intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: THƠ CA DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI

Chia sẻ: Greengrass304 Greengrass304 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:120

152
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Văn hoá là nền tảng, là nhân tố phản ánh trình độ phát triển của xã hội. Văn hoá truyền thống thể hiện sự sáng tạo của mỗi dân tộc. Nền văn hoá Việt Nam mang đậm bản sắc văn hoá của cư dân nông nghiệp, được tạo bởi dân tộc Việt Nam trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các dân tộc thiểu số sống trên đất nước Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng phát triển giá trị mới về văn hoá văn học nghệ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: THƠ CA DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM --------------------------------- PHẠM VINH QUANG THƠ CA DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thái Nguyên - 2008
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM --------------------------------- PHẠM VINH QUANG THƠ CA DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG Thái Nguyên - 2008
  3. Mục lục Trang MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 7 6. Những đóng góp của luận văn ............................................................................. 7 7. Bố cục của luận văn.............................................................................................. 7 NỘI DUNG CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI ......................................................... 8 1.1. Đặc điểm lịch sử, xã hội, văn hoá của người Dao Tuyển ............................... 8 1.2. Khái quát về thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ..................................... 19 * Tiểu kết................................................................................................................. 26 CHƯƠNG 2. NỘI DUNG THƠ CA DÂN GIAN NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI ................................................................................................... 27 2.1. Vài nét khái quát về cuộc sống của người Dao Tuyển qua thơ ca dân gian 28 2.2. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển là tiếng ca ai oán của những người mồ côi bất hạnh .......................................................................................... 30 2.3. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển thể hiện một quan niệm đẹp về tình yêu và hôn nhân của con người .................................................................. 37 2.4. Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển là tấm gương phản chiếu đời sống tập quán tín ngưỡng của con người ............................................................................. 50 * Tiểu Kết................................................................................................................ 58 CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP THƠ CA DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI ....................................................... 60 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. 3.1. Khái niệm thi pháp, thi pháp học và thi pháp văn học dân gian................... 60 3.1.1. Thi pháp và thi pháp học .................................................................. 60 3.1.2. Thi pháp văn học dân gian ............................................................... 60 3.2. Một số đặc điểm thi pháp thơ ca dân gian của người Dao Tuyển................ 61 3.2.1. Thời gian nghệ thuật ........................................................................ 61 3.2.2. Không gian nghệ thuật ..................................................................... 70 3.2.3. Một số biện pháp tu từ nghệ thuật .............................................................. 77 3.2.4. Hình thức diễn xướng thơ ca dân gian ...................................................... 85 *Tiểu kết.................................................................................................................. 97 KẾT LUẬN ............................................................................................... 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 102 PHỤ LỤC ................................................................................................ 108 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Lí do khoa học Văn hoá là nền tảng, là nhân tố phản ánh trình độ phát triển của xã hội. Văn hoá truyền thống thể hiện sự sáng tạo của mỗi dân tộc. Nền văn hoá Việt Nam mang đậm bản sắc văn hoá của cư dân nông nghiệp, được tạo bởi dân tộc Việt Nam trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các dân tộc thiểu số sống trên đất nước Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng phát triển giá trị mới về văn hoá văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số là một nhiệm vụ vô cùng cấp bách”[77, tr.63]. Văn học dân gian là một thành tố quan trọng của văn hoá dân gian, là di sản văn hoá quí báu của dân tộc. Mỗi làn điệu dân ca, mỗi lời ca dao... đều lấp lánh trong nó vẻ đẹp của bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc, vẻ đẹp của tính cách, tâm hồn con người. Thơ ca dân gian là một tiểu loại đặc sắc của văn học dân gian. Tìm hiểu thơ ca dân dân gian của dân tộc Dao nói chung, của người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng là một việc làm cần thiết, góp phần gìn giữ và phát huy những tinh hoa di sản văn hoá quý báu của dân tộc. 1.2.Lí do thực tiễn Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu về người Dao đã được tiến hành trong phạm vi cả nước, từ việc tìm hiểu cội nguồn lịch sử, tình hình phân bố dân cư, đời sống tôn giáo, tín ngưỡng cho đến việc phân tích sự phát triển kinh tế xã hội và biến đổi văn hoá dân tộc Dao ở các địa phương. Các công trình ấy cung cấp khá đầy đủ về một số khía cạnh dân tộc học, văn hoá học. Nhưng chưa có công trình nào đi sâu vào tìm hiểu thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài này nhằm tìm hiểu đời sống tinh thần của người Dao Tuyển qua thơ ca, đặc biệt là các giá trị 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. về nội dung và nghệ thuật của thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai. Tìm hiểu thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm về cuộc sống, văn hoá, tâm hồn của con người miền núi nói chung và nhóm người Dao Tuyển nói riêng. Hiện nay, tôi đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Văn tại nơi có nhiều người Dao Tuyển sinh sống. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai sẽ giúp tôi hiểu rõ hơn về văn hoá tinh thần của người Dao Tuyển. Từ đó có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy văn học dân gian của các tộc người thiểu số. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Mỗi dân tộc đều có những nét văn hoá đặc thù riêng. Những giá trị văn hoá đậm bản sắc đó đã tạo nên nền văn hoá thống nhất mà đa dạng Việt Nam. Nghiên cứu nền văn học dân gian của các dân tộc là nhằm gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu để bảo tồn và phát triển bền vững thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai có ý nghĩa thiết thực với địa phương. Trong nhiều thập kỉ qua, đã có không ít nhà khoa học quan tâm nghiên cứu về người Dao. Các công trình nghiên cứu đó đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến một vài khía cạnh về người Dao ở Lào Cai. Từ thế kỉ XVIII, nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết tác phẩm Kiến văn tiểu lục (1778). Trong tác phẩm này, Lê Quý Đôn không chỉ đề cập đến nguồn gốc, mà còn miêu tả khái quát về cách ăn mặc, cuộc sống di cư của một nhóm người Man (Dao) ở nước ta. Cũng vào năm đó, tác phẩm Hƣng Hoá xứ – Phong Thổ lục của tiến sĩ Hoàng Bình Chính đã giới thiệu sơ lược về người Dao ở Châu Thuỷ Vỹ (Lào Cai). Năm 1856, nhà sử học Phạm Thận Duật đã viết tác phẩm Hƣng Hoá kí lƣợc, giới thiệu khái quát về phong tục tập quán của các dân tộc ở Hưng Hoá, trong đó có nói tới phong tục tập quán người Mán (Dao). Tuy nhiên, các tác phẩm trên đều chưa nói đến thơ ca dân 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. gian của người Dao mà chỉ giới thiệu khái quát về người Dao với những vấn đề về lịch sử, dân tộc học. Đến đầu thế kỉ XX, nhiều tài liệu viết về người Dao ở nước ta do các tác giả người Pháp viết lần lượt được công bố. Đáng chú ý là các bài viết của M.Abadie, đặc biệt là A.Bonifacy với các bài viết: Các dân tộc miền Bắc Đông Dƣơng, Một cuộc công cán ở vùng ngƣời Mán. Những bài viết này đề cập đến nhiều khía cạnh văn hoá của các nhóm Dao ở Việt Nam như ngôn ngữ, sản xuất, phong tục tập quán...nhưng cũng chỉ mô tả khái quát và còn tản mạn. Năm 1904, A.Bonifacy tiếp tục công bố các bài đã sưu tầm được về truyền thuyết dân gian người Dao như Truyền thuyết Bàn Hồ, Quá Sơn Bảng...rồi hàng loạt các chuyên khảo về người Dao như: Mán Quần cộc (1904 – 1905), Mán Quần Trắng (1905), Mán Đại Bản (1908)...Trong đó có trích dẫn một số đoạn thơ ca từ sách cúng, từ đám cưới, đám tang của người Dao. Mặc dù những đoạn thơ ấy chỉ được giới thiệu hết sức sơ lược hay chỉ làm minh chứng cho những nhận định, nhưng cũng đã đánh dấu ông là học giả đầu tiên đề cập đến thơ ca dân gian dân tộc Dao ở Việt Nam. Sau năm 1945, các nhà khoa học ở nước ta tiếp tục sưu tầm và nghiên cứu về người Dao. Đáng chú ý là tác phẩm Dân ca Dao do nhà nghiên cứu Triệu Hữu Lý sưu tầm và biên dịch. Đây là tập dân ca đầu tiên của người Dao gồm nhiều loại hình được xuất bản: hát đối đáp nam nữ, tình thư gửi (tín ca), những lời răn lưu truyền, những lời bài hát đám cưới. Ngƣời Dao ở Việt Nam của các tác giả Bế Viết Đẳng - Nguyễn Khắc Tụng - Nông Trung - Nam Tiến, do nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 1971, là tác phẩm đề cập khá toàn diện về đời sống của người Dao trên lãnh thổ Việt Nam như dân số, địa vực, tên gọi các nhóm Dao, các hình thái kinh tế, sinh hoạt vật chất, sinh hoạt xã hội, sinh hoạt văn hoá tinh thần và những đổi mới trong cuộc sống sinh hoạt của người Dao từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến 1971. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập tới những nét 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. cơ bản về đời sống văn hoá của người Dao, trong đó có thơ ca dân gian, chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những nét đặc thù về văn hoá, đặc biệt là thơ ca dân gian của người Dao ở từng địa phương. Cuốn Lễ hội cổ truyền Lào Cai của Trần Hữu Sơn, do Nxb Văn hoá dân tộc xuất bản năm 1999, đã giới thiệu những sinh hoạt lễ hội truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số ở Lào Cai. Trong đó đề cập đến Lễ tết nhảy của dân tộc Dao Đỏ Sa Pa, Lễ lập tịch của người Dao Họ. Trong sách, tác giả có đề cập đến dân ca Dao nhưng chỉ dừng ở mức độ khái quát. Cuốn Tập tục chu kì đời ngƣời của các tộc ngƣời ngôn ngữ H’Mông - Dao ở Việt Nam của Nguyễn Đức Lợi, do Nxb Văn hoá dân tộc xuất bản năm 2002, đã đề cập đến tập tục, chu kì đời người của các dân tộc trong ngữ hệ H’Mông - Dao ở Việt Nam.Trong đó đã đi sâu vào tìm hiểu một số tập tục trong cuộc đời của người Dao như tập tục đánh dấu sự trưởng thành, lễ cấp sắc, tục cưới xin, tục ma chay… nhưng chưa chú ý tới thơ ca dân gian của người Dao. Về người Dao Tuyển, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu quan tâm, chú ý là các công trình nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Sơn. Trần Hữu Sơn (2001), Lễ cƣới ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, đã đề cập tương đối chi tiết đến hôn nhân và nghi lễ cưới hỏi của người Dao Tuyển. Cuốn sách đã giới thiệu hàng trăm bài dân ca đám cưới của người Dao Tuyển ở Lào Cai, Hà Giang (chủ yếu là ở Lào Cai). Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. Cuốn sách là một nguồn tư liêụ quý nghiên cứu về kinh tế, văn hoá, xã hội của người Dao. Công trình đã giới thiệu hàng trăm bài dân ca lao động, dân ca nghi lễ phong tục, dân ca sinh hoạt của người Dao Tuyển (chủ yếu là ở Lào Cai). Tuy nhiên, Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về các loại hình thơ ca dân gian, trình bày sơ đôi nét về nghệ thuật. 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. Vì vậy, việc tìm hiểu thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai, đặc biệt là việc đi sâu vào tìm hiểu những giá trị nội dung và thi pháp thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai vẫn còn là một khoảng trống. Trên cơ sở kế thừa thành quả của các công trình đi trước, chúng tôi lựa chọn đề tài Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai nhằm góp phần tiếp tục khai thác vốn văn hoá nghệ thuật cũng như những nét đẹp trong tâm hồn của người Dao Tuyển. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu mang tính cấp thiết, tiếp tục bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng, văn hoá của của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa những tài liệu khoa học đã công bố về người Dao Tuyển ở Việt Nam nói chung, về người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng, bằng những nguồn tư liệu địa phương qua nghiên cứu, sưu tầm tại chỗ, tác giả muốn đi sâu nghiên cứu về thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai. Qua đó, nhận diện thực trạng đời sống văn hoá tinh thần phong phú của cộng đồng người Dao Tuyển, đặc biệt là những giá trị của thơ ca dân gian. Nghiên cứu thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai là một việc làm cần thiết, là góp phần bổ sung những hiểu biết về một tiểu loại văn học trong sự đa dạng phong phú của nền văn học dân gian dân tộc Dao. Từ đó, khẳng định những giá trị cần được gìn giữ và bảo tồn. Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi muốn giới thiệu những giá trị của của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai nhằm giáo dục truyền thống tốt đẹp của văn hoá tộc người và giá trị của nó trong cuộc đấu tranh xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Nghiên cứu những vấn đề lí thuyết làm cơ sở để triển khai đề tài. 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. Tìm hiểu một số đặc điểm về đời sống văn hoá xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo của người Dao có liên quan đến đề tài. Khảo sát, thống kê, phân tích tư liệu về dân ca Dao Tuyển để đi đến những nhận định về giá trị của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai. Chỉ ra những nét đặc thù của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai trên cơ sở so sánh đối chiếu với thơ ca dân gian của các dân tộc khác. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính Thơ ca dân gian của ngƣời Dao Tuyển ở Lào Cai. Xem xét thêm một số yếu tố khác có liên quan đến nội dung đề tài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4.2.1. Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu Chúng tôi tiến hành khảo sát thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai trong một số công trình đã được công bố: 1. Trần Hữu Sơn (2001), Lễ cƣới ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 2. Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành khảo sát, phân tích một số lời thơ dân gian của người Dao Tuyển và những tư liệu liên quan đến đề tài mà chúng tôi thu thập được trong quá trình điền dã. 4.2.2.Phạm vi vấn đề nghiên cứu Trong giới hạn của một đề tài luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ nghiên cứu nội dung cơ bản và một số yếu tố về thi pháp tiêu biểu trong phần lời của dân ca của người Dao Tuyển ở Lào Cai ( những yếu tố khác dùng để phân tích tham khảo khi cần thiết). 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu liên ngành. Phương pháp khảo sát thống kê. Phương pháp phân tích tổng hợp so sánh. Phương pháp điền dã. 6. Những đóng góp của luận văn Lần đầu tiên thơ ca của người Dao Tuyển ở Lào Cai được tìm hiểu một cách hệ thống trên các phương diện nội dung và thi pháp. Bước đầu làm rõ bản sắc riêng của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển so với thơ ca dân gian của các dân tộc khác trên địa bàn. Bên cạnh đó, trong quá trình điền dã, chúng tôi sưu tầm được một số lời ca dân gian, dù lời lẽ còn thô mộc, nhưng những lời ca ấy chính là minh chứng sinh động cho sinh hoạt tinh thần phong phú rất đặc trưng của người Dao Tuyển. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành ba chương viết: - Chƣơng1: Khái quát về lịch sử, xã hội,văn hoá của ngƣời Dao Tuyển ở Lào Cai. - Chƣơng 2: Nội dung thơ ca dân gian của ngƣời Dao Tuyển ở Lào Cai. - Chƣơng3: Đặc điểm thi pháp thơ ca dân gian của ngƣời Dao Tuyển ở Lào Cai. Tài liệu tham khảo Phần phụ lục của luận văn có một số tranh ảnh, bản đồ minh hoạ 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. NỘI DUNG CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI VĂN HOÁ CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI 1.1. Đặc điểm lịch sử, xã hội, văn hoá của ngƣời Dao Tuyển 1.1.1.Vài nét về nguồn gốc lịch sử của ngƣời Dao Tuyển Trong trường kì lịch sử, Lào Cai là điểm hội lưu văn hóa của các tộc người (Lào Cai có 27 dân tộc sinh sống), vì vậy diện mạo văn hoá của vùng biên ải này khá đa dạng. Tính đa dạng trong văn hoá Lào Cai được thể hiện rõ nét trong văn hóa các tộc người: “Lào Cai có mặt các cƣ dân của ba (trong số bốn) ngữ hệ lớn ở Việt Nam: Ngữ hệ Nam Á có các tộc ngƣời Việt, Mƣờng, Kháng, H.Mông, Dao, La Chí, La Ha ; Ngữ hệ Hán –Tạng có các tộc ngƣời Hoa ( Xạ Phang), Hà Nhì , Phù Lá (cả nhóm Xá Phó ); Ngữ hệ Thái có các tộc ngƣời Tày (cả nhóm Pá Dí ), Thái , Giáy, Lào Lự , Bố Y”[48, tr.13]. Trong số các dân tộc thiểu số ở Lào Cai, người Dao là một trong những tộc người có dân số khá đông (85.428 người, chiếm tỉ lệ 15,24% dân số toàn tỉnh - số liệu thống kê năm 2006), gồm 3 nhóm Dao khác nhau: Dao Đỏ, Dao Họ và Dao Tuyển. Nhóm Dao Tuyển ở Lào Cai có số dân 31.325 người. Theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn: “Dân tộc Dao Tuyển ở Việt Nam có khoảng 45.000 người”[50, tr.7]. Như vậy, xét theo mức độ tập trung dân cư, người Dao Tuyển ở Việt Nam sinh sống chủ yếu ở Lào Cai. Người Dao Tuyển cư trú trên một địa bàn rộng. Trên thế giới người Dao Tuyển sinh sống ở 4 quốc gia: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam và Lào. Ở Việt Nam, người Dao Tuyển cư trú tại 4 tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang và Lai Châu. Tại Lào Cai, người Dao Tuyển cư trú tập trung tại các huyện: Bảo Yên, Bảo Thắng, Bát Xát, Cam Đường, Bắc Hà và Mường 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. Khương. Dù ở các quốc gia khác nhau, sinh sống trên các vùng miền khác nhau nhưng tất cả người Dao Tuyển đều có chung một cội nguồn lịch sử, đều gần gũi nhau về các mặt như tên gọi, tiếng nói, văn hoá. Tuy nhiên, người Dao Tuyển ở mỗi vùng đều có những nét đặc thù riêng do nhiều nguyên nhân khách quan đem lại như điều kiện địa lí, môi trường sinh thái, giao lưu kinh tế, văn hóa với các tộc người anh em mà họ sinh sống trên cùng một địa bàn trong một thời gian dài. Ở Việt Nam, dân tộc Dao Tuyển có nhiều tên gọi khác nhau như ở Lào Cai được gọi là Dao Tuyển; ở Phong Thổ Lai Châu người Dao Tuyển đuợc gọi là Dao Đầu Bằng; ở Hà Giang, Tuyên Quang người Dao Tuyển được gọi là Dao Aó Dài. Cho dù tên gọi ở các địa phương có khác nhau nhưng đó đều là tên gọi chỉ một bộ phận của nhóm Dao Làn Tiẻn (Dao Lan Điền). Về nguồn gốc của người Dao nói chung, người Dao Tuyển nói riêng, cho đến nay trong dân gian vẫn còn lưu truyền rộng rãi câu chuyện Bàn Hồ. Đó là câu chuyện giải thích về nguồn gốc của họ : Bàn Hồ là con long khuyển mình dài ba thƣớc, lông đen vằn vàng mƣớt nhƣ nhung, từ trên trời giáng xuống trần gian đƣợc Bình Hoàng yêu quý nuôi trong cung. Một hôm Bình Hoàng nhận đƣợc chiến thƣ của Cao Vƣơng. Bình Hoàng liền họp bá quan văn võ để bàn mƣu tính kế diệt họ Cao nhƣng không ai tìm đƣợc kế gì . Trong khi đó thì con long khuyển Bàn Hồ từ trong kim điện nhảy ra sân rồng quỳ lạy xin đi giết Cao Vƣơng. Trƣớc khi Bàn Hồ ra đi nhà vua có hứa, nếu thành công sẽ gả công chúa cho. Bàn Hồ bơi qua biển bảy ngày, bảy đêm mới tới nơi Cao Vƣơng ở. Cao Vƣơng thấy con chó đẹp tới phủ phục trƣớc sân rồng thì cho đó là điềm lành, nên đem vào cung nuôi. Nhân một hôm Cao Vƣơng say rƣợu Bàn Hồ cắn chết Cao Vƣơng và ngoặm lấy đầu đem về báo công với Bình Hoàng. Bàn Hồ lấy đƣợc cung nữ đem vào núi Cối Kê ( Chiết Giang ) ở. Vợ chồng Bàn Hồ không bao lâu sinh đƣợc 6 con trai và 6 con gái. Bình Hoàng ban sắc cho con cháu Bàn Vƣơng thành 12 họ, riêng ngƣời con cả đƣợc lấy 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. họ cha, còn các con thứ lấy tên làm họ, gồm các họ: Bàn, Lan, Mãn, Uyển, Đặng, Trần, Lƣơng, Tống, Phƣợng, Đối, Lƣu, Triệu. Con cháu Bàn Vƣờng sinh sôi nảy nở mỗi ngày một nhiều và phân tán khắp nơi để sinh sống [6, tr.19]. Như vậy, Bàn Hồ là một nhân vật thần thoại, được người Dao thừa nhận là “ông tổ” của mình và được thờ cúng rất tôn nghiêm. Ngoài ra, sử sách lưu truyền cũng có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của người Dao, nhưng tất cả đều thống nhất một quan điểm: người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, di cư sang Việt Nam qua nhiều con đường khác nhau, trong một quá trình lâu dài. Quá trình thiên di của người Dao Tuyển tới Lào Cai đã được nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn trình bày một cách khá cụ thể : Người Dao Tuyển di cư vào Việt Nam bằng hai con đường chính. Tuyến thứ nhất vào cuối Triều Minh (Thế kỉ 17), người Dao Làn Tiẻn từ Quảng Đông vào Móng Cái (Quảng Ninh), qua Lục Ngạn sông Đuống đến Yên Bái, ngược sông Chảy lên Lào Cai. Tuyến thứ hai vào năm Mậu Thân đầu triều Thanh (1668), người Dao Tuyển đến Việt Nam ở hai vùng Vân Sơn và Mộng Tự. Năm Tân Dậu triều Thanh (1801), người Dao từ Mộng Tự đến Kiến Thuỷ, Hà Khẩu theo sông Hồng vào Châu Thuỷ Vĩ (Lào Cai). Như vậy đầu thế kỉ XIX, người Dao Tuyển đã có mặt ở vùng sông Hồng Lào Cai. Liên tiếp cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, người Dao Tuyển đã có một số đợt thiên di đến vùng Bát Xát [51, tr.10]. Người Dao Tuyển bên cạnh những đặc điểm mang tính cội nguồn, còn có những đặc trưng riêng mang đậm dấu ấn môi trường tự nhiên, văn hoá xã hội của vùng miền. Đến cư trú ở Lào Cai, người Dao Tuyển mong muốn có một cuộc sống ổn định, ấm no hạnh phúc. Thời kì mà người Dao đến Lào Cai là thời kì mà sự thống trị của triều đình phong kiến đối với những vùng xa xôi hẻo lánh không chặt chẽ. Trong điều kiện đó, người Dao làm ăn tương đối tự do. Vì vậy, mà đồng bào tin rằng Việt Nam là nơi có thể sinh sống tốt: Thăm hết các nơi cùng ngõ hẻm 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. Đất nƣớc Việt Nam lòng thấy vui Việt Nam giàu đẹp đừng quên nhé Mau mau dọn nhà đến Việt Nam [6, tr.40]. Ngày nay, sống trong môi trường xã hội chủ nghĩa, nhờ có đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, đời sống của người Dao Tuyển đã có những biến đổi sâu sắc: từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, có cuộc sống bình đẳng với các dân tộc anh em, mọi mặt đời sống được cải thiện rõ nét, bản sắc văn hoá được bảo tồn và phát triển. 1.1.2. Một vài đặc điểm về văn hoá xã hội truyền thống của ngƣời Dao Tuyển Như chúng tôi đã trình bày ở mục 1.1.1, người Dao Tuyển ở Lào Cai không cư trú tập trung mà phân tán ở hầu khắp các huyện. Môi trường sống của họ là vùng núi cao, địa hình phức tạp, giao thông không thuận tiện. Điều đó đã tạo ra sự ngăn cách và khép kín về kinh tế, văn hoá xã hội. Nhưng mặt khác, trong điều kiện hiện nay, khi đất nước đang trên đà hội nhập và đi những bước đi vững chắc về mọi mặt, người Dao Tuyển ngày càng có điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các dân tộc anh em. Do vậy, đời sống kinh tế, văn hoá của họ đang từng bước được phát triển phong phú và đa dạng. Xét về đặc điểm văn hoá truyền thống của họ, có thể chia thành những khía cạnh sau: 1.1.2.1. Quan hệ xã hội, bản làng và gia đình Người Dao Tuyển sống chủ yếu dựa vào nền kinh tế tiểu nông, tự cấp, tự túc. Quan niệm “trọng nông khinh thƣơng” đã ăn sâu vào tâm lí của họ. Hình thái tâm lí văn hoá của người Dao Tuyển là luôn coi trọng luân lí đạo đức, coi trọng lợi ích cộng đồng dân tộc, tôn trọng ý thức cộng đồng, tôn trọng quan niệm giá trị an cư lạc nghiệp, không muốn tiến thủ ra bên ngoài. 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. Kết cấu xã hội của người Dao Tuyển gồm 3 cấp độ khác nhau: Cộng đồng theo địa vực cư trú (làng, bản), cộng đồng mang tính huyết thống (dòng họ) và cộng đồng gia đình. Làng của người Dao Tuyển được gọi là “giăng”. Làng thường được lập trên các sườn núi. Người Dao Tuyển không cư trú xen kẽ với các dân tộc khác trong làng. Đứng đầu mỗi làng là trưởng làng “giăng châu”. Trưởng làng thông thường là người trưởng họ trong dòng họ lớn nhất trong làng, những cũng có nơi là người có uy tín, giỏi làm ăn. Họ là người nắm vững các luật tục, quy ước chung của làng, có khả năng tập hợp, chỉ đạo dân làng. Đồng thời, họ am hiểu pháp luật, chủ trương chính sách của nhà nước, có khả năng truyền đạt chủ trương chính sách đó đến với người dân. Bên cạnh trưởng làng, mỗi làng còn có một già làng. Đó là người am hiểu phong tục tập quán, biết nghi lễ cúng bái và có uy tín cao. Ngoài ra, già làng còn có vai trò giám sát thực hiện các nghi lễ chung của làng và của gia đình, hoặc giám sát việc cúng của thầy cúng ở nơi khác đến làm lễ cho các gia đình trong làng. Mỗi làng của người Dao Tuyển có một hệ thống các luật tục như luật tục bảo vệ nguồn nước, luật tục về quan hệ giữa các thành viên, chống thả rông gia súc, bảo vệ mùa màng…Hệ thống luật tục của làng đều được dân làng dân chủ thảo luận. Luật tục đã trở thành một công cụ quản lí làng. Nếu ai vi phạm luật tục, sẽ bị dân làng phạt. Người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng quy định mức phạt như sau: Ai chặt phát một cây con ở rừng chung của làng bị phạt 5 đồng bạc trắng, chặt một cây to phạt 10 đồng bạc trắng, đốt rừng chung làm nương rẫy bị phạt 20 đồng bạc trắng [50, tr.31]. Người Dao Tuyển có 12 họ chính. Mỗi họ lại có nhiều dòng họ khác nhau. Dòng họ là những người có chung một ông tổ 6 đời. Mỗi dòng họ có một hệ thống 6 tên đệm riêng (mỗi tên đệm tương ứng với một thế hệ), có một ông trưởng họ - con trai trưởng của ngành trưởng. Trưởng họ phải là người am hiểu tôn giáo, tín ngưỡng, nếp sống của người Dao, có trách nhiệm chỉ 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. đạo các việc chung của dòng họ, đại diện cho dòng họ, giao tiếp, giao dịch với các dòng họ khác. Các thành viên trong dòng họ có trách nhiệm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau khi có công việc lớn như: làm nhà, cưới xin, ma chay,… Gia đình người Dao Tuyển là gia đình phụ hệ, tính chất phụ hệ chi phối chặt chẽ quan hệ gia đình: Chủ gia đình là đàn ông, nếu bố chết thì con trai trưởng thay thế. Trong gia đình, người chồng giữ vị trí quan trọng, có trách nhiệm chỉ đạo sản xuất, đảm nhiệm toàn bộ những công việc nặng nhọc, thực hiện các nghi lễ gia đình, đồng thời có trách nhiệm giáo dục các con trai và quan hệ với người ngoài. Người vợ phụ trách các công việc nội trợ và giáo dục các con gái. Riêng công việc đồng áng và làm vườn thì dường như không có sự phân chia rõ ràng. Trong công việc hàng ngày thì tính chất phụ hệ và thứ bậc chi phối đậm nét trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình: vợ phải nghe lời chồng, con cái nghe lời cha mẹ, em nghe lời anh chị. 1.1.2.2. Tôn giáo tín ngƣỡng Tôn giáo tín ngưỡng có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Dao Tuyển. Điểm nổi trội trong tôn giáo tín ngưỡng của họ là chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tam giáo. Trong đó ảnh hưởng sâu đậm nhất là Đạo giáo. Đạo giáo ra đời ở Trung Quốc và đã trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của người Dao Tuyển, được họ tiếp thu và cải biến cho phù hợp với điều kiện xã hội của mình. Thực tế cho thấy: Hầu hết các vị thần linh của Đạo giáo đều trở thành hệ thống các vị thần linh của người Dao Tuyển như hệ thống miếu vạn thần là hệ thống miếu thờ thần của Đạo giáo. Ngoài ra, các hệ thống bùa chú, vũ khí trừ tà như đạo tiên (soi đạo), đồng linh (chuông đồng), thần trượng (gậy thần), đại lực xoa (đinh ba đại lực) đều là các khí cụ của Đạo giáo. Bên cạnh Đạo giáo, Phật giáo cũng có ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống của người Dao Tuyển. Những phép thuật của Phật như uống nước 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. thiêng, tư tưởng hoá kiếp luân hồi của Phật giáo đều thâm nhập vào đời sống của con người. Bên cạnh đó, các hình thức xem tử vi tướng số, xem ngày tháng tốt, thực hiện các nghi lễ cưới xin, làm nhà mới đều được sử dụng rộng rãi. Sau Đạo giáo, Phật giáo, đời sống cuả người Dao Tuyển còn chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Biểu hiện rõ nhất là ở việc thờ cúng tổ tiên, sùng bái thầy cấp sắc. Tuy ảnh hưởng của Tam giáo nhưng tàn dư tôn giáo sơ khai vẫn tồn tại. Đó là tàn dư ma thuật tình yêu với các loại bùa ngải, ma thuật làm hại với quan niệm về ma Ngọ Hải. Đặc biệt là tín ngưỡng liên quan đến việc chữa bệnh phát triển khá mạnh. Từ quan niệm hồn đến nguyên nhân ốm đau, bệnh tật là do bị hồn ma bắt, đến việc cúng bái chữa bệnh. Các tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp tồn tại với nhiều hình thức như việc cầu cúng miếu làng, làm phép thuật trừ sâu bệnh, tổ chức lễ cúng cơm mới ... Tóm lại: Tam Giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tín ngưỡng của đồng bào Dao Tuyển ở Lào Cai. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là sự biển hiện của từng tôn giáo trong tín ngưỡng của người Dao Tuyển là không rõ nét. Tất cả các tôn giáo trên đều quyện chặt với nhau, cùng với những tàn dư tôn giáo sơ khai tạo nên hệ thống tín ngưỡng - tôn giáo hỗn hợp, phức tạp và đa dạng trong đời sống văn hoá của con người. Tôn giáo tín ngưỡng của người Dao Tuyển ở Lào Cai gồm nhiều hình thức, dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số hiện tượng tiêu biểu: *Thờ cúng tổ tiên Theo quan niệm của người Dao Tuyển: Tổ tiên là những người đã khuất trong dòng họ tính từ 6 đời trở xuống. Khi ông bà cha mẹ mất, linh hồn của họ trở về thế giới bên kia nhưng những linh hồn ấy vẫn thường xuyên đi lại chăm nom cho con cháu nơi dương thế. Tổ tiên thuộc loại ma lành, phù hộ 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. cho con cháu, nếu không thờ cúng thì tổ tiên có thể bắt tội, làm cho con cháu ốm đau, bệnh tật, đói khổ. Vì vậy, thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình. Những ngày mà người Dao Tuyển thờ cúng tổ tiên là ngày mùng một tết, ngày mùng 6 tháng 6 âm lịch, ngày cúng cơm mới. *Thờ cúng Bàn Vƣơng Bên cạnh việc thờ tổ tiên, người Dao Tuyển ở Lào Cai cũng như các ngành Dao khác còn thờ ông tổ cộng đồng dân tộc Dao là Bàn Vương. Bàn Vương được thờ cúng chung với tổ tiên gia đình vào các dịp lễ cấp sắc, đám chay, tết lễ, ngày rằm, mùng một hàng tháng. Ngoài việc thờ cúng hàng ngày còn có những lễ cúng Bàn Vương riêng. Hình thức cúng Bàn Vương thường có các nghi lễ như lễ khất, lễ cúng Bàn Vương, lễ tiễn đưa. *Lễ cấp sắc Người Dao Tuyển có nghi lễ quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của người nam giới được tổ chức trang trọng gọi là lễ cấp sắc. Cấp sắc là một nghi lễ rất phổ biến trong dân tộc Dao. Khi gia đình người Dao Tuyển có con trai từ 11 đến 17 tuổi cần phải làm lễ cấp sắc. Người được cấp sắc mới được công nhận là con cháu của Bàn Vương và mới được Bàn Vương phù hộ. Người không được cấp sắc thì cho dù tuổi già cũng vẫn bị coi là trẻ con và khi chết hồn không được đoàn tụ với tổ tiên. Tiến trình của lễ cấp sắc có rất nhiều tình tiết phức tạp, lễ diễn ra suốt ba ngày hai đêm với các nghi lễ chính như: lễ ăn sư, lễ kêu thầy, lễ công tào, lễ khởi sự, lễ cấp sắc, lễ điệu binh, lễ hợp vũ, lễ hương hoa, lễ giải tuế, lễ mời thánh, lễ an đòn, lễ tú đăng, lễ hi diên, lễ du thần, lễ búa nhị, lễ túc bị, lễ tảo chiền, lễ phá ngục, lễ hưởng thực, lễ thiết điện, lễ đăng chương, lễ tháo lâu, lễ thăng đô, lễ tống thánh. Người Dao Tuyển tin rằng, người được cấp sắc thì làm ăn mới được may mắn, sinh hoạt mọi mặt mới được thuận lợi, dòng tộc mới được phát triển. Vì vậy, cho dù tốn kém, họ vẫn tổ chức bằng được nghi lễ này. 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. *Nghi lễ đám cƣới Lễ cưới là phong tục trọng đại của đời người, là một trong những sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc, in đậm dấu ấn tín ngưỡng của con người. Người Dao Tuyển có quy định chặt chẽ về việc cưới, tạo thành những nguyên tắc trong hôn nhân. Chẳng hạn như nguyên tắc ngoại hôn dòng họ chi phối mọi quan hệ hôn nhân. Trong phạm vi sáu đời con cháu không được kết hôn, dựa vào thứ tự hệ thống tên đệm của từng dòng họ, các thành viên của mỗi dòng họ biết được quan hệ nội tộc và tránh kết hôn cùng dòng họ, không vi phạm quan niệm loạn luân. Nghi lễ đám cưới ở mỗi nhóm Dao, ở mỗi vùng có những nét riêng. Lễ cưới người Dao Tuyển ở Lào Cai được chia thành các nghi thức: lễ so tuổi, lễ dạm hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt. *Nghi lễ tang ma Người Dao Tuyển khi chết, con gái phải tắm nước lá thơm cho bố mẹ, con trai cắt tóc cho người chết. Họ tổ chức khâm liệm cho người chết một cách chu tất. Trước kia, người Dao Tuyển ở Lào Cai làm hoả táng cho người chết. Sau khi hoả táng họ lấy tro bỏ vào lọ, đem chôn ở núi đá theo từng dòng họ. Nhưng ngày nay, người Dao Tuyển tổ chức địa táng. Tuy nhiên, trong một số phong tục, bài cúng vẫn còn dấu vết hoả táng. Trong lễ tang thầy cúng phải đọc cuốn sách cúng “Tán Tảng” bài cúng đốt lửa hoả táng được tượng trưng bằng nến. Trên đây chỉ là một số hiện tượng tiêu biểu trong truyền thống tôn giáo tín ngưỡng phong phú, phức tạp và đa dạng của tộc người Dao Tuyển ở Lào Cai. Qua những hiện tượng này, chúng tôi thấy rằng: Trong cộng đồng người Dao Tuyển vẫn còn tồn tại những tàn tích của chủ nghĩa đa thần nguyên thuỷ. Đặc biệt là tam giáo (nổi trội nhất là Đạo giáo), đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần, đã ăn sâu vào tư tưởng của họ. Những yếu tố tích cực cần phải được bảo tồn và phát huy để góp phần làm phong phú bản sắc văn hoá dân tộc của tộc người này. 16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2