp) nên Nguyễn Đình Thi được sinh ra ở
đấy.
Năm 1930 (có tài liệu ghi là 1931), ông cùng gia đình về nước và lần lượt
ở các nơi: Hà Nội, Hải Phòng, Chợ Lớn. Từ năm 1941, Nguyễn Đình Thi về
học ở Hà Nội. Do điều kiện di chuyển nhiều nơi như vậy đã giúp ông ngay từ
thời niên thiếu hiểu biết được nhiều vùng của đất nước.
Năm mười bảy tuổi (năm 1941), ý thức được hoàn cảnh sống nô lệ của
nhân dân ta, Nguyễn Đình Thi bắt đầu hoạt động cách mạng. Ông tham gia vào
phong trào đấu tranh sôi nổi của sinh viên - học sinh cũng như phong trào Mặt
Trận Việt Minh. Năm 1943, cùng với Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Như
Phong, Nam Cao, Tô Hoài..., ông là một trong những thành viên đầu tiên của
Hội văn hóa cứu quốc (phụ trách báo Độc lập, tham gia soạn tạp chí Tiên
Phong). Năm 1945, Nguyễn Đình Thi vinh dự là đại biểu tham gia tham dự Đại
hội quốc dân Tân Trào và được cử vào ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đình Thi được cử làm Tổng thư kí
Hội văn hóa cứu quốc, ủy viên tiểu ban dự thảo Hiến Pháp và ủy Viên Ban
thường trực Quốc hội (khóa 1). Năm 1948, ông là Phó tổng thư kí Hội Văn
nghệ Việt Nam. Năm 1952, Nguyễn Đình Thi gia nhập quân đội, làm chính trị
viên phó tiểu đoàn thuộc trung đoàn thủ đô, đại đoàn 308 cho đến hết chiến
dịch Điện Biên Phủ. Thời gian này, giúp Nguyễn Đình Thi tìm hiểu kĩ về người
chiến sĩ, đối tượng phản ánh chủ yếu trong nhiều tác phẩm sau này của ông.
Từ sau năm 1954, Nguyễn Đình Thi tiếp tục giữ các chức vụ quan trọng
trong các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Năm 1955, ông về công tác tại Hội
văn nghệ Việt Nam, giữ trách nhiệm Tổng thư kí Hội Văn nghệ. Năm 1958 đến
1989, ông làm Tổng thư kí Hội Nhà Văn Việt Nam các khóa 1, 2 và 3. Từ năm
1995, Nguyễn Đình Thi là Chủ tịch ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn
học nghệ thuật Việt Nam.
Nguyễn Đình Thi bắt đầu viết văn rất sớm. Từ trước Cách mạng tháng
Tám, năm 1942, ông cho giới thiệu hàng loạt tác phẩm triết học như: Triết học
nhập môn, Siêu hình học, Triết học Aristôt, Đe Các Tơ, Căng... Trong thời kì
hoạt động ở Hội Văn hóa cứu quốc, ông đã viết một số tiểu luận đăng trên các
báo chí bí mật và công khai. Đáng chú ý nhất là bài nói chuyện ở ngày hội sinh
viên năm 1944: Sức sống của dân Việt Nam trong ca dao và cổ tích đăng trên
tạp chí Tri tân ca ngợi sức sống của dân tộc và tình cảm yêu nước của thanh
niên.
Tài năng văn học của Nguyễn Đình Thi được hình thành từ trong ngọn
lửa kháng chiến chống Pháp. Tuổi trẻ đấu tranh và hòa nhập vào trong không
khí cách mạng đã tạo điều kiện cho chất nghệ sĩ tài hoa của Nguyễn Đình Thi
phát triển. Tuy chưa qui tụ vào một thể loại nào, nhưng những tác phẩm đầu
tay của Nguyễn Đình Thi về văn xuôi, thơ, nhạc... đã bộc lộ tài năng đa dạng
của nhà văn trẻ tuổi này. Các bài ca diệt Phát Xít và Người Hà Nội nói lên tấm
lòng yêu nước và tâm hồn nghệ sĩ thật đằm thám của ông đối với cuộc đời. Đặc
biệt bài viết Nhận Đường (1947) mang ý nghĩa như lời tuyên ngôn về nghệ
thuật phản ánh nhiệt tâm của giới văn nghệ sĩ một lòng đi theo cách mạng, sẩn
sàng từ bỏ nếp sống cũ để tìm đến những nơi hàng đầu của cuộc kháng chiến.
Ông cho rằng phải "Sống được cuộc sông kháng chiến của dân tộc, hiểu được
hướng đi của dân tộc ta hiện thời, cảm xúc được những cảm xúc mới của kháng
chiến, tất cả vấn đề sáng tác quyết định ở điểm ấy" (32, 13). Từ đó Nguyễn
Đình Thi bám sát bộ đội, đi hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Thực tế
cuộc sống kháng chiến đã giúp tôi luyện thêm ngòi bút Nguyễn Đình Thi,
những năm tháng chiến đấu gian khổ đã để lại dấu vết đậm đà trong các tập
truyện kí, tiểu thuyết, tập thơ: Bên bờ Sông Lô, Thu đông năm nay, Xung kích,
Người chiến sĩ...
Càng đi nhiều nơi, càng thâm nhập nhiều vào cuộc sống, Nguyễn Đình
Thi càng hiểu và gắn bó thêm với đất nước, con người Việt Nam tươi đẹp, anh
hùng. Những tình cảm thiết tha, trìu mến đó thấm quyện vào các tác phẩm của
ông, hàng loạt các tác phẩm có giá trị ra đời đưa tên tuổi Nguyễn Đình Thi đến
gần hơn với bạn đọc: Vào lửa, Mặt trận trên cao, Vỡ bờ, Bùi thơ Hắc Hải,
Dòng sông trong xanh, Công việc của người viết tiếu thuyết...
Riêng về kịch, một lĩnh vực Nguyễn Đình Thi đặt khá nhiều tâm huyết và
kỳ vọng, cũng đã mang lại cho Nguyễn Đình Thi những thành công không ít.
Nhắc đến kịch của Nguyễn Đình Thi, người ta nhớ ngay đến những tác phẩm
có giá trị : Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc, Con nai đen, Cái bóng trên
tường, Người đàn bà hóa đá... ở những tác phẩm kịch của mình, Nguyễn Đình
Thi vừa quan tâm tới việc phản ánh hiện thực cuộc sống một cách trực tiếp và
vừa đặc biệt chú ý đến những vấn đề hệ trọng đặt ra cho muôn đời: thiện và ác,
chính và tà, hạnh phúc và bất hạnh...
Nói đến Nguyễn Đình Thi, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: nét đặc sắc
nhất ở ông là một tài năng nhiều mặt. Là một trong những người hoạt động văn
nghệ chủ chốt từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám đến nay, ông đã có
những đóng góp quan trọng trong nhiều phương diện sáng tạo nghệ thuật. Có
thể hình dung ông như một con ong cần mẫn, miệt mài đem lại mật ngọt cho
đời. Chính vì thế, Nguyễn Đình Thi có một vị trí không thể thay thế được trong
nền văn nghệ cách mạng và trong lòng của bạn đọc bao thế hệ.
Ngày 18- 4- 2003, ông đã vĩnh viễn từ giã cõi đời do không qua khỏi căn
bệnh hiểm nghèo, mặc dù được sự quan tâm chăm sóc của Đảng, chính phủ, gia
đình... và tập thể thầy thuốc tận tình cứu chữa. Nguyễn Đình Thi ra đi đã để lại
niềm thương tiếc cho bao người còn ở lại...
1.2. CÁC MẢNG ĐỀ TÀI CỦA KỊCH NGUYỄN ĐÌNH THI
Nguyễn Đình Thi sáng tác tương đối sớm và mau chóng "nặng nợ" với
văn chương. Trong tất cả các thể loại mà Nguyễn Đình Thi sáng tác, kịch ra đời
khá muộn, bởi lẽ kịch rất cần sự trải nghiệm. Là một nhà văn có vốn văn hóa
sâu rộng, Nguyễn Đình Thi đến với văn chương từ tri thức sách vở và từ sự
quan sát cuộc sông thường nhật. Ông rất quí và xem trọng kinh nghiệm sống,
ông cho rằng nếu không kinh qua, không nếm trải nhưng đắng cay của cuộc đời
thì khó có thể sáng tác: "Nếu không từng trải, không hiểu biết về thực tế đời
sống thì có gì mà viết, cũng như không có gạch ngói vôi cát tre gỗ thì sao làm
được nhà" (32, 104).
Năm 1946, khi viết bài tiểu luận Kịch Bắc Sơn, Nguyễn Đình Thi khiêm
tốn cho rằng mình "chẳng biết gì về nghề kịch", chỉ xin "dựa cột mà nghe" và
thật lâu sau đó Nguyễn Đình Thi mới bắt đầu sáng tác kịch (Con nai đen -
1961) nhưng những lời nhận xét xác đáng của Nguyễn Đình Thi về Kịch Bắc
Sơn cho ta thấy ông đã thật sự quan tâm tới kịch, đã bắt đầu "bén duyên" với
kịch: "(...) theo ý tôi, vấn đề kỹ thuật không phải là vấn đề then chốt của vở
kịch Bắc Sơn. Trận đánh chung quanh Bắc Sơn là về nội dung của nó kia (...).
Đấy là điều đáng chú ý nhất và cần nhấn mạnh nhất" (32, 38).
Đến với kịch, Nguyễn Đình Thi dồn cả lòng nhiệt thành và tâm huyết của
mình. Ông đã khơi nguồn sáng tạo từ văn hóa dân tộc với một tấm lòng trân
trọng. Ông yêu quí, chắt chiu giá trị của từng câu chuyện cổ, chuyện dân gian,
những giai thoại có ý nghĩa trong quần chúng... Tìm cái mới cho nội dung, cho
hình thức trong sáng tạo nghệ thuật là phẩm chất quen thuộc của ngòi bút
Nguyễn Đình Thi. Ong giông như một người bộ hành không hề mệt mỏi luôn
kiên trì, vững vàng tiến về phía trước dù cho có bao nhiêu khó khăn, trắc trở
trên con đường mình đã và sẽ đi qua. Tuy vậy, lúc nào ông cũng có thái độ
khiêm tốn thật đáng kính trọng:
" Tóc bạc trong mưa bay anh cười Tôi không nói được mình đã trải đời
Không nói được mình đã hiểu người
Không dám nói mình đã biết yêu
Không dám nói mình đã biết sống
Mỗi bước mùa xuân đến kia dịu dàng trên cỏ non
Cái tổ ong hồn tôi cuống quýt rộn ràng "
( Tóc bạc - Nguyễn Đình Thi)
1.2.1 Kịch viết về đề tài lịch sử.
Tổ quốc Việt Nam được thanh bình, thịnh vượng như ngày hôm nay cũng
chính nhờ ở cồng lao dựng nước và giữ nước của các bậc tiền nhân. Trải qua
hàng bao thế kỉ dài đó, nền độc lập cũng như hạnh phúc của nhân dân ta phải
được đánh đổi bằng máu và nước mắt. Với truyền thống uống nước nhớ nguồn,
lịch sử dân tộc bao giờ cũng được hậu nhân trân trọng và lưu truyền. Đặc biệt
đề tài về lịch sử rất được sự quan tâm của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, sân
khấu, điêu khắc... Riêng về văn học, lịch sử dân tộc được tái tạo nhiều trong
thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết... Kịch tuy ra đời có muộn, nhưng cũng có những
đóng góp đặc sắc về mảng đề tài này. Nhất là vào cuối những năm 30, đầu
những năm 40 của thế kỷ trước, kịch viết về đề tài lịch sử là những hiện tượng
rất đáng chú ý. Có những tác phẩm kịch vừa ra đời đã được nhiều người biết
đến và nhận chân được giá trị như hai vở kịch thơ mở đầu cho mùa kịch thơ về
đề tài lịch sử: Trần Can và Lý Chiêu Hoàng của Phan Khắc Khoan, các vở kịch
của Nguyễn Huy Tưởng: Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện, Bắc Sơn và hàng loạt
các vở kịch khác: Hưng Đạo đại vương (Trần Văn Bích), Trận giết Liễu Thăng
(Đỗ Hoàng Lạc), Ngọc Hân (Tân Phương), Trại Lam Sơn (Phan Xuân Thiện),
Trưng Vương (Phạm Thao)...
Trong suốt cả chiều dài lịch sử, có biết bao giai đoạn, biết bao sự kiện, cá
nhân đáng để người nghệ sĩ quan tâm. Họ có thể tự do lựa chọn nếu có sự am
hiểu về lịch sử và cảm hứng lấy từ thời đại. Bên cạnh đó tác phẩm của họ có
thể chuyên chở được những khát vọng sáng tạo và gởi gấm được những ý
tưởng nghệ thuật có giá trị. Nguyễn Đình Thi viết Rừng trúc và Nguyễn Trãi ở
Đổng Quan trong cùng một năm. Rừng trúc được viết vào dịp Tết Mậu Ngọ,
còn Nguyễn Trãi ở Đông Quan thì vào tháng chạp năm Mậu Ngọ (1978). Đây
là hai tác phẩm kịch rất có giá trị của Nguyễn Đình Thi và cũng là những vở
kịch mà Nguyễn Đình Thi rất tâm đắc. Có tài liệu kể lại khi viết xong vở Rừng
trúc. Nguyễn Đình Thi ôm bản thảo đến đoàn kịch Trung ương đọc cho các
nghệ sĩ và đạo diễn Đào Mộng Long, Phạm Thị Thành và Tuệ Minh nghe, cả
ba đều tấm tắc khen hay và dự định dàn dựng ngay nhưng không thành, để đến
21 năm sau (10/1999) Rừng trúc mới được hiện diện trên ánh đèn sâu khấu,
bước vào thế giới hình sắc, xứng đáng với tầm vóc của nó.
Ở rừng trúc, Nguyễn Đình Thi đã khai thác ngay những xung đột lịch sử ở
thời điểm cao nhất: lúc triều Lý đã suy vong và ngôi vua đã về tay nhà Trần
được 11 năm. Khi ấy, Trần Thái Tông đã 20 tuổi, hoàng hậu Chiêu Thánh 19
tuổi. Lấy lý do Vua và hoàng hậu chưa có con nối nghiệp, thái sư Trần Thủ Độ
cùng vợ là Công chúa Thiên Cực(Trần Thị Dung) sắp đặt cho công chúa Thuận
Thiên (vợ Trần Liễu - chị Chiêu Thánh) đã có mang ba tháng lấy Trần Thái
Tông. Với sự kiện loạn luân này, nhà Trần lục đục, Trần Liễu nổi loạn, Thái
Tông bỏ lên Yên Tử tìm đến cửa Thiền. Trần Thủ Độ theo lên Yên Tử quyết
rước vua về. Do thù trong giặc ngoài và sự an nguy của quốc gia, Trần Thái
Tông chấp thuận trở về kinh đô để chấn hưng đất nước.
Ở phương diện nào đó, có thể xem Rừng trúc lù một bi kịch lịch sử. Dưới
ngòi bút của Nguyễn Đình Thi, các nhân vật hiện lên thật ân tượng, sắc nét, thể
hiện được cá tính của từng người: Trần Thủ Độ cơ mưu quyền biến, được xem
như là bậc khai quốc công thần của triều Trần, không từ một thủ đoạn nào để
đem và giữ vững giang sơn xã tắc cho dòng tộc nhà mình; Thiên Cực công
chúa đa mưu túc trí, khôn ngoan toan tính những điều mà bà cho là có lợi cho
triều Trần. Việc sắp đặt cho Trần Thái Tông lấy công chúa Thuận Thiên phần
lớn cũng do miệng lưỡi dẻo ngọt của bà tác động vào; Trần Cảnh (ông vua đầu
nhà Trần) thì hiền đức, khoan dung, mộ đạo, được mọi người yêu mến nhưng
từ bé sớm chịu mọi sự sắp đặt của Trần Thủ Độ; hoàng hậu Chiêu Thánh hiền
hòa nhưng cương quyết, bằng nhưng lời lẽ trầm tĩnh nhưng sắc bén như một
lưỡi dao nàng đã khiến cho những kẻ làm khổ nàng không thể nào yên lòng
được; Trần Liễu vì mất vợ phẫn uất, điên cuồng manh động; Thuận Thiên như
con cờ trong tay Trần Thủ Độ và mẹ mình . . .
Ngần ấy nhân vật được Nguyễn Đình Thi xây dựng thật thành công. Vở
kịch chỉ hơn 100 trang sách nhưng thể hiện được khả năng sáng tạo lớn của
Nguyễn Đình Thi. Mỗi lời, mỗi chữ trong tác phẩm đều đã kinh qua sự suy
nghĩ, cân nhắc thật kĩ lưỡng của một trí tuệ lớn. Tác phẩm kết thúc thật yên ổn:
Trần cảnh và Trần Liễu giảng hòa, vua sống bên hoàng hậu Thuận Thiên và
chăm lo việc nước, Chiêu Thánh bằng lòng với cuộc sống giản dị, bình lặng
của mình... nhưng ta vẫn ngầm hiểu rằng cơn sóng gió ba đào vẫn nổi lên từng
lúc, khó có thể nào yên được trong lòng họ.
Đến Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Nguyễn Đình Thi đã xây dựng một nhân
vật lịch sử có tầm vóc lớn. Nhắc đến Nguyễn Trãi người ta nghĩ ngay đến một
nhà thơ, nhà quân sự tài hoa lỗi lạc có một tâm lòng bao la như biển. Phạm Văn
Đồng đã từng suy tôn ông: "Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ
song toàn, văn là chính trị, chính trị cứu nước, cứu dân (...), võ là quân sự:
chiến lược và chiến thuật (...), văn và võ đều là vũ khí, mạnh như vũ bão, sắc
như gươm dao" (35, 34). Nguyễn Đình Thi đã chọn khoảng thời gian mười
năm Nguyễn Trãi bị quân Minh giam lỏng ở Đông Quan để hình thành nên vở
kịch của mình. Đây là khoảng thời gian mà trong tiểu sử Nguyễn Trãi chính sử
không nói đến nhiều, vì vậy ta càng thấy được năng lực sáng tạo thật dồi dào
của ông. Trong danh tướng Việt Nam (tập 2) của Nguyễn Khắc Thuần chỉ có
mấy dòng ghi lại bối cảnh lúc đó: Nguyễn Trãi bị Hoàng Phúc và Trương Phụ
giam lỏng ở kinh thành Thăng Long với mục đích dụ dỗ mua chuộc để ông ra
làm quan phục vụ cho chúng nhưng ông kiên quyết từ chối và ẩn nhẫn chờ thời.
Cho đến giờ, lịch sử vẫn không nói rõ ông đã thoát khỏi cảnh giam lỏng đó
bằng cách nào và đến gặp Lê Lợi vào thời điểm cụ thể nào, chỉ biết đó là lúc
nghĩa quân Lam Sơn đang ở trong tình thế khó khăn gian khổ nhất và ông đã
cùng Lê Lợi chung vai sát cánh để dựng nên nghiệp lớn. Trong quyển Lịch sử
Việt Nam (tập 1) có viết: Đây là thời kì Nguyễn Trãi sống trong cảnh "no nước
uống thiếu cơm ăn" (thơ nôm Nguyễn Trãi), phải tạm thời nhẫn nhục để che
mắt quân thù, đồng thời suy tính phương cách đuổi giặc cứu nước (13, 240).
Lịch sử chỉ ghi lại ít dòng đơn giản như vậy nhưng bằng tài năng sáng tạo
của mình, Nguyễn Đình Thi đã dựng lại thật thành công khoảng thời gian mười
năm gian khổ của Nguyễn Trãi, ông đã sống trong lòng nhân dân, trong sự che
chở, đùm bọc của nhân dân và trốn tránh nanh vuốt của kẻ thù. Nguyễn Trãi và
các nhân vật xung quanh ông xuất hiện trong trang viết của Nguyễn Đình Thi
một cách thật xuất sắc với vai trò của mình. Người ta nhận thấy một Nguyễn
Trãi sống thanh đạm nhưng hiên ngang, mềm mỏng nhưng kiên quyết, trước kẻ
thù không hề nao núng, run sợ. Trương Phụ thì hống hách, gian ác. Hoàng
Phúc khôn ngoan, mưu sâu kế độc. Trần Nguyên Hãn yêu nước, thức thời.
Ngoài ra tác phẩm không thiếu những tình cảm ấm áp của những người dân
nghèo, hiền lành, tốt bụng như Cúc, người con gái dệt lụa phường Nghi Tàm,
Bác An thợ rèn, cô đào hát Ngọc Xuyên, cô gái câm Bích Thảo... Và cũng
không vắng bóng những tên chó săn đầu hàng nhà Minh một cách nhục nhã
như Nguyễn Đại, Bùi Bá Kỳ, những tên chỉ điểm... Chính vì được tiếp xúc với
nhiều loại người như vậy Nguyễn Trãi càng thấy được rõ ràng hơn nỗi thống
khổ của nhân dân và sự gian ác tột cùng của kẻ thù đối với người dân lành vô
tội. Những điều mắt thấy tai nghe đó đã bắt Nguyễn Trãi phải suy nghĩ, không
lúc nào yên. Ông bị giày vò đau đớn, muốn vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn
hiện tại để tìm ra con đường cứu nước. Ông tự dặn mình phải tỉnh táo và tuyệt
đối phê phán những cách nghĩ, cách làm không đúng: "Một ông quay lưng lại
việc đời, tìm một góc vắng để chết một mình cho sạch. Một ông lẫm liệt nhảy
vào mũi dao của chúng nó để chết cho anh hùng. Các ông muốn đánh lại chúng
nó nhưng mà cái đầu của các ông chỉ nghĩ được trong vòng cái khuôn của
chúng nó" (phê phán cách nghĩ của hai tiến sĩ Lê Cảnh Tuân và Vũ Mộng
Nguyên) (30, 469). Như vậy, theo Nguyễn Trãi, người anh hùng thức thời là
phải sống, phải tỉnh táo để tìm ra kế sách đuổi giặc cứu nước. Tác phẩm kết
thúc trong cảnh Nguyễn Trãi cùng Trần Nguyên Hãn tìm vào đất Lam Sơn, đến
đầu quân Lê Lợi. Đây là một quyết định quan trọng và sáng suốt trong cuộc đời
Nguyễn Trãi, đồng thời cũng là may mắn cho Lê Lợi có được Nguyễn Trãi như
cá thêm vi. Hai người tạo thành một sức mạnh tổng hợp cùng lãnh đạo nghĩa
quân đập tan các ách xâm lược phương Bắc và thống nhất vẹn toàn lãnh thổ
nước ta.
Để sáng tác được những vở kịch về đề tài lịch sử đòi hỏi ở mỗi tác giả
ngoài tài năng cần phải có tấm lòng và tâm huyết. Xét toàn bộ các mảng đề tài
kịch của Nguyễn Đình Thi thì có thể nhận thấy đây là mảng đề tài ông viết
thành công hơn cả. Không chỉ thành công ở dung lượng dầy dặn của tác phẩm
mà còn ở nội dung tư tưởng, ở cái tâm, ở tấm lòng của tác giả dành cho tác
phẩm.
1.2.2 Kịch viết theo truyện cổ tích truyền thuyết.
Truyện cổ tích, truyền thuyết vốn là những tác phẩm rất quí trong kho
tàng văn học dân gian. Nội dung của những tác phẩm ấy nhằm khuyên đời, răn
người làm lành lánh dữ, làm thiện lánh ác nên nó được lưu truyền rộng rãi từ
đời này sang đời khác và trong chúng ta không mây ai là không biết đến.
Trong gia tài kịch quí báu của mình, có một số tác phẩm Nguyễn Đình
Thi đã khéo chọn nội dung cốt truyện từ những truyện cổ tích truyền thuyết và
phả vào đó sức sống, hơi thở của cuộc đời thật để nó được gần gũi hơn với đời
sông hiện đại, có thể kể: Người đàn bà hóa đá, Cái bóng trên tường, Trương
Chi, Con nai đen... Tuy là chuyện xưa nhưng ngẫm nghĩ sâu xa thời nào lại
chẳng có, những bi kịch, những buồn vui đau khổ của đời người.
Người đàn bà hóa đá và Cái bóng trên tường đều nói đến cái định mệnh
nghiệt ngã, tàn khốc của con người, đặc biệt là của người phụ nữ. Dầu trong
đau khổ, ở họ vẫn bừng lên nét đẹp tâm hồn thật đáng quí: thủy chung, đoan
chính, hiền dịu... và thậm chí có thể hy sinh cả mạng sống của mình để chứng
minh lòng trinh bạch, trong trắng đối với chồng. Người đàn bà hóa đá là vở
kịch Nguyễn Đình Thi sáng tạo dựa vào truyền thuyết Đá vọng phu: hai anh em
ruột lấy nhau mà không tự biết, sau do tình cờ người chồng phát hiện ra sự thật,
quá đau khổ anh bỏ đi biền biệt, chị vợ ngày đếm thương nhớ chồng bồng con
lên núi ngóng trông đến khi hóa đá. Nhân gian có câu hát truyền tụng lại:
"Đồng Đăng có phô Kì Lừa - Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh" để ghi lại
hình ảnh bất tử của người thiếu phụ chờ chồng. Khác với câu chuyện cổ, trong
vở kịch của Nguyễn Đình Thi còn có nhân vật ông già tiêu phu - người hàng
xóm tốt bụng biết rõ sự tình đã khuyên người chồng đi ngay sau khi biết
chuyện. Ông giống như là một chứng nhân của lẽ phải và đạo lý, không thể nào
chấp nhận một sự việc mang tính loạn luân như vậy. Đọc vở kịch này người ta
dễ nghĩ ngay đến vở ơđip làm vua (Xôphốc) của sân khấu Hy Lạp, con lấy mẹ
mà không biết. Sự việc tày trời không thể nào chấp nhận đó theo sân khấu Hy
Lạp là một phán xét của thần linh, khó có thể cưỡng lại. Vở Cái bóng trên
tường được Nguyễn Đình Thi chuyển thể từ truyện Người con gái Nam Xương
một trong 20 truyện in trong quyển Truyền kì mạn lục của tác giả Nguyễn Dữ ở
vào thế kỉ thứ XVI. Trong phần nhiều truyện của mình, Nguyễn Dữ xây dựng
nhân vật chính diện chủ yếu là những người phụ nữ bình thường, có phẩm chất
tốt đẹp, khao khát hạnh phúc, nhưng gặp nhiều bất hạnh, đau khổ trong cuộc
đời. Người phụ nữ trong truyện Người con gái Nam Xương cùng vậy, một
người phụ nữ nết na, đức hạnh đã gặp phải nỗi oan không thể thanh minh đến
nỗi phải lấy cái chết để bày tỏ lòng mình. Khi chuyển thể sang kịch, Nguyễn
Đình Thi hầu như vẫn giữ nguyên cốt truyện trên, kể cả tên của nhân vật cũng
không thay đổi nhưng bố cục câu chuyện có phần ngắn gọn hơn. Mở đầu vở
kịch là lúc chàng Trương đi lính trở về, bà mẹ đã mất nên toàn bộ vở kịch chỉ
có ba nhân vật (người chồng, người vợ và tiếng nói của đứa con). Nguyễn Đình
Thi đã tạo ra không khí đầm ấm gia đình bằng tình cảm yêu thương và bàn tay
chăm sóc của người vợ, người mẹ: mừng đến phát khóc khi thấy chồng về, lật
đật trải chiếu, đặt đèn, bưng nước, dậy sớm lo bữa sáng cho hai cha con, xuýt
xoa với vết thương trên vai chồng, chuẩn bị cơm, rượu, hương hoa cúng mẹ
chồng/ Đây là hình ảnh người vợ thật lý tưởng đối với các chàng trai, bởi vậy
người đọc rất dễ rơi nước mắt xót thương cho nỗi oan và sự bất hạnh của nàng,
cũng như thầm tức giận cho tính đa nghi, cố chấp của người chồng, nguyên
nhân xảy ra bi kịch. Có vài chi tiết, dù nhỏ nhưng Nguyễn Đinh Thi đã thể hiện
sự sáng tạo của mình mà không nhất nhất theo sát bản truyện. Ví dụ như trong
truyện, hoàn cảnh mà đứa con nói ra câu nói tai hại để chàng Trương nghi ngờ
lòng trinh bạch của vợ là ở ngoài mộ bà nó, lúc hai bố con đi thăm mộ, còn
trong vở kịch của mình, Nguyễn Đình Thi để đứa trẻ nói ở nhà, lúc hai bố con
mới bắt đầu trò chuyện. Nếu ngẫm nghĩ ta thấy chi tiết trong vở kịch của
Nguyễn Đình Thi hợp lý hơn vì đứa trẻ sẽ rất ngạc nhiên và phản đối cái người
mà mẹ nó bảo gọi là bố trong khi nó đinh ninh phải là người khác kia. Vì là đứa
trẻ nên nó sẽ nói ra ngay cái ý nghĩ chân thật của nó chứ không phải đợi đến
lúc đi thăm mộ bà mới nói ra, biết kiềm giữ lòng mình như vậy thì nó không
còn là đứa trẻ con bốn tuổi nữa. Chi tiết khác nhau thứ hai trong vở kịch là
chàng Trương sau khi nghe Lời đứa trẻ nói thì vô cùng tức giận, đuổi vợ đi
ngay, không muốn nhìn thấy vợ, không muốn nghe vợ nói, cũng không cho vợ
vào nhà gặp con. Còn trong tác phẩm truyện, thì họ hàng làng xóm nghe
chuyện tới hết lời bênh vực và biện bạch cho nàng cũng không được, nàng
khóc lóc giải bày cùng chẳng lay chuyển được chồng, nên nàng mới tắm gội
chay sạch, ra bên Hoàng Giang mà tràm mình. Ở chi tiết này, ta thấy điều tiên
trong vở kịch nhanh hơn trong tác phẩm truyện, Nguyễn Đình Thi đã lượt bỏ
bớt những tình tiết mà ông cho là không cần thiết. Cuối cùng, trong vở kịch của
mình, Nguyễn Đình Thi đã không xây dựng phần li kì về Vũ Nương sau khi
nàng đã chết (được các nàng tiên ở thủy cung cứu sống, ẩn hiện trên dòng sông
lúc gặp chàng Trương, kiệu hoa lộng lẫy, cờ tán, võng lọng rực rỡ...) mà là chỉ
có bóng người vợ dịu dàng hiện đến bên chồng. Bóng hình người vợ thân
thương ấy không_ chút oán trách chàng Trương, mà chỉ là những lời yêu
thương, dặn dò: "Anh thay em mà trông nom con anh nhé. Anh vừa làm bố vừa
làm mẹ cho con. Rồi sau này anh tìm một người làm bạn, anh tìm người nào
biết thương con" ; "Nếu anh vẫn yêu thương em, thì đến lúc anh không còn nhớ
rõ được nét mặt em, lúc ấy em vẫn ở gần anh nhất, lúc ấy em chẳng còn bóng
hình, nhưng em vẫn ở cùng với anh với con... " (30, 637). Những lời nói ấy
khiên chàng Trương đau đớn như ngàn vết dao cắt vào lòng và khó có thể nào
quên được người vợ yêu quí của mình. Về phần độc giả, hình ảnh người vợ bất
hạnh hiện lên trong giấc mơ của chồng với những lời lẽ bao dung, ân cần sẽ
khiến cho họ vô cùng cảm động và nhận thấy tính chất đời thường, sự gần gũi
với cuộc sông hiện tại hơn là những hình ảnh li kì, hoang đường trong tác phẩm
truyện.
Sáng tác vở Trương Chi, Nguyễn Đình Thi rất tâm đắc với câu chuyện cổ
xưa, cả tên tác phẩm cũng không đổi (Truyện Trương Chi), nhân vật chính
cũng vậy (Trương Chi, Mị Nương). Câu chuyện kể về chuyện tình buồn của
chàng Trương Chi và nàng Mị Nương. Trương Chi được giới thiệu là một
chàng trai đánh cá có giọng hát thật hay, thật lôi cuốn khiến cho Mị Nương, cô
gái con quan thừa tướng có nhan sắc tuyệt trần ngày ngày nghe tiếng hát của
chàng mà xao xuyến say mê. Đến khi gặp được Trương Chi, người mà nàng
tưởng là sẽ rất khôi ngô và thông minh nhưng không ngờ lại quá tầm thường và
xấu xí khiến nàng vô cùng thất vọng. về phần Trương Chi, tủi cho thân phận
nghèo hèn và xấu xí của mình, không thể sánh cùng Mị Nương nên đã nhảy
U" Kiếp này đã dở dang nhau
UThì xin kiếp khác, duyên sau lại lành "
xuống sông tự vẫn sau khi cất lên lời hát:
Sau khi chết, hồn Trương Chi nhập vào cây gỗ bạch đàn và cứ vấn vương
mãi. Thấy gỗ tốt người ta tiện thành chén uống trà. Kỳ lạ thay, mỗi khi rót
nước vào chén thì lại hiện lên hình ảnh người chèo thuyền đánh cá và văng
vẳng tiếng hát năm xưa như than, như trách. Mị Nương nhìn thấy Trương Chi
chạnh lòng thương tiếc mối tình đã qua, giọt nước mắt của nàng rơi xuống chén
nước, chén nước vỡ tan.
Ở vở kịch này, Nguyễn Đình Thi cũng rất "tiết kiệm" nhân vật, ông chỉ
đưa lên sân khấu có ba nhân vật: Trương Chi, Mị Nương, bà vú mà bỏ qua
nhân vật quan thừa tướng hay nói khác hơn quan thừa tướng chỉ là nhân vật
"ẩn", nhân vật được nhắc đến. Trái lại bà vú (nhân vật không có trong tác phẩm
truyện) lại xuất hiện hầu hết trong vở kịch của Nguyễn Đình Thi. Bà là người
chứng kiến được chuyện tình bi thảm giữa Trương Chi và Mị Nương từ đầu
đến cuối. Đồng thời, bà là người đầy tớ trung thành, người bạn thân thiết quan
tâm, chia sẻ cùng cô chủ của mình trong những khoảnh khắc chờ mong tưởng
chừng như vô vọng, những cơn đau ốm bỏ ăn bỏ ngủ... Có thể nói qua nhân vật
bà vú, qua những lời tâm sự của Mị Nương cùng bà, người đọc mới có thể hiểu
hết những tâm tư tình cảm thầm kín của Mị Nương.
Điểm sáng tạo thứ hai trong vở kịch khác với tác phẩm truyện là chi tiết
hồn Trương Chi nhập vào cây gỗ bạch đàn. Trong tác phẩm truyện, sau khi
Trương Chi nhảy xuống sông tự vẫn thì hồn nhập vào cây bạch đàn trôi trên
sông, người ta vô tình vớt được và đem bán cho thừa tướng, thừa tướng thấy gỗ
quí liền bảo thợ tiện thành bộ chén trà. Còn trong vở kịch, sau khi Trương Chi
chết, xác được chôn dưới gốc bạch đàn, những lúc thanh vắng, người ta nghe
có tiếng hát văng vẳng lẫn trong tiếng cành lá rì rào, thừa tướng nghe chuyện
mới sai người chặt cây đem đốt đi. Ông lão tiều phu thấy gỗ trắng, tốt mới lấy
một ít về gọt thành chén. Thấy chiếc chén có điều kì lạ, ông lão bèn giữ kín và
mang chén lại phủ thừa tướng đưa cho Mị Nương. So sánh chi tiết này trong vở
kịch và tác phẩm truyện ta thấy dù có đồi chút khác nhau nhưng chung qui lại
đều nói đến sự nhiệm mầu của chiếc chén gỗ. Tuy nhiên, có lẽ điều đáng nói
nhất trong vở kịch là chuyện tình của Trương Chi và Mị Nương đã được sự
quan tâm và thông cảm của nhân dân (mà đại diện là ông lão tiêu phu). Ong đã
bát châp sự can thiệp của thừa tướng đối với họ, kể cả sau khi Trương Chi chết
(cho chặt và đốt cây gỗ bạch đàn), lại dám mang chiếc chén gỗ có hình bóng
Trương Chi đến tận phủ thừa tướng, tìm cách chuyển đến tay Mị Nương.
Ở cuối vở kịch, lúc sự kiện kì lạ xảy ra sau khi giọt nước mắt của Mị
Nương nhỏ xuống chén nước, Nguyễn Đình Thi cũng có những sáng tạo khác
với tác phẩm truyện. Trong tác phẩm truyện, khi nước mắt của Mị Nương rơi
xuống; thì chiếc chén vỡ tan thành nước. Phải chăng nói đến một kết thúc
không vui vẻ, một sự chia li mãi mãi. Còn trong vở kịch thì khi đó Trương Chi
từ từ biến đi theo bóng con thuyền xa dần sau khi thốt lên những lời nói chân
thành, đầy vẻ cảm thông đối với Mị Nương: "Một lời em nói với anh, một giọt
nước mắt em nhỏ xuống, là như vậy mãi mãi rồi". Suy cho cùng Mị Nương đã
hối hận, đã đau buồn và rơi nước mắt vì Trương Chi thì nên chăng để cho
Trương Chi cảm thông và tha thứ cho Mị Nương, thiết nghĩ đó cũng là một kết
cục hợp lý.
Con nai đen là vở kịch Nguyễn Đình Thi phỏng theo một truyện cổ tích
nước Ý. Năm 1954, nhân một chuyến sang Nga công tác và được xem múa rối
vở Vua nai của tác giả người Ý Carlo Gozzi, Nguyễn Đình Thi rất tâm đắc với
nội dung câu chuyện được xem nên một thời gian sau khi về nước ông bắt tay
vào viết vở kịch, vở kịch vừa ra đời đã nhanh chóng được dàn dựng trên sân
khấu Nhà hát lớn Hà Nội (đạo diễn Thế Lữ) và được nhiều người biết đến. Tuy
nhiên, sau đó nó bị sự phê phán của những người quản lý văn hóa - văn nghệ
nhìn từ góc độ chính trị khi cho rằng vở kịch đã chạm đến những vấn đề thời sự
của đất nước lúc bấy giờ, thế là theo thông lệ thời ấy, vở kịch bị "xếp lại" và
dần dần rơi vào quên lãng. Mãi đến hơn 20 năm sau, năm 1983, nghĩ về vở
kịch đầu tiên của mình, Nguyễn Đình Thi đã sửa lại theo hướng cô đọng hơn và
trong một lần có dịp trở lại Nga, Nguyễn Đình Thi may mắn tìm được nguyên
bản tác phẩm Vua nai của tác giả người Ý Carlo Gozzi trong một tiệm sách cũ.
Rất vui mừng khi đọc được tác phẩm này, Nguyễn Đình Thi quyết định không
sửa chữa gì thêm ở kịch bản Con nai đen vừa được sửa chữa và sau đó ông cho
in trong tuyển tập kịch của mình (Nxb. Văn học, 1993). Nội dung vở kịch rất
hay và có ý nghĩa kể về đất nước có một vị vua và hoàng hậu đức độ, nhân từ,
giàu lòng thương yêu nhân dân. Trong triều có tên quận công vốn là người gian
ác và có phép thuật phù thủy, thấy hoàng hậu xinh đẹp hắn muốn chiếm đoạt
cho riêng mình nên đã dùng phép thuật biến nhà vua thành con nai đen, còn
hắn thì đội lốt nhà vua. Xung đột vô cùng căng thẳng giữa nhà vua thật trong
hình hài con vật và lão quận công trong hình hài nhà vua cho đến khi hồn nhà
vua trong xác con nai đen nhập vào xác ông lão hát rong và trở về triều để vạch
rõ chân tướng sự thật. Với sự giúp sức của hoàng hậu sự thật đã được sáng tỏ,
lão quận công phải đền tội bằng cái chết của mình và nhà vua đã trở về với
hình hài thật sống vui vẻ, hạnh phúc bên cạnh hoàng hậu cùng thần dân trăm
họ.
Hòn cuội (1987) là một vở kịch hài, mà theo Marian Tkatchep gọi là "hài
kịch thần tiên". Đây là một vở kịch tương đối dài được Nguyễn Đình Thi bỏ
khá nhiều tâm huyết để xây dựng. Thoạt đọc, kịch có nhiều tình tiết có vẻ vui
tươi, dí dỏm nhưng ngẫm nghĩ sâu xa quả thật là cười ra nước mắt. Nhân vật
được Nguyễn Đình Thi tỏ ra đặc biệt thích thú là Cuội. Với những lời nói và
hành động thông minh, nhanh nhẹn, lém lỉnh của mình, Cuội đã đứng về phía
người nghèo khổ, bất hạnh để dành lấy sự công bằng cho họ và ngang nhiên
chống lại những người có thế lực trong xã hội nhưng là sự chống đối có dự
mưu, có tính toán khéo léo. Tác phẩm với những tình tiết và lời đối đáp thú vị
gây cuốn hút người đọc từ đầu đến cuối. Sau chuyến giao du nhân gian ấy,
Cuội đã trở về nơi chốn thật của mình, làm chú Cuội ở cung trăng, lưu lại trần
thế những tình cảm ấm áp khó quên giữa Cuội với những người dân hiền lành,
lương thiện như Thêu, cô gái diễn trò rong, ông già...
Có thể nhận thấy kịch viết về đề tài này chiếm phân nửa trong tổng số
kịch của Nguyễn Đình Thi. Tuy nhiều về số lượng nhưng đa phần đó là những
vở kịch ngắn được phỏng theo những tác phẩm truyện cổ tích truyền thuyết
trong dân gian. Vì vậy, một số vở có nội dung rất quen thuộc với bạn đọc. Điều
chúng ta cần trân trọng là sự sáng tạo của Nguyễn Đình Thi khi chuyển thể
sang kịch, làm cho tác phẩm mang sức sống của cuộc đời thật, nhân vật trở nên
sống động và gần gũi hơn với con người hiện đại. Tuy nhiên, công bằng mà
nói, trừ Con nai đen, còn ngoài ra kịch viết về đề tài này của tác giả không
được nhiều sự chú ý của bạn đọc và công chúng.
1.2.3 Kịch viết về đề tài kháng chiến chống Pháp - Mỹ.
Trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, kịch nói đã ra đời
và ngày càng phát triển lớn mạnh. Đặc biệt kịch viết về thời kháng chiến chống
Pháp- Mỹ thì rất nhiều, có thể nhắc đến tên tuổi của một số kịch tác gia với các
tác phẩm như: Nguyễn Huy Tưởng, Bắc Sơn, Những người ở lại, Tờ báo, Anh
Sơ đầu quân...), Học Phi (Chị Hòa, Một đảng viên, Ni cô Đàm Vân, Cô hàng
rau...), Đào Hồng cẩm (Trước giờ chiến thắng, Chị Nhàn, Nối gió...), Nguyễn
Vũ (Đất, Nàng bắn lén, Mùa xuân, Ngọn lửa...) ... Hòa vào không khí chung đó
và cũng để thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của mình, Nguyễn
Đình Thi cũng góp vào mảng đề tài này một vài tác phẩm như: Hoa và Ngần,
Tiếng sóng, Giấc mơ. So với một số tác giả khác và xét trong khoảng thời gian
Nguyễn Đình Thi sáng tác kịch (nằm trong và sau kháng chiến chống Mỹ) thì
số lượng tác phẩm kịch Nguyễn Đình Thi viết về kháng chiến không nhiều
nhưng đó là những tác phẩm mô phỏng khá chân thực và cảm động về bối cảnh
cuộc sông và chiên đấu của dân tộc.
Hoa và Ngần là một vở kịch viết về Hà Nội trong những năm kháng chiến
chống Mỹ, từ năm 1956 đến năm 1973. Hoa và Ngần là tên của hai nhân vật
chính trong tác phẩm, cũng là hai người bạn rất mực thân thiết với nhau. Hoa là
y sĩ và Ngần là giáo viên. Họ rất nhiệt tình với công việc và với cách mạng, tự
nguyện ở lại Hà Nội, bám giữ Hà Nội, cả vào những lúc bom đạn kẻ thù điên
cuồng tàn phá. Họ vẫn kiên cường sống với bộn bề công việc, với hiểm nguy
rình rập và với nỗi đau của những mất mát trong chiến tranh. Cùng với họ,
hàng loạt nhân vật khác cũng có những cảnh ngộ khó khăn, gian khổ riêng như:
Chị Mười, Khánh, Duyên, Bảo, Lâm, Bình... Tất cả những người họ đều khao
khát được sống tự do. Họ không ngần ngại vượt qua những khó khăn, thử thách
của cuộc đời để xả thân vì cách mạng. Tác phẩm kết thúc vào lúc tình hình
chiến sự có phần sáng sủa hơn: Mỹ ký tắt Hiệp định Pa-ri, cam kết rút quân ra
khỏi Việt Nam. Đây thật sự là niềm vui lớn lao của tất cả mọi người. Chiến
tranh gần tàn, con người có nhiều niềm hy vọng và hạnh phúc khi được gặp lại
những người thân yêu: anh Mười, Bảo, Bình từ chiến trường trở về, từ nhà tù
của giặc trở về... Ngoài niềm vui sum họp, sự trở về của họ còn báo hiệu sự
thắng lợi tất yếu của đất nước, bởi không gì có thể tiêu diệt nổi sức mạnh của
những con người yêu nước tự nguyện xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đến vở Tiếng sóng, trong sáu phân cảnh của vở kịch thì có ba cảnh (cảnh
một, hai và bốn) là viết về thời kháng chiến chống Pháp- Mỹ, về những con
người Việt Nam trong kháng chiến, cảnh một: hiện lên những con người nghèo
khổ, nhỏ bé, buồn bã của thời kháng chiến chống Pháp: hai người thợ đàn bà đi
làm đến đêm mới về như những chiếc bóng, người đàn ông say sưa hát nghêu
ngao, tiếng em bé khóc thét đòi mẹ, hình ảnh người đà bà lầm lũi chôn con...
Đặc biệt, Nguyễn Đình Thi dồn tâm lực của mình vào ngòi bút ở đoạn cuối, lúc
bà Nhiêu tìm gặp đầu chồng treo lẫn với các quả bưởi trên cành. Không còn
hình ảnh nào để diễn tả sự tàn ác, nhẫn tâm của bọn giặc hơn hình ảnh ây. Và
chính hình ảnh ây và cảnh tượng bà lão Nhiêu run rẩy, đau đớn khóc than thảm
thiết trước cái chết của chồng mình đã thức tỉnh tấm lòng của người lính canh,
thức tỉnh tình thương của những người vốn là nam quốc nam nhân với nhau.
Anh lính tự nguyện giúp bà gỡ những đầu người cho vào bọc vải rồi cùng đi
với bà. Anh đã từ con đường tối đi theo con đường sáng, đi theo tiếng gọi của
dân tộc mình. Cảnh hai: nội dung cảnh kịch lồng ghép câu chuyện của mẹ và
con ở cả hai cuộc kháng chiến. Hiện tại là kháng chiến chống Mỹ và quá khứ
(người mẹ nhớ lại) là kháng chiến chống Pháp. Tuổi trẻ tươi đẹp hừng hực
nhiệt huyết cống hiến cho cách mạng của cô gái khiến người mẹ nhớ lại thời
tuổi trẻ của mình. Lúc ấy bà là một nữ cứu thương trẻ đẹp tình nguyện ở lại
cùng các chiến sĩ quyết tử thủ đô. Bà thương anh chiến sĩ tự vệ thành và có con
cùng với anh là cô gái trẻ bây giờ. Ngày anh ra đi cùng đồng đội bắt đầu trận
đánh, bà định báo tin vui là mình đang mang trong người giọt máu của anh,
nhưng không kịp, anh đã ra đi mãi mãi không về. Cô gái lớn lên thật tự nhiên,
vui tươi hồn nhiên trong tình yêu thương của mẹ và người bố nuôi sau này. Cô
không biết được sự thật cho đến khi cô hai mươi tuổi, lúc người mẹ thấy cô đủ
lớn để có thể nói rõ với cô. Và cô gái đã không phụ lòng bà mẹ, thế hệ thanh
niên lớn lên trong cách mạng đã thật vững vàng trước nghịch cảnh của cuộc
đời. Cô khá bình tĩnh đón nhận với tấm lòng yêu kính và biết ơn cả hai người
bô của mình, người có công sinh thành và người có cồng dưỡng dục. Qua đó,
cô cũng hiểu được thực chất của cuộc chiến tranh đã cướp đi biết bao sinh
mạng con người, trong đó có bố cô và cũng làm trỗi dậy tấm lòng bao dung,
nhân hậu, sẵn sàng chở che, gánh vác như người bố nuôi của cô để cô có được
cuộc sống hôm nay. Cảnh bốn: Thời gian đang ở vào giai đoạn cuối của cuộc
kháng chiến chống Pháp, bối cảnh là khu bệnh nhân cách ly của một bệnh viện
kháng chiến trong rừng, mọi thứ đều đơn sơ, thiếu thốn. Nguyễn Đình Thi bằng
ngòi bút thắm đượm tình thương của mình đã xây dựng thật thành công hình
tượng các nhân vật, đặc biệt là hoàn cảnh khó khăn tội nghiệp của vợ chồng
anh bộ đội. Bằng hành động, lời nói và các cử chỉ chăm sóc, đỡ đần vợ, anh bộ
đội đã thể hiện tấm lòng chan chứa yêu thương vợ của mình, nhưng anh không
thể ở suốt bên vợ bởi anh còn mang nặng trên vai một nhiệm vụ thiêng liêng
khác, nhiệm vụ đối với đất nước, với sự sông còn của dân tộc. Nhìn vợ hóc hác,
mệt mỏi vì bệnh tật, anh đau đớn trong lòng chỉ biết nói những câu an ủi vợ và
hy vọng một ngày đất nước được toàn thắng, vợ chồng cùng trở về Hà Nội tìm
lại ngôi nhà cũ, mái ấm yêu thương ngày xưa. Phút chia tay giữa hai người thật
cảm động, chồng thương vợ ở lại trong cơn đau yếu, vợ thương chồng ra nơi
trận mạc sống chết không biết thế nào, giã từ nơi bến sông này không biết có
còn gặp lại nhau không, họ nghẹn ngào quyến luyến mãi không muốn rời...
Không cần phải diễn giải rườm rà, phức tạp, chỉ cần xây dựng nên tình cảnh
xúc động lòng người này, Nguyễn Đình Thi đã thành công trong việc tố cáo tội
ác chiến tranh. Chiên tranh đã chia chồng rẽ vợ trong những lúc người ta thật
sự cần có nhau nhất. Chiến tranh đã khắc nên dáng vẻ cô đơn tôi nghiệp của
người vợ khi mãi nhìn theo bóng dáng của chồng đến khi khuất xa...
Giấc mơ là một vở kịch thơ được Nguyễn Đình Thi xây dựng khá thành
công. Loại kịch này có một thời gian rất được các tác giả kịch ưa chuộng, nhất
là khi chọn để viết về các đề tài lịch sử (theo thống kê từ năm 1940 đến 1945
kịch thơ chiếm đến 78% toàn bộ kịch về đề tài lịch sử). Nhân vật chính của vở
kịch là người lính (sau là anh thương binh), bị thương nặng trong trận đánh với
giặc Mỹ trên một mỏm đồi tưởng chừng như anh không thể nào sống nổi nhưng
bằng ý chí kiên cường của người lính và chút hơi sức yếu ớt còn sót lại, anh đã
chiến thắng được Thần chết để giành lấy sự sống. Cuộc chiến tranh kết thúc,
hậu quả nặng nề mà anh lính phải gánh chịu là anh chẳng nhớ được quá khứ
của mình. vết thương lớn ở đầu đã khiến anh quên đi tất cả, chẳng biết mình là
ai, tên gì, quê quán ở đâu, cha mẹ còn hay mất... Sông giữa cuộc sống mới
đang dần dần hồi sinh, anh không cảm thấy cô đơn lạc lõng, mọi người dành
cho anh sự Ưu ái đặc biệt, các cụ già thương anh, trẻ em mến anh, anh cũng đã
có một công việc phù hợp với mình... Tất cả những điều đó cũng phần nào giúp
anh vơi đi nỗi đau riêng của mình. Thế nhưng quá khứ qua đi chứ không thể
nào biến mất, ông bà già đến tìm con, cô người yêu ngày xưa của anh đến tìm
anh nhắc nhở lại những kỉ niệm ngày xưa khiến anh khao khát được biết về
nguồn gốc của mình. Chiến tranh đã hằn sâu dấu vết đau thương của nó lên cả
một dân tộc chứ không chỉ riêng anh nhưng sống là phải tiến về phía trước chứ
không phải mãi ôm quá khứ đau buồn để nhụt chí cùn lòng. Hiểu được điều đó
anh thấy vui hơn để hòa nhập vào cuộc sống mới, những gì đã qua như một
giấc mơ mà anh muốn quên khi vừa thức dậy.
Như vậy, trên đây là các vở kịch của Nguyễn Đình Thi được ông sáng tác
trong gần 30 năm. Như chính ông thú nhận, đó là khoảng thời gian ông say mê
kịch nhất. Nhà văn nói bằng tác phẩm của mình, điều tâm đắc đó đã thôi thúc
Nguyễn Đình Thi sáng tác thật nhiều. Mười vở kịch không phải là con số ít,
nhất là khi đặt trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Đình Thi cả về nhạc, thơ,
tiểu thuyết, lí luận phê bình. Thiên tư của Nguyễn Đình Thi quả thật phong
phú, sức sáng tạo cũng vô cùng dồi dào. Người ta vẫn thường gọi ông là nhà
văn Nguyễn Đình Thi hay nhà thơ Nguyễn Đình Thi, hy vọng ngày càng có
nhiêu công trình, bài viết nghiên cứu, tìm hiểu thêm về kịch của ông để người
ta sớm công nhận ông là nhà viết kịch Nguyễn Đình Thi.
1.3 NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU TRONG KỊCH CỦA NGUYỄN
ĐÌNH THI
1.3.1 Nỗi suy tư, day dứt về lịch sử dân tộc - một thời đại nhức
nhối đã qua nhưng mãi còn đọng lại...
Như đã giới thiệu ở phần trước, Nguyễn Đình Thi có hai vở kịch viết về
đề tài lịch sử là Rừng trúc và Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Các tác phẩm này tuy
có một số nhân vật và chi tiết hư cấu nhưng nhân vật chính và sự kiện chính thì
được sáng tạo trên các sử liệu xác thực, tôn trọng lời ăn tiêng nói, trang phục,
phong tục tập quán phù hợp với giai đoạn lịch sử ấy. Người ta thường nói, thời
gian như dòng chảy cứ mãi trôi đi nhưng quá khứ thì không bao giờ mất. Có
những quá khứ cứ tưởng sẽ nằm yên trong những trang vàng lịch sử nhưng mỗi
khi giở ra lại thấy đau lòng, nhức nhối. Các tác phẩm văn học lịch sử vốn
thường mượn chuyện xưa để nói chuyện đời nay, hấp thu những bài học của
quá khứ, bày tỏ sự đồng cảm với những con người và thời đại đã qua, nhưng
không vì thế mà phá vỡ tính chân thực của thể loại.
Rừng trúc dựng lại khoảng thời gian 20 năm từ 1237 đến 1258, lúc ngôi
vua đã về tay nhà Trần. Đây là giai đoạn nhà Trần đang củng cố để dần dần
hưng thịnh. Trần Thủ Độ với vai trò là quốc sư và cũng là chú họ của vua,
được vua vô cùng kính nể và tin tưởng. Ông quyết không phụ lòng tin cậy của
vua nên ra sức bảo vệ giang sơn nhà Trần, bất cứ điều gì ông nghĩ là có hại cho
sự tồn vong của ngôi vua nhà Trần thì tìm mọi cách để diệt trừ. Dù lắm mưu
toan nhưng sử sách phải công nhận ông là một người tài giỏi hơn người. Từ khi
ngôi vua còn ở triều Lý, ông đã làm đủ mọi cách chiếm đoạt về tay nhà Trần,
ông không từ một thủ đoạn nào kể cả bắt ép vua Lý Huệ Tông phải tự vẫn chết
sau khi đã nhường ngôi vua lại cho con gái thứ là Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới
vừa bảy tuổi. Với một vì vua bé bỏng miệng còn hôi sữa, Trần Thủ Độ dễ dàng
tạo ra một cuộc hôn nhân giữa hai dòng họ Lý - Trần để rồi bắp ép Chiêu
Hoàng phải nhường ngồi cho chồng mình là Trần Cảnh. Từ đây nhà Trần chính
thức lên ngôi với sự trị vì của một vị vua tám tuổi mà sau lưng là sự hậu thuẫn
rất lớn của ông chú Trần Thủ Độ.
Sở dĩ phải nói nhiều về nhân vật này, vì ông là một nhân vật rất quan
trọng trong thời kỳ cuối nhà Lý đầu nhà Trần, đồng thời cũng là đầu mối gây ra
nỗi đau cho Lý Chiêu Hoàng và sự bất hòa của anh em trong hoàng tộc nhà
vua. Trước sự xuống dốc không thể cứu vãn nổi của triều Lý, ông đã khôn khéo
đưa họ Trần lên nắm lấy vũ đài chính trị từ năm 1226 và dần dần đặt nền tảng
chắc chắn cho việc đưa họ Trần lên thay họ Lý trị vì thiên hạ. Ông đã nghĩ ra
kế hoạch lợi dụng hôn nhân để giành ngôi nhà Lý. Trước năm 1224 ông đã bố
trí cho con trai trưởng của Trần Thừa là Trần Liễu kết hôn với công chúa
Thuận Thiên là con gái trưởng của vua Lý Huệ Tông. Đó là cuộc tảo hôn thứ
nhất giữa hai họ Lý - Trần mà chính sử đã ghi chép lại. Đến cuối năm Giáp
Thân (1224), một lần nữa, ông đã khôn khéo bố trí để người con thứ của Trần
Thừa là Trần cảnh kết hôn với Chiêu Thánh công chúa (bấy giờ là vua Lý
Chiêu Hoàng vừa mới lên ngôi). Đây là cuộc tảo hôn lần thứ hai và cũng chính
cuộc tảo hôn này đã góp phần vô cùng quan trọng vào việc làm thay đổi hoàn
toàn ngôi vua Đại Việt. Các sử gia xưa đã mô tả đại lược về cuộc tảo hôn này
như sau:
"Trần Cảnh bấy giờ mới được tám tuổi, lo đứng ngoài cửa cung để chầu
hầu nhà vua. Một hôm (Trần Cảnh) phải bưng nước cho vua rửa, nhân đó mới
được vào trong. (Vua Lý) Chiêu Hoàng vừa trông thấy đã lấy làm ưa, cho nên,
mỗi khi dạo chơi vào ban đêm, vẫn cho gọi (Trần) Cảnh đến đi cùng. Thấy
(Trần) Cảnh ở chỗ tối thì thân đến nô đùa, hoặc nắm tóc, hoặc đứng chèn lên
bóng.
Một hôm, (Trần) Cảnh bưng chậu nước đứng hầu (vua Lý) Chiêu Hoàng
rửa mặt. Vua lấy tay vốc nước, tát ướt hết cả mặt của (Trần) Cảnh rồi cười và
chọc ghẹo. Khi Trần Cảnh bưng khăn lau thì lấy khăn ném cho (Trần) Cảnh.
(Trần) cảnh không dám nói gì cả, chỉ về ngầm thưa với (Trần) Thủ Độ. (Trần)
Thủ Độ nói rằng:
- Nếu thực như thế thì họ ta sẽ thành hoàng tộc hay là sẽ bị diệt hết đây?
Lại có hôm, (vua Lý) Chiêu Hoàng lấy khăn ném cho (Trần) Cảnh. (Trần)
Cảnh lạy và thưa rằng:
- Bệ hạ có tha tội cho thần không? Có thế thần mới xin vâng mệnh. (Lý)
Chiêu Hoàng vừa cười vừa nói:
- Tha tội cho ngươi ư? Thế ra nay nhà ngươi đã biết nói khôn rồi đấy.
(Trần) Cảnh về thưa lại với (Trần) Thủ Độ. (Trần) Thủ Độ sợ việc này mà tiết
lộ ra thì cả họ sẽ bị giết hết, bởi vậy, đem gia quyến vào trong cung cấm. (Trần)
Thủ Độ sai đóng chặt hết các cửa thành và cửa cung, canh giữ cẩn mật, không
cho các quan vào chầu hầu. (Trần) Thủ Độ lại loan báo:
- Bệ hạ nay đã có chồng rồi. " (34, 71-72)
Ta thấy Trần Thủ Độ đã tận dụng được chớp nhoáng thời cơ để thực hiện
kế hoạch của mình. Ngày 21 tháng 10 năm 1224, dưới sự tác động của Trần
Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng triệu tập các quan vào chầu và xuống chiếu nhường
ngôi vua cho Trần cảnh. Và đến ngày 11 tháng 12 năm 1224, Lý Chiêu Hoàng
mở hội lớn ở điện Thiên An, các quan mặc triều phục vào chầu, quỳ lạy dưới
sân. Lý Chiêu Hoàng bèn trút bỏ ngự áo, mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế, đổi
niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất. Trần Thủ Độ được phong làm Quốc
Thượng Phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước.
Ngôi vua đã về tay nhà Trần trong điều kiện như vậy. Bởi thế người ta nói
Trần Thủ Độ là người có công khai sinh ra triều Trần. Đầu năm 1926, Trần
Thủ Độ tự phong cho mình hàm Thái sư và nhanh chóng áp dụng nhiều biện
pháp rất kiên quyết nhằm nâng cao quyền lực của họ Trần, triệt để chấm dứt
mọi mầm mống của họa loạn, ổn định tình hình chính trị của nước nhà. Cụ thể
là tháng 8 năm 1226 Trần Thủ Độ đã bức tử Lý Huệ Tông, đồng thời truất ngôi
hoàng hậu của bà Trần Thị Dung, giáng bà làm Thiên Cực công chúa và lấy bà
làm vợ, cần nói thêm rằng bà Trần Thị Dung là chị họ của Trần Thủ Độ và
cũng chính Trần Thủ Độ là người đã chủ trương cho con em trong dòng họ
Trần lấy nhau. Đây là chủ trương nhằm đề phòng người khác họ lợi dụng hôn
nhân để cướp ngôi. Sự cẩn trọng giữ ngôi vua là cần thiết nhưng Trần Thủ Độ
và những người đương thời đã không thấy hết được những tác hại to lớn và lâu
dài của chủ trương này.
Sự kiện nổi bật nhất được Nguyễn Đình Thi đưa vào tác phẩm của mình
là sự kiện Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường vợ của mình là Thuận Thiên
công chúa cho Trần Thái Tông vào lúc Thuận Thiên công chúa có thai với Trần
Liễu được ba tháng và Chiêu Thánh, từ khi nhường ngôi cho Trần cảnh được
lập làm hoàng hậu, nay bị giáng xuống làm công chúa, ngôi vị hoàng hậu thuộc
về công chúa Thuận Thiên, sở dĩ có sự kiện đau lòng đó xảy ra cũng do Trần
Thủ Độ lo sợ về sự mất còn của ngôi vua khi Chiêu Thánh chậm có con nối
dõi, mà nhà vua đang độ tuổi xuân, cung phi mỹ nữ vây quanh, lỡ ra ngôi
hoàng hậu thuộc về một dòng họ khác thì sẽ có chuyện không hay. Vào tác
phẩm, việc làm này của Trần Thủ Độ còn có được sự hỗ trợ chắc chắn của Trần
Thị Dung. Nguyễn Đình Thi cho ta thấy ý kiến táo bạo trên là của bà nghĩ ra và
bàn với Trần Thủ Độ. Phải chăng tác giả muốn chúng ta có một cái nhìn bớt
gay gắt hơn với Trần Thủ Độ, nhân vật được tác giả xây dựng bằng ngòi bút
khá độ lượng. Và dẫu biết rằng việc làm đó sẽ gây ra nỗi đau đôi với Trần Liễu
và Lý Chiêu Hoàng nhưng vì cho đó là việc nước nên ông vẫn làm. Hãy nghe
ông nói đến sự quyết tâm của mình với Trần Liễu (lúc đó vẫn chưa hay biết gì):
“Nhưng mà tôi nghĩ thế này, ông Hoài vương ạ. Phải làm thế nào cho được
việc nước, đó là cái lẽ của người cầm nắm việc lớn. Đã nắm việc nước, ắt phải
xem bất cứ cái gì khác cũng là nhỏ, chỉ có việc nước là chuyện đáng kể thôi.
vương nghĩ có phải không?” (30, 295)
Sự việc sau đó xảy ra đúng như dự tính của Trần Thủ Độ đã gây ra sự
phẫn uất rất lớn trong lòng của Trần Liễu và Lý Chiêu Hoàng. Trần Liễu vì bất
mãn đã cấu kết binh mã nổi loạn chống lại triều đình. Còn Chiêu Thánh, một cô
gái mảnh mai yếu đuối như vẫn còn ngơ ngác trước những sự việc đã xảy ra
cho mình thì Nguyễn Đình Thi sẵn dành cho nàng một tấm lòng cảm thông, san
sẻ. Ngòi bút nhân đạo của ông như nhỏ máu trước nỗi đau lịch sử của Lý Chiêu
Hoàng. Xây dựng nên hình tượng nhân vật nữ chính này, với những đau xót mà
nàng phải gánh chịu, tác giả đã thể hiện được nỗi day dứt và xót xa của mình
khi lần giở những trang sử đã qua. Lý Chiêu Hoàng thật bé bỏng và đáng
thương trước sức mạnh của quyền lực, nàng như hóa điên khi những người
thân yêu dường như quay lưng lại với nàng. Mẹ nàng, người đã rứt ruột sinh ra
nàng lại cùng chồng âm mưu trong chuyện này. Bao cay đắng trong lòng nàng
như tuôn ra theo những lời nói thống thiết mà bi tráng với mẹ mình là Thiên
Cực:
"CHIÊU THÁNH - Tôi biết, tôi nhìn thấy hết. Ôi chao, khuôn mặt xinh
đẹp nhường kia, tôi đã nhìn đến ngây người bao nhiêu lần từ những ngày tôi
còn nhỏ, đến bây giờ như mới hai mươi lăm, hai mươi bảy tuổi, nhưng mà... hai
con mắt kia như hai lưỡi dao dính máu loang, trong cái trán kia lổn nhổn từng
nút rắn độc ngoe ngay, tính toán, lật lọng, thu vén cho họ hàng nhà bà chiếm
lấy thiên hạ, và cho bà nắm chặt quyền uy ở đời này! Bà có biết nhà vua năm
ấy chết như thế nào không? Tôi, tôi đã nhìn thấy, đứa bé gái lên tám hư đốn
năm ấy đã chạy đến chùa Chân Giáo và tôi đã thây cha tôi... Ôi... mặt người
thắt cổ to mọng lên bằng cái tráp, hai mắt trơn trắng dã, miệng ứa máu, và cái
lưỡi đen bầm rơi ra ngoài miệng lủng liếng.
THIÊN Cực - Thôi! Thôi! Thôi! Giời ơi! Đất ơi!...
(…)
CHIÊU THÁNH - Hãy nghe: từ hôm nay Lý Chiêu Hoàng này rời bỏ
ngôi báu. Người đàn bà được Đức vua cha ta thương yêu kia, ta cho bà trở về
họ Trần, từ nay bà không còn phải là bày tôi nhà Lý ta nữa. Ta cởi bỏ cho các
người ra khỏi thân phận một bọn tiếm quyền, mà được chính danh giữ việc
nước, thế thì các người hãy ra khỏi cõi tối tăm, quỷ quyệt, mưu mô, từ nay giữa
thanh thiên bạch nhật hãy hết lòng phù tá người kế nghiệp ta, giữ gìn lấy giang
sơn nhà Lý ta giao lại. Bờ cõi này còn chưa vững chắc thì các người phải ăn
không ngon ngủ không yên! Còn ta, từ nay ta sẽ làm một người dân thường, xa
nơi triều chính, còn được ngày tháng nào chỉ để mà lo hương khói thờ phụng
Đức vua cha ta, cho tròn đạo làm con, gọi là mong ăn năn tội lỗi của ta được
phần nào. Ta đã nói, bà đã nghe. Hãy tuân theo ý ta, từ nay hãy để cho ta yên!"
(30, 303-308)
Chúng tôi chỉ trích một số lời thoại trong một đoạn đối thoại thật dài giữa
hai mẹ con Lý Chiêu Hoàng. Những lời nói được phát ra từ miệng của Lý
Chiêu Hoàng với tất cả sự oai hùng ẩn giấu trong cái vóc dáng gầy yếu cá nhân
mà chúng tôi cho rằng không ai có thể viết hay hơn thế được.
Nàng đã vứt bỏ mũ niệm hoàng hậu dưới chân mình, nàng quá chán ngán
trước địa vị và danh vọng. Vì nó, biết bao người đã tranh giành, xâu xé và
chém giết lẫn nhau. Cha nàng, chẳng phải đã chết thật thảm thiết đó sao, còn
mẹ nàng lại trở thành vợ của kẻ giết cha nàng. Chồng nàng, mẹ nàng, chị
nàng... tất cả đều xa lạ đối với nàng. Nàng thật cao cả ở vị thế một vị vua cuối
cùng của triều Lý đứng ra giao lại giang sơn cho nhà Trần. Nàng mong muốn
giang sơn nước Việt mà ông cha nàng bỏ bao xương máu gầy dựng phải được
bền vững mãi mãi. Hôn nhân của nàng là một sự xếp đặt để dành lấy danh vọng
và quyền lực cho một âm mưu thật sâu xa. Cuộc hồn nhân đầy những mưu toan
như vậy tất có lúc kết thúc như thế này. Mặc dù vậy, trong nàng vẫn còn đọng
lại kí ức của một thời làm vua, dòng máu hoàng tộc triều Lý vẫn không ngừng
chảy trong nàng. Dù thất bại nàng vẫn không cam chịu nhục, hãy nghe những
lời nàng nói cùng Trần Cảnh trước lúc từ biệt:
"Thưa bệ hạ, không phải dễ dàng đâu. Tiếc rằng nhà Lý tôi đến đây đã
hết, nhưng tôi mừng là nhà Trần mở đầu đã có được bệ hạ. Xin bệ hạ tha lỗi,
tôi vẫn thầm coi chuyện nhường ngôi mười một năm trước là không có. Hôm
nay mới thật là ngày, trước trời đất núi sông, Chiêu Hoàng tôi kính mời Đức
vua mở nghiệp lớn nhà Trần nhận lấy công việc đất nước Đại Việt này. Từ lúc
này, tôi chỉ xin là một người dân thường, cái tên Lý Chiêu Hoàng từ nay cũng
không còn trong trí nhớ tôi nữa, dám mong bệ hạ rộng lượng cho tôi được một
gian nhà không xa chùa Bảo Quang, để tiện đường đi lại trông nom hương khói
cho cha tôi. Được như vậy, xin không dám quên ơn." (30, 315-316)
Hai vua của hai triều đại và cũng là đôi uyên ương trong lịch sử đang nói
những lời từ biệt cuối cùng. Nguyễn Đình Thi đã tạo nên một sự gặp gỡ khá
cảm động giữa họ. Chiêu Thánh nói đúng, mười một năm trước nàng chỉ là một
đứa bé, có biết gì đến việc nhường ngôi, nàng chỉ là một con rối trong tay của
người khác. Ngày nay, khi đã đủ hiểu biết, trước một người hiền đức, ôn hoa
như Trần cảnh, nàng mới thực lòng nhường ngôi lại và âm thầm chọn con
đường đi riêng cho mình. Có thể nói Nguyễn Đình Thi đã đi sâu vào mọi ngóc
ngách tâm hồn của Lý Chiêu Hoàng, làm rõ hơn những điều mà lịch sử không
thể nói hết được. Bởi thế từ tác phẩm cho đến sân khấu, ta thấy nhân vật Chiêu
Hoàng luôn hiện diện một cách sinh động và chân thực đến không ngờ. Từng
lời nói của nàng như oán như trách, như chứa chan những giọt nước mắt tủi
hờn. Đây cũng là nhân vật chiếm được cảm tình và sự thương xót của độc giả,
khán giả nhiều nhất.
Nói về vua Trần Thái Tông, từ nhỏ phải chịu mọi sự khuôn ép của Trần
Thủ Độ nên tư cách ông có phần đa đoan, yếu đuối. Mọi sự sắp đặt của Trần
Thủ Độ ông đều quy thuận mà không có những chính kiến riêng của mình.
Trong tác phẩm, ta thấy ông cũng có phần luyến tiếc và thương xót cho Lý
Chiêu Hoàng nhưng không có cách nào khác hơn là để cho nàng ra đi, rồi sau
đó dường như quá chán nản trước sự tác oai của quyền lực và thực tế phi luân
xảy ra trong tam cung lục viện, ông tìm đường lên Yên Tử, tìm đến với cõi yên
tĩnh của nhà Phật. Một vị vua đã bỏ cả ngôi cao như bỏ "một chiếc giày rách"
ấy in đậm dấu ấn trong lịch sử và còn đặt ra câu hỏi cho bao người đâu là một
sự thật lịch sử...
Trái với một ấn tượng ban đầu về một thế giới êm ả, tĩnh lặng do cái tên
Rừng trúc gây nên, vở kịch của Nguyễn Đình Thi là một sự kiện lịch sử ba
động. Ông đã xây dựng vở kịch dựa trên tư tưởng của thông điệp mà ông đã
đưa ra "việc nước là lớn nhất, nhưng việc người với người cũng không phải là
nhỏ hơn" (30, 358). Nước là gì nếu không phải được xây dựng nên từ nền tảng
của lòng người. Nguyễn Đình Thi đã rất cảm khái và bất nhẫn về thân phận của
con người trước quyền lực. Với Nguyễn Đình Thi, nỗi đau của con người là lớn
nhất. Ông đã đặt vị trí của mình vào mỗi nhân vật để cảm nhận, suy nghĩ và đặc
biệt cảm thông cho sô phận lịch sử của Lý Chiêu Hoàng, một con cờ được xếp
đặt trong tay tôn thất nhà Trần để họ bước dần trên nấc thang của danh vọng và
quyền lực.
Đến Nguyễn Trãi ở Đông Quan, là thời điểm lịch sử xảy ra sau những sự
kiện lịch sử trong Rừng trúc khoảng gần 200 năm. Thời gian mà Nguyễn Đình
Thi xây dựng trong vở kịch là trong vòng 10 năm, từ năm 1407 đến 1417, lúc
giặc Minh đang đô hộ nước ta. Nhân vật trung tâm trong vở kịch là vị anh hùng
dân tộc Nguyễn Trãi, bị giặc Minh giam lỏng ở kinh thành Thăng Long sau khi
đi theo xe tù của cha từ ải Nam Quan trở về. Biết Nguyễn Trãi học rộng tài cao
nên bọn chúng tìm cách dụ dỗ ông ra làm quan phục vụ cho chúng nhưng ông
kiên quyết từ chối. Không thuyết phục được Nguyễn Trãi, bọn chúng giam
lỏng ông ở Đông Quan cho đến lúc ông thay đổi ý định. Chúng ta đau lòng khi
thấy một người chí lớn tài cao như Nguyễn Trãi đã bỏ phí mất một khoảng thời
gian dài vô ích ở Thăng Long và hàng ngày phải sống trong cảnh "no nước
uống, thiếu cơm ăn", luôn bị rình rập theo dõi... Những người dân nào sợ bị vạ
lây đều không dám đến gần Nguyễn Trãi. Mười năm, một khoảng thời gian thật
dài, Nguyễn Trãi đã sống như thế, sống một cách kiên cường, khôn khéo đề tồn
tại và hoạch định kế hoạch cho tương lai.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Đình Thi viết Nguyễn Trãi ở Đông
Quan chứ không viết về Nguyễn Trãi ở Lam Sơn. Bởi vì tất cả những gì tạo
nên vẻ đẹp văn chương của ông đều bắt nguồn từ những tình cảm thiết tha đối
với quê hương đất nước mình, nhưng đặc biệt tâm hồn ông chỉ nhạy cảm với
đất nước còn trong khổ đau, trong nhọc nhằn bất hạnh. Viết Nguyễn Trãi ở
Đông Quan là viết về thời Nguyễn Trãi bị cầm tù khi đất nước còn đầy cảnh
xót xa. Còn nỗi nhục nào lớn hơn khi toàn bộ triều đình vua quan nhà Hồ từ
Thượng Hoàng Hồ Quý Ly, vua là Hồ Hán Thương, đến tổng chỉ huy quân đội
là Hồ Nguyên Trừng cùng nhiều quan chức cao cấp, trong đó có cha của
Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh đều bị quân Minh áp tải trên xe tù giải về
Trung Quốc. Kết cục thê thảm đó xảy ra khi cuộc kháng chiến chống quân
Minh xâm lược do nhà Hồ lãnh đạo vào cuối năm 1406 mau chóng bị thất bại.
Từ đó nhân dân phải sống vô vàn cực khổ, lầm than dưới chế độ cai trị dã man,
hà khắc của quân xâm lược. Nguyễn Trãi vừa về đến Đông Quan đã thấy ngay
cảnh tan hoang, điêu tàn trong cơn binh lửa: "... Tội nghiệp, cái bến đò nhỏ mà
quân Ngô nó cũng đốt phá! Chiếc bia nơi miếu cũ, chúng nó cũng đập nát! (...)
Bây giờ nhìn đâu cũng chỉ thấy lởm chởm giáo mác quân cuồng bạo! Kinh điển
chữ nghĩa cả nước đã thành đá vụn, tro tàn!... Vậy mà bên túp lều kia, cây đỗ
quyên đang nở muôn nghìn đốm son phấp phới... Mùa xuân về đấy ư..." (30,
395). Mùa xuân đến, thật đau buồn, đất nước làm gì có mùa xuân nữa chứ, chỉ
có cây cỏ vô tình thì vẫn sinh sôi nảy nở theo quy luật tự nhiên của nó. Người
dân sống trong cảnh nơm nớp, lo sợ, họ không dám sống ở Đông Quan mà lánh
đi các nơi, họ bảo nhau: "Muốn sống thì lên rừng ở rú" (30, 399). Phụ nữ bị bắt
đem bán ở các vùng cửa khẩu, cảnh tượng thật thê thảm: "Chỉ nhìn sang bên
kia cửa ải, là thấy cảnh những bọn quan lính chúng nó đi bán phụ nữ người
mình, chúng nó cướp ở các nơi đưa về. cả một vùng Ải Khẩu, Bằng Tường bên
ấy thành chợ mua bán đàn bà, con gái người Nam!..." (30, 397). Ngoài phụ nữ
thì những tay thợ lành nghề, học trò hay chữ... cũng bị bắt mang về Trung
Quốc, cả nước bao trùm một màu đen u ám.
Quả đúng như lời Nguyễn Trãi nói trong tác phẩm: "Mối họa lớn đâu phải
bỗng dưng đến trong một ngày! Lật thuyền rồi, mới thấy dân là như nước... "
(30, 397). Sức mạnh lớn nhất để giữ và tạo dựng một đất nước hùng mạnh là
phải biết dựa vào nhân dân. Vua quan biết chăm lo cho cuộc sống và những
nguyện vọng chính đáng của người dân, thì ngược lại, nhân dân sẽ hết lòng, hết
sức bảo vệ và phù tá cho cơ nghiệp của nước nhà. Tiếc thay nhà Hồ đã không
hiểu được như thế, bây giờ dẫu hối tiếc cũng đã muộn màng. Đông Quan không
lúc nào tang thương như bây giờ. Dòng Nhị Hà lềnh bềnh những xác người
chết chém không biết trôi đi đâu, nỗi căm hờn uất hận dâng tràn trong lòng
người...
Trước thực trạng đất nước đang lâm nguy, lòng Nguyễn Trãi đau xót vô
cùng. Đã vậy, vừa đến Đông Quan, ông bị bọn giặc bắt ngay nhưng chính thái
độ khẳng khái, xem cái chết nhẹ như lông hồng của Nguyễn Trãi khiến bọn
giặc càng thêm quí trọng và quyết định sẽ dùng thái độ mềm mỏng để thu phục
ông. Phong cách của Nguyễn Trãi đúng thật là phong cách của người tài giỏi và
có bản lĩnh hơn người. Để Nguyễn Trãi sống hôm nay, bọn chúng sẽ phải ôm
lấy nỗi ân hận to lớn về sau, khi Nguyễn Trãi trở thành nhà quân sự tài ba lỗi
lạc cùng chung vai sát cánh với Lê Lợi đánh tan quân xâm lược nhà Minh,
giành lấy độc lập dân tộc.
Bị giam lỏng ở Đông Quan, hàng ngày Nguyễn Trãi phải nhìn thấy những
cảnh trái tai gai mắt một cách đau lòng. Người dân vô tội bị đánh đập, giết chóc
vô cùng tàn nhẫn mà ông không biết làm cách nào để cứu họ bởi riêng bản thân
ông, nếu không tìm cách thoát khỏi Đông Quan thì sự sống chết cũng chưa
lường hết được. Bọn chúng đâu buông tha cho Nguyên Trãi, dùng lời lẽ ngọt
ngào để dụ dỗ không được, chúng chuyển sang hăm dọa. Có lẽ đã đến lúc
Nguyễn Trãi phải ra đi để bảo toàn mạng sống của mình và làm nên sứ mạng
quan trọng mà cha ông đã ân cần dặn lại trước lúc đi xa, sống ở Đông Quan,
dưới sự kiềm hãm của kẻ thù, ông không thể làm được việc gì để giúp dân,
giúp nước. Cũng có lúc ông đã bí mật bàn luận việc nước và kế sách chống
giặc với những nhà nho yêu nước nhưng chí hướng của họ không giống như
ông, họ thiếu đi lòng nhiệt tình và quyết tâm mà Nguyễn Trãi tha thiết mong ở
họ. Cuối cùng chỉ có Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn tìm đường vào Lam
Sơn tụ nghĩa, kết thúc những ngày tháng bị quản thúc cực khổ, tù túng ở Đông
Quan.
Nói thêm về dư luận xung quanh vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan khi nó
vừa ra đời và được công diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội năm 1980. Nhìn chung,
đây là một tác phẩm được dư luận rất chú ý, có nhiều ý kiên khen chê gây xôn
xao trong giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ. Nói riêng về góc độ phê phán vở kịch
thì cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến không đồng tình với Nguyễn
Đình Thi khi cho rằng tư tưởng của Nguyễn Trãi trong một thời điểm nhát định
đã được tác giả phản ánh theo phong cách hiện đại. Nhưng cũng có một số ý
kiến cho rằng vở kịch này không nên diễn bởi một số đoạn đối thoại trong kịch
nhằm ám chỉ hiện trạng của chế độ ta lúc đó. Đại loại như những đoạn: "Lúc
này, các bậc cành vàng lá ngọc cũng biết cảnh đám dân đen chúng tôi một tí"
(Lời chị Cúc - 30, 397), "Dân ta thấy tất cả, hiểu tất cả! Chỉ có những kẻ tôn
quý, đã lâu quá, mai ăn chơi, rồi xâu xé nhau trong nơi cung đình, không còn
biết gì đến những nơi khôn khổ, loạn lạc của dân" (Lời Nguyễn Trãi - 30, 398),
"Làm thế nào... làm thế nào cho không bao giờ có ai phải lấy của ai, xin của
ai... nhặt thừa của ai... Cho nhìn nhau, không ai phải sợ ai... Làm thế nào cho
những người trong cảnh vất vả xâu xé hàng ngày, người ta thấy còn cái gì nữa
để mà sống, cái gì đẹp, lạ, cái gì trong tiếng khóc, tiếng cười, cái gì cần gìn giữ,
đừng phạm đến, đừng để mất đi... Làm thế nào..." (Lời Nguyễn Trãi - 30, 430-
431) v.v... vở kịch ra đời vào lúc nhà nước ta chưa chính thức thực hiện chính
sách đổi mới cho nên cái nhìn của con người lúc bấy giờ còn rát cực đoan và
khất khe. ơ luận văn này chúng tôi không muôn lạm bàn quá sâu về những dư
luận không hay về vở kịch lúc ấy mà chỉ muôn nói rằng cuối cùng cái gì là sự
thật, là chân lí thì cũng được khẳng định. Nguyễn Trãi ở Đông Quan vẫn là tác
phẩm nghệ thuật có giá trị trong lòng bạn đọc nói về vị anh hùng vĩ đại của dân
tộc, người đã được tổ chức của Liên Hiệp Quốc về Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa (UNESCO) trân trọng ghi tên vào hàng danh nhân của nhân loại vào năm
1980, nhân kỉ niệm 600 năm sinh của Nguyễn Trãi. Và tính đến nay ông là một
trong ba người Việt Nam có được vinh dự lớn lao này, sau Nguyễn Du (1965)
và trước Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990).
Tái hiện một cách sáng tạo lịch sử xa xưa của dân tộc không bao giờ là
một điều đơn giản, bởi thế tác phẩm của các văn nghệ sĩ cần phải được trân
trọng và ghi nhận công sức một cách xứng đáng. Cùng với Nguyễn Đình Thi,
còn có rất nhiều tác giả tâm huyết với các đề tài lịch sử, được dư luận đánh giá
cao phải kể đến nhà văn Nguyễn Huy Tưởng với một số vở kịch lịch sử như:
Cột đồng Mã Viện khai thác tinh thần quật khởi của người Giao Chỉ chống bọn
xâm lược Mã Viện vào thời xa xưa của dân tộc ta, Vũ Như Tô phản ánh hành
động của người kiến trúc sư có tài, có lòng say mê nghệ thuật nhưng thiếu sáng
suốt vào cuối thời Lê sơ... Mỗi tác giả có thể chọn một thời điểm lịch sử nhất
định để kí thác tài năng của mình như Nguyễn Đình Thi chọn Rừng trúc ở thời
điểm những năm đầu nhà Trần, Nguyễn Trãi ở Đông Quan vào thời điểm cuối
nhà Hồ, lúc giặc Minh xâm chiếm nước ta. Trải dài mấy ngàn năm dựng nước
và giữ nước, lịch sử dân tộc ta có biết bao nỗi thăng trầm cay đắng, có khi phải
đánh đổi bằng máu và nước mắt. Cho nên làm thế nào cho lịch sử không bị
lãng quên là nhiệm vụ vẻ vang của các nhà văn nghệ sĩ chúng ta.
Có thể nói Rừng trúc và Nguyễn Trãi ở Đông Quan hay những vở kịch
lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng vừa kể trên là những tác phẩm rất có giá trị.
Tại cuộc hội thảo về Sân khấu và đề tài lịch sử, Nguyễn Đình Thi đã phát biểu
rằng từ kinh nghiệm sáng tác của mình ông thấy những tri thức lịch sử và tình
yêu đối với lịch sử dân tộc không chỉ là chất liệu mà thực sự là bệ đỡ cho các
sáng tạo nghệ thuật. Và với Nguyễn Đình Thi từ những ca khúc hùng tráng như
Diệt phát xít, Người Hà Nội, bộ tiểu thuyết Vỡ bờ đến nhưng kịch bản sân khấu
nói trên đều xứng đáng là những áng sử thi phản ánh sống động lịch sử của dân
tộc Việt Nam qua các giai đoạn.
1.3.2 Niềm cảm thông, nỗi xót xa, đau đớn khôn nguôi về những
bi kịch của đời người.
Hơn một số bộ môn nghệ thuật khác, kịch phản ánh số phận con người
một cách sống động và sâu sắc. Một vở kịch được đánh giá là hay khi nó có thể
làm lắng đọng lại trong lòng người đọc, người xem nỗi trăn trở, xót xa về số
phận con người. Một cuộc đời quá yên bình, may mắn sẽ không thể thành kịch.
Xem kịch, người ta nhận thấy sao chung quanh ta còn lắm nỗi éo le, lắm người
bất hạnh để ta có thể sống tốt hơn, nhân ái và bao dung hơn.
Có người nói rằng, tìm hiểu một tác giả phải tìm hiểu được tư tưởng nghệ
thuật của ông ta và tư tưởng này nhất thiết phải tìm ở thế giới hình tượng do
ông ta sáng tạo ra, bởi vì đây là căn cứ duy nhất có ý nghĩa. Hình tượng càng
được tác giả tâm huyết bao nhiêu càng có ý nghĩa tư tưởng sâu sắc bây nhiêu.
Trong mỗi tác phẩm kịch của Nguyễn Đình Thi, hình tượng nhân vật rất thực
và sinh động, mang những nỗi vui buồn sướng khổ riêng của sô phận con
người. Nhà nghiên cứu và phê bình kịch Tất Thắng đã từng gọi Nguyễn Đình
Thi là một nhà nhân đạo lớn. Đứng trước những bi kịch quá lớn của số kiếp con
người, tác giả không thể cầm được lòng thương cảm của mình. Đó cũng là lý
do để ngày nay chúng ta có những vở kịch thật hay và cảm động sống mãi cùng
với thời gian.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà tác giả chọn những câu chuyện cổ tích
truyền thuyết trong dân gian để dựng thành kịch mà bản thân những tác phẩm
đó chứa đựng những bi thương, khổ đau về cuộc đời con người thôi thúc cây
bút nhân đạo Nguyễn Đình Thi sáng tác. Từ câu chuyện Đá vọng phu thật cảm
động và đau xót trong dân gian, Nguyễn Đình Thi xây dựng thành vở Người
đàn bà hoa đá. Như đã nói ở chương trước, nhìn chung tác giả vẫn giữ nguyên
cốt truyện của người xưa nhưng khi xây dựng thành vở kịch với những lời đối
thoại, hành vi, cử chỉ... thì là những sáng tạo rất lớn của tác giả. Dù nhân vật
làm nghề chài lưới sống ở ven biển như trong tác phẩm truyện hay làm nghề
lấy mật sống ở ven rừng như trong vở kịch thì cũng có khác gì. Cái chính là bi
kịch gia đình mà họ gánh chịu đã quá sức của họ. Bi kịch ở cái lỗi lầm không
thể sửa chữa được dẫn đến sự trả giá ghê gớm. Hai anh em ruột lấy nhau mà
không tự biết. Tình yêu của họ là vô tư, trong sáng nhưng họ đã phạm tội loạn
luân trong đạo lý làm người. Cái lỗi của họ là đã trót dại dột hồi còn bé thơ, dại
dột quăng con dao định mệnh và dại dột trong hành động bỏ nhà trốn đi, để đến
lớn tạo hóa khiến xui thế nào họ lại kết thành chồng vợ. Và nếu như không có
một buổi chiều ngồi gội đầu và chải tóc cho vợ thì anh làm sao nhận ra em và
cuộc sống gia đình họ vẫn rất đầm ấm hạnh phúc bên đứa con còn thơ dại,
chứng nhân của tội lỗi và của tình yêu đôi lứa. Nếu người chồng không nhận ra
vết sẹo trên đầu vợ, kết quả của hành động do chính mình gây ra thì có lẽ họ sẽ
vô tư sống trong tội lỗi đến cuối cuộc đời. Tinh yêu của đôi vợ chồng trẻ thật
vô bờ bến qua từng hành động và lời nói. Sáng, vợ đi chợ phiên, chồng ở nhà
hết lời dặn dò, nào là sợ cây mục đổ, sợ trăn gió, SỢ nước lũ... dặn vợ mau
chóng trở về:
"NGƯỜI ĐÀN ÔNG - Cũng vì đời anh từ tấm bé đã gặp những chuyện
không may, thành ra hay sợ vẩn vơ đủ thứ! Em đừng về muộn nhé. Em về
muộn là anh bế con lên núi kia anh đứng trông em từ xa.
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Có phải bế con lên núi thì để em lên cho. (cười) Anh
đừng sốt ruột, em về sớm thôi mà! Thế chốc nữa, con nó dậy, anh quây bát bột
cho nó ăn. Nó có đòi mẹ, anh chịu khó dô con. A, anh đun cho em nồi nước bồ
kết, đi chợ về em gội đầu nhá. 1 (...)
NGƯỜI ĐÀN ÔNG - Sao ông trời lại thương cho anh gặp được em!...
Còn mấy ống mật ong này... nào, để anh buộc lại cho...". (30, 602-603)
Vợ đi chợ về, bán mật được bao nhiêu tiền chỉ mua quà cho chồng con.
Bố thì khăn nhiễu tam giang, con thì lụa để may áo... Cuộc sống đang êm đềm
là vậy, ỉàm sao họ biết được mình đang ở trong nghịch cảnh rất trớ trêu. Đáng
thương nhất là người vợ, không hề biết là chuyện gì đã xảy ra. Người chồng mà
mình rất mực thương yêu tự dưng bỏ nhà ra đi biền biệt không một lời từ giã.
Lời nói của hai vợ chồng trong lúc vui vẻ "bế con lên núi" mà Nguyễn Đình
Thi đã rất nhạy bén khi sáng tạo ra đã trở thành hiện thực. Đợi chồng mãi
không được, chị bế con lên núi đứng ngóng trông. Trông mãi, chờ mãi cho đến
khi xương thịt hóa đá. Người đời gọi đó là Đá vọng phu để ghi nhận lòng
chung thủy sắt son của người vợ và cũng để nhắc nhở người đời đừng bao giờ
quên bi kịch đau lòng của họ.
Trong từng lời kịch dường như chứa đựng niềm thương cảm xót xa của
Nguyễn Đình Thi dành cho nghịch cảnh quá đổi éo le, ngang trái của đôi vợ
chồng trẻ, mà cũng là của hai anh em nhà họ. Nguyễn Đình Thi biết không còn
kết cục nào khác ngoài việc để người chồng ra đi, phải lập tức chia rẽ ngay họ
khi sự thật đã sáng tỏ. Dù rất đau lòng nhưng cũng không còn cách nào khác vì
đó là đạo lý ngàn đời. Tấm lòng xót thương của ông dành cho họ như dồn lại ở
những câu cuối của vở kịch:
" Chồng tôi đi đâu, có ai biết không? Chúng tôi yêu nhau lắm, sao tự
nhiên chồng tôi lại đi mất! Không ai biết tại sao... không ai hiểu vì đâu... (...)
Xương thịt tôi hóa đá, đầu óc tôi hóa đá, tim tôi hoa đá, không đập nữa.
Tôi vẫn đợi.
Hình như tôi đứng đây để đợi một cái gì ở xa lắm. Hình như tôi đứng đây
để đợi một cái gì ở chân trời kia, ở xa hơn chân trời kia. Tôi vẫn đứng đây. Tôi
vẫn đợi." (30, 617-618)
Người đàn bà hoa đá được Nguyễn Đình Thi hoàn thành vào năm 1980
thì liền sau năm đó ông bắt tay vào sáng tác vở Cái bóng trên tường. Vở kịch
thể hiện lòng tiếc thương của Nguyễn Đình Thi dành cho người phụ nữ nết na,
đức hạnh nhưng gặp nỗi oan tình đến nỗi phải trầm mình tự vẫn. Sáng tác vở
kịch, Nguyễn Đình Thi muốn câu chuyện đau lòng ấy được đông đảo người
đọc, người xem cùng san sẻ, cùng suy ngẫm về những sự việc có thể xảy ra
một cách tình cờ, một cách vô tình mà người đời không thể nào ngờ tới được.
Vì thương đứa con bé bỏng đang vắng bô mà mỗi tôi người mẹ trẻ đánh lừa
con mình bằng cách chỉ vào bóng mình trên vách mà bảo là bố. Đứa trẻ ngây
thơ cứ đinh ninh là vậy cho đến khi rmười bố bằng xương bằng thịt đi trận trở
về thì đứa bé một hai không chịu nhận là bố mình. Đến lúc này thì sự hiểu lầm
và ngây thơ của con trẻ đã gây nên nỗi oan nghiệt cho người lớn. Ngòi bút của
Nguyễn Đình Thi vừa xót xa trách cứ người chồng mà lại vừa thông cảm cho
anh ta. Trách người chồng ở chỗ quá nóng giận, quá mù quáng vì ghen tuông,
không chịu nghe một lời giải thích, thông cảm cho anh ta vì anh ta đã nghe
chuyện ấy từ đứa trẻ lên bôn, mà trẻ con thì không biết nói dối bao giờ.
Riêng đối với người vợ, nạn nhân chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh nhất
trong vở kịch này được Nguyễn Đình Thi miêu tả với một tấm lòng trân trọng
và xót thương. Nàng vốn là một người con gái đức hạnh, nết na, đối với chồng
một lòng chung thủy, đối với mẹ chồng chu đáo, ân cần, đối với con thì tần tảo
nuôi dưỡng. Trong suốt mấy năm trời bặt tin chồng, mọi chuyện lớn nhỏ đều
đặt trên đôi vai của nàng. Khi chồng về, trong nỗi vui mừng đến bàng hoàng,
nàng mơ ước đến một cuộc sống gia đình đầm ấm nhưng niềm vui chưa trọn thì
tai họa đã giáng xuống cuộc đời nàng. Nhìn người chồng hung tợn xông đến
định đánh mình, giận dữ xô đuổi mình đi người vợ hiền vô tội vẫn không biết
mình đã làm sai chuyện gì, lầm lỗi điều gì. Người vợ cho đến lúc chết vì oan ức
và tuyệt vọng vẫn không hiểu được lý do vì sao bỗng dưng chồng mình lại đối
xử với mình như thế vì anh ta đã không hề nói ra sự thật và cũng không để vợ
có cơ hội thanh minh. Hành động quyên sinh của người vợ là rất phù hợp với
tính cách của nàng và với hoàn cảnh xã hội thời phong kiến mà nàng đang
sống. Tuy đau lòng và thương xót cho nỗi oan khuất của người vợ nhưng
Nguyễn Đình Thi vẫn có chút cảm thông đối với người chồng trẻ còn nhiều
nông nổi. Bằng chứng là nỗi đau đớn lặng người như hoa đá khi người vợ ra đi
và những giọt nước mắt hối hận muộn màng của người chồng khi hiểu ra sự
thật: "Em tha tội cho anh!... Giời ơi, em tha tội cho anh... Không có thằng Đản,
thì anh cũng chết theo em... Anh ngu dại quá... Làm sao còn chuộc lại được...
Em tha tội cho anh... Em ơi... (ngồi tựa vào gốc cây táo, ngất đĩ) (30, 636).
Người chết là hết nhưng người ở lại sẽ mang mặc cảm tội lỗi và sự hối hận sẽ
giày vò anh ta đến hết cuộc đời. Ngòi bút nhân đạo Nguyễn Đình Thi ở đoạn
cuối vở kịch đã để cho người chồng gặp lại vợ trong giấc mơ và với những lời
ân cần, dịu ngọt nàng đã tha thứ cho chồng. Đó là đoạn kịch cực hay chứa chan
tấm lòng thương cảm của tác giả dành cho những bất hạnh, khổ đau của đời
người. Ông muốn hóa giải tất cả...
Sáng tác vở kịch này, có lẽ Nguyễn Đình Thi cũng mong câu chuyện
thương tâm trên sẽ có thêm nhiêu cơ hội được người đời suy ngâm đèn, đê rút
ra chút bài học cho bản thân mình, như tác giả đã đề cặp đến qua lời nói của
người chồng ở những câu cuối cùng của vở kịch: "Em ơi, chẳng phải riêng một
mình anh mà từ nay, hễ có ai thắp đèn buổi tối, trông lên cái bóng trên tường
thì sẽ nhìn thấy em..." (30, 638). Cái bóng trên tường -Một hình ảnh thật gần
gũi nhắc nhở các cặp vợ chồng trong đời sống gia đình nên có sự bình tĩnh, ôn
tồn xét đoán sự việc, không nên cả tin, nóng vội để xảy ra những bi kịch đáng
tiếc.
Bởi vì là con người nên hạnh phúc cũng nhiều mà bi kịch cũng lắm. Đến
Trương Chi hay Con nai đen thì lại là những bi kịch kiêu khác. Trương Chi là
bi kịch của tình yêu không thành dẫn đến kết cục bi thảm. Còn Con nai đen là
bi kịch của nạn phù thủy và lòng người nham hiểm dẫn đến những rối loạn
trong cung đình. về câu chuyện của Trương Chi và Mỵ Nương không phải chỉ
có trong tác phẩm truyện hay trong vở kịch của Nguyễn Đình Thi mà nó còn
được dàn dựng trên sân khấu với loại hình nghệ thuật tuồng, chèo. Nó đánh
thức vào cõi lòng nhạy cảm của các tác giả bởi câu chuyện tình lãng mạn, đáng
thương của chàng trai đánh cá nghèo và cô tiểu thư đài các. Câu chuyện lãng
mạn ở chỗ một cô gái con nhà quan, cành vàng lá ngọc, mà lại đi say mê đắm
đuối chàng trai đánh cá nghèo, có giọng hát hay mà mình chưa một lần biết mặt
nhưng thương tâm ở chỗ là mối tình ấy trôi qua chóng vánh với cái chết của
chàng trai bởi thực tế và mộng tưởng không phải lúc nào cũng giống nhau.
Trong vở kịch của mình, tuy vẫn bám theo cốt truyện xưa nhưng Nguyễn Đình
Thi đà tận dụng đặc trưng của thể loại kịch là những lời thoại để đặc tả tâm
trạng của họ và ẩn sâu trong đó là nỗi niềm xót xa, tiếc nuối của mình. Có
những lúc, những khoảnh khắc tác giả để cho Mỵ Nương khắc khoải chờ mong
được gặp mặt Trương Chi đến điên dại tưởng không gặp được Trương Chi thì
nàng không thể nào sống nổi: "Ư già ơi, u không hiểu hay sao? Không gặp
được anh Trương Chi thì tôi chỉ héo đi dần mà chết! Ư không thương tôi ư? Ư
nhìn xem, tôi có thiết gì nữa! Tôi muốn chết thì ai mà giữ được! Ư đi tìm anh
Trương Chi, đưa anh ấy vào đây, cho tôi được trông thấy anh ấy." (30, 647-
648). Nhưng đến khi hội ngộ, gặp được mặt Trương Chi thì nàng vô cùng đau
đớn và thất vọng. Chàng trai mà nàng cứ tưởng là hát hay thì người cũng đẹp
đâu không thấy, chỉ thấy trước mặt nàng một người cơ cực, xấu xí, mặt mũi
đen cháy vì nắng gió. Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi đã rất đặc sắc khi diễn tả
tâm trạng của Mỵ Nương lúc ấy, cũng là nỗi cảm thông cho sự vỡ mộng của
nàng. Mỵ Nương khi nhìn thấy mặt Trương Chi đã thảng thốt quay đi, rồi quay
lại nhìn sững rồi lại quay đi che mặt. Lúc Trương Chi quay gót bước đi, nàng
muốn chạy đến ôm Trương Chi nhưng rồi lại quay đi ôm mặt khóc nức nở. Có
thể trách Mỵ Nương không nếu ở vào hoàn cảnh của nàng? Trách là trách ông
trời đã làm cho giàu, nghèo và xấu, đẹp không thể dung hòa. Con người không
phải là thần thánh để có thể vui mừng chấp nhận được mọi thực tế cay đắng.
Vậy là mối tình của họ tan vỡ sau lần gặp gỡ đó. Chàng Trương vì quá tủi thân
tủi phận đã chọn lấy cái chết để kết liễu đời mình. Người đời nay dẫu có tiếc
nuối cho mối tình của họ, nhưng cũng có phần cảm thông nêu đặt điểm nhìn
của mình vào thời gian và hoàn cảnh khắt khe thời đó. Giải pháp mà họ chọn
tuy nông nổi nhưng là giải pháp khá phổ biến cho nỗi tuyệt vọng của tình yêu
đôi lứa.
Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi đượm nỗi xót thương và luôn đứng về
phía mỗi nhân vật để bênh vực cho họ. Với Mỵ Nương là nỗi hối hận và
thương tiếc nhớ về Trương Chi đến mang tâm bệnh khi chàng chết đi. Nhìn
thấy bóng hình của Trương Chi ẩn hiện trong chén nước, nước mắt nàng tuôn
chảy không ngừng, mong Trương Chi ban cho nàng một lời tha thứ để lòng
nàng được nhẹ nhõm hơn. Với Trương Chi thì mâu thuẫn giữa tình yêu dành
cho Mỵ Nương ở lần đầu tiên gặp mặt và sự tuyệt vọng trước thực tế phủ phàng
đã khiến chàng không còn thiết sống nữa. Sau khi chết đi hồn Trương Chi vẫn
quấn quít nơi trần thế không rời cho đến khi gặp lại Mỵ Nương, ở chi tiết này,
Nguyễn Đình Thi vẫn trung thành với cốt truyện cổ xưa bởi đây là một chi tiết
chứa đựng lòng từ tâm, sẳn sàng xóa bỏ mọi lỗi lầm giữa người và người. Và
hơn cả câu truyện cổ ở chỗ Nguyễn Đình Thi có thể sáng tạo ra hai hình ảnh đã
trở thành huyền thoại, một ở cõi dương, một ở cõi âm nói lên những lời từ biệt
cuối cùng, những lời yêu thương, tiếc nuối và tha thứ cho một tình yêu không
trọn và đó cũng là chút an ủi mà Nguyễn Đình Thi tìm thấy được ở câu chuyện
tình đau xót này.
Đến vở Con nai đen, bi kịch xảy ra khi lòng người quá độ lượng và nhân
từ khổng sao lường được những âm mưu của kẻ độc ác và nham hiểm. Đồng
thời, bi kịch cũng xảy ra khi phép thuật phù thủy cho phép người ta có thể hoán
đổi vị trí thân xác con người. Nhà vua trong vở kịch là một vị vua hiền như
trong ước mơ của mỗi người dân, lấy được hoàng hậu
Quế Nga vốn là một cô gái miền rừng núi có tấm lòng tốt, nết na, thúy mị.
Lẽ ra họ có thể sông một cuộc sông hạnh phúc trọn vẹn nhưng tai họa đã xảy ra
khi họ quá tin vào một bầy tôi lòng dạ phản trắc thường hầu cận gần bên. Vì
say đắm trước vẻ đẹp như ánh trăng rằm của hoàng hậu Quế Nga và khao khát
chiếm được thân xác của nàng mà lão quận công đã không từ một thủ đoạn
nào. Tận dụng phép thuật phù thủy vốn có và lợi dụng lòng nhân từ cả tin của
nhà vua, hắn đã nhập vào thân xác nhà vua, và biến nhà vua thành con nai đen,
rồi ra lệnh cho quân lính đuổi giết con nai đen cho bằng được để diệt trừ hậu
họa. Xây dựng đoạn kịch này, Nguyễn Đình Thi vô cùng thương xót cho nai
đen, cũng là hiện thân tôn quí của nhà vua nhân từ. Trong hình hài nai đen nhà
vua phải chạy trôn mọi sự săn đuổi, bắn giết, bộ lông mượt như nhung lúc nào
cũng ướt đẫm mồ hôi và đầy những vết thương. Nhưng được giây phút nào có
thể đến bên hoàng hậu Quế Nga thì nai đen âu yếm đặt mõm vào lòng bàn tay
của nàng và đôi mắt long lanh của nó ngước nhìn nàng một cách dịu dàng, trìu
mến như muốn nói điều gì. Còn hoàng hậu Quế Nga thì không hề hay biết lào
quận công thâm độc đã hãm hại chồng mình, cứ tưởng đó là nhà vua và đau
khổ khi thấy chồng mình bỗng nhiên thay đổi tính nết. Hoàng cung bao trùm
một màu đen u ám cho đến khi bi kịch đã lên đến cao trào thì nhà vua có được
cơ hội trở về hoàng cung lấy lại sự công bằng cho mình. Đó là lẽ đương nhiên
của qui luật ác lai ác báo, gieo nhân lành thì gặp quả lành. Đó cũng là lòng
nhân đạo của tác giả câu chuyện mong muốn mang hạnh phúc đến cho con
người, xóa đi mọi bất công ngang trái trong cuộc đời.
Câu chuyện tuy có mang màu sắc kỳ bí của phép thuật phù thủy nhưng
vượt lên trên tất cả những cái đó là bi kịch thường tình của nhân gian mà thời
nào cũng có. Đó là lòng tin, sự nhân từ đối lập với sự phản trắc và lòng dạ hiểm
sâu của con người.
Tóm lại, trong mỗi truyện cổ tích, truyền thuyết đều có những yếu tố của
thực tế. Đó là một thế giới độc đáo lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sông cộng
với trí tưởng tượng của dân gian mà sáng tạo thành. Vào trong kịch, thế giới ấy
một lần nữa lại được tô đậm thêm, có thêm chủ kiến và chút sáng tạo của tác
giả kịch bản. Các vở kịch được Nguyễn Đình Thi xây dựng lại từ các truyện cổ
tích truyền thuyết nêu trên, ngoài việc phản ánh và lý giải các vấn đề xã hội,
những số phận không may khác nhau của con người trong cuộc sống, còn là
tấm lòng xót thương, cảm thông của tác giả đôi với những khổ đau, bất hạnh
mà họ phải gánh chịu ở cuộc đời này.
1.3.3 Sự trăn trở và hoài vọng về đạo đức, nhân sinh được thể
hiện qua một thế giới hư ảo, huyền bí.
Đã là nghệ thuật thì chút tưởng tượng, hư cấu trong tác phẩm sẽ làm tăng
thêm tính hấp dẫn và ý nghĩa của nội dung câu chuyện. Đó là sự lĩnh hội nghệ
thuật sáng tác khá độc đáo mà Nguyễn Đình Thi đã học hỏi được từ các nước
phương Tây. Sự vật, hiện tượng được hiện hữu trong sự tưởng tượng, trong tâm
tưởng của con người thì muôn hình muôn vẻ. Quan trọng là ở "điểm nhìn" nào
mà tác giả lựa chọn sẽ mang lại hiệu quả cao cho ý đồ nghệ thuật mà tác giả
muốn gửi gấm vào tác phẩm. Có những chi tiết, những hình tượng mang yếu tố
hoang đường, kì ảo trong tác phẩm mà chúng ta đoán biết không thể nào có
được ở cuộc đời thực nhưng thực chất lại có ý nghĩa lớn chuyên chở những
điều suy tư, trăn trở của tác giả về hiện thực cuộc sống. Trong một số vở kịch
của Nguyễn Đình Thi, người ta đã tìm thấy những yếu tố huyền ảo đó và nhìn
sâu hơn nữa, vượt qua những hình ảnh hiển hiện của nó là những bài học về
đạo lý, những điều răn có ý nghĩa để con người sống tốt đẹp, thánh thiện hơn.
Thường ở thể loại kịch nói thì những yếu tố huyền ảo xuất hiện trong kịch
không nhiều nhưng với Nguyễn Đình Thi là một điều ngoại lệ khá đặc biệt.
Chúng ta có thể kể ra đây nhiều hình ảnh và tình tiết mang màu sắc hư ảo như:
sự xuất hiện của Thần chết và nhiều oan hồn đến từ thế giới bên kia, những
phép thuật phù thủy biến hoa, cô gái huyền ảo hiện thân của dòng sông, pho
tượng đá biết cười, chiếc lá đa nhảy lên tai của người nói dối... Rất nhiều
những điều lạ mang đến cho kịch Nguyễn Đình Thi một sắc thái riêng nhiều ý
nghĩa mà phải không phải ai cũng có thể sáng tạo được.
Trong vở Giấc mơ, khi nói về sự xuất hiện của Thần chết và những sắc
màu u ám lạnh lẽo của cõi âm thì tác giả muốn con người ý thức được sự quý
giá của cuộc sống. Tác giả muốn chúng ta nhìn thấy người lính đang trong cơn
hấp hối ấy yêu quí sự sống đến nhường nào. Anh đã đấu tranh đến cùng để
dành nó sống mặc dù nếu được sống anh không còn được lành lặn như những
người bình thường. Anh hiểu được mình là một thương binh anh dũng, chứng
nhân cho cuộc chiến thắng thần thánh của dân tộc. Nếu suy nghĩ thực tế hơn,
sâu xa hơn thì sự đấu tranh giữa người lính trong cơn thập tử nhất sinh và Thần
chết chỉ là sự đấu tranh giữa ý chí và thân xác của người lính. Thân xác anh đã
mệt mỏi rã rời nhưng lý trí bảo rằng anh nhất định phải sống và cuối cùng thì lý
trí đã thắng. Sự xuất hiện của những người đã chết trong tác phẩm càng làm
tăng thêm khát vọ ne; sống tốt đẹp và kiên cường của người lính. Tần Thủy
Hoàng hay Nữ hoàng Ai Cập đã sống cuộc sống hưởng thụ, mưu cầu những lợi
ích bất chính cho bản thân mình nên họ phải nhận lấy cái chết đau đớn và tủi
nhục. Tần Thủy Hoàng cả đời đánh chiêm, muốn thâu tóm cả thiên hạ trong tay
mình lại chết ướp trong mùi cá thối trên đường bôn ba tìm thuốc trường sinh
bất tử. Nữ hoàng Ai Cập một thời có được sắc đẹp, quyền uy , của cải... nhưng
do sống trong nhục cảm và thù hận, gây ra nhiều tội ác nên nhận lấy một cái
chết đau đớn. Ngược lại, hình ảnh của công chúa Tiên Dung và Chữ Đồng Tử
lại hiện lên một cách thánh thiện và trong sáng bởi họ đã có một tình yêu tuyệt
vời, không chút mưu toan, vụ lợi. Một nàng công chúa lại sẵn sàng từ bỏ cả
cung vàng điện ngọc để sống cùng chàng đánh cá nghèo không một manh vải
che thân. Tình yêu của họ đã được đền đáp bằng một cuộc sống thật đầm ấm,
hạnh phúc. Phải chăng tác giả muốn nói đến một chân lý về cuộc đời này, hãy
sống cho xứng đáng và chết xứng đáng. Làm người, điều hạnh phúc nhất là
sống có ích, là đấu tranh giành lấy sự sống đến hơi thở cuối cùng. Điều đó vừa
là một thực tế, vừa là một giấc mơ mà người ta không phải bao giờ cũng có thể
thực hiện được.
Trong vở kịch còn có khóm tre ngà là hình ảnh thiên nhiên được thần
thánh hóa, là người bạn thân thiết của người lính sau khi anh bị thương trở về.
Những khi thấy người lính buồn bã, đăm chiêu, khóm tre lại lắc lư, rì rào và
rực sáng như an ủi, động viên. Có đoạn khóm tre tự giới thiệu về mình: "Ta là
cây tre bao đời - Không bao giờ bỏ con người - Hỡi bạn có biết - Ta vẫn hằng
che chở - Bao nỗi niềm anh buồn vui..." (30, 249). Có thể hiểu rằng, thiên
nhiên, cây cỏ vốn vô tri, vô giác cũng biết ơn và che chở cho người lính sau
chiến tranh. Những thân tre chắc khỏe, tươi tắn, vàng một cách óng ả như vẻ
đẹp cứng cỏi của quê hương luồn đồng hành cùng con người. Và khóm tre ấy,
biểu tượng của quê hương, người bạn thân thiết của con người, là vô giá, là
nghìn vàng khôn đổi như người lính đã từng làm khi từ chối bán cho lão lái
buôn ham hố và tự phụ.
Dòng sông- tiếng sóng là một hiện tượng của tự nhiên hiện hữu hầu khắp
mọi nơi trên đất nước, gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người. Vào trong
tác phẩm kịch, dòng sông được biểu tượng bằng hình ảnh của người con gái
huyền ảo nói lên những lời triết lý về cuộc đời. Và trong khắp các cảnh kịch,
trước cảnh ngộ khó khăn, bất hạnh của con người thì luôn có sự hiện diện của
dòng sông đang không ngừng vỗ sóng. Với tác giả, tiếng sóng còn là nỗi lòng
của con người, khi khổ đau tiếng sóng vỗ càng mạnh mà lúc bình thường có thể
ta không để ý thấy sự hiện hữu của nó.
Tiếng sóng như vỗ mạnh mẽ không ngừng trước hoàn cảnh đáng thương
của những bệnh nhân ho lao nặng, phải điều trị ở khu cách ly của một bệnh
viện kháng chiến trong rừng. Tác giả tập trung miêu tả hoàn cảnh và tâm trạng
của hai nữ bệnh nhân là bà giáo và Bảo đang được điều trị tại đó. Hai hoàn
cảnh trái ngược nhau và cách đối xử của hai người chồng dành cho họ cũng
hoàn toàn trái ngược nhau. Từ cách so sánh sóng đôi ấy tác giả đặt ra một vấn
đề về tình yêu thương chân thật và đạo đức làm người. Bà giáo và Bảo xuất
hiện trong vở kịch của Nguyễn Đình Thi vào lúc bệnh tình đang ở vào giai
đoạn quyết liệt nhất. Chính trong lúc ấy, họ cần những tình cảm ân cần, yêu
thương, chăm sóc của người thân nhiều hơn hết. Cô Bảo tuy ở trong cảnh
nghèo thiếu trước hụt sau, nhưng bù lại cô được người chồng bộ đội không
quản ngại khó khăn cực nhọc, chăm nom, lo lắng chu đáo cho cô với một tình
cảm thương yêu chân thật. Cô trở nên tươi tắn và bệnh của cô cũng có phần
thuyên giảm hơn khi có được sự chăm sóc của chồng. Từ việc nhỏ đến việc lớn
anh đều làm đỡ cho vợ như: gỡ và chải tóc giặt giũ, vào rừng lấy củi... Ngược
lại, người chồng cán bộ của bà giáo lâu lâu ghé vào thăm vợ nhưng không dám
đến gần bà. Bà ho rũ rượi cũng không bước tới đỡ bà, chỉ ngồi xa xa với áo
choàng và khăn bịt mặt cẩn thận. Thuốc men, thức ăn thì anh chồng mang vào
đầy đủ cho bà nhưng bệnh bà vẫn không chút thuyên giảm mà ngày còn nặng
hơn. Trong từng cử chỉ và lời nói của bà chứa đựng nỗi tủi hờn, buồn khổ và
chịu đựng:
" NGƯỜI CHỒNG - Em chịu khó mà ăn cam, tốt cho phổi lắm. Cam
đường đấy, bóc lấy khỏi phải nhờ ai...
BÀ GIÁO -... Thôi... Em ... (ỏm ngực ho, lau miệng, đỏ nhờ chiếc khăn
xô trắng).
NGƯỜI CHÔNG - (vẫn đứng ngoài lấn, nhìn vào) vẫn ra máu đấy à?
BÀ GIÁO - (hổn hển)... Cũng có bớt... NGƯỜI CHỒNG - Để anh đi gọi
y tá nhé.
BÀ GIÁO - Thôi... Có gì đâu... Anh Đạt ạ, anh lên lần này... Em sợ muộn
rồi! (...)
BA GIAO - ơ trong này, toàn mùi sát trùng, anh khó chịu phải không? Để
em ra ngoài ấy cho thoáng.
NGƯỜI CHỒNG - ừ, để anh đi gọi cô y tá đỡ em ra.
BÀ GIÁO - Thôi, em vẫn đi lấy, có gì đâu... (cố dậy, men ra nằm ở ghế
vải).
Người chồng kéo ghế lùi ra một ít, rồi như ngượng, đứng dậy đi lại quanh
quẩn.(30, 564-565)
Việc chăm sóc cho vợ, người chồng vô tâm này phó mặc cho y tá, từ lau
mặt, đắp chăn đến bóc cam... Chồng đi rồi cũng là lúc những giọt nước mắt
buồn tủi lăn dài trên má người vợ. Tối đó không nhiều đắn đo nhưng vô cùng
đau đớn bà quyết định sẽ kết thúc cuộc đời mình. Dòng sông chứng nhân cho
nỗi bất hạnh của bà sẽ mang bà đi xa. Trước khi chết bà muốn tất cả những
thuốc men mà bà có sẽ được đưa sang cho cô Bảo, người có được nhiều may
mắn hơn bà. Những lời nói có vẻ như triết lý cuối cùng của bà khi tâm sự với
cô y tá có lẽ cũng là lời Nguyễn Đình Thi muốn gửi gấm đến tất cả chúng ta về
đạo lý và nhân cách làm người: "Một tình thương yêu không bao giờ mất cả.
Nó bay đến một chỗ nào đấy, nó gieo vào một tình cảm, một ý nghĩ nào đấy
của một người nào, có khi nó truyền đến tận đâu, nảy nở thành những gì không
ngờ được... ừ, con
người ta có một đời sống tâm hồn chứ, mà càng là con người thì đời sống
tâm hồn càng mạnh hơn tất cả! Vậy mà có người vẫn sống mà quên mất linh
hồn của mình..." (30, 569-570)
Trong mọi hoàn cảnh, tinh thần là vô giá, không gì có thể đánh đổi và
thay thế được. Tinh cảm có thể làm cho con người vốn khô cằn và xấu xí có thể
trở nên xinh đẹp, duyên dáng và tràn đầy sức sống hơn. Nguyễn Đình Thi
thông qua bối cảnh và nhân vật kịch đã gởi một thông điệp mang nhiều ý nghĩa
đến cho cuộc đời.
Ở một cảnh khác của vở kịch, tiếng sóng là một biểu tượng quý giá của sự
sống. Ông X trong một giấc ngủ, mơ thấy mình bị lạc xuống cõi âm, làm một
vị quan lớn của cõi ấy. Nhưng ở chỉ trong chốc lát ông đã thấy chán nản với
quang cảnh mù mờ, màu sắc loe loẹt, quỷ sứ quây quần xung quanh. Vào lúc
ấy ông chợt nghe tiếng sóng vỗ và tiếng sóng ấy đã gọi ông trở lại cuộc đời
thật. Ông vô cùng vui mừng cảm thấy như được hồi sinh khi sự sống đang vận
động xung quanh. Các trò đùa giỡn của trẻ con mà mới vừa nãy ông đã nổi giận
quát mắng, giờ ông lại cảm thây yêu quý biết bao. Tiếng sóng vỗ, tia nắng
chiếu, hàng cây rì rào, trẻ con nô đùa... là sự sông mà đôi khi người ta lại
không để ý đến. Mọi cố gắng bon chen tranh giành ở thế gian rồi cũng bỏ lại
sau lưng khi ta từ giã cuộc đời. Bài diễn văn mà ông X cay cú khi không được
đọc trước hội nghị ấy có ý nghĩa gì khi ông xuống cõi âm. Cái nhà hai tầng, tủ
lạnh, ti vi, têlêphôn... còn có giá trị gì khi ông không còn nữa. Tất cả đều bỏ
lại... Có lẽ ông X thật sự hiểu ra điều đó khi ông tỉnh lại sau một giấc mơ nhiều
ám ảnh và nhận ra được giá trị đích thực con người cần đeo đuổi ở cuộc đời
này.
Từ hình ảnh dòng sông và âm thanh của tiếng sóng, Nguyễn Đình Thi liến
tưởng có một dòng sông không ngừng động sóng ở bên trong mỗi đời người.
Dòng sông ấy được tác giả biểu trưng bằng hình ảnh của người con gái huyền
ảo, hiện diện trong tác phẩm như một chứng nhân hằng hữu. Rồi bao nhiêu
cảnh đời, bao nhiêu số phận được tác giả xây dựng thật như từ trong cuộc sống
bước vào tác phẩm, thật đến không ngờ. Không có cảnh ngộ nào trong Tiếng
sóng mà không nghe nói đến ở ngoài đời. Nhưng điều quan trọng nhất là cách
tác giả hướng con người cư xử với nhau sao cho hợp với nhân luân và đạo lý.
Từ đó đưa ra quan niệm và triết lý sống đúng đắn của riêng mình.
Có hai hình ảnh tuy khác nhau nhưng mang ý nghĩa giống nhau ở cả hai
vở kịch. Đó là hình ảnh pho tượng đá biết cười khi con người đứng trước mặt
nó không nói đúng với ý nghĩ thật trong lòng mình ở vở kịch Con nai đen và
tương tự là hình ảnh chiếc lá đa mọc trên tai những người nói dối trong vở Hòn
cuội. Có thể hiểu đây là điều đặc biệt tâm đắc và thích thú của tác giả khi dùng
để phản ánh cuộc đời. Nhờ pho tượng thần kì này mà nhà vua biết được những
lời nói ngọt ngào của những cô công nương, quận chúa kia chỉ là giả dối, duy
chỉ có lời nói dối của cô gái rừng quế thì thật đáng yêu. Và cũng nhờ chiếc lá
đa mọc trên tai người nói dối mà người ta nhận ra ở cái làng quê bé nhỏ nơi
Cuội ở có vô số người nói dối, lừa lọc lẫn nhau. Có những người lâu nay không
nhận ra là mình đang bị dối gạt cho đến khi những chiếc lá đa thần kì xuất hiện.
Và thế là họ xông vào ẩu đả lẫn nhau...
Chi tiết chiếc lá đa mọc trên tai những người nói dối này hay hình ảnh
pho tượng đá biết cười đã thể hiện ngụ ý của Nguyễn Đình Thi về cuộc đời. Đó
là không phải điều gì cũng có thể phơi bày ra hết sự thật, sống ở trên đời này có
biết bao sự dối trá lừa lọc nhưng nếu con người ai cũng biết minh bị dối trá lừa
lọc thì xã hội này sẽ đầy rẫy những sự chém giết lẫn nhau. Tác giả muốn gửi
gấm những mơ ước thật đẹp của mình về cuộc đời và tự hỏi nên chăng khi con
người cứ sông hòa bình trong sự lừa lọc. Còn tìm một xã hội người và người
đối xử với nhau hoàn toàn chân thật thì biết đến bao giờ...
Sự kiện hòn cuội biến thành người và sau đó về trời cũng có ý nghĩa đặc
biệt. Đó là một hòn đá khi có tâm hồn và làm được những việc tốt thì có thể
hơn những con người tầm thường ở thế gian. Và bởi thế gian này còn đầy rẫy
những việc xấu nên người ta không dung được Cuội. Cuội phải trở về nơi chôn
thật của mình mang theo những hoài vọng tốt đẹp còn chưa thực hiện được ở
thế gian. Cuội, một nhân vật đã trở thành huyền thoại vào trong kịch của
Nguyễn Đình Thi càng lấp lánh sắc màu hơn và mang những khát vọng mà tác
giả mong muốn có được ở cuộc đời trần thế này.
Và hàng loạt những hình ảnh, sự kiện mang tính chất huyền ảo, kì bí như
đã nhắc ở phần trên như những phép phù thủy thay hình đổi dạng, người biến
thành tượng đá bất tử với thời gian, bóng hình người chết hiện lên mờ ảo cùng
tiếng hát văng vẳng từ trong chiếc chén... Tất cả những điều đó tạo thành một
chất riêng trong kịch của Nguyễn Đình Thi và mang những ý nghĩa giáo dục
nhân sinh sâu sắc.
Người ta vốn thường hay nói "Nhân chi sơ tính bản thiện", chỉ có cuộc
đời mới gọt giũa, nhào nặn thành ra đủ thứ loại người khác nhau: tham lam, ích
kỷ, độc ác, hung tợn, xấu xa... Không có loại người nào là không có ở cuộc đời
này, đó là điều thật đáng buồn và đau lòng. Từ những loại người ấy mà đã nảy
sinh ra biết bao bi kịch ở thế gian. Bao nhiêu tác phẩm văn học nghệ thuật được
sáng tác, bao nhiêu hình tượng nghệ thuật được xây dựng, điều cốt yếu là mong
muốn cho con người sống tốt đẹp hơn, đối xử với nhau nhân ái, chan hòa hơn...
Từ đó cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh tiến bộ vì lợi ích chung của tất
cả mọi người.
1.3.4 Niềm tự hào về một dân tộc anh hùng, một thời đại hào
hùng.
Đất nước Việt Nam anh hùng, con người Việt Nam anh dũng, kiên cường.
Đó là điều không ai có thể phủ nhận. Từ xa xưa đất nước này, người dân này
phải chịu bao đau thương của khói lửa chiến tranh và lúc nào cũng vậy, người
Việt Nam không cam tâm nô lệ sẩn sàng đương đầu với mọi kẻ thù thuộc vào
loại hùng mạnh nhất, sừng sỏ nhất. Xưa là giặc Nguyên Mông, giặc nhà Minh,
nhà Thanh... và gần đây là giặc Pháp, giặc Mỹ. Có những người dân ở các quốc
gia khác, họ không hề đặt chân đến Việt Nam, cũng không biết nhiều về đất
nước, con người Việt Nam nhưng nhắc đến Việt Nam thì họ biết ngay là Việt
Nam thắng Mỹ. Một đất nước nhỏ bé đã chiến đấu và giành lấy độc lập tự do từ
một đất nước mạnh nhất trên thế giới. Điều hy hữu ấy có được chính nhờ ở tấm
lòng yêu nước và sức mạnh đoàn kết của dân tộc, không quản ngại gian khổ hy
sinh, đồng tâm hiệp lực đánh thắng kẻ thù.
Là người Việt Nam, ai không cảm thấy tự hào về đất nước mình, dân tộc
mình. Những gì có được hôm nay phải đánh đổi bằng máu và nước mắt của
biết bao nhiêu thế hệ cha ông. Nói riêng về hai cuộc kháng chiến thần thánh
của dân tộc chống đế quốc Pháp, Mỹ có biết bao nhiêu người đã hy sinh và
chịu nhiều đau thương trong chiến tranh nhưng vượt lên trên tất cả Là ý thức
dân tộc, là tinh thần yêu nước, là sự đấu tranh không mệt mỏi để giành lấy độc
lập tự do. Văn học nghệ thuật cách mạng đã làm cái nhiệm vụ thiêng liêng là
phản ánh thật rõ nét thực tế của cuộc chiến tranh, tấm lòng và hành động của
quân dân cả nước, từ đó góp phần chỉ ra hướng đi đúng đắn cho mỗi con dân
Việt Nam. Đó là một kho tàng văn học quí giá phản ánh một thời oanh liệt hào
hùng đã qua mà hậu nhân phải có trách nhiệm gìn giữ. Không thể kể hết có bao
nhiêu nhà văn, nhà thơ có những tác phẩm viết về cuộc kháng chiến, cũng như
không thể kể hết được những tác phẩm ấy, chỉ biết rằng nhiều vô số: những tác
phẩm của những tác giả tên tuổi, trong nhà tù, ngoài nhà tù, vô danh, khuyết
danh ...
Như đã nói, so với một số thể loại văn học khác, kịch ra đời tuy có muộn
nhưng cũng mau chóng hòa nhập và có những đóng góp đáng kể phản ánh về
cuộc kháng chiến chống Pháp -Mỹ. Trong thời gian chiến tranh kịch nói có
điều kiện phát triển khá thuận chiều khi trình diễn cho đông đảo công chúng
như: học sinh, bộ đội, thương binh... Các tác giả có ý thức sáng tác kịp thời để
phục vụ cuộc chiến nên nhiều vở kịch chất lượng nghệ thuật chưa cao, có thể
kể như: Hai con đường, Thương bỉnh (Nguyễn Ngọc Bạch), Bức thư ngoài mặt
trận, Lá rụng về cội (Bích Lân), Hi sinh vì nước, Lời thề vệ quốc (Bảo Định
Giang), Tôi vào xung kích, Chung một kẻ thù (Phan Vũ)... Tuy nhiên cũng
không ít tác giả đã gặt hái được những thành công ở thể loại này và có được
những tác phẩm giá trị như: Bắc Sơn, Những người ở lại (Nguyễn Huy Tưởng),
Chị Hòa, Một đang viên (Học Phi), Lòng dân (Nguyễn Văn Xe), Khăn tang
kháng chiến (Đình Quang)... Họ đã làm nên một bộ mặt riêng đầy sinh khí của
kịch nói thời kháng chiến. Nguyễn Đình Thi sau bao năm thể hiện bản lĩnh của
mình trên các thể loại văn học nghệ thuật khác đã bắt đầu tìm đến với kịch khi
cuộc chiên tranh đã gần kết thúc và niềm đàm mê ấy kéo dài đến những năm 80
sau chiến tranh. Chiến tranh được miêu tả trong kịch của Nguyễn Đình Thi
không hừng hực khí thế chiến đấu như trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng, Học
Phi hay một số tác giả khác mà nó mang không khí của một dân tộc đã nhìn
thấy sự chiến thắng gần kề, hay nếu không thì thắm đượm một tình người, một
sự lắng lòng để nghĩ về cuộc chiến phi nghĩa đã qua và trải qua những năm
tháng gian khổ đó, con người Việt Nam vẫn sáng bừng lên một vẻ đẹp hồn hậu,
kiên cường.
Cả Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Huy Tưởng cùng có tác phẩm kịch viết
về đề tài Hà Nội trong chiến tranh nhưng hai mốc thời gian khác nhau, hai cuộc
chiến khác nhau và hai kẻ thù cũng khác nhau... vở. Những người ở lụi của
Nguyễn Huy Tưởng viết về Hà Nội vào những năm 1946, 1947 của cuộc kháng
chiến chống Pháp. Còn Hoa và Ngần của Nguyễn Đình Thi là Hà Nội trong
khoảng thời gian từ 1956 đến 1973 của cuộc kháng chiên chống Mỹ. Vở
Những người ở lại cũng như vở Bắc Sơn đã ra đời trước đó, Nguyễn Huy
Tưởng muốn tiếp tục thực hiện sự kết hợp giữa bình diện gia đình với bình diện
xã hội. Cơ sở cho cốt truyện kịch là gia đình bác sĩ Thành, một trí thức có tên
tuổi nhưng ấu trĩ về nhận thức chính trị. Khi Thực dân Pháp nổ súng ở Hà Nội,
Đảng và Chính phủ vận động các tầng lớp nhân dân thủ đô tản cư ra vùng tự
do, ông lại do dự và quyết định ở lại vì chưa thật tin tưởng vào sự thắng lợi của
dân tộc. Nhưng rồi cuộc chiến đấu hào hùng của quân dân Hà Nội thời ấy đã có
sức mạnh cảm hóa người trí thức ấy. Ông đã thay đổi thái độ khi nhận ra được
ánh sáng của chính nghĩa. Điểm hạn chế ở tác phẩm này là tác giả quá sa đà
vào tấn kịch gia đình nên không phát huy đúng mức vai trò của cán bộ và quần
chứng cách mạng trong cuộc kháng chiến bảo vệ thủ đô. Sau này, Nguyễn Huy
Tưởng cũng có nhận xét về tác phẩm của mình, tuy xác đáng nhưng cũng có
phần hơi khắt khe: "mượn tấn kịch gia đình để tả cuộc chiến đấu của thủ đô và
vận dụng tất cả những yếu tố của vở kịch vào việc bác sĩ Thành ra ngoài hay ở
lại. Thành thử việc bác sĩ Thành ra ngoài hay ở lại sự thực không quan hệ gì
đến vận mạng của Trung đoàn thủ đô" (40, 395). Nhắc lại điều này, chúng tôi
không có ý nhìn vào những hạn chế của ông mà cốt để chứng tỏ là có sự khác
biệt giữa Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi về cách xây dựng tác phẩm
và dẫn dắt cốt truyện. Viết về mảnh đất ngàn năm văn hiến này, Nguyễn Đình
Thi có một niềm tự hào riêng. Ông phả niềm tự hào đó vào từng nhân vật của
mình, vào từng hàng cây, góc phố. Cuộc chiến tranh đã vào những giai đoạn
quyết liệt sau cùng, người dân Hà Nội chỉ có một tấm lòng quyết tâm đánh đuổi
giặc chứ không có sự ưu tư, băn khoăn vì thiếu niềm tin vào cách mạng. Hà
Nội dẫu trong đau thương vẫn bừng lên nét đẹp lãng mạn trên từng dãy nhà
xinh xắn chưa bị đạn bom, người dân Hà Nội anh hùng và lạc quan:
BÀ BÁN HOA - Cô bộ đội mua hoa đi. Chục mặt giời này nhé! Hay
thược dược, cúc? Hoa tươi lắm.
HOA - Hoa Hà Nội đẹp thật! Có đắt không bà?
BÀ BÁN HOA - Không bao nhiêu đâu. Bán cho bộ đội, tôi lấy vốn thôi.
HOA - Bà bán cho cháu mấy bông hồng đỏ kia, cho cháu may mắn.
BÀ BÁN HOA - Cô ở mạn ngược về hẳn? sốt ngã nước hay sao? HOA -
Cháu mới khỏi, bây giờ cháu khỏe rồi. BÀ BÁN HOA - Cô chắc có điều gì vui.
Thêm cho cô hai bông này nữa." (30, 87-88)
Một đoạn ngắn ở đầu vở kịch thể hiện sự quan tâm và tình cảm tốt đẹp
của người dân Hà Nội dành cho bộ đội, cho cách mạng. Trong hoàn cảnh chiến
tranh giặc giã, họ vẫn bán hoa và yêu hoa. Một nét đẹp tinh thần thật đáng yêu,
đáng quý phẫn nào nói lên khát vọng về một cuộc sống thanh bình. Trong vở
kịch này, Nguyễn Đình Thi không đi sâu vào hoàn cảnh của một gia đình đặc
biệt nào mà miêu tả bao quát trên một bình diện chung của cuộc kháng chiến.
Hơn chục gương mặt, đa phần là nam nữ thanh niên đều năng động, nhiệt tâm
trong công việc và sẵn sàng phục vụ cho nhu cầu của cuộc chiến. Nếu để ý, ta
sẽ thấy không có một nhân vật phản diện nào trong vở kịch. Mỗi người mỗi
hoàn cảnh nhưng đều gắn bó với nhau, chia sẻ và động viên để cùng vượt qua
mọi khó khăn. Trong chiến tranh dường như con người càng mạnh mẽ hơn,
những đau thương mất mát đã hun đúc tinh thần họ, cho họ một bản lĩnh sống
kiên cường. Hai chị em Hoa là những cô gái có hoàn cảnh bất hạnh nhất. Gia
đình họ tan nát vì bị đại bác câu vào làng. Bố mất, sau đó thì đến mẹ, rồi chàng
trai Hoa yêu thương cũng hy sinh nơi chiến trường, em Hoa phải gởi ở nhà dì...
Bằng nghị lực của mình, Hoa trở thành một y sĩ giỏi được mọi người tín nhiệm
và yêu mến về tài năng cũng như về phẩm chất. Cô đà đón được Duyên, em gái
của mình ở quê lên nuôi cho ăn học. Duyên càng lớn càng giống chị về cá tính
mạnh mẽ và bản lĩnh sống. Duyên không ngần ngại cổ vũ cho Bảo, người yêu
và sau này là chồng cô đi bộ đội. Còn mình, sau khi học xong vừa làm công
nhân, vừa là tự vệ của nhà máy và làm mẹ của đứa con bé bỏng, niềm hạnh
phúc giữa cô và Bảo đã đơm hoa kết trái ngay trong gian khổ của chiến tranh.
Còn Hoa, cuối cùng cũng gặp được Lâm, người bộ đội chân chính mà cô quí
trọng và yêu thương. Tinh yêu trong chiến tranh, dẫu vất vả vì phải hi sinh cho
sự nghiệp chung nhưng vẫn có được những hương vị ngọt ngào của nó.
Nguyễn Đình Thi không đặc tả riêng hoàn cảnh và số phận của chị em
Hoa mà song song đó là nhiều hoàn cảnh khác. Chị Mười, một phụ nữ tốt bụng,
nhiệt tình, bếp trưởng của bệnh viện. Chồng chị đi công tác vào Nam biền biệt
quanh năm chẳng thấy về. Chị thầm kín giấu nỗi thương nhớ vào lòng và cố
gắng làm việc thật hăng say cho đến khi nghe tin anh trở về thì cái chất mềm
yếu của người phụ nữ trong chị mới có dịp được bộc lộ. Ngần, một cô giáo trẻ
không quản ngại bom đạn chiến tranh, vượt qua những khó khăn về cơ sở vật
chất ở những ngôi trường ngập nước, vượt qua những trắc trở của cuộc đời
mình để hằng ngày đem cái chữ đến cho các em nhỏ. Rồi những Phúc, Khánh,
Xuân, Đằng... những bác sĩ, dược sĩ... ở bệnh viện. Họ là hậu phương vững
chắc cho các chiên sĩ ngoài mặc trận như: Lâm, Bảo, Bình, Mạc. Tất cả đều có
nhiệm vụ vinh quang, tất cả đều có chung một chí hướng đánh đuổi quân giặc
và giải phóng đất nước. Những người họ là tiêu biểu cho số đông con dân Việt
Nam nói chung, Hà Nội nói riêng đã chung sức chung lòng để làm nên trang sử
vẻ vang của dân tộc.
Đến Giấc mơ, một vở kịch phản ánh chất anh dũng kiên cường của người
lính Việt Nam trong những hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh và cuộc
sống. Không bao quát trên một bình diện xã hội rộng lớn, hừng hực khí thế
cách mạng như Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng mà ở đây tác giả tập trung
vào miêu tả số phận và tính cách của một người chiến sĩ quả cảm. Bằng ngôn
ngữ thâm trầm mà sâu sắc vốn có, người lính hiện lên trong tác phẩm Nguyễn
Đình Thi với một chất anh dũng tiềm tàng và sức sống dẻo dai chưa từng thấy.
Trải qua bao nguy kịch vì sự hành hạ của những vết thương sau trận chiến,
người lính ấy đã dũng cảm giành lấy sự sống bằng ý chí của mình mà không có
sự giúp đỡ của bất kì ai khác. Thần chết, cũng giống như là thân thể gần giá
lạnh của anh không ngừng khuyên anh nên buông xuôi tất cả nhưng lý trí anh
luôn cố chống lại và le lói ánh sáng tin yêu về cuộc đời. Thực tế cuộc sống dẫu
còn nhiều khó khăn gian khổ, con người phải chịu nhiều mất mát hy sinh
nhưng anh vẫn muốn tồn tại và cống hiến. Sức mạnh vĩ đại của dân tộc chính là
đã hội tụ ở những điểm sáng lung linh ấy.
Anh đã từ cõi chết trở về như một phép nhiệm mầu. Những nét đẹp và
tình cảm thân thương của quê hương, của những người thân yêu đã vực anh trỗi
dậy và về với cuộc sống. Anh về để được nhìn thấy đất nước trong những ngày
toàn thắng vẻ vang, để được tận hưởng niềm vui có được từ công sức đóng góp
nhỏ bé của mình. Đất nước sau chiến tranh còn bao ngổn ngang và bề bộn
nhưng có một sức hồi sinh ghê gớm. Đất nước ấy vẫn còn cần bàn tay hữu
dụng của anh lính, giờ đã trở thành anh thương binh vui tính và tốt bụng. Có
thể nói anh cũng là một anh hùng của thời bình khi miệt mài lao động trong
một thân thể không lành lặn và một sự ưu tư về quá khứ bị lãng quên. Anh đã
cố gắng vượt qua những trở ngại đó để hoa cùng niềm vui chiến thắng và xây
dựng với nhân dân cả nước. Anh chọn một công việc có ý nghĩa là vào công tác
ở đội trồng cây, phục hồi những mầm xanh đã bị tàn phá. Từ những hoang tàn
khi chiến tranh vừa kết thúc, con người cần phải chung sức chung lòng và có
nghị lực để cùng nhau xây dựng và tôn tạo lại. Đó không phải là việc dễ dàng.
Ngày nay, với những gì có được sau một thời gian không dài sau chiến tranh,
chúng ta đã khiến bạn bè quốc tế kinh ngạc vì sự hồi sinh và phát triển vượt bậc
đến không ngờ. Những thành quả đáng tự hào ấy, phần lớn cũng chính nhờ
công sức của những con người ở buổi đầu xây dựng đất nước. Người lính Việt
Nam anh hùng ấy, như bao người người lính khác, thời chiến cũng như thời
bình đã sống một cuộc sống thầm lặng và không ngừng cống hiến hết sức mình
cho cuộc đời để chúng ta có được ngày hôm nay.
Vở kịch tiềm tàng niềm tự hào của Nguyễn Đình Thi về một thế hệ thanh
niên anh hùng trong kháng chiến và trong công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Sức sống mãnh liệt của họ đã làm nên lịch sử hào hùng của cả dân tộc.
Họ đã sống và chiến đấu không ngừng như lời ông Càu Nhàu, hàng xóm anh
thương binh trong vở kịch và cũng là những lời mà Nguyễn Đình Thi muốn
nhắn nhủ:
" Đấy anh thấy không Việc lớn cho chí việc nhỏ Sống ở đời là cứ phải
chiến đấu Phải rất là dũng cảm... " (30, 227)
Ở vở Tiếng sóng, có thể Nguyễn Đình Thi viết về chiến tranh khi đã kết
thúc nên trong vài phân cảnh của vở kịch ta nhận thấy không có khí thế hăm hở
ra trận và cháy bỏng ngọn lửa căm thù như trong một số truyện ngắn và tiểu
thuyết của ông (Bên bờ sông Lô, Xung kích, Vào lửa, Mặt trận trên cao...).
Chiến tranh trong kịch của ông phần nhiều là sự chiêm nghiệm về những việc
đã qua, những nỗi đau trong chiên tranh và từ đó cho ta thây con người đã nếm
trải và vượt qua những nỗi đau đó như thê nào. Khác với kịch của các tác giả
khác được sáng tác trong giai đoạn kháng chiến như Nguyễn Huy Tưởng với
Bắc Sơn đã thể hiện không khí quyết liệt, hùng tráng của cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn và tinh thần ngoan cường, bền bĩ của nhân dân Bắc Sơn ngay cả khi phong
trào cách mang bị đàn áp. Vở Anh Sơ đầu quân thể hiện tư thế hăm hở ra trận
của những thanh niên nông thôn. Nguyễn Vũ với những vở kịch ngắn được
sáng tác vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến cũng hừng hực ngọn lửa
chiến đấu như Nàng bắn lén nói về một cô gái bắn tỉa tóc dài, là nỗi kinh hoàng
của cả sư đoàn Mỹ mang tên "Tia chớp nhiệt đới", Cùng quyết tiến bước, nói
về cuộc kháng chiến gian khổ của những người con miền Nam anh hùng... Qua
mỗi giai đoạn lịch sử, sự phản ánh của các tác giả cũng rất khác nhau tuy là
cùng chung một đề tài, tất nhiên là có nhiều lý do về sự cảm nhận, sở thích...
Hình ảnh người đàn bà (bà Hai) trong vở Tiếng sóng vừa khóc vừa chôn thai
đứa con trai vừa mới sẩy do sự đánh đập dã man của bọn giặc và hình ảnh đau
đớn đến rụng rời của bà Nhiêu Tư khi nhìn thấy đầu chồng treo trên cành cây
bưởi là phản ánh cuộc chiến tranh nhưng là phản ánh theo một cách riêng.
Những người phụ nữ dũng cảm này vì tình yêu đối với chồng, vì nhiệm vụ
thiêng liêng của chồng đối với đất nước đã không hề biết sợ sệt trước kẻ thù.
Chiến tranh trong tác phẩm của ông phải là một nỗi đau lớn, đúc kết thành lòng
căm thù của mỗi người dân. Xây dựng chi tiết bà Nhiêu Tư nhìn thấy những
chiếc đầu trong đó có đầu của chồng bà thì ý nghĩa của nỗi đau xót vượt ra
ngoài tác phẩm. Nó không chỉ là nỗi đau của riêng bà Nhiêu Tư mà còn là nỗi
đau của tác giả, của những con người vốn là Nam quốc Nam nhân với nhau:
"Những quả gì trên cây kia nhỉ! Cái cây này, sao mày không kêu lên!
Mày mang những quả ghê gớm thế kia mà không biết đau à! Sao mày còn chưa
chảy máu cho ngập cả bãi sông này đi!... Các ồng có nhận ra tôi không? Ông
bếp Thu ơi, ông đội Hà ơi, ông đồ Lượng ơi, hôm nay con mẹ ăn mày khốn khổ
đến thăm các ông đây... Còn ông, ông Nhiêu ơi, ông có nhận ra tôi không? Tôi
đây, ông ơi..."(Lời của bà Nhiêu Tư - 30, 516-517)
Nỗi đau xót, uất nghẹn trong từng tiếng kêu ông Thu, ông Hà, ông Lượng,
ông Nhiêu và cuối cùng là ông ơi... Tiếng "ông ơi" nghe thật thân thương chứa
đựng nỗi đau đến xé lòng của người phụ nữ tội nghiệp. Bà vẫn nhớ lời chồng
dặn: "Dù có thế nào cố mà lau nước mắt!". Lời nói đó cho bà một sức mạnh để
làm một hành động anh hùng mà chưa chắc những người phụ nữ mềm yếu khác
có thể làm được. Đó là gỡ những chiếc đầu người trong đó có đầu của chồng
mình mang về chôn cất. Hình ảnh những người xả thân vì sự nghiệp cứu nước,
nhận lấy cái chết đau thương và hình ảnh những người phụ nữ, người vợ kiên
cường trong chiến tranh đã đọng lại trong lòng người đọc bao nỗi xót xa.
Nguyễn Đình Thi đã dồn hết cái tâm của mình xuống đầu ngọn bút khi viết về
nỗi đau của họ và trong nỗi đau đó, con người Việt Nam vẫn sáng bừng lên nét
đẹp của lòng gan dạ, dũng cảm và ý chí căm thù giặc không thể nào nguôi.
Cảnh tiếp theo của vở Tiếng sóng là câu chuyện tình thật cảm động của
những chiến sĩ quyết tử thủ đô trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Câu
chuyện ấy được người mẹ, nhân vật chính lúc ấy hồi nhớ lại hai mươi năm sau
đó khi nhìn thấy đứa con gái đã lớn của mình. Khi ấy, Hà Nội đang trong cơn
đạn lửa, người mẹ lúc trẻ là cô cứu thương hồn nhiên và gan dạ. Cùng với
những nam nữ thanh niên Hà Nội quyết sống chết cùng thủ đô. Người yêu của
cô là chiến sĩ tự vệ thành, đã anh dũng hy sinh khi chiến đấu ở Liên Khu Một,
giữa vòng vây của giặc. Anh ra đi mãi mãi khi cô chưa kịp nói cho anh biết
mình đang mang giọt máu của anh, điều mà cô ngập ngừng định nói lúc chia
tay với anh lần sau cuối. Anh đã hy sinh như bao người con anh hùng khác của
mảnh đất cố đô, để lại đứa con gái thương yêu còn chưa kịp chào đời, kết quả
của một cuộc tình say đắm nhưng còn nhiều vất vả trong hoàn cảnh chiến
tranh... Hai mươi năm sau, cô gái đã trở thành một thiếu nữ khỏe mạnh, năng
nổ và nhiệt tình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Người mẹ quyết định kể
cho con gái nghe sự thật về người cha anh dũng của cô mà bao lâu nay bà chưa
có dịp để nói. Đó là giây phút vô cùng quan trọng và thiêng liêng trong cuộc
đời cô gái. Cảnh kịch kết thúc khi cô con gái nhìn thấy mặt cha mình qua một
di ảnh nhỏ.
Nguyễn Đình Thi thật có tài khi lồng ghép hai thế hệ thanh niên trong một
cảnh kịch ngắn. Hai mươi năm, một thời gian dài nhân dân ta vẫn còn triền
miên trong khói lửa chiến tranh. Lòng quyết tâm đánh đuổi giặc như càng hun
đúc và lớn mạnh thêm lên trong mỗi tấm lòng của thanh niên Việt Nam. Họ là
lực lượng hùng mạnh nhất làm nên cuộc chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Viết
về những nam nữ thanh niên ấy, Nguyễn Đình Thi không giấu nổi niềm tự hào
của mình. Họ anh dũng, kiên cường, giàu tình cảm và mang những nét đẹp
đáng quý trong tâm hồn. Vì sự nghiệp giải phóng dân tộc vô cùng cấp bách họ
phải hy sinh hạnh phúc cá nhân của mình. Chính vì vậy, tác giả đã viết về họ
bằng cả một tấm lòng trân trọng và ngưỡng mộ.
Những người con của đất nước Việt Nam anh hùng đã làm nên thời đại
hào hùng. Đó là điều chúng ta có thể khẳng định. Thời gian dẫu trôi qua nhưng
dấu ấn về cuộc chiến tranh vẫn không thể phai mờ. Nguyễn Đình Thi, cùng với
những nhà viết kịch khác đã góp phần lưu dấu ấn đó vào những trang kịch của
mình. Cùng với thời gian, những vở kịch ấy sẽ không ngừng nhắc nhở chúng ta
nhớ về một thời quá khứ dẫu đau thương nhưng hào hùng của dân tộc.
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT KỊCH CỦA NGUYÊN ĐÌNH
THI
2.1 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT.
Như nhiều bộ môn nghệ thuật khác, kịch là một hình thái ý thức xã hội, là
cuộc đời, là tiếng nói của con người về cuộc đời. Điều quan trọng nhất trong
một tác phẩm nghệ thuật kịch là nhân vật. Kịch phản ánh cuộc sống một cách
sâu sắc nhằm nâng cao nhận thức của con người đối với cuộc sống. Nhân vật
trong kịch có một tầm quan trọng đặc biệt, chuyên chở suy nghĩ, cách nhìn của
tác giả về những vấn đề trong đời sống hiện thực. Đọc kịch của Nguyễn Đình
Thi, ta phát hiện ra nhiều điều lý thú từ các nhân vật của ông, một thế giới kịch
với đủ mọi loại người, đủ mọi cảnh đời khác nhau, thật như là từ trong cuộc
sống bước vào tác phẩm.
2.1.1 Thế giới nhân vật đa dạng, phong phú trong kịch Nguyễn
Đình Thi
Một trong những yếu tố quyết định sự thành công của việc xây dựng nhân
vật là nhân vật đó phải cụ thể và có những nét riêng (đời sống riêng, cá tính
riêng). Gorki có nói: "Con người rất tinh vi và cũng rất phức tạp. Nếu không
phức tạp thì không phải là con người. Sự phức tạp là tính muôn màu muôn vẻ
của nó." (12, 65 ). Trong gia tài kịch quí giá của mình, Nguyễn Đình Thi đã
cho ra đời hàng trăm nhân vật với những kiểu người và số phận khác nhau. Đó
là sản phẩm trí tuệ của những năm tháng miệt mài lao động nghệ thuật. Nhân
vật trong kịch của ông không chỉ là những nhân vật ở thời điểm hiện tại mà ông
đang sống (anh bộ đội, giáo viên, y tá, bác sĩ, dược sĩ, kĩ sư...) mà còn có
những nhân vật lịch sử được nhiều người biết đến (Trần Cảnh, Trần Thủ Độ,
Lý Chiêu Hoàng, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn...) và cả những nhân vật
quen thuộc trong truyện cổ tích truyền thuyết (Trương Chi, Mỵ Nương, Tiên
Dung, Chữ Đồng Tử, Vũ Nương, chàng Trương, Cuội...). Một thế giới nhân vật
thật phong phú, linh hoạt và nhiều màu sắc thể hiện tài năng và sự đầu tư công
sức rất lớn của Nguyễn Đình Thi. Trong thế giới ấy, ông đã nhào nặn ra đủ mọi
loại người: từ giàu sang sung sướng đến mạt hạng cùng đinh; từ nghênh ngang
hống hách đến nhẫn nhịn phục tùng; từ mưu toan xảo quyệt đến lương thiện
hiền lành; từ khỏe mạnh cường tráng đến ốm đau bệnh tật... Ngần ấy nhân vật
bước vào tác phẩm của ông dường như đều trải qua sự suy tư cân nhắc và hoa
thân vào họ của Nguyễn Đình Thi. Đó là điều rất cần thiết đối với các nhà viết
kịch khi xây dựng nhân vật. Văn hào Xô-Viết Alếchxây Tônxtôi đã từng nói:
"Dù là nhân vật chỉ nói có bốn chữ tôi cũng phải nhìn thấy anh ta rõ như nhìn
thấy mình khi soi gương vậy. Tôi phải biết được số phận anh ta, phải nhìn thấy
và hiểu được các cử chỉ của anh ta" (12, 66). Có lẽ Nguyễn Đình Thi rất tâm
đắc câu nói này của Tônxtôi nên bất cứ nhân vật nào trong kịch của ông, dù
chính hay phụ đều được ông xây dựng bằng một tinh thần nghệ thuật nghiêm
túc, nhiệt thành.
2.1.2 Các kiểu nhân vật trong kịch Nguyễn Đình Thi.
Cũng như trong truyện ngắn, tiểu thuyết có các kiểu nhân vật như: nhân
vật trí thức nghèo, nhân vật lưu manh hóa (truyện Nam Cao), nhân vật cơ hội
cơ may, nhân vật địa chủ tư sản (truyện Vũ Trọng Phụng), nhân vật loài vật
(truyện Tồ Hoài)... thì trong kịch cũng có các kiểu nhân vật riêng: kịch của
Nguyễn Huy Tưởng với các nhân vật lịch sử (Vũ Như Tô, Cột đổng Mã Viện),
nhân vật trí thức đi theo cách mạng (Bắc Sơn ); kịch của Đào Hồng cẩm với
các nhân vật nữ chiến sĩ anh hùng (Chị Nhàn, Nổi gió), nhân vật anh bộ đội
(Trước giờ chiến thắng, Đại đội trưởng của tỏi)... So với những vở kịch nói vào
những năm 1920, lúc kịch mới du nhập vào nước ta như: Chén thuốc độc, Tòa
án lương tâm của Vũ Đình Long, Bạn và vợ của Nguyễn Hữu Kim, Ông Tây
An Nam của Nam Xương hay những vở kịch lúc cách mạng tháng Tám thành
công nh\X:Quán Thăng Long của Lưu Quang Thuận, Hoàng Hoa Thám của
Trần Phụng Lưu, Lam Sơn họp mặt của Nguyễn Xuân Trâm thì những vở kịch
trên của Nguyễn Huy Tưởng hay Đào Hồng cẩm tiến bộ hơn nhiều, cả về nội
dung lẫn cách xây dụng nhân vật. Khác với Nguyễn Huy Tưởng và một sô" tác
giả kịch khác lúc bấy giờ, Nguyễn Đình Thi sáng tác lúc kịch nói đã phát triển
mạnh, ông có điều kiện lĩnh hội được những thành tựu của nghệ thuật kịch nói
và sáng tác theo một phong cách riêng, mang đậm dấu ấn của thời đại. Điều
đặc biệt thành công là ông đã xây dựng nên một hệ thống hình tượng nhân vật
thật xuât sắc, chuyên chở những suy găm, ước mơ và khát vọng của ông vê
cuộc đời. Thể theo từng nội dung và đề tài kịch của ông chúng tôi tạm sắp xếp
thành các kiểu nhân vật sau:
2.1.2.1 Nhân vật lịch sử
Lấy một số sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử nổi bật để xây dựng nên
các tác phẩm kịch là vấn đề khá phổ biến trong kịch nói vào một khoảng thời
gian dài. Những tác phẩm đó thể hiện được tấm lòng yêu nước và tinh thần đấu
tranh cho độc lập dân tộc một cách sâu kín. Người đọc không quên được vở
Đêm Lam Sơn của Hoàng Mai gợi lại trong lòng họ niềm xót thương và kính
phục đối với vị lão quan Nguyễn Phi Khanh khi ông dặn con lúc ly biệt: "Nhớ
cha phải lo cho nước, đừng để giang san chịu thiệt thòi". Đồng thời, hình ảnh
nổi bật của Lê Lợi và Nguyễn Trãi trong phương cách lãnh đạo: khẳng khái,
sáng suốt, yêu nước thương dân đã lưu lại những hình tượng nhân vật ngời
sáng trong lòng người đọc. Nối tiếp tinh thần yêu nước và muốn làm sông lại
lịch sử dân tộc, Nguyễn Đình Thi xây dựng hai vở kịch được dư luận đánh giá
khá cao là: Rừng trúc và Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc cuốn hút người
đọc từ đầu đến cuối do ngoài tài năng viết kịch, Nguyễn Đình Thi còn khéo
chọn bối cảnh lịch sử khá gay cấn gây hấp dẫn người đọc. Nổi bật trên tất cả là
nghệ thuật xây dựng nhân vật thật thành công của ông. Trong đó, ông dành
nhiều công sức hơn cả cho các nhân vật như: Lý Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh),
Trần Thái Tông và Trần Thủ Độ, những nhân vật chủ yếu dựng nên bi kịch lịch
sử đời Trần. Thê nhưng nhân vật được tác giả dồn nhiều tâm bút nhất và được
khán giả thương cảm nhiều nhất là Lý Chiêu Hoàng, vị nữ vương cuối cùng
của triều Lý. Lên ngôi vua chưa được bao lâu, do thân cô thế cô đã phải
nhường ngôi lại cho chồng là Trần Cảnh và lịch sử sang trang từ đó, dòng dõi
nhà Lý trị vì trên hai trăm năm đến đây là hết, mở ra một triều đại mới cho nhà
Trần.
Xây dựng nhân vật Chiêu Hoàng lúc đã trưởng thành, Nguyễn Đình Thi
có điều kiện đi sâu vào mọi ngóc ngách tâm hồn của nàng, nàng không còn là
con bé bảy tuổi, ngơ ngác như con chim non chịu mọi sự xếp đặt của người
khác. Lớn lên nàng hiểu được nguyên nhân cái chết đau đớn của cha mình và
những việc làm đáng buồn của mẹ mình. Nàng không sao quên được hình ảnh
người cha yêu thương chết thảm: "... mặt người thắt cổ to mọng lên bằng cái
tráp, hai mắt trơn trắng dã, miệng ứa máu và cái lưỡi đen bầm rơi ra ngoài
miệng lủng liếng" (30, 308) trong khi mẹ nàng ngày ngày thông đồng với quan
thái sư Trần Thủ Độ lại chính là em họ bà. Nàng hiểu được sự nhường ngôi của
nàng cho Trần Cảnh chẳng qua chỉ là trò xếp đặt của dòng họ nhà Trần mà
nàng không thể nào cưỡng lại được. Nàng tiếc cho triều Lý trị vì trên hai trăm
năm, xây thành đắp lũy, đánh Tông dẹp Chiêm, mở mang bờ cõi đẹp như viên
ngọc quí phút chốc bỗng tiêu tan. Trách ai đây khi sự việc đã không còn cứu
vãn được, sống trong hoàng cung, bên cạnh nhà vua nhưng nàng thấy tâm hồn
mình giá lạnh và lúc nào cũng man mác một nỗi sầu thương, nhất là từ khi thái
tử Trịnh chết đi, đứa con mà nàng rứt ruột sinh ra đã sớm rời bỏ nàng từ lúc
mới lọt lòng. Cái chết của nó khiến cho địa vị của nàng bị lung lay. Nỗi lo sợ
ngôi hoàng hậu có thể lọt vào tay họ tộc khác khiến cho những "rường cột" của
nhà Trần bàn mưu tính kế đưa chị nàng đã sẩn có mang thay thế ngôi vị của
nàng. Trước sự việc này, Chiêu Thánh cay đắng nhận ra hoàn cảnh hiện tại và
sự tồn tại thừa thải của mình trong cung cấm. Ngòi bút tâm lý của Nguyễn
Đình Thi thật sắc sảo trong từng khoảnh khắc đau khổ của Chiêu Thánh, ông
đã mổ xẻ, lách sâu vào tận sâu thẳm tâm hồn nàng. Chiêu Thánh hiện lên trước
mắt người đọc thật đáng thương, nàng khóc rồi cười, đau khổ đến dửng dưng
lạnh lùng... Trong cung cấm rộng lớn không có chỗ nào cho nàng dung thân,
những người ruột thịt thân thiết của nàng đã vô cùng xa lạ. Mẹ nàng bây giờ trở
thành vợ của kẻ đã bắt cha nàng phải chết. Chị nàng sắp thế vào chỗ của nàng,
làm vợ của chồng nàng. Còn chồng nàng, một vì thiên tử trị vì thiên hạ nhưng
lại nghe theo mọi sự xếp đặt của kẻ khác. Người thân cận với nàng giờ đây chỉ
còn người thị nữ trung thành. Nàng quyết định cùng người thị nữ đến tá túc ở
một ngôi nhà gần chùa Bảo Quang, vừa để lánh đời, vừa để tiện trông nom
hương khói cho cha nàng. Đây phải chăng là một quyết định sáng suốt của
Chiêu Thánh nhưng dù sao cũng thật đáng buồn vì sự ra đi quá dễ dàng của
nàng. Chẳng ai có lòng nhiệt thành muốn níu kéo nàng ở lại, kể cả nhà vua,
người đã cùng nàng từng mặn nông chăn gối. Ông nói: "Y người đã quyết, ta
còn biết làm thế nào... Chiêu Hoàng cũng biết, kẻ ở ngôi cao thì đời mình đâu
còn phải của riêng mình nữa... "(30, 316). Như vậy, không phải ông không
thương xót, nuối tiếc Lý Chiêu Hoàng nhưng ông không thể không tuân theo
một guồng máy quyền lực chính trị đang vận hành, đằng sau Trần Thủ Độ là
sức nặng của cả dòng họ, vương triều. Chấp nhận lấy công chúa Thuận Thiên
theo sự sắp đặt của Trần Thủ Độ là ông đã tuân theo một giải pháp tình thế,
đồng thời cũng là giải pháp lịch sử.
Xây dựng nhân vật nữ chính này, Nguyễn Đình Thi đi sâu vào khai thác
tâm lý phức tạp của nàng ở những vị thế khác nhau. Ở vị thế là một bà hoàng,
có những lúc Chiêu Thánh cảm thấy có lỗi với tiên đế, với cơ nghiệp của tổ
tông và khao khát giành lại quyền lực cho cá nhân và vương triều... Nhưng ở vị
thế là một phụ nữ yếu đuôi, một người vợ hiền nàng cảm thấy quyền lực thật
đáng sợ. Để được quyền lực, người ta không từ bất cứ thủ đoạn nào, kể cả trừ
khử, chém giết lẫn nhau. Nàng muốn xa lánh nơi hoàng cung để tìm sự bình
yên của tâm hồn... Nàng từng nói với Trần Thủ Độ một câu nói đáng để cho ta
suy gẫm: "Việc nước là lớn nhất nhưng việc người với người cũng không phải
là nhỏ hơn" (30, 358). Có thể nói Nguyễn Đình Thi đã thật thành công khi đi
vào mô tả diễn biến tâm lý của nhân vật này, mọi tình cảm, suy nghĩ của nàng
đều chân thực. Hình tượng nhân vật Lý Chiêu Hoàng đã góp phần lớn trong
việc nâng cao giá trị tác phẩm Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi.
Nhân vật giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong vở kịch nữa là Trần Thú
Độ, một Thông quôc Thái sư nhà Trân. Ong hét lòng phụng sự cho cơ nghiệp
nhà Trần, không hề tiếc công tiếc sức. Với bàn tay sắp đặt của ông, địa vị của
vương triều nhà Trần và xã tắc được củng cố, hưng thịnh. Ông được coi như là
một bậc khai quốc công thần, được triều đình trọng vọng, nể vì, nhất là những
quyết định của ông thường được vua nhà Trần nhất nhất nghe theo. Thế nhưng
bên cạnh đó, về mặt đạo đức ông đã để lại lắm điều tiếng thị phi. Ông sẳn sàng
làm mọi việc, không nhân nhượng, miễn sao đạt được mục đích mà mình đeo
đuổi. Chính vì vậy, với triều Lý, ông bị mang tiếng là kẻ thoăn nghịch, là kẻ
giữ vai trò quan trọng trong việc lật đổ triều Lý, hại vua nhà Lý, lấy hoàng hậu
nhà Lý... Và khi đất nước đã về tay nhà Trần, với vai trò là một bậc quốc công,
chú họ của vua, ông vẫn không ngừng ngơi nghỉ việc tìm mưu tính kế để làm
sao cho giang sơn nhà Trần được trường tồn mãi mãi. Với cá tính lịch sử mạnh
mẽ như vậy, Trần Thủ Độ được nhiều tác giả kịch khai thác và đưa lên sân
khấu. Đến Nguyễn Đình Thi, một mặt ông xây dựng nhân vật này giống như
chính sử đã ghi chép lại, mặt khác ông nhìn nhân vật này với đôi mắt có phần
cảm thông. Đằng sau cái vẻ toan tính phức tạp của Trần Thủ Độ, là một động
cơ chính trị hết sức rõ ràng, một cá tính nhất quán, một đời sống nội tâm rạch
ròi... Nguyễn Đình Thi còn trân trọng ghi lại câu chuyện Trần Thủ Độ đã tha
chết và ban thưởng cho người quân hiệu đã dám cản đường vợ mình vì người
lính ấy đã làm đúng theo phép nước. Có thể nói ông là một người công tư rất
phân minh, nhất là những gì ông xét thấy có thể phát huy được kỷ cương phép
nước thì ông đặt lên trên hết. Nhìn chung, Nguyễn Đình Thi rất tôn trọng sự
thật lịch sử khi xây dựng nhân vật này, chính vì thế hình tượng Trần Thủ Độ
hiện lên trong tác phẩm của ông thật sống động và chân thật như những gì lịch
sử ghi chép lại.
Đến Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Nguyễn Đình Thi đã khắc họa hình ảnh
uy nghi của Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc có một tầm vóc lớn, một
nhân cách lớn. Ông mạnh dạn đi sâu vào khai thác khoảng thời gian Nguyễn
Trãi ở Đông Quan, là thời gian mà tài liệu lịch sử ghi lại ít nhất. Ông muốn
mượn tư tưởng và nhân cách của Nguyễn Trãi để xây dựng nên một vở kịch có
tính giáo dục cao và cũng để nhằm gắn kết công chúng đương đại với nhân vật
lịch sử...
Chân dung Nguyễn Trãi được Nguyễn Đình Thi khắc họa thật cao quý,
vừa thanh đạm giản dị, vừa có khí phách hiên ngang. Ông trở lại thành Đông
Quan sau khi định đi theo xe tù của cha sang Trung Quốc nhưng cha ông đã từ
chối và khuyên: "Con là người học rộng, tài cao, hãy tìm cách rửa nhục cho
nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại trung và đại hiếu, đâu cứ phải đi theo
khóc lóc như đàn bà con gái mới là hiếu là trung". Nghe lời cha ông quay về
nhưng lập tức bị giặc bắt. sống ở Đông Quan, tuy Nguyễn Trãi không bị gông
cùm tù hãm nhưng ông luôn bị bọn chúng theo dõi và mua chuộc. Chúng khua
môi múa mép vẽ ra một tương lai rực rỡ cho Nguyễn Trãi và nhân dân An Nam
khi ông ra phục vụ cho chúng. Trước những lời ấy Nguyễn Trãi thường khéo
léo chối từ hoặc im lặng không trả lời nhưng ông thầm khinh bỉ những lời lẽ
bịp bợm, xảo trá của chúng. Thực tế đời sống khổ cực vô vàn của nhân dân
đang từng phút hiển hiện trước mắt Nguyễn Trãi, họ bị giết chóc, hành hạ, bóc
lột không chút thương tiếc. Tiếng oán than của người dân nghèo vô tội đối với
quân cướp nước và bè lũ tay sai nhiều không kể xiết. Mười năm sống ở Đông
Quan là mười năm Nguyễn Trãi vất vả tìm ra con đường đi riêng cho mình.
Ông kín đáo và kiên trì liên hệ với những nhà yêu nước thời bấy giờ như Trần
Nguyên Hãn, Lê Cảnh Tuân, Vũ Mộng Nguyên hòng tìm một vì minh chủ để
tôn thờ và phụng sự cho sự nghiệp cứu nước. Tác phẩm kết thúc vào lúc
Nguyễn Trãi lên đường tìm vào Lam Sơn, bắt đầu một chặng đường mới của
mình. Một chặng đường đầy những khó khăn nhưng cũng lắm vinh quang, tỏ rõ
một tài năng quân sự xuất chúng, một chiến lược gia thiên tài đưa tên tuổi của
Nguyễn Trãi vào những trang sử sáng chói của dân tộc.
Xây dựng nhân vật Nguyễn Trãi vào thời điểm Nguyễn Trãi ở thành
Đông Quan, Nguyễn Đình Thi phải hoàn toàn chủ động và sáng tạo. Ông phải
tìm ra hàng loạt nhân vật cùng sinh sống, quan hệ với Nguyễn Trãi, xây dựng
khung cảnh ở thành Đông Quan vắng vẻ, u buồn và ảm đạm... Cái hay ở chỗ là
tác giả đã xây dựng được nhân vật có tính nhất quán, trong từng chi tiết kịch
đều tỏ rõ được hình ảnh hiên ngang, cao quí và rất mực yêu nước của Nguyễn
Trãi. Hình ảnh Nguyễn Trãi tuy sống trong gian khô nhưng vân lung linh, ngời
sáng trong suốt tác phàm. Ong đã vượt qua bao cám dỗ của vật chất đời thường
để dành trọn tấm lòng mình cho nhân dân, cho đất nước vẫn còn triền miên
trong khói lửa chiến tranh.
2.1.2.2 Nhân vật truyền kỳ
Nhân vật truyền kỳ là nhân vật có sự tích kỳ lạ được lưu truyền từ đời này
sang đời khác. Với mong muốn đưa những nhân vật từ truyện cổ tích truyền
thuyết của cha ông lên ánh đèn sân khấu để họ được gần gũi hơn với con người
hiện đại, Nguyễn Đình Thi mạnh dạn viết hàng loạt vở kịch đa phần dựa theo
những sự tích cổ xưa, bên cạnh đó có thêm những sáng tạo mới để vở kịch
mang vẻ độc đáo riêng. Cũng như nguyên bản các truyện cổ tích truyền thuyết,
kịch của Nguyễn Đình Thi xây dựng dựa theo thường là kịch ngắn, chỉ một vài
cảnh, một vài hồi, có vở chỉ có một cảnh như: Người đàn bà hóa đá, Cái bóng
trên tường, Trương Chi.
Trong các vở kịch ngắn kể trên, nhân vật chính thường là người phụ nữ
mang những vẻ đẹp tâm hồn cao quý mà văn chương nghệ thuật thường lây
làm đê tài ca tụng không bao giờ cũ. Ở vở Người đàn bà hóa đá, Nguyễn đình
Thi đã làm sống lại hình ảnh người phụ nữ hiền dịu, thủy chung, có hoàn cảnh
bất hạnh, tội nghiệp vì tình yêu đôi với chồng, nàng đã hoàn toàn biến thành
tượng đá ôm con đứng ngóng về phía chân trời. Người đời cứ mỗi khi trông
thấy tượng đá ấy thì gọi là đá vọng phu (hòn đá đứng trông chồng). Nguyễn
Đình Thi qua vở kịch, đã đi sâu vào hạnh phúc cá nhân và nỗi đau của con
người khi gặp phải cảnh ngang trái trong cuộc đời. Không như câu chuyện cổ,
ngòi bút của ông chú trọng đến việc đặc tả tâm trạng đau buồn và ngóng chờ
chồng đến vô vọng của người vợ, vượt cả thời gian và không gian. Trời đất
cũng cảm động giao hòa thân xác nàng thành pho tượng đá để nàng vĩnh hằng
tồn tại với thời gian và để hình ảnh của nàng nhắc nhở người đời về bi kịch lứa
đôi đau lòng trên.
Đến vở Cái bóng trên tường, Nguyễn Đình Thi lại một lần nữa dựa vào
truyện cổ tích truyền thuyết để xây dựng hình tượng người phụ nữ bất hạnh có
phẩm chất tốt đẹp, chịu thương chịu khó, yêu chồng thương con... Tất cả các vẻ
đẹp của người phụ nữ Việt Nam dường như hội tụ ở nàng. Điều bất hạnh nhất
của nàng và cũng là bi kịch của đời nàng là nàng đã lấy nhằm một kẻ chẳng ra
chi làm chồng: vừa vô học, độc đoán lại có tính đa nghi. Tác giả đã xây dựng
nhân vật với những tình tiết tương tự như câu truyện cổ nhưng sâu sắc và sinh
động hơn. Hành động quyên sinh của người vợ là hành động của người phụ nữ
xem danh dự là trọng. Nàng chết đi, cũng là lúc người chồng hiểu ra được sự
thật nhưng đã muộn màng. Chi tiết thật cảm động trong vở kịch này thể hiện
tấm lòng vị tha, bao dung, hiền dịu của Vũ Nương là nàng đã hiện lên trong
giấc mơ của chồng, nhắc nhở chồng chăm lo cho con và tìm một người phụ nữ
khác để chăm lo cho cuộc sông gia đình. Phải chăng Nguyễn Đình Thi muốn
nói đến tấm lòng cao cả của Vũ Nương, đến khi chết đi vẫn không quên được
chồng con của mình. Đây cũng là một chi tiết mới so với nguyên bản thông
dụng của tác phẩm truyện và chính chi tiết này là một đặc sắc trong cách xây
dựng nhân vật của Nguyễn Đình Thi, nhờ đó hình ảnh của Vũ Nương càng
được yêu mến trong lòng độc giả.
Qua câu chuyện và cách xây dựng nhân vật ở hai vở kịch trên, ta thấy
ngòi bút của Nguyễn Đình Thi chủ yếu hướng vào những bi kịch mà con
người, đặc biệt là người phụ nữ phải gánh chịu. Từ đó khám phá ra những nét
đẹp tâm hồn của họ: chịu thương chịu khó, chung thủy, nhẫn nhịn... Những
nhân vật ấy có khả năng đánh thức lương tâm và tình cảm con người về
phương diện đạo đức, xử thế...
Trương Chi là vở bi kịch cảm động về tình yêu lãng mạn, đẹp nhưng
không thành, cuối cùng để lại sự nuối tiếc và chia li mãi mãi. Nguyễn Đình Thi
đã để cho đoạn cuối vở kịch là sự nuối tiếc và tấm lòng trân trọng Trương Chi
của Mỵ Nương. Nhìn vào chiếc chén có hình bóng Trương Chi, nàng khóc,
những giọt nước mắt rơi vào chén... Cảm kích trước tấm lòng của nàng, Trương
Chi đã tha thứ cho nàng trước khi biến đi mãi mãi. Và như vậy, dẫu vở kịch kết
thúc không có hậu, tình yêu không thành, nhưng người đời vẫn không sao quên
được câu chuyện tình cảm động của họ. Đến phút cuối họ đã đồng cảm được
với nhau, đã cảm thông và tha thứ cho nhau dù đã muộn màng.
Dường như vào trong kịch, hai nhân vật huyền thoại này càng trở nên
sinh động hơn, tình cảm của họ càng thiết tha hơn dưới ngòi bút Nguyễn Đình
Thi. Ồng đã lý giải cặn kẽ tâm lý của họ với những nỗi đau khổ riêng, nhiều
mâu thuẫn và cuối cùng ông cũng không đưa ra được cách kết thúc nào khác tốt
đẹp hơn, bởi lẽ đó là cách kết thúc hợp với tình thế thời ấy. Sau những trang
giấy là tấm lòng tiếc thương của ông dành cho họ. Họ đã không vượt qua được
những trở ngại thường tình để giành lấy hạnh phúc cho riêng mình.
Đặc biệt nhất là vở Hòn cuội, một vở kịch tương đối dài pha màu sắc hài
vui tươi dí dỏm. Nhân vật chính là chàng Cuội cung trăng thông minh, tốt
bụng, giàu lòng thương người. Cuội ra đời và hòa vào dòng chảy cuộc đời từ
hòn cuội của bà lão còng thường để ở góc bếp. Nhìn thấy cuộc đời còn nhiều
nỗi bất công, Cuội muốn ra tay nghĩa hiệp cứu giúp. Những việc làm của Cuội
thường nhằm giúp đỡ những người dân nghèo, yếu đuối bị chèn ép một cách
bất công và ra tay trừng trị những tên trọc phú, hống hách, có thế lực trong xã
hội. Cuội là một nhân vật như thế nào mà ghê gớm như vậy? Xin thưa đây cũng
là một chàng Cuội bình thường chứ chẳng có phép thần thông quảng đại gì.
Cuội thắng thế trước bọn người kia chính là nhờ ở trí thông minh và sự nhanh
nhẹn, lém lĩnh của mình. Những đức tính ây hòa lẫn vào nhau trong từng hành
động của Cuội. Nguyễn Đình Thi đã thật thành công trong việc xây dựng tính
cách và hành động của nhân vật huyền thoại này gây nên những tiếng cười vui
tươi, thích thú từ độc giả. Ngòi bút của ông khi nói về nhân vật này thật dí dỏm
và chứa chan tình cảm trìu mến. Người đọc không thể quên ấn tượng đầu tiên
thật cảm tình của họ đối với Cuội, là việc Cuội đã giúp cho anh Ngố khỏi mất
vợ bởi cái trò lừa bịp của Bợm. Do thấy Ngố khù khờ và vợ Ngố xinh đẹp Bợm
muốn bày mưu để cướp vợ Ngố. Thấy Ngố đẩy xe cút kít Bợm cam đoan đó
không phải là cái xe, anh Ngố cãi lại và hai người đánh cuộc với nhau người vợ
của Ngố. Đây là đoạn kịch thể hiện sự gian ngoan của Bợm và sự ứng đối
thông minh, nhanh nhẹn của Cuội:
" BỢM - Thế tôi hỏi anh, đây là cái gì? NGỐ - Cái càng. BỢM-Thế đây là
cái gì? NGỐ - Cái thùng. BƠM - Thê còn đây là cái gì? NGỐ - Cái bánh
BƠM - Cái càng này, cái thùng này, cái bánh này, còn gì nữa đâu nào, thế
có cái gì là cái xe đâu nào? Anh chỉ cho tôi xem chỗ nào là cái xe nào!! Tôi chả
thấy có cái gì là cái xe.
NGÓ - Cái càng, cái thùng, cái bánh! ơ hay nhỉ!
BƠM - Thôi chị lại đây, chị về làm vợ tôi. Có phú ông đây làm chứng. Hớ
hớ hớ! (nắm lấy tay chị Ngố)
VỢ NGÔ - Buông tôi ra! Buông tôi ra !
CƯỌI - (Từ gốc đa đi ra) Khoan nào!Khoan đã! {Chỉ vào đâu người đàn
bà) Thế tôi hỏi anh đây là cái gì? BỢM-Cái gì à? Cái gì? VỢ NGỐ - À, đây là
cái đầu.
BỢM- À!
CUỘI-Thế đây là cái gì? VỢ NGỐ - Cái tay! BỢM-Á à!
CUỘI - Thế còn đây là cái gì? VỢ NGỐ - Cái chân! NGỐ - ơ...
CUỘI - Đây là cái đầu này, đây là cái tay này, đây là cái chân này, thế có
cái gì đâu nào là cái vợ mà anh đòi bắt. "(30, 680-681)
Thế là giữa lúc anh Ngố đang bối rối, sắp mất vợ đến nơi thì may nhờ có
Cuội đứng ra giải vây. Người đọc có lẽ rất bất ngờ và thú vị trước những tình
tiết như vậy. Và từ đây người ta mới bắt đầu chú ý đến sự xuất hiện đột ngột
của Cuội. Họ bàn tán xôn xao xem Cuội từ đâu đến và một số người muốn đuổi
Cuội trở về với cung trăng. Trước khi đi Cuội còn kịp nghĩ ra mưu kế giúp cho
Thêu, cô gái mồ côi hiền lành thoát khỏi vụ cưỡng hôn tồi tệ của lão phú ông.
Nguyễn Đình Thi đã dành thật nhiều tình cảm ưu ái cho nhân vật này. Cuội
được xây dựng như một người anh hùng nghĩa hiệp, tốt bụng, lấy chính nghĩa
trừ gian tà. Ngòi bút của Nguyên Đình Thi thật sinh động trong từng hành động
của Cuội. Ong như luyến tiếc cho giây phút Cuội trở về cung trăng, để lại trần
gian bao tình cảm yêu mến của mọi người. Đặc biệt, hình ảnh của Cuội vẫn còn
mãi trong câu hát ngây thơ của những đứa trẻ con :
" Thằng Cuội ngồi gốc cây đa Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ơi ơi Cha còn cắt cỏ
trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng..." (30, 752)
2.1.2.3 Nhân vật biểu trưng
Nhân vật biểu trưng hay còn gọi là nhân vật tư tưởng - cảm nghĩ. Những
nhân vật này thường xuất hiện để triết lý, bình giải, trực tiếp đặt ra những vấn
đề xã hội và mở rộng chủ đề. Tên của các nhân vật có thể là: Sóng, Biển, Tiếng
hát, Cơn bão, Cây, Lời của gió... Đó là các vật thể, hiện tượng được mô phỏng
theo những mối quan hệ của con người. Chúng cũng mang tâm hồn, sự hiểu
biết, kinh nghiệm sống của con người, cũng suy nghĩ, vật vã cùng con người.
Đọc kịch của Nguyễn Đình Thi, người ta cũng thấy xuất hiện những nhân
vật biểu trưng này như: Người con gái huyền ảo hiện thân của dòng sổng,
Tiếng sóng, Khóm tre, Thần chết, những nhân vật hiện lên từ cõi chết (Tần
Thủy Hoàng, Nữ hoàng Ai Cập...). Mỗi một nhân vật nhằm chuyền tải những ý
đồ nghệ thuật riêng của tác giả, thể hiện một tư tưởng diễn ra trong đời sống.
Trước hết là hình tượng dòng sông và tiếng sóng cứ trở đi trở lại trong vở
Tiếng sóng của Nguyễn Đình Thi. Dòng sông và tiếng sóng cũng như dòng
chảy và diễn biên của mỗi cuộc đời con người. Đời người không phải lúc nào
phảng lặng, yên bình mà cũng có lúc gặp nhiều bất trắc. Đó là lúc người ta có
thể lắng nghe tiếng sóng vỗ mạnh nhất trong lòng mình (dòng sông dào sóng,
tiếng sóng vỗ ào ào...). Tiếng sóng ấy thường ngày người ta không nhận thấy
nhưng khi đứng trước những sự việc sống còn, những bước ngoặc quan trọng,
người ta bỗng thấy nó tồn tại từ lâu và mạnh mẽ hơn bao giờ. Trong sáu cảnh
của vở kịch này, mỗi cảnh là một cuộc đời khác nhau với những bi kịch riêng,
khổ đau riêng được liên kết nhau bởi Tiếng sóng. Tiếng sóng tồn tại như một
người bạn, chứng kiến mọi diễn biến của cuộc đời con người và luôn động
viên, an ủi bằng những lời rì rào, khe khẽ. Nhưng đôi lúc Tiếng sóng xuất hiện
như cảnh báo trước những điều không may sắp xảy đến với con người, những
lúc ấy Tiếng sóng thật dữ dội vỗ ào ạt không ngừng, cuộn trắng xóa bờ sông.
Ví dụ như ở cảnh Ì, cảnh chiên tranh loạn lạc, người dân sông thật khô, Tiêng
sóng không lúc nào yên, lúc nào cũng vỗ ào ạt. Tiếng sóng vỗ dữ dội nhất vào
lúc bà Nhiêu phát hiện những chiếc đầu của chồng và đồng chí của chồng bị
giặc chém treo trên cây bưởi, bà run rẩy gỡ những đầu người, bọc vào vải giữa
lúc mưa giông, sấm chớp (" Kìa, cơn dông to lắm, gió đã mù mịt, mà ngoài
sông đang nổi sóng tất cả kìa." (30, 519)).
Ngoài ra, tiếng sóng còn là dòng chảy của cuộc đời con người, là những
tâm tư, tình cảm, những vui buồn khổ đau mà khi ta lắng lòng mình lại sẽ nghe
được tiếng sóng ấy. Đúng như lời người con gái huyền ảo nói ở cuối vở kịch:
"Tôi là dòng sông khi dữ dội, khi hiền từ. Bạn lắng nghe xem... trong đời bạn
có một dòng sông không lúc nào ngừng động sóng. Có phải không, bạn nghe
xem... tôi là tình thương yêu dào lên mãi, dào lên nữa, không bao giờ hết... Tôi
là sự suy nghĩ ném mình đập vào mọi bến bờ, lại ném mình lên phía trước,
không thể ngưng đọng lại, dù chỉ phút giây... Tôi là bao nhiêu điều vui buồn từ
mọi ngả cuộn lên, hết đợt này đến đợt khác, vọng đi những khoảng mênh
mông, ào ào không nguôi... Tôi là niềm hy vọng khi xa khi gần, mất đi lại sống
lại, có lúc cuộn trắng xóa, có lúc mơ mộng rì rào..." (30, 597).
Nguyễn Đình Thi đã rất tinh tế và sâu sắc khi chọn Dòng sông và Tiếng
sóng là nhân vật biểu trưng cho dòng chảy của đời người. Đó là những biểu
tượng nghệ thuật rất độc đáo. Sóng không bao giờ đứng lặng, lúc vỗ mạnh, lúc
vỗ nhẹ, lúc rì rào khe khẽ, lúc ào ạt dữ dội cũng giống như cuộc đời con người,
cũng có lúc yên bình, nhàn hạ, cũng có lúc gặp những biến cố, bất trắc. Ý
tưởng này Nguyễn Đình Thi cũng đã có lần đề cập đến trong một vở kịch khác
của ông, vở Giấc mơ: "Bao chuyện đã qua như trong giấc mơ. Tất cả đang ào
ào vỗ sóng... Dòng sông cuộc đời vẫn phập phồng cuộn chảy. Đến những
khoảng vô cùng chưa ai biết đƯỢc.Tôi đã thấy... Tồi đã nhớ lại... Tất cả đối
với tôi hôm nay lại bắt đầu..." (30, 276).
Giấc mơ là vở kịch có nhiều nhân vật biểu trưng nhất, những tình tiết
trong kịch vừa thực vừa hư cũng giống như tâm trạng lúc mê, lúc tỉnh của anh
thương binh. Anh bị những vết thương khá nặng và nằm lại nơi chiến trường
tưởng như không thể nào sống nổi, máu anh chảy trộn lẫn với đất bùn và thuốc
đạn lại thêm trời nổi mưa dông sấm chớp... Đúng lúc ấy, Thần chết hiện lên với
chiếc đẫy và lưỡi hái trên tay để đưa anh về cõi chết. Thần chết, một nhân vật
thật đặc biệt chứng tỏ năng lực sáng tạo rất lớn của tác giả vì đó là nhân vật
chưa ai nhìn thấy, người đời dùng nhân vật này để ám chỉ về cái thế giới xa
xăm, vô hình sau khi con người lìa bỏ cõi đời. Trong vở kịch, ta nhận thấy có
sự đấu tranh ghê gớm của người lính giữa sự sống và cái chết. Sự sống chỉ còn
le lói, thoi thóp trong khi cái chết đã như bóng đêm phủ xuống người anh. Bên
cạnh đó, Thần chết không ngừng tác động, kêu gọi anh về với thế giới của lão:
"Anh cố ở lại cõi sông thêm mây giờ, mấy phút nữa mà làm gì chỉ thêm
quằn quại Anh nghe ta, nhắm mắt lại, ta sẽ đưa anh đi Qua bên kia, sẽ không
còn gì hết Không còn đau đớn, không còn suy nghĩ Anh se yên mãi mãi.
"(30,189)
Dầu sức cùng lực kiệt, người lính vẫn không đầu hàng, anh vẫn kiên
quyết bám lấy sự sống dẫu là mỏng manh:
"Đời ta có thể tắt ở đây hôm nay Nhưng cũng khác nào dải Ngân hà bát
ngát kia Đời sống đất nước ta thì vẫn như dòng sông chảy sáng qua lịch sử...
Không! Ta chẳng chịu nhắm mắt xuôi tay dễ dàng Dù thân thể ta đã gần kiệt
sức Dù trí óc ta có lúc đã choáng ngợp.
Ta còn vật lộn với ngươi đến cùng, đến kỳ cùng! "(30, 191).
Trước sự ngoan cố của người lính, Thần chết đã trút từ trong chiếc đẫy
của mình ra những nhân vật lịch sử lẫy lừng của mấy nghìn năm trước là đại đế
Tần Thủy Hoàng và nữ hoàng Ai Cập Klê-Ô-Pat nhằm chứng tỏ cho người lính
thây, con người dù uy quyền và giàu sang bao nhiêu đi nữa cũng không thể
tránh khỏi cái chết. Tiền tài và sắc đẹp cũng không thể tồn tại mãi mãi dù cho
con người có điên cuồng ham muốn. Và kỳ lạ thay giữa lúc người lính đang lịm
dần vào cõi chết, toàn thân đang dần dần băng giá thì bỗng nghe tiếng gọi xa
xăm của một cô gái từ xa vọng đến. Tiếng gọi kỳ diệu của cô đã cứu người lính
thoát khỏi lưỡi hái của tử thần và trở về với cuộc sống. Cô gái ấy là ai, là hiện
thân của ngôi sao quê hương, là một châm sáng biếc của mây trời quế hương.
Ngôi sao sáng trong ấy luôn dõi theo người lính, động viên anh trong những
bước hành quân và bây giờ đã vực anh dậy trỗi từ trong cơn thập tử nhất sinh.
Sức mạnh của những tình cảm và vẻ đẹp quê hương quả thật là vĩ đại.
Và anh đã trở lại với cuộc sống với những vết tích của chiến tranh trên
thân thể, anh hoàn toàn không nhớ về quá khứ của mình. Làm bạn với anh
ngoài những em nhỏ, những người hàng xóm tốt bụng còn có Khóm tre ngà
trước cửa. Qua ngòi bút của Nguyễn Đình Thi, Khóm tre còn là biểu hiện của
quê hương Việt Nam anh dũng, là người bạn chân tình nhất mà anh thương
binh vô cùng yêu quý. Anh không cần tiền, anh cần người có thể đồng cảm và
chia sẻ những vui buồn với mình, ý nghĩa của cuộc sống là như vậy. Đây là lời
của anh thương binh:
"Không phải chỉ là khóm tre Đây là ánh sáng lạ lùng muôn vẻ Là tiếng rì
rào chuyện trò an ủi Đây là sự sống nảy sinh biên hóa không ngừng Là cái đẹp
làm cho tôi biết mơ ước Đây là bao nhiêu kỷ niệm quý báu trong tôi..." (30,
238)
Mỗi khi có chuyện gì xảy đến với anh thương binh Khóm tre ngà sáng
bừng lên rì rào rì rào như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho anh. Khóm tre đã
làm dịu mát lòng anh thương binh bởi vì đó là những tiếng thầm thì trìu mến
của quê hương:
"Ta là cây tre bao đời Không bao giờ bỏ con người Hỡi bạn có biết Ta
vẫn hằng che chở Bao nỗi niềm anh buồn vui...(30, 249)
Khóm tre thật ra chỉ là biểu tượng của thiên nhiên nhưng vào trong tác
phẩm đã được Nguyễn Đình Thi xây dựng như là một thực thể sống, biết cảm
nhận và chia sẻ cùng với con người, vở kịch thật hay, lạ với sự xuất hiện của
một số nhân vật không còn ở cõi thật nhằm diễn đạt những ngụ ý nhân sinh tốt
đẹp mà tác giả muốn nhắn nhủ với cuộc đời.
Nguyễn Đình Thi rất có tài khi xây dựng những nhân vật biểu trưng trong
tác phẩm của mình. Mỗi nhân vật đều rất sống động và mang những dáng vẻ
riêng: Tiếng sóng thì mơ hồ, huyền ảo, Thần chết thì u ám, lạnh lẽo, Khóm tre
thì rực rỡ, óng ả... Những nhân vật ấy giúp tác phẩm thêm lạ, hấp dẫn và nhiều
màu sắc hơn.
2.1.2.4 Nhân vật con người mới trong chiến tranh
Hình tượng đầu tiên về con người mới xuất hiện trong kịch Việt Nam là
những chiến sĩ cách mạng, những đảng viên Đảng cộng sản được các chiên sĩ
cách mạng sáng tác và biểu diễn trong các nhà tù đế quốc. Hình tượng người
chiến sĩ cách mạng ở đây ít nhiều còn mang tính chất khái niệm, tượng trưng và
chứa đầy chát huyền thoại. Đến Bắc Sơn (Nguyễn Huy Tưởng - 1946), lần đầu
tiên một cách công khai và có ý thức, kịch dành một vị trí xứng đáng cho các
nhân vật quần chúng lao động với tấm lòng yêu thương và trân trọng. Họ đã
chiếm một vị trí gần như là trung tâm của vở kịch. Và quá trình phát triển của
hình tượng con người mới trong kịch Việt Nam hiện đại từ Cách mạng tháng
Tám đến nay, là quá trình miêu tả những con người trong cuộc đấu tranh bảo
vệ và xây dựng Tổ quốc. Như thế rõ ràng việc xây dựng hình tượng con người
mới là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của kịch, vừa phản ánh trung thành
hiện thực thời đại, vừa tác động tích cực vào sự phát triển của xã hội đương
thời.
Là một văn nghệ sĩ lớn lên và trưởng thành trong thời buổi loạn lạc của
chiến tranh, hơn nữa là một người có tấm lòng yêu nước chân chính, công hiến
hết sức mình cho sự nghiệp văn học nghệ thuật cách mạng, Nguyễn Đình Thi
trong mỗi lĩnh vực sáng tác của mình đều ý thức được nhiệm vụ quan trọng của
người cầm bút đối với sự sống còn và phát triển của đất nước. Trong những
sáng tác của ổng, dù là kịch, thơ hay tiểu thuyết, Nguyễn Đình Thi đều chú tâm
xây dựng những hình tượng con người mới chân thật, có cá tính, giàu lòng yêu
nước góp vào sự nghiệp văn học cách mạng những tác phẩm có giá trị hiện
thực cao. Riêng về kịch, có một số vở viết về chiến tranh được tác giả sáng tác
sau khi chiến tranh đã kết thúc nên ông có cái nhìn bao quát hơn, toàn diện hơn
về hiện thực của cuộc chiến và xã hội.
Hoa và Ngần được sáng tác năm 1974 viết về bối cảnh Hà Nội vào những
năm kháng chiến chống Mỹ cho đến khi đất nước sắp toàn thắng. Nguyễn Đình
Thi đã xây dựng thành công những nhân vật nam nữ thanh niên trung hậu của
thủ đô, họ tình nguyện ở lại bám giữ Hà Nội dù trong hoàn cảnh bom đạn hét
sức nguy hiếm. Ông đi vào khai thác sâu cuộc sống sinh hoạt và tình cảm rất
chân thật của họ trong thời buổi chiến tranh. Hoa là một y sĩ rất yêu nghề và có
trách nhiệm với nghề nghiệp của mình. Học xong cô về nhận công tác ở bệnh
viện 5 của thủ đô Hà Nội và ở trong một căn gác nhỏ hẹp của một nhà tập thể
đông đúc của cơ quan. Tại đây cô đã sống và cống hiến sức mình một cách vui
vẻ và lạc quan dẫu cho cuộc đời còn muôn nghìn khó khăn trước mắt. Ngần là
một giáo viên cáp một tình nguyện ở lại Hà Nội để mang cái chữ đến cho lũ
học trò nhỏ lau nhau trường Nghĩa Dũng, một ngôi trường tranh vách đất nằm
ở bãi sông. Thời buổi chiến tranh trường nay mở cửa, mai đóng cửa Ngần vẫn
tha thiết bám trụ với nghề. Bởi ở đó cô đã gặp những em học trò nhỏ, dễ
thương, rất yêu mến cô giáo.
Hoa và Ngần đều gặp nhiều trắc trở trong tình yêu. Người yêu cũ của Hoa
là một chàng trai tốt bụng đã dũng cảm hy sinh trong trận chiến để lại trong
lòng cô sự nuối tiếc và những kỷ niệm khó quên. Mãi sau cô gặp được Lâm,
vốn là bệnh nhân cũ của cô, yêu thương cô rất thật lòng và hai níỉười đã đến
với nhau. Nhưng trong thời buổi chiến tranh, bản thân là người lính, Lâm phải
đi hết chiến trường nọ đến chiến trường kia, vừa mở xong con đường mòn
Trường Sơn lại vào những nơi xa xôi để nhận nhiệm vụ mới. Liên lạc được với
nhau chỉ bằng những cánh thư khi được khi mất. Tuy vậy Hoa luôn ủng hộ và
thấy hãnh diện về Lâm. Còn Ngần, do buồn vì tình yêu không thành cô đã nghe
theo lời gia đình qua mối lái lấy người mà cô không yêu ở lứa tuổi mười bảy,
mười tám còn nhiều khờ dại. Cô mau chóng nhận ra bản chất hẹp hòi, ích kỷ
của chồng và cả nhà chồng, cộng với cách sống trái ngược nhau giữa cô và họ
khiến cô thấy không thể nào hòa hợp được. Cùng lúc đó cô gặp lại Toàn, người
yêu cũ của cô khi xưa, do vì chút hiểu lầm đáng tiếc mà hai người phải chia tay
nhau, trong lòng cô lại trỗi dậy những tình cảm với Toàn nhưng khi biết Toàn
đã có vợ con cô quyết định chia tay hẳn với Toàn để anh sống trọn vẹn với gia
đình mình...
Dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Thi, những tâm tư, tình cảm và biến cố
trong cuộc sống của hai nhân vật Hoa và Ngần hiện lên thật sinh động và sắc
nét. Tuổi trẻ nhiệt tình, nhân hậu và hăng say trong lao động của họ đã chiêm
nhiều thiện cảm của độc giả. Hình ảnh của họ trở nên cao đẹp chính nhờ ở tính
cách, tâm hồn và những hành động mang ý nghĩa xã hội mà Nguyễn Đình Thi
đã xây dựng được nơi họ.
Bên cạnh hai nhân vật nữ này người đọc cũng có ấn tượng sâu sắc với đôi
bạn trẻ Duyên và Bảo. Duyên là em gái của Hoa, một cồ học trò năng động,
yêu nước, còn Bảo là người yêu của cô, học trên Duyên hai lớp. Họ rất trẻ
trung và tràn đầy nhiệt huyết cách mạng. Cuộc chiên ngày càng gay go và ác
liệt, Bảo tình nguyện đi bộ đội, còn Duyên ở lại tham gia tự vệ chiến đấu bảo
vệ thủ đô. Xa nhau họ vẫn một lòng một dạ yêu thương và chờ đợi nhau cho
đến tám năm sau, Bảo bị thương trở về. Trong những ngày nằm điều trị và nghỉ
phép ít ỏi, họ đã tổ chức một lễ cưới đơn giản trong hoàn cảnh chiến tranh.
Duyên về làm việc ở nhà máy, còn Bảo thì tiếp tục nhiệm vụ thiêng liêng cao
cả của mình đối với đất nước. Có lẽ đây là hai nhân vật được Nguyễn Đình Thi
dành nhiều ưu ái nhất và xây dựng bằng một ngòi bút nhiều cởi mở, phóng
khoáng nhất. Họ đáng yêu và có môi tình thật đẹp, thật thơ mộng trong thời
buổi khói lửa chiến tranh. Có lẽ trong tình yêu, hạnh phúc sẵn sàng mỉm cười
với những ai biết trân trọng và yêu thương chân thật bằng cả trái tim của mình.
Và trong cảnh gian lao khốn khó của chiến tranh, Nguyễn Đình Thi vẫn
không quên xây dựng hình tượng những người con Việt Nam tốt đẹp khác. Có
biết bao tấm lòng tốt rộng mở, sẩn sàng đùm bọc, giúp đỡ nhau mà không chút
so đo toan tính, họ vui trong hạnh phúc của người khác, xem hạnh phúc của
người khác như là hạnh phúc của mình. Đó là những người như Phúc, chị
Mười, Khánh. Ngày đầu Hoa về nhận công tác ở bệnh viện, Phúc, đảng ủy viên
bệnh viện đã ân cần đưa cô đến khu nhà ở tập thể và sau đó anh còn quan tâm
làm môi Đạt, bác sĩ làm chung bệnh viện cho cô. Chị Mười, bếp trưởng của
bệnh viện và Khánh, dược sĩ cùng ở tầng dưới đã lên thăm cô, thấy cô còn bộn
bề công việc, chị bếp tốt bụng này đã vui vẻ nấu cơm cho cô ăn... Những việc
làm đó đã khiên Hoa cảm thây lòng mình ấm áp, yêu đời và nhiệt tình với nghề
hơn. Khánh có chồng là Binh, công tác vào Nam từ năm 1953, mãi chẳng thấy
về, cô đợi mãi đến bảy, tám năm sau thì nghe tin chồng bị giặc bắt và đã hy
sinh. Thương cháu Mai mồ côi cha và cũng cảm động trước tấm lòng của bác sĩ
Đằng, Khánh đã bằng lòng đi bước nữa với Đằng và họ sống rất hạnh phúc.
Thời gian sau, Bình đột ngột trở về sau một thời gian dài bị giặc giam cầm tra
tấn tưởng không thể nào sống nổi. Nghe chuyện của Khánh và Đằng, lại biết
hai người đang có cuộc sống đầm ấm, Bình rất cảm thông và trân trọng tình
cảm mới của Khánh. Anh dự định tìm đến thăm con và vợ chồng Khánh rồi sau
đó sẽ xin vào lại miền Nam. Thiết nghĩ đây cũng không phải là một kết cục hay
lắm đối với cả ba người họ nhưng lại là những chuyện rất có thể xảy ra ở thời
buổi chiến tranh. Còn chị Mười, chồng chị cũng vào Nam công tác, thời gian
trôi qua chị sống cô độc trong nỗi nhớ nhung thầm kín cho tới một hôm nghe
tin anh Mười, chồng chị bị thương được đưa trở về bệnh viện của chị. Chị vô
cùng vui mừng, xúc động, nghẹn ngào... Đây là đoạn kịch tuy ngắn nhưng diễn
tả rất tài tình cảm xúc chân thật của chị:
"CHỊ MƯỜI - Đồng chí ngồi tạm đây, chắc đói rồi, tôi đi kiếm tô phở
đồng chí ăn lót dạ.
NGƯỜI BỆNH - Không cần đâu, chị Mười. Chị soạn sửa mà đón n£Ười
nhà. Anh Mười ra tới Thanh Hóa rồi đó!
CHỊ MƯỜI-Trời đất ơi!
(Chị đứng nhìn ngây ra)
HOA - Chị Mười. (đỡ chị)
CHỊ MƯỜI - (Khóc) Trời đất ơi, trời đất ơi (cuống quýt) - Anh nói sao?
Ong Mười nhà tôi ra rối à?
NGƯỜI BỆNH - Anh Mười mệt còn nghỉ lại Thanh Hóa, có lẽ mai mốt
sẽ ra tới đây.
CHỊ MƯỜI - Anh ấy đau thế nào, đồng chí? " (30, 135-136).
Như vậy, trong thời buổi chiến tranh, mọi người đều phải biết hy sinh
hạnh phúc của riêng mình cho những những việc làm cao cả hơn. Họ hiểu được
chỉ có hạnh phúc thật sự khi đất nước hoàn toàn độc lập. Chính vì nỗi nhớ
thương lâu ngày chồng chất nên khi được gặp lại người thân họ không sao ngăn
được xúc động. Đó chính là tình cảm chân thật của họ mà Nguyễn Đình Thi đã
ghi lại được.
Từng nhân vật trong vở kịch đều được Nguyễn Đình Thi xây dựng với
tâm lòng trân trọng và tin yêu. Ong phả vào họ sức sông, lòng yêu nước và
niềm tin ở tương lai. Nhân vật của ông dẫu đa phần là nữ nhưng thật cứng cỏi
và mạnh mẽ. Chính họ là những người đã góp phần làm nên cuộc chiến thắng
vẻ vang của dân tộc.
Giấc mơ khắc họa hình tượng người lính cụ Hồ anh dũng trong chiến
tranh và kiên cường, mạnh mẽ sau khi chiến tranh kết thúc. Những hình tượng
ấy có khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam vốn có truyền thống anh hùng.
Dường như Nguyễn Đình Thi chỉ tái hiện lại nhân vật điển hình ấy cùng tấm
gương tốt ấy trong vở kịch của mình mà thôi.
Người lính hiện lên dưới ngòi bút của tác giả với một sức mạnh và tinh
thần thép. Từ đầu vở kịch anh đã bị thương nặng sau một trận giao tranh với kẻ
thù, đồng đội đã bỏ lạc anh lại nơi chiến trường, khắp thân thể anh đẫy những
vết thương vẫn còn rỉ máu. Anh tưởng mình không thể nào sống nổi, mắt anh
tối mờ, ngực anh nặng dần và thân thể anh đã có lúc giá lạnh, nhưng bằng tất cả
sức lực còn lại của mình, anh đã cố chống chọi lại cái chết. Và trong lúc thập tử
nhất sinh ấy, hình ảnh của quế hương và những người thân yêu đã thức tỉnh
anh, đã vực anh từ cõi chết sống lại. Anh tỉnh dậy rồi lảo đảo đứng lên, tìm
đường trở về...
Chiến tranh kết thúc, mọi người bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Anh
lính ngày nào giờ là anh thương binh với các vết thương tuy đã lành lặn nhưng
còn hằn sâu trên thân thể, dấu tích của cuộc chiến tranh đã qua. Trước cuộc
sống mới còn muôn nghìn vất vả anh không hề quản ngại khó khăn, cùng sông
cuộc sống lao động với mọi người. Anh xin về đội trồng cây với mong ước
được thấy nhiều rừng cọ, đồi thông mang lại màu xanh tươi cho đất nước. Anh
rất vui với công việc mới này cũng như sống vui vẻ, chan hòa với mọi người
xung quanh. Thực tế của cuộc sống là vậy, hoàn cảnh hiện tại của anh là vậy, ý
nghĩa của cuộc sống là phải biết chấp nhận sự thật, nhìn vào sự thật để phấn
đấu và cải thiện cuộc sống được tốt hơn. Anh muốn làm việc, cống hiến hết sức
mình và làm nghĩa vụ của một công dân yêu nước. Đó là khi đất nước lâm
nguy thì xả thân chiến đấu và khi đất nước thanh bình thì chung tay xây dựng.
Như vậy, cuộc sống chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng xã hội chủ nghĩa đã
sản sinh ra những con người mới với những tính chất phong phú của nó. Mọi
thời đại rồi sẽ qua đi nhưng dấu ấn của nó thì muôn đời để lại và văn học nghệ
thuật đã tái tạo nên những hình tượng bất tử ấy. Người lính là nhân vật được
Nguyễn Đình Thi xây dựng xuyên suốt tác phẩm và được miêu tả thật rõ nét,
ấn tượng qua từng hành động và ngôn ngữ mượt mà. Bởi thê, nhân vật có sức
cuốn hút và hấp dẫn rất lớn đối với người đọc.
Trên đây là một số kiểu nhân vật được Nguyễn Đình Thi chọn lọc và đưa
vào kịch của mình. Tuy không phải là nhắc đến toàn bộ những nhân vật trong
kịch của ông nhưng đây có thể nói là những nhân vật tiêu biểu nhất. Ở mỗi kiểu
nhân vật, Nguyễn Đình Thi đều có những phát hiện, sáng tạo riêng để nhân vật
ấy chuyên chở những điều tác giả muốn gửi gấm. Đó chính là cái tôi, cái độc
đáo của bản thân mỗi tác giả mà độc giả cần phải trân trọng và đó cũng chính là
những yếu tố quan trọng góp phần gây nên sự chú ý, lôi cuốn người đọc khi
đến với tác phẩm.
2.2 XUNG ĐỘT KỊCH
Xung đột là giai đoạn cao của sự phát triển mâu thuẫn. Bất cứ mâu thuẫn
nào phát triển cũng dẫn tới xung đột và giải quyết. Quá trình phát triển của mâu
thuẫn thường tiệm tiến, âm ỉ và khi đã chín mùi thì nổ thành xung đột. Ví dụ từ
khi giai cấp công nhân xuất hiện, đã có mâu thuẫn với giai cấp tư sản nhưng
mâu thuẫn này chỉ mới âm ỉ, phát triển dần đến một mức độ nào đó mới nổ
thành xung đột, tức đâu tranh cách mạng. Kịch là nghệ thuật tạo hình năng
động, do được biểu diễn trong một thời gian, không gian hạn chê nên mâu
thuẫn trong kịch mang tính chất tập trung cao độ, tính căng thẳng mãnh liệt. Và
chỉ cần phản ánh giai đoạn đó, kịch có thể cho ta thấy toàn bộ quá trình phát
triển của mâu thuẫn, cả nhân trước lẫn quả sau, vì thế nhà viết kịch thường
chọn lọc mâu thuẫn đã phát triển đến mức gay gắt, không thể điều hòa được và
tự nó sẽ thành một cuộc đấu tranh để đi tới một quan hệ mới, ở mức độ cao
hơn. Đó là xung đột kịch. Xung đột là một đặc điểm cơ bản của kịch. Hêghen
nói: "Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch" (22, 245)
Không nhất thiết vở kịch nào cũng phải có nhân vật phản diện và chính
diện đấu tranh với nhau. vở Quan thanh tra của Gôgôn vạch trần thói ăn hối lộ
của bọn quan lại Nga ngày xưa, không có nhân vật chính diện. Vở Tania của
Ácbudốp ca ngợi cuộc sống mới, tìm lối thoát cho con người, không có nhân
vật phản diện. Ây vậy mà ở những vở kịch đó, vẫn có xunc đột tư tưởng gay
gắt và quyết liệt thể hiện rõ nét qua những tính cách nhân vật. Tổ chức xung
đột là khâu khá quan trọng trong quá trình sáng tác kịch. Tư tưởng vở kịch
thường được trình bày qua mối mâu thuẫn dần dần dẫn tới sự xung đột đầy
căng thẳng diễn ra theo một dòng hành động có lúc nổi lúc chìm nhưng chảy
tràn lan khắp các ngóc ngách của vở kịch. Đọc kịch của Nguyễn Đình Thi,
chúng tôi nhận thây có một số xung đột chính yếu sau:
2.2.1Xung đột giữa tham vọng của quyền lực và quyền sống
hạnh phúc của con người.
Đây là xung đột rất thường xảy ra trong cuộc sống mà kết quả là lực
lượng đại diện cho quyền lực bao giờ cũng thắng thế còn nạn nhân của nó,
những người yếu thế thì nhận lấy thất bại đau xót. Trong kịch của Nguyễn Đình
Thi, xung đột loại này được nhận thấy trong vở Rừng trúc nhằm bộc lộ tư
tưởng nhân đạo của tác giả đối với số phận con người, vở kịch không tập trung
miêu tả trình tự của sự phát triển mâu thuẫn mà qua lời trò chuyện của Trần
Thủ Độ và Trần Thị Dung ở đầu vở kịch, tác giả ngầm cho người đọc và người
xem biết được xung đột tất yếu sẽ xảy ra. Đó là xung đột giữa hai thế lực
không cân xứng thể hiện sức mạnh ghê gớm của quyền lực. Một bên là Trần
Thủ Độ với đầy đủ uy thế và sự hậu thuẫn của vương triều nhà Trần, một bên là
hoàng hậu Chiêu Thánh mảnh mai yếu đuôi và một hoài vương Trần Liễu tài
lực mỏng manh. Sự xung đột không cân xứng ấy tất yếu sẽ kết thúc nhanh
chóng nhưng dư âm và hậu quả mà nó để lại thật là xót xa, đau đớn. Chiêu
Thánh phản kháng rất yếu ớt, nàng không đấu tranh và cũng không thể đấu
tranh để bảo vệ địa vị của mình nhưng bên trong tâm hồn nàng là cả một cơn
sóng gió, một sự xung đột mãnh liệt, dằn xé trong nội tâm. Có lẽ xung đột nổi
bật nhất và đặc sắc nhất trong vở kịch mà Nguyễn Đình Thi dồn hết tâm bút
của mình để xây dựng là lúc Chiêu Thánh đau đớn, vật vã khi biết được số
phận của mình đã bị bàn tay của quyền lực định đoạt. Đây là lúc Chiêu Thánh
đáng thương nhất, nàng khóc rồi cười, đau đớn, run rẩy, ngây dại... Bao nhiêu
uất ức, tủi hờn dâng cao trong lòng nàng. Nàng cảm thấy cô độc và xa lạ với
những người thân yêu, ruột thịt, gần gũi nhất với nàng. Nguyễn Đình Thi đã
xây dựng xung đột giữa hai mẹ con Chiêu Thánh thật gay cấn, hấp dẫn qua
từng lời nói khuôn sáo, xa cách của Chiêu Thánh đối với mẹ. Những lời nói đó
mang tính chất mỉa mai sắc bén như lưỡi dao cứa vào trái tim Thiên Cực.
Người đọc cảm nhận được sự tức giận của Chiêu Thánh và nỗi đau của Thiên
Cực trong cuộc gặp gỡ này:
"CHIÊU THÁNH - Phải, ông Thống quốc Thái sư chồng bà, lần này nữa,
cũng như mười một năm về trước, đã thẳng tay xếp đặt mọi việc. Lần này, ông
ấy có nhẹ tay hơn, không đến nỗi sai người đến bảo: "nhổ cỏ phải nhổ cả rễ".
Mà... Kia kìa ngọn cỏ giọt sương đông... Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi... ta
sẽ mở mắt nhìn mọi sự xem ra sao. Lệnh bà nghĩ sao, hay là lệnh bà sắp cho
mang đến đây một dải lụa giống như dải lụa bạch gởi đến cho cha ta năm xưa?
THIÊN Cực - Sao con lại nói những lời điên dại! Trời ơi, con tôi.
CHIÊU THÁNH - Bà lầm rồi. Con gái bà là Lý Chiêu Hoàng kia mà. Con
bé ấy mất đi đã lâu rồi, còn đâu. Còn ta, mẹ ta đi đâu không biết, cũng lâu rồi.
Ta đâu còn mẹ." (30, 301-302)
Xung đột xảy ra vào thời điểm đau khổ và thất vọng cùng cực của Chiêu
Thánh và kết quả là giữa hai mẹ con họ có mâu thuẫn lớn không thể dung hòa
được. Qua cách xây dựng và dẫn dắt xung đột của tác giả, người đọc càng hiểu
rõ hơn tính cách và nỗi lòng của Chiêu Thánh, hiểu được âm mưu và sự quyết
tâm của những kẻ nắm giữ quyền lực, hiểu được nỗi uất hận rất lớn trong lòng
của Chiêu Thánh, từ đó có sự cảm thông và xót thương cho hoàn cảnh của nàng
hơn.
Nguyễn Đình Thi đã tận dụng được thế mạnh của mình và nâng cao hiệu
quả vở kịch khi khai thác sâu vào nội tâm Chiêu Thánh, ngòi bút của ông lách
sâu vào mọi ngóc ngách trong tâm hồn nàng để nhân vật có cơ hội thổ lộ tâm tư
của mình. Xung đột trong vở kịch dường như chìm rất sâu, ông không làm lộ
ngay tư tưởng của vở kịch mà gợi cho khán giả nhiều suy nghĩ và lòng thương
cảm. Cùng với Chiêu Thánh, Trần Liễu cũng là nhân vật chịu nhiều bất công và
thiệt thòi. Việc làm của Trần Thủ Độ ngoài việc trái với luân thường đạo lý còn
rất xem nhẹ vai trò của một vị hoàng thân quốc thích như ông, cho nên việc
ông câu kết binh mã nổi loạn phần nào cũng được tác giả nhìn nhận với sự cảm
thông. Hơn Chiêu Thánh ở chỗ Trần Liễu vừa mất vợ đã lập tức phản kháng
chống lại triều đình nhưng số gia binh ít ỏi của ông đã mau chóng bị quân triều
đình đánh bại. Ông đã không ngần ngại sự chênh lệch về thế lực vội vàng
chứng tỏ sự bất bình của mình. Mối căm hận của Trần Liễu rất lớn, dễ dàng
bộc phát thành xung đột. Ong săn sàng từ bỏ mọi vinh hoa phú quý chôn cung
đình để giành lấy lẽ phải cho mình. Trong một thời gian dài ông bị Trần Thủ
Độ cho người truy đuổi gắt gao, phải trốn tránh khắp nơi, càng trốn nỗi căm
phẫn trong ông càng lớn, càng nuôi ý chí trả thù. Nhưng tiếc thay trời khôns
chiều lòng người, ý chí của ồng thì lớn mạnh song tài lực lại quá mỏng manh
nên không thể thực hiện được nguyện vọng của mình. Trong hoàn cảnh bị dồn
vào thế cùng, ông cố vùng vẫy tìm cách giải thoát nhưng càng vùng vẫy, càng
bị sợi dây của quyền lực thít chặt hơn. Đọc hết vở kịch, người ta nhận thấy có
sự xung đột rất lớn và gay gắt diễn ra giữa Trần Liễu và triều đình, mà đại diện
là Trần Thủ Độ nhưng do yếu thế nên Trần Liễu phải trốn tránh và liên tục gặp
thất bại. Tuy vậy, ông cũng là nhân vật rất quan trọng, góp phần đẩy xung đột
kịch lên cao, giúp cho tác phẩm thêm hấp dẫn và đầy kịch tính. Có lẽ điều quan
trọng nhất mà Nguyễn Đình Thi đã ưu ái dành cho Trần Liễu là việc ông đã
chứng tỏ được vai trò của người đàn ông khi phản kháng lập tức và mạnh mẽ
trước sự việc xâu xa và bất công khó có thể nào chấp nhận được của Trần Thủ
Độ và triều đình đối với bản thân ông và gia đình.
Như vậy, cả Trần Liễu và Chiêu Thánh đều là những nạn nhân đáng
thương của quyền lực. Họ đã bị tước mất quyền sống hạnh phúc một cách oan
ức mà không ai dám đứng ra bênh vực dù họ đáng được bênh vực. Sau xung
đột này, Nguyễn Đình Thi đã để cho họ rời khỏi hoàng cung mang theo cả nỗi
đau khổ và uất hận của mình. Lịch sử đã công bình ghi lại sự việc bất công của
họ và Nguyễn Đình Thi đã tô đậm thêm nỗi đau của họ bằng chính cảm xúc
chân thành của trái tim mình. Suy cho cùng, xung đột trên xảy ra cũng do nhiều
mâu thuẫn manh nha từ trước như mâu thuẫn giữa hai dòng họ Lý-Trần, mâu
thuẫn giữa sự mong mỏi có thái tử nôi dõi và sự chậm con của hoàng hậu
Chiêu Thánh... Với quyền lực trong tay, Trần Thủ Độ đã dễ dàng xoay chuyển
sự việc theo ý mình nhưng hậu quả của việc làm đó đã hằn sâu dấu vết đau
thương lên tâm hồn nhạy cảm của Chiêu Thánh và làm rạn nứt đi tình cảm tốt
đẹp giữa hai anh em nhà vua. Và đặc biệt, sự xung đột có một không hai trong
lịch sử này đã để lại những điều tiếng dị nghị không thể xóa nhòa cho Trần Thủ
Độ đến muôn đời sau.
Đối với các vở kịch lớn và có giá trị thì những xung đột tư tưởng, xã hội,
chính trị thường nhằm vào lĩnh vực đạo đức, phê phán những việc làm trái với
nhân luân và đạo lý nên một tác phẩm kịch muốn đi vào lòng quần chúng,
muôn tồn tại được lâu phải đứng trên lập trường của đạo đức, ca ngợi những gì
hợp với lý tưởng của nhân dân. Nguyễn Đình Thi qua xung đột của vở kịch đã
đứng về phía kẻ cô thế, ông đã bênh vực cho lẽ phải bằng cái tâm và tấm lòng
nhân đạo của mình, không có gì lớn hơn nỗi đau của con người trong cảnh bất
công, ngang trái mà phải cam lòng chấp nhận. Xung đột trong vở kịch tuy thâm
trầm nhưng rất dữ dội bộc lộ được tính cách của từng nhân vật và tư tưởng, tình
cảm của tác giả gửi gấm vào trongtác phẩm. Những thành công mà vở Rừng
trúc có được sau khi sáng tác và công diễn đã phần nhiều chứng tỏ cái tài dẫn
dắt xung đột kịch của Nguyễn Đình Thi. Với loại xung đột giữa hai thế lực
không cân xứng này nếu không thật sự có tài thì dễ đưa vở kịch bế tắc nhưng
Nguyễn Đình Thi đã khéo léo dồn bút lực của mình vào nỗi đau xót trong nội
tâm của nhân vật để qua đó chứng tỏ cho người đọc, người xem thấy sự xung
đột vẫn còn âm ỉ không nguôi. Xung đột xảy ra đã thật sự đọng Lại những cảm
xúc rất sâu lắng trong lòng người đọc và người xem bằng chứng là khán giả đã
lặng người khi xem Lê Khanh trong vai Chiêu Thánh diễn trên sân khấu. Đó
không còn là xung đột nhỏ mang tính chất gia đình mà là một xung đột mang
tính xã hội lớn. Xung đột đã kéo theo nhiêu điêu thay đôi sau đó mà Trần Thủ
Độ cũng không lường hết được, nhất là việc Trần Thái Tông bỏ lên Yên Tử
tham thiền mà nhiều lời đồn đại cho rằng do vua quá bất mãn trước những việc
làm quá độc đoán của Trần Thủ Độ trong chốn cung đình.
2.2.2 Xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh, giữa người anh
hùng yêu nước và bè lũ cướp nước.
Tuy tách xung đột ra thành hai khía cạnh khác nhau nhưng thực chất
chúng có liên quan chặt chẽ với nhau trong vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Bởi
vì xung đột giữa tính cách là tính cách cao đẹp của người anh hùng dân tộc có
tấm lòng yêu nước và hoàn cảnh là bị bọn cướp nước và bán nước giam lỏng,
kiềm hãm tại thành Đông Quan. Như vậy, tính cách và hoài bão của Nguyễn
Trãi thì tốt đẹp nhưng hoàn cảnh thì trói buộc. Từ xưa đến nay, bao giờ cũng
vậy, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và bọn giặc ngoại xâm lúc nào cũng là
mâu thuẫn lớn nhất và tất yếu sẽ xảy ra xung đột. Trong vở kịch này, mâu
thuẫn tuy âm ỉ, thâm trầm nhưng diễn ra rất dữ dội và dai dẳng, có cơ hội thì sẽ
bùng nổ thành xung đột. Nguyễn Đình Thi đã xây dựng hai hình ảnh tương
phản giữa Nguyễn Trãi yêu nước thương dân, sông thanh đạm, nhân hậu và
bọn giặc độc ác dã man, sông trong nhung lụa, được mọi sự hầu hạ, cung
phụng. Từ đó, ông dành cho người đọc có một tấm lòng kính trọng và ngưỡng
mộ đối với Nguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc.
Xét tình cảnh của Nguyễn Trãi lúc ấy thật khó khăn. về sức mạnh quân
sự, ông không thể đương đầu với bọn chúng vì ông đang bị chúng cô lập, cách
tốt nhất là phải dùng mưu và kín đáo che giấu những dự định cứu nước của
mình. về tài chính, Nguyễn Trãi thường xuyên sống trong cảnh đạm bạc, thiếu
thốn, rau cháo qua ngày. về tinh thần thì ông bị giam lỏng, giám sát, ít được
liên hệ với những người xung quanh. Sông trong cảnh bức bôi ấy, Nguyễn Trãi
càng thêm căm phẫn kẻ thù và mong muốn có cơ hội thoát khỏi hoàn cảnh hiện
tại. Bởi thế nên trong vở kịch, mâu thuẫn lúc nào cũng căng thẳng, hai đối thủ
không lúc nào lơi lỏng nhau, chờ đến khi đạt được mục đích. Đọc toàn bộ tác
phẩm ta nhận thấy có ba xung đột lớn. Xung đột lần một: Nguyễn Trãi đối mặt
với những tên giặc Minh đứng đầu bộ máy cai trị hà khắc ở nước ta thời bấy
giờ khi vừa về đến Đông Quan. Đứng trước chúng, bằng một phong thái đường
hoàng, bình tĩnh, không chút nao núng, run sợ, Nguyễn Trãi từ tốn trả lời
những câu hỏi xấc láo của chúng. Xung đột thật căng thẳng khi bọn chúng định
chém đầu Nguyễn Trãi để rồi sau đó xung đột bất chợt chùng xuống khi chúng
nhận thấy được giá trị của Nguyễn Trãi, của một người có nhân cách và tài giỏi
hơn người:
"TRƯƠNG PHỤ - Sao mày đã theo cha sang Trung Quốc lại trở về?
NGUYỄN TRÃI - Tôi là con trai lớn, cha tôi cho tôi về trông nom phần mộ tổ
tiên.
TRƯƠNG PHỤ - Sao mày về đến nhà, không ra trình diện với quan địa
phương?
NGUYÊN TRÃI - Đường xa, tôi về đến quê nhà giữa đêm cuối năm,
chức sắc ở xã đã biết. Ngay hôm sau, mồng một tết, huyện quan đã về xã bắt
tôi.
TRƯƠNG PHỤ - Ta biết trong lòng mày không chịu quy phục Thiên
triều. Ta muốn chém đầu mày!
NGUYỄN TRÃI - Thưa vâng, đó là quyền trong tay ngài. TRƯƠNG
PHỤ - Mày không sợ chết sao?
NGUYỄN TRÃI - Thưa ngài, có cái chết đáng sợ, có cái chết không đáng
SỢ. Cái chết này không đáng sợ.
Hoàng Phúc ghé đến, nói khẽ với Trương Phụ. Tất cả nín lặng.
TRƯƠNG PHỤ - Mày không phải như những tên Kỳ, tên Đại. Nhưng
mày chớ kiêu ngạo. Mày có được chút hiểu biết về lễ nghĩa liêm sỉ cũng là nhờ
sự giáo hóa của kinh truyện Thánh hiền Trung Quốc. Ta muốn chém đầu mày,
nhưng vâng theo chiếu chỉ khoan hồng của Hoàng đế, xét mày còn trẻ, còn có
thể uốn nắn, ta cho mày tạm sống để mày nhìn thấy sự nghiệp của Thánh triều
ta!" (30, 425-426)
Chúng muốn dùng Nguyễn Trãi để thu phục lòng dân, phục vụ cho mưu
đồ cai trị trên đất nước ta. Bằng những lời lẽ nhân đạo và ngọt nhạt một cách
giả dối, bọn chúng tha chết cho Nguyễn Trãi, bước đầu thực hiện âm mưu của
mình. Xung đột kết thúc trong sự bình lặng chính là nhờ ở phong cách bình
thản, hiên ngang mang một vẻ đẹp cứng cỏi của Nguyễn Trãi. Nhưng đây cũng
chỉ là sự bình lặng tạm thời... ơ lân đôi mặt này, được tận mắt chứng kiến
những hành động độc ác, xấu xa và cảnh sông sung sướng, hoang phí của bọn
chúng trên mồ hôi nước mắt của nhân dân ta, Nguyễn Trãi vô cùng căm phẫn
nhưng ông gắng dằn lòng nhẫn nhịn vì những hoài bão cao đẹp mà ông theo
đuổi. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt hơn khi Nguyễn Trãi nhìn rõ bộ mặt và dã
tâm của kẻ thù. Ong âm thầm chuẩn bị cho mình một cách đối phó phù hợp,
vừa mềm mỏng, vừa kiên quyết chờ cơ hội để giải thoát và thể hiện được bản
lĩnh của mình.
Dù tha chết cho Nguyễn Trãi nhưng bọn chúng cũng hiểu ông chính là
mối họa lớn khi ngày nào ông chưa chịu quy phục. Đã có lần chúng nói với
Nguyên Trãi: "Ong Trãi ạ, con kỳ lân dù ân trong bụi có, mà sừng nó vân sáng"
(30, 441). Chính vì vậy, chúng ra sức dụ dỗ Nguyễn Trãi, mang quà cáp đến
tận nhà biếu ông. Không màng danh lợi dẫu sống trong nghèo khó, Nguyễn
Trãi đã khẳng khái từ chối và xung đột đã xảy ra. Xung đột lần thứ hai này giữa
Nguyễn Trãi và tên tay sai của Hoàng Phúc (Lão Mã) nhưng cũng chính là
Nguyễn Trãi đã tỏ rõ thái độ bất hợp tác của mình với tất cả bọn chúng. Hình
tượng Nguyễn Trãi càng tỏa sáng hơn trong lòng của độc giả qua cách xây
dựng và dẫn dắt xung đột của tác giả. Xung đột thể hiện được hành động anh
hùng của Nguyễn Trãi trong hoàn cảnh hiện tại, khi mà tính mạng của ông
đang bị bọn chúng đe dọa và có thể chết bất cứ lúc nào. Bất chấp mọi nguy
hiểm Nguyễn Trãi nhất định không nhận bất cứ ơn huệ của bọn chúng, từng lời
nói của ông thật dứt khoát và kiên định:
NGUYỄN TRÃI - Chữ tôi có ra gì, mà thật tôi cũng chưa dám cho chữ ai
bao giờ. Ông Mã, phiền ông làm ơn cho tôi gửi lại Hoàng đại nhân chỗ trà Vũ
Di này. Tôi không dám nhận.
LÃO MÃ - Việc gì mà ông câu nệ quá thế, phụ lòng cụ Hoàng trọng kẻ sĩ.
Mà ức Trai tiên sinh ạ, tôi nói thật, ông cũng nên chú ý, đừng có chọc tức cụ
Hoàng Phúc về những chuyện vặt này, nó chẳng đáng gì!
NGUYỄN TRÃI - Ông nói làm tôi thêm sượng sùng. Tôi nay chỉ mang
chút sông thừa nguội lạnh cũng không xong. Ong trình lại dúm với Hoàng
thượng thư. Tôi không dám nhận. (30, 443)
Lần xung đột này tuy kết thúc nhanh và khá êm thắm nhưng có một ý
nghĩa rất quan trọng. Bởi vì sau đó bọn giặc hiểu rõ hơn tính cách và ý chí của
Nguyễn Trãi, từ đó đối xử khắt khe hơn với ông. Chúng cho người theo dõi
Nguyễn Trãi suốt ngày đêm, cuộc sống của ông rất khó khăn và thiêu thôn
nhưng vượt lên trên tất cả những nhu cầu hàng ngày của bản thân, Nguyễn Trãi
luồn trăn trở tìm ra con đường để cứu nước. Theo thời gian, mâu thuẫn giữa
Nguyễn Trãi và bọn chúng ngày càng lớn dần. Ông càng thêm căm phẫn bọn
chúng khi nhìn thấy đất nước lâm vào cảnh tiêu điều và những tội ác chúng đã
gây ra cho dân lành, còn chúng thì không thể chờ đợi Nguyễn Trãi lâu hơn nữa,
không mua chuộc được Nguyễn Trãi, đã đến lúc chúng đành phải nhổ đi cái gai
trước mắt. Đến lần xung đột thứ ba này đích thân Hoàng Phúc, tên thượng thư
nhà Minh giáp mặt với Nguyễn Trãi để thuyết phục ông lần cuối cùng.
Nguyễn Đình Thi xây dựng xung đột trong bối cảnh như sự gặp gỡ tình
cờ giữa hai người trong khuôn viên một ngôi chùa. Lời thoại giữa Nguyễn Trãi
và Hoàng Phúc tuy vẫn mềm mỏng và khách sáo nhưng trong từng lời ẩn chứa
sự bất đồng gay gắt. Nguyễn Đình Thi đã đẩy xung đột lên cao trong những lời
cuối cùng Hoàng Phúc nói với Nguyễn Trãi:
"HOÀNG PHÚC - Xin mời ông cạn với tôi một chén. Ông với tôi, chúng
ta đo được nhau cả. Lẽ ra, tôi cho bắt ông ngay ở đây mới phải. Ông thấy thế
nào? Đúng vậy đấy, lẽ ra tôi phải cho bắt ông ngay lúc này. Nhưng mà tôi tiếc
cho ông. Chặt một cái cây, chỉ cần một nhát dao, kẻ nào làm lúc nào cũng
được! Vì mấy câu thơ ông viết về Lý Bạch hay đến như thế, cho nên tôi vẫn để
ngỏ cho ông một con đường. Nếu rồi đây, cho đến cuối cùng, ông vẫn không
chịu chúng tôi, thì tôi cũng sẵn lòng để cho ông tìm lấy một quãng lòng sông
nào mà ngủ say dưới ấy.
NGUYÊN TRÃI - Thưa đại nhân, nếu chỉ cần biết ngủ say mà được
giông với ông Lý Bạch, thì thật là may cho những kẻ sống thừa như tôi!
HOÀNG PHÚC - (cười) Tôi vẫn cố đợi ông đấy. Mong ông sẽ không để
tôi phải đợi lâu quá." (30, 482)
Những lời thoại của Nguyễn Trãi và Hoàng Phúc trong vở kịch đã thể
hiện được cái tài của Nguyễn Đình Thi trong việc xây dựng xung đột. Từ
những lời đường mật dụ dỗ Nguyễn Trãi không được, tên giặc Minh
chuyển sang hăm dọa. cả một đoạn thoại dài, tuy Hoàng Phúc không dùng
những lời lẽ gay gắt, xấc láo nhưng đó là những lời an chứa nhiều ngụ ý, ngầm
báo cho Nguyễn Trãi biết tính mạng ông đang bị đe dọa nếu như ông vẫn
không thay đổi thái độ. Hai kẻ thù gặp nhau lại ngồi uống trà, trò chuyện nhưng
bên trong là những cơn sóng gió rất dữ dội, chỉ đợi dịp là bùng lên. Xây dựng
xung đột kiểu ấy thật không dễ, nhất là trong từng lời thoại tác giả phải nghiền
ngẫm cho thật kỹ để những lời thoại ấy chở được sức nặng của trí tuệ, của sự
mâu thuẫn, bất đồng và giằng co lẫn nhau. Đằng sau những lời nói có vẻ ân
cần, ngọt ngào của Hoàng Phúc là một động cơ chính trị thật rõ ràng. Một thời
gian dài đủ để hai người đo được lòng dạ và tâm ý của nhau để có một sự thay
đổi nào đó. Hiểu được điều này nguy hiểm có thể xảy đến nên sau lần xung đột
thứ ba này với bọn chúng, Nguyễn Trãi đã tìm ra cách thoát ly và đây cũng
chính là quyết định sáng suốt của Nguyễn Trãi trên con đường cứu dân cứu
nước của mình.
2.2.3 Xung đột giữa thiện và ác - Giữa tình yêu nhân tính và dục
vọng thú tính
Xung đột trong kịch có nhiều phạm vi và cấp độ nhưng tập trung nhất vẫn
là xung đột giữa những tính cách đại diện cho những lực lượng khác nhau trong
cuộc sống. Đọc Con nai đen của Nguyễn Đình Thi ta thấy rất rõ sự xung đột
xảy ra ở hai loại người mang bản chất hoàn toàn trái ngược nhau, một bên thiện
và một bên ác, một bên chính và một bên tà. Nguyên nhân xảy ra xung đột
cũng là nguyên nhân rất thường tình ở thế gian: sự ham mê quyền lực và sắc
đẹp. Từ lòng ham muốn đó, cộng với bản tính gian ác sấn có, lão quận công
trong vở kịch đã thực hiện một loạt hành động mất hết nhân tính với sự trợ giúp
của phép luật phù thủy mà hắn có được. Xung đột kịch được đẩy cao hơn với
nhiều hành động kịch trở nên phức tạp, diễn biến theo nhịp thăng tiến để cuối
cùng dẫn đến cái kết cục kì diệu là sự tái hiện của nhà vua trong hình hài đích
thực của mình. Đó không chỉ là mong ước của người đọc và người xem mà còn
là cái kết cục tất yếu của "những truyện cổ tích cho sân khấu" (Từ dùng của
Carlo Gozzi).
Về cốt truyện cơ bản (bản sửa năm 1983), nếu so với kịch bản "mẫu gốc"
là Vua nai của tác giả người Ý Carlo Gozzi thì Nguyễn Đình Thi đã vay mượn
gần như nguyên vẹn của Gozzi. Cũng với hình tam giác nhân vật chính: ông
vua đôn hậu cả tin, người vợ xinh đẹp, chung thủy và tên gian thần dâm ô, độc
ác, thêm hai nhân vật phụ nữa nhưng cũng không kém phần quan trọng là ông
lão hát rong và con nai đen, Nguyễn Đình Thi đã tạo nên một cốt truyện hấp
dẫn với nhiều tình tiết xung đột, gay cấn lôi cuốn người xem. Xung đột giữa
thiện và ác, giữa ngay và gian thường trong giai đoạn căng thẳng của cuộc
xung đột, bên ác bao giờ cũng thắng thế để người đọc hồi hộp, lo sợ cho số
phận của nhân vật mà mình yêu mến rồi sau đó lẽ phải bao giờ cũng chiến
thắng. Trong vở kịch, xung đột bắt đầu khi tên quận công đã đạt được điều mà
mình mong muốn, lợi dụng lòng nhân hậu của nhà vua, hắn đã dùng ma thuật
hãm hại vua và thực hiện những ý đồ đen tối của mình. Xung đột càng lúc càng
gay cấn khi kẻ xấu lại nắm giữ trong tay quyền lực tối cao, một lệnh ban ra là
có muôn binh vạn mã thi hành, còn người tốt bị hắn hãm hại thì lại vô cùng
khốn khổ vì bị truy đuổi, chém giết. Thật xót xa cho nhà vua nhân từ trong hình
hài con vật không thể nào giải bày được nỗi oan tình và uất hận của mình nến
cứ chạy quanh quẩn nơi vua bị hại và hoàng hậu Quế Nga. Càng chạy quanh
quẩn ở nơi đó thì nai đen lại càng bị nguy hiểm, nước mắt nó chảy dài khi nhìn
thấy hoàng hậu, người vợ thương yêu của mình. Trong hoàn cảnh đó, nai đen
càng căm thù lão quận công, ánh mắt của nó nhìn lão rực lửa, có lúc nó chồm
tới hức vào lão bất chấp nguy hiểm. Nguyễn Đình Thi đã tạo nên một tình
huống xung đột vô cùng hấp dẫn khi để cho người đọc hồi hộp theo dõi tính
mạng của nhà vua dưới làn tên mũi đạn truy đuổi của tên quận công gian ác.
Nai đen bé nhỏ tội nghiệp tưởng như không thể nào sống nổi khi thân thể rướm
máu và ướt đẫm mồ hôi quanh quẩn trốn chạy, càng chạy càng bị truy tìm, đuổi
giết. Tên quận công muốn giết kỳ được nhà vua để ung dung sống cạnh hoàng
hậu và chiếm đoạt ngai vàng...
Xung đột không chỉ xảy ra giữa lão quận công và nhà vua mà còn giữa
lão quận công và hoàng hậu. Với bản tính hiền dịu và nhạy cảm, hoàng hậu
Quế Nga mau chóng nhận ra sự thay đổi kỳ lạ nơi nhà vua giả này, vừa độc ác,
vừa cộc cằn, dữ tợn. Bất chấp mọi lời khuyên can của nàng, hắn ra lệnh nhốt
nàng vào cấm thành, không cho tiếp xúc với bất kỳ ai và bên cạnh đó vẫn
không ngừng ra lệnh đuổi giết bằng được nai đen:
"HOÀNG HẬU - Hãy để cho tôi được yên. Xin nhà vua đừng bắt lương;
dân đi lùng săn con nai đen nữa. Khổ cho bao nhiêu người.
XÁC VUA (nổi giận) - Im đi, im ngay! Không được nói đến con nai đen
nữa!
HOÀNG HẬU - Không, em không im! Em yêu anh thì sao em lại im
được! Trời hỡi, con người kia bây giờ là ai vậy?
NGƯỜI CƯNG Nữ GIÀ (từ cổng thành chạy lại) - Hoàng hậu! Hoàng
hậu! Người làm sao vậy? Người hãy tỉnh lại!
XÁC VUA - Hoàng hậu đang mê hoảng đó, ta lo hoàng hậu hóa điên mất
rồi. Tội nghiệp cho vợ yêu của ta. Nếu cứ để hoàng hậu đi lại, e bệnh sẽ ngày
càng nặng. Từ nay ta sẽ cho hoàng hậu vào buồng cấm, không được đi đâu,
không được gặp ai, cung nữ đã nghe chưa? Ta sẽ cho quân cấm vệ đến canh
gác nghiêm mật." (30, 68-69)
Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi thật sắc bén khi đưa người đọc vào trạng
thái hồi hộp, căng thẳng trong hầu hết vở kịch, lúc nào người đọc cũng thấy lo
âu cho số phận của nhân vật chính diện mà mình yêu mến và họ càng nôn nóng
hơn khi vào giai đoạn cuối của sự phát triển xung đột, tức gần kết thúc vở kịch,
lão quận công gian ác vẫn còn ung dung trên ngai vàng. Vở kịch thật sự hấp
dẫn cho đến những trang cuối cùng, xung đột lên đến cao trào và kết thúc trong
cuộc gặp gỡ quyết định giữa hai bên chính và tà. Vua trong xác lão hát rong và
hoàng hậu bằng mưu trí và sự dũng cảm của mình đã vạch rõ chân tướng sự
thật, bắt lão quận công phải trả giá cho tội ác bằng chính sinh mạng mình. vở
kịch thật hay và hấp dẫn phần lớn cũng do tác giả đã thành công trong việc tổ
chức xung đột kịch, dẫu xung đột có gay cấn và diễn tiến lắt léo thế nào đi nữa
thì cuối cùng chính nghĩa cũng chiến thắng. Điều công bằng đó rất phù hợp với
lý tưởng thẩm mỹ của nhân dân từ xưa đến nay.
Nói thêm về vở Con nai đen được Nguyễn Đình Thi sáng tác năm 1961
thì xung đột kịch mở rộng hơn với sự tranh cãi quyết liệt giữa hai thế lực gian
thần và trung thần trong triều về nạn ngoại xâm và tình hình chiến sự của đất
nước nên vở kịch chứa nhiều tình tiết phức tạp hơn, nhiều nhân vật phụ hơn và
cũng chính vì vậy mà xung đột kịch dường như không được tập trung, phần
nào bị loãng đi. Vì nhiều lý do, trong một thời gian dài kịch bản này không còn
được xuất bản và công diễn nữa nhưng không có nghĩa là đứa con tinh thần đầu
tiên của tác giả hoàn toàn bị lãng quên. Cho đến tận bây giờ, vở kịch ấy vẫn
được một số độc giả nhắc đến với tấm lòng trân trọng tài năng và tâm huyết
của tác giả ở buổi đầu bước vào nghề viết kịch. Nhưng để tìm hiểu tác phẩm và
tư tưởng chủ đề của vở kịch thiết nghĩ nên chọn tác phẩm mà tác giả đã hoàn
toàn hài lòng, đó là Con nai đen của năm 1983 mà tác giả đã bỏ thời gian và
công sức để sửa chữa lại.
2.2.4 Xung đột hiểu lầm - một bi kịch gia đình
Xung đột hiểu lầm bản chất là không thật bởi vì nó là "hiểu lẫm". Lịch sử
sân khấu thế giới từng biết đến những vở kịch nổi tiếng mà xung đột xuất phát
từ chỗ hiểu lầm. Quan thanh tra của Gô-gôn là chuyện hiểu lầm tên vô lại Khơ-
léc-xta-cốp thành ra một ông "tai to mặt lớn". Cuộc khiêu vũ trá hình của Lec-
man-tốp là chuyện hiểu lẫm về chiếc vòng đánh rơi trong một đêm nhảy múa,
người chồng đã bỏ thuốc độc giết chết người Vợ tội nghiệp của mình. Trong
các vở kịch của Nguyễn Đình Thi, vở Chiếc bóng trên tường là thuộc loại xung
đột hiểu lầm. Xung đột này bao giờ cũng gây nên nhiều thương cảm cho sự oan
ức của nhân vật mà người đọc yêu mến.
Thường xung đột hiểu lầm xảy ra bắt nguồn từ một nhân tố hay nguyên
nhân nào đó tác động vào nhân vật làm cho họ tin là những suy nghĩ của họ
đúng. Trong vở kịch trên của Nguyễn Đình Thi, nhân tố tác động vào người
chồng để anh ta nghi ngờ lòng chung thủy của vợ là đứa con bé bỏng của vợ
chồng họ. Lời nói của đứa bé cũng là sự thật theo đúng với những gì nó thấy và
người lớn đã bảo với nó. Người chồng vốn tính đa nghi nổi giận cũng là có căn
cứ vì tin đứa bé sẽ không bao giờ biết nói dối. Người vợ hết lời thanh minh
cũng là đúng vì chị hoàn toàn trong sáng, vô tội. Cuối cùng chỉ có khán giả là
người hiểu hết những điều ấy còn nhân vật trong cuộc thì để bùng nổ xung đột
vô cùng đáng tiếc mà không có cách gì cứu vãn nổi, vở kịch hấp dẫn cũng
chính là vì vậy.
Không như câu chuyện cổ, tác giả dẫn dắt diễn tiến kịch để đi đến xung
đột một cách tài tình hơn. Ông có chủ ý khi đi sâu vào cuộc sông đầm ấm, vui
vẻ, hạnh phúc của hai vợ chồng trước khi xung đột xảy ra để người đọc và
người xem càng thêm tiếc thương cho họ. Bao nhiêu ân tình mặn nồng của hai
vợ chồng chợt như tan biến khi người chồng nổi cơn ghen tuông. Tính tình đa
nghi, cộc cằn của anh ta có dịp được bộc lộ. Xung đột lên đến đỉnh điểm cũng
là lúc người chồng không tiếc lời thoa mạ, buộc vợ phải lập tức ra đi. Quá sức
chịu đựng và biết không thể nào lay chuyển được chồng, chị vợ chọn giải pháp
kết thúc cuộc đời mình. Chết là hết và xung đột cũng kết thúc nhưng dư âm của
câu chuyện đó thì thật là xót xa đau đớn. Tất cả cũng chỉ vì một chuyện hiểu
lầm, chuyện tuy nhỏ nhưng hậu quả thật khôn lường.
Với tư cách là một hình thức biểu hiện cao nhất của tính kịch, xung đột
kịch bao giờ cũng tập trung vào những bất đồng có tính chất gay gắt nhất. Vở
kịch ngắn, xung đột cũng ngắn nhưng thật căng thẳng và dữ dội. Chỉ với vài
câu thuật lại diễn biến xung đột trong tác phẩm truyện, Nguyễn Đình Thi đã
xây dựng thành một cuộc xung đột lớn với đầy đủ những hành động và lời nói
của nhân vật. Trong cuộc xung đột đó, nhân vật đã thể hiện được cá tính của
mình. Người vợ vốn bản tính hiền dịu, cứ một mực than khóc và thanh minh,
còn người chồng nóng nảy và cộc cằn thì điệu bộ hung tợn, dữ dằn... Và như
vậy, qua ngòi bút của Nguyễn Đình Thi, xung đột kịch thật sinh động và hấp
dẫn, tác giả đã làm rõ và tô đậm hơn lên so những gì câu chuyện xưa muốn nói.
Tóm lại, trong kịch của Nguyễn Đình Thi không phải vở nào cũng có tính
xung đột gay cấn và căng thẳng nhưng nếu có thì xung đột ấy thật sâu sắc và
mang nhiều ý nghĩa. Ớ mỗi xung đột được nhận thấy trong kịch của ông đều là
sự khái quát và điển hình hóa những mâu thuẫn trong xã hội một cách có nghệ
thuật. Có thể nói xung đột giữ vai trò trung tâm của nội dung kịch, có tác dụng
tạo ra sự vận động của các tính cách, đồng thời là cơ sở để người đọc, người
xem dựa vào đó để đánh giá tính chất của kịch.
2.3 NGÔN NGỮ KỊCH
Những nhà viết kịch lớn xưa nay đều rất coi trọng việc trau chuốt lời kịch.
Gorki từng nói rằng: "Khuyết điểm chung và đáng buồn của kịch bản chúng ta
trước hết là ở chỗ ngôn ngữ quá nghèo nàn, khô khan, không có cá tính và thiếu
nhựa sống. Mọi nhân vật đều ăn nói giống nhau, hành văn như nhau, đơn điệu,
dài dòng khác với ngôn ngữ sinh động trong cuộc sống hàng ngày" (12, 134).
Cái khó của ngôn ngữ kịch là làm sao cho người đọc cảm nhận đó là lời nói
thật chứ không phải văn viết, mà lời nói trong kịch cũng phải mang tính văn
học chứ không được là lời nói bình thường trong cuộc đời. Khảo sát kịch của
Nguyễn Đình Thi, người ta thấy được tất cả sự phong phú về ngôn ngữ. Chúng
tôi tạm phân chia ngôn ngữ kịch của ông ra làm hai loại, đó là ngôn ngữ đối
thoại và ngôn ngữ độc thoại để tiện trong việc phân tích, theo dõi và đánh giá.
2.3.1 Ngôn ngữ đối thoại
Khi diễn, người diễn viên phải liên tục dùng những lời nói, cử chỉ, hành
động để khán giả ngồi xem có thể hiểu được nội dung vở kịch. Trong một vở
kịch, không thể có quá nhiều đoạn độc thoại hay những khoảnh khắc lặng im vì
như vậy sẽ làm cho vở kịch bị loãng đi và khán giả sẽ mất sự hào hứng khi theo
dõi. Đọc những đoạn đối thoại trong kịch của Nguyễn Đình Thi, người ta nhận
thấy một vốn ngôn ngữ thật phong phú, nhiều màu sắc tạo nên một chất kịch
thật riêng biệt của ông.
2.3.1.1 Chất văn học thâm trầm, sâu lắng trong ngôn ngữ kịch
Nguyễn Đình Thi
Có thể nói chất văn học thâm trầm, sâu lắng trong kịch của Nguyễn Đình
Thi là điều đầu tiên mà độc giả khi đọc kịch của ông có thể nhận thấy ngay
được. vốn là một nhà văn được xem như cây đại thụ trong nền văn học Việt
Nam, chất văn học được thể hiện trong kịch của ông đến một cách tự nhiên, nó
tiềm ẩn trong từng lời thoại của nhân vật, thể hiện một cốt cách trí tuệ mà
không phải nhà viết kịch nào cũng có được. Tùy theo từng nhân vật mà tác giả
dành cho họ những lời thoại khác nhau. Đặc biệt những lời thoại mang tính văn
học không thể phát ra từ miệng của những nhân vật vào vai lỗ mãng, lưu manh
hay lơ đãng, hời hợt mà phải ở những nhân vật có sự thông tuệ, chất chứa
những nỗi niềm sâu kín. Ớ một đoạn trong vở Hoa và Ngần, chất văn học thấm
đẫm trong từng lời thoại của đôi tình nhân Hoa và Lâm đang trò chuyện cùng
nhau dưới rặng phi lao, bãi biển Quảng Bình:
LÂM - Kỳ lạ thật, Hoa ạ.
Im lặng. Hoa từ nãy giờ vẫn nghịch cát, bỗng vốc một nắm cát trắng đưa
cho Lâm.
HOA - Đây là thật, anh nhỉ?
LÂM – (Dịu dàng) Hoa... Cũng lạ, hôm đầu đến nhà em, anh tự nhiên có
cảm tưởng ngay là có cái gì trong đời anh khác hẳn. (Im lặng)
HOA - Anh nói nữa đi.
LÂM - Kể ra anh đi bây giờ cũng tiếc khu rừng phi lao này. Năm nay sẽ
trồng lên đến tận khu đồi cát trước mặt kia. Sang năm Hoa vào, thì cả khu rừng
này đã lấm tấm xanh cả. Trông cát trắng đẹp thế, nhưng mà dữ dội lắm. Mỗi
năm cát nó lấn vào, vùi thêm vài làng. Chắc em đã thấy bao nhiêu suối lạch đã
gần cạn dần, cát nó lấp cả. Không làm cật lực thì tất cả vùng này sẽ chết khô.
Nhưng bây giờ thì chắc sống được rồi. Mà anh nghe nói cát trắng này cũng là
của đấy, có cái gì mình còn đang tìm, mà chưa nói ra. Nhưng mà thôi, việc này
còn nhiều người làm, bây giờ anh phải đi cái đã. Công việc trong kia còn cần
hơn. Chỉ là một con đường mòn giữa dải Trường Sơn trùng điệp, nhưng nó sẽ
thành cái gì, chưa ai nghĩ trước hết được." (30, 123-124)
Ở vở Giấc mơ, đoạn anh chiến sĩ bị thương và Thần chết trò chuyện với
nhau:
THẦN CHẾT Ta là kẻ xét xử
Đợi ở cuối đường đi của mỗi con người Ta không hề bao giờ động lòng
Nhưng ít khi nào lầm lẫn
Con người được ta trả lại cho đất bụi
Và cũng ta làm nên ánh hào quang
Hóa con người thành phật thánh được phụng thờ.
(...)
NGƯỜI LÍNH
Ta đã nói với người
Đối với ta làm gì có thần với thánh!
THẦN CHẾT
Người chiến sĩ không tiếc đời sống mình Sao lại không phải là một vị
thánh! Ta muôn anh ra đi Giữa một vầng rạng rỡ... (30, 196).
Đây là một đoạn trong vở kịch thơ của Nguyễn Đình Thi được dư luận
đánh giá khá cao. Vở kịch hay không chỉ ở nội dung, ý nghĩa cao đẹp của câu
chuyện mà còn ở ngôn ngữ kịch được trau chuốt như những vần thơ từ đầu đến
cuối tác phẩm và tất nhiên là chất văn học càng được thể hiện rõ trong những
vần thơ như vậy. Trong từng câu chữ được cô đúc lại, ý nghĩa của lời nói như
được hiểu rộng hơn, vượt ra ngoài khuôn khổ của nó để tìm ra một chân lý
sống ở trên đời.
Để so sánh ta thấy ngôn ngữ kịch của Nguyễn Huy Tưởng cũng hàm chứa
chất văn học nhưng là một cách hành văn khác, có phần sắc sảo, cứng cỏi thể
hiện cái riêng rất đáng trân trọng của từng tác giả. Ví dụ, ta có thể kiểm chứng
điều ấy trong đoạn gặp gỡ giữa người nghệ sĩ tài hoa Vũ Như Tô và cô cung nữ
Đan Thiềm trong vở kịch lịch sử Vũ Như Tô, vở kịch đầu tiên mang đến vinh
quang cho tác giả Nguyễn Huy Tưởng:
" ĐAN THIỀM - Trời xui khiến tôi gặp ông ở chốn này. Thực là duyên kỳ
ngộ.
VŨ NHƯ TÔ - Tôi là một kẻ quế mùa, không biết những nhời mỉa mai
bóng gió.
ĐAN THIỀM - Đây là thực tình. Ông đừng nghi kỵ. Chính tôi đang muôn
gặp ông để nói chuyện.
Vũ NHƯ TÔ - Hỏi chuyện tôi! Để làm gì? Các người không thể nào hiểu
được chuyện tôi, các người nông nổi...
ĐAN THIỀM - Ông mới gặp tôi, lấy cớ gì mà bảo tôi nông nổi? VŨ
NHƯ TÔ - Người ăn chơi thì đều nông nổi. ĐAN THIÊM - Sao ông bảo tôi là
người ăn chơi.
VŨ NHƯ TÔ - Cung nữ đều là tuồng ăn chơi. Huống chi trông quầng mắt
thâm kia, tôi đoán chắc là người trong túy hương mộng cảnh.
ĐAN THIỀM - Ông nhầm lắm. Đôi mắt thâm quầng này là do những lúc
thức khi người ngủ, khóc khi người cười, thương khi người ghét.
VŨ NHƯ TÔ -ủa? Bà nói như một người đồng bệnh.
ĐAN THIỀM - Chính là một người đồng bệnh, nên chưa biết ông, tôi đã
ái ngại cho ông. Tài làm lụy ông, cũng như nhan sắc phụ người."(39, 67-68).
Cả Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Huy Tưởng đều có những tác phẩm nổi
tiếng làm nên tên tuổi của mình nhưng ở mỗi tác giả đều có cách hành văn
riêng, ngôn ngữ riêng, cả hai ông đều vận dụng tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc,
cộng với sự trải nghiệm của bản thân để hình thành nên từng vở kịch. Công sức
của họ, những nhà viết kịch không phải là nhỏ nêu không muôn nói là vồ cùng
to lớn.
2.3.1.2 Chất triết lý trong ngôn ngữ kịch Nguyễn Đình Thi
Triết lý là những quan niệm chung của con người về nhân sinh và xã hội.
Mỗi người đều có thể có những triết lý riêng về cuộc sống miễn sao người nghe
chấp nhận được. Kịch hay văn học nghệ thuật nói chung là tấm gương phản
ánh về cuộc đời, con người nên ở mỗi tác phẩm không thể không có những suy
tư, những quan niệm về lẽ sống ở đời, về cách cư xử giữa người và người.
Chính những lời mang chất triết lý đó góp phần nâng cao giá trị tác phẩm và
thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về hiện thực cuộc sống của mỗi tác giả. Nguyễn
Đình Thi cũng vậy, là một người nghệ sĩ tài hoa và từng trải, những lời triết lý
về con người và cuộc đời đến trong tác phẩm của ông một cách tự nhiên như
ông từng nhìn thấy và chiêm nghiệm được. Chất triết lý ấy hầu như có trong tất
cả các thể loại của ông. Trong thơ:
" Không sợ nguy hiểm Sợ không biết nhìn vào nguy hiếm
Không sợ thiếu niềm tin
Sợ không nhận ra lẽ phải để tin
Không sợ thiếu bạn nơi chiến trường Sợ không biết tự mình chiến đấu. " (
Không sợ và sợ) (32,575)
Những câu thơ ngắn gọn dạy người ta lẽ sống ở đời, những cái gì nên sợ
và không nên sợ. Từng câu, từng chữ thấm đẫm ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Trong tiểu luận, bút ký, một thể loại mà tác giả rất dễ bộc lộ những suy
nghĩ của mình, Nguyễn Đình Thi cũng có những câu triết lý về cuộc sống rất
có ý nghĩa và mang tính thuyết phục. Chẳng hạn như đoạn nói về tinh thần Việt
Nam trong bài Sức sống của nhân dân Việt Nam trong ca dao và cổ tích, bài
nói chuyện nhân ngày hội sinh viên năm 1944:
“Xem thế, tinh thần Việt Nam không ưa bi đát, không ưa đem cái bất lực
của con người trước số mệnh mà say sứa. Người dân lúc nào cũng trọng sự
sông hơn cái chết và không công nhận sô mệnh đau đớn mà tìm cách chống lại
định mệnh, chữa lại định mệnh, để làm dịu bớt những vết thương, để tăng lên
lòng tin tưởng, vui vẻ, ham sống.”(32, 30)
Riêng về kịch, ta có thể tìm được rất nhiều câu triết lý nằm rải rác trong
các vở kịch của ông. Khác với hai thể loại trên, những câu triết lý trong kịch
thường được phát ngôn từ các nhân vật và nó dễ đến với công chúng hơn nữa
với loại hình sân khấu. Kịch cũng là một thể loại mà tác giả dễ dàng bộc lộ
những suy nghĩ, những điều suy ngẫm sâu sắc nhất của mình về cuộc sống.
Đây là lời của phu nhân Đạo Đức triết lý về sắc đẹp và đạo đức:
"Dạ đức vua là bậc tài trời sáng suốt. Người có kén hoàng hậu thì trước
hết xin Người nhìn vào đạo đức. Còn sự già trẻ, xấu đẹp nào có nghĩa lý, quan
trọng gì. Ai trẻ rồi cũng đến lúc có tuổi, ai đẹp rồi cũng đến lúc phai nhạt sắc
đẹp (...) Tâu đức vua, cho nên cái gì cũng ngày một già đi, xâu đi, nhưng đạo
đức thì chỉ mỗi ngày một sáng mãi thêm, đẹp mãi thêm." (30, 30-31).
Đến lời của vua trần Thái Tông suy luận về số kiếp và lòng tham của con
người với hoàng hậu thuận Thiên trong vở Rừng trúc:
"Chính ta đang sợ điều ấy. Ta sợ đã quen nhiều cái vẽ vời bày đặt, mà xa
mất cái gốc thật của tự nhiên. Bữa nay đọc kinh Kim Cương, bỗng xấu hổ mà
buồn rượi trong lòng. Nghĩ thân mình, trên đầu đội ngọc vàng, chẳng qua là cái
gáo sọ dừa, chứ cái gì đâu. Gấm vóc lụa là bao bọc, chẳng qua che đậy cái túi
da lông lá đựng máu tanh, miệng lưỡi nói văn vẻ, mà trong ruột già nhồi những
bã hôi thối. Kiếp làm người nghĩ đáng sợ. Biết rằng đời như cái bóng mây qua,
nhưng lòng tham tiếc lắm, không có cách nào dứt bỏ được, tham từ quyền nắm
cả thiên hạ cho đến một miếng ăn ngon cũng không thể không thèm. Ây thế
đấy! "(30, 336-337).
Hay là lời của Nguyễn Trãi tâm sự cùng Cúc trong vở Nguyễn Trãi ở
Đông Quan. (Ở đoạn này xin mạn phép không bàn về dư luận phê bình một số
lời thoại trong vở kịch vào những năm 1980, bởi những ý kiến đó cũng chưa
phải là đã được phổ biến rộng rãi):
NGUYỄN TRÃI - ...Đồng bằng qua cơn lửa. Cây cỏ đều thơm lạ... thật ra
vẫn là cây cỏ ấy, chỉ có, nhận ra được không phải dễ. Có phải không cô? Nhìn
cho thấu một con người, không dễ chút nào, thời buổi này, người ta hay có
nhiều bộ mặt. Dùng con mắt nào mà nhìn bây giờ?
CÚC - Dạ vâng, lòng người có thước nào đo được. Cái quanh co của con
người thật ghê gớm. Mà lòng thương của con người, cũng không cùng... Tôi
nghĩ, có nhẽ con người ta còn có hai con mắt khác nữa, hai con mắt này mở ra
thì nhìn được vào lòng người.
NGUYÊN TRÃI - Nghe cô mà tôi thầm giật mình. Có khi càng lọc lõi,
khôn ngoan thì hai con mắt mình lại tối mờ đi... Hay là vì tôi đã phải chống
chọi quá nhiều! Có khi cứ ngây thơ, trong trẻo mà lại nhìn rõ.
CÚC - Cũng có khi người ta phải tự chống chọi với mình để mà sống...
"(30,450).
Ta có thể tìm thấy nhiều hơn những câu triết lý rất có giá trị như thế ở
trong kịch của Nguyễn Đình Thi mà phải có vốn sống, phải trải đời, hiểu người
ông mới có thể đúc kết nên. Có những câu triết lý tuy ngắn gọn nhưng là sản
phẩm của một đời va chạm với cuộc sống như câu nói của Lý Chiêu Hoàng
trong vở Rừng trúc: "Vâng, việc nước là lớn nhất, nhưng việc người với người
cũng không phải nhỏ hơn...". Đó là tư tưởng quan trọng của vở diễn và cũng là
phương châm sống, lao động sáng tạo nghệ thuật của nhà nghệ sĩ lớn Nguyễn
Đình Thi.
2.3.1.3 Chất dí dỏm, hài hước trong ngôn ngữ kịch Nguyễn Đình Thi
Có thể nói ngay rằng chất dí dỏm hài hước trong kịch của ông không
nhiều vì có những vở được ông sáng tác từ đề tài lịch sử hay những vở mang
tính chất bi thương thì khó xen vào những đoạn hay cảnh có tính chất hài hước.
Nhưng đọc toàn bộ kịch của ông ta thấy không phải là không có những trang
viết mang tính chất dí dỏm, hài hước, nó tạo nên chất duyên ngầm cùng những
tiếng cười vui tươi từ độc giả.
Trước tiên hãy đến với vở Tiếng sóng, ở cảnh thứ ba là một cảnh kịch
ngắn nói về nhân vật ông X vốn là một người dốt chữ nhưng lại hay hình thức
màu mè, chỉ mỗi một câu chào thưa ở đầu bài diễn văn mà phải chữa đi chữa
lại đến ba bốn lượt. Nào là thưa các đồng chí và các bạn thân mến, rồi kính
thưa đồng chí Thứ trưởng, kính thưa đồng chí Viện trưởng, vẫn chưa vừa ý, lại
chữa thưa đồng chí Thứ trưởng kính mến, thưa đồng chí Viện trưởng kính mến,
thưa đồng chí Giám đốc kính mến, kính thưa các đông chí và các bạn thân
mèn... Oi, thật là rác ròi. Bài diên văn ây, ông đã không làm được, phải nhờ
người ta làm hộ nhưng lại hay chê, cứ tỏ vẻ là mình giỏi giang, nhưng càng như
thế, càng lộ ra cái dốt của ông, khiến người đọc cảm thấy buồn cười. Đã thế khi
nghe tin mình không được đọc diễn văn khai mạc hội nghị thì ông phản ứng
như một đứa trẻ, vừa bực bội quăng những tờ giấy mà ông đã nhọc công sửa lại
vừa nói "Vứt mẹ nó cái đám giấy này đi" (30, 540) nhưng liền sau đó là ông
vội vàng nhặt lại vì sợ có khi cần đến.
Đến khi ông mệt quá, ngủ thiếp đi ở miếu Thổ thần, mơ thấy mình vốn là
quan Đại tạng triều đình cõi âm, lên xem xét công việc trên trần gian thì tình
tiết câu chuyện càng mang tính hài hước hơn. Ông thấy Thổ thần hiện lên
khúm núm mời ông trở về âm phủ theo lệnh của Diêm vương, liền sau đó là ba
cô gái đẹp như tiên đến sửa soạn áo mũ cho ông, được ca tụng và chăm sóc,
ông sung sướng như không còn nhớ mình là ai nữa:
" CÔ c - Quan lớn có mỏi để con đấm lưng ạ.
ÔNG X - Xoa bóp chứ. Thôi để chốc nữa về nhà. Nào thế bây giờ đi bằng
cái gì? Xe đâu? Dưới này đi ô tô loại gì? Trông có được không?
CÔ A - Dạ, quan lớn chỉ việc ngồi trên cái ghế này thôi ạ. Ngài ngồi lên
cái ghế thần này muốn đi đâu chỉ chớp mắt là đến.
ÔNG X -ừ nhỉ, đi bằng ghế là đúng nhất mà tiện nhất. Nhưng mà... có đứa
nào chạy lại đằng nhà tao một tí được không? Cái nhà hai tầng xây kiểu mới
đẹp đẹp ấy, lấy cho tao cái tủ lạnh, với cái ti vi. Lại còn cái têlêphon mới đặt
nữa.
CÔ B - Dưới này cần gì các thứ ấy ạ. Đồ trên dương thế, xuống đây hoa
thành đồ mã cả, không dùng được.
ÔNG X - Thế phải bỏ lại tất cả các thứ ấy à?
CÔ c - Dạ, có gì mà quan lớn phải bận tâm. Ngài về dưới này, thiếu gì
phép thẫn thông biến hóa, cần gì mấy thứ đồ lặt vặt của bọn người trần. Ngài
muốn nhìn thấy việc gì ở đâu, việc ấy sẽ hiện lên. Ngài muốn nói chuyện với
ai, kẻ ấy sẽ tự nhiên nghe thấy. Ngài muốn xơi món gì, món ấy có ngay. Ngài
giữ sổ cái cõi âm, muốn bắt kẻ nào, chỉ điểm một nét bút, là kẻ ấy phải chết
ngay.
ÔNG X - Ta có quyền phép như vậy à? Thế thì có nhẽ về Phủ, ta phải tra
sổ xem có thằng nào văn hay chữ tốt ta bắt lấy một thằng để nó viết báo cáo
cho ta... Đi thế này hình như cũng hơi vội, ta nhớ mang máng có lẽ cũng còn
phải báo tin về một nơi nào nhỉ...(Ba cô bưng miệng cười khúc khích) Chúng
mày cười gì?
CÔ A - Dạ...quan lớn ngài còn vương vẩn một tí, ngài có đế lại trên cõi
trần một vài người, thành ra ngài chưa dễ chịu...
CÔ B - Trên ấy họ gọi là bồ bịch!... " (30, 544-547)
Ở đoạn này chúng tôi trích dẫn hơi dài, sở dĩ như vậy vì chúng tôi nhận
thấy đây là một đoạn hài hước thật đặc sắc. Ngôn ngữ tác giả dùng rất tự nhiên,
gần gũi với đời sống hàng ngày của chúng ta nhưng đọc cả đoạn thì toát lên vẻ
mỉa mai, châm biếm. Nó đả kích vào thói tật của những người chỉ biết hưởng
thụ, sống sung sướng với xe hơi, nhà lầu, áo mão Xênh xang, người đẹp cung
phụng. Họ đâu biết rằng vật chất von phù du, chỉ có tình người, nhân cách con
người mới trường tồn mãi mãi.
Đến vở Hòn cuội là vở kịch mà nhà văn Marian Tkatchep (trong bài "Về
Giấc mơ và tác giả") gọi là "một hài kịch thần tiên" (33, 390). Ngôn ngữ của vở
kịch từ đầu đến cuối thật dí dỏm, tươi vui ẩn chứa những nụ cười mỉa mai,
châm biếm. Như đã nói ở những phần trên, Cuội là một nhân vật đặc biệt, xuất
hiện và ra đi đột ngột ở một xóm làng nghèo, nơi mà Cuội gây ra không ít xáo
động. Cuội như một người hành hiệp, thây việc bất bình chẳng thể bỏ qua, bênh
vực người cô thế, trừng trị kẻ hống hách bằng mưu trí khôn ngoan, lém lỉnh của
mình. Chúng tôi xin trích một cảnh hài hước diễn ra ở một ngôi chùa làng vào
thời điểm Cuội ở, một ngôi chùa nghèo xơ xác đến nỗi sư ông phải bỏ đi nơi
khác. Đây là một nhà sư hổ mang, không có đạo đức, chính những hành động
và lời cầu xin của ông với Bụt khiến cho người ta buồn cười và nghiệm ra
nhiều điều hay về thực tế đời sống với công việc tu học ở các nhà chùa:
" SƯ ÔNG - (vào, thắp hương, ngồi gổ mõ mấy tiếng, bỏ dùi xuống)
Chùa mà chỉ còn ăn mày đến xin vào lễ! Nam mô A di đà phật! Lạy ông ạ.
Hôm nay đệ tử xin chào ông mà đi thôi. Mong ông chứng giám cho. Bấy nhiêu
lâu tôi cũng hết lòng chăm lo hương khói hầu hạ ông, không dám chểnh mảng
gì, nhưng mà hầu ông ở đây, nó đạm bạc quá. Dân ở cái xóm núi này họ chẳng
có gì, một tháng đôi lần đến lễ, may mắn thì được vài cái oán nếp. Có nhà lão
phú ông đấy nhưng mà nó là đá, không thể nào moi của nó một tí gì cho nhà
chùa, ở đây nữa thì tôi cũng chỉ còn đến nước ngày ngày vác bát đi quanh xóm
mà xin ăn. Thôi, tôi xin chào ông, tôi sang chùa bên làng Mạ. Đấy, ông xem,
Bụt bên ấy người ta như thế, sư bên ấy người ta như thế. Cũng bởi vì ông chỉ
ngồi đấy mà khép đôi mắt, suy nghĩ những chuyện gì. Giá mà một hôm nào,
ông vật một đứa nào cho cho nó hộc máu chết tươi ngay trước cái bệ này,
chẳng hạn! Hay là ông Làm cho cây đại ở sau chùa này mọc ra vài quả đu đủ
chẳng hạn! Thế là dân các nơi họ tranh nhau đến đây lễ ông, cứ xua đi không
hết! Đâu đến nỗi hoang vắng xơ xác như thế này... Thôi, tôi đi vậy. Sang chùa
bên ấy, tôi cũng ăn chay, tụng kinh, lo tu hành tử tế, sau này vẫn là được lên
Niết bàn, mà lúc còn ở đời này cũng không đến nỗi nào...
CUỘI - (nấp sau bệ nói ra) ư, anh đi đi là phải.
SƯ ÔNG – (giật nảy mình) Mô phật, ra ông cũng biết nói à?
CUỘI - Lúc nào ta muốn nói thì ta nói. Anh đừng sợ. Anh ở đây, làm
những gì, ta không nói cho ai nghe đâu.
SƯ ÔNG - Vâng, lạy thầy, thầy thương cho đệ tử được nhờ. Bấy nhiêu
năm, tôi cũng có vài lần ăn vụng miếng dồi chó, đêm nằm cũng có lúc mộng mị
tơ tưởng chút đỉnh vậy thôi, chứ có gì đâu." (30, 715-716)
Ở đoạn kịch này ta thấy chất hài hước ẩn chứa trong từng lời nói của nhà
sư, ở tư cách đạo đức của ông, nhà sư mà ăn thịt chó, nhà sư mà còn tơ tưởng
tới đàn bà con gái, nhà sư mà muốn Bụt vật người ta "hộc máu chết tươi" để
đổi lấy sự linh hiển cúng tế của những người dân... Và gần cuối vở kịch, người
đọc thật thú vị khi thấy lão Phú ông và mọi người lầm tưởng Cọp là cô dâu
Thêu và càng tức cười hơn khi bọn mụ Mối, thầy Tướng, Lý Trưởng vừa run
sự vừa đua nhau ca tụng Cọp với đủ mọi mỹ từ...
Như vậy, ta thấy tuy trong kịch của Nguyễn Đình Thi, về ngôn ngư;
những vở mang chất dí dỏm, hài hước không phải là nhiều nhưng nếu có thì
ngôn ngữ hài của ông lại rất có duyên, càng đọc càng thấy ẩn chứa những nụ
cười hóm hỉnh, tinh tế mang chất trí tuệ và gần với thực tế đời sống.
2.3.1.4 Chất khẩu ngữ trong ngôn ngữ kịch của Nguyễn Đình Thi
Kịch thông thường là tổng hợp những lời nói và hành động được diễn trên
sân khấu nên ngôn ngữ kịch cũng ít nhiều mang chất khẩu ngữ. Đọc những tác
phẩm của Nguyễn Đình Thi, ta thấy không riêng gì kịch mà ở những thể loại
khác như truyện ngắn, tiểu thuyết lời văn nghệ thuật của ông cũng mang những
yếu tố khẩu ngữ trong vốn ngôn ngữ quần chúng. Nhà văn Tô Hoài đã từng
quan niệm: "ngôn ngữ quần chúng là kho của cải vô giá, là nguồn bổ sung vô
tận cho nhà viết tiểu thuyết". Hiểu được điều ấy, Nguyễn Đình Thi đã khéo léo
sử dụng sức mạnh của những yếu tố khẩu ngữ trong những trang viết của mình
để xây dựng, khắc hoa nhân vật được sinh động đồng thời phản ánh được hiện
thực một cách rõ nét hơn. Ta thử đọc một đoạn trong tiểu thuyết Xung kích, lúc
bộ đội hành quân giữa đêm khuya, họ trò chuyện với nhau bằng một ngôn ngữ
thật sinh động, tự nhiên:
"- Ô tô đây! Ô tô hai bánh của Việt Nam đây!
- Mát quá, sướng cá ruột.
- Mát đến tận tim phổi, ông bà ông vái ơi.
- Hòm gì mà năng bỏ bé) thế không biết! (...)
- Có cái xe goòng mà đẩy mót lèo nhỉ.
- Tôi om om, đi đứng thê nào!
Gặp một anh bộ đội từ mé rừng tối đi ra, họ ùa đến.
- Đường vào làng Chanh đây phải không đồng chí?
- Đi đi chứ, đứng lại làm gì như phỗng đá thế! -Có cầu cống gì không hả
anh?
-Tướt bơ rồi. Cách bốn cây có cái cầu gãy.
- Liệu có bằng cái cầu hôm qua không? –Ào đi!
- Đi chuyến dân công này về bu cháu tít mất mót lứa đẻ đấy các cụ ạ.
- Anh phải gió, chân với tay!
- Gớm chị, nhờ một tí mà." (31, 9-10)
Như vậy với đoạn đối thoại này, tác giả dùng rất nhiều từ ngữ mang tính
khấu ngữ, cả những thành ngữ thường được dùng trong dân gian đê ngồn ngữ
mang sắc thái đậm đà và nhân vật được xây dựng sống động hơn. Đó là tiếng
nói của những người dân quê, phong phú và chân thực, mang phong vị riêng
thật tự nhiên. Vào trong kịch của ông, điều người ta đặc biệt nhận thấy là chất
khẩu ngữ được dùng rất phong phú, chứa đựng rất nhiều lượng thành ngữ và
ngôn ngữ bình dân. Những từ ngữ này được sử dụng một cách hợp lý tạo nên
sự độc đáo của lời nói. Đây là cảnh mụ mối đến thuyết phục Thêu bằng lòng
lấy lão phú ông:
MỤ MỐI - Thím thương cháu quá. Quanh năm ngày tháng chỉ thui thủi
một mình, từ sớm đến tối chỉ cặm cụi với đường kim mũi chỉ, không còn mỏ
mất ra được! Cái nghề của mày nào có hay ho nên cơm nên cháo gì, làm suốt
đời rồi chỉ được cái gù lưng thâm đít! Sao mày không nghe thím?
THÊU - Thôi chuyện ây thím đừng nói nữa, cháu không nghe đâu!
MỤ MỐI - Thím nói là để mong cho cháu được nên bà nọ bà kia, sao mày
lại không nghe? Con ơi, còn đám nào hơn được nhà ấy nữa!
THÊU - Cháu chịu thôi! Cứ nghĩ đến ông ấy, cháu đã khiếp quá!
MỤ MÔI - Chịu thôi! Chịu thôi! Ngủng nga ngúng nguẩy như mới lên
mười không bằng! Con gái lớn ngỗng ngồng, không lấy chồng thì để mà thờ à?
Mày ngần ấy tuổi rồi mà vẫn dại thế hả con! Cả tổng cả huyên này còn có nhà
nào sánh được với nhà ấy? Thật là nứt đố đổ vách, của cải người ta như núi!
Mà ông ấy người béo tốt thế, mày còn chê nỗi gì không biết. Con ạ, nhà người
ta tu nhân tích đức từ bao nhiêu đời, bây giờ mới được giàu sang phú quý thế.
Ông ấy muốn mua dăm bảy con nàng hầu, có khó gì, tìm đâu chả được những
đứa gái tơ xinh xắn, có thiếu gì! Thế mà ông ấy lại cứ mê mẩn vì mày! Nó cũng
là cái duyên số!
THÊU - Cháu mong gì ông ấy mê cháu. Thím đi làm mối cho ồng ấy một
đám nào vừa trẻ vừa xinh có hơn không?
MỤ MỐI - Này cô ơi, cô đừng có cậy cô trẻ cô xinh. Bây giờ thì má hồng
da trắng đấy, nhưng mà có được thế mãi không? Mà da trắng với má hồng có
mài ra mà ăn được không? Mày cứ nghĩ xem, ừ, ví thử như mày lấy một thằng
nào trong đám trai làng này thì rồi được cái gì? Mày cứ nhìn đấy, thiếu gì cảnh!
Chui ra chui vào được ba gian nhà lá là đã phúc to, quanh năm lo mo ăn xổ mổ
niêu, đầu tắt mặt tối còn biết đến gì nữa, rồi chi còn có một việc là sòn sòn đẻ,
năm một, ba năm đôi! Mới đầu thì gái mốt con trông mòn con mất đó, nhưng
mà đến hai con thì vú quát sau lừng, ba con thì cổ ngẩng răng vàng, bốn con,
quần áo đi ngang khét mù. Rồi năm con, tóc rối tổ cu. Ối giời ơi, đến sáu con,
bảy con, thì cái yếm trút ra, thổn thẽn hai quả mướp nhăn nheo chẳng còn thiết
giấu ai nữa, còn cái váy thì vặn lên ngang rốn thế này mà chay ngước chay
xuôi! Vợ thì thế, còn chồng thì suốt ngày suốt buổi cổ cày vai bừa ở ngoài đồng
ruộng nhà người ta, vẫn chẳng đủ cơm ăn hai bữa, chiều về cái bụng đổi meo,
cái mặt thừ lừ, ngồi bên bếp chẳng nổi chẳng rằng, có mỗi cái quần cộc, ngồi
xổm thò cả của nơ ra cho nó chấm xuống tro bếp! Đấy, mày muốn được thế thì
mặc kệ!...(30, 704-706).
Chúng tôi cho đây là một đoạn thoại thật hay, thật đúng là ngôn ngữ của
những mụ đàn bà chanh chua ở thôn quê. Còn tiếp theo nữa là cả một đoạn đối
thoại dài giữa mụ Mối và Thêu cũng chứa đựng những thành ngữ và ngôn ngữ
quần chúng bình dân mà chúng tôi không thể trích dẫn hết ra đây như những từ
ngữ: chết già, ông bà ông vải, rõ thật là con giun con dế đòi đánh chết con voi,
ngứa tiết, ho he, ham chơi trống hỏi, về chầu trời, đuổi quầy quậy, cửa cao nhà
rộng, chín đụn mười trâu... Chỉ mấy trang sách nhưng là cả một sự trải nghiệm
và quan sát cuộc sống của tác giả. Điều đó chứng tỏ tài năng không thể nào phủ
nhận của Nguyễn Đình Thi trong việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc. Và đây là
lời trò chuyện của hai vợ chồng người lính thú trong vở Người đàn bà hóa đá:
"NGƯỜI VỢ LÍNH - Thầy nó làm gì mà đuổi tôi như đuổi tà! Hay thật!
NGƯỜI LÍNH - Thật là tự dưng chuốt lấy cái khổ vào minh. Lần sau có
ai còn rủ rê lên đây thì đừng có nghe họ.
NGƯỜI VỢ LÍNH - Ai rủ với ai rê! Tự tôi không biết tìm lấy đường mà
đi thăm chồng à!
NGƯỜI LÍNH - Tôi không khiến! Thăm với hỏi! Khốn nan, thân lính thú
chứ ông hoàng bà chúa gì! Cứ mặc tôi, ở nhà mà lo nuôi con. Tự dưng lặn lội
đến tận chỗ này, bây giờ rồi xin ăn dọc đường mà về! Người ta đã khổ lại còn
làm cho thêm rỏi ruột! " (30, 606)
Chỉ mấy lời nói nhưng người ta cũng hiểu được tình cảnh và những tình
cảm sâu nặng của vợ chồng người lính. Người vợ nhớ chồng, không quản ngại
đường sá xa xôi lặn lội đi thăm chồng, người chồng cũng rất thương vợ nhưng
không muốn vợ phải khổ vì mình và lo cho con cái ở nhà, tất cả cũng chỉ vì
cảnh nghèo nên họ mới phải như thế. Những lời nói trên hiện ra hoàn cảnh rất
thực của hai vợ chồng, giọng điệu bình dân, trách cứ nhưng chan chứa yêu
thương. Thật khó chấp nhận nếu như lời nói của hai vợ chồng người dân quê
này lại được viết toàn bằng thứ ngôn ngữ khuôn sáo, trau chuốt.
Như vậy có thể thấy các lời đối thoại trên rất gần gũi với lời ăn tiếng nói
hằng ngày của người dân lao động. Nguyễn Đình Thi đã khéo léo đưa những
lời nói ấy vào tác phẩm thật đúng lúc, đúng chỗ, đúng nhân vật tạo nên giá trị
đặc sắc của lời nói. Chính vì để cho nhân vật nói năng theo đúng kiểu của mình
là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên tính chân thực, sinh động cho tác
phẩm.
2.3.1.5 Chất hành động trong ngôn ngữ kịch Nguyễn Đình Thi
Người diễn viên lên sân khấu biểu diễn với nhiều loại hành động khác
nhau: hành động hình thể, hành động tâm lý và hành động ngôn ngữ. Như vậy
ngôn ngữ không chỉ là công cụ biểu đạt mà còn là một phương tiện tác động.
Thế nhưng không phải bất cứ lời nói nào cũng dồi dào tính hành động. Ngôn
ngữ có tính hành động trong kịch phải mang tính chất khơi gợi và phối hợp
chặt chẽ với các hành động hình thể và hành động tâm lý nói trên. Ví dụ, để
đuổi một người ta có thể nói "Cút đi" kèm với việc lấy tay xua đuổi và gương
mặt tức giận. Bêlinxki nói: "Tính kịch không phải là do nói qua nói lại mà tạo
nên được, nó phải do hành động giao lưu sinh động giữa hai người mà tạo
thành. Nếu cả hai bến tranh luận đều muôn đè bẹp đôi phương, đều muốn cải
biến một phương diện nào đó trong hành động của đối phương, hoặc tấn công
vào nhược điểm nào đó trong tâm tư của đối phương, nêu thông qua cuộc tranh
luận đó đưa hai người tới một quan hệ mới, thì lúc đó mới là kịch" (22, 258).
Hay nói một cách khác, tính hành động trong những lời đối thoại trong kịch
phải mang nội dung tấn công - phản công, thăm dò- lãng tránh, chát vân- chòi
cãi, thuyết phục- phủ nhận...
Nếu nói như vậy thì cũng như các tác giả khác, tính hành động trong kịch
của Nguyễn Đình Thi rất nhiều vì hành động trong kịch phản ánh cuộc sống
một cách cụ thể và trực tiếp, mà bản chất của cuộc sống thì không ngừng hành
động, lúc nào cũng đấu tranh để tồn tại và phát triển. Đây là một đoạn trong vở
Rừng trúc, lúc Trần Thủ Độ cho bắt người lính quân hiệu đã cả gan dám ngăn
cản kiệu của vợ ông. Chất hành động thể hiện rõ trong những lời nói và hành
động của Trần Thủ Độ, quan đình úy và người lính:
'THƯ ĐỌ - Thằng giặc to gan, sao giữa kinh kỳ mà mày dám ngang
ngược làm loạn? Có đứa nào xui bẩy mày không? Phải nói cho thật!
(...)
NGƯỜI LÍNH - (Kêu to) Tôi oan! Tôi là người lính, làm theo phép nước,
sao lại phải chịu tội? Tôi oan!
QUAN ĐÌNH ÚY - Lính đâu? vả vào miệng thằng giặc hỗn láo! Giải nó
về ngục bên Ty!
Vệ sĩ đánh người lính, lôi đi.
NGƯỜI LÍNH - Không thể bắt tôi im miệng được. Xin cho tôi nói rõ.
Tôi oan!
THỦ ĐỘ - Hãy khoan! Tên kia, mi kêu oan vì lẽ gì? Ta cho mi nói.
Nhưng nếu mi dám càn rỡ dối trá, thì mi không còn mong gì khỏi tội chết!
NGƯỜI LÍNH - Thưa bẩm đức ông, tôi là người lính trong quân thân vệ,
ngày ngày phải canh giữ trong cung cấm. Tướng quân Trần Khuê Kình nhiều
lần dặn dò quân thân vệ chúng tôi: Khi đứng canh nơi điện miếu tôn nghiêm,
người lính thân vệ không được sợ bất cứ ai, không được sợ bất cứ điều gì, chỉ
được sợ có phép nước thôi. Hôm ấy, bọn chúng tôi túc trực trước điện Thiên
Khánh, đã có lệnh nghiêm cấm không ai được qua lại trước thềm điện. Chúng
tôi thấy có kiệu một bà phu nhân đi thẳng tới, cho nên đã ngăn lại, và chỉ
đường cho đi vòng theo lối khác. Nhưng đám thị nữ xưng là kiệu công chúa,
rồi bọn lính hầu lại nạt nộ, dọa xô xát với chúng tôi, gia nô khiêng kiệu thì cứ
xán lên. Cho nên tôi đã rút gươm ra, ra lệnh cho đám khiêng kiệu phải rẽ theo
đường vòng bên ngoài, nhược bằng cứ coi thường lệnh cấm, thì chúng tôi cứ
thẳng tay bắt giữ. Việc thật là như vậy, còn đông đủ cả mấy anh em chúng tôi
trong đội thân vệ hôm ấy đều biết, nếu tôi nói sai, xin chịu tội chết chém!
(...) Ấ
TRẦN THỦ ĐỘ - Vệ sĩ, cởi trói, bỏ gông cho người ta. NGƯỜI LÍNH -
Tạ ơn đức ông. Thật là có phép nước hẳn hoi chứ. "(30, 320-323)
Nếu Thủ Độ vì tình riêng thì chắc người lính quân hiệu kia không thể nào
giữ được mạng sống. Sự công minh của ông đã cứu sống được mạng người
trong đường tơ kẽ tóc. Người lính cũng không ngờ mình không những được tha
tội mà còn được ban thưởng. Qua lời trình bày của người lính, hành động của
Trần Thủ Độ biến đổi đến không ngờ, từ sự tức giận chuyển sang vui vẻ và
khen thưởng cho người lính, ông còn quở trách quan đình úy và dọa sẽ cách
chức ông ta vì việc làm sơ xuất, hồ đồ ngày hôm nay.
Và chúng tôi muốn nói đến lời nói và hành động xua đuổi quyết liệt của
người chồng đối với người vợ đáng thương đã dẫn đến cái chết bi thảm của
người vợ trong vở kịch Cái bóng trên tường. Hành động ấy đủ để anh ta hối
tiếc cả một đời khi hiểu ra được thực chất câu chuyện và tấm lòng trinh bạch
đáng quý của vợ mình:
"NGƯỜI CHỒNG - (Vơ chiếc gậy, dữ tợn xông đến, giơ lên, rồi lùi lại,
buông rơi chiếc gậy) Thôi, cồ đi đi, đừng để tôi túm lấy cô mà ném xuống sông
kia, thì tôi lại có tội với thằng bé.
NGƯỜI VỢ - Nhưng mà em làm gì nên tội kia chứ! Sao lại kỳ lạ thế
này!
(...)
NGƯỜI CHỒNG - Cô càng nói thì tôi càng không thể nhìn được cái mặt
kia! Ghê sợ quá!
NGƯỜI VỢ - Giời đất ơi, đến thế này thì còn gì nữa! Anh ơi, anh sẽ
không bao giờ thấy lại em nữa đâu...
NGƯỜI CHỒNG - Thôi, cô đi đi.
NGƯỜI VỢ - Anh cho em vào với con một tí, em chỉ xin anh thế thôi.
NGƯỜI CHỒNG - Không được! Cô không được chạm vào nó. Thôi, đi
đi, đi ngay cho khuất mắt tôi!
NGƯỜI VỢ - Anh ơi, anh lầm rồi đấy! Anh nghĩ lại đi.
NGƯỜI CHỒNG - Không phải nghĩ ngợi gì nữa! Tôi không muốn nghe
tiếng cô nói. Tôi không muốn nhìn cái mặt của cô. Đi đi!
Người vợ khóc và đi đi. (30-633)
Vì lòng ghen tuông mù quáng, người chồng nhất quyết đuổi vợ mình đi
mà không cho nàng biết rõ nguyên nhân, cũng không chịu nghe nàng nói.
Những lời nói tàn nhẫn, lạnh lùng và cạn tình cạn nghĩa đó khiến người vợ
không còn thiết sống nữa và bi kịch đã xảy ra.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, chất hành động trong ngôn ngữ kịch là vô
cùng quan trọng, nó làm nên giá trị không thể phủ nhận đối với vở kịch. Có
những lời nói có thể khiến chết hay làm sống Lại một con người. Có những lời
nói giúp ta có được một quyết định sáng suốt cho cuộc đời mình và có những
lời nói có thể làm tiêu tan một sự nghiệp... Những dẫn chứng trên đây được
chọn ra từ nhiều dẫn chứng khác nữa trong kịch của Nguyễn Đình Thi về chất
hành động trong ngôn ngữ, từ đó cho ta thấy rằng ngôn ngữ kịch của ông
không thiếu chất hành động, nó tiềm ẩn trong từng lời thoại của nhân vật, góp
phần nâng cao giá trị kịch của ông.
Trên đây là một số đặc điểm về ngôn ngữ đối thoại trong kịch Nguyễn
Đình Thi. Kịch của ông vòn được dư luận đánh giá rất cao về ngôn ngữ. Đó là
một thế mạnh mà Nguyễn Đình Thi tập trung vào để tạo nên nét đặc trưng
riêng cho phong cách sáng tác của mình.
2.3.2 Ngôn ngữ độc thoại
Độc thoại là nói với chính mình nhằm để giải tỏa nỗi xúc động mãnh liệt
trong lòng mà chưa thể hoặc không thể nói với ai được. Trong kịch, độc thoại
dùng để bộc lộ nội tâm nhân vật, đầu tiên người ta thấy độc thoại xuất hiện
trong kịch cổ đại và nhất là trong kịch sếcxpia. Độc thoại nội tâm là một sự tự
bộc lộ, chân thành và khách quan với những suy nghĩ thật của lòng mình.
Trong trường hợp nội tâm phức tạp, dằn vặt, thì độc thoại chính là cuộc đối
thoại giữa con tim và khối óc của nhân vật. Độc thoại giữ một vai trò rất quan
trọng trong kịch, qua độc thoại, khán giả có thể biết được những suy nghĩ thật
trong lòng của nhân vật, từ đó hiểu được câu chuyện một cách rành mạch hơn.
Nguyễn Đình Thi, trong những vở kịch của mình cũng đã tận dụng
phương pháp độc thoại nội tâm để góp phần làm rõ tâm tư tình cảm của nhân
vật, đồng thời nâng cao hiệu quả của vở kịch. Khi tìm hiểu về ngôn ngữ kịch
của ông, chúng ta không thể bỏ qua ngôn ngữ độc thoại.
2.3.2.1 Độc thoại bộc lộ nội tâm nhân vật.
Con nai đen là vở kịch mà nhân vật tự nói với chính mình nhiều nhất vì
trong tác phẩm có những lúc và có những nhân vật đội lốt của người khác
nhưng lại muốn giải tỏa một cách thầm kín những suy nghĩ của chính bản thân
mình. Đây là lời bộc bạch khiến cho khán giả thấy rõ tận tim gan dã tâm độc
ác, xấu xa của lão quận công hòng muốn chiếm đoạt hoàng hậu và hãm hại nhà
vua:
(...) "Chà chà hoàng hậu Quế Nga! Người đàn bà này đã làm ta say đắm
cuồng dại mất rồi! Chỉ gặp nàng có một lần mà ta thấy tất cả lũ mấy chục nàng
hầu đẹp nhất của ta khác nào như một đàn cú! Ta chỉ cần chiếm được nàng
trong một ngày, một ngày thôi! Cô gái rừng quế kiêu hãnh, ta sẽ chiếm được cô
nàng. Ta sẽ bắt cô nàng phải quỳ lụy dưới chân ta! {giật mình lâm lết nhìn
chung quanh, nhặt gươm tra vào vỏ rồi bóp trán ngẫm nghĩ) Hay là... có lẽ... Ta
ngu thật! Sao ta không nghĩ ra từ trước. Sao ta không nghĩ ra! ừ, ta phải dùng
phép phù thủy làm sao chui vào thể xác của nhà vua. ừ, ta sẽ chờ thời cơ, sẽ có
lúc ta đội lốt nhà vua thì cô nàng còn thoát đi đâu được nữa!" (30, 48)
Và hắn đã thực hiện được mưu đồ của mình, với phép thuật phù thủy, hắn
nhập vào xác nhà vua trong khi nhà vua nhập vào xác con nai đen. Được như
vậy hắn vẫn chưa thôi từ bỏ ý định độc ác của mình, hắn còn muốn ngày ngày
nhà vua phải tận mắt chứng kiến cảnh hắn làm vua và hoàng hậu Quê Nga làm
vợ của hắn. Còn hoàng hậu Quế Nga thì cảm thấy bất an khi tính tình nhà vua
đột nhiên thay đổi, nàng cảm thấy rất đau lòng và vô cùng khó hiểu. Nàng tự
hỏi một mình:
"Anh!... Trời ơi, lòng ta quay cuồng tan nát. Sao cứ mỗi lúc một thêm
quái lạ. Sao em không nhận ra được anh nữa! Sao đôi mắt mọi ngày như hai
ngôi sao soi sáng cả mọi tâm hồn, nay bỗng dưng vẩn đục, đầy thèm muốn, ích
kỷ và tàn bạo! Sao gương mặt đẹp như thiên thần ấy mà hôm nay ta nhìn lại
bỗng rùng mình. Ta đang nói gì, ta đang ở đâu thế này?" (30, 61)
Như vậy, qua lời độc thoại của lão quận công trong xác vua và của hoàng
hậu Quế Nga ta hiểu được nội tâm của hai người, hiểu được những suy nghĩ
thật trong lòng họ. Giữa họ là hai thế giới tâm hồn thật trái ngược nhau. Những
lời độc thoại của lão quận công giúp cho ta biết được những mưu kế sắp sửa thi
hành của lão, hiểu được sự ghen tức và lòng dạ xấu xa, hẹp hòi của lão. Còn
những lời độc thoại của hoàng hậu Quế Nga cho ta thây được tình yêu thương
vô bờ bến và lòng tin vào sự nhân từ đức độ của người chồng mà nàng yêu
kính. Đó là những suy nghĩ thầm kín mà họ chỉ có thể nói với mình chứ không
thể bộc bạch cùng những người khác và chỉ có khán giả mới biết được mà thôi.
Đến Rừng trúc là những tâm sự thật đáng tội nghiệp của hoàng hậu Chiêu
Thánh. Từ ngôi cao tột bật bỗng chốc nàng không còn gì cả: cha mất, mẹ lấy
chồng khác, phải nhường ngồi vua cho dòng họ khác, rồi con mất, chồng phế
bỏ ngôi vị hoàng hậu của mình... Bởi thế nên nội tâm nàng đầy ắp sóng gió,
nàng cảm thấy vô cùng cô độc giữa hoàng cung rộng lớn:
"Chẳng còn ai khác. Ta chẳng còn ai...
Cả mấy người ở một bên... Bỏ ta một mình ở bên này. Chưa đến nỗi là
thù... Chưa đến nỗi... Nhưng không phải những người còn ở với ta cùng một
đời nữa rồi... Sao lại như vậy!
Chỉ có một người ở với ta mãi thôi. Một người không bao giờ bỏ ta. Chỉ
có một ngưòi thật thương ta, thương ta mọi nỗi. Cha ơi cha! (khóc)
Nào chồng, nào mẹ, nào chị... ừ thôi, hôm nay ta sẽ không lánh đi đâu
nữa. Ta sẽ gặp tất cả. Muôn nói chuyện gì với ta, ta sẽ nghe tất cả. Thê nào
cũng được. Ta đâu còn ở đây nữa, dù có chuyện gì xảy ra, đâu còn động gì
được đến ta. Làm gì còn ta ở đây. Ta ở chỗ khác rồi. Tất cả bọn các người
chẳng làm gì được. Ta chẳng phải một mình. Ta vẫn có người thương ta chứ,
thương ta mà chẳng nói một lời, người ấy đi xa lắm rồi, đi chẳng bao giờ về
nữa, thế mà tình thương ấy vẫn bao bọc, che chở cho ta, nuôi cho ta sống được
đấy..." (30, 298)
Trong mọi hoàn cảnh thâm tâm nàng luôn nghĩ về người cha quá cố.
Nàng cảm thấy mình bị cô lập về một phía và phía bên kia là một lực lượng
hùng hậu mà nàng không thể nào chống đỡ nổi. Tiếp theo, còn cả một đoạn độc
thoại dài Chiêu Thánh nói lên những suy nghĩ của mình về mẹ, về chị, về
chồng... Đây là nỗi lòng đau khổ của nàng mà Nguyễn Đình Thi đã khéo léo
giúp cho khán giả hiểu nàng hơn, cảm thông với nàng hơn.
Sang Nguyễn Trãi ở Đông Quan, ta tìm được những lời độc thoại của
người anh hùng yêu nước đang bị giam lỏng. Chí lớn tài cao nhưng lại bị kìm
hãm khiến cho Nguyễn Trãi vô cùng bức bách. Vì tình thế hiểm nguy nên
những suy nghĩ yêu nước và căm thù giặc tạm thời Nguyễn Trãi chỉ nói được
với chính mình. Đây là những suy nghĩ thật của Nguyễn Trãi về lời nói bịp
bợm, mị dân của tên "cáo già" Hoàng Phúc:
"Con cáo già đang múa đuôi, đắc chí! Nó đã khôn đến thế, mà vẫn quáng
mờ vì kiêu ngạo... Bốn cõi chung vua, xe đi chung đường, sách chép chung
chữ! Ta đã trông thấy thế nào, cái cảnh đời thịnh trị ấy... Tất cả thiên hạ chỉ còn
là của riêng một đấng con Trời. Tất cả các dân tộc phải trở thành người Hán! ơ
trong cõi thiên triểu ây bao nhiêu con người, hai tay phải chấp lại, mắt phải
khép xuống, đầu óc phải nghĩ theo cùng một khuôn. Sống từ bé đến lớn già,
phải làm theo những điều do các bề trên sắp đặt! Trí tuệ con người chỉ còn
được là một cái túi, để bỏ vào đấy các kinh truyện thánh hiền! Bao nhiêu sách
vở đều phải chép như nhau, cùng những câu những chữ ấy! Học chỉ còn là phải
làm sao nhớ cho thuộc lòng. Không được mở mắt nhận xét, so sánh, không
được hỏi, không được tìm xem sự vật trong đời ra làm sao... Cứ như thế, cha
truyền con nối, con không được làm khác với cha, đời sau không được thay đổi
nề nếp đã định từ đời trước. Cứ như thế, tất cả khô héo dần hoa thành đá,
không một cái mầm xanh nào được mọc lên trong tâm hồn con người!... Trời
đất! Nhưng mà phá lá cây thì dễ, phá mầm cây chẳng dễ đâu. Chà! "(30, 480-
481)
Với những suy nghĩ nội tâm như vậy nhưng khi Hoàng Phúc hỏi "Ông
vẫn nghe tôi đấy chứ? Ông thấy thế nào?" thì Nguyễn Trãi lại trả lời: "Tôi thấy
đại nhân thật là người nhìn xa, nghĩ việc sâu lắm" (30, 481). Vì vậy, chính
những lời độc thoại này sẽ giúp khán giả hiểu được thực chất trong lòng nhân
vật đang nghĩ gì, có khi trái ngược hoàn toàn với những lời nhân vật đang nói.
Thường độc thoại xảy ra khi nội tâm nhân vật đang phức tạp, có khi phải đấu
tranh hay đau xót, dằn vặt. Họ muốn giải tỏa những suy nghĩ trong lòng nhưng
không biết nói với ai, đành nói với chính mình và khán giả. Cho nên có thể nói
những Lời độc thoại nội tâm là những lời hay nhất, mang nhiều tâm tư nhất của
vở kịch.
2.3.2.2 Chất truyền cảm trong ngôn ngữ độc thoại
Trong đa số trường hợp độc thoại dùng để diễn tả những cảm xúc chất
chứa trong lòng nên ngôn ngữ rất giàu chất truyền cảm. Từng câu từng lời của
ngôn ngữ độc thoại rất dễ lay động lòng thông cảm, trắc ẩn của độc giả và khán
giả đôi với hoàn cảnh của nhân vật. Những cảm xúc ấy không phải có thể đặt
bút là viết nên được mà phải sống cuộc sống của nhân vật, phải suy tư, trăn trở
cùng nhân vật mới có thể tạo thành.
Nguyễn Đình Thi như vào vai của ông lão hát rong hiền lành và tốt bụng,
đang nói những lời từ biệt cuối cùng của cuộc đời mình. Cho đến lúc chết ông
vẫn cô độc, ông không có ai khác ngoài con nai đen cần được ông dẫn dắt và
che chở. Trong giây phút lâm chung, bao nhiêu tình cảm tốt đẹp ông cũng chỉ
biết dành cho nó:
"Nai đen, mày vướng mắc vào đâu mà để thầy gọi mãi. Sao thân thể mày
đây những vét thương! Oi những con người độc ác và ngu muội nỡ làm hại con
ta! Hai mắt con hôm nay sao mà buồn vậy! Mày thương ông lão hát rong ư?
(ngả lưng vào gốc cây) ừ lão đang đau lưng quá, và chân tay lão bủn rủn, lão
muốn cất tiếng hát mà hơi sức đuối rồi. Biết làm sao, tuổi già đó, con ạ. Rồi
mày cũng đến lúc già, nghe không? Bốn chân nhanh như gió của mày cũng sẽ
đến lúc mềm yếu, chậm chạp run lên như cỏ sậy. Hai tay thính của mày cũng sẽ
đến lúc ù đi như lúc nào cũng bị dìm xuống nước ấy, biết chưa? Hai con mắt
sáng hoắc của mày cũng sẽ mờ đi. Cho đến cả trí óc thông minh của mày cũng
sẽ mệt nhọc, mụ đi. Tuổi già sẽ đến, con ạ, rồi mày cũng đến lúc sẽ thấy có hơi
lạnh của cái chết, nó lởn vởn chung quanh mày, có lúc nó thở buốt vào đến tận
xương tủy mày, chẳng khác gì ta đang cảm thấy bây giờ. Ai cũng sẽ đến lúc già
rồi chết con ạ? Nhưng ta không sợ già, sợ chết đâu, vì đời ta có tình thương yêu
sưởi ấm cho ta đến tận lúc cuối cùng." (30, 64-65)
Cảm động nhất có lẽ là những cảm xúc đau khổ của hoàng hậu Chiêu
Thánh khi nhận ra mẹ mình, chị mình, chồng mình đều như quay lưng lại với
mình. Tâm hồn của nàng như bị xáo động mạnh, không ngừng thổn thức:
"Đáng lẽ người gần ta nhất, thương ta nhất, là chàng đấy, chàng Hai của
em ơi... Chàng chẳng có tội gì với cha em. Có lẽ chàng cũng thương yêu em từ
năm ấy em lên bảy, chàng lên tám nhỉ, cho đến bây giờ, hơn mười năm, có lẽ
lòng chàng cũng chưa đến nỗi quên chút nghĩa cũ từ ngày ấy. Nhưng mà chàng
chẳng phải chỉ là chàng Hai của ta. Xưa kia thì mỗi lần ta gọi, chàng vội quỳ
lạy và sợ hãi nói với ta: muôn tâu bệ hạ (cười rũ rượi, chảy nước mắt, cười
mãi). Vì đâu như vậy chàng Hai! Tại cái mũ ngọc này! (ném mũ miện xuống
đất). Vứt nó đi! Nó làm cho ta mỗi lần muốn gần chàng, bồng nhiên chỉ còn là
một cái xác lạnh như đồng. Nó làm cho trong lòng ta cứ băng giá đi dần, mắt ta
nhìn chàng chỉ thấy cứ xa đi mãi, xa mãi, chàng cũng đi sang bên kia với tất cả
bọn họ rồi. Vứt cho xa đi, vứt nó đi! " (30,299)
Đến Trương Chi là mối tình tuy mang màu sắc lãng mạn nhưng thật u
buồn và vô vọng của Trương Chi và Mỵ Nương. Chỉ vì nghe được tiếng hát
của Trương Chi mà Mỵ Nương đem lòng yêu thương, hàng ngày ra ngẩn vào
ngơ, Nàng ước mong được gặp mặt Trương Chi đến nỗi bị bệnh tương tư, mọi
tâm trí đều hướng về chàng:
"(Trên lầu) Không biết anh ấy có đến không!... Ta hóa điên mất!... Giời
ơi, anh Trương Chi, anh có nghe thấy em không, em đang đợi anh đây... Anh
đến với em, anh đến với em, em chết mất!... anh có nghe thấy em không?... Chỉ
vì em yêu anh quá... Anh ở đâu? Anh Trương Chi... (Trở vào)." (33, 649)
Còn Trương Chi thì quá mặc cảm cho thân phận nghèo hèn và xấu xí của
mình không thể xứng đáng với một tiểu thư cành vàng lá ngọc như Mỵ Nương.
Nhìn thấy Mỵ Nương từ trên lầu, Trương Chi như ngơ ngẩn tâm hồn, thầm
nghĩ:
" Ở đời này lại có người như thê thật ư?... Đôi mắt ấy... Làn tóc ấy... ôi
chao, gương mặt, cái dáng người, đôi cánh tay, đôi bàn tay... như một cô tiên ở
cõi nào! Mỵ Nương! Vậy mà em lại đi tìm tôi ư! Nhưng mà anh Trương Chi,
trên người chỉ có manh áo vá, mảnh quần xơ thế này! Hai chân giẫm đất thế
này! Mặt mũi đen cháy, hai bàn tay cộm những chai thế này!Mỵ Nương!..."
(30, 649)
Trên đây là một số dẫn chứng được lấy ra từ những xúc cảm mãnh liệt
nhát trong lòng con người. Đó là tiêng nói được phát ra từ sự thổn thức của con
tim trong những giờ phút quan trọng nhất của cuộc đời nên sức truyền cảm của
nó rất lớn, dễ được bạn đọc và khán giả tiếp nhận.
2.3.3 Tính cô đọng, hàm súc trong lời chú thích nghệ thuật
Lời chú thích là một bộ phận không thể thiếu trong một vở kịch, làm
những nhiệm vụ rất quan trọng như: nói rõ địa điểm, thời gian xảy ra câu
chuyện kịch; nói rõ những hành động không lời của các nhân vật; nói rõ những
sự biến từ ngoài ảnh hưởng tới nhân vật; gợi ý cho việc biểu diễn... Nhìn
chung, người viết kịch có thể chú thích gì tùy theo ý mình nhưng nên chọn
những chú thích thật cần thiết phục vụ cho tư tưởng chủ đề của vở kịch.
Tsếkhốp đã nói rằng: "Nếu hồi một có treo khẩu súng thì hồi bốn khẩu súng ấy
phải nổ". Những chú thích rườm rà, chồng chất quá nhiều chi tiết thừa sẽ dễ
làm khán giả mệt mỏi. Ví dụ như một tác giả chú thích việc bài trí của một
phòng khách tư sản như sau: "... Hai mé bên đều cổ cửa đi vào phía sau, một lối
vào phòng ăn, một lối vào phòng giấy. Cửa to ở khoảng giữa mở rộng. Đằng
sau có một tầng cửa bằng dây thép đan. Nhìn qua tầng cửa này, ta sẽ thấy rõ
cây cối phía sau vườn xanh om, nghe có tiếng ve sầu kêu. Tủ áo lớn về phía tay
phải, phủ một tấm vải vàng. Trên mặt tấm vải có ít đồ trang trí. Người ta đế ý
ngay tới một tấm ảnh đã cũ, có vẻ lạc lõng giữa bấy nhiêu đồ trần thiết lộng
lẫy. Trên lò sưởi, phía tay phải treo một cái đồng hồ. Trên tường có một bức
hoa sơn dầu. Trước là hai cái ghế bành. Khoảng giữa, xế về tay trái, một cái tủ
gương bày la liệt những đồ cổ..." (12, 155) Ta thấy quả là tác giả đã chất quá
nhiều đổ đạc trên sân khấu, không còn biết cái gì quan trọng, cái gì là không
quan trọng. Và như vậy, chắc chắn những người phục vụ cho nhu cầu của sân
khấu sẽ phải tốn rất nhiều công sức để đáp ứng.
Trở lại với kịch của Tsêkhốp, ông rất cẩn thận khi chú thích, chỉ cần vài
dòng thật cần thiết để nói lên địa điểm và không gian. Ví dụ ở vở Cậu
Hồi Một. Ngoài vườn. Thấy một phần nhà ở có hiên. Ớ lối đi, dưới gốc
cây liễu già có một chiếc bàn bày đồ trà. Những chiếc ghế dài và ghế tựa. Trên
một ghế dài có cây đàn ghi-ta. Gần bàn có một chiếc đu. Ba giờ chiều. Trời ảm
đạm.
Hồi Hai. Phòng ăn nhà Xêrêbriakốp. Ban đêm. Có tiếng mõ cầm canh ở
ngoài vườn.
Hồi Ba. Phòng khách nhà Xêrêbriakốp. Ba cửa ra vào ở hai bên và ở giữa.
Buổi trưa.(2, 156)
Nguyễn Đình Thi hiểu sâu sắc được tầm quan trọng của những lời chú
thích cô đọng nhưng đầy đủ ý nghĩa. Trong những tác phẩm kịch của ông, lời
chú thích rất ngắn gọn và mang tính nghệ thuật cao. Ta thử khảo sát một vài tác
phẩm của ông để làm rõ:
Ở vở Con nai đen, Nguyễn Đình Thi đã giới thiệu về địa điểm, thời gian
và những hành động không lời của nhân vật ở mỗi cảnh kịch:
Cảnh một: Rừng quế buổi chiều
Cảnh hai .-Trong cung vua. Pho tượng đá đặt ở một góc phòng. Nhà vua
đang ngồi đọc sách trước ánh nến. Tiếng gà gáy từ xa vẳng lại.
Cảnh ba .'Một rừng cây cao bên hồ. Hoàng hậu cùng người cung nữ già
đứng dưới bóng cây nhìn sang bên kia hồ.
Cảnh bốn : Một quầng trường trước cổng cấm thành nơi vua ở. Buổi
chiều tà, Hoàng hậu Quế Nga cùng người cung nữ già vừa đi ra ngoài thành về.
Đây là những lời chú thích tuy ngắn, dường như có thể đặt bút là viết
ngay được nhưng không phải là không trải qua sự suy nghĩ, cân nhắc của tác
giả, xem chi tiết nào nên đưa vào, chi tiết nào không, ơ vở kịch khác, lời chú
thích càng cô đọng và hàm súc hơn nữa, như vở Hòn cuội'.
Cảnh một: Một táp nhà tranh trong xóm núi, buổi chiều trăng tròn.
Cảnh hai: Một cây đa bên đường.
Cảnh ba : Nhà Thêu
Cảnh bốn : Chùa. Một tượng Bụt lớn bằng người, thấp thoáng sau màn
lụa cũ.
(...)
Những lời chú thích đơn giản như vậy rất dễ cho những nhà đạo diễn và
những người lo việc chuẩn bị đạo cụ, phông màn sắp xếp sao cho vừa đúng với
ý của tác giả vừa phù hợp với hoàn cảnh thực tế cho phép. Và rải rác ở khắp
các vở kịch của Nguyễn Đình Thi có rất nhiều những lời chú thích về những
hành động không lời của các nhân vật, những sự biến từ ngoài ảnh hưởng tới
nhân vật và những lời gợi ý cho việc biểu diễn, chuẩn bị sân khấu... được viết
một cách nghệ thuật, cô đúc. ơ vở Rừng trúc, sau khi Trần Thủ Độ ban thưởng
cho người quân hiệu biết làm đúng theo phép nước, tiếp đến là lúc vua tới,
Nguyễn Đình Thi đã viết:
"Chung quanh xốn xao vui. Người quân hiệu đi cùng vệ sĩ. Thủ Độ trở lên
trên thềm, đi lại, nghĩ ngợi. Bỗng có tiếng hô hét bên ngoài. Tiếng hô bật lên:
"Thánh thượng muôn tuổi". Trong sân im phắc. Trần Cảnh vào, cùng đi có một
người dáng dấp thư sinh. Theo hầu hai bên, vệ sĩ mang gươm. Mọi quân lính
quỳ xuống, tung hô: "Thánh thượng muôn tuổi". (30, 323-324)
Ở một vở kịch khác, vở Tiếng sóng, trong cảnh một, tác giả đã chú thích
như sau lúc giới thiệu sự xuất hiện của người con gái huyền ảo:
"Tất cả im lặng. Chỉ còn tiếng sóng vỗ. Một vệt đèn pha lướt tới, cho thấy
dòng sông phía xa đang dào sóng. Hiện lên một người con gái huyền ảo." (30,
505)
Ở cảnh bốn, nói về quang cảnh sinh hoạt của một bệnh viện kháng chiến
trong rừng:
" Anh bộ đội vác bó củi đi. Cô y tá vào một căn lán, tiêm thuốc cho người
bệnh. Căn lán này có đệm, chăn len, ghế vải v.v... Người bệnh mặc áo len, một
người đàn bà đã đứng tuổi, vẻ người thành phố." (30, 554)
Và ở cảnh cuối cùng của vở kịch, tác giả đã viết một lời chú thích tương
đối dài nhưng thật đầy đủ và ý nghĩa hàm chỉ về quy luật sinh tồn, phát triển
cùng những vui buồn khổ đau của đời người. Mỗi một sinh linh bé bỏng khi
chào đời thì cũng có nghĩa là đã có một dòng sông đang hiện hữu và không
ngừng vỗ sóng cho đến cuối cuộc đời:
"Người con gái biến đi. Hiện lên cảnh một bến sông lổn nhổn những hố
bom. Ánh cháy chập chờn phía xa. Một gốc cây cụt. Một người đàn bà, bụng
có mang, đeo chiếc bị cói, đi tới. Lửa loe, từng tràng tiếng nổ, pháo bắn đến tới
tấp. Người đàn bà quỵ xuống bên gốc cây cụt. Trong ánh lửa đạn, người ta thấy
thấp thoáng bóng người đàn bà lăn lộn, trở dạ sau gốc cây. Một tiếng kêu dài.
Im lặng. Rồi bật lên tiếng khóc oe oe của đứa trẻ mới sinh. Người con gái
huyền ảo hiện lên. Những tiếng nổ lại ầm ầm. Người con gái bế đứa trẻ sơ sinh
giơ lên cao. " (30, 597-598)
Trên đây là những lời chú thích tiêu biểu trong rất nhiều lời chú thích của
kịch Nguyễn Đình Thi mà chúng tôi không tiện dẫn hết ra đây được. Lời chú
thích thì ở vở kịch nào cũng có nhưng không phải là có thể viết lan man, dài
dòng thế nào cũng được mà cần phải có một nghệ thuật viết sao cho thật cô
đọng và hàm súc. Bên cạnh đó, phải chú thích sao cho những người ở khâu
chuẩn bị sân khấu dễ sắp xếp. Trong những lời chú thích ở kịch của mình,
Nguyễn Đình Thi đã đáp ứng được một cách xuất sắc những yêu cầu trên.
Không những thế, đọc những lời chú thích ấy của ông, ta còn thấy nó chan
chứa một chất văn, chất thơ chứ không phải vì là lời chú thích mà có thể viết
khô khan cứng nhắc thế nào cũng được. Và đây cũng là nét đáng quý được ghi
nhận từ một nhà viết kịch nghiêm túc như Nguyễn Đình Thi.
Tóm lại, một yêu cầu chung đối với lời văn trong một vở kịch, cả đối
thoại, độc thoại lẫn chú thích đều phải có tính văn học. Một vở kịch được hoàn
thành trước hết phải là một tác phẩm văn học có giá trị dù chưa được diễn trên
sân khấu. Kịch của Nguyễn Đình Thi được các nhà nghiên cứu đánh giá là giàu
chất văn học, ngôn ngữ phong phú, sinh động. Công sức của Nguyễn Đình Thi
đã bỏ ra cho thể loại này không phải là nhỏ. Ngoài niềm đàm mê sáng tác kịch,
chúng ta không thể phủ nhận tài năng vốn có của Nguyễn Đình Thi. Một vở
kịch được đánh giá là hay ngoài hành động, kịch tính còn phải xét đến giá trị
văn học của lời kịch. Hai yếu tố đó gắn bó hữu cơ với nhau bởi nếu lời kịch
thiếu tính văn học thì cũng không có tính hành động đầy đủ được.
2.3.4 Điểm hạn chế trong ngôn ngữ kịch của Nguyễn Đình Thi
xét từ góc độ sân khấu.
Do tìm hiểu về đặc điểm kịch Nguyễn Đình Thi nên chúng tôi xin lạm
bàn một chút về nét hạn chế trong ngôn ngữ kịch của ông ở một vài vở khi
được đưa lên dàn dựng trên sân khấu. Đó là lời thoại quá dài, nặng chất văn
học và chậm rãi về tiết tấu. Đây cũng là ý kiến của một số nhà nghiên cứu và
đạo diễn sân khấu. Thiết nghĩ kịch viết ra chủ yếu là diễn chứ không phải để
đọc nên khi gặp phải vấn đề khó khăn khi dàn dựng thì quả thật là điều đáng
tiếc.
Một loạt các vở kịch của ông khi vừa ra đời đã được giới văn nghệ sĩ
công nhận là hay, có ý nghĩa sâu sắc và cũng mau chóng được các nhà đạo diễn
bắt tay vào dàn dựng. Nhưng người ta thật sự ngạc nhiên vì sự "yểu mệnh" của
nó trên ánh đèn sân khấu. Ví dụ như vở Con nai đen, sáng tác năm 1961, đến
năm 1962 đã được Thế Lữ dàn dựng trên sân khấu, nhưng chỉ ra mắt khán giả
chỉ vẻn vẹn mấy buổi. Đến vở Hoa và Ngần, do Dương Ngọc Đức đạo diễn, chỉ
xuất hiện duy nhất ở đêm tổng duyệt. Và Nguyễn Trãi ở Đông Quan, viết năm
1979, đến năm 1980 đã được đạo diễn danh tiêng thời ấy là Nguyễn Đình Nghi
dàn dựng với sự thể hiện của các diễn viên nổi tiếng Nhà hát kịch Trung ương
nhưng cũng chỉ "sống" được có 9 đêm diễn. Lúc ấy trong giới sân khấu có
truyền tụng một giai thoại vui:
"Nếu kịch bản sân khấu mang tên Nguyễn Đình Thi, lại đạo diễn Nguyễn
Đình Nghi thì khâu duyệt vở nhất định sẽ là Nguyễn Đình Chỉ!" (33, 397)
Riêng kịch bản Rừng trúc, từ khi mới ra đời ai cũng tấm tắc khen hay
nhưng phải lặng lẽ chờ đến hơn hai mươi năm sau, từ năm 1978 đến năm 1999
mới có cơ hội hóa thân thành một vở diễn hoành tráng trên sân khấu. Nói về vở
kịch này, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi tâm sự: "Vở kịch của anh Thi sáng tác
theo phong cách cổ điển, thường đọc thì rất hay nhưng diễn thì lại khó cho cả
đạo diễn lẫn diễn viên." (33, 366). Như vậy, lí do dẫn đến sự ra đời muộn màng
của vở diễn Rừng trúc là ở khâu dàn dựng chứ không phải ở chủ đề tư tưởng.
Có thể do tính chất kịch của Nguyễn Đình Thi chủ yếu đánh vào lòng trắc
ẩn của mọi người, thể hiện sự xót xa, day dứt về những số phận nhỏ nhoi, đáng
thương của con người nên trong kịch có nhiều đoạn thoại rất dài để nhân vật
bộc lộ suy nghĩ, tâm trạng, ước muốn của mình. Ví dụ như lời thoại của Chiêu
Thánh ở các trang: 298, 299, 304, 305, 306, 307..., lời thoại của Nguyễn Trãi ở
các trang: 444, 445, 469, 480, 481..., lời thoại của các nhân vật trong vở Con
nai đen ở các trang: 20, 48, 64, 65... in trong Tuyển tập Nguyễn Đình Thi (tập
1). Điều đó hoa ra là một trở ngại khi dàn dựng vở kịch vì diễn viên phải độc
diễn một mình trên sân khấu không phải là một điều dễ, nêu không là một diễn
viên thật sự tài năng. Thêm nữa, lời thoại quá dài khi lên sân khấu có thể làm
giảm tính hấp dẫn, lôi cuốn khán giả hơn là những vở kịch có lời thoại ngắn
nhưng nhiều hành động, mâu thuẫn và kịch tính.
Thế nhưng, không thể vì những hạn chế nhỏ mà quên đi những giá trị to
lớn mà vở kịch mang lại. Vì vậy, sau bao nhiêu năm nung nấu dự định trong
lòng, đạo diễn nhân dân Nguyễn Đình Nghi và Phạm Thị Thành đã cùng nhau
dàn dựng thành công vở Rừng trúc với sự giúp sức của một dàn nghệ sĩ tài
danh Nhà hát Tuổi trẻ. Bằng năng lực diễn xuất tuyệt vời, họ đã vượt qua mọi
thách đố khi dựng vở. Bằng chứng là chỉ riêng màn hai NSƯT Lê Khanh gần
như độc diễn bằng độc thoại trong khoảng 40 phút. Đó là điều không phải diễn
viên nào cũng có thể làm được. Và đó cũng là điều băn khoăn của các nhà đạo
diễn bao nhiêu năm qua khi nghĩ liệu khán giả có chịu ngồi yên để theo dõi
diễn viên độc thoại trong chừng ấy thời gian không? Liệu diễn viên có một
mình làm chủ được sân khấu mà không trở thành người diễn thuyết hoặc cái
loa phát ngôn của tác giả?... Như vậy, cuối cùng vở Rừng trúc cũng được hoa
thân trọn vẹn thành những hình tượng sân khấu tuy phải trải qua gần 1/4 thế kỷ.
Một thời gian dài cho thấy những khó khăn khi dàn dựng vở kịch là một thực tế
không dễ vượt qua.
Dù Là một nhà viết kịch có tài nhưng Nguyễn Đình Thi vẫn mắc phải
điểm hạn chế mà ông không lường trước được. Hạn chế ấy tuy không lớn,
không ảnh hưởng gì đến tư tưởng chủ đề của vở kịch nhưng cũng gây ra không
ít trở ngại cho việc giới thiệu rộng rãi kịch của ông với công chúng. Tuy nhiên,
điều ấy cũng không ngăn cản sự ngưỡng mộ của chúng ta đối với những công
sức to lớn mà Nguyễn Đình Thi đã đóng góp cho thể loại kịch nói của nước
nhà.
KẾT LUẬN
1.Nguyễn Đình Thi là một trong những tác gia tiêu biểu của nền văn học
Việt Nam hiện đại. Những đóng góp của ông đặc sắc trên nhiều thể loại: thơ,
tiểu thuyết, nhạc, kịch... Từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường ông đã được
nhiều người biết đến qua việc giới thiệu các tác phẩm Triết học, nhưng; ông chỉ
thật sự nổi tiếng từ sau Cách mạng tháng Tám bằng một sức sáng tạo dồi dào
không mệt mỏi của mình (Vào những năm 1990 người ta còn tìm thấy những
tác phẩm thơ của ông). Chính vì lòng say mê, nhiệt tình và năng lực sáng tạo
ấy, ông được giới văn nghệ sĩ tín nhiệm giao cho giữ các chức vụ quan trọng
trong các Hội Văn học nghệ thuật cho đến cuối cuộc đời. Và ông đã xứng đáng
với lòng tin ấy...
2.Ở mỗi thể loại được sáng tác, ông đã đặt vào đó biết bao tâm huyết và
kết quả của những năm tháng miệt mài là một số lượng tác phẩm thật đầy đặn.
Vào giai đoạn sau của cuộc kháng chiến chống Mỹ và những năm sau khi đất
nước hoàn toàn giải phóng, Nguyễn Đình Thi tập trung vào sáng tác kịch và tỏ
ra rất say mê. Mười vở kịch không phải là số lượng ít so với một tác giả sáng
tác trên nhiều thể loại. Kịch của ông được viết theo nhiều đề tài khác nhau thể
hiện tấm lòng yêu quí thiết tha dành cho quê hương đất nước và con người Việt
Nam. Người ta thấy những vở kịch viết về đề tài lịch sử thời đầu nhà Trần và
đầu nhà Lê. Trong đó là tình cảm của ông dành cho những nhân vật in đậm dấu
son trong lịch sử dân tộc như Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh, Nguyễn Trãi... Một
loạt các vở kịch được sáng tác dựa theo các truyện cổ tích truyền thuyết thể
hiện năng lực sáng tạo riêng rất độc đáo của Nguyễn Đình Thi nhằm tô đậm
thêm lên những câu chuyện cảm động từ các tích xưa. Và không thể nào quên
giai đoạn hào hùng và đau thương của dân tộc Việt Nam trong hai cuộc kháng
chiến chống Phấp - Mỹ, Nguyễn Đình Thi trong một số vở kịch của mình đã
phần nào thể hiện sống động giai đoạn lịch sử đó theo cách nhìn và cảm nhận
riêng của mình. Đọc những vở kịch của ông được sáng tác trong khoảng gần 30
năm, người ta nhận thấy tuy phong phú về đề tài nhưng có phần hơi dàn trải
nên trừ các vở kịch về đề tài lịch sử, còn lại ông không có những tác phẩm
được đánh giá là thật xuất sắc ở các đề tài khác.
3.Về những vấn đề chủ yếu trong kịch của Nguyễn Đình Thi, nhìn chung
tác giả nghiêng về những nỗi đau thương, bất hạnh của con người trong cuộc
sống và lồng vào trong những trang kịch ấy là sự cảm thông và thương tiếc
khôn nguôi cho những số phận không may của họ.
Đọc những tác phẩm kịch của ông, người ta nhận thấy đã là con người thì
không thể nào tránh được những nỗi đau khổ của kiếp người, nó dai dẳng triền
miên qua các thời đại. Từ những con người trong lịch sử ngàn năm của dân tộc
còn in đậm mãi những dấu ấn đau thương, đến những bi kịch mà họ gặp phải
trong đời sống gia đình, xã hội và trong chiến tranh... Nguyên nhân gây ra
những nỗi bi thương của con người thì nhiều vô kể và không có nguyên nhân
nào giống nguyên nhân nào. Như nạn tranh giành và củng cố quyền lực đã đẩy
con người ra khỏi địa vị cao quí mà họ đã có, thói ghen tuông mù quáng đưa
đến sự lầm lỡ đáng tiếc, sự vô tình hồi trẻ dại đã gây ra nỗi oan nghiệt khi
trưởng thành, chiến tranh phi nghĩa gây ra bao cảnh tang thương, mất mát...
Mặc dù một số vở kịch của ông có cốt truyện quen thuộc với bạn đọc, với
khán giả nhưng người ta vẫn cảm nhận được cái hay, cái lạ, bởi nó chứa đựng
phần hồn của tác giả gửi vào trong tác phẩm. Đó là những tâm tư tình cảm,
những nỗi lòng xót xa, day dứt được thể hiện trong từng câu nói. Đọc kịch của
ông, người ta hiểu thêm về cuộc đời còn lắm nhọc nhằn và cay đắng, từ đó rút
ra bài học tốt về nhân sinh, thế sự. Đọc kịch của ông, người ta càng tự hào về
con người Việt Nam, không những thủy chung, hiền dịu mà còn mạnh mẽ, kiên
cường. Trong chiến tranh, nét đẹp của những tính cách ấy như càng nhân thêm
lên. Dầu trong bom đạn hiểm nguy, con người vẫn kiên cường chiến đấu và
chiến thắng. Họ vượt lên trên mọi đau thương, mọi khó khăn của hoàn cảnh để
hy sinh vì nghĩa lớn.
Như vậy, kịch của Nguyễn Đình Thi, ngoài việc tô đậm thêm những câu
chuyện của quá khứ, nó còn chở nặng cái tình. Tình của tác giả chan chứa với
tình người.
4.V ề phương diện nghệ thuật viết kịch, Nguyễn Đình Thi cũng có những
tìm tòi sáng tạo riêng. Trước hết, nói đến sự thành công của một tác phẩm kịch,
không thể không nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật. Đây chính là yếu tố cốt
lõi tạo nên sự thành công của vở kịch. Xuất hiện trong các sáng tác của tác giả
là một thế giới nhân vật đa dạng phong phú. Người ta tìm thấy những nhân vật
lịch sử đầy ắp tâm trạng, nỗi niềm, những nhân vật truyền kỳ với những nỗi
đau riêng được lưu truyền trong dân gian, nhân vật biểu trưng lạ lẫm, độc đáo
chuyên chở những trăn trở của tác giả, nhân vật con người mới anh hùng, mạnh
mẽ trong chiến tranh. Ở mỗi loại nhân vật, ông đều có cách xây dựng, khắc họa
theo lối riêng và đạt được những thành công nhất định. Đối với những nhân vật
mang nặng nỗi ưu tư, phiền muộn, ngòi bút của ông thật sắc sảo, bóc tách dần
những nỗi đau và tâm trạng của họ. Với những nhân vật biểu trưng, qua tài
năng miêu tả, khắc họa đã mang màu sắc huyền biến, kỳ ảo nhưng những vấn
đề mà nó chuyển tải thì lại không xa lạ với cuộc đời thật. Đến những nhân vật
con người mới trong chiến tranh thì lại được tác giả xây dựng một cách sinh
động, chân thật và gần gũi với cuộc sống hiện tại...
5.Việc tổ chức xung đột kịch là một đặc điểm nghệ thuật rất quan trọng
trong kịch của Nguyễn Đình Thi. Tim hiểu kịch của ông, người ta nhận thấy có
một số xung đột chính yếu như: xung đột giữa tham vọng của quyền lực và
quyền sống hạnh phúc của con người; xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh,
giữa người anh hùng yêu nước và bè lũ cướp nước; xung đột giữa tình yêu
nhân tính và dục vọng thú tính; xung đột hiểu lầm, một bi kịch gia đình. Ở mỗi
kiểu xung đột đều thể hiện được năng lực tổ chức và dẫn dắt xung đột một cách
tài tình của tác giả. Xung đột gay cấn, hấp dẫn trong một số vở kịch của
Nguyễn Đình Thi đã thực sự góp phần quan trọng trong việc nâng cao giá trị
kịch của ông.
6.Một đặc điểm nữa cũng không kém phần quan trọng mang đến thành
công cho kịch của Nguyễn Đình Thi là ngôn ngữ nghệ thuật. Trong kịch của
ông, có hai thứ ngôn ngữ đối thoại và độc thoại được sử dụng một cách thuần
thục. về ngôn ngữ đối thoại, người ta nhận thấy một thế giới ngôn ngữ phong
phú, nhiều vẻ của những con người đối đáp với nhau. Có thể tìm thấy hàng loạt
các tính chất như : chất văn học, chất triết lý, chất dí dỏm, hài hước, chất khẩu
ngữ, chất hành động. Ở mỗi tính chất lại có nét đặc sắc riêng, mang cái "duyên"
riêng của tác giả.
Ngôn ngữ độc thoại cũng phát huy nhiều tác dụng trong việc đặc tả tâm
trạng của nhân vật. Do nội dung của vở kịch và tính cách của nhân vật, trong
kịch của Nguyễn Đình Thi, ta thấy có rất nhiều đoạn độc thoại. Ngôn ngữ độc
thoại, ngoài việc bộc lộ nội tâm của nhân vật còn mang chất truyền cảm cao
nên rất dễ rung động lòng người. Tuy nhiên, đôi lúc do niềm cảm hứng quá dào
dạt, Nguyễn Đình Thi đã cho ra đời những đoạn độc thoại hoặc đối thoại quá
dài, điều đó phần nào gây ra những khó khăn, hạn chế trong việc đưa lên sân
khấu một số vở kịch của ông.
Ngoài ra, ngôn ngữ nghệ thuật còn thể hiện trong những lời chú thích
được sử dụng một cách cô đọng, hàm súc. Dù không quan trọng trên sân khấu
nhưng những lời chú thích này góp phần rất lớn cho việc chuẩn bị vở diễn và
cả cho việc tìm hiểu đánh giá tài năng viết kịch của tác giả ở mỗi chúng ta.
7.Trong lịch sử văn nghệ cách mạng, Nguyễn Đình Thi là một dâu ấn khó
phai mờ. Những đóng góp của ông không phải là nhỏ. Tuy sức sống của những
tác phẩm của ông còn phải chịu sự kiểm chứng khắc nghiệt của thời gian
nhưng tên tuổi của ông thì đã khắc vào thế kỷ. Với mong muốn được góp phần
tìm hiểu về kịch của ông, chúng tôi đã tiến hành khảo sát những đặc điểm về
nội dung và nghệ thuật ở mảng sáng tác này. Dù phạm vi khảo sát còn chưa
đầy đủ, chưa bao quát hết được những đặc điểm vốn có của kịch Nguyễn Đình
Thi nhưng luận văn cũng đã chỉ ra những đóng góp rất có giá trị của ông cho
thể loại kịch nói của dân tộc. Ngoài sự say mê viết kịch và tài năng của ông,
người ta còn thấy tác phẩm của ông chứa đựng cái tâm. Đó là tấm lòng yêu
thương nhân loại thật bao la, xót xa trước những hoàn cảnh khổ đau, bất hạnh
của con người. Chính những mặt thành công ở thể loại này và ở những thể loại
khác, cộng với tấm lòng nhiệt thành của ông đối với sự nghiệp văn học dân tộc
đã tạo cho ông một địa vị xứng đáng trong lòng của bạn đọc bao thế hệ. Thời
gian dẫu qua đi nhưng chúng ta vẫn tin rằng những gì còn lại của ông sẽ không
mất. Người ta sẽ nhớ mãi một Nguyễn Đình Thi lịch thiệp, đôn hậu, tài năng
nhưng vô cùng khiêm tốn:
"Tôi không nói được mình đã trải đời Không nói được mình đã hiểu
người Không dám nói mình đã biết yêu Không dám nói mình đã biết sống."
{Tóc bạc)
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Phạm Vĩnh Cư (2003) - Con nai đen của Nguyễn Đình Thi với Vua
Hươu của Carlo Gozzi (Nghiên cứu so sánh dưới góc độ mỹ học tiếp nhận),
Tạp chí Văn học số 6 (376) Tháng 6 - 2003.
2.Trần Bạch Đằng(2003) - Tiễn anh Nguyễn Đình Thi, nhớ lại Nguyễn
trãi ở Đông Quan, Báo Công an TPCHM, số 1136, ngày 22-4-2003.
3.Trần Bạch Đằng(2003) - Tiễn anh Nguyễn Đình Thi, nhớ lại Nguyễn
Trãi ở Đông Quan, báo Công an TPHCM, số 1137, ngày 24-4-2003.
4.Tất Đạt(1971) - Sáng tác và phê bình kịch theo chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa nghiêm túc, Tạp chí Văn học, sô 2.
5.Trung Đông(1986) - Sân khấu đi gần đến cuộc sống, Tạp chí Văn học,
số 1.
6.Dương Ngọc Đức( 1984) - Một chặng đường đã đi và mấy vấn đề đặt ra
trong sự phát triển của sân khấu kịch nói, Tạp chí Văn học, số 2.
7.Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi(1992) - Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Giáo dục.
8.Đỗ Đức Hiểu(1997) - Bi kịch Vũ Như Tô, Tạp chí Văn học, số 10.
9.Đỗ Đức Hiểu(1998) - Mấy điều về kịch và thi pháp kịch, Tạp chí Văn
học, số 2.
10.Phan Kế Hoành, Huỳnh Lý(1978) - Bước đẩu tìm hiểu lịch sử kịch nói
Việt Nam (trước CMT8), NXB Văn hoa.
11.Phan Kế Hoành, Quang Vinh(1982) - Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch
nói Việt Afam(1945-1975), NXB Văn hoa.
12.Nguyễn Nam(1969) - Tim hiểu nghệ thuật viết kịch, Vụ văn hóa quần
chúng xuất bản, Hà Nội.
13.Lịch sử Việt Nam, tập 1(1976) - NXB KHXH, Hà Nội.
14.Nguyễn Đình Nghi(2000) - Kịch nói Việt Nam đến hiện đại từ truyền
thống, Tạp chí Văn học, số 6.
15.Hồ Ngọc(1967) - về đặc trưng kịch, Tạp chí Văn học, số 6.
16.Nhiều tác giả(1988) - Văn học Việt Nam 1945-1975 (tập 1), NXB
Giáo dục.
17.Nhiều tác giả(1992) - Vãn học Việt Naml945-1975 (tập 2), NXB Giáo
dục.
18.Học Phi(1983) - Một đảng viên, NXB Văn học.
19.Học Phi(1984) - Cô hàng rau, NXB Tác phẩm mới.
20.Đình Quang(1976) - vấn đề mâu thuẫn trong kịch, Tuần báo Văn nghệ,
ngày 27-1.
21.Chu Xuân Diên, Lê Chí Quế(1996) - Tuyển tập truyện cổ tích Việt
Nam, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội.
22.Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam(1987) - Lý luận Văn
học, tập 2, NXB Giáo dục.
23.Tất Thắng(1971) - Chủ đề của tác phẩm kịch, Tạp chí Văn học, số 1.
24.Tất Thắng(1972) - Dành vị trí trung tâm của sân khấu cho những anh
hùng của thời đại, Tạp chí Văn học, số 5.
25.Tất Thắng(1978) - Vài khía cạnh của vấn đề hình tượng con người mới
trong kịch, Tạp chí Văn học, số 6.
26.Tất Thắng(1981) - về hình tượng con người mới trong kịch, NXB
KHXH.
27.Tất Thắng(1986) - Một yếu tố làm nên sức hấp dẫn chân chính và giá
trị lâu dài của kịch, Tạp chí Văn học, số 1.
28.Tất Thắng(1997) - Một yếu tố quan trọng trong thi pháp kịch, Tạp chí
Văn học ,số 3.
29.Nguyễn Đình Thi (2003) - Tuyển tập kịch Nguyễn Đình Thi, NXB
Văn học.
30.Nguyễn Đình Thi (1997) - Tuyền tập Nguyễn Đình Thi, tập 7, NXB
Văn học.
31.Nguyễn Đình Thi (1997) - Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, tập 2, NXB
Văn học.
32.Nguyễn Đình Thi (1997) - Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, tập 3, NXB
Văn hoe.
33.Nguyễn Đình Thỉ, về tác gia và tác phẩm (Hà Minh Đức giới thiệu,
tuyển chọn ) (2000), NXB Giáo dục.
34.Nguyễn Khắc Thuần - Danh tướng Việt Nam (tập 1) (2000) - NXB
Giáo dục.
35.Nguyễn Khắc Thuần - Danh tướng Việt nam (tập 2) (2002) - NXB
Giáo dục.
36.Đại Việt sử kí toàn thư (tập 1) (1983) - NXB KHXH.
37.Bùi Ngọc Trác (1987) - sự hình thành và phát triển hình tượng con
người mới trong kịch nói Việt nam, Nghiên cứu nghệ thuật, số 4.
38.Thích Thanh Từ (1996) - Khoa hư lục giảng giải, NXB TPHCM.
39.Nguyễn Huy Tưởng (1996) - Tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng, tập 1,
NXB Văn học Hà Nại.
40.Nguyễn Huy Tưởng, về tác gia và tác phẩm (Bích Thu, Tôn Thảo
Miên tuyển chọn, giới thiệu) (2001), NXB Giáo dục.
41.Trần Vượng(1971) - Mở rộng tìm tòi hình thức kịch để phản ánh chân
thực cuộc sống mới, Tạp chí Văn học, số 1.
42.Sân khấu qua một chặng đường lịch sử (Kỷ yếu Đại hội sân khấu toàn
quốc lần thứ 2) (1984) - Hội nghệ sĩ sân khấu.

