intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn : "Thực hiện dân chủ ở cấp xã - thực trạng và giải pháp"

Chia sẻ: Nguyễn Việt Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:132

334
lượt xem
105
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng, nhà mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, không chỉ để lại những kiến giải sâu sắc về dân chủ và thực hành dân chủ mà Người còn trực tiếp nêu gương về lối ứng xử dân chủ đối với con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống. Lúc sinh thời, Người đã từng nhấn mạnh “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, là chìa khóa vạn năng để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội” [24, t.8, tr. 279]. Xác...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn : "Thực hiện dân chủ ở cấp xã - thực trạng và giải pháp"

  1. 1 LUẬN VĂN "Thực hiện dân chủ ở cấp xã - thực trạng và giải pháp"
  2. 2 \ PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân chủ là hiện tượng lịch sử x ã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội, và cũng là bản chất của Nhà nước Việt Nam. Hay nói cách khác, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [1]. Chủ tịch H ồ Chí Minh, nhà tư tưởng, nhà mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, không chỉ để lại những kiến giải sâu sắc về dân chủ và thực hành dân chủ m à Người còn trực tiếp nêu gương về lối ứng xử dân chủ đối với con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống. Lúc sinh thời, Người đã từng nhấn mạnh “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, là chìa khóa vạn năng để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội” [24, t.8, tr. 279]. Xác định đúng đắn tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân chủ, trong bất kỳ giai đoạn nào, Đ ảng và Nhà nước ta đều nhận thức việc thực hành dân chủ rộng rãi sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, đảm bảo sự thành công của cách mạng Việt Nam. Đ ặc biệt, đối với cơ sở việc thực hành dân chủ rộng rãi có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện rõ nhất bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Nhằm phát huy đầy đủ, hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Chỉ thị đã xác định: "... để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát Nhà nước,
  3. 3 khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất’’. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, để cụ thể hoá các chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 (sau được sửa đổi bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003) kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định các nội dung, phương thức và trách nhiệm của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. V à sự kiện quan trọng nhất nhất, khẳng định vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đối với hệ thống chính trị - xã hội nước ta, đó là Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 (2007 ), đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trên đây là những văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu những bước quan trọng việc thể chế hoá phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' của Đảng nhằm phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ cơ sở. Thực hành dân chủ ở cơ sở là việc đảm bảo quyền làm chủ trực tiếp cho người dân ở nơi cư trú, cơ quan và đơn vị công tác. Tuy nhiên có thể thấy rằng việc thực hiện dân chủ ở cấp x ã, tức là đảm bảo quyền làm chủ trực tiếp của người dân ở nơi cư trú (cấp cơ sở trong hệ thống các cấp quản lý hành chính Nhà nước) có vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trong việc giữ vững niềm tin của người dân vào Đ ảng, Nhà nước, trong việc giữ gìn và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta. V ì đó là địa b àn sinh sống, lao động và sản xuất, là nơi diễn ra sự tiếp xúc hằng ngày giữa nhân dân và chính quyền, là nơi thực hiện đ ường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân, đồng thời là nơi đảm bảo nhu cầu được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở của nhân dân, cũng là nơi nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức chính quyền cơ sở.
  4. 4 Thực hiện dân chủ ở cơ sở luôn là vấn đề mang tính thời sự và đòi hỏi phát triển không ngừng, đầy tính sáng tạo. V ì thế, chúng ta vừa phải đi sâu nghiên cứu và nhận thức đúng đắn về lý luận, vừa phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để tìm ra hình thức, biện pháp tổ chức thực hiện phù hợp để đưa QCDC vào cuộc sống. Từ khi Đảng và Nhà nước ta ban hành chủ trương xây dựng và thực hiện các quy định về dân chủ ở cơ sở, dân chủ ở cấp xã, cho đến nay chúng ta đã triển khai thực hiện rộng khắp trong cả nước và đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: “Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hoá trong nhiều văn bản pháp quy về thực hiện QCDC cho một số loại hình cơ sở; các cơ quan, đơn vị, cơ sở đã tích cực xây dựng quy chế, quy định; thôn, ấp, bản, làng, tổ dân phố xây dựng hương ước, quy ước thực hiện dân chủ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện QCDC cơ sở đ ược gắn với phát triển kinh tế - xã hội, cải cách thủ thục hành chính, cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", các phong trào, các hoạt động văn hoá, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở. Nhân dân đồng tình hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả. Dân chủ và thực hành dân chủ XHCN ở nước ta, nhất là dân chủ trực tiếp của nhân dân tiếp tục được coi trọng, tăng cường. Xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở đã góp phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, các Đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiền phong, gương mẫu, chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo hướng sát dân, trọng dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; góp phần quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí; tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, nhà nước với nhân dân; chống lại các âm mưu lợi dụng dân chủ, dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [15]. Tuy nhiên, những kết quả đạt được nêu trên mới chỉ là bước đầu, vẫn còn những mặt hạn chế, yếu kém trong triển khai thực hiện: “Việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy ước, hương ước không ít nơi còn hình thức, chất lượng
  5. 5 chưa cao, chưa thành nền nếp. Một số xã, phường, thị trấn chưa làm tốt việc công khai, dân chủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá cả đền bù khi chuyển mục đích sử dụng đất, chính sách tái định cư. Không ít cơ quan thiếu công khai, dân chủ về quản lý thu, chi tài chính công, nâng lương, quy hoạch đ ào tạo, đề bạt cán bộ. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân, cơ sở dịch vụ ngoài công lập và một số doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; thiếu công khai, dân chủ về sản xuất, kinh doanh, tiền lương, tiền thưởng và thực hiện chế độ bảo hiểm đối với người lao động. Một số nơi nội bộ lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện của nông dân, đình công, bãi công của công nhân diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với cấp uỷ, chính quyền” [15]. Đ ây là những thành tựu, hạn chế chung đ ược tổng kết và rút ra sau 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị. Bắc Ninh, một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong tam giác kinh tế Hà Nội - H ải Phòng - Q uảng Ninh; phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Giang, phía Đông nam và Nam tiếp giáp với tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, phía Tây và Tây bắc tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Đ ây cũng là vùng đất giàu truyền thống văn hiến, yêu nước và cách mạng. Ngay từ năm 1926 những thanh niên, học sinh và trí thức yêu nước của Bắc Ninh với tố chất thông minh đã sớm tiếp thu, truyền bá chủ nghĩa Mac - Lênin vào địa phương, tiêu biểu như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt…và đã trở thành nh ững lãnh tụ xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam. Từ xa xưa nhân dân Bắc Ninh đã sớm chủ ý đến sản xuất vật phẩm tiêu dùng, tiểu thủ công nghiệp. H ệ thống làng nghề xuất hiện sớm, các sản phẩm của làng nghề phong phú đa dạng (đ úc đồng, đồ sắt, đồ gốm, dệt lụa..). D o thương mại phát triển nên hoạt động buôn bán ở Bắc Ninh cũng khá sôi nổi; nhiều làng buôn đã xuất hiện, thúc đẩy nhanh tốc độ lưu thông cuả hàng hóa ở các làng nghề (các làng buôn như Phù Lưu, Đình Bảng - Từ Sơn; Xuân Cầu, Đa Ngưu). Tuy nhiên, dù làm ruộng, làm nghề thủ công hay buôn bán, từ thượng cổ cho đến ngày nay, nhân dân Bắc Ninh vẫn sống gắn bó cùng nhau với mô hình cộng đồng làng xóm. Do đó, nghiên cứu việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh
  6. 6 Bắc Ninh và phân tích để đưa ra các kết luận giải pháp hoàn thiện có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển của một địa phương điển hình và trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị, tỉnh Bắc Ninh đã đạt được một số kết quả sau: “Việc xây dựng và thực hiện QCDC trên địa bàn được triển khai chặt chẽ, đồng bộ trong tất cả các loại hình cơ sở. Hầu hết các quy định trong quy chế được các địa phương, cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm túc, đạt nhiều kết quả; thực hiện QCDC đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, phương thức lãnh đạo, điều hành của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, MTTQ và đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới theo hướng: Trọng dân, gần dân, học dân và có trách nhiệm với dân; tinh thần, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị được nâng lên rõ rệt…” [45]. Bên cạnh những thành tựu đạt được trên đây, việc thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh còn bộc lộ một số yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện: “Việc tuyên truyền, triển khai, tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một số địa phương, đơn vị chưa thường xuyên, chưa sâu rộng, chưa tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; một số nơi việc tổ chức thực hiện chưa kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; việc thực hiện thông báo công khai, tổ chức cho nhân dân b àn còn hạn chế, hình thức, nhất là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến dân, đ ã dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp…” [45]. Là một cán bộ đang công tác trong bộ máy công quyền của nhà nước (UBND huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh), tác giả nhận thấy rõ ràng và trực tiếp vị trí và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là thực hiện dân chủ ở x ã, phường, thị trấn; nơi gần dân nhất, nơi trực tiếp lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của những người làm chủ đất nước, những người như Nguyễn Trãi đã nói “Chèo thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Từ việc xác định vị trí và tầm quan trọng đó, tác giả tìm hiểu và phát hiện ra những bất cập trong việc triển khai tổ chức, thực hiện. Những bất cập liên quan đến sự lãnh
  7. 7 đạo, chỉ đạo, quản lý của bộ máy chính quyền; những bất cập liên quan đến trình độ, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức; những bất cập liên quan đến sự nhận thức của người dân… Vậy, để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tồn tại, yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở đặc biệt là dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước vì mục tiêu “Dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, tác giả chọn đề tài “Thực hiện dân chủ ở cấp xã - thực trạng và giải pháp” với mong muốn, đề tài sẽ đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã, đồng thời giúp người dân thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, vấn đề dân chủ nói chung và thực hiện dân chủ ở cơ sở, ở xã, phường, thị trấn đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà ho ạt động chính trị cũng như các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến một số nội dung: nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ và vận dụng tư tưởng đó vào việc xây dựng Nhà nước XHCN ;1 nghiên cứu việc thực hiện dân chủ cơ sở và m ột số giải pháp trong quá trình triển khai thực hiện;2 nghiên cứu về mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ ở cơ sở với việc xây dựng chính quyền ở cơ sở;3… Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập tới vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đồng thời đ ưa ra một số giải pháp trong quá trình triển khai và thực hiện. (1) Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Lại Quốc Khánh, “Vấn đề chế độ dân chủ nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ góc nhìn triết học”, Tạp chí cộng sản, (số 23/2010)); nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đồng thời nêu bật tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ (Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tình hình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trần Bạch Đằng, "Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (số 35, 12/2003); Vũ Văn Hiền (2004), Quy chế dân chủ ở cơ sở - vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội) (2) Nguyễn Thu Cúc (2002), Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Chí Mỳ, “Dân chủ cơ sở - sự sáng tạo của Đảng ta”, Tạp chí Cộng sản, (số 95, 205); Trần Quang Nhiếp, “Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (số 2/1999)); (3) Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2005), Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Sáu, "Quan hệ giữa thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính quyền cơ sở nông thôn", Tạp chí Lý luận chính trị, (số 11/2002); Trịnh Ngọc Anh, "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh", Tạp chí Cộng sản,(số 11, 4/2003
  8. 8 Trong mấy năm gần đây, có một số ít đề tài tập trung nghiên cứu riêng ở địa bàn cấp Tỉnh, Huyện về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với thực hiện dân chủ ở cơ sở, đồng thời đưa ra một số giải pháp trong quá trình triển khai, thực hiện.4 Nhưng các công trình nghiên cứu nói trên chưa thật sự chú trọng vào việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; chưa nêu bật được vai trò và tầm quan trọng của việc tổ chức thực hiện một cách hiệu quả dân chủ ở cơ sở, dân chủ ở xã, phường, thị trấn; người nghiên cứu chưa thực sự đi sâu và tìm hiểu trực tiếp từ những người dân cho nên các giải pháp đưa ra hầu như chỉ trên lý thuyết, chung chung, thiếu thực tế. Đây chính là lý do để tác giả tiếp tục đi sâu, nghiên cứu các vấn đề về dân chủ, thực hiện dân chủ ở cơ sở và đặc biệt là thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; tìm kiếm và đưa ra giải pháp thiết thực giúp cho việc “Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp x ã trên đ ịa bàn tỉnh Bắc Ninh” nói riêng và trong phạm vi cả nước. 3. Giả thuyết nghiên cứu của luận văn Trong chế độ XHCN, dân chủ chính là sự tham gia rộng rãi của người dân vào các công việc của nhà nước, m à địa bàn sinh sống, lao động và sản xuất của người dân đó chính là xã, phường, thị trấn. Xã, phường, thị trấn gọi chung là cơ sở (căn cứ vào không gian quản lý của Nhà nước) là nền tảng tạo dựng nên một x ã hội nhất định. Cơ sở chính là thực tiễn cuộc sống, vừa là điểm xuất phát của mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, p háp luật của Nhà nước, vừa là nơi triển khai thực hiện, kiểm định và bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước và cũng là nơi để đánh giá, thẩm định hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước một cách rõ ràng, trực tiếp nhất. Vì vậy, dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là dân chủ ở xã, phường, thị trấn là nền tảng của nền dân chủ XHCN. Do đó, nếu dân chủ ở cơ sở nói chung và dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng không được triển khai thực hiện, hoặc tuy được thực hiện nhưng không đúng yêu cầu của nhà nước, của xã hội, của nhân dân, hoặc việc thực hiện không (4) Bùi Thị Hạnh (2009), Thực hiện dân chủ cơ sở tại tỉnh Bắc Giang - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành quản lý hành chính công, mã số 603482, Học viện HCQG.
  9. 9 đem lại hiệu quả thực tế thì đó sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng hách dịch, cửa quyền, tham nhũng… và điều quan trọng hơn là sẽ tạo ra phản ứng trái chiều đối với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong nhân dân từ đó làm cho nhân dân mất niềm tin đối với Đảng và Nhà nước, kìm hãm sự phát triển chung của đất nước và cuối cùng sẽ làm m ất đi bản chất của Nhà nước XHCN (bản chất dân chủ), mà khi một nhà nước đ ã đánh mất bản chất của mình thì nhà nước đó không còn tồn tại. Vì vậy, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói chung và trên đ ịa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng, sẽ đem lại quyền dân chủ trực tiếp cho người dân. Hơn nữa, nhân dân là người chủ của đất nước, nhân dân lập ra bộ máy nhà nước thay mặt mình xây dựng pháp luật và quản lý đất nước, thực hiện quyền làm chủ và bảo vệ lợi ích của nhân dân. V ì vậy, việc bảo đảm cho nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ của mình ở cơ sở là điều kiện và tiền đề để xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN, xây dựng một chính quyền của dân, do dân và vì dân. Trên tinh thần đó, Đảng ta đã khẳng định: “Phát huy dân chủ là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển của đất nước ta” [9] và “Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là đ ộng lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện mối gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân” [10]. Trên phương diện chính trị - pháp lý, thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, chống quan liêu, cửa quyền, chuyên quyền, chống tham ô, lãng phí, bè phái, cơ hội..., góp phần ổn định và lành mạnh đời sống xã hội. Đặc biệt hơn, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở sẽ củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, góp phần xây dựng, gìn giữ và bảo vệ Nhà nước Việt Nam XHCN. 4. Mục đích nghiên cứu của đề tài Chọn đề tài “Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, tác giả tập trung làm rõ quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa b àn tỉnh Bắc Ninh, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn
  10. 10 thiện, nâng cao chất lượng tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh bắc Ninh những năm tiếp theo. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau: - H ệ thống hóa những lý luận chung về dân chủ, tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở và đặc biệt là xã, phường, thị trấn ở Việt Nam. - Phân tích và đánh giá một cách khoa học việc tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ khi QCDC ở cơ sở ra đời (10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở và một số đánh giá cơ b ản năm 2009, 2010), rút ra ưu, nhược điểm và vấn đề đặt ra cần giải quyết trong tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn những năm tiếp theo. - Rút ra kết luận và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh với mục đích hỗ trợ người dân thực hiện đúng, tốt hơn quyền làm chủ của mình. 6. Đ ối tượng nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu quá trình tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ khi QCDC ở cơ sở ra đời. 7. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Tập trung nghiên cứu những nội dung trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã) trên địa b àn tỉnh Bắc Ninh từ khi QCDC ở cơ sở ra đời (10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính
  11. 11 trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và một số đánh giá cơ bản năm 2009, 2010). 8. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với việc sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học hành chính cơ bản như: - Nghiên cứu lý thuyết, tài liệu liên quan đến dân chủ và việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. - Thu thập, phân tích, tổng hợp, so sánh các số liệu, kết quả 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở và đánh giá một số nét cơ bản trong việc tổ chức thực hiện dân chủ năm 2009, 2010 để rút ra b ài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp trong quá trình tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp x ã những năm tiếp theo trên đ ịa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả nước nói chung. - Sử dụng các số liệu thu thập được từ các điều tra xã hội học, thống kê, phỏng vấn, để khái quát và tổng kết kinh nghiệm làm tư liệu phục vụ nghiên cứu và hoàn thành luận văn. 9. Đóng góp mới của luận văn Như tác giả đã trình bày ở phần “Tình hình nghiên cứu đề tài”, các công trình nghiên cứu trước đây chủ yếu nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ, thực hiện dân chủ ở cơ sở, một số bài học kinh nghiệm và giải pháp trong quá trình tổ chức thực hiện. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp, cụ thể việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh hay khu vực. Một số đề tài, luận văn cũng đã đề cập tới việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bản tỉnh, tuy nhiên đề tài, luận văn đó chưa đi sâu vào việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp x ã, đồng thời các giải pháp đưa ra trong quá trình tổ chức thực hiện thiếu khái quát, mang tính chung chung, thiếu thực tế.
  12. 12 Do vậy, ngoài việc hệ thống lại những tư tưởng, q uan điểm, khái niệm cơ bản về dân chủ, thực hiện dân chủ ở cơ sở, thông qua luận văn tác giả đã trực tiếp đi sâu nghiên cứu việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã tại một địa bàn hành chính cụ thể - tỉnh Bắc Ninh, đ ể tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp cụ thể dựa trên những thông tin, tư liệu mà tác giả đã tìm hiểu trực tiếp từ những nơi có thẩm quyền tổ chức thực hiện, đặc biệt là thông tin từ những người dân - chủ nhân của đất nước. 10. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn dự kiến đ ược trình bày với 03 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa b àn tỉnh Bắc Ninh Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
  13. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ 1.1. Khái quát về nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam D ân chủ là bản chất của Nhà nước XHCN mà cốt lõi của vấn đề dân chủ trong Nhà nước XHCN đó là “Dân làm chủ và dân là chủ”. Vậy để hiểu rõ hơn về các luận điểm này, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu một số vấn đề sau: 1.1.1. Một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mac - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ Xã hội chủ nghĩa a. Dân chủ và dân chủ Xã hội chủ nghĩa Quan niệm chung về dân chủ: D ân chủ (demos - nhân dân, Kratos - chính quyền), một từ có gốc từ H y Lạp, có nghĩa là chính quyền của nhân dân hay sự cai trị của nhân dân. X ét về mặt giá trị xã hội, dân chủ là một trong những thứ quý báu nhất của con người, là một giá trị vĩnh hằng mà từ khi có con người, từ khi chưa có chữ viết và chưa có khái niệm dân chủ, con người lúc đó đã có một đời sống “hoàn toàn” dân chủ. Con người lúc đó đã cùng nhau làm chủ, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, cùng lao động, cùng chiếm hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra. Tuy nhiên, từ khi có nhà nước tới nay, xã hội dân chủ sơ khai đã biến mất và “một đ i chưa đến ngày trở lại”. Khi giai cấp và nhà nước ra đời, dân chủ đã trở thành một chế độ chính trị với những nội dung và hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào sự phát triển trong mỗi kiểu nhà nước ở mỗi quốc gia, dân tộc. Dân chủ từ đó gắn liền với lợi ích giai cấp, với quyền làm chủ của giai cấp này và mất (hoặc hạn chế) quyền làm chủ của giai cấp khác. Trong lịch sử xã hội loài người đã trải qua hai chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ chủ nô, mặc dầu có nhiều hạn chế, nhưng cũng là một bước tiến so
  14. với chế độ cộng sản nguyên thủy, nhưng rồi, cùng với sự phát triển của sản xuất, nền dân chủ chủ nô được thay bằng chế độ phong kiến chuyên chế. Phải hàng ngàn năm sau, khi cuộc cách mạng tư sản thành công ở một số nước tư bản phát triển và cùng với nó, nền dân chủ tư sản ra đời. D ân chủ là khát vọng sâu xa của con người. Cuộc đấu tranh diễn ra suốt lịch sử nhân loại chính là cuộc đấu tranh giành dân chủ của những người bị áp bức, bóc lột. Cũng như nhiều giá trị khác của xã hội loài người, dân chủ cũng có những tính chất như: tất yếu, giai cấp, lịch sử cụ thể, chủ thể... và bị quy định bởi bản sắc văn hóa, đặc trưng sắc tộc, chế độ chính trị, tôn giáo và tín ngưỡng... Dân chủ bao giờ cũng được biểu hiện trong hiện thực hết sức phong phú, đa dạng với những trình độ, cấp độ rất khác nhau. Nền dân chủ của các xã hội khác nhau có những nét tương đồng nhưng cũng có những nét khác biệt. Chính nét tương đồng, đặc điểm chung làm nên giá trị nhân loại phổ biến của dân chủ. Không có một nền dân chủ chung chung, không bản sắc, phù hợp với mọi quốc gia, mọi dân tộc. Do đó, không thể mang nền dân chủ của xã hội này làm khuôn mẫu áp đặt cho nền dân chủ của xã hội khác. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều học giả đề cập đến ý nghĩa khái niệm “dân chủ”: Democritus, một triết gia Hy Lạp cổ đại, thì lại cho rằng “Thà sống nghèo trong một nước dân chủ còn hơn cái gọi là cuộc đời hạnh phúc trong một nước độc tài, vì tự do tốt hơn nô lệ” [36]. Các nhà chính trị học ngày nay định nghĩa “Dân chủ là hình thức tổ chức chính trị của xã hội dựa trên sự công nhận nhân dân như là nguồn gốc của quyền lực, dựa trên quyền của nhân dân trong việc tham gia giải quyết những vấn đề của quốc gia và trao cho các công dân một loạt quyền và quyền tự do thực sự” [36]. Tại Mỹ, đất nước tiêu biểu cho một nền dân chủ tư sản, cựu Tổng thống Mỹ, R. Reagan, cho rằng “Dân chủ không chỉ là biện pháp cai trị mà còn là biện pháp giới hạn quyền lực của Chính phủ để nó không
  15. ngăn cản sự phát triển những giá trị quan trọng nhất mà con người nhận được từ gia đ ình và nhà trường” [36]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac - LêNin, có thể tiếp cận khái niệm dân chủ ở một số khía cạnh sau: D ân chủ là một hình thái nhà nước, một chế độ xã hội, trong đó thừa nhận về mặt pháp luật những quyền tự do, quyền dân chủ, quyền bình đẳng của nhân dân (tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do bầu cử…). Dân chủ đ ược quy định thành quyền, nghĩa vụ của công dân với nhà nước và trách nhiệm của nhà nước với công dân. D ân chủ là một phạm trù chính trị, bởi vì nó gắn liền với bản chất giai cấp thống trị xã hội, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị (trong lịch sử phát triển đã có hình thức dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản hay còn gọi là dân chủ XHCN). Theo nghĩa này, không có dân chủ thuần túy, phi giai cấp, đồng thời dân chủ sẽ mất đi khi nào trong xã hội không còn giai cấp. Mặt khác, dân chủ là m ột phạm trù lịch sử khi gắn với chế độ Nhà nước. Dân chủ còn là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động chống áp bức, bóc lột, đòi q uyền tự do, quyền làm chủ của mình. Quyền lực thuộc về nhân dân là giá trị cao nhất của dân chủ và theo nghĩa này thì dân chủ sẽ tồn tại lâu dài khi xã hội còn giai cấp và nhà nước. Dân chủ chi phối tính dân tộc, phản ánh tính chất của chế độ chính trị, văn hoá x ã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể. D ân chủ là một nhu cầu khách quan, tất yếu của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. D ân chủ còn được hiểu là một nguyên tắc sinh hoạt của các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng dân cư, theo nguyên tắc số ít phục tùng số đông, thiểu số phục tùng đa số. Trên thế giới hiện nay tồn tại hai hình thức của nền dân chủ: Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
  16. * D ân chủ trực tiếp là một hình thức của Chính phủ, trong đó quyền được đưa ra các quyết định chính trị được thực hiện một cách trực tiếp dưới các thủ tục của quy tắc đa số. Hình thức này chỉ khả thi đối với các thực thể nhỏ. Do đó, không có hệ thống dân chủ hiện đại nào là nền dân chủ hoàn toàn trực tiếp, mặc dù hầu hết trong đó đều có các yếu tố dân chủ trực tiếp. Các cơ quan dân chủ trực tiếp là các tổ chức Quốc hội, các sáng kiến lập pháp phổ biến, các cuộc triệu tập, các cuộc trưng cầu dân ý, v.v... * Dân chủ đại diện là một hình thức của Chính phủ trong đó người dân thực hiện quyền giống nhau nhưng không phải là theo từng cá nhân mà thông qua các đ ại diện do họ chọn ra và chịu trách nhiệm với họ. Dân chủ đại diện có liên quan đến hai hệ thống chính quyền cơ bản: dân chủ nghị viện và dân chủ tổng thống. - D ân chủ nghị viện: Dưới hình thức chính quyền này, Nghị viện có vai trò trung tâm, Thủ tướng hay người lãnh đạo Nội các đứng đầu cơ quan hành pháp và phụ thuộc vào sự tin cẩn của Nghị viện; người đứng đầu nhà nước thường có ít hay không có quyền lực hành pháp mà chỉ đóng vai trò đ ại diện. - Dân chủ tổng thống: Người đứng đầu hành pháp là người đứng đầu nhà nước, người trực tiếp được dân bầu ra và không phụ thuộc vào sự tin cẩn của Nghị viện. V ậy, qua một số quan điểm ở trên có thể thấy đặc điểm quan trọng nhất, bản chất của dân chủ là quyền tự do cá nhân, là sự tôn trọng cá nhân con người. “Công nhận phẩm giá vốn có của mọi thành viên gia đình nhân loại, công nhận các quyền b ình đẳng và b ất khả phân của họ là cơ sở của tự do, công bằng và hoà bình trên thế giới” (lời nói đầu Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền). Nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa : Chủ nghĩa xã hội là giải phóng to àn bộ nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột. Vì thế, dân chủ XHCN là một nền dân chủ kiểu mới, một nền dân chủ của những con người thoát khỏi áp bức, bóc lột. Mặc dù kế thừa các giá trị quý
  17. báu của mọi nền dân chủ đã có của nhân loại, nhưng dân chủ XHCN có đặc điểm riêng: Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN; dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng XHCN; dân chủ XHCN là nền dân chủ của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, không có dân chủ nghĩa là không có chủ nghĩa xã hội. Dân chủ XHCN chính là sự hiện thực hóa khát vọng dân chủ của toàn thể nhân dân lao động. V ậy, dân chủ XHCN ra đời như là kết quả tất yếu của lịch sử đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động vì sự nghiệp giải phóng toàn thể nhân dân lao động. Dân chủ XHCN được hình thành d ần dần và từng bước được ho àn thiện cùng với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Cùng ở trình độ hiện đại trong lịch sử hình thành và phát triển của dân chủ, nhưng dân chủ XHCN khác về bản chất và nguyên tắc so với dân chủ tư sản. Sự khác biệt này được thể hiện: Thứ nhất: D ân chủ tư sản chỉ phục vụ lợi ích của một thiểu số nắm quyền lực về kinh tế và chính trị trong x ã hội tư sản. Đó là giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, đồng thời nắm quyền lực trong thể chế Nhà nước tư sản và chi phối xã hội về ý thức, tư tưởng, lối sống, đạo đức với hệ tư tưởng tư sản. Pháp quyền tư sản thừa nhận trên nguyên tắc pháp lý những quyền của con người, nhưng trên thực tế, việc thực hiện những quyền đó đối với quần chúng thường bị hạn chế. Những thành quả dân chủ và tiến bộ xã hội đạt được chủ yếu phải thông qua cuộc đấu tranh của quần chúng lao động, của phong trào công nhân chứ không phải do giai cấp tư sản cầm quyền tự nguyện thực hiện. D ân chủ XHCN hướng mục tiêu vào việc khẳng định và thực hiện quyền lực của đa số. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực đó. Họ đ ược cách mạng giải phóng và trở thành người chủ, có địa vị làm chủ xã hội. Thể chế Nhà nước và các thiết chế dân chủ khác đều hướng đích vào việc thực hiện lợi ích, quyền lực của nhân dân, phản ánh nguyện vọng, ý chí của nhân dân. Quyền lực nhân dân, đó là cơ sở và là m ục tiêu của việc xây dựng thể chế, phát triển và hoàn thiện nền dân chủ.
  18. Thứ hai: D ân chủ là hình thức tổ chức quyền lực trong xã hội, thông qua Nhà nước và biểu hiện trực tiếp ở nhà nước. Một chế độ dân chủ (hay nền dân chủ) muốn tự biểu hiện mình, tất yếu phải thông qua chế độ nhà nước, song không phải chế độ nhà nước nào cũng đồng thời là chế độ dân chủ, trùng hợp tự nhiên với chế độ dân chủ. Thể chế tư sản dựa trên nền tảng kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Sở hữu thuộc về giai cấp tư sản nên nhà nước ấy trước sau vẫn chỉ là công cụ nhằm bảo vệ lợi ích và duy trì quyền lực của giai cấp tư sản, một nhóm nhỏ trong xã hội. Nó đối kháng và xung đột với lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích phổ biến của x ã hội. Quyền lực nhân dân tức là quyền lực công cộng của xã hội uỷ quyền vào nhà nước đã b ị tha hoá, chỉ còn mang tính hình thức mà căn nguyên sâu xa của nó là ở chế độ tư hữu, dẫn tới tha hoá lao động, tha hoá bản chất con người. Muốn thực hiện được dân chủ cho đa số trong xã hội phải xoá bỏ trật tự hiện tồn tư bản chủ nghĩa, thực hiện giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội bằng một cuộc cách mạng, như vậy mới có thể nhân đạo hoá hoàn cảnh, làm cho hoàn cảnh trở nên có tính người, làm cho chệ độ có nhân tính. N ền dân chủ của mỗi quốc gia phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí... và năng lực thực hành dân chủ của đông đảo quần chúng của Quốc gia ấy. Mà nền dân chủ XHCN hoạt động và thể hiện thực tế thông qua hệ thống chính trị XHCN. Vậy, hệ thống chính trị XHCN là gì? Theo lý luận của Chủ nghĩa Mac - Lênin thì hệ thống chính trị XHCN ra đời từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền Nhà nước, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được ho àn thiện dần trong quá trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội. H ệ thống chính trị XHCN là một chỉnh thể bao gồm: Đảng Cộng sản, N hà nước XHCN, các tổ chức Chính trị - x ã hội hợp pháp, các tầng lớp nhân dân cùng các mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận đó, hoạt động trên nguyên tắc bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân và nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
  19. Đ ảng Cộng sản là hạt nhân của hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận lãnh đạo hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội bằng việc đề ra chủ trương, đường lối, cương lĩnh, chiến lược, sách lược trên nền tảng của Chủ nghĩa Mac - LêNin. N hà nước XHCN là cơ quan thể hiện và thực hiện quyền lực của nhân dân lao động; thay mặt nhân dân lao động, được nhân dân ủy quyền, chịu trách nhiệm trước nhân dân, quản lý mọi hoạt động của xã hội bằng hệ thống pháp luật và những thiết chế nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự bảo vệ, giám sát của nhân dân. Các tổ chức Chính trị - xã hội hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Đó là nơi làm chủ tập thể của nhân dân, là khâu trung gian nối liền Đảng Cộng sản, Nhà nước XHCN với quần chúng nhân dân. Thông qua các tổ chức này, nhân dân giới thiệu các đại biểu của mình tham gia vào chính quyền, đóng góp ý kiến cho Đảng, nhà nước, đồng thời qua đây nhân dân thể hiện tâm tư, nguyện vọng của mình với Đảng, nhà nước. Ba bộ phận này cùng với cơ chế vận hành của chúng (Đảng lãnh đạo - N hà nước quản lý - nhân dân lao động làm chủ) hợp thành hệ thống chính trị XHCN, gắn bó chặt chẽ với nhau vì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, Nhà nước XHCN là nhân tố cơ bản nhất để thực hiện quyền lực của nhân dân. V ậy “Dân chủ XHCN là nền dân chủ được xây dựng và hình thành trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mang bản chất của giai cấp công nhân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thực hiện và đảm bảo quyền làm chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân đối với xã hội” [21]. b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ Trong toàn bộ di sản văn hoá và tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng dân chủ là m ột phần giá trị to lớn. Người là nhà văn hoá, nhà yêu nước, nhà cách mạng giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX. Một trong những giá trị
  20. văn hoá đáng tự hào, đáng trân trọng là tư tưởng dân chủ của Người, Người đã góp phần to lớn đưa dân tộc này từ kiếp nô lệ trở thành người tự do, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh hình thành và phát triển suốt to àn bộ cuộc đời hoạt động của Người. Tuy nhiên, nói đến tư tưởng dân chủ thì phải kể đến Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam mà Người là đại diện gửi tới Hội nghị Quốc tế Vec-Xai năm 1919. Trong b ản yêu sách này, N gười nêu lên 8 điểm. Trong đó, đáng lưu ý điểm thứ bẩy “Thay chế độ ra các sắc lệnh b ằng chế độ ra các đạo luật” [27]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn, Người đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong chế độ dân chủ, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân bao giờ cũng đi liền với nhau. Do đó không thể xây dựng một x ã hội công bằng, dân chủ, văn minh nếu mỗi công dân không tự giác thực hiện đúng luật pháp và hoàn thành nghĩa vụ của mình đ ối với xã hội. Pháp luật có liên quan rất mật thiết với vấn đề dân chủ. Yếu tố bảo đảm để dân chủ vận hành trong một hành lang an toàn, không bị thiên lệch chính là pháp luật. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người dành trọn cuộc đời, hy sinh, tranh đấu cho nền độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân, những giá trị về độc lập dân chủ phải mất bao công sức, xương máu giành được là vô cùng quý giá và phải được bảo vệ, giữ gìn. Không cho phép b ất cứ kẻ thù nào lợi dụng, phá hoại chế độ dân chủ cũng như những giá trị dân chủ đã được xây dựng nên. Người nói: "Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân" [28, t.9, tr. 586].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2