MỤC LỤC
Trang PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài 4
9 2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 14
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 14
16 5. Đối tượng, khách thể và phạm vi
6. Phương pháp nghiên cứu 16
7. Giả thuyết nghiên cứu 18
8. Kết cấu của luận văn 18
PHẦN NỘI DUNG
20 Chương I: Những vấn đề lí luận và phương pháp
nghiên cứu hiệu quả của báo chí đối với công chúng.
1
1.1. Cơ sở lý luận 20
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về truyền thông 20
đại chúng
23 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về truyền thông đại chúng
1.1.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về truyền 26
thông đại chúng
28 1.1.4. Lý thuyết của M.Weber về đối tượng nghiên cứu của
truyền thông đại chúng
1.1.5. Mô hình của H.Lasswell và C.Shannon về truyền 31
thông đại chúng
32 1.2. Các khái niệm
1.2.1. Truyền thông 32
1.2.2. Truyền thông đại chúng 33
1.2.3. Hiệu quả truyền thông đại chúng 35
35 1.2.4. Công chúng của truyền thông đại chúng
2
1.2.5. Công chúng sinh viên báo chí 37
1.3. Địa điểm khảo sát và một số đặc điểm của đối tượng 37
nghiên cứu
37 1.3.1. Vài nét về địa điểm khảo sát
1.3.2. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 39
42 Chương II: Cách thức, mức độ và những vấn đề được
quan tâm trong giao tiếp đại chúng của công chúng sinh viên
báo chí.
2.1. Các phương tiện thông tin đại chúng và cách thức tiếp 42
nhận thông tin của công chúng sinh viên báo chí.
42 2.1.1. Các phương tiện truyền thông đại chúng
2.1.1.1. Báo in 42
2.1.1.2. Đài phát thanh - truyền hình 43
2.1.1.3. Báo trực tuyến 46
48 2.1.2. Địa điểm và cách thức tiếp nhận thông tin từ báo chí
của công chúng Sinh viên báo chí.
3
2.1.2.1. Địa điểm và cách thức đọc báo in 49
2.2.2.2. Địa điểm và cách thức nghe đài phát thanh 53
2.2.2.3. Địa điểm và cách thức xem truyền hình 55
2.1.2.4. Địa điểm và cách thức truy cập Interner 58
2.2. Mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên 61
báo chí
2.3. Những vấn đề được quan tâm của công chúng công 70
sinh viên báo chí
2.3.1. Những nội dung thông tin được quan tâm 69
72 2.3.1.1. Những thông tin thời sự, chính trị - xã hội
2.3.1.2. Những thông tin văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải 77
trí
2.3.2. Những thể loại tác phẩm báo chí được quan tâm 79
2.3.2.1. Tin
4
2.3.2.2. Phóng sự
2.3.2.3. Phỏng vấn, tọa đàm
2.3.3. Nhu cầu và mức độ trao đổi thông tin của công 82
chúng sinh viên báo chí
89 Chương III: Nhận diện một số kênh truyền thông đại
chúng liên quan đến nghề báo và việc sử dụng thông điệp từ
báo chí của công chúng sinh viên báo chí.
3.1. Nhận diện một số kênh truyền thông đại chúng
91 3.1.1. Tạp chí: Người làm báo
93 3.1.2. Báo: Nhà báo & công luận
3.1.3. Trang web: nghebao.com (Nghề báo – Thư ký của 95
thời đại )
3.2. Vấn đề sử dụng thông điệp báo chí vào việc học tập và 98
rèn luyện của sinh viên báo chí
3.2.1. Mức độ tiếp nhận thông tin từ báo chí liên quan đến 99
5
việc học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí
3.2.2. Ý nghĩa của những thông tin từ báo chí đối với việc 100
học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí
PHẦN KẾT LUẬN
1. Những kết luận cơ bản 106
2. Một số kiến nghị 108
111 TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC
6
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài
Năm 1946, lần đầu tiên thuật ngữ truyền thông đại chúng được sử
dụng trong “Lời nói đầu của Hiến chương Liên hiệp quốc về văn hoá, khoa học
và Giáo dục”. Hiện nay, thuật ngữ này đã phổ biến rất rộng rãi các phương tiện
truyền thông đại chúng, tác động hàng ngày, hàng giờ đến sự phát triển của từng
lĩnh vực của xã hội.[3]
Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng mà trung tâm là
hệ thống báo chí hiện nay phát triển rất mạnh mẽ, đã trở thành một thành tố rất
quan trọng của xã hội. Hệ thống này vừa là động lực, vừa là công cụ trong hoạt
động tổ chức, quản lí và nâng cao dân trí trong xã hội.
Trong hoạt động của mình, hệ thống truyền thông đại chúng đã thể hiện
vai trò cũng như khả năng tạo sự tương tác xã hội, hướng dẫn, định hướng hành
vi hoạt động trong công chúng. Chính vì vậy, truyền thông đại chúng trở thành
một thiết chế xã hội, nó được coi là tác nhân cơ bản làm hình thành các liên kết
xã hội.
Hiện nay, truyền thông đại chúng có được sự hỗ trợ rất lớn của các
phương tiện Khoa học kĩ thuật. Công nghệ phát triển ở trình độ cao đã đưa hệ
thống này trở thành một trong những hệ thống quan trọng nhất của xã hội hiện
đại. Thông tin của từng quốc gia trở thành đối tượng của báo chí mọi quốc gia,
không gian thông tin của nhân loại đang được thu nhỏ lại. Sự quốc tế hoá truyền
thông đại chúng đang đặt cả thế giới vào tình huống mà trong đó các hàng rào
thông tin “cứng” bị phá vỡ. Điều này là cơ sở thực tiễn cũng như là điều kiện
thuận lợi thúc đẩy các nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng.
Ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới
theo xu hướng hội nhập và phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của
8
Nhà nước nhiều lĩnh vực xã hội đã có sự phát triển rõ rệt. Hoạt động truyền
thông đại chúng đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đóng góp
tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đường
lối đổi mới toàn diện, nổi bật lên là vấn đề dân chủ hoá các mặt của đời sống xã
hội; Thực tế này đã tạo nên những diến biến mới mẻ trong hoạt động thông tin
báo chí ở nước ta.
Báo chí hiện nay đã cơ bản hạn chế được hình thức thông tin một
chiều đơn điệu và ngày càng thể hiện được vai trò là cầu nối giữa Đảng và Dân.
Thông tin hai chiều được thực hiện trên báo chí: một mặt tuyên truyền, giải
thích đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với công
chúng mặt khác phản ánh những nguyện vọng, ý kiến phản hồi của công chúng
trong quá trình thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
Nói đến báo chí là nói đến các loại hình của nó như : Báo in, báo
ảnh, phát thanh, truyền hình, internet …Đó là các bộ phận, các kênh thông tin
cơ bản nhất, cốt lõi nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất và xu hướng vận
động của thông tin đại chúng.
Trong thực tế, mỗi loại hình báo chí có những thế mạnh và những
hạn chế riêng , chẳng hạn như: báo in có khả năng lưu trữ lâu, đồng thời đi sâu
phân tích chi tiết các sự kiện hiện tượng, công chúng của loại hình báo chí này
có thể tiếp nhận thông tin ở mọi nơi, mọi lúc mọi thời điểm khác nhau. Hạn chế
cơ bản của loại hình báo chí này là khó có khả năng phát hành rộng rãi tới công
chúng ở vùng sâu, vùng xa…Phát thanh, Truyền hình có thế mạnh là nhanh,
đồng thời, rộng khắp, hàng triệu triệu công chúng có thể tiếp nhận thông tin
đồng thời với thời điểm diễn ra sự kiện. Nhưng hạn chế của nó là tính thoảng
qua, khả năng lưu trữ kém …đòi hỏi công chúng tiếp nhận thông tin từ loại hình
9
báo chí này phải hết sức tập trung, quá trình thông tin bị phụ thuộc vào làn sóng,
thời tiết…
Ở nước ta các loại hình thông tin đại chúng đồng thời tồn tại và phát triển,
chúng không những không loại trừ nhau, mà ngược lại còn bổ khuyết, hỗ trợ
cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất
nước.
Hiện nay, cả nước ta có khoảng 14.000 nhà báo chuyên nghiệp
đang hoạt động. Ngoài ra còn có hàng ngàn cộng tác viên, thông tin viên và một
đội ngũ đông đảo đang hoạt động trong lĩnh vực thông tin xã hội. Đó là cán bộ ở
các phòng thông tin văn hoá, các đài truyền thanh cấp huyện, xã…
Cả nước hiện có 553 cơ quan báo in, trong đó có 157 báo 396 tạp
chí và khoảng hơn 1000 bản tin. Hàng năm, xuất bản hơn 550 triệu bản báo. 64
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 470 trong số 512 huyện, 7000 xã trong
tổng số hơn 10.359 xã được đọc báo trong ngày. Tính bình quân mỗi năm 1
người là 7,5 bản báo. 70% lượng báo chí tập trung ở thị xã, thành phố.
Có 1 đài truyền hình, 1 đài phát thanh quốc gia và 4 đài truyền hình khu
vực ở Huế, Đà Nẵng , Cần thơ, Thành phố Hồ Chí Minh. Một đài truyền hình kĩ
thuật số VTC của bộ bưu chính viễn thông. Ngoài ra 64 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đều có đài Phát thanh - Truyền hình. Riêng đối với loại hình
phát thanh, ngoài đài phát thanh quốc gia Tiếng nói Việt Nam và các đài phát
thanh cấp tỉnh còn có hệ thống đài truyền thanh của gần 520 huyện và hơn
10.000 xã. Đây là loại hình báo chí có tính ổn định và phân bố đồng đều nhất
trong cả nước.
Cả sóng phát thanh và truyền hình quốc gia đều được truyền qua vệ
tinh. Theo con số thống kê chưa đầy đủ cả nước hiện có hơn 10 triệu máy thu
10
hình, với gần 85% số hộ gia đình xem được truyền hình. Sóng phát thanh hiện
đã tới 5 châu lục và hơn 90% lãnh thổ nước ta.
Báo chí trực tuyến (qua mạng Internet) là một là một loại hình báo chí
mới ra đời so với báo chí truyền thống; Nhưng được sự hỗ trợ mạnh mẽ của
khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại đã khẳng định được vai trò cũng như
sức mạnh vượt trội của mình.
Ở nước ta, tờ báo trực tuyến đầu tiên chính thức ra đời năm 2000. Qua 7
năm phát triển, đến nay cả nước ta đã có khoảng hơn 2.500 trang Web đang hoạt
động và hầu hết các tờ báo đều có báo trực tuyến. Theo đánh giá của PGS.TS.
Trần Đình Hoan nguyên Uỷ viên bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng thì : “
Báo điện tử đang góp phần tích cực vào sự lớn mạnh của đất nước”( Nguồn :
Viêt Nam Nét ngày 20/05/2003).
Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng ở nước ta hiện nay
được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lí của Nhà nước. Chính
vì vậy, các hoạt động xuất bản và phát hành ấn phẩm của hệ thống này đều được
dựa trên những cơ sở thống nhất như :
Dấu hiệu về nghề nghiệp ( Giáo dục thời đại, Quân đôi nhân -
dân, Người làm báo ...)
Dấu hiệu về lứa tuổi ( Nhi đồng, Thanh niên, Tuổi trẻ, Người -
cao tuổi…)
Dấu hiệu về lãnh thổ ( Hà Nội mới, Sài gòn giải phóng, Hà -
tây, Hà Nam…)
Dấu hiệu về xã hội (Đại đoàn kết, Lao động …)1) -
11
Dấu hiệu về giới ( Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Thủ đô, Nữ -
sinh …)
- Dấu hiệu về nhu cầu thị hiếu ( Tạp chí Thời trang, Báo Văn Nghệ,
tạp chí Văn nghệ… )*
Tất cả các dấu hiệu trên là cơ sở để hoạt động xuất bản và phát
hành đối với tất cả các loại hình báo chí, kể cả báo chí Trung ương và địa
phương. Tất cả các đấu hiệu trên đều rất xác thực và gần gũi với đời sống xã
hội, do đó các đối tượng công chúng đều có thể tiếp nhận những thông tin phù
hợp từ hệ thống truyền thông đại chúng.
Trong thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu khảo sát và đánh giá về
những ảnh hưởng và tác động của truyền thông đại chúng đối với các tầng lớp
công chúng ở nước ta là có tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
Gần đây, một số tác giả cũng đã đưa vấn đề nhận diện công chúng
truyền thông đại chúng trong đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng
những công trình xem xét dưới góc độ Xã hội học và Báo chí theo hướng
nghiên cứu hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng nói chung
và đối với công chúng là sinh viên nói riêng.
Sinh viên là nhóm dân số xã hội tương đối lớn trong hệ thống cơ
cấu xã hội. Nhóm sinh viên được xác định bởi những đặc điểm rõ rệt :
- Có độ tuổi trung bình khoảng từ 18 – 24
thành phố Hải Phòng năm 2002.” Mai Văn Hai – Mai Quỳnh Nam: Chương IX :Đời sống văn hoá
tinh thần và hoạt động truyền thông đại chúng.Báo cáo Xã hội năm 2000. Trịnh Duy Luân chủ biên,
Viện Xã hội học.
* Dẫn theo Mai Quỳnh Nam “Công chúng Thanh niên đô thị và báo chí - nghiên cứu trường hợp
12
- Có trình độ học vấn tương đối cao
- Đang học nghề, trong một tổ chức trường học .
Có thể nói sinh viên là bộ phận lao động trí thức trong lực lượng lao
động của xã hội. Họ là nguồn nhân lực chủ yếu trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Lực lượng sinh viên sống và học tập tập trung tại các đô thị, do đó các
hoạt động giao tiếp với các phương tiện thông tin đại chúng cũng diễn ra trong
môi trường văn hoá, kinh tế, chính trị phát triển, vì vậy có nhiều điều kiện thuận
lợi để tiếp nhận nguồn thông tin đa dạng phong phú.
Đối với công chúng truyền thông là sinh viên, thì nhóm công chúng là
sinh viên báo chí cần được lưu ý và quan tâm. Bởi lẽ, trước hết, họ là lực lượng
lao động hùng hậu trong công cuộc đổi mới hiện nay. Họ là những trí thức, sẽ là
những chủ nhân của đất nước trong tương lai. Và đặc biệt sau khi ra trường họ
sẽ trở thành những nhà báo - những người sẽ trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng. Chính vì vậy, sự tác động của các phương tiện truyền
thông đại chúng có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình học tập, cũng như
tác nghiệp của họ sau này. Nghiên cứu về nhóm công chúng sinh viên báo chí
trong mối quan hệ với hệ thống báo chí càng có ý nghĩa thiết thực trong giai
đoạn hiện nay.
Với ý nghĩa trên, luận văn của chúng tôi chọn sinh viên của Trường
Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1(Trực thuộc Đài Tiếng Nói Việt Nam)
tại Hà Nam để khảo sát hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên báo chí.
2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu
13
Nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng nằm trong hệ
thống tri thức của xã hội học, đây là một hoạt động khoa học tạo được sự quan
tâm của cả Báo chí học và Xã hội học truyền thông đại chúng.
Trong lịch sử nghiên cứu về sự tác động của truyền thông đại
chúng với xã hội, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan điểm nhìn nhận khác
nhau tuỳ thuộc vào sự biến động của mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội nhất định .
Năm 1905, việc phát minh ra vô tuyến điện và theo đó là sự ra đời
của đài phát thanh – đây là một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển các
phương tiện truyền thông đại chúng. Đài phát thanh ra đời với những ưu điểm
vượt trội về tốc độ thông tin cũng như sự quảng đại trong việc truyền bá nên đã
được công chúng hào hứng, say sưa tiếp nhận.
Các nhà nghiên cứu xã hội học thời kỳ này cho rằng các phương tiện
truyền thông đại chúng thực sự có một sức mạnh vạn năng. Tiêu biểu cho
khuynh hướng này là quan điểm của trường phái Frankfurt, họ cho rằng với khả
năng của đài phát thanh sẽ rất dễ thuyết phục công chúng, khiến họ phải tin
tưởng và phục tùng theo các thông điệp và mục đích của nó được truyền trên
sóng phát thanh. Nhận xét này được đưa ra từ sự quan sát số lượng công chúng
bị tác động và sự ảnh hưởng của nội dung thông điệp truyền tải, chưa dựa trên
những nghiên cứu thực nghiệm đối với công chúng truyền thông.
Năm 1944, P.Larsfeld cùng các cộng sự đã thông qua nghiên cứu
thực nghiệm đối với cử tri về quyết định bầu cử chỉ ra rằng, các chiến dịch vận
động tranh cử thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng hầu như chỉ
làm tăng thêm sự tin tưởng vào những ý định sẵn có của cử tri, thực tế ít làm
thay đổi quyết định của họ[403, 404].
Năm 1960, J.Klapper trong cuốn “Tác động của truyền thông đại
chúng” cho rằng “ truyền thông đại chúng chỉ là yếu tố tác động, bổ sung (dù là
14
tác động rất mạnh) cùng với những yếu tố trung gian khác chứ không phải là
yếu tố duy nhất dẫn đến sự thay đổi hành vi của công chúng”[40,144]. Nói cách
khác, truyền thông đại chúng không phải là nguyên nhân cần và đủ, không phải
là tác nhân cơ bản đẫn đến sự thay đổi thái độ ứng xử của công chúng.
Khi công nghệ truyền hình ra đời đã đánh đấu một bước tiến dài
trong sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng. Sức mạnh của
truyền hình được khẳng định bởi nó sử dụng tổng hợp sức mạnh của cả các loại
hình báo in, phát thanh và hình ảnh. Khoảng những thập niên 60 – 70 của thế kỷ
XX, truyền hình phát triển mạnh mẽ và phổ biến rộng rãi, những quan điểm
nghi ngờ về sức mạnh của truyền thông đại chúng được đặt ra xem xét lại. Đã
có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định sức mạnh cũng như sự tác động to
lớn của loại hình này.
Mạng Internet ra đời đã thực sự làm thay đổi quan niệm về các
phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống. Những hạn chế về khả năng
lưu trữ thông tin , thời lượng, sự đơn điệu, sự tương tác … của các phương tiện
truyền thống đã được giải quyết. Mạng Internet đã khẳng định được vai trò cũng
như sự tác động to lớn của nó đối với xã hội công chúng.
Những thập niên cuối của thế kỷ XX, công nghệ mạng Internet đã phát
triển mạnh mẽ và phổ biến ở hầu hết các quốc gia, nó tạo điều kiện để thế giới
xích lại gần nhau hơn. Có thể nói rằng, Internet là tác nhân cơ bản để thúc đẩy
quá trình toàn cầu hoá, tăng cường khả năng giao lưu, hội nhập, hợp tác, trên
mọi lĩnh vực giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Sự ra đời của mạng Internet với những ưu điểm vượt trội và phạm vi tác
động của nó đã tạo ra không gian rộng lớn hơn cũng như nhiều hướng nghiên
cứu mới về hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng xã hội.
Theo các tài liệu từ tiểu ban nghiên cứu truyền thông đại chúng của Đại hội Xã
hội học thế giới lần thứ XV, tổ chức năm 2002 cho thấy hướng nghiên cứu hiệu
15
quả truyền thông đại chúng của mạng Internet được đặc biệt chú trọng và phạm
vi nghiên cứu không chỉ trong mỗi quốc gia mà mở rộng ra toàn thế giới.
Đến cuối thế kỷ XX, J.Habermas đưa ra khái niệm “không gian cộng
đồng” trong đó các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò trung gian
liên lạc và tiếp xúc trong nội bộ xã hội dân sự, cũng như nội bộ xã hội xã hội
dân sự và các thiết chế Nhà nước. Đồng thời xác định truyền thông đại chúng
không phải là lãnh địa riêng của các nhà truyền thông hay các chuyên gia truyền
thông, nó là diễn đàn chung để thông tin về xã hội về con người. Truyền thông
đại chúng cũng là nơi thể hiện các mối quan hệ giữa các tầng lớp, các nhóm xã
hội[351, 352].
Nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng là một hướng
nghiên cứu cơ bản của xã hội hiện đại. Các nước có truyền thống nghiên cứu xã
hội học rất coi trọng hướng nghiên cứu này. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
khi mà các quan hệ xã hội diễn ra ngày càng phức tạp trong bối cảnh toàn cầu
hóa. Truyền thông đại chúng được coi là một tác nhân xã hội, cơ bản tạo nên
các liên kết xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi khu
vực và quốc tế.
Trong giai đoạn phát triển của xã hội học, truyền thông đại chúng
bắt đầu từ những năm 20 của thế kỷ trước, bao giờ xã hội học cũng hết sức được
coi trọng, nó được coi là hướng nghiên cứu chủ yếu để xem xét các tác động xã
hội của hệ thống truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội, và để đánh giá
hiệu quả xã hội của hệ thống này.
Ngay từ năm 1910, M.Weber người đã đặt luận cứ cho các nghiên
cứu xã hội học truyền thông đại chúng đã xếp nghiên cứu về công chúng ở vị trí
hàng đầu trong các vấn đề cần phải ưu tiên của xã hội học truyền thông đại
chúng. Qua bốn giai đoạn phát triển, nghiên cứu xã hội học truyền thông đại
16
chúng chỉ ra rằng: truyền thông đại chúng tạo nên các tương tác xã hội để hình
thành hành động xã hội phù hợp với định hướng xã hội.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về hiệu quả truyền thông đại chúng
với công chúng bước đầu đã tạo được sự quan tâm của giới chuuyên môn. Từ
năm 1990 đến nay đã có một số những công trình theo hướng nghiên cứu lý
thuyết và thực nghiệm về công chúng.
Trước hết phải nối đến những bài viết của tác giả Mai Quỳnh Nam
đăng trên Tạp chí Xã hội học, ngoài việc đưa ra những cơ sở lý thuyết cho việc
nghiên cứu truyền thông đại chúng và dư luận xã hội tác giả đã gợi mở ra hướng
nghiên cứu thực nghiệm trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.
Trên tạp chí Xã hội học số 2 – 1996 trong bài “Về đặc điểm và tính
chất của truyền thông đại chúng”,[55] tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa
giao tiếp các nhân, giao tiếp đại chúng và hệ thống truyền thông đại chúng.Trên
cơ sở phân tích mối quan hệ này, tác giả đã chỉ ra những tác động trực tiếp đến
hiệu quả của hoạt động báo chí; Thứ nhất là sự tác động từ hệ thống pháp luật
và quyết định quản lý của các cơ quan quản lý báo chí. Thứ hai là sự tác động từ
công chúng báo chí. Thực tế cho thấy rằng, trong xu thế hội nhập và toàn cầu
hoá hiện nay sự tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng dẫn đến
sự thay đổi ứng xử xã hội của công chúng là tương đối rõ nét; Đặc biệt trong đó
có nhóm công chúng là sinh viên báo chí.
Bài viết “Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại chúng”
trên tạp chí Xã hội học số 4 – 2001,[56] tác giả đã tổng hợp một số hệ thống chỉ
tiêu định tính và định lượng làm cơ sở để phân tích hiệu quả của các phương
tiện truyền thông đại chúng.
Các bài nghiên cứu xã hội học thực nghiệm về báo chí cũng của tác
giả này đã in trên tạp chí Tâm lí học số 1- 2004 như: “ Sinh viên Hà Nội trong
17
giao tiếp đại chúng”, [55] “ Báo thiếu nhi dân tộc và công chúng thiếu nhi dân
tộc” [48], “ Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn” – Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội 2001.Tác giả cùng các cộng sự đã khảo sát mối quan hệ giữa
các nhóm công chúng này với hệ thống truyền thông đại chúng trong môi
trường chính trị - xã hội. Đặc biệt, các nghiên cứu này chú ý tới đặc điểm quá
trình tiếp nhận thông tin, xử lí thông tin, cơ chế lây lan thông tin và các thức sử
dụng thông tin của họ, coi đó như những dấu hiệu tin cậy để đánh giá hiệu quả
hoạt động của hệ thống này.
Ngoài ra, tác giả này cũng đưa ra hàng loạt các nghiên cứu về dư
luận xã hội trong các bài viết trên tạp chí Xã hội học như “Dư luận xã hội - mấy
vấn đề lí luận và phương pháp nghiên cứu” ( Tạp chí Xã hội học số 1- 1995),
“Dư luận xã hội về con số”( Tạp chí Xã hội học số 3 – 1996), “ mấy vấn đề về
dư luận xã hội trong công cuộc đổi mới”(Tạp chí Xã hội học số 2 – 1996), “ Vai
trò của dư luận xã hội trong cơ chế “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”(Tạp chí Tâm lí học số 2 – 2000). Trong bài “ Truyền thông đại chúng và dư
luận xã hội” ( Tạp chí Xã hội học số 1 – 1996) tác giả đi sâu phân tích mối quan
hệ biện chứng giữa báo chí và công chúng trong quá trình hình thành và thể hiện
dư luận xã hội.
Các tác giả khác cũng công bố những công trình nghên cứu về xã
hội học báo chí như: luận án tiến sĩ Xã hội học của tác giả Trần Hữu Quang năm
2000 “ Chân dung công chúng báo chí Thành phố Hồ Chí Minh”. Luận án đi
sâu khảo sát cách thức và mức độ sử dụng các phương tiện truyền thông đại
chúng của công chúng. Trên cơ sở phân tích các hình thức tiếp nhận thông tin từ
các phương tiện truyền thông đại chúng của công chúng, để nhận diện công
chúng trong bối cảnh đổi mới của Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu khác như: luận án
tiến sĩ Xã hội học của tác giả Trương Xuân Trường năm 2002 “ Hiện trạng và
18
vai trò tác động của truyền thông dân số đối với người nông dân”, PGS.TS.
Nguyễn Văn Dững “Đối tượng tác động của báo chí” trên tạp chí Xã hội học số
4 – 2004, luận văn thạc sĩ của tác giả Đinh Thị Phương Thảo “ Hiệu quả của
truyền thông đại chúng đối với công chúng Thanh niên đô thị” nghiên cứu
trường hợp thành phố Hải Phòng năm 2006…
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Truyền thông đại chúng với
công chúng Thanh niên đô thị - nghiên cứu trường hợp thành phố Hải Phòng, do
Viện Xã hội học chủ trì PGS.TS Mai Quỳnh Nam chủ nhiệm đề tài có thể được
coi là công trình đầu tiên theo hướng nghiên cứu cơ bản là nghiên cứu công
chúng.
Việc nghiên cứu đề tài Hiệu quả của báo chí với công chúng sinh
viên báo chí có thể là một đóng góp để bước đầu hình dung được hiệu quả xã
hội của báo chí đối với công chúng là sinh viên báo chí, trong đó có công chúng
là sinh viên báo chí Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1.
3.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học
Xuất phát từ góc nhìn của báo chí học, xã hội học báo chí; nghiên
cứu vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên báo chí để đánh giá
tác động của hệ thống báo chí đối với công chúng là sinh viên báo chí được
chọn làm đối tượng nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu để tìm hiểu, nhận diện sự
lựa chọn nguồn tin cũng như sự tiếp thu, sử dụng những nguồn tin nhận được,
đồng thời tìm hiểu dư luận xã hội trong sinh viên báo chí về hoạt động của báo
chí trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng.
Việc nghiên cứu đề tài này cũng có thể góp phần vào việc nghiên
cứu hiệu quả của báo chí với công chúng nói chung, và đặc biệt là đối với công
chúng là sinh viên, trong đó có một bộ phận là sinh viên báo chí.
19
Kết quả nghiên cứu từ đề tài này có thể là tài liệu tham khảo cho
các nghiên cứu trong lĩnh vực báo chí học và xã hội học truyền thông đại chúng.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên
báo chí, chúng tôi hi vọng sẽ đưa ra được những khuyến nghị để các nhà quản lí
truyền thông, các cơ quan truyền thông nắm được thực trạng sự tác động của hệ
thống truyền thông đối với bộ phận công chúng này. Từ đó tạo cơ sở khoa học
cho những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của báo chí đối với công chúng
sinh viên báo chí.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh
viên báo chí nhằm tìm hiểu :
Công chúng sinh viên báo chí tiếp cận thông tin như thế -
nào?
- Những vấn đề nào truyền tải trên báo chí được công chúng
sinh viên báo chí quan tâm?
- Nhận diện một số kênh truyền thông đại chúng liên quan đến
nghề báo và việc sử dụng những thông điệp tiếp nhận được đối với việc
học tập và rèn luyện.
- Góp phần đề xuất những giải pháp tăng cường hiệu quả
thông tin tới nhóm công chúng này.
20
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cách thức tiếp nhận thông tin và hiệu quả việc sử dụng nội
dung các thông điệp được thông tin trên báo chí.
Phân tích các hình thức trao đổi thông tin trong nhóm công -
chúng sinh viên báo chí.
Phân tích hiệu quả của báo chí qua hoạt động tiếp nhận và sử -
dụng thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng của sinh viên
báo chí.
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên báo chí
5.2 Khách thể nghiên cứu
Là nhóm công chúng sinh viên báo chí Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1
5.3 Phạm vi nghiên cứu
Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1 trực thộc Đài
Tiếng Nói Việt Nam ( nằm trên địa bàn thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ).
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp luận
Dùa trªn quan ®iÓm vÒ mèi quan hÖ biÖn
chøng gi÷a kiÕn tróc th-îng tÇng vµ c¬ së h¹ tÇng trong mçi h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi, t- t-ëng cña
21
C.M¸c vÒ vai trß cña ý thøc x· héi trong ®êi sèng x·
héi, vÒ mèi liªn hÖ gi÷a truyÒn th«ng ®¹i chóng vµ d- luËn x· héi ®-îc lÊy lµm c¬ së cho viÖc nghiªn cøu sù
t¸c ®éng cña truyÒn th«ng ®¹i chóng vµ d- luËn x· héi. C.M¸c cho r»ng : Lý luËn cã thÓ trë thµnh lùc l-îng vËt chÊt khi nã th©m nhËp vµo quÇn chóng, s¶n phÈm cña truyÒn th«ng lµ d- luËn x· héi *.
Nghiªn cøu x· héi häc truyÒn th«ng ®¹i chóng ph¸t triÓn m¹nh mÏ trong nh÷ng thËp niªn
võa qua vµ trë thµnh mét chñ ®Ò c¬ b¶n cña x· héi hiÖn ®¹i. N¨m 1910, M.Weber ®· ®Ò xuÊt h-íng nghiªn
cøu nµy cã nhiÖm vô ph¸t triÓn mèi quan hÖ gi÷a truyÒn th«ng ®¹i chóng víi x· héi theo c¸c h-íng :
- Nghiªn cøu c«ng chóng
- Nghiªn cøu tæ chøc truyÒn th«ng vµ c¸c nhµ truyÒn th«ng víi vai trß lµ mét tÇng líp x· héi nghÒ nghiÖp
- Ph©n tÝch néi dung th«ng ®iÖp truyÒn t¶i
Nghiªn cøu hiÖu qu¶ truyÒn th«ng ®¹i
chóng lµ mét vÊn ®Ò cÊp b¸ch vµ phøc t¹p, ®iÒu ®ã xuÊt ph¸t tõ chç ng-êi ta ngµy cµng nhËn thÊy kh¶
n¨ng t¸c ®éng to lín cña ho¹t ®éng truyÒn th«ng . MÆt kh¸c, tÝnh phøc t¹p cña h-íng nghiªn cøu nµy l¹i phô
thuéc bëi tÝnh chÊt ®a chøc n¨ng cña th«ng tin ®¹i chóng vµ c¸c mèi quan hÖ nhiÒu chiÒu ë sù t-¬ng t¸c víi hÖ thèng th«ng tin ®¹i chóng trong thùc tÕ
* C.M¸c vµ Ph.¡ngghen, TuyÓn tËp T.1, tr.206. DÉn theo Mai Quúnh Nam, "TruyÒn th«ng ®¹i chóng vµ d- luËn x· héi", T¹p chÝ X· héi, sè 1 (53), 1996, tr.3
22
Trªn c¬ së ¸p dông lÝ luËn b¸o chÝ, quan
®iÓm lý thuyÕt x· héi häc chuyªn ngµnh để xem xÐt hiÖu
qu¶ t¸c ®éng cña b¸o chí víi nhãm c«ng chóng lµ sinh
viªn b¸o chÝ ®-îc ®Æt trong c¸c t-¬ng t¸c x· héi cô thÓ.
Quan ®iÓm lý thuyÕt x· héi häc ®-îc dïng lµm c¬ së nghiªn cøu ë ®©y gåm: C¸ch ph©n lo¹i
hiÖu qu¶ truyÒn th«ng ®¹i chóng ®èi víi c«ng chóng do Weiss (1988) ®-a ra vÒ t¸c ®éng ®Þnh l-îng cña truyÒn
th«ng ®¹i chóng; Nh÷ng l-u ý cña Moll (1993) khi ph©n tÝch chØ b¸o ®é ghi nhí cña c«ng chóng vÒ néi dung
th«ng ®iÖp; Những vÊn ®Ò t¹o nªn mèi quan t©m cña giíi
chuyªn m«n trong ph©n tÝch hiÖu qu¶ cña truyÒn th«ng ®¹i chóng liªn quan tíi:
1. ViÖc t¸ch gi¶i quyÕt ho¹t ®éng cña tõng kªnh
truyÒn th«ng cô thÓ.
2. NhËn xÐt cña Sechc« (1986) vÒ sù sai lÇm khi t¸ch t¸c ®éng truyÒn th«ng ®¹i chóng ra khái ¶nh
h-ëng tõ c¸c c¬ së x· héi kh¸c cïng t¸c ®éng hµng ngµy ®èi víi c«ng chóng truyÒn th«ng.
3. Sù ®an xen vµ t-¬ng hç gi÷a giao tiÕp ®¹i chóng vµ giao tiÕp c¸ nh©n d-íi t¸c ®éng cña c¸c ph-¬ng tiÖn truyÒn th«ng ®¹i chóng).
4. Lý luËn vÒ c¬ chÕ l©y lan th«ng tin; vÒ dßng
ph¶n håi th«ng tin.
5. LËp luËn cña M.Weber vÒ t¸c ®éng cña truyÒn th«ng ®¹i chóng ®èi víi viÖc h×nh thµnh ý thøc quÇn
chóng vµ d- luËn x· héi [7]…
23
Ng-êi nghiªn cøu còng ®Æc biÖt chó ý ®Õn c¸c khÝa c¹nh lý luËn vµ lÞch sö cña vÊn ®Ò mµ c¸c t¸c gi¶ ®i tr-íc ®· ®Æt ra, coi ®ã nh- nh÷ng tiÒn ®Ò lý luËn ®Ó triÓn khai ®Ò tµi cña m×nh.
6.2 Phương pháp thu thập thông tin
Những thông tin chúng tôi thu thập được qua việc sử dụng kết hợp
các phương pháp :
- Phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua việc điều tra
chọn mẫu. Điều tra được tiến hành với 400 bảng hỏi với sinh viên báo chí
Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1 trực thuộc Đài Tiếng
Nói Việt Nam ( nằm trên địa bàn thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ). Mẫu
nghiên cứu được dựa trên các chỉ báo về giới tính, năm học, ngành học
của sinh viên.
- Phương pháp điều tra định lượng thu thập thông tin được tiến hành với
sinh viên báo chí tại trường năm 2007.
Ngoài ra, thông tin còn được thu thập dựa trên các tư liệu sẵn có liên quan
đến chủ đề nghiên cứu, qua hệ thống báo chí được cập nhật thường xuyên.
Chúng tôi tiến hành xử lí thông tin theo phương pháp :
- Sử dụng phương pháp phân tích thống kê đối với những số
liệu định lượng.
7. Giả thuyết
Đề tài được triển khai để đánh giá và kiểm nghiệm các giả thuyết nghiên
cứu sau:
24
1. Vai trò, ý nghĩa của những thông tin được tiếp nhận từ báo chí, như
sự đối với việc học tập, rèn luyện và tác nghiệp của sinh viên báo chí .
2. Dư luận xã hội của công chúng sinh viên báo chí, thể hiện những đề
xuất về phương thức thông tin cũng như hiệu quả tác động đến nhóm công
chúng này.
3. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, hệ thống báo chí
đã phát triển mạnh mẽ và có nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới
đất nước. Tuy nhiên, trong hoạt động thông tin cũng đã xuất hiện những xu
hướng bất cập, hạn chế như tính thương mại hóa và có cả những sai lệch trong
thông điệp truyền thông; điều này sẽ tác động mạnh mẽ đến công chúng sinh
viên báo chí.
8. Kết cấu của luận văn
8.1 Phần mở đầu
Luận văn giới thiệu: Giả thuyết nghiên cứu; Phương pháp nghiên
cứu; Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu; Mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu; Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài; Tính cấp thiết của đề tài
nghiên cứu.
8.2 Phần nội dung luận văn gồm 3 chương
ChươngI: Những vấn đề lí luận và phương pháp nghiên cứu hiệu quả
của báo chí đối với công chúng.
Phần 1: Đưa ra các lí luận về truyền thông đại chúng, trên cơ sở của
báo chí học và xã hội học báo chí. Đặc biệt là các quan điểm lí thuyết về công
chúng của truyền thông và hiệu quả của truyền thông đại chúng. Vài nét về vấn
đề nghiên cứu và hệ thống các khái niệm phục vụ nghiên cứu.
25
Phần 2: Giới thiệu địa điểm khảo sát, và một số đặc điểm cơ bản của
đối tượng nghiên cứu.
ChươngII: Cách thức, mức độ và những vấn đề được quan tâm trong
giao tiếp đại chúng của công chúng sinh viên báo chí.
Phần 1: Trình bày cách thức tiếp nhận thông tin từ báo chí của công
chúng là sinh viên báo chí.
Phần 2: Trình bày mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên
báo chí
Phần 3: Trình bày những nội dung thông tin đăng tải trên báo chí và
những thể loại báo chí được sinh viên báo chí quan tâm.
Chương III: Trình bày kết quả những phân tích về những dấu hiệu để
nhận diện nội dung của một số phương tiện truyền thông đại chúng.
Phần 1: Mức độ tiếp nhận thông tin từ báo chí liên quan đến việc học tập
và rèn luyện của sinh viên báo chí.
Phần 2: Ý nghĩa của những thông tin từ báo chí đối với việc học tập và
rèn luyện của sinh viên báo chí
8.3 Phần kết luận
Từ các kết quả phân tích, tác giả tiến hành luận giải các giả thuyết
nghiên cứu, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm mở rộng khả năng tiếp nhận
thông tin của công chúng sinh viên nói chung và sinh viên báo chí nói riêng.
Mặt khác, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống truyền thông đại
chúng và đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học về truyền thông đại chúng và công
chúng của truyền thông đại chúng.
26
27
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
HIỆU QUẢ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI CỚI CÔNG CHÚNG
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về truyền thông đại
chúng
C.Mác, Ph.Ăng ghen,V.I.Lê nin là những nhà tư tưởng vĩ đại của
giai cấp vô sản thế giới – là người đặt nền móng cho lí luận báo chí cách
mạng[32, 42]. Là những người trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhiều tờ báo, đồng
thời là những nhà báo lỗi lạc, luôn rất quan tâm đến hoạt động báo chí, xuất bản.
Tư tưởng về công tác báo chí và hoạt động báo chí xuất bản của những nhà kinh
điển này vô cùng đồ sộ và phong phú – là một bộ phận quan trọng trong hình
thái ý thức xã hội mác xít.
Từ nhãn quan duy vật lịch sử và chủ nghĩa xã hội khoa học các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải thích sự ra đời cũng như bản chất
của báo chí.
Bằng những bài báo, những tác phẩm của mình các nhà cách mạng
vô sản đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình: báo chí là vũ khí sắc bén đề chiến
đấu bảo vệ lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, bác bỏ và vạch
trần luận điệu của những thế lực thù địch. Báo chí cách mạng vô sản phải thực
sự là vũ khí chiến đấu hữu hiệu của giai cấp công nhân, là cơ quan tuyên truyền,
tham gia vào việc tổ chức phát triển xã hội bằng hoạt động ngôn luận. Trọng
trách của báo chí cách mạng là phục vụ lợi ích của nhân dân, vì sự tiến bộ và
giải phóng con người [36, 18].
28
Trong thực tế, C.Mác – Ph.Ăng ghen là những người sáng lập ra
nền báo chí cách mạng mà đấu mốc quan trọng là sự ra đời của tờ báo “Sông
Ranh mới” trong những năm 1848 – 1849. Tờ báo này do do C.Mác làm tổng
biên tập và Ph.Ăng ghen là cộng tác viên đắc lực[31, 39]. Tờ báo này gắn liền
với phong trào cộng sản ở châu Âu khoảng giữa thế kỷ thứ XIX.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong xã hội có phân
chia giai cấp thì mỗi con người phải thuộc về một giai cầp, tầng lớp nhất định và
quyền lợi của các giai cấp trong xã hội là khác nhau thậm chí đối lập nhau. Các
giai cấp tầng lớp trong xã hội đều sử dụng báo chí làm vũ khí chiến đấu để bảo
vệ địa vị chính trị và quyền lợi kinh tế của mình. Chính vì vậy, báo chí của giai
cấp nào thì phản ánh tôn chỉ mục đíc đường lối tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng
của giai cấp đó [31, 99].
Báo chí của các Đảng Cộng Sản được xác định là cơ quan ngôn
luận của Đảng, là sợi dây liên hệ giữa Đảng và giai cấp công nhân, là vũ khí đấu
tranh của gia cấp vô sản. Ph.Ăng ghen chỉ ra rằng: “ Đối với Đảng nhất là Đảng
của giai cấp công nhân thì việc lập ra tờ báo hàng ngày đầu tiên là cái mốc quan
trọng để tiến lên phía trước. Đó là nhận định ban đầu, từ đó Đảng sẽ tiến hành
cuộc đấu tranh với những đối thủ của mình bằng vũ khí tương xứng. Báo hàng
ngày là công cụ tuyên truyền, cổ động quần chúng không có gì thay thế được”
[36, 18].
C.Mác nhận định: “Báo chí sống trong nhân dân và trung thực chia
sẻ với nhân dân niềm hi vọng và sự lo lắng của họ. Trong hi vọng và lo lắng, có
điều gì báo chí nghe được từ cuộc sống, báo chí sẽ lớn tiếng loan tin cho mọi
người đều biết, báo chí tuyên bố sự phán xét của mình đối với những tin tức đó
một cách gay gắt, hăng say, phiến diện như những tình cảm và tư tưởng bị xúc
động thầm bảo nó vào lúc đó. Điều sai lầm hôm nay nằm trong các sự kiện mà
nó đưa tin, hoặc trong những lời nhận xét mà nó nêu lên thì ngày mai sẽ được
29
bản thân nó bác bỏ” [3, 237]. Từ nhận định trên cho thấy: báo chí cách mạng là
công cụ phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân, coi phong trào quần chúng là
cơ sở thực tiễn để phản ánh, chỉ có như vậy báo chí mới có thể bảo vệ được
quyền lợi của quần chúng một cách thiết thực.
V.I.Lê nin - người cộng sản ưu tú, kế thừa tư tưởng chủ nghĩa Mác
đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của báo chí trong phong trào cách mạng: “Chúng
ta cần trước hết là tờ báo, không có nó thì không thể tiến hành được một cách có
hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động hết sức nguyên tắc và toàn diện” [37, 10], “
Tờ báo không chỉ là người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể, mà còn là
người tổ chức tập thể… Nhờ có tờ báo, một tổ chức cố định tự nó hình thành, nó
không chỉ làm các công tác địa phương mà còn làm cả công tác chung thường
xuyên nữa, nó giúp cho những nhân viên của nó quen việc theo dõi chăm chú
những biến cố chính trị, đánh gia ý nghĩa của những biến cố ấy đến các tầng lớp
khác nhau trong nhân dân, và vạch ra cho đảng cách mạng những phương pháp
hợp lí để tác động đến những biến cố ấy” [37, 12]
Báo chí một mặt cung cấp thông tin cho công chúng, mặt khác nó
phản ánh những tâm tư nguyện vọng, ý kiến… của công chúng về những vấn đề
thời sự nóng bỏng của xã hội. Chính vì vậy, nó được xác định là một trong
những nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho những nhà quản lí xã hội.
Những quyết định quản lí chỉ thực sự phù hợp và hiệu quả khi nó dựa trên
những thông tin chính xác từ thực tế cuộc sống. V.I.Lênin đã yêu cầu thành lập
một uỷ ban đặc biệt để thu thập và xử lí thông tin ngay từ những ngày đầu cách
mạng: “Có thể và nhất thiết phải tổ chức một văn phòng như vậy, nó có thể đem
lại lợi lớn; không có nó, chúng ta sẽ không có mắt, không có tai, không có tay
để tham gia các phong trào quốc tế” [39, 156]
V.I.Lênin đề cao sự phù hợp giữa các yếu tố nội dung và hình thức
thể hiện của tác phẩm báo chí. Nó sẽ không đem lại hiệu quả cao với công
30
chúng khi nội dung thông tin tốt nhưng cách thể hiện không gần gũi, xa rời với
đời sống nhân dân: “Sự đơn giản, dễ hiểu và phổ cập, nội dung sinh động của tư
liệu đưa ra sẽ đảm bảo cho những tư tưởng của báo chí đi sâu vào lòng người
đọc thuộc mọi tầng lớp nhân dân” [38, 92].
Từ những quan điểm trên cho thấy: chủ nghĩa Mác – Lênin đánh
giá rất cao vai trò, cũng như hiệu quả của báo chí trong việc tác động vào xã
hội, nó làm thay đổi nhận thức, cũng như hành vi ứng xử của con người trong
thực tiễn cuộc sống. Hiệu quả của báo chí sẽ là một sức mạnh to lớn, góp phần
hình thành dư luận xã hội, định hướng dư luận xã hội tích cực trong công chúng.
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về truyền thông đại chúng
Ở Việt Nam, nền báo chí cách mạng được đánh dấu bằng sự ra đời
của tờ báo “Thanh niên” ngày 21 tháng 6 năm 1925 do Hồ Chí Minh sáng lập.
Hồ Chí Minh - người chiến sĩ cộng sản ưu tú, nhà báo cộng sản đầu
tiên đã sáng lập ra nền báo chí cách mạng của giai cấp vô sản ở nước ta. Là
người kế thừa những tinh hoa của chủ nghĩa Mác – Ăng ghen, Lênin về báo chí
vô sản, áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam, quan điểm về báo chí của Hồ
Chí Minh rất cụ thể và sâu sát. Trước hết, đối với báo Đảng, Người cho rằng: tờ
báo của Đảng có nhiệm vụ làm cho tư tưởng và hành động thông suốt và thống
nhất. Cụ thể là tuyên truyền lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối chính
sách đối nội và đối ngoại của Đảng và của Chính phủ. Thông tin về tình hình
trong nước cũng như thế giới, những kinh nghiệm tốt, xấu của các nghành các
địa phương, phản ánh công tác học tập, công tác, tinh thần phê bình, tự phê
bình, cũng như đời sống và ý nguyện của nhân dân…Mỗi tờ báo Đảng là những
lớp huấn luyện đơn giản, thiết thực và rộng khắp: “Những tờ báo Đảng cung cấp
cho chúng ta những điều cần biết làm về công tác tuyên truyền, tổ chức, lãnh
đạo và công tác…nó giúp nâng cao trình độ chính trị và năng suất công tác của
chúng ta” [336, 337]. Hồ Chí Minh luôn xác định và đề cao vai trò của báo chí,
31
coi nó như một vũ khí sắc bén chiến đấu để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc:
“Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc
bén cuả họ” [377]. Đối với mỗi tờ báo để phục vụ được nhân dân tốt hơn đều
phải xác định nội dung, tôn chỉ mục đích cũng như đối tượng phục vụ rõ ràng:
- Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền cổ động, huấn luyện, Giáo
dục, và tổ chức dân chúng dể đưa dân chúng tới mục đích chung.
- Tôn chỉ mục đích của mỗi tờ báo là đoàn kết toàn dân, thi đua ái
quốc.
Đối tượng của báo chí là đại đa số dân chúng: “ Một tờ báo không
được đại đa số dân chúng ham chuộng, thì không xứng đáng là nột tờ báo”
[346]. Chính vì vậy, muốn để tờ báo được dân chúng ham chuộng, yêu thích thì
các tờ báo phải hết sức chú ý đến cảc mặt nội dung và hình thức của tờ báo. Về
nội dung “các bài báo phải đơn giản, dễ hiểu, phổ thông, thiết thực, hoạt bát”.
Về hình thức “ cách sắp đặt các bài, cách in phải sạch sẽ sáng sủa” [346]…
Không chỉ đối với những người làm báo, mà với tất cả các chiến sĩ
cách mạng trên các mặt trận Hồ Chí Minh đề cao vấn đề nhận thức, vì chỉ khi có
nhận thức con người mới có thể tự giác làm đúng, đi theo cái đúng cái cao cả: “
tuyệt đối cần thiết là chúng ta phải giúp đỡ các đồng chí của chúng ta khắc phục
những khó khăn ấy bằng cách tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thu những
kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sĩ cần phải có” [381].
Đối với nhà báo cách mạng trong đại hội lần thứ hai Hội nhà báo
Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Báo chí của chúng ta là phục vụ nhân dân
lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội,...cho hoà bình trên thế giới. Chính vì thế
cho nên, tất cả những người làm báo phải có lập trường chính trị vững chắc.
Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng
được” [366]. “Nhiệm vụ của mỗi người làm báo là quan trọng và vẻ vang.
32
Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư
tưởng, đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản, phải nâng cao trình độ
văn hoá, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình. Cần phải luôn cố gắng, mà cố
gắng thì nhất định thành công”. Trong hoạt động nghiệp vụ của nhà báo cách
mạng, mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ tư tưởng và lòng ước
ao của quần chúng. Chính vì vậy trong mỗi bài báo Hồ Chí Minh yêu cầu :
- Phải học cách nói của quần chúng. Chớ nói như giảng sách.
- Phải luôn dùng những lời lẽ những thí dụ đơn giản.
- Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu
được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi
của mình. Bao giờ cũng phải tự hỏi: “ Ta viết cho ai xem ? nói cho ai nghe”?
- Trước khi nói phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Sau khi
viết rồi phải xem đi xem lại ba bốn lần. [348, 349]
Hồ Chí Minh luôn xác định cách viết báo luôn gắn với hiệu quả
truyền thông của báo chí. Gắn báo chí với công chúng bằng hình thức thể hiện
phù hợp với cách nghĩ, cách hiểu, cách nói, cách làm, của công chúng, trên cơ
sở đó để truyền tải thông tin. Người nhấn mạnh : “Mình viết ra là cốt để Giáo
dục, cổ động; nếu người xem mà không nhớ được, không hiểu được, là viết
không đúng, nhằm không đúng mục đích. Mà muốn người xem hiểu được, nhớ
được, làm được thì phải viết cho đúng trình độ của người xem, viết rõ ràng gọn
gàng, không dùng chữ nhiều”.
Về cách viết báo trong bài giảng tại lớp chỉnh Đảng Trung ương
ngày 17 tháng 08 năm 1953, Người chỉ rõ, khi viết báo chúng ta phải luôn đặt ra
các câu hỏi : Vì ai mà viết? Mục đích viết để làm gì? và phải trả lời những câu
hỏi đó. Chẳng hạn, Viết cho ai? Viết cho đại đa số Công – Nông – Binh[10,
616]. Viết để làm gì? để giáo dục gải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần
33
chúng ...Viết cái gì? Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân ta…của bạn ta.
Đồng thời phê bình những khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ của nhân dân...
Không nên chỉ viết những cái tốt mà giấu những cái xấu. Nêu cái hay, cái tốt thì
phải có chừng mực, chớ phóng đại…Phê bình thì phải phê bình một cách thật
thà, chân thành đúng đắn chứ không phải để lợi dụng để nó phản tuyên
truyền[349].
Về vấn đề tài liệu để viết báo, trả lời câu hỏi lấy tài liệu ở đâu ?
Người chỉ rõ, muốn có tài liệu thì phải tìm, thông qua các hoạt động như: nghe,
hỏi, quan sát, thu thập từ các tài liệu thông tin khác và ghi chép[350].
Trả lời câu hỏi viết như thế nào? Người chỉ rõ : Cần phải tránh lối
viết “ rau muống” nghĩa là lằng nhằng “trường giang đại hải” làm cho người
xem như là “Chắt vắt vào rừng xanh”. Ngoài ra, Người còn yêu cầu viết báo
phải “ gọn gàng, rõ ràng, vắn tắt. Nhưng vắn tắt không phải là cụt đầu, cụt đuôi,
mà phải có đầu có đuôi”. Viết phải thiết thực “Nói có sách, mách có chứng” có
nghĩa là “ nói cái việc ấy ở đâu, thế nào, ngày nào, nó sinh ra thế nào, phát triển
thế nào, kết quả thế nào”. Người khuyên viết báo không nên “ham dùng chữ”;
Những chữ mà không biết rõ thì không nên dùng. Những chữ mà tiếng ta có thì
phải dùng tiếng ta. Đặc biệt, trong lúc viết thì phải chú ý giữ bí mật nó được coi
là điều kiện cơ bản để đảm bảo hiệu quả thông tin.[339, 340, 341]
Trong Đại hội lần thứ III Hội nhà báo Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh đến hiệu quả tác động của báo chí tới sự hình thành dư luận xã
hội. Người chỉ rõ báo chí phải giữ nhiệm vụ định hướng dư luận xã hội chứ
không được phép vuốt đuôi dư luận xã hội. Các phương tiện truyền thông đại
chúng được xác định có vai trò hết sức quan trọng trong việc “đem ý kiến đúng
đã được lựa chọn đến với người dân để họ so sánh, bàn bạc, lựa chọn lại”; Trên
cơ sở đó “phải khéo léo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái
đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét,
34
giải quyết các vấn đề mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân” [363, 364, 365,
366]
Có thể nói, quan điểm về báo chí và hoạt động báo chí của Hồ Chi
Minh cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Những quan điểm, tư tưởng đó được
coi là cách thức để đảm bảo dư luận xã hội của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã
hội, để chúng thực sự trở thành công cụ, đối tượng để lãnh đạo, quản lí xã hội
theo mục tiêu phát triển bền vững.
1.1.3 Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về truyền thông đại
chúng
Đảng Cộng Sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Ra đời ngày 03 tháng 02 năm
1930 Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam
cho mọi hoạt động của mình. Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách
mạng đem lại độc lập tự do cho đất nước. Trong các quá trình cách mạng, báo
chí được sử dụng như một phương tiện hữu hiệu để đấu tranh giành thắng lợi.
Đảng chỉ rõ báo chí phải luôn đi đầu trong trong việc tuyên truyền,
bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của
Đảng. Trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện
nay, Đảng lãnh đạo báo chí là điều kiện quan trọng để khơi dậy được nhiệt tình
cách mạng, sức sáng tạo, tiềm năng trí tuệ to lớn của nhân dân, tổng kết các
kinh nghiệm phong phú, sinh động từ thực tiễn để góp phần hoàn thiện đường
lối, chính sách của Đảng, thực hiện quá trình “ tự Giáo dục” của nhân dân.
Trên cơ sở nhận thức đó, Đảng luôn đề cao vai trò của hoạt động
báo chí; coi báo chí là “công cụ sắc bén trọng công tác tư tưởng của Đảng”, là
“lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hoá” [45]. Hiện nay báo chí
cũng được đặt vào vị trí xung kích trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước,
35
dân chủ hoá đời sống xã hội, cổ vũ, phát hiện những nhân tố mới, tích cực trong
cuộc sống; giám sát công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và bộ máy Nhà nước,
thúc đẩy phát triển kinh tế, thoả mãn nhu cầu thông tin, nâng cao dân trí của
nhân dân.
Hiện nay, sau hơn 20 năm đổi mới đất nước ta đã có sự phát triển
tương đối toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có báo chí.
Hệ thống báo chí của chúng ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, vận hành trong cơ
chế thị trường đã có được những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất
lượng, ngày càng đáp ứng được nhu cầu thông tin của công chúng trong xã hội.
Nội dung thông tin được chuyển tải trên báo chí ngày càng phong phú, đa dạng
và đặc biệt là vấn đề được đề cập xác thực hơn, đã thu hút được sự quan tâm của
công chúng; khiến họ cảm nhận những vấn đề thời sự xã hội như là “ chuyện
của mình”. Phương thức thông tin đa dạng, sinh động, hình thức đẹp, hấp dẫn…
Nói chung trong giái đoạn hiện nay, báo chí của chúng ta đã dần tiếp cận được
với trình độ của báo chí hiện đại trên thế giới.
Bắt nguồn từ đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, đường lối chính trị
cũng từng bước hoàn thiện, trong đó có sự đổi mới công tác tư tưởng và văn
hoá. Định hướng tư tưởng và quan điểm báo chí cũng có những bước đổi mới
đáng kể. Từ việc xác định “ Báo chí là công cụ tư tưởng sắc bén của Đảng” đến
quan điểm “ Báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà nước,của các tổ chức xã
hội, là diễn đàn của nhân dân” được coi là một bước phát triển mới của lí luận
báo chí cách mạng. Từ quan điểm này cho thấy: thông tin báo chí là đa dạng,
phong phú, nhiều chiều nhưng phải vận hành trong sự quản lí có tính định
hướng của Đảng, Nhà nước.
Quan điểm này đã thể hiện được mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa
Đảng và dân. Trên cơ sở “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, báo chí một
mặt tuyên truyền đường lối chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, đến với
36
công chúng, một mặt phản ánh những ý kiến, nguyện vọng của công chúng
trong quá trình thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước. Có thể nói,
báo chí là chiếc cầu nối giữa Đảng và dân, là kênh liên hệ giữa dân và Đảng, là
cầu nối tin cậy giữa văn bản chính sách và thực tế cuộc sống.
Ngoài ra, Đảng còn xác định báo chí là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu để xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc.
Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định vai trò giám sát xã hội của truyền
thông đại chúng thông qua việc phản ánh thực tiễn cuộc sống và định hướng dư
luận xã hội, nâng cao nhận thức cho công chúng, đồng thời chỉ rõ: các cơ quan
truyền thông đại chúng “ vừa phải hiểu rõ nguyện vọng, tâm tư của quần chúng
để phục vụ tốt và phản ánh với Đảng, vừa có trách nhiệm tạo cho được dư luận
quần chúng đúng đắn” [1, 114]. Để thực hiện được điều đó, các cơ quan truyền
thông đại chúng phải “ coi trọng việc nâng cao chất lượng thông tin đại chúng,
tính chân thật, tính chiến đấu và tính đa dạng của thông tin” [2, 112].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, được soi sáng bởi lí luận của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình phát triển báo
chí cách mạng Việt Nam luôn gắn mật thiết, đi cùng và phản ánh từng nhiệm
vụ, diễn biến của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội và đặc biệt là công cuộc đổi mới hiện nay.
1.1.4 Lý thuyết của M.Weber về đối tượngnghiên cứu của truyền thông
đại chúng
M.Weber là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “xã hội học báo chí”
trong bài phát biểu tại kỳ họp thứ nhất của Hội Xã hội học Đức. Ngay từ năm
1910, M.Weber đã đặt luận cứ cho các nghiên cứu xã hội học truyền thông đại
chúng, đã xếp nghiên cứu về công chúng ở vị trí hàng đầu trong các vấn đề cần
37
phải ưu tiên của xã hội học truyền thông đại chúng. Ông cũng chỉ ra rằng:
truyền thông đại chúng tạo nên các tương tác xã hội để hình thành hành động xã
hội phù hợp với định hướng xã hội.
M.Weber đã luận chứng về mặt phương pháp luận cho sự cần thiết
của môn xã hội học báo chí và đã vạch ra phạm vi các vấn đề của nó:
- Hướng vào các tập đoàn, các tầng lớp xã hội khác nhau.
- Phân tích các yêu cầu của xã hội đối với nhà báo.
- Các phương pháp phân tích báo chí.
- Phân tích hiệu quả của báo chí đối với việc xây dựng con người.
Lập luận của M.Weber chỉ rõ tác động của báo chí đối với việc
hình thành ý thức quần chúng và dư luận xã hội và vạch ra mối liên hệ giữa các
nhân tố này với hành động xã hội của cá cá nhân và các tầng lớp xã hội [53].
Trên cơ sở lập luận của M.Weber cho thấy các phương tiện truyền thông đại
chúng được xác định là một tác nhân quan trọng đối với quá trình xã hội hoá cá
nhân và hình thành dư luận xã hội.
Từ các đề xuất của M.Weber cho thấy, việc nghiên cứu xã hội học
về truyền thông đại chúng thì hướng nghiên cứu công chúng giữ vị trí quan
trọng hàng đầu. Hướng nghiên cứu này đã được các nhà nghiên cứu coi trọng
trong suốt các qúa trình phát triển của xã hội học về truyền thông đại chúng.
Thông qua các phân tích thực nghiệm, ghi nhận rằng xã hội càng phát
triển thì công chúng càng chủ động hơn trong hoạt động giao tiếp với các
phương tiện truyền thông đại chúng. Không những thế, họ còn chủ động hơn
trong việc sử dụng những thông tin tiếp nhận được từ hệ thống này áp dụng vào
hoạt động thực tiễn.
38
1.1.5 Mô hình của H.Lasswell và C.Shannon về truyền thông đại chúng
Trong lịch sử nghiên cứu sự phát triển của truyền thông đại chúng,
các nhà nghiên cứu đã đưa ra hai loại mô hình truyền thông cơ bản, đó là mô
hình truyền thông một chiều mang tính áp đặt và mô hình truyền thông đại
chúng hai chiều mềm dẻo.
Mô hình truyền thông một chiều áp đặt là mô hình truyền thông
đơn giản; Nó được hiểu là quá trình truyền thông tin giữa hai cá nhân, hay hai
nhóm người với nhau, trong đó một cá nhân hay một nhóm người giữ vai trò là
người truyền tin, truyền đi những thông điệp với tư cách là những tác nhân kích
thích nhằm để sửa đổi hành vi của những cá nhân hay nhóm người khác.
Năm 1948, H.Lasswell đã đưa ra mô hình truyền thông đại chúng
một chiều[26, 42] bao gồm những yếu tố:
- Who : Nguồn phát, chủ đề truyền thông
- Says what : Thông điệp, nội dung truyền thông
- Inh Which Channel : Kênh tuyền thông
- To Whom : Người nhận thông điệp
- With What Effects : Hiệu quả truyền thông
S M C R E
39
S (Source Sender) : Nguồn phát, chủ đề truyền thông
M(Message) : Thông điệp, nội dung truyền thông
C(Channel) : Kênh tuyền thông
R(Receiver) : Người nhận thông điệp
E(Effect) : Hiệu quả truyền thông
Từ mô hình truyền thông trên cho thấy, phương thức thông tin được
chuyển tải theo một chiều. Bắt đầu từ nguồn phát, những thông điệp được
truyền qua kênh truyền thông, đến người tiếp nhận thông tin. Khi hoàn thành
quá trình này sẽ tạo ra hiệu quả thông tin.
Đây là mô hình thông tin đơn giản, nhưng rất thuận lợi khi chuyển tải
những thông tin nhanh. Trong mô hình này, nguồn phát giữ vai trò quyết định,
có khả năng áp đặt quan điểm, tư tưởng của mình đối với người tiếp nhận thông
tin. Công chúng chỉ tiếp nhận thông tin một cách thụ động, không có họăc ít có
sự phản hồi trở lại dù đó là sự tác động tích cực để thấy được thái độ tiếp nhận
thông tin của công chúng hoặc những thông tin đã chuyển tải có phù hợp hay
không. Chính vì những hạn chế như vậy nên mô hình truyền thông này chưa
làm thoả mãn được nhu cầu thông tin, chưa thu hút, chưa tạo được sự quan tâm
của công chúng.
Khi C.Shannon đưa ra mô hình quá trình truyền thông hai chiều mềm dẻo
đã khắc phục được nhược điểm của mô hình truyền thông một chiều. Ông đã
đưa vào mô hình thông tin của mình những yếu tố mới đó là :
- F( Feedback) : Thông tin phản hồi từ người tiếp nhận thông
tin
40
N( Noise) : Nhiễu ( những yếu tố tạo sai số trong thông -
tin)
N
S M C R E
F
Từ mô hình trên cho thấy, thông tin được truyền đi từ nguồn phát
(S) qua các kênh thông tin đến với người nhận (R) qua quá trình xử lý, thu được
hiệu quả thông tin (E), hiệu quả thông tin sẽ định hướng suy nghĩ và hành động
của công chúng, từ đó tạo ra phản ứng của công chúng ngược lại với nguồn phát
(F). Nhờ có thông tin phản hồi mà các nhà cung cấp thông tin nắm được hiệu
quả thông tin đạt được mức độ nào, những thông tin cung cấp có phù hợp với
nhu cầu của công chúng hay không, trên cơ sở đó để điều chỉnh nội dung cũng
như hình thức thông tin cho phù hợp với từng loại đối tượng tiếp nhận.
Trong quá trình truyền thông, các thông điệp đến với người tiếp nhận
không đầy đủ, hoặc không tạo ra hiệu quả thông tin chính xác, đó là sự ảnh
hưởng của hiện tượng nhiễu (N). Hiện tượng nhiễu tạo ra những sai sót trong
quá trình chuyền tải và tiếp nhận thông tin.
Nếu xét về mặt bản chất thì mô hình truyền thông hai chiều của C.
Shannon là sự phát triển logic từ mô hình truyền thông của H.Lasswell. Trong
điều kiện xã hội phát triển, được sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật và công nghệ,
41
nhiều phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại ra đời nó cho phép thiết lập
mối quan hệ hai chiều liên tục, trực tiếp giữa nguồn phát và người tiếp nhận
thông tin. Trong mô hình truyền thông này, vai trò của công chúng tiếp nhận
được xem là một trong những yếu tố quyết định quá trình truyền thông. Tính
tích cực của công chúng với tư cách là đối tượng tiếp nhận thông tin, không chỉ
chỉ thể hiện ở việc lựa chọn những thông điệp tiếp nhận…mà còn là sự tham gia
trực tiếp, trở thành một yếu tố quyết định trong quá trình thực hiện hoạt động
truyền thông đại chúng.
Trên cơ sở này, có thể thấy trong việc nghiên cứu hiệu quả của truyền
thông đại chúng thì vấn đề nghiên cứu công chúng có vai trò hết sức quan trọng,
nó cho phép nhà truyền thông nắm bắt được nhu cầu, hình thành được nội dung
và phương pháp nghiên cứu thích ứng.
1.2 Các khái niệm
1.2.1 Truyền thông
Truyền thông tương ứng với thuật ngữ “communication” trong tiếng Anh
hoặc tiếng Pháp – là một dạng hoạt động căn bản của bất kỳ một tổ chức mang
tính xã hội nào. Hiện nay, chưa có một định nghĩa nào làm hài lòng các học giả
và giới nghiên cứu về truyền thông. Tuỳ theo lĩnh vực và góc độ nghiên cứu mà
người ta đưa ra những định nghĩa về truyền thông khác nhau:
Truyền thông là quá trình truyền thông tin có nghĩa giữa các cá -
nhân với nhau.
- Truyền thông là quá trình trong đó một cá nhân (người truyền tin)
truyền những thông điệp với tư cách là những tác nhân kích thích để sửa đổi
hành vi của những cá nhân khác.
42
- Truyền thông xảy ra khi thông tin được truyền từ nơi này đến nơi
khác.
- Không phải đơn thuần là sự chuyển tải các thông điệp bằng ngôn
ngữ xác định và có ý định trước mà nó bao hàm cả các quá trình trong đó con
người gây ảnh hưởng, tác động đến một người khác.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu một cách chung nhất về
truyền thông như sau: “Truyền thông là hoạt động chuyển tải và chia sẻ thông
tin . Quá trình này diễn ra liên tục, trong đó tri thức, tình cảm, kỹ năng liên kết
với nhau, đây là một quá trình phúc tạp, qua nhiều mắt nhiều khâu, các mắt,
khâu đó chuyển đổi tương đối linh hoạt để hướng tới sự nhận thức và hành vi
của các cá nhân và các nhóm”.
Bản chất của qua trình truyền thông là truyền đạt thông tin từ nơi này đến
nơi khác. Truyền thông thường được thực hiện thông qua lời nói, chữ viết
nhưng cũng có thể thực hiện thông qua cử chỉ, điệu bộ hay hành vi để biểu thị
thái độ hay cảm xúc.
1.2.2 Truyền thông đại chúng
Thuật ngữ truyền thông đại chúng “ mass communication” được
hiểu là quá trình truyền tải thông tin một các rộng rãi hướng đến đông đảo mọi
thành viên trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (mass
media).
Chúng ta có thể đưa ra khái niệm cơ bản về truyền thông đại chúng: là
một hoạt động nhờ đó mà các thông điệp do nhiều người sản xuất được truyền
đạt đến đông đảo người nhận.
43
Sự khác biệt cơ bản giữa truyên thông và truyền thông đại chúng là số
lượng công chúng tiếp nhận thông tin, nhưng sự khác nhau về số lượng của
hàng triệu người tiếp nhận đã trở thành sự khác nhau về chất lượng.
Mô hình truuyền thông đại chúng cơ bản cũng giống như mô hình
truyền thông; Từ nguồn phát các thông điệp được truyền đến người tiếp nhận
thông qua các kênh truyền và từ người tiếp nhận tạo ra thông tin phản hồi lại
nguồn phát. Mặc dù sự khác biệt cơ bản giữa truyền thông đại chúng và truyền
thông giữa các cá nhân là số lượng người tiếp nhận và thời gian thông tin. Tuy
nhiên, truyền thông đại chúng cũng có khi đông đảo công chúng tiếp nhận thông
tin ngay lập tức, đồng thời với thời điểm xảy ra sự kiện như các chương trình
truyền hình hoặc phát thanh trực tiếp…cũng có khi các nhân tiếp nhận thông tin
lại diễn ra trong một thời gian khá dài như với phim ảnh, thậm chí hàng thế kỉ
như với các cuốn sách.
Truyền thông đại chúng được hiểu là giao tiếp đại chúng. Đó là sự
truyền bá với số lượng lớn những nội dung giống nhau cho những nhóm đông
người trong xã hội dựa vào kỹ thuật truyền bá tập thể [55].
Giao tiếp đại chúng và giao tiếp cá nhân có những điểm khác biệt
rất căn bản, tạo nên những ưu thế và hạn chế khác nhau. Giao tiếp đại chúng là
hình thức giao tiếp gián tiếp thông qua các phương tiện kỹ thuật, thể hiện định
hướng xã hội rõ ràng trong giao tiếp, nó có tính tổ chức và chịu sự tác động của
thiết chế xã hội, với những chuẩn mực chung ở mức độ cao, thông tin đến với
công chúng theo tính định kỳ, thể hiện rõ nét tính tập thể của nhà truyền thông.
Giao tiếp cá nhân là hình thức giao tiếp trực tiếp, trong đó có cả định hướng xã
hội và định hướng cá nhân, thể hiện rõ tính cá thể của nhà truyền thông. Tuy có
cả tính tổ chức lẫn tự phát nhưng người tham gia giao tiếp cá nhân có thể tự do
hơn trong việc tuân thủ chuẩn mực giao tiếp và thông tin không nhất thiết phải
có tính định kỳ. Ưu điểm nổi bật của giao tiếp cá nhân trực tiếp là sự liên hệ
44
ngược giữa những người giao tiếp trong quá trình giao tiếp, giao tiếp đại chúng
không thực hiện được mối liên hệ này.
1.2.3 Hiệu quả truyền thông đại chúng
Hiệu quả của truyền thông đại chúng trong đó báo chí là cơ bản
được hiểu là: “việc vận dụng các quy luật, các nguyên tắc, hình thức, phương
pháp hoạt động báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình
nhằm đạt mục đích” [31,170].
Để đạt hiệu quả cao trong truyền thông, các nhà cung cấp phải giải
quyết tốt mối quan hệ tác động trước hết từ các thiết chế xã hội mà các phương
tiện truyền thông là công cụ. Thứ đến là các quan hệ từ phía công chúng. Mối
quan hệ giữa báo chí và công chúng là quan hệ biện chứng hai chiều. Mối quan
hệ này thể hiện tính chính trị - xã hội tích cực của bản thân hệ thống báo chí và
công chúng báo chí. Hiệu quả của hoạt động báo chí phụ thuộc trực tiếp vào
mối quan hệ này.
Trong góc độ nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi hiểu hiệu quả
của truyền thông đại chúng là sự thay đổi trong nhận thức, tình cảm cũng như
hành vi của công chúng so với trạng thái trước khi tiếp nhận thông tin từ các
phương tiện truyền thông. Hiệu quả truyền thông cao thể hiện bằng việc công
chúng luôn quan tâm theo dõi đến những vấn đề được truyền tải, luôn nhận thức
xử lí được thông điệp và biến nó thành hành động thực tiễn.
1.2.4. Công chúng của truyền thông đại chúng
Công chúng truyền thông đại chúng được chúng tôi hiểu như là đối
tượng của các phương tiện truyền thông đại chúng.
Công chúng của truyền thông đại chúng được xác định là tất cả các
tầng lớp, giai cấp, các cộng đồng người trong xã hội tiếp nhận thông tin từ các
45
phương tiện truyền thông đại chúng. Lượng công chúng của truyền thông đại
chúng là không thể xác định chính xác. Tuy nhiên, mỗi nhóm công chúng có
những đặc thù riêng, mỗi cá nhân trong đó khi chịu tác động của các thông điệp
truyền thông sẽ có những cách suy nghĩ và hành động khác nhau.
Nhà xã hội học H.Blumer đã phân biệt bốn đặc điểm sau đây đề nhận
dạng khái niệm đại chúng.[39]
- Đại chúng bao gồm những người thuộc mọi thành phần xã
hội, bất kể đại vị nghề nghiệp, trình độ học vấn hay tầmh lớp xã hội nào.
- Nói đến đại chúng là nói đến những cá nhân nặc danh.
- Các thành viên của đại chúng thường là cô lập nhau xét về
mặt không gian, không ai biết ai, mà cũng không có sự tương tác hay
những mối quan hệ gì gắn bó với nhau ( khác với những khái niệm như
“cộng đồng” hay “ hiệp hội” ).
- Đặc điểm thứ tư của đại chúng là hầu như không có hình
thức tổ chức gì, hoặc nếu có thì cũng rất lỏng lẻo, và do đó khó có thể tiến
hành một hoạt động chung nào.
Trong thực tế, đa số người tiếp nhận thông tin từ các phương tiện
truyền thông đại chúng nhất định sẽ có những trao đổi với những nhóm công
chúng khác. Nội dung thông điệp mà các phương tiện truyền thông đại chúng
truyền tải thường xuyên là đề tài của các cuộc tranh luận hàng ngày trong cuộc
sống. Và như vậy, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng đã
được mở rộng một cách gián tiếp, cũng có thể lượng công chúng được mở rộng
này sẽ lớn hơn lượng công chúng trực tiếp tiếp nhận thông tin.
46
Khi mà báo chí ngày càng làm thoả mãn nhu cầu thông tin của
công chúng, thì trên cơ sở đó nhu cầu thông tin của công chúng cũng ngày một
cao hơn luôn đặt ra cho báo chí những yêu cầu mới
Công chúng tiếp nhận thông tin là cơ sở để hình thành dư luận xã
hội , dư luận xã hội tác động trở lại với hoạt động của hệ thống các phương tiện
truyền thông đại chúng. Thước đo về sự phản hồi từ công chúng là một chỉ báo
căn bản về hiệu quả hoạt động của các phương tiện truuyền thông đại chúng
trong việc hình thành và định hướng dư luận xã hội. Dư luận từ công chúng có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động
của báo chí.
1.2.5 Công chúng sinh viên báo chí
Sinh viên nói chung và sinh viên báo chí nói riêng là một bộ phận
chuyên biệt của công chúng báo chí. Ngoài những đặc điểm xã hội chung ở họ
mang những dấu hiệu nhận diện đặc thù bởi vị trí, vai trò trong xã hội.
Trước hết họ được xác định là nhóm dân số nằm trong độ tuổi Thanh
niên. Theo luật Thanh niên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày
09-12-2005 quy định Thanh niên là nhóm công dân “đủ từ 16 đến 30 tuổi”
[15,17]
Sinh viên báo chí mang những dấu hiệu nhận diện đặc thù:
- Có độ tuổi trung bình khoảng từ 18 – 24
- Có trình độ tri thức tương đối cao trong xã hội
- Đang học tập ngành báo chí, trong một trường Đại học hoặc Cao
đẳng.
47
Ngoài ra họ còn mang những đặc điểm chung của nhóm Thanh niên [35] như:
- Là nhóm dân cư có tốc độ phát triển nhanh về thể chất, có sức
khoẻ, nhạy bén, tiếp thu nhanh, nhu cầu xã hội cao
- Đang trong thời kỳ học hỏi, ước mơ thành đạt, sáng tạo, dễ hấp
thụ cái mới, mạnh dạn, năng nổ.
- Họ luôn khát vọng vươn tới tầm cao của các giá trị, muốn được
cống hiến, muốn tự do dân chủ, muốn công bằng xã hội.
1.3. Địa điểm khảo sát và đối tượng nghiên cứu
1.3.1. Vài nét về địa điểm khảo sát
Trường Cao Đẳng Phát thanh - truyền hình TW1 trực thuộc Đài
Tiếng Nói Việt Nam, hiện đóng trên địa bàn phường Minh Khai, thị xã Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam là trường Cao đẳng đầu tiên đào tạo ngành báo chí Phát thanh -
Truyền hình trên cả nước.
Được thành lập trên cơ sở Trường trung học Phát thanh - Truyền hình,
tiền thân là trường Công nhân kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình. Được thành
lập tháng 12 năm 1957 tại Nghi Tàm, Từ Liêm, Hà Nội với nhiệm vụ đào tạo
cán bộ cho nghành Phát thanh - Truyền hình của các tỉnh phía Bắc từ thừa Thiên
- Huế trở ra.
Tháng 7 năm 1996, nhà trường được nâng cấp từ trường Công nhân
kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình thành trường trung học Phát thanh - Truyền
hình với nhiệm cụ đào tạo kỹ thuật viên, biên tập viên bậc trung học và công
nhân kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình bậc 3/7.
Tháng 12 năm 2003 trường được nâng cấp từ Trường Trung học
Phát thanh - Truyền hình lên Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1.
48
Đây là một bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển của một trường đào tạo của
nghành, nó đánh dấu kết quả sự nỗ lực không ngừng của các thế hệ giáo viên,
cán bộ, công nhân viên của nhà trường. Mặt khác, việc nâng cấp nhà trường
cũng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của phát thanh - truyền hình theo xu
hướng hiện đại.
Trong 50 năm qua, nhà trường đã đào tạo hàng chục ngàn cán bộ
kỹ thuật và phóng viên biên tập góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển mạng lưới Phát thanh - Truyền hình của cả nước. Góp phần đào tạo
nhân lực cho ngành để thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao
của công chúng.
Tính đến nay, nhà trường đã đào tạo được 11 khoá học sinh trung
cấp biên tập , kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình với khoảng 2500 học sinh. Đào
tạo 7 khoá nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ các đài địa phương vói gần 500 học
viên. 52 khoá công nhân kỹ thuật với hơn 12000 học sinh.
Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, nhà trường thực hiện
đa dạng hoá các loại hình đào tạo bằng việc liên kết với trường Đại học
KHXH&NV đào tạo 2 khoá sinh viên báo chí bậc đại học với gần 200 sinh viên.
Liên kết với trường Đại học Công nghệ thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội đào tạo
3 khoá với 153 sinh viên. Ngoài ra nhà trường còn liện kết với Đại học Bách
Khoa Hà Nội đào tạo 11 khoá cử nhân cao đẳng điện tử viễn thông, Đại học
Ngoại Ngữ Hà Nội đào tạo bậc đại học, và liên kết với các trường nghiệp vụ
Phát thanh - Truyền hình ở các tỉnh như: Nghệ an, Thanh hoá, Hải phòng, Hải
dương, Nam định, quận Hoàng mai Hà Nội, truyền hình Cáp Hà Nội…đào tạo
trên 5000 học sinh hệ trung cấp phóng viên biên tập, kỹ thuật điện tử và công
nhân kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình.
49
Hiện nay, tại trường đang đào tạo 4 nghành chính quy cho 2200
sinh viên và học sinh tại trường. Trong đó sinh viên nghành báo chí chiếm số
lượng lớn nhất với khoảng 1700 sinh viên các hệ. Ngành tin học 270 sinh viên.
Ngành kỹ thuật Phát thanh Truyền hình và kỹ thuật Điện tử viễn thông khoảng
230 sinh viên các hệ.
Nhà trường hiện có 1 hệ thống thư viện hiện đại, trong đó có hàng
nghìn đầu sách các loại, khoảng hơn 40 đầu báo và tạp chí với hàng trăm tờ
báo…Bên cạnh đó nhà trường còn có một hệ thống truyền thanh vừa để thực
hiện những chương trình phát thanh nội bộ, vừa thực hiện tiếp sóng Đài Tiếng
Nói Việt Nam và Đài phát thanh Hà Nam
Ngoài ra, nhà trường còn trang bị hệ thống mạng Internet không dây
trong toàn trường, dự kiến tới đây sẽ phủ sóng hệ thống này tới toàn bộ khu kí
túc xá sinh viên. Đây là điều kiện thuận lợi để sinh viên học tập và rèn luyện và
giải trí ngoài giờ học.
Có thể nói, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các phương tiện truyền
thông đại chúng tạo điều kiện cho công chúng tiếp thu được những yếu tố văn
hoá mới, nâng cao khả năng trong giao tiếp đại chúng và hoà nhập xã hội. Việc
đọc báo, nghe phát thanh, xem truyền hình và truy cập internet… đã trở thành
một sinh hoạt văn hoá quan trọng, không thể thiếu trong đời sống tinh thần của
xã hội nói chung và đặc biệt là nhóm sinh viên báo chí được nghiên cứu nói
riêng.
1.3.2. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát tại trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền
hình TW1 trực thuộc Đài Tiếng Nói Việt Nam, đóng trên địa bàn phường Minh
Khai, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam năm 2007. Cụ thể là :
50
Nhóm sinh viên năm thứ nhất được khảo sát đối vói sinh -
viên hệ trung cấp báo chí K11.
Nhóm sinh viên năm thứ ba được khảo sát đối vói sinh viên -
hệ cao đẳng báo chí K2.
Nhóm sinh viêm năm thứ năm được khảo sat đối với sinh -
viên hệ đại học báo chí K1.
Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu như sau:
Tổng số 400 phiếu được chia theo các nhóm sinh viên. Cụ thể là:
Nhóm đối Số lượng trong Tỉ lệ %
tượng mẫu
Sinh viên năm 100 25
thứ nhất
200 50 Sinh viên năm
thứ ba
Sinh viên năm 100 25
thứ năm
400 100 Tổng
51
Cơ cấu về giới tính trong mẫu nghiên cứu
Giới tính Số lượng trong Tỉ lệ %
mẫu
154 38.5 Nam
246 61.5 Nữ
400 100 Tổng
Độ tuổi trong mẫu nghiên cứu:
Nhóm tuổi Số lượng trong Tỉ lệ %
mẫu
136 34 18 - 20
239 60 21 – 23
25 6 >24
52
400 100 Tổng
Bậc đào tạo của mẫu nghiên cứu:
Bậc đào tạo Số lượng trong Tỉ lệ %
mẫu
Bậc trung cấp 100 25
Bậc cao đẳng 200 50
Bậc đại học 100 25
400 100 Tổng
53
CHƯƠNG II
CÁCH THỨC, MỨC ĐỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC QUAN
TÂM TRONG GIAO TIẾP ĐẠI CHÚNG CỦA CÔNG CHÚNG SINH
VIÊN BÁO CHÍ
2.1. Các phương tiện truyền thông đại chíng và cách thức tiếp nhận
của công chúng sinh viên báo chí
2.1.1. Các phương tiện truyền thông đại chúng
Trong những năm đầu của thế kỷ 21, tình hình kinh tế - xã hội của
Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Nhiều năm liền, tỷ lệ tăng trưởng
GDP ở mức cao trung bình là 7%, năm 2005, đạt mức 8,4% [42].
Kinh tế phát triển, đời sống của người dân được nâng cao, trình độ
dân chí phát triển (hiện nay, tỷ lệ mù chữ ở Việt Nam chưa đầy 7%, “Rất thấp
so với thế giới” [42]). Theo tổng kết của Bộ văn hoá – Thông tin, trong thời kỳ
đổi mới, “Hệ thống báo chí nước ta có bước phát triển quan trọng cả về loại
hình, số lượng và chất lượng” [26], với đầy đủ các phương tiện truyền thông
tiên tiến nhất trên thế giới. Ngoài sự phát triển khởi sắc của 3 loại hình báo chí
truyền thống là báo in, báo nói, báo hình, là sự nở rộ của loại hình báo điện tử
(hay còn gọi là báo trực tuyến, báo online), và sự “kì diệu” của các loại hình báo
chí qua điện thoại di động. Thực sự chúng tôi chưa dám khẳng định số liệu
chính thức và mới nhất về báo chí Việt Nam hiện nay, cũng như chưa có được
số liệu tăng trưởng báo chí trong vòng 5 năm trở lại đây. Số liệu được xem là
chính thức đối với báo chí trong và ngoài nước dừng lại ở mốc năm 2005, chủ
yếu lấy từ hai nguồn: Bộ Văn hoá – Thông tin (các phát biểu trước báo giới của
Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Phạm Quang Nghị và Thứ trưởng Bộ Văn
hoá – Thông tin Đỗ Quý Doãn) và Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương (Phát
biểu của Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương Nguyễn Khoa Điềm).
54
Các số liệu cập nhật về mảng báo nói, báo hình, báo trực tuyến và các thông tin
khác chủ yếu trích dẫn từ các báo và các câu chuyện hậu trường nghề báo.
2.1.1.1. Về báo in
Theo thống kê của Bộ Văn hoá – Thông tin, nước ta hiện có 553 cơ quan
báo chí, trong đó có 157 tờ báo và 396 Tạp chí với 713 ấn phẩm báo chí và
khoảng hơn 1.000 bản in [26].
(Ngoài ra, còn có một số liệu khác là 676 cơ quan báo chí trong đó
có 618 “Loại báo in” với hơn 600 triệu bản/năm2).
Theo nhận định của tác giả Nguyễn Lê Hoàn,“kể từ khi mở cửa
kinh tế, số lượng báo in Việt Nam tăng lên nhanh chóng, đến 2004 có hơn 500
cơ quan báo chí với khoảng trên 650 ấn phẩm thay vì 268 ấn phẩm năm 1992.”
[15]. Như vậy, chỉ trong vòng 12 năm, số lượng ấn phẩm ở nước ta đã tăng gần
gấp 3.
Về tổng số lượng phát hành, theo giáo trình “Công tác tổ chức và
quản lý cơ quan báo chí”, giảng viên Bùi Huy Lan cho biết con số phát hành
bình quân của hơn 700 ấn phẩm báo, tạp chí, bản in, xuất bản là gần 2triệu
bản/ngày, trong đó tổng số phát hành của khoảng 160 tờ báo là 1,7 triệu
bản/ngày và của 400 tờ tạp chí là 300.000 bản/ngày. Cả nước có gần 20 tờ báo
xuất bản hàng ngày (được gọi và không được gọi là nhật báo), với con số phát
hành khoảng 1,2 triệu bản/ngày; có gần 20 bản tin thời sự, tin chuyên ngành, tin
Thông Tấn Xã xuất bản hàng ngày với số lượng phát hành hàng trăm ngàn
bản/ngày. Tính bình quân số phát hành các ấn phẩm hàng năm là 600 triệu bản/
năm. Có những tờ báo đạt tới con số phát hành 380.000 bản/ngày như tờ Tuổi
Trẻ (Số liệu năm 2006), song cũng có những tờ báo chỉ đạt ở mức 1500 – 2000
bản/ngày như hầu hết các tờ báo Đảng ở địa phương.
55
Tình hình đầu năm 2006 lại càng thấy rõ sự phát triển quyết liệt ở
mảng báo in: TP.HCM từ chỉ có 1 tờ nhật báo đúng nghĩa (tờ Sài Gòn Giải
Phóng) nay đã có đến 3 tờ (thêm Tuổi Trẻ và Thanh niên). Các tờ báo cũng
đồng loạt ra những ấn phẩm mới, nhất là ấn phẩm ngày chủ nhật (cuộc chiến
của báo Tuổi trẻ với báo Thanh niên, báo Pháp Luật), tạo nên sự đa dạng các ấn
phẩm báo chí ngay trong cùng một cơ quan. Các báo có sự cải tiến về mặt nội
dung và hình thức, thêm nhiều chuyên mục mới, đặc biệt có sự đổi mới ở các
trang quảng cáo, (những tờ báo lớn thường tặng kèm trang thông tin tiêu dùng).
Về mảng tạp chí, tác giả Văn Hùng, công tác ở Vụ Báo chí (Ban Tư tưởng –
Văn hoá Trung ương) qua bài viết “Phát triển và quản lý hệ thống tạp chí” đã
cho thấy một nhận định gần như toàn diện về tạp chí ở nước ta. Theo đó, hiện
nay, số đầu tạp chí lớn hơn nhiều so với số đầu báo, có gần 400 tạp chí các loại
trong khi chỉ có khoảng 200 đầu báo. Từ các tạp chí xuất bản hàng quý, hai
tháng, hàng tháng, đến nay, nổi trội là các tờ tạp chí ra 2- 4 kỳ/tháng (Tạp chí
Thế giới mới, Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, Tạp chí Thương mại,
Tạp chí Thời trang trẻ, Tạp chí Tiếp thị Việt Nam, Tạp chí Gia đình Việt
Nam…) Xu hướng tăng kỳ phát hành là kết quả của sự ra đời loại tạp chí mang
tính giải trí, đánh trúng thị hiếu của độc giả, đẩy số phát hành lên cao.
Góp phần làm toàn diện hơn bức tranh về tình hình báo chí của Việt Nam
những năm gần đây, cũng không thể bỏ qua vai trò của hãng thông tấn quốc gia-
Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN). Ngoài chức năng là ngân hàng tin, TTXVN
còn là cơ quan chủ quản của nhiều tờ báo, trong đó có các tờ Tin Tức, Viet Nam
news,… TTXVN có bề dày lịch sử hơn 60 năm hoạt động, với mạng lưới phân
xã ở 64 tỉnh thành trong cả nước và hơn 20 phân xã thường trú ở nước ngoài,
chuyên cung cấp cho Trung ương Đảng, Chính phủ, các phương tiện truyền
thông đại chúng, các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nước cùng hàng triệu
độc giả những thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài
nước[2].
56
2.1.1.2. Về Ph¸t thanh –TruyÒn hình:
Do lịch sử gắn liền của đài phát thanh - và đài truyền hình ở nước ta và do
kiến thức chuyên sâu còn giới hạn, người viết trình bày gộp hai mảng báo nói (
phát thanh) và báo hình (truyền hình).
Tổng hợp thông tin từ Bộ Văn Hoá – Thông tin, giáo trình “Công tác tổ
chức và quản lý báo chí” của giảng viên Bùi Huy Lan, và thông tin trên một số
báo, có thể thấy sự phát triển về số lượng của các đài phát thanh gần như ở mức
bão hoà, trong khi đó, mảng báo hình lại có sự khởi sắc bởi sự xuất hiện của
truyền hình cáp, truyền hình số, truyền hình Internet.
Tính đến năm 2005, nước ta có khoảng 70 đài phát thanh - truyền hình,
trong đó có 2 đài Trung ương ( Đài Tiếng Nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt
Nam), 4 trung tâm truyền hình khu vực (Huế, Đà Nẵng, Phú Yên, Cần Thơ), và
64 đài ở 64 tỉnh, thành phố. Ngoài TP. HCM tổ chức đài phát thanh, đài truyền
hình riêng, tỉnh Phú Yên chỉ có đài phát thanh, các tỉnh, thành khác tổ chức
chung thành một đài Phát thanh - Truyền hình [14]. Ngoài ra, mạng lưới cơ sở
có trên 600 đài truyền thanh cấp huyện, trong đó có 288 đài đã phát sóng FM,
và có gần 9000 đài truyền thanh, trạm phát lại, chuyển tiếp phát thanh - truyền
hình ở cơ sở phường, xã, tức gần một nửa số xã trong cả nước có trạm truyền
thanh.
Căn cứ vào các con số như đã nêu ở trên, có một nhận định phổ biến
trong giới báo chí: Việt Nam có một hệ thống Phát thanh - Truyền hình từ
Trung ương đến các tỉnh, thành, huyện, xã hết sức hùng mạnh.
Tuy nhiên, bên những nhận định khả quan theo hướng “biểu dương lực
lượng”, vào khoảng cuối năm 2005, theo tác giả Đinh Phong, sự xuất hiện của
nhiều đài Phát thanh - Truyền hình làm ăn không hiệu quả là một sự “ chơi
sang”, thừa thãi, lãng phí vì hầu hết vẫn phải bao cấp. Trong bài viết “Có cần
57
thiết xây dựng 64 Đài truyền hình, đài phát thanh địa phương hay không?”, tác
giả Đinh Phong nhận định: “ Ít có nước nào trên một diện tích không lớn lại có
hệ thống phát thanh, truyền hình quá nhiều như ở nước ta”. Thật vậy, ở Hà Nội,
mặc dù đã có 2 đài Trung ương, vẫn có thêm đài Phát thanh - Truyền hình Hà
Nội, ở Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, bên cạnh đài khu vực vẫn tồn tại các đài đài
phát thanh - truyền hình địa phương. Trong khi đó, các đài địa phương chỉ có
một số chương trình riêng biệt, tự sản xuất như chương trình thời sự, Phim
chuyên đề, Phim tài liệu, còn lại là tiếp sóng đài khu vực và đài quốc tế, chiếu
Phim giải trí thu quảng cáo. Theo đó, sự khởi sắc của hai loại hình báo nói – báo
hình tập trung chủ yếu ở các đài Trung ương và ở các tỉnh, thành lớn.
Hiện nay, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng Nói Việt Nam đã tăng
thời lượng, diện phủ sóng và các kênh riêng phục vụ cho thông tin đối ngoại và
đồng bào người Việt định cư, sinh sống ở nước ngoài [38]. Cụ thể, Đài Tiếng
Nói Việt Nam, cánh chim đầu đàn của ngành phát thanh Việt Nam đã phát
193h/ngày trên 6 hệ chương trình đối nội và đối ngoại, phát bằng 11 thứ tiếng
nước ngoài và 9 thứ tiếng dân tộc, với tổng công suất trên 8000KW, tín hiệu
được truyền dẫn qua vệ tinh; Đài Truyền hình Việt Nam phát trên 5 kênh đối
nội và đối ngoại, với thời lượng trên 60 giờ mỗi ngày. Từ đầu năm 2000, Đài
Truyền hình Việt Nam đã truyền qua vệ tinh, phủ sóng đến các nước châu Mỹ,
châu Âu và nhiều khu vực trên thế giới.Ước tính, hệ thống phát thanh đã phủ
sóng được khoảng 95% lãnh thổ và hệ thống truyền hình phủ sóng được 85% lãnh thổ.*
Đó là chỉ nói về mặt kỹ thuật, chuyên môn. Ngoài điều đó, cần đánh giá
ngành Phát thanh - Truyền hình của Việt Nam trên phương diện làm kinh tế.
Bởi vì, hiện nay truyền hình đang trong quá trình xã hội hoá, đặc biệt có sự xuất
hiện của truyền hình trả tiền (pay – TV). Đây là một miếng “bánh” lớn mà nhiều
đơn vị đang muốn đầu tư vào.
58
Truyền hình đã có ở Việt Nam từ lâu, bắt đầu từ sự ra đời của Trung tâm
Truyền hình cáp Việt Nam vào năm 1995. Sự phát triển về mặt công nghệ đã
đưa truyền hình cáp nhanh chóng vượt lên truyền hình analog (truyền hình
truyền thống), trong vòng vài năm trở lại đây truyền hình cáp không còn là đặc
quyền hưởng thụ của những người giàu có. Hiện tại, phổ biến là truyền hình kỹ
thuật số mặt đất (do VTC cung cấp), truyền hình số vệ tinh DTH (DTH Việt
Nam cung cấp), truyền hình cáp (do SCTV – Công ty Truyền hình cáp
Saigontourist, HTVC, VCTV, HaCTV và một số đài địa phương cung cấp), mới
nhất là truyền hình Internet (truyền hình băng thông rộng IPTV do FPT cung
cấp).
Tính đến năm 2006, cả nước có 20 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình
trả tiền, phục vụ 460.700 thuê bao; riêng truyền hình kỹ thuật số mặt đất VTC
phục cụ khoảng 2 triệu hộ dân. Mỗi mạng truyền hình cáp hiện nay trung bình
cung cấp khoảng 25 kênh (trong đó 7-10 kênh là truyền hình quảng bá của
Trung ương và địa phương), còn lại là các kênh truyền hình phổ biến như:
Cartoon Network, Star Sport, MTV, HBO, Star Movies…[45].
Tuy nhiên, theo nhận định từ Hội nghị “ Đánh giá và trao đổi kinh
nghiệm về công tác quản lý hệ thống truyền hình trả tiền” do Bộ Văn hoá –
Thông tin tổ chức, ngoài VTV và HTV, đa số các đài khác chưa đủ năng lực để
sản xuất các chương trình riêng cho lĩnh vực truyền hình trả tiền. Các đài này
chủ yếu sử dụng các kênh quảng bá miễn phí quốc tế và tiếp tục xài “chùa” một
số kênh, dù Công ước quốc tế Brussel về bảo vệ bản quyền tín hiệu truyền hình
đã có hiệu lực ở Việt Nam. Lý do là nhà đài không đủ khả năng mua bản quyền,
do chiến thuật sở hữu kênh “độc quyền” đẩy giá bản quyền lên cao; lại cũng do
nhà đài không thể trao đổi thêm kênh truyền hình của các địa phương bạn vì lý
do cạnh tranh quảng cáo, do không đủ khả năng biên, phiên dịch các kênh nước
ngoài theo đúng quy định của Bộ văn hoá – thông tin.
59
2.1.1.3. Về báo trực tuyến:
Theo nhà báo Lê Minh Quốc trong “Hỏi đáp báo chí Việt Nam”, tờ báo
trực tuyến đầu tiên của Việt Nam là tờ Nhân dân điện tử, ra đời vào 21/6/2000,
tức là chỉ 4 năm sau khi tờ báo điện tử đầu tiên của nhân loại - Tờ Mainichi
Shimbun của Nhật Bản (3. 1996) – ra đời. Rõ ràng, báo trực tuyến là thành tựu
phát triển của nền báo chí Việt Nam thế kỷ 21, đã có 6 năm hình thành và phát
triển. Bên cạnh dữ liệu này, theo Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), từ 3 -
12 - 1997, Việt Nam đã có tờ báo điện tử đầu tiên là tạp chí Quê Hương (đến
ngày 26/12/2000) tờ này mới chính thức được Bộ Văn hoá – Thông tin cấp
phép- NV), tức là 5 năm sau khi tờ báo điện tử đầu tiên trên thế giới - Chicago.
Tuy vậy, “thống trị” mạng Interner trong buổi ban đầu lại là các
trang web dịch vụ thông tin dưới hình thức dịch vụ giá trị gia tăng của các công
ty khai thác Internet như Công ty phần mềm và truyền thông VASC (tờ Việt
Nam Net chính thức là báo vào năm 2003, trước đó là trang web Việt Nam. Việt
Nam), Công ty FPT (Tờ VnExpress ra đời vào 26/2/2001),… Xu hướng này tiếp
tục phát triển với sự “nâng cấp” các trang web dịch vụ giá trị gia tăng lên thành
báo điện tử của các công ty quảng cáo. Sự kiện trang web 24h.com.vn (Công ty
Cổ phần Quảng cáo trực tuyến Hà Nội) bị đóng cửa “tạm” vào quãng đầu năm
2006 vì hoạt động như một tờ báo trực tuyến là sự minh chứng cho xu hướng
này. Tờ này sẽ chính thức ra mắt sau khi có giấy phép.
Tính đến đầu năm 2006, Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Phạm
Quang Nghị cho biết cả nước có 82 tờ báo điện tử đang hoạt động. Trong khi
đó, con số thống kê chính thức vào năm 2004 của Bộ Văn hoá – Thông tin cho
thấy, kể từ khi luật định vào năm 1999, Việt Nam có trên 50 đơn vị báo điện tử
và nhà cung cấp thông tin, với khoảng 2.500 trang web đang hoạt động.
Ông Nguyễn Tuấn Anh, Tổng biên tập của Viet Nam Net nói đến chỗ
khó của một tờ báo điện tử: “Nói gì thì nói, với mình đây là cơ quan kinh doanh
60
vì không được Nhà nước bao cấp, bù lỗ. Hiện nay, mỗi năm Công ty VASC vẫn
phải bù lỗ cho Viet Nam Net vài tỷ…Khó khăn nhất với báo điện tử hiện nay là
làm thế nào để thu được tiền. [31]” Bên cạnh nỗ lực tìm đầu vào cho báo trực
tuyến, là xu hướng thí điểm tích hợp các loại hình truyền thông khác, phát huy
thế mạnh của báo trực tuyến, đi đầu là các tờ VnExpress, TTO,..
Thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Đỗ Quý Doãn trả lời Phỏng
vấn báo điện tử Viet Nam Net vào ngày 25/2/2004 đã nhận định: “Báo điện tử là
một “trận địa” rất được coi trọng” [27]. Theo đó, trong chủ trương phát triển có
trọng điểm hệ thống báo chí, Chính phủ ưu tiên phát triển mảng báo trực tuyến,
bởi đây là một trong những xu hướng phát triển rất lớn, hội tụ công nghệ thông
tin, truyền thông, viễn thông, hay nói cách khác, tích hợp các loại hình báo chí
truyền thông trên nền Internet nhiều ưu điểm như thuận lợi, nhanh, không bị hạn
chế về thời gian, không gian, biên giới,…
Theo nhận định của các nhà chuyên môn, báo trực tuyến trong
tương lai sẽ lấn lướt thị phần quảng cáo của báo in.
61
2.1.2. Địa điểm và cách thức tiếp nhận thông tin từ báo chí của công
chúng sinh viên báo chí.
Đề xuất hướng nghiên cứu công chúng của M.Weber, cụ thể là
phân tích hiệu quả của báo chí đối với việc xây dựng con người, cho thấy rõ tác
dụng của báo chí trong việc hình thành ý thức quần chúng, khẳng định các
phương tiện truyền thông đại chúng là một tác nhân quan trọng đối với sự hình
thành dư luận xã hội. [13]
Báo chí có nhiều chức năng quan trọng như: thông tin, tuyên
truyền, Giáo dục, dự báo, giải trí, giao tiếp…trong đó thông tin là chức năng có
tầm quan trọng hàng đầu. Báo chí có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của nhiều tầng
lớp xã hội với những mối quan tâm, sở thích không giống nhau. Công chúng
báo chí đa dạng và phức tạp. Chính vì vậy “tiếp nhận” là chỉ báo đầu tiên để
đánh giá tác động của truyền thống đại chúng đối với công chúng báo chí. Đó là
sự đánh giá về số lượng, cách thức tiếp cận và chấp nhận nguồn thông tin từ các
phương tiện truyền thông đại chúng. Các chỉ báo dùng để đánh giá hiệu quả tiếp
nhận thường là: có bao nhiêu người theo dõi thông tin, theo dõi trong hoàn cảnh
nào, thành phần công chúng đó ra sao, theo dõi thường xuyên không. Tuy chỉ là
mức độ thấp, nhưng hiệu quả tiếp nhận lại là điều kiện đầu tiên để dẫn tới những
cấp độ hiệu quả cao hơn như hiệu ứng xã hội, hiệu quả thực tế [28 - 29].
Thiết chế truyền thông đại chúng hoàn toàn không mang tính chất
cưỡng bức đối với cá nhân, cá nhân có quyền tham gia hay không tham gia vào
thiết chế này. Người dân có quyền mua hay không mua một tờ báo, xem hay
không xem một bài báo hay một chương trình truyền hình.
Tuy nhiên, theo J.Stoetzel [41, 277, 283], báo chí là một phương
tiện giúp cho người ta cảm thấy mình là thành viên của một cộng đồng. Trong
bối cảnh của xã hội hiện đại, báo chí vẫn là 1 hoạt động thông tin đại chúng
nhất, năng động nhất, hiệu quả nhất và có nhiều công chúng nhất. Chính vì vậy
62
tập quán đọc báo, theo dõi thông tin trên các phương tiện truyền thông đại
chúng vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của sự tham gia vào đời sống xã hội.
Người ta không thể tham gia hoạt động xã hội nếu không thường xuyên theo dõi
tin tức, thời sự. Và ngược lại, việc theo dõi, nắm được, thông tin trên các
phương tiện truyền thông đại chúng cũng lại thúc đẩy người ta tích cực gia nhập
vào các sinh hoạt tập thể nhiều hơn, khi đó người ta cảm thấy những vấn đề
được trình bày đều là những vấn đề của xã hội mà mình là thành viên, dường
như đang có rất nhiều công chúng khác cũng đang theo dõi thông tin cùng mình
và cũng có phản ứng giống phản ứng của mình. Do vậy, người theo dõi thông
tin cảm thấy mình trong bộ phận của một tập thể nào đó. Hành vi theo dõi thông
tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng trong
việc giúp con người ta tự coi mình là thành viên của một cộng đồng.
Như vậy, một trong những đặc điểm của ứng xử theo dõi và sử
dụng truyền thông đại chúng của công chúng là ứng xử mang tính chất tập thể ở
mức độ nào đó chứ không chỉ mang tính chất cá nhân thuần tuý, mặc dù chính
cá nhân là người đọc báo, xem truyền hình hay nghe đài phát thanh.
Đồng thời, việc tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông
đại chúng gắn liền với thời gian rảnh rỗi và nhu cầu giải trí của người dân. Việc
khảo sát địa điểm đọc báo, nghe đài, xem ti vi đem lại hình dung ban đầu về
tính tích cực trong hoạt động giao tiếp đại chúng của công chúng báo chí nói
chung và công chúng sinh viên báo chí Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền
hình TW1 nói riêng.
2.1.2.1 Địa điểm và cách thức đọc báo in.
Việc lựa chọn địa điểm theo dõi thông tin đại chúng liên quan chặt
chẽ với cách thức phân bố sử dụng quỹ thời gian rỗi của công chúng báo chí.
Bốn địa điểm đọc báo in chủ yếu được khảo sát đối với sinh viên báo chí tại
Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1 là: tại nơi ở, tại thư viện, tại
63
nhà người quen và nơi khác. Tuy nhiên, các địa điểm càng ít tính gần gũi, thân
mật hơn thì lại càng đòi hỏi sự tích cực ưu tiên về sử dụng thời gian rỗi của cá
nhân tiếp nhận thông tin hơn.
Xét về các địa điểm đọc báo in của họ thấy bộc lộ sự diễn ra không
đồng đều. Kết quả khảo sát cho thấy 2 địa điểm được nhóm công chúng sinh
viên sử dụng nhiều nhất là đọc báo tại nơi ở và đọc báo tại thư viện. Những địa
điểm khác có mức độ sử dụng không cao.
Bảng1 - Địa điểm đọc báo in của công chúng sinh viên báo chí
Năm thứ I
Năm thứ 3
Năm thứ 5
Nơi
tiếp
cận
%
N
%
N
%
N
74
Tại nơi ở
76
77.6
165
61.8
74
%
Tại
thư
10
10.2
37
13.9
21
21
viện
Tại
nhà
2
2.0
3
1.1
0
0
người quen
Tại
nơi
10
10.2
62
23.2
5
5
khác
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
64
Từ số liệu bảng trên cho thấy 3 nhóm sinh viên năm thứ nhất, thứ ba và
thứ năm có sự tương đồng trong việc sử dụng các địa điểm đọc báo in. Cụ thể là
có tỉ lệ tương đối cao là địa điểm tại nơi ở sinh viên năm thứ nhất chiếm 77.6%,
năm thứ 3 chiếm 61.8%, năm thứ 5 chiếm 74%
Việc đọc báo tại thư viện sinh viên năm thứ nhất chiếm 10.2%, sinh viên
năm thứ ba chiếm 13.9, năm thứ năm chiếm 21% Tại nơi khác sinh viên năm
thứ nhất là 10.2%, năm thứ ba chiếm 23.2 và năm thứ năm chiếm 5%
Với số liệu thống kê trên, ta có thể thấy rõ sinh viên năm thứ nhất năm
thứ ba và năm thứ năm, địa điểm đọc báo in tại nơi ở là chiếm đa số nhiều nhất;
còn 2 địa điểm tại thư viện và tại nơi khác của cả 3 năm cũng có sự tương đồng
trong việc chọn địa điểm đọc báo in. Tuy số lượng không nhiều nhưng cũng
chứng tỏ được điều này. Còn lại ở nhà người quen chiếm tỉ lệ rất rất nhỏ hoặc
không hề có như năm thứ năm. Một điều nữa ta nhận thấy dễ dàng là số sinh
viên nam và nữ cũng có sự khác biệt cụ thể về chọn địa điểm đọc báo in. Với
sinh viên năm thứ nhất thì tỉ lệ sinh viên nam chọn địa điểm đọc báo là tại nơi ở
chiếm 80.4%, tại thư viện chiếm 13.7%, tại nhà người quen chiếm 3.9%, chọn
địa điểm đọc báo nhiều hơn so với sinh viên nữ, riêng tại địa điểm là nơi khác
thì tỉ lệ sinh viên nữ là 19.1% chọn đọc nhiều hơn so vói sinh viên nam.Với sinh
viên năm thứ ba tỷ lệ nam chọn địa điểm tại nơi ở chiếm 74.7%, tại thư viện
chiếm 16.1% nhiều hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ khi chọn hai địa điểm này,
nhưng tại địa điểm ở nhà người quen sinh viên nam chiếm 0.3% và ở nơi khác
chiếm 6.9% ít hơn sự lựa chọn địa điểm đọc báo của sinh viên nữ. Với sinh viên
nam năm thứ năm tại nơi ở chiếm 73.1%, ít hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ,
tại thư viện sinh viên nam chiếm 26.9% lựa chọn nhiều hơn so với sinh viên
nữ, tại địa điểm nơi khác sự lựa chọn của sinh viên nam và sinh viên nữ là bằng
nhau 100%, riêng tại địa điểm nhà người quen, cả sinh viên nam và sinh viên nữ
không hề lựa chọn là địa điểm để đọc báo in.
65
Do đặc thù vào việc học của sinh viên nên phần lớn đa số các bạn sinh
viên sáng đi học, hoặc chiều đi học nên chỉ có thể đọc báo ở nhà. báo đến tận 1.
Tại thư viện cũng được chọn là địa điểm đọc báo của tương đối nhiều trường
hợp sinh viên muốn tìm không gian yên tĩnh để sưu tầm, lựa chọn tiếp nhận đối
với nhiều loại báo. Có thể nói, thư viện, là nơi đọc báo lý tưởng và là cách lựa
chọn tốt nhất của các trường hợp sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Đọc báo ở
nhà người quen, tỉ lệ cao nhất thuộc về nhóm sinh viên năm thứ nhất.
Theo kết quả khảo sát về thời điểm đọc báo của nhóm sinh viên ta thấy cả
cùng có chung sự tương đồng là các bạn đều chọn đọc báo nhiều vào thời điểm
sáng và tối. cụ thể sinh viên năm thứ nhất lựa chọn thời điểm đọc báo vào buổi
sáng chiếm 45.6%, buổi tối chiếm 45.6%, sinh viên năm thứ ba lựa chọn thời
điểm đọc báo vào buổi sáng chiếm 30.5%, buổi tối chiếm 47.8%, sinh viên năm
thứ năm lựa chọn thời điểm đọc báo vào buổi sáng chiếm 31%, buổi tối chiếm
51%. Riêng buổi trưa và buổi chiều cả 3 nhóm sinh viên đều lựa chọn đọc rất ít.
cụ thể nhóm sinh viên năm thứ nhất chỉ có 3.9% sinh viên chọn đọc báo vào
buổi trưa, 4.9% sinh viên lựa chọn đọc báo vào buổi chiều, nhóm sinh viên năm
thứ ba chỉ có 9.1% sinh viên lựa chọn đọc báo vào buổi trưa và 12,8% lựa chọn
đọc báo vào buổi chiều, nhóm sinh viên năm thứ năm cũng chỉ chiếm 11% lựa
chọn đọc báo vào buổi trưa và 7% sinh viên lựa chọn đọc báo chiều, như vậy
nhóm sinh viên năm thứ nhất có sự đồng đều trong việc lựa chọn thời điểm đọc
báo buổi sáng và buổi tối còn nhóm sinh viên năm thứ ba và năm thứ năm lựa
chọn thời điểm đọc báo vào buổi tối nhiều hơn buổi sáng. Khảo sát về thời điểm
đọc báo của nhóm sinh viên nam ta thấy cả ba nhóm sinh viên nam đều lựa chọn
đọc báo vào buổi sáng nhiều hơn nhóm sinh viên nữ, cụ thể sinh viên nam năm
thứ nhất lựa chọn đọc báo vào buổi sáng chiếm 53.7%, sinh viên nam năm thứ
ba chiếm 42.3%, sinh viên nam năm thứ năm chiếm 57.1%, ngược lại sinh viên
nam của cả ba năm đều lựa chọn thời điểm đọc báo vào buổi tối ít hơn nhóm
sinh viên nữ cụ thể nhóm sinh viên nam năm thứ nhất chỉ lựa chọn đọc báo vào
66
buổi tối chiếm37%, sinh viên năm thứ ba chiếm 38%, sinh viên năm thứ năm
chiếm 25%.
Khảo sát về cách thức đọc báo của ba nhóm sinh viên ta cũng dễ dàng
nhận thấy sinh viên năm thứ nhất và năm thứ năm có sự tương đồng về lựa chọn
chỉ đọc những mục mình quan tâm, cụ thể sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ
53.7%, sinh viên năm thứ năm là 55%. Sinh viên năm thứ ba lại lựa chọn đọc
hầu hết các chuyên mục chiếm 61.5% nhiều hơn hai nhóm sinh viên năm thứ
nhất và năm thứ năm.
Kết quả khảo sát cho thấy dấu hiệu về tính tích cực tiếp cận thông tin từ
báo in ở công chúng sinh viên Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW I
thể hiện ở tập quán tranh thủ đọc báo tại nhà, thậm chí vào lúc đêm khuya, trong
hoàn cảnh công việc bận rộn học tập chiếm hầu hết thời gian rỗi ban ngày.
67
21.2.2. Địa điểm và cách thức nghe Đài phát thanh
Dựa trên cơ sở là sự thuận lợi và quen thuộc đối với việc học tập và sinh
hoạt của sinh viên báo chí, chúng tôi đưa ra bốn phương án để khảo sát về các
địa điểm nghe đài phát thanh là: tại nơi ở, tại câu lạc bộ hoặc nhà văn hoá, tại
quán hàng và tại nhà người quen. Trong đó, tương tự như phần phân tích trên,
tại nơi ở được xem là địa điểm mang tính cá nhân gần gũi về mặt giao tiếp xã
hội và ít đòi hỏi ưu tiên về sử dụng thời gian rỗi của cá nhân hơn hết so với
các địa điểm tại câu lạc bộ hoặc nhà văn hoá, tại quán hàng và nhà người
quen.
Khảo sát sâu hơn về việc lựa chọn các địa điểm nghe đài phát thanh và
xem ti vi theo các nhóm sinh viên năm thứ nhất, thứ 3 và thứ 5 cho thấy rõ nét
hơn về xu hướng này.
Bảng 2 - Địa điểm nghe đài phát thanh của công chúng sinh viên báo
chí
Năm thứ 1 Năm thứ 3 Năm thứ
5 Nơi tiếp
cận
87
84,5
197
84,
92
9
Tại nơi ở
9
2
4
3,9
2
0,9
2
2
Tại CLB,
NVH
N % N % N %
68
7
6,8
4
1,7
4
4
Ở
quán
hàng
5
4,8
29
12,
2
2
Ở
nhà
5
người quen
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
Qua bảng khảo sát cả ba nhóm sinh viên năm của trường Cao đẳng phát
thanh truyền hình, một lần nữa địa điểm được đa số sinh viên dùng để nghe đài
phát thanh là tại nơi ở. Cụ thể, sinh viên năm thứ nhất nghe đài phát thanh tại
nơi ở có tỉ lệ 84.5%, sinh viên năm thứ 3 chiếm 84.9%,sinh viên năm thứ 5
chiếm 92%. Tại nhà người quen, câu lạc bộ, nhà văn hoá, ở quán hàng tỉ lệ nghe
đài phát thanh là rất ít. Thậm chí với địa điểm tại câu lạc bộ, nhà văn hoá, sinh
viên năm thứ ba và sinh viên năm thứ năm sử dụng là rất ít cụ thể là chỉ có 2
trường hợp lựa chọn địa điểm này. Với sinh viên việc có bên mình một chiếc
radio nhỏ là rất có thể thực hiện được, hoặc ít ra trong một phòng 2- 3 người (
nếu ở trọ ngoài) còn 7 – 8 người đối với trong ký túc xá là hoàn toàn có khả
năng có từ 1 – 2 cái radio mọi người có thể tiếp nhận chung các kênh thông tin
rất nhanh và phù hợp.
Một đặc điểm rất dễ nhận thấy trong bảng thống khê là tỉ lệ nhóm sinh
viên nam nghe radio ít hơn so với tỉ lệ nhóm sinh viên nữ. Và số lượng sử dụng
radio càng tăng theo những năm học.
Khảo sát thời điểm nghe đài phát thanh cho thấy cả ba nhóm sinh viên
đều lựa chọn nghe đài vào buổi tối nhiều hơn buổi sáng. Cụ thể, nhóm sinh viên
năm thứ nhất lựa chọn nghe đài phát thanh vào buổi sáng chiếm 36.8%, buổi tối
chiếm 46.2%, nhóm sinh viên năm thứ ba lựa chọn nghe đài vào buổi tối sáng
69
chiếm26.8%, vào buổi tối chiếm 46.4%, nhóm sinh viên thứ năm lựa chọn nghe
vào buổi sáng chiếm 23%, buổi tối chiếm 39%, thời điểm nghe đài vào buổi trưa
và buổi chiều của nhóm sinh viên năm thứ nhất và năm thứ ba là rất ít, còn năm
thứ năm lựa chọn nghe đài vào buổi chiều lại nhiều hơn buổi sáng cụ thể chiếm
25%. khảo sát thời điểm nghe đài theo giới tính cũng cho ta thấy nhóm sinh viên
nam lựa chọn việc nghe đài vào buổi sáng nhiều hơn nhóm sinh viên nữ cụ thể
nhóm sinh viên nam năm thứ nhất lựa chọn nghe đài vào buổi sáng
chiếm42.6%, nhóm sinh viên nam năm thứ ba chiếm 28.8%, nhóm sinh viên
năm thứ năm chiếm 29.6%. ngược lại, thời điểm nghe đài vào buổi tối của sinh
viên nam cả ba năm đều ít hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ, cụ thể sinh viên
nam năm thứ nhất lựa chọn nghe đài vào buổi tối chiếm 40.4%, nhóm sinh viên nam năm thứ ba chiếm 37.7%, nhóm sinh viên nam năm thứ năm chiếm 33.3%.
Về cách thức nghe đài phát thanh của ba nhóm sinh viên ta nhận thấy cả
ba nhóm sinh viên có sự tương đồng trong việc lựa chọn nghe nhiều nhất những
chương trình mà mình yêu thích, cụ thể sinh viên năm thứ nhất lựa chọn nghe
những chương trình mà mình yêu thích chiếm 61.6%, sinh viên năm thứ ba
chiếm 60.5%, sinh viên năm thứ năm chiếm 53.6%. sinh viên năm thứ nhất và
năm thứ năm cũng có sự tương đồng trong việc lựa chọn nghe hầu hết các
chương trình nhiều hơn sự lựa chọn trong việc gặp gì nghe nấy, cụ thể sinh viên
năm thứ nhất chiếm 22.2%, sinh viên năm thứ năm chiếm 29.8%, ngược lại
nhóm sinh viên năm thứ ba lại lựa chọn việc gặp gì nghe nấy chiếm 25.4%
nhiều hơn việc lựa chọn nghe hầu hết các chương trình. khảo sát về cách thức
nghe đài phát thanh theo giới tính ta cũng nhận thấy sinh viên nam của cả ba
năm đều lựa chọn nghe những chương trình mà mình yêu thích nhiều hơn việc
gặp gì nghe nấy và việc nghe hầu hết các chương trình, cụ thể sinh viên nam
năm thứ nhất lựa chọn việc nghe những chương trình mà mình yêu thích chiếm
65.2% nhiều hơn sinh viên nữ. sinh viên nam năm thứ ba chiếm 59.4% ít hơn
lựa chọn của sinh viên nữ năm này, sinh viên nam năm thứ năm chiếm 59.3%
70
nhiều hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ.việc lựa chọn gặp gì nghe ấy và nghe
hầu hết các chương trình của sinh viên nam cả ba năm đều ít hơn.
2.1.2.3. Địa điểm và cách thức xem truyền hình của sinh viên báo chí
Cơ sở để lựa chọn địa điểm nghiên cứu cũng tương tự như đối với
đài phát thanh. Bốn phương án được đưa ra để khảo sát về cách thức tiếp cận
thông tin trên các phương tiện vô tuyến truyền hình của công chúng sinh viên
báo chí. Đó là: tại nơi ở, câu lạc bộ - nhà văn hóa, ở quán hàng, ở nhà người
quen . Kết quả kháo sát được thể hiện ở bảng 3
Bảng 3 - Địa điểm xem truyền hình của công chúng sinh viên báo
chí
Năm thứ 1 Năm thứ 3 Năm thứ
5 Nơi
75
73,5
153
74,
77
7
Tại nơi ở
7
7
4
3,9
1
0,5
1
1
Tại CLB,
NVH
9
8,8
13
6,4
8
8
Ở
quán
hàng
tiếp cận % N % N % N
71
14
13,7
38
18,
14
1
Ở
nhà
5
4
người quen
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
72
Cách thức được tuyệt đại bộ phận công chúng sinh viên lựa chọn để tiếp
cận thông tin trên vô tuyến truyền hình là tại nơi ở. Cụ thể, sinh viên năm thứ
nhất có tỉ lệ 73.5%, sinh viên năm thứ 3 là 74.7%, năm thứ 5 là 77%. Tại nhà
người quen cũng có tỉ lệ tiếp cận cao hơn so với tại các câu lạc bộ, nhà văn hoá
và ở quán hàng. Trong địa điểm tiếp cận xem vô tuyến này thì tỷ lệ nam năm
thứ nhất lựa chọn các địa điểm xem vô tuyến nhiều hơn sự lựa chọn của sinh
viên nữ, cụ thể là tại nơi ở, sinh viên nam chiếm 64.2%, tại câu lạc bộ nhà văn
hoá sinh viên nam chiếm 7.5%, tại quán hàng sinh viên nam chiếm 13.2%, tại
nhà người quen sinh viên nam chiếm 15.1%, tại nơi ở sinh viên nam năm thứ ba
chiếm 66.3%. Tại câu lạc bộ và nhà văn hoá không có trường hợp sinh viên nam
nào lựa chọn, ít hơn so với sự lựa chọn của sinh viên nữ.Tại quán hàng sinh viên
nam năm thứ 3 chiếm 7.5%, tại nhà người quen sinh viên nam chiếm 26.3%
nhiều hơn so với sự lựa chọn của sinh viên nữ. Đối với sinh viên nam năm thứ
năm thì tại nơi ở chiếm 70.4% và tại nhà người quen chiếm 18.5% lựa chọn
nhiều hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ. Tại câu lạc bộ nhà văn hoá, tỉ lệ cả nam
và nữ tiếp cận ở nơi này là rất rất ít tiêu biểu là sinh viên nam năm thứ 5 chỉ có
1 trường hợp, tại quán hàng sinh viên nam lại lựa chọn ít hơn sự lựa chọn của
sinh viên nữ.
Khảo sát thời điểm xem truyền hình cho thấy cả ba nhóm sinh viên năm
thứ nhất, năm thứ ba và năm thứ năm có sự tương đồng trong việc lựa chọn ,
xem truyền hình vào buổi tối, cụ thể nhóm sinh viên năm thứ nhất chiếm 67.3%,
nhóm sinh viên năm thứ ba chiếm 85.9%, nhóm sinh viên năm thứ năm chiếm
76%, việc lựa chọn thời điểm xem truyền hình vào buổi sáng, trưa, chiều của
năm thứ nhất và năm thứ năm cùng có chung sự tương đồng là rất ít nhưng
nhóm sinh viên năm thứ ba lại lựa chọn việc xem truyền hình vào buổi sáng
chiếm 48.5% nhiều hơn việc lựa chọn xem truyền hình vào buổi trưa và buổi
chiều. khảo sát về thời điểm xem truyền hình của nhóm sinh viên nam của cả ba
nhóm ta thấy sinh viên nam của cả ba năm đều lựa chọn xem truyền hình vào
buổi tối nhiều nhất, cụ thể nhóm sinh viên nam năm thứ nhất lựa chọn xem
73
truyền hình vào buổi tối chiếm 74% nhiều hơn sự lựa chọn của nhóm sinh viên
nữ, nhóm sinh viên nam năm thứ ba chiếm 80.7% ít hơn sự lựa chọn của nhóm
sinh viên nữ, nhóm sinh viên nam năm thứ năm chiếm 78.6% nhiều hơn sự lựa
chọn của nhóm sinh viên nữ,còn lại việc lựa chọn xem truyền hình vào buổi
sáng, trưa, tối của ba nhóm sinh viên nam đều rất ít, cao nhất trong việc lựa
chọn xem truyền hình vào buổi sáng thuộc về nhóm sinh viên năm thứ năm,
nhưng ở năm này không có trường hợp sinh viên nam nào lựa chọn xem truyền
hình vào buổi trưa và buổi tối.
Cách thức xem truyền hình của cả ba nhóm sinh viên đều lựa chọn việc
xem những chương trình mà bạn yêu thích là nhiều nhất, cụ thể nhóm sinh viên
năm thứ nhất chiếm 65.7%, nhóm sinh viên năm thứ ba chiếm 72.2%, nhóm
sinh viên năm thứ năm chiếm 62.2%. cách thức nghe hầu hết các chương trình
của cả ba nhóm sinh viên nhiều hơn cách thức gặp gì nghe nấy, cụ thể sinh viên
năm thứ nhất lựa chọn cách thức nghe hầu hết các chương trình chiếm 21.6%,
sinh viên năm thứ ba chiếm 16%, sinh viên năm thứ năm chiếm 23.4%. khảo sát
về cách thức xem truyền hình của nhóm sinh viên nam cả ba năm cho ta thấy
cách thức xem những chương trình mà mình yêu thích nhiều hơn việc lựa chọn
cách thức gặp gì nghe ấy và nghe hầu hết các chương trình, cụ thể sinh viên
nam năm thứ nhất lựa chọn xem hầu hết các chương trình chiếm 61.4% ít hơn
sự lựa chọn của nhóm sinh viên nữ, sinh viên nam của năm thứ ba chiếm 62.2%
ít hơn so với sự lựa chọn của nhóm sinh viên nữ, sinh viên nam năm thứ năm
chiếm 53.8% ít hơn so với sự lựa chọn của sinh viên nữ. cách thức gặp gì xem
ấy và cách thức xem hầu hết các chương trình chiếm tỷ lệ rất ít đối với sinh viên
nam cả ba năm.
So sánh giữa các nhóm sinh viên cho thấy, giống như nghe radio đối với
sinh viên những năm cuối có tỉ lệ tiếp cận với phương tiện vô tuyến truyền hình
cao hơn.
74
2.1.2.4. Địa điểm và cách thức truy cập nhập internet của sinh viên báo
chí
Ba chỉ báo được đưa ra để khảo sát về địa điểm và cách thức truy
cập internét của công chúng sinh viên báo chí. Kết quả cho thấy tỉ lệ truy cập
internet của công chúng sinh viên báo chí là khá cao. (xem bảng 4)
Bảng 4 - Địa điểm truy cập internet của công chúng sinh viên báo
chí
Năm thứ 1 Năm thứ 3 Năm thứ 5
Nơi tiếp
10
9.6
10
10.
7
3.
Tại nơi ở
3
5
89
85.6
87
89.
19
95
Ở
quán
6
1
hàng
5
4.8
0
0
3
1.
Ở
nhà
5
người quen
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
cận % N N % N %
Khảo sát địa điểm truy cập internet của cả ba nhóm sinh viên ta nhận thấy
cùng có chung sự tương đồng trong việc lựa chọn truy cập internet ở quán hàng,
cụ thể sinh viên năm thứ nhất chiếm 85.6%, sinh viên năm thứ ba chiếm 91%,
75
sinh viên năm thứ năm chiếm 87%. Tại nơi ở cả ba năm lựa chọn rất ít, cụ thể
sinh viên năm thứ nhất chỉ có 9.6%, sinh viên năm thứ ba chỉ có 3.5% , sinh
viên năm thứ năm chỉ có 10.3% còn tại địa điểm tại nhà người quen cả ba nhóm
sinh viên đều lựa chọn rất ít tiêu biểu nhóm sinh viên năm thứ năm không có
trường hợp nào lựa chọn điểm truy cập này, nhóm sinh viên lựa chọn điểm truy
cập tại nhà người quen nhiều nhất là nhóm sinh viên năm thứ nhất chiếm 4.8%,
sinh viên năm thứ ba chiếm 1.5%
Thời điểm truy cập internet của cả ba nhóm sinh viên có sự tương đồng
trong việc lựa chọn điểm truy cập internet vào buổi tối. Cụ thể sinh viên năm
thứ nhất chiếm 72.5%, sinh viên năm thứ ba chiếm 64.1%, sinh viên năm thứ
năm chiếm 51%. Do phụ thuộc vào lịch học tập ở trên lớp nên có những nhóm
sinh viên học buổi sáng ngoài việc lựa chọn truy cập vào buổi tối họ còn lựa
chọn truy cập internet vào buổi chiều, sinh viên năm thứ năm có tỉ lệ 21%, sinh
viên năm thứ ba là 20%, còn lại sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ ít hơn là 7,3%.
Thời điểm vào buổi sáng và buổi trưa rất ít công chúng sinh viên lựa chọn để
truy cập internet vào thời điểm này. Nhóm sinh viên lựa chọn thời điểm buổi
sáng nhiều nhất để truy cập thuộc về nhóm sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ
14.7%, nhóm sinh viên lựa chọn buổi trưa để truy cập nhiều nhất là nhóm sinh
viên năm thứ năm chiếm 19%.
Theo chỉ báo giới tính ta nhận thấy địa điểm truy cập Internet cả ba nhóm
sinh viên nam đều cùng sử dụng điểm truy cập internet tại quán hàng rất đông,
cụ thể sinh viên nam năm thứ nhất chiếm 82.1% ít hơn sự lựa chọn của nhóm
sinh viên nữ, sinh viên năm thứ ba chiếm 97.3% nhiều hơn sự lựa chọn của
nhóm sinh viên nữ, sinh viên nam năm thứ năm chiếm 96% nhiều hơn sự lựa
chọn điểm truy cập của sinh viên nữ. tại nơi ở nhóm sinh viên nam năm thứ nhất
chiếm 10.7% sử dụng nhiều hơn sinh viên nữ, sinh viên năm thứ ba chiếm 2.7%
ít hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ và sinh viên nam năm thứ năm chiếm 4%, ít
hơn sinh viên nữ, điểm truy cập tại nhà người quen là rất ít, sinh viên năm thứ
76
nhất chíêm 7.1% nhiều hơn sinh viên nữ, sinh viên nam của năm thứ ba và năm
thứ năm lại không có trường hợp nào sử dụng truy cập tại địa điểm này. Thời
điểm truy cập internet vào buổi tối của cả ba nhóm sinh viên nam có tỉ lệ khá
cao. Cụ thể, nhóm sinh viên năm thứ nhất chiếm 36.6% nhiều hơn sinh viên nữ,
sinh viên nam năm thứ ba là 73.9% cao hơn sinh viên nữ, sinh viên nam năm
thứ năm là 100% bằng sự lựa chọn của sinh viên nữ. thời điểm truy cập vào
buổi sáng là rất ít, nhóm sinh viên nam lựa chọn cao nhất điểm truy cập này là
nhóm sinh viên nam năm thứ ba chiếm 73% nhiều hơn sự lựa chọn của nhóm
sinh viên nữ, sinh viên nam năm thứ năm chiếm 30.8% nhiều hơn sự lựa chọn
của nhóm sinh viên nữ, sinh viên nam năm thứ nhất chiếm 14.5% thấp hơn sự
lựa chọn của nhóm sinh viên nữ. Thời điểm truy cập vào buổi trưa và buổi chiều
của nhóm sinh viên nam là rất ít, tỉ lệ cao nhất trong sự lựa chọn này là nhóm
sinh viên nam năm thứ năm có tỉ lệ là 30.8% vào buổi trưa, 38.4% lựa chọn truy
cập vào buổi chiều.
Đối với chỉ báo về các trang web thường truy cập, cả ba nhóm sinh viên
cùng có tỉ lệ truy cập vào những trang web thông tin liên quan đến nghiệp vụ
báo chí tương đối cao, Cụ thể, nhóm sinh viên năm thứ nhất chiếm 55.8%,
nhóm sinh viên năm thứ ba chiếm 56.8%, nhóm sinh viên năm thứ năm chiếm
56.6%. cách thức truy cập vào những trang web khác được công chúng sinh
viên lựa chọn nhiều nhất là nhóm sinh viên năm thứ ba chiếm 44.4%.
Đánh giá chung về cách thức truy cập internet của nhóm sinh viên nam cả
ba năm ta nhận thây nhóm sinh viên nam năm thứ nhất và năm thứ ba có sự lựa
chọn truy cập internet là những trang web khác nhiều hơn cách thức lựa chọn
truy cập vào những trang web có liên quan đến nghiệp vụ báo chí. Cụ thể, nhóm
sinh viên nam năm thứ nhất có tỉ lệ là 53.7% nhiều hơn sự lựa chọn của nhóm
sinh viên nữ là 35.2%, sinh viên nam năm thứ ba là 51,2% cao hơn sự lựa chọn
của nhóm sinh viên nữ là 41.9%. Ngược lại, nhóm sinh viên nam năm thứ năm
lại lựa chọn cách thức truy cập vào những trang web có thông tin liên quan đến
77
nghiệp vụ báo chí nhiều hơn cách thức vào những trang web khác. Cụ thể, nhóm
sinh viên nam lựa chọn cách thức truy cập vào những trang web có thông tin
liên quan đến nghiệp vụ báo chí là 59.5% nhiều hơn nhóm sinh viên nữ là
55.8%.
Tóm lại, mức độ và kênh tiếp nhận thông tin của công chúng sinh
viên báo chí trong hoạt động giao tiếp đại chúng là khá đa dạng, phong phú và
có cường độ lớn. Công chúng sinh viên không những tiếp cận ở mức độ cao với
các phương tiện thông tin hiện đại Internet. Khảo sát về mức độ tiếp nhận thông
tin trên báo chí cũng cho thấy nhiều tờ báo được công chúng sinh viên ưa thích,
tìm đọc, nhất là đối với các nhóm sinh viên năm thứ năm và nhóm nam sinh
viên.
Nhiều hình thức tiếp cận thông tin trên các phương tiện truyền
thống đại chúng đã được sử dụng. Tuy nhiên hình thức chủ yếu vẫn là đọc tại
nơi ở, thư viện nhà trường (đối với báo in) và xem tại nơi ở nhà người quen (đối
với đài phát thanh và vô tuyến truyền hình). Các hình thức có tính thiết chế như
thư viện, câu lạc bộ, nhà văn hóa đối với giao tiếp đại chúng của sinh viên tác
dụng còn hạn chế.
2.2 Mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên báo chí
Cùng với sự nghiệp đổi mới, các phương tiện truyền thông đại
chúng ở nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ, đã có độ lan tỏa lớn trong
quảng đại công chúng ở mọi tầng lớp trong xã hội. Thực tế đó đã được phản ánh
trong nhóm công chúng sinh viên báo chí được khảo sát tại Trường Cao đẳng
Phát thanh - Truyền hình TW1.
Trong xã hội ngày nay, báo chí đang hàng ngày hàng giờ tác động vào
từng lĩnh vực của đời sống xã hội; chính vì vậy tiếp nhận thông tin trở thành
một nhu cầu không thể thiếu của mỗi cá nhân trong xã hội.
78
Mức độ tiếp nhận thông tin là sự phản ánh cụ thể nhu cầu thông tin
của mỗi cá nhân. Nếu nhu cầu thông tin cao sẽ thể hiện ở mức độ tiếp nhận
thông tin cao và nếu nhu cầu thông tin thấp, hoặc không có nhu cầu thì mức độ
tiếp nhận thông tin sẽ thể hiện tương ứng.
Nghiên cứu về mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh
viên báo chí, chúng tôi tiến hành khảo sát trên 12 kênh khác nhau đó là:
1. Các loại báo in Trung ưong và các tỉnh thành khác
2. Đài Tiếng Nói Việt Nam
3. Đài truyền hình Trung ương
4. Đài truyền hình kĩ thuậtsố VTC
5. Internet
6. Đài truyền hình Hà Nam
7. Đài Phát Thanh Hà Nam
8. Truyền hình cáp Hà Nam
9. Thông tin từ bạn bè
10.Thông tin từ các thày cô giáo
11.Thông tin từ các nhà báo
12. Nguồn khác
Bảng 5 - Mức độ tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền
thông đại chúng
79
Hàng ngày
Vài
lần
Rất ít khi
Hoàn toàn
trong tuần
không
Ng
uồn thông
N
%
N
%
N
%
N
%
tin
1.C 1 3 1 3 6 1 2 6
ác loại 21 0.3 54 8.5 4 6.0 6 .5
báo in
Trung
ưong
và các
tỉnh thành
khác
2. 2 5 1 3 3 8 8 2
Đài Tiếng 07 1.8 31 2.8 2 .0 .0
Nói Việt
Nam
5 2 8 3. 2 1 3 8 2
Đài 16 4.0 13 8.5 4 .5 .0
truyền
hình
Trung
ương
80
4. 7 1 1 2 9 2 4 1
1 7.8 14 8.5 3 3.5 4 1.0 Đài
truyền
hình kĩ
thuật số
VTC
7 2 9 2 5. 1 5 2 7
Internet 6 9.0 04 1.0 1 2.8 9 .3
5 1 9 2 1 3 4 1 6.
Đài 5 3.8 7 4.3 25 1.3 3 0.8
truyền
hình Hà
Nam
7. 6 1 8 2 1 2 5 1
Đài Phát 6 6.5 9 2.3 18 9.5 1 2.8
Thanh Hà
Nam
8. 5 1 3 9 9 2 1 2
Truyền 2 3.0 8 .5 3 3.3 09 7.3
hình cáp
Hà Nam
81
9. 2 5 5 1 2 7 7 1
Thông tin 39 9.8 7 4.3 9 .3 .8
từ bạn bè
10. 2 5 6 1 4 1 7 1
Thông tin 21 5.3 7 6.8 4 1.0 .8
từ các
thày cô
giáo
11. 3 8 7 1 1 3 5 5
Thông tin 4 .5 3 8.3 49 7.3 4 4.0
từ các nhà
báo
12. 1 3 7 1 7 1 1 4
Nguồn 24 1.0 8 9.5 5 8.8 6 .0
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
khác
Kết quả cho thấy tỉ lệ của các chỉ báo này trong công chúng sinh viên
báo chí là khá cao.(xem bảng 5)
Từ bảng trên , cho thấy sinh viên báo chí có mức độ tiếp nhận
thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng là khá cao. Mặc dù mức độ
mức độ tiếp nhận giữa các kênh không đồng đều. Những kênh được công chúng
sinh viên tiếp nhận cao như:
82
Từ Internét 92,8% -
Từ Đài Tiếng nói Việt Nam 92,6% -
Từ Đài truyền hình Trung ương 91% -
Từ các báo Trung ương và của các địa phương khác có tới -
84.8%
- Từ các thày cô giáo 83.1%.
Từ bạn bè 81.4% -
Trong những kênh được công chúng sinh viên báo chí tiếp nhận cao nổi
lên là hình thức tiếp nhận từ internet đạt 92.8%. Điều này cũng cho thấy tốc độ
phát triển của loại hình truyền thông đại chúng này cũng như nhu cầu của công
chúng sinh viên báo chí trong thời điểm hiện nay.
Các kênh khác cũng có các tỉ lệ tiếp nhận khá cao như:
Từ truyền hình kĩ thuật số VTC 69.8% -
Từ Đài Truyền hình Hà Nam 69.4% -
Các nguồn khác 69.3% -
Từ Đài Phát thanh Hà Nam 68.3% -
Hai kênh truyền thông có tỉ lệ tiếp nhận thấp nhất là:
Từ các nhà báo 64.1 % -
Từ Đài Truyền cáp Hà Nam 45.8% -
83
Ở mức độ tiếp cận cao nhất là theo dõi thông tin thường xuyên hàng ngày
cũng có những tỉ lệ đáng chú ý như: từ các thày cô giáo là 53.3% ; từ bạn bè là
59.8%; các báo Trung ương và đại phương khác 30.3%; Đài Tiếng Nói Việt
Nam; 51.8,9% ; Đài Truyền hình Việt Nam 54%; Đài Truyền hình Hà Nam
13,8%; đài phát thanh Hà Nam 16.5%; mạng Internet 19%. Điều đặc biệt đối
với công chúng sinh viên báo chí là những thông tin thu thập được hàng ngày từ
bạn bè có tỉ lệ cao nhất là 59.8%, sau đó là từ các thầy cô giáo, Đài truyền hình
Việt Nam, Đài Tiếng Nói Việt Nam. Tỉ lệ tiếp nhận thông tin hàng ngày của
sinh viên báo chí vói các nhà báo là thấp nhất chỉ đạt 8.5%.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy một khía cạnh khác là mức độ theo dõi
thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng của công chúng sinh viên
báo chí cũng rất khác nhau. Sự khác biệt đó được thể hiện rõ ở mức độ theo dõi
thông tin hàng ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Trong tương quan về sự tiếp nhận thông tin hàng ngày giữa các nhóm
sinh viên báo chí cho thấy, nhóm sinh viên năm thứ năm có tỉ lệ tiếp nhận cao
nhất. Cụ thể, từ Đài Tiếng Nói Việt Nam: năm thứ năm là 71.9%, năm thứ ba là
56.4%, năm thứ nhất là 36.6%. Từ Đài truyền hình Việt Nam năm thứ năm là
64.3%. năm thứ ba là 55.1%, còn năm thứ nhất chỉ đạt 49%. Tỉ lệ đọc báo in
hàng ngày giữa các nhóm sinh viên năm thứ năm là 40%, năm thứ ba là 37.7%,
còn năm thứ nhất chỉ đạt 31.9%. Từ các tỉ lệ trên cho thấy nhóm sinh viên năm
thứ nhất có các tỉ lệ tiếp nhận thông tin hàng ngày kể cả về đọc báo in, nghe đài
phát thanh và xem truyền hình đều thấp nhất.
Trong ba hình thức báo chí truyền thống thì hai loại hình là phát
thanh và truyền hình tạo được sự quan tâm lớn hơn với công chúng sinh viên
báo chí, thực tế này cho thấy mỗi loại hình truyền thông đại chúng đều có
những đặc trưng, những thế mạnh và hạn chế riêng. Với những lợi thế riêng của
phương tiện phát thanh và truyền hình trong xã hội hiện đại như tính trực quan
84
sinh động, tính đa dạng, kịp thời và đáp ứng được với nhiều loại đối tượng công
chúng cũng như cùng lúc có thể phục vụ được nhiều công chúng cùng theo dõi.
Mặt khác, hiện nay ở nước ta hiện nay đa số các đài phát thanh và truyền hình
được phát miễn phí, vì vậy hai loại hình này đã thu hút được đông đảo công
chúng quan tâm trong đó có một bộ phận công chúng là sinh viên báo chí. Tỉ lệ
tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên báo chí đối với báo in là thấp hơn.
Thực tế cho thấy, sinh viên phải dành phần nhiều thời gian cho việc học tập nên
thời gian tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng cũng bị hạn chế.
Mặt khác theo kết quả điều tra đối với sinh viên báo chí tại Trường Cao đẳng
Phát thanh - Truyền hình TW1 cho thấy 88.5% sinh viên hiện đang sống trong
các kí túc xá và nhà trọ tập thể, họ hầu hết là người các tỉnh khác vì vậy điều
kiện kinh tế để mua các phương tiện truyền thông đại chúng trong đó có báo in
là rất hạn chế. Mặt khác, đặc thù của báo in là không có khả năng phục vụ đồng
thời đối với nhiều công chúng, số lượng của mỗi đầu báo trong thư viện nhà
trường có hạn, lại phụ thuộc vào giờ mở cửa của thư viện nên việc sinh viên tiếp
cận với loại hình thông tin này ít hơn cũng là dễ hiểu.
Mặc dù tỉ lệ tiếp cận các phương tiện truyền thông đại chúng của
sinh viên báo chí là khá cao nhưng trong đó tỉ lệ rất ít khi tiếp cận và hoàn toàn
không cũng gây chú ý. Cụ thể, tỉ lệ ít khi tiếp cận với các báo in Trung ương và
các tỉnh thành khác là 16%, với Đài Tiếng Nói Việt Nam là 8%, Đài truyền hình
Trung ương là 8.5%, Đài truyền hình kĩ thuật số VTC 23.5, Internet 22.8%, Đài
truyền hình Hà Nam 31.3, Đài Phát Thanh Hà Nam 29.5, Truyền hình cáp Hà
Nam 23.3%, thông tin từ bạn bè 7.3%, thông tin từ các thày cô giáo 11.0%,
thông tin từ các nhà báo 37.3%, từ các nguồn khác 18.8%. Nhóm sinh viên
hoàn toàn không tiếp xúc với các loại báo in trung ưong và các tỉnh thành khác
6.5%, Đài Tiếng Nói Việt Nam 2.0%, Đài truyền hình Trung ương 2.0%. Đài
truyền hình kĩ thuật số VTC 11.0%, Internet 7.3%, Đài truyền hình Hà Nam
10.8%, Đài Phát Thanh Hà Nam 12.8%, Truyền hình cáp Hà Nam 27.3%, thông
tin từ bạn bè 1.8 %, thông tin từ các thày cô giáo 1.8%, thông tin từ các nhà báo
85
14.3%, nguồn khác 4.0%. Từ các tỉ lệ trên cho thấy nhóm sinh viên hoàn toàn
không tiếp nhận thông tin từ truyền hình cáp Hà Nam là cao nhất chiếm 27.3 %,
từ các nhà báo là 14.3%. Tỉ lệ sinh viên không tiếp nhận thông tin từ các thày cô
giáo và bạn bè là rất thấp nhất chỉ chiếm 1.8%.
Nếu xét trên chỉ báo giới tính thì tỉ lệ quan tâm đến các phương
tiện truyền thông đại chúng hàng ngày giữa nhóm sinh viên nam và nhóm sinh
viên nữ cũng có sự chênh lệch không đáng kể. Đối với nhóm sinh viên năm thứ
năm nhóm sinh viên nam quam tâm đến báo in của Trung ương và các địa
phương khác là 50%, nhóm sinh viên nữ là 37.7%, với Đài Tiếng Nói Việt Nam
nhóm sinh viên nam là 83.3%, nhóm sinh viên nữ là 67.8%, với Đài truyền hình
Trung ương là 75%, nhóm sinh viên nữ là 61.8%. Thông tin từ các nhà báo
nhóm sinh viên nam là 15.4%, nhóm sinh viên nữ là 16%, thông tin từ các thày
cô giáo đối với nhóm sinh viên nam là 47.1%, với nhóm sinh viên nữ là 75.8%.
Nói chung đối với nhóm sinh viên năm thứ năm tỉ lệ nhóm nữ sinh viên quan
tâm đến các kênh thông tin truyền thông đại chúng so vói nhóm nam sinh viên
là rất thấp hơn. Tuy nhiên, tỉ lệ nhóm nữ sinh viên tiếp nhận thông tin từ các
thày cô giáo và từ các nhà báo hàng ngày là cao hơn sơ với nam sinh viên. Cụ
thể, đối với các thày cô giáo nhóm nữ là 75.%, nhóm nam là 7.1%, từ các nhà
báo nhóm nữ là 16% nhóm nam là 15.4%, từ bạn bè nhóm nữ là 83.1%, nhóm
nam là 76.5%. Đối với nhóm sinh viên nam năm thứ năm những kênh hàng
ngày được quan tâm nhiều nhất là Đài Tiếng Nói Việt Nam 80.3%,thông tin từ
bạn bè 76.5%, từ Đài truyền hình Trung ương 75%. Các kênh ít được quan tâm
nhất là đài truyền hình Hà Nam 6.3%, thông tin từ các nhà báo là 15.4% Đối với
nhóm sinh viên nữ năm thứ năm các kênh hàng ngày được quan tâm nhiều nhất
là thông tin từ bạn bè 83.1%, từ các thầy cô giáo 75.8%, từ Đài Tiếng Nói Việt
Nam là 67.8%, từ Đài truyền hình Trung ương là 61.8%...Các kênh ít được quan
tâm nhất là từ các nhà báo 16%, từ đài truyền hình Hà Nam 18.4%. Như vậy đối
với cả sinh viên nam và sinh viên nữ đều có tỉ lệ quan tâm đến Đài Tiếng Nói
86
Việt Nam, Đài truyền hình Trung ương là khá cao, còn tỉ lệ về sự tiếp nhận
thông tin từ các nhà báo và từ đài truyền hình Hà Nam là thấp nhất.
Qua khảo sát cho thấy một tỉ lệ rất tích cực đối với sinh viên báo
chí năm thứ năm là cả nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ không có
trường hợp nào không quan tâm đến các phương tiện truyền thông như: các báo
in của Trung ương và các tỉnh thành, Đài Tiếng Nói Việt Nam, Đài truyền hình
trương ương, thông tin từ các thày cô giáo …Tuy nhiên, với internet đối với
nhóm nam trường hợp hoàn toàn không truy cập không có trường hợp nào, còn
nữ chỉ có 1trường hợp chiếm 1.25%. Trường hợp hoàn toàn không tiếp cận với
những nhà báo với nhóm nam chỉ là 3.2% còn nhóm nữ cao hơn là 9.5%.
Đối với sinh viên năm thứ ba, nhóm sinh viên nam có sự quan tâm
hàng ngày đến các phương tiện truyền thông đại chúng là khá cao. Cụ thể, đối
với 12 kênh được đưa ra khảo sát có các tỉ lệ là:
Các loại báo in Trung ưong và các tỉnh thành khác 59.5%
Đài Tiếng Nói Việt Nam 53.7%
Đài truyền hình Trung ương 65.2%
Đài truyền hình kĩ thuật số VTC 25.9%
Internet 41.8%
Đài truyền hình Hà Nam 8.8%
Đài Phát Thanh Hà Nam 21.8%
Truyền hình cáp Hà Nam 10.9%
Thông tin từ bạn bè 76.2%
87
Thông tin từ các thày cô giáo 64%
Thông tin từ các nhà báo 14.8%
Nguồn khác 45.9%
Trong những kênh thông tin được đưa ra khảo sát thì những kênh
tạo được sự quan tâm lớn nhất là thông tin từ bạ bè đạt 76.2%, thông tin từ các
thày cô giáo 64%, từ Đài truyền hình Trung ương 65.2%, các loại báo in Trung
ương và các tỉnh thành khác 59.5%, Đài Tiếng Nói Việt Nam 53.7%. Các kênh
ít tạo được sự quan tâm nhất là đài truyền hình Hà Nam chỉ chiếm 8.8%, thông
tin từ các nhà báo 14.8%. Đối với nhóm sinh viên nữ năm thứ ba sự quan tâm
đến những kênh thông tin được đưa ra khảo sát cũng khá cao. Những kênh tạo
được sự quan tâm nhiều nhất là, thông tin từ bạn bè 90%, thông tin từ các thày
cô giáo 69.2%, Đài Tiếng Nói Việt Nam 57.9%, Đài truyền hình Trung ương
49.3%, các loại báo in của Trung ương và các tỉnh thành khác 24.7%...Các kênh
ít được sự quan tâm nhất đối với nhóm sinh viên nữ năm thứ ba là thông tin từ
các nhà báo chỉ đạt 0.9% , từ truyền hình cáp Hà Nam 9.8%.
Từ các tỉ lệ trên cho thấy đối với sinh viên năm thứ ba kênh được quan
tâm nhiều nhất là thông tin từ bạn bè, thông tin từ các thầy cô giáo, từ Đài Tiếng
Nói Việt Nam, Đài truyền hình Trung ương. Các kênh ít được quan tâm nhất là
đài truyền hình Hà Nam, truyền hình cáp Hà Nam và thông tin từ các nhà báo.
Trong đó tỉ lệ về thông tin từ bạn bè của cả nhóm nam và nhóm nữ là cao nhất,
tương quan giữa nam và nữ về tỉ lệ này thì nữ cao hơn chiếm 90%, còn nam chỉ
là 76.2%. Đối với thông tin từ các thầy cô giáo tỉ lệ nữ là 69.2% cao hơn nam là
64%, từ Đài Tiếng Nói Việt Nam tỉ lệ nữ là 57.9% trong khi đó nam chỉ đạt
53.7%. Tuy nhiên việc tiếp nhận thông tin hàng ngày từ Đài truyền hình Trung
ương đối với nhóm nam sinh viên năm thứ ba là 65.2% trong khi đó nhóm nữ
chỉ đạt 49.3%, thông tin từ báo in của Trung ương và các tỉnh thành khác nam
88
chiếm 59.5% cao hơn nữ là 24,7%. Tỉ lệ đọc báo in giữa nhóm nam và nhóm nữ
sinh viên năm thứ ba có sự chênh lệch là khá lớn.
Xét một cách tổng thể về sự tương quan giữa nhóm nam và nữ sinh viên
báo chí năm thứ ba trong việc tiếp cận các kênh thông tin là tương đối đồng đều.
Tuy nhiên đối với cụ thể từng kênh thông tin đã được phân tích thì nhóm nữ có
phần cao hơn.
Đối với sinh viên năm thứ nhất các kênh thông tin tạo được quan tâm
hàng ngày đối với nhóm nam nhiều nhất là từ bạn bè 64%, từ báo in Trung ương
và các tỉnh thành khác 59.5%, từ Đài Tiếng Nói Việt Nam 61.5%, Đài truyền
hình Trung ương 53.8%, từ các thầy cô giáo 52%. Các kênh ít tạo được sự quan
tâm nhất là từ các nhà báo 12.7%, đài phát thanh Hà Nam 23.4%. Đối với nhóm
sinh viên nữ các kênh được quan tâm hàng ngày nhiều nhất là thông tin từ bạn
bè 66.6%, từ Đài truyền hình Trung ương 64.5%, từ các thầy cô giáo là 63.1%.
Các kênh ít tạo được sự quan tâm hàng ngày của nhóm nữ năm thứ nhất là từ
đài truyền hình kĩ thuất số VTC 11.3%. Điều đáng ngạc nhiên là tỉ lệ nghe Đài
Tiếng Nói Việt Nam hàng ngày của nhóm này chỉ đạt 10,2 %, với báo in của
Trung ương và các tỉnh thành khác 8.5%.
Trong sự tương quan giữa sinh viên các năm thứ nhất năm thứ ba và năm
thứ năm giữa nhóm sinh viên nam và sinh viên nữ nổi lên một số điểm đáng chú
ý là : sinh viên nam năm thứ năm tiếp nhận thông tin hàng ngày từ Đài Tiếng
Nói Việt Nam có tỉ lệ cao nhất là 83.3%, năm thưa nhất là 61.5%, năm thứ ba là
53.7%, từ Đài truyền hình Trung ương hàng ngày năm thứ năm 75%, năm thứ
ba là 65.2%, năm thứ nhất là, 53.8%. Thông tin từ bạ bè năm thứ năm 76.5%,
năm thứ ba 76.2%, năm thứ nhất 64%. Từ những tỉ lệ trên cho thấy nam sinh
viên năm thứ năm có sự quan tâm đến các phương tiện truyền thông đại chúng
lớn hơn nam sinh viên năm thứ ba và năm thứ nhất.
89
Đối với nữ sinh viên, nhóm sinh viên nữ năm thứ năm có tỉ lệ quan tâm
đến Đài Tiếng Nói Việt Nam hàng ngày là 67.8%, năm thứ ba 57.9%, năm thứ
nhất 10.2%, báo in của Trung ương và các tỉnh thành khác năm thứ năm là
37.7%, năm thứ ba là 24,2%, năm thứ nhất là 8.5%. Như vậy việc nghe Đài
Tiếng Nói Việt Nam và đọc báo in của Trung ương và các tỉnh thành khác giữa
sinh viên báo chí năm thứ năm, năm thứ ba với sinh viên báo chí năm thứ nhất
có sự chênh lệch tương đối lớn. Với Đài truyền hình Trung ương sinh nữ năm
thứ nhất có sự quan tâm lớn nhất đạt 64.5%, sinh viên nữ năm thứ năm 61.8%,
còn sinh viên nữ năm thứ ba là 49.3%. Từ các tỉ lệ vừa phân tích cho thấy nếu
xét một cách tổng thể thì sự quan tâm của sinh viên báo chí năm thứ năm đến
các phương tiện truyền thông đại chúng là lớn hơn so với sinh viên báo chí năm
thứ ba và năm thứ nhất.
Tỉ lệ từ những chỉ báo trên cho thấy thông tin từ các nguồn truyền thông
đại chúng đã trở thành nhu cầu thiết thực, thường xuyên của nhóm công chúng
sinh viên báo chí.
2.3. Những vấn đề quan tâm của công chúng sinh viên báo chí
2.3.1. Những nội dung thông tin được quan tâm.
Lựa chọn những vấn đề quan tâm trên báo chí là hành vi có tính
quy luật trong hoạt động tiếp nhận thông tin của con người. Trong thực tế hiện
nay, những vấn đề, lĩnh vực mà báo chí truyền tải là rất phong phú đa dạng.
Mặc dù nhu cầu thông tin của công chúng ngày càng được nâng cao, nhưng thời
gian dành cho công việc trong xã hội hiện đại cũng ngày một nhiều hơn; Chính
vì vậy công chúng thường lựa chọn và chỉ theo dõi những nội dung mà họ cho
là cần thiết và phù hợp theo cách thức của họ.
Đối với cá nhân mỗi công chúng thông tin được truyền tải trên báo
chí có thể được chia làm ba loại, thứ nhất là loại cần thiết, thứ hai là tương đối
90
cần, thứ ba là không cần thiết. Ba loại thông tin này quy định nhu cầu và cách
thức tiếp nhận thông tin của công chúng [53].
Có thể nói rằng việc lựa chọn thông tin không chỉ gắn liền với sở
thích mà còn kèm theo lợi ích của cá nhân người lựa chọn. Lợi ích quy định
động cơ, mục đích của sự lựa chọn [60]. Từ vị trí xã hội, trình độ nhận thức của
mình công chúng xác định thái độ của họ với thông tin và cũng từ đó xuất hiện
sự quan tâm đối với các kênh thông tin. Phần lớn công chúng báo chí ngày nay
thường đọc, nghe, xem đối với những tin bài mà họ cho là bổ ích, có thể làm
cho cuộc sống của họ tốt đẹp hơn.
Trong bản thân đối tượng công chúng sinh viên báo chí cũng có sự
khác biệt về trình độ nhận thức, tư tưởng chính trị, văn hoá, hoàn cảnh gia đình
và địa vị xã hội. Chính những yếu tố này tác động không nhỏ đến nhu cầu tiếp
nhận thông tin và quyết định khả năng họ sẽ lựa chọn và tiếp nhận thông tin từ
các phương tiện truyền thông đại chúng như thế nào.
Chúng tôi đưa ra hai nhóm vấn đề khảo sát đối với sinh viên báo
chí tại trường Cao Đẳng Phát thnah - Truyền hình trực thuộc Đài Tiếng Nói Việt
Nam. Thứ nhất là nhóm thông tin về thời sự, kinh tế, chính trị xã hội. Thứ hai là
nhóm thông tin về văn hoá, văn nghệ, giải trí.
Qua 28 vấn đề truyền tải trên các phương tiện truyền thông đại
chúng được đưa ra khảo sát đối với sinh viên báo chí kết quả cho thấy mức độ
quan tâm đến các vấn đề này là khá cao( xem bảng 6)
Bảng 6 - Mức độ quan tâm tới các chương trình, chuyên mục trên báo
chí
Mức độ quan tâm
91
Tên chương trình, chuyên mục
Số
%
người
Thời sự trong nước 370 92.5
Thời sự quốc tế 328 82.0
Dành cho sinh viên báo chí 318 79.5
Trò chuuyện với nhà báo 250 62.5
Vấn đề hội nhập 173 43.2
Vấn đề An ninh trật tự xã hội 263 65.7
Vấn đề khoa học 146 36.5
Vấn đề CNTT - Viễn thông 113 28.2
Vấn đề môi trường 202 50.5
Vấn đề Thiếu niên nhi đồng 68 17.0
Vấn đề Thanh niên 271 67.7
92
Vấn đề Người cao tuổi 38 9.5
Vấn đề Giáo dục 301 75.2
Vấn đề y tế 212 53.0
Thông tin Thể thao 175 43.7
Thông tin chứng khoán 83 20.7
Vấn đề An toàn giao thông 236 59.0
Vấn đề pháp luật 188 47.0
Vấn đề phụ nữ 196 49.0
Người xây tổ ấm 156 39.0
Thế giới động vật 173 43.2
Thời tiết 254 63.5
Quảng cáo 201 50.2
Thông tin Văn hoá nghệ thuật 191 47.7
93
Ca nhạc 302 75.5
Thời trang 217 54.2
Phim 280 70.0
Vui chơi giải trí 256 64.0
Truyền hình TW1 năm 2007
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Kết quả khảo sát cho thấy những chương trình, những chương trình,
chuyên mục được công chúng sinh viên báo chí quan tâm nhiều nhất là:
- Thời sự trong nước 92.5%
- Thời sự quốc tế 82%
- Dành cho sinh viên báo chí 79.5%
- Ca nhạc 75.5%
- Vấn đề Giáo dục 75.2%
- Phim 70%
Các chương trình, chuyên mục ít tạo được sự quan tâm nhất là:
- Vấn đề Người cao tuổi 9.5%
- Vấn đề Thiếu niên nhi đồng 17%
94
- Vấn đề thông tin chứng khoán 20,7%
2.3.1.1. Mức độ quan tâm đối với những thông tin thời sự, kinh tế, chính
trị xã hội
Mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng đối với những thông
tin thời sự, kinh tế, chính trị xã hội ...phản ánh sự quan tâm của công chúng về
những vấn đề này .Trên cơ sở đó có thể đánh giá được lượng thông tin mà cá
nhân công chúng thu được từ các phương tiện truyền thông đại chúng .
Mức độ quan tâm của công chúng sinh viên báo chí đến các vấn đề
thời sự, kinh tế, chính trị xã hội là một chỉ báo cho phép chúng ta hình dung về
sự chuyển biến có ý nghĩa trong ý thức và thái độ chính trị xã hội của công
chúng sinh viên báo chí . Sự chuyển biến này gắn liền với sự vận động của xã
hội trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, tiến tới
công bằng dân chủ, văn minh.
Một điều rất dễ nhận thấy đối với công chúng sinh viên báo chí là hầu
hết họ tất quan tâm tới chương trình thời sự. Đối với cả chương trình Thời sự
trong nước và chương trình Thời sự quốc tế đều có tỉ lệ theo dõi ở mức độ cao.
Chương trình Thời sự trong nước xếp đầu bảng trong thứ tự ưu tiên là 92.5%
thứ hai là chương trình Thời sự quốc tế 82.5%. Các chương trình chuyên mục
khác có tỉ lệ theo dõi cao trên 70% là chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí
79.5%, Ca nhạc 75.5%, Giáo dục 75.2%, Phim 70%.
Chương trình tạo được sự quan tâm lớn nhất của công chúng sinh viên
báo chí là Thời sự trong nước, trong đó nhóm đối tượng có tỉ lệ cao nhất về chủ
đề này là sinh viên năm thứ ba là 98%, thứ đến là sinh viên năm thứ năm đạt
93%, và thấp nhất trong ba nhóm sinh viên được khảo sát là năm thứ nhất đạt
81%. Đối với chương trình Thời sự quốc tế nhóm sinh viên năm thứ ba cũng có
tỉ lệ theo dõi cao nhất đạt 87%. Nhóm sinh viên năm nhất đạt 78%, còn nhóm
95
sinh viên năm thứ năm là 76%. Như vậy đối với hai chương trình này nhóm
sinh viên năm thứ ba đều có tỉ lệ tiếp nhận cao nhất. Sinh viên năm thứ năm có
tỉ lệ tiếp nhận thông tin Thời sự trong nước cao hơn, nhưng lại có tỉ lệ tiếp nhận
thông tin Thời sự quốc tế thấp hơn sinh viên năm thứ nhất. Trong chuyên mục
Dành cho sinh viên báo chí, tỉ lệ quan tâm của sinh viên năm thứ ba là 83.5%,
năm thứ năm là 76%, còn sinh viên năm thứ nhất là 75%. Như vậy, qua phân
tích tỉ lệ tiếp nhận của ba chương trình, chuyên mục tạo được nhiều sự quan tâm
nhất là Thời sự trong nước, Thời sự quốc tế và chuyên mục Dành cho sinh viên
báo chí thì sinh viên năm thứ ba đều có tỉ lệ tiếp nhận cao nhất. Sinh viên năm
thứ năm có tỉ lệ quan tâm nhiều hơn đến 2/3 chuyên mục so với sinh viên năm
thứ nhất là Thời sự trong nước và chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí.
Đối với các chương trình, chuyên mục ít tạo được sự quan tâm nhất là
vấn đề Người cao tuổi, vấn đề Thiếu niên nhi đồng và vấn đề thông tin chứng
khoán. Cụ thể, đối với vấn đề Người cao tuổi tỉ lệ quan tâm của sinh viên năm
thứ năm là 6%, sinh viên năm thứ ba là 11.5%, còn sinh viên năm thứ nhất là
9%. Với vấn đề Thiếu niên nhi đồng sinh viên năm thứ năm có tỉ lệ quan tâm là
16%, năm thứ ba là 17%, còn năm thứ nhất là 18%.Với chuyên mục thông tin
chứng khoán năm thứ năm có tỉ lệ quan tâm là 13%, năm thứ ba là 23%, năm
thứ nhất là 24%. Từ các tỉ lệ trên cho thấy đối với những vấn đề ít được quan
tâm thì tỉ lệ tương quan giữa sinh viên các năm thứ nhất, thứ ba và thứ năm là
tương đối đồng đều, sự chênh lệch giữa về tỉ lệ giữa các nhóm là không đáng
kể.
Nhìn từ chỉ báo giới tính những vấn đề được cả nhóm sinh viên nam và
nhóm sinh viên nữ quan tâm nhiều nhất là Thời sự trong nước, Thời sự quốc tế,
chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí, vấn đề An ninh trật tự xã hội, Thanh
niên, Giáo dục, An toàn giao thông và thông tin Thời tiết.( xem bảng 7)
96
Bảng 7- Mức độ quan tâm theo giới tính
Mức độ quan
tâm Tên chương trình, chuyên mục
Nam nữ
% %
Thời sự trong nước 96.7 89.9
Thời sự quốc tế 89.4 86.0
Dành cho sinh viên báo chí 77.0 48.8
Vấn đề Giáo dục 75.0 83.8
Vấn đề An ninh trật tự xã hội 67.8 71.7
Vấn đề Thanh niên 63.1 78.4
Vấn đề Thời tiết 63.2 70.8
Vấn đề An toàn giao thông 55.9 67.7
97
Truyền hình TW1 năm 2007)
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Từ kết quả khảo sát cho thấy mức độ quan tâm cao hơn đối với các
chương trình Thời sự trong nước, Thời sự quốc tế, và chuyên mục Dành cho
sinh viên báo chí đều thuộc về nhóm sinh viên nam. Cụ thể, đối với thông tin
Thời sự trong nước tỉ lệ quan tâm của nhóm sinh viên nam đạt tới 96.7%, trong
khi đó nhóm sinh viên nữ chỉ đạt 89.9%, với thông tin Thời sự quốc tế nhóm
nam đạt 89.4%, nhóm nữ chỉ đạt 86%, chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí
nhóm nam là 77%, trong khi đó nhóm nữ chỉ đạt 48.8%. Như vậy đối với cả 3
chương trình, chuyên mục tạo được sự quan tâm lớn nhất của sinh viên báo chí
đều thuộc về nhóm sinh viên nam.
Những vấn đề được quan tâm nhiều nhất như Thời sự trong nước, Thời sự
quốc tế, chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí, sinh viên nam có tỉ lệ quan
tâm cao hơn. Những chỉ báo còn lại nhóm sinh viên nữ có tỉ lệ cao hơn. Cụ thể,
đối với vấn đề Giáo dục nhóm nam là 75%, trong khi đó nhóm nữ đạt 83.8%,
thông tin về An ninh trật tự xã hội nam là 67.8%, trong khi đó nữ đạt 71.7%,
chuyên mục Thanh niên nam là 63.1%, nữ là 78.4%, thông tn Thời tiết nam là
63.3%, nữ là 70.8%, chuyên mục An toàn giao thông nhóm sinh viên nam là
55.9%, nữ là 67.7%. Đối với những thông tin Thời trang và Thể thao tỉ lệ về sự
quan tâm giữa nhóm nam và nhóm nữ là có sự khác biệt. Cụ thể đối với thông
tin Thời trang nhóm nam có tỉ lệ quan tâm là 39.5%, còn đối với nhóm sinh viên
nữ đạt 71.7%. Như vậy nhóm sinh viên nữ có tỉ lệ quan tâm cao hơn rất nhiều so
với nhóm sinh viên nam. Đối với thông tin Thể thao tỉ lệ quan tâm của nhóm
sinh viên nam là 59.2%, còn tỉ lệ quan tâm của nhóm nữ là 38.1%. Về vấn đề
này tỉ lệ tiếp nhận thông tin của nam là cao hơn nữ nhưng sự khác biệt cũng
không quá lớn như với vấn đề Thời trang.
98
Những vấn đề, chuyên mục ít tạo được sự quan tâm của cả nhóm nam và
nhóm nữ nhất là Thiếu niên nhi đồng và Người cao tuổi. Cụ thể, đối với những
thông tin về Thiếu niên nhi đồng nhóm sinh viên nam tỉ lệ quan tâm chỉ đạt
20%, nhóm nữ chỉ là 16.6%. Chuyên mục Người cao tuổi nhóm nam có tỉ lệ
quan tâm là 10.5%, nhóm nữ là 9.9%.
Sự tương quan cụ thể trong việc lựa chọn những vấn đề quan tâm giữa
sinh viên nam và sinh viên nữ trong bản thân mỗi nhóm cũng có sự khác biệt
đáng kể. Cụ thể, đối với nhóm sinh viên năm thứ năm nhóm sinh viên nam có tỉ
lệ quan tâm tới những thông tin Thời sự trong nước là 92.9%, nhóm sinh viên
nữ là 93.1%, như vậy đối với những thông tin Thời sự trong nước nhóm sinh
viên nữ năm thứ năm có tỉ lệ quan tâm cao hơn nhóm nam. Những thông tin
Thời sự quốc tế nhóm sinh viên nam cũng có tỉ lệ quan tâm là 92.9%, trong khi
đó nhóm nữ là 69.4%, chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí nhóm nam có tỉ
lệ quan tâm là 67.9%, trong khi nhóm nữ có tỉ lệ là 79.2%. Về vấn đề An ninh
trật tự xã hội nhóm nam có tỉ lệ là 53.6%, nhóm nữ là 69.4%, chuyên mục
Thanh niên nhóm nam là 53.6%, nhóm nữ là 69.4%, vấn đề Giáo dục nhóm nam
có tỉ lệ quan tâm là 75%, nhóm nữ là 75%, thông tin Thời trang nhóm nam có tỉ
lệ quan tâm là 32.1%, nhóm nữ là 50%, vấn đề An toàn giao thông nhóm nam tỉ
lệ quan tâm là 53.65, nhóm nữ là 63.9%, thông tin Thời tiết nhóm nam là 57.1%
trong khi đó nhón nữ là 63.9%. Kết quả phân tích từ 9 chỉ báo cho thấy duy nhất
ở nội dung Thời sự quốc tế nhóm sinh viên nam năm thứ năm có tỉ lệ cao hơn
nhóm nữ ở các chỉ báo còn lại nhóm nữ đều có tỉ lệ cao hơn nhóm sinh viên
nam. Mặc dù đối với những thông tin Thể thao nhóm nam sinh viên có tỉ lệ
quan tâm là 35.7% cao hơn nhóm nữ là 31.9%, nhưng nhìn một cách tổng thể có
thể nói đối với sinh viên năm thứ năm nhóm nữ có 9/10 các chỉ báo có tỉ lệ quan
tâm đến các vấn đề được truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng cao
hơn nhóm nam sinh viên.
99
Đối với sinh viên năm thứ ba, nhìn chung các tỉ lệ quan tâm đến các vấn
đề được truyền tải trên báo chí đều khá cao. Sự chênh lệch giữa các tỉ lệ là
không lớn. Cụ thể, nhóm nam sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ quan tâm đến những
thông tin Thời sự trong nước là 100%, trong khi đó nhóm nữ là 96.8%, Thời sự
quốc tế nhóm nam là 88%, nhóm nữ là 86.4%. Chuyên mục Dành cho sinh viên
báo chí nhóm nam có tỉ lệ là 84%, nhóm nữ là 83.2%. Như vậy, đối với sinh
viên năm thứ ba ở 3 vấn đề tạo được sự quan tâm lớn nhất thì nhóm sinh viên
nam đều có tỉ lệ cao hơn nhóm sinh viên nữ. Ở những vấn đề khác cũng tạo
được sự quan tâm cao thì nhóm sinh viên nam hầu hết có tỉ lệ quan tâm thấp
hơn nhóm sinh viên nữ. Cụ thể như chuyên mục An ninh trật tự xã hội sinh viên
nam có tỉ lệ quan tâm là 66.7%, sinh viên nữ là 68%. Chuyên mục Dành cho
sinh viên báo chí nhóm nam có tỉ lệ là 57.3%, trong khi đó nhóm nữ là 72.8%.
Chuyên mục Thanh niên nhóm nam có tỉ lệ quan tâm là 62.7%, nhóm nữ là
70.4%, vấn đề Giáo dục nhóm nam là 66.7%, nhóm nữ là 78.4%, chuyên mục
An toàn giao thông nhóm nam là 56%, nhóm nữ là 60%. Thông tin Thời tiết
nhóm nam có tỉ lệ quan tâm là 60%, trong khi đó nhóm nữ là 67.2%. Về thông
tin Thể thao nhóm sinh viên nam năm thứ ba có tỉ lệ quan tâm là 61.3%, nhóm
nữ là 36%. Như vậy trong 10 chỉ báo được đem ra so sánh về mức độ quan tâm
đến các vấn đề truyền tải trên báo chí thì nhóm sinh viên nam năm thứ ba chỉ có
4/10 chỉ báo có tỉ lệ lớn hơn so với nhóm sinh viên nữ. Xét một cách tổng thể
đối với sinh viên năm thứ ba thì nhóm sinh viên nữ có tỉ lệ quan tâm đến các
vấn đề truyền tải trên báo chí lớn hơn nhóm sinh viên nam.
Đối với sinh viên năm thứ nhất nhóm nam sinh viên có tỉ lệ quan tâm tới
những thông tin Thời sự trong nước là 88.5%, nhóm nữ là 72.9%. Thông tin
Thời sự quốc tế nhóm nam là 84.6%, nhóm nữ là 70.8%, chuên mục An ninh
trật tự xã hội nhóm nam là 73.1%, nhóm nữ là 52.1%, về vấn đề Giáo dục nhóm
sinh viên nam năm thứ nhất có tỉ lệ quan tâm là 82.7%, nhóm nữ là 72.9%.
Những thông tin về Thể thao được nhóm nam quam tân là 65.3% còn nhóm nữ
là 35.4%, thông tin Thời tiết nhóm nam có 76.3% quan tâm còn nhóm nữ chỉ đạt
100
31.2%. Đối với những chỉ báo khác trong nhóm thông tin tời sự kinh tế, chính
trị xã hội tạo được sự quan tâm cao thì nhóm sinh viên nữ có các tỉ lệ cao hơn
nhóm nam. Cụ thể, với chuyêm mục Dành cho sinh viên báo chí nhóm nam là
67.3% trong khi đó nhóm nữ đạt 83.3%. Chuyên mục Thanh niên chỉ có 65.4%
sinh viên nam năm thứ nhất quan tâm, còn nhóm nữ là 77.1%. Thông tin Thời
trang được nhóm nữ quan tâm tới 68.7%, trong khi đó nhóm nam chỉ dành cho
nội dung này 48.1%. Chuyên mục An toàn giao thông nhóm nam có 53.8%
quan tâm còn nhóm nữ là 62.5%. Như vậy, đối với sinh viên năm thứ nhất 11
chỉ báo được so sánh gữa nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ trong đó
6/11 chỉ báo cho thấy nhóm nam có tỉ lệ quan tâm lớn hơn, 5/11 chỉ báo còn lại
nhóm nữ có tỉ lệ quan tâm lớn hơn. Nói chung tương quan giữa nhóm nam và
nữ sinh viên năm thứ nhất có sự chênh lệch không đáng kể.
Đánh giá một cách tổng quát trên phương diện giới tính về sự quan tâm
tới các vấn đề thời sự, kinh tế, chính trị xã hội của các nhóm sinh viên năm thứ
năm, năm thứ ba và năm thứ nhất cho thấy: sinh viên nam năm thứ ba có tỉ lệ
quan tâm tới Thời sự trong nước cao nhất đạt 100%, tiếp sau là nam sinh năm
thứ năm đạt 92.9%, nam sinh năm thứ nhất chỉ đạt 88.5%. Nhóm nữ sinh năm
thứ ba cũng có tỉ lệ quan tâm tới nội dung này cao nhất đạt 96.8%, tiếp đến là
nhóm nữ sinh năm thứ năm là 93.1% và thấp nhất vẫn là nhóm nữ sinh năm thứ
nhất là 72.9%.
2.3.1.2. Mức độ quan tâm đối với những thông tin văn hoá văn nghệ và
Vui chơi giải trí
Đối với những vấn đề về vă hoá văn nghệ và Vui chơi giải trí chúng tôi
đưa ra 4 chỉ báo để khảo sát mức độ quan tâm của công chúng sinh viên báo chí
là: Ca nhạc, Phim, các chương trình Vui chơi giải trí, và các thông tin về Văn
hoá nghệ thuật. Trong bốn chỉ báo này mức độ quan tâm của công chúng sinh
viên báo chí được xếp theo thứ tự ưu tiên lần lượt là:
101
- Ca nhạc 75.5%.
- Phim 70%.
- Vui chơi giải trí 64%.
- Thông tin Văn hoá nghệ thuật 47%.
Từ kết quả khảo sát trên cho thấy trong các vấn đề về văn hoá văn nghệ,
Vui chơi giải trí, thì Ca nhạc là vấn đề được ưu tiên quan tâm nhiều nhất đạt
75.5%, sau đó là chương trình Phim đạt 70%. Tỉ lệ quan tâm đến các chương
trình Vui chơi giải trí chỉ đứng thứ ba với 64%. Vấn đề ít tạo được sự quan tâm
là những thông tin về Văn hoá nghệ thuật chỉ đạt 47%.
Xét theo nhóm đối tượng sinh viên cho thấy, nhóm sinh viên năm thứ
năm dành sự quan tâm nhiều nhất cho Ca nhạc là 72%, Phim là 65%, các
chương trình Vui chơi giải trí là 54%, còn các thông tin Văn hoá nghệ thuật chỉ
là 35%. Nhóm sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ quan tâm đến Ca nhạc là 74%, Phim
là 75.5%, các chương trình Vui chơi giải trí là 76%, còn với những thông tin
Văn hoá nghệ thuật là 53,5%. Nhóm sinh viên năm thứ nhất có 82% quan tâm
đến vấn đề Ca nhạc, 68% quan tâm đến các chương trình Vui chơi giải trí, 64%
quan tâm đến chương trình Phim, còn thông tin Văn hoá nghệ thuật là 49%. Từ
các tỉ lệ trên cho thấy cả ba nhóm sinh viên đều dành sự quan tâm nhiều nhất
cho Ca nhạc, trong đó sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ cao nhất là 82%, so với
năm thứ ba là 74% và sinh viên năm thứ năm là 72%. Với chương trình Phim,
sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ quan tâm cao nhất là 75.5%, sau đó là sinh viên
năm thứ năm đạt 65%, và nhóm sinh viên năm thứ nhất là 64%. Các chương
trình Vui chơi giải trí nhóm sinh viên năm thứ ba có sự quan tâm nhiều nhất là
76%, nhóm sinh viên năm thứ nhất là 68% còn nhóm sinh viên năm thứ năm là
54%.
102
Xét theo chỉ báo giới tính nhóm nam sinh viên có các tỉ lệ quan tâm đến
các vấn đề về Văn hoá nghệ thuật và Vui chơi giải trí thấp hơn so vơi nhóm nữ.
Cụ thể, đối với các chương trình Ca nhạc có 67.7% nam sinh viên quan tâm,
trong khi đó nhóm nữ sinh là 89.2%, đối với chương trình Phim nhóm nam có
sự quan tâm là 68.4%, nhóm nữ là 78.9%, các chương trình Vui chơi giải trí
nhóm nam có tỉ lệ quan tâm là 59.8%, nhóm nữ là 74%. Các thông tin về Văn
hoá nghệ thuật là vấn đề ít tạo được sự quan tâm nhất nhóm nam có tỉ lệ là
32.9%, trong khi đó nhóm nữ là 63.2%. Như vây đối với cả 4 chỉ báo nữ sinh
viên đều có tỉ lệ quan tâm cao hơn nam sinh viên.
Sự tương quan về tỉ lệ quan tâm đến các vấn đề văn hoá, nghệ thuật và
Vui chơi giải trí trong bản thân mỗi nhóm sinh viên cũng có sự khác biệt giữa
nam và nữ sinh viên. Cụ thể, đối với nhóm sinh viên năm thứ năm, tỉ lệ nam
sinh viên quan tâm đến Ca nhạc là 53.6%, nhóm nữ sinh là 79.2%, nam sinh
viên năm thứ ba là 68%, nhóm nữ sinh năm thứ ba là 77.6%, nam sinh viên năm
thứ nhất là 71.1%, nhóm nữ sinh là 93.7%. Từ kết quả trên cho thấy nhóm nam
sinh viên năm thứ nhất quan tâm đến Ca nhạc nhiều nhất đạt 71.1%, so với
nhóm nam nă thứ ba là 68% và nhóm nam năm thứ năm là 53.6%. Tương tự
như vậy đối với nữ sinh năm thứ nhất cũng có tỉ lệ quan tâm đến Ca nhạc nhiều
nhất đạt 93.7%, so với năm thứ ba là 77.6% và năm thứ năm là 79.2%.
2.3.2. Những thể loại tác phẩm báo chí được công chúng sinh viên báo
chí quan tâm
Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Liên Xô, M...1985 “ Thể loại là
là khái quát hoá những đặc điểm của một nhóm lớn các tác phẩm có cùng thuộc
tính về nội dung, hình thức, cách biểu hiện tác phẩm của một thời đại, một giai
đoạn, một dân tộc hay một nền nghệ thuật thế giới”[431].
Sinh viên báo chí là nhóm công chúng đặc thù của báo chí.Tiếp cận
các phương tiện thông tin ngoài việc để tiếp nhận những thông tin bổ ích nhằm
103
nâng cao nhận thức và định hướng cho hoạt động học tập và rèn luyện nhóm
công chúng này còn đặc biệt quan tâm tới những thể loại báơ chí được sử dụng
trên báo chí. Đây là một hoạt động hết sức cần thiết, nó có ảnh hưởng đến quá
trình học tập cũng như đến thực tế quá trình tác nghiệp sau này của họ.
104
Bảng 8 - Mức độ quan tâm đến các thể loại báo chí
Sô % Tên thể loại
người
Tin 334 83.5
Phóng sự, điều tra 354 88.5
Phỏng vấn 168 42
Ghi nhanh 84 21
Bình luận 158 39.5
Xã luận 43 10.7
Tường thuật 85 21.2
Ký 66 16.5
Các thể loại Ảnh báo 170 42.5
chí
Các thể loại khác 102 25.5
105
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát
thanh - Truyền hình TW1 năm 2007
Mười chỉ báo được đưa ra khảo sát mức độ quan tâm của công
chúng sinh viên báo chí đối với các thể loại báo chí. Kết quả cho thấy đã có sự
chênh lệch tương đối lớn về tỉ lệ quan tâm của các chỉ báo. Cụ thể, các chỉ báo
được quan tâm nhiều nhất là thể loại Phóng sự, điều tra đạt 88.2%. Tin tức là
83.5%. Điều dáng ngạc nhiên là tỉ lệ quam tâm đến tất cả các chỉ báo còn lại
đều dạt dưới 50%. Các thể loại Ảnh báo chí 42.5%, Phỏng vấn 42%, Bình luận
39.5%. Các thể loại khác 25.5%, Tường thuật 21.2%, Ghi nhanh 21%, ký
16.5%, còn thể loại Xã luận chỉ chiếm 10%. Như vậy, đối với sinh viên báo chí
thể loại phản ánh có chiều sâu và mang tính quá trình là Phóng sự điều tra tạo
được sự quan tâm lớn nhất, thể loại phản ánh nhanh nhất đa dạng nhất là Tin
cũng dành được 83.5% số đối tượng quan tâm. Các thể loại ít tạo được sự quan
tâm của công chúng sinh viên báo chí là thể loại Xã luận, Ký và Ghi nhanh.
Trong thực tế, sinh viên báo chí là những người được đào tạo rất cơ bản
về hệ thống các thể loại báo chí, tuy nhiên các tỉ lệ quam tâm đến hệ thống này
của họ lại có sự chênh lệch lớn. Thực tế này có thể là một câu hỏi được đặt ra về
sự phù hợp của một số thể loại báo chí hiện nay.
Xét theo các nhóm đối tượng cho thấy sự tương quan trong mức độ quan
tâm của các nhóm sinh viên với hệ thống các thể loại báo chí. Cụ thể, sinh viên
năm thứ năm mức độ quan tâm tới thể loại Tin là 92%, Phóng sự, điều tra là
92%. Những thể loại khác đều có sự quan tâm rất thấp, hầu hết là dưới 40%. đặc
biêt với thể loại Xã luận nhóm sinh viên này chỉ có 9% số người quan tâm.
Nhóm sinh viên năm thứ ba tỉ lệ quan tâm đến thể loại tin là 88%, thể loaị
Phóng sự, điều tra là 94,5%, các thể loại Ảnh báo chí 46%, Phỏng vấn 45%,
Bình luận 43.5%. Các chỉ báo còn lại đều có tỉ lệ dưới 40%. Nhóm sinh viên
năm thứ nhất có tỉ lệ quan tâm đến thể loại Tin là 66%, thể loại Phóng sự điều
tra là 73%, các chỉ báo còn lại đều có tỉ lệ quan tâm dưới 40%. Như vậy, đối với
106
hai chỉ báo tạo được sự quan tâm nhiều nhất của công sinh viên báo chí là thể
loại Phóng sự điều tra và thể loại Tin sinh viên năm thứ năm đều có tỉ lệ cao
nhất. Nhóm sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ quan tâm đến các thể loại tương đối
đồng đều hơn, nhóm sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ quan tâm thấp nhất.
Xét trên chỉ báo giới tính cho thấy, tỉ lệ nam sinh viên quan tâm đến hai
chỉ báo có tỉ lệ quan tâm cao nhất là thể loại Phóng sự điều tra và Tin có sự
tương đồng với nhóm nữ. Cụ thể, tỉ lệ quan tâm của nam sinh viên với thể loại
Tin là 85.1%, với nhóm sinh viên nữ là 82.4%. Với thể loại Phóng sự điều tra
nhóm nam là 87.7%, trong khi đó nhóm nữ là 88.9%.
Trong từng nhóm sinh viên tỉ lệ quan tâm giữa nam và nữ cũng có
sự khác biệt. Sinh viên nam năm thứ năm có 92.9% quan tâm đến thể loại
Phóng sự điều tra trong khi đó nhóm nữ là 91.7%. Với thể loại Tin sinh viên
nam có sự quan tâm là 85.7%, sinh viên nữ là 94.4%. Nói chung, tỉ lệ quan tâm
của hai nhóm này là rất cao và sự chênh lệch là không lớn. Đối với sinh viên
năm thứ ba nhóm nam sinh quan tâm đến Phóng sự điều tra là 92%, nhóm nữ là
96%. Thể loại Tin nhóm nam cũng như nhóm nữ có sự quan tâm là 88%. Sinh
viên nam năm thứ nhất quan tâm đến thể loại Phóng sự điều tra là 78.8%, nhóm
nữ là 66.7%, với thể loại Tin nhóm nam là 80%, trong khi đó nhóm nữ là 50%.
Các chỉ báo còn lại cả nhóm nam và nhóm nữ đều có tỉ lệ quan tâm thấp dưới
50%. Như vậy, đối với sinh viên năm thứ nhất nhóm nam sinh viên có tỉ lệ quan
tâm đến các thể loại báo chí cao hơn nhóm sinh viên nữ.
Đối với những người làm báo nói chung và sinh viên báo chí nói
riêng việc nắm chắc lí luận về thể loại báo chí là một yêu cầu quan trọng. Lí
luận thể loại sẽ là công cụ giúp cho họ biết sử dụng những tư liệu cần thiết, vừa
và đủ để xây dựng một tác phẩm báo chí. Mặt khác khi một tác phẩm báo chí
được thực hiện đúng theo yêu cầu về nội dung và hình thức thể loại sẽ làm tăng
thêm tính hấp dẫn đối với công chúng. Vì vậy, khả năng tác động của tác phẩm
107
sẽ cao hơn [11]. Theo tác giả Đinh Hường trong bài : Một số vấn đề về thể loại
báo chí, trong tập : Báo chí - những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nhà xuất bản
Đại học quốc gia Hà Nội, 1998 cho rằng: khi xây dựng tác phẩm báo chí, nếu
người viết thực hiện tốt các yêu cầu về thể loại sẽ “ giúp cho người biên tập và
ban biên tập nhận diện đứng thể loại, tổ chức trang báo, chương trình phát
thanh, truyền hình một cách khoa học”.
Trong thực tế, thời gian học lí thuyết về các thể loại báo chí trong
các nhà trường của sinh viên là có hạn. Mặt khác, giữa lí thuyết trong nhà
trường và thực tế hoạt động báo chí còn có khoảng cách nhất định. Chính vì
vậy, việc sinh viên báo chí tiếp cận các thể loại báo chí trên báo chí là hết sức
cần thiết, nó vừa làm tăng thêm khả năng nhận thức thực tế của mỗi cá nhân
sinh viên vừa làm hoàn thiện thêm hệ thống các thể loại báo chí.
2.3.3. Nhu cầu và mức độ trao đổi thông tin của sinh viên báo chí.
Cho tới nay chưa có một định nghĩa chung nhất cho khái niệm nhu cầu.
Các sách giáo khoa chuyên nghành hay các công trình nghiên cứu khoa học
thường có những định nghĩa mang tính riêng biệt.Theo định nghĩa của từ điển
Bách khoa toàn thư Wikipedia nhu cầu là: tính chất của cơ thể sống, biểu hiện
trạng thái thiếu hụt của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường
sống. Nhu cầu tối thiểu nhất, hay còn gọi là nhu yếu tuyệt đối, đã được lập trình
qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát triển và tiến hóa.
Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách
thì khả năng chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu
cầu đồng nghĩa với việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này,
nhận thức có sự chi phối nhất định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự
thoả mãn nhu cầu).
108
Nhu cầu thông tin là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người
về thông tin giao tiếp để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi
trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có mức độ về nhu cầu
thông tin khác nhau.
Tiếp nhận thông tin là một quá trình quan trọng trong quy trình hoạt
động của truyền thông đại chúng. Có thể nói hành vi tiếp nhận thông tin từ các
phương tiện truyền thông đại chúng là yếu tố đầu tiên trong cả qua trình kể từ
khi thông điệp được truyền đi cũng như quá trình công chúng tiếp nhận, xử lí để
định hướng cho hành vi hoạt động của mình. Nói cách khác đay là quá trình
quan trọng đầu tiên diễn ra trong quá trình giao tiếp đại chúng.
Nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng còn phản ánh sự quan tâm
của công chúng dành cho các phương tiện truyền thông đại chúng. Trên cơ sở
đó có thể đánh giá được lượng thông tin mà cá nhân thu được từ các phương
tiện truyền thông đại chúng.
Nhu cầu thông tin là yếu tố đầu tiên cơ bản của quá trình thông tin,
nếu không có nhu cầu thông tin thì sẽ không làm xuất hiện qua trình thông tin,
kể cả đối với thông tin cá nhân và thông tin đại chúng. Có thể nói, nhu cầu được
tiếp nhận và trao đổi thông tin vừa là phương thức tồn tại của con người vừa là
yếu tố để đánh giá mức độ tiếp nhận và khả năng xử lí thông tin được tiếp nhận
của mỗi cá nhân.
Đối với sinh viên nói chung, và sinh viên báo chí nói riêng hầu hết
họ đang sống trong các kí túc xá và các nhà trọ tập thể. Cuộc sống xa gia đình,
người thân có thể nói đây là điều kiện tốt nhất để trao đổi thông tin mọi mặt
trong đó có những thông tin tiếp nhận được từ báo chí.
Kết quả khảo sát cho thấy 88.5% số sinh viên báo chí của Trường
Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1 sống trong kí túc xá và các nhà trọ tập
109
thể, trong tổng số đó, năm thứ nhất chiếm 21.5%, năm thứ ba chiếm 44.7%,
năm thứ năm là 22.2%.
Trao đổi thông tin được coi là một trong những hình thức để xử lí thông
tin tiếp nhận được của mỗi cá nhân, mỗi nhóm công chúng. Xử lý thông tin là
khâu quan trọng của một quá trình truyền thông. Nó được thể hiện ở hai khía
cạnh, một mặt là sự hướng dẫn, kiểm soát, định hướng trong hoạt động cung cấp
thông tin cho đối tượng và mặt khác là sự chia xẻ trao đổi thông tin giữa các đối
tượng tiếp nhận trong hoạt động sống thường ngày. Như đã đề cập, truyền
thông đại chúng có đặc điểm là các tin tức từ hệ thống này được truyền thông
đại chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và gián tiếp. Vì vậy khía cạnh hướng
dẫn, kiểm soát, định hướng của nó chủ yếu được ẩn chứa trong thông điệp
truyền thông, do đó vấn đề xử lý thông tin trong truyền thông đại chúng nổi rõ
hơn ở khía cạnh thứ hai. Các nhà xã hội học trên thế giới thường gọi đây là khâu
giải mã và xem nó là rất căn bản khi đo lường một hiệu quả truyền thông. Để
phần nào tìm hiểu về khía cạnh này, đề tài khảo sát 5 loại kênh giao tiếp xã hội
thường gặp qua câu hỏi: " Bạn thường nói chuyện với ai về các thông tin trên
báo, đài phát thanh, truyền hình … mà bạn tiếp nhận được”?
Sở dĩ người ta coi việc xử lý thông tin là một khâu quan trọng của quá
trình truyền thông vì lẽ khi qua giai đoạn này thì thông tin được cải tạo, ăn sâu
vào nhận thức và hình thành quan điểm, thái độ riêng của cá nhân và nhóm tiếp
nhận thông tin. Các nghiên cứu về truyền thông trên thế giới hiện nay cũng chỉ
ra rằng các kênh xử lý thông tin có ý nghĩa và hiệu quả nhất chính là các nhóm
nhỏ có nhiều điểm tương đồng với nhau, chẳng hạn như bạn bè, đồng nghiệp,
gia đình …
Bảng 9 - Mức độ trao đổi về các thông tin của truyền thông đại chúng
110
năm
năm
thứ
năm
thứ năm
ba
thứ nhất
Kênh trao đổi
N
t
N
t
t
ỉ lệ%
ỉ lệ% N
ỉ lệ%
Với bạn học 7 6 4 1 5
5 0 22 4.2 8 8.8
3 1 Với thầy cô giáo 9 7 2
.2 5.1 4 1.3 4
2 1 3 1 1 Người thân trong gia
đình 1 6.8 2 4.2 8 1.3
Với các nhà báo 4 3 8 3 6
.2 .6 0 .3
Người khác 1 1 2 1 1
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
6 2.8 9 2.9 0 2.5
Kết quả khảo sát công chúng sinh viên báo chí cho thấy những
kênh xử lý thông tin được sử dụng nhiều nhất là trao đổi với bạn học 60%,
những kênh còn lại có mức độ sử dụng là tương đối thấp đều đạt dưới 22%.
111
Đây là những mối quan hệ gần gũi nhất, có quan hệ tương tác chi
phối nhiều nhất đối với mỗi cá nhân trong đời sống cộng đồng. Kết quả khảo sát
cũng cho thấy đối với công chúng sinh viên báo chí ưu tiên hàng đầu trong việc
trao đổi thông tin là kênh bạn bè, tiếp theo mới là các quan hệ trao đổi thông tin
với các thày cô giáo, các nhà báo và người thân trong gia đình…Đối với kênh
trao đổi là người thân trong gia đình, do sinh viên hầu hết sống xa nhà nên tỉ lệ
sử dụng thấp là điều dễ hiểu. Đối với những kênh khác tỉ lệ sử dụng cũng rất
thấp là điều đáng ngạc nhiên.
Trong 3 nhóm công chúng sinh viên được khảo sát về mức độ trao
thông tin, ở kênh với bạn bè, nhóm sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ cao nhất là
60%. Tuy nhiên tỉ lệ các nhóm còn lại thì việc trao đổi thông tin trong bạn bè
cũng có những tỉ lệ không thấp lắm. Cụ thể, như nhóm sinh viên năm thứ ba là
54.3%; sinh viên năm thứ năm là 48.8%. Nhìn chung việc trao đổi thông tin đối
với các nhà của các đối tượng công sinh viên niên là rất thấp. Mức độ sử dụng
kênh này của sinh viên năm thứ nhất chỉ đạt 3.2%, sinh viên năm thứ ba là
3.6%, còn sinh viên năm thứ năm là 6.3%.
Sự trao đổi thông tin trong quan hệ với các thày cô giáo không có
sự chênh lệch lớn giữa các nhóm đối tượng. Ở mức độ cao nhất là nhóm sinh
viên năm thứ năm có tỉ lệ sử dụng là 21.3%, tiếp theo là nhóm sinh viên năm
thứ ba là 15.1% Ở nhóm còn lại tỷ lệ rất thấp là sinh viên năm thứ nhất 7.2%.
Trong quan hệ gia đình, việc trao đổi thông tin nhiều nhất thuộc nhóm sinh viên
năm thứ nhất 16.8%, tiếp theo là nhóm sinh viên năm thứ ba là 14.2%, ở mức
thấp nhất là sinh viên năm thứ năm 11.3 %.
Xét trên chỉ báo giới tính trong từng nhóm sinh viên cho thấy: nam
sinh viên năm thứ năm có mức độ sử dụng kênh trao đổi với bạn học là 43.2%,
trong khi đó nhóm nữ là 50.4%, với các thầy cô giáo nhóm nam là 27%, nữ là
19.5%. với người thân trong gia đình nhóm nam là 5.4%, nhóm nữ là 13%. Việc
112
trao đổi thông tin với các nhà báo nhóm nam là 10.8%, nhóm nữ là 4.9%. Trao
đổi thông tin vói những người khác nhóm nam là 13.5%, nhóm nữ là 12.2%.
Như vậy so sánh trên 5 chỉ báo cho thấy nhóm nam sinh năm thứ năm có 4/5 chỉ
báo có tỉ lệ cao hơn nhóm nữ sinh năm thứ năm trong việc trao đổi những thông
tin tiếp nhận được từ báo chí.
Đối với sinh viên năm thứ ba nhóm nam có mức độ sử dụng kênh
trao đổi với bạn học là 49.6%, nhóm nữ là 59.8%. Với các thày cô giáo là nhóm
nam là 17.1%, nhóm nứ là 12.7%, với người thân trong gia đình nhóm nam là
13.8%, nữ là 14.7%. Với các nhà báo nhóm nam là 4.9%, nhóm nữ là 1.9%, vói
người khác nam là 14.6%, nữ là 10.8%. Tương tự như sinh viên năm thứ năm,
nhóm nam sinh viên năm thứ ba cũng có 4/5 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn nhòm nữ.
Sinh viên năm thứ nhất, nhóm nam có mức độ sử dụng kênh trao
đổi với bạn học là 62.6%, nữ là 56.8%, với các thày cô giáo nhóm nam là 7.4%,
nữ là 6.8%. Với người thân trong gia đình nhóm nam là 13.4%, nữ là 20.6%.
với các nhà báo nhóm nam là 1.4%, nhóm nữ là 5.1%. Với người khác nam là
17.9%, nữ là 10.3%. Như vậy nhóm nam sinh viên năm thứ nhất có 3/5 chỉ báo
có tỉ lệ cao hơn hóm nữ. Xét một cách tổng thể, đối với cả ba nhóm sinh viên thì
tỉ lệ sinh viên nam có tỉ lệ quan tâm đến các kênh trao đổi thông tin cao hơn nữ.
Việc gửi thư đến toà soạn những tờ báo có liên quan đến nghành
báo để trao đổi những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ báo chí cũng là một
trong những chỉ báo quan trọng để đánh giá mức độ trao đổi và xử lí thông tin
của công chúng sinh viên báo chí.
Bốn mức độ là: thường xuyên, thỉnh thoảng, ít khi, và không nhớ,
được sử dụng để khảo sát.
113
Bảng 10 – Mức độ gửi thư đến toà soạn những tờ báo có liên
quan đến nghành báo để trao đổi những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ
báo chí
N
Không
Thường
Thỉnh
Ít khi
hóm
xuyên
thoảng
nhớ
sinh viên
N
%
N
%
N
%
N
%
N 6 6 1 1 4 4 3 3
ăm thứ .3 3 3.5 6 7.9 1 2.3
nhất
2 4 2 N 6 3 4 9 5
ăm thứ 5 3.0 3 7.5 2 6.6 .1
ba
N 4 4 3 3 3 3 2 2
ăm thứ .3 5 7.2 5 7.2 0 1.3
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
năm
Kết quả khảo sát cho thấy việc thường xuyên gửi thư đến toà soạn những
tờ báo có liên quan đến ngành báo để trao thông thông tin có liên quan đến báo
chí là rất thấp.Cụ thể, nhóm sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ cao nhất cũng chỉ là
6.3%, năm thứ năm là 4.3%, còn năm thứ ba thấp nhất là 3.1%. Ở mức độ thỉnh
thoảng, sinh viên năm thứ nhất cũng có tỉ lệ cao nhất đạt 13.5%, năm thứ ba là
114
23%, nâm thứ năm là 37.2%. Như vậy, ở cả hai chỉ báo quan trọng là thường
xuyên và thỉnh thoảng nhóm sinh viên năm thứ nhất đều đạt tỉ lệ cao nhất, tiếp
đó là sinh viên năm thứ năm, và thấp nhất là nhóm sinh viên năm thứ ba. Ở mức
độ ít khi gửi thư nhóm sinh viên năm thứ nhất và năm thứ ba có sự tương đồng,
năm thứ nhất là 47.9%, năm thứ ba là 47.5%, thấp nhất là nhóm sinh viên năm
thứ năm là 37.2%. Đánh giá chung là nhóm sinh viên năm thứ nhất có mức độ
gửi thư đến các toà soạn những tờ báo có liên quan đến ngành báo để trao đổi
thông tin có tỉ lệ cao nhất, tiếp đó là nhóm sinh viên năm thứ năm, thấp nhất là
nhóm sinh viên năm thứ ba.
Theo chỉ báo giới tính, nhóm nam sinh viên nam sinh viên năm thứ năm
chỉ có 4% số người thường xuyên gửi thư đến các toà soạn những từ báo có liên
quan đến ngành báo và số nữ cũng chỉ là 4.2%, ở mức độ thỉnh thoảng nhóm
nam đạt 36%, trong khi đó nhóm nữ đạt 36,6%, mức độ ít khi nhóm nam là
44%, nhóm nữ là 33.8%. Từ ba chỉ báo trên cho thấy nhóm nữ có 2/3 chỉ báo có
tỉ lệ cao hơn nhóm nam. Với sinh viên năm thứ ba ở mức độ thường xuyên
nhóm nam là 5.3%, nữ là 1.5%, mức độ thỉnh thoảng nhóm nam là 25.3%,
nhóm nữ là 19.8%, ở mức độ ít khi, nhóm nam là 48%, nhóm nữ là 51.1%.Cũng
như đối với năm thứ năm sinh viên nam năm thứ ba cũng có 2/3 chỉ báo có tỉ lệ
cao hơn nhóm nữ. Sinh viên nam năm thứ nhất có mức độ thường xuyên gửi thư
trao đổi thông tin tới các toà soạn là 13.9%, nhóm nữ năm thứ nhất không có
trường hợp nào, ở mức độ thỉnh thoảng nhóm nam là 11.6%, thấp hơn nữ là
18.6%, ở chỉ báo ít khi nhóm nam là 46.5%, nhóm nữ là 60.4%. Như vậy, với
sinh viên năm thứ nhất nhóm nữ có 2/3 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn nhóm sinh viên
nam.
115
116
CHƯƠNG III
NHẬN DIỆN MỘT SỐ KÊNH TRUYÊN THÔNG ĐẠI CHÚNG
LIÊN QUAN ĐẾN NGHỀ BÁO VÀ VIỆC SỬ DỤNG THÔNG ĐIỆP TỪ
BÁO CHÍ CỦA CÔNG CHÚNG SINH VIÊN BÁO CHÍ.
3.1. Nhận diện một số kênh truyền thông đại chúng
Khảo sát về mức độ nhận diện các dấu hiệu đặc trưng của các tờ
báo trong công chúng truyền thông được coi là chỉ báo quan trọng cho thấy sự
nhận diện của công chúng truyền thông về các chủ đề cơ bản thể hiện trong
thông điệp. Sự đo lường này cũng nhằm kiểm chứng mức độ tiếp nhận thông tin
trên tờ báo đó.
Mức độ tiếp cận với những tờ báo và những trang web có liên quan
đến nghề báo là một trong những chỉ báo quan trọng để công chúng báo chí
nhận diện đấu hiệu đặc trưng của những tờ báo. Chúng tôi đưa ra 4 tờ báo và
trang web có lên quan đến ngề báo để khảo sát mức độ quan tâm của công
chúng sinh viên báo chí.( xem bảng 11)
Bảng 11 - Mức độ quan tâm đến các tờ báo trang web có liên
Thườn
Thỉnh
Ít khi
K
quan đến nghề báo
g xuyên
thoảng
hông
Tên báo, trang
N
%
%
%
Báo Nhà báo &
web
Tạp chí Người
6 1 4 2
9 2 4 1
117
Tạp chí Nghề báo
làm báo 0 5.7 71 8.9 5 8.6 4 .8
1 3 4 1
Trangweb
09 2.0 62 7.6 0 1.7 9 .5
1 4 3 9
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
nghebao.com 75 8.7 30 6.2 4 .4 0 .5
Từ kết quả khảo sát cho thấy mức độ quan tâm của công chúng
sinh viên báo chí đến các tờ báo trang web có liên quan đến nghề báo là tương
đối cao. Ở mức độ theo dõi thường xuyên tờ báo được quan tâm nhiều nhất là
trang web nghebao.com đạt 48.7%, sau đó lần lượt là tạp chí Nghề báo 32%, tạp
chí Người làm báo 25.7% và thấp nhất là báo nhà báo và công luận chỉ đạt 18%.
Ở mức độ thỉnh thoảng mức độ quan tâm của công chúng sinh viên báo chí đến
các tờ báo và trang web trên đồng đều hơn, trong đó tạp chí Người làm báo có tỉ
lệ cao nhất là 48.9%, thứ đến là tạp chí Nghề báo là 47,6%, báo Nhà báo &
Công luận đạt 44.5%, và thấp nhất là trang web Nghebao.com chỉ đạt 36.2%.
Đối với chỉ báo ít khi tiếp cận báo Nhà báo & Công luận có tỉ lệ ít khi đọc cao
nhất chiếm 26.5%, tiếp đó là tạp chí Người làm báo 18.6%, tạp chí Nghề báo là
11.7%, trang web nghebao.com có tỉ lệ ít tiếp cận thấp nhất là 9.4%. Báo nhà
báo & Công luận có tỉ lệ sinh viên hoàn toàn không tiếp cận nhiều nhất là 11%,
trang web nghebao.com có tỉ lệ không tiếp cận ít nhất chỉ là 5.5%. Như vậy,
trang web nghebao.com có tỉ lệ theo dõi thường xuyên cao nhất, tỉ lệ ít khi quan
tâm thấp nhất, tỉ lệ sinh viên hoàn toàn không quan tâm thấp nhất.
Tương quan trong từng nhóm sinh viên, tỉ lệ giữa nam và nữ cũng
có sự khác biệt. Cụ thể, nhóm sinh viên nam năm thứ năm có mức độ quan tâm
118
thường xuyên đến báo Nhà báo & Công luận là 23.8%, trong khi đó nhóm nữ
chỉ là 13.5%, ở mức độ thỉnh thoảng quan tâm nhóm nam có tỉ lệ là 57.1%, còn
nhóm nữ là 46.2%. Nhóm nam tỉ lệ ít khi quan tâm đến tờ báo này chỉ là 9.5%,
còn nhóm nữ là 36.5%. Như vậy đối với sinh viên năm thứ năm nhóm nam có tỉ
lệ quan tâm đến tờ báo này cao hơn nhóm nữ. Với tạp chí Người làm báo nhóm
nam thường xuyên quan tâm là 35%, trong khi đó nhóm nữ là 38%, ở mức độ
thỉnh thoảng tiếp cận nhóm nam là 50%, nhóm nữ là 47%...Có thể nói rằng đối
với tờ báo này tỉ lệ quan tâm giữa nam và nữ là tương đối đồng đều. Với tạp chí
Nghề báo thì ở cả hai chỉ báo nhóm nữ đều có tỉ lệ cao hơn nhóm nam. Cụ thể ở
mức độ thường xuyên nhóm nam là 42.9%, trong khi đó nhóm nữ đạt 52.6%.
Mức độ thỉnh thoảng tiếp cận nhóm nam là 52,4%, nhóm nữ là 76.3%. Như
vậy, nhóm nữ ở cả hai mức độ đều có tỉ lệ cao hơn nhóm nam. Trang web
nghebao.com tỉ lệ nam sinh viên có mức độ quan tâm thường xuyên là 83.3%
cách biệt vói nhóm nữ là 55.7%. Đối với sinh viên năm thứ ba ở cả 4 tờ báo và
trang web ở mức độ quam tâm thường xuyên nhóm nam đều có các tỉ lệ cao hơn
nhóm nữ. Cụ thể, với tờ Nhà báo & Công luận nhóm nam là 17.9%, nhóm nữ là
7.7%, tạp chí Người làm báo nhóm nam có tỉ lệ là 29.8%, nhóm nữ là 14.8%.
tạp chí Nghề báo nhóm nam là 37.1%, nhóm nữ là 26.6%, trang web
nghebao.com nhóm nam là 62.1%, nhóm nữ là 48.5%. Nhóm sinh viên nữ năm
thứ nhất có ở mức độ quan tâm thường xuyên có tới 3/4 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn
nhóm nam. Cụ thể, với tờ Nhà báo & Công luận nhóm nữ là 37.7% trong khi đó
nhóm nam chỉ đạt 21.3%, với tập chí Người làm báo nhóm nữ là 26.8%, nhóm
nam 23,5%, tạp chí Nghề báo nhóm nữ là 33.3%, nhóm nam là 29.6%. Riêng
với trang web nghebao.com, nhóm nam có tỉ lệ quan tâm là 26.3% cao hơn
nhóm nữ là 22.8%. Nói chung với sinh viên năm thứ nhất tỉ lệ quan tâm đến các
tờ báo, trang web có liên quan đến nghề báo là tương đối đồng đều.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi đưa ra 2 tờ
báo và 1 trang web có nội dung liên quan đến nghề báo để khảo sát, đó là tạp
chí Người làm báo, báo Nhà báo & Công luận và trang web nghebao.com
119
3.1.1. Tạp chí Người làm báo
Đây là tờ báo được xuất bản theo dấu hiêu nghề nghiệp, là tạp chí lí
luận của Trung ương Hội nhà báo Việt Nam. Theo chúng tôi sinh viên báo chí là
một trong những nhóm công chúng đặc thù của tạp chí này. Năm dấu hiệu được
đưa ra khảo sát là:
1. Là tạp chí lí luận của Trung ương Hội nhà báo Việt Nam. Bảo vệ
quyền lợi của các nhà báo Việt Nam.
2. Phản ánh chân dung và kỷ niệm của những người làm báo.
3. Phản ánh hoạt động của báo chí trong nước và báo chí nước ngoài.
4. Là nơi để trao đổi những vấn đề nghiệp vụ của người làm báo và
những người quan tâm đến nghiệp vụ báo chí.
5. Chuyên mục “nhặt sạn trên mặt báo” chỉ ra những lỗi của tác phẩm
trên tất cả các loại hình báo chí.
Kết quả khảo sát cho thấy mức độ quâm tâm của công chúng sinh
viên báo chí tới các dấu hiệu được đưa ra không có sự tương đồng. Dấu hiệu 4
có mức độ nhận biết cao nhất là 63%, tiếp đến là dấu hiệu 1 đạt 33%, dấu hiệu 2
là 31%, dấu hiệu 4 là 25.7%, và dấu hiệu 3 là 19.8%.
Đối với các nhóm công chúng sinh viên kết quả nhận biêt tạp chí Người
làm báo cũng có sự khác biệt. Mặc dù các tỉ lệ nhận biết các dấu hiệu không cao
nhưng cũng không có dấu hiệu nào bị triệt để phủ nhận.
Bảng 12 - Dấu hiệu nhận biết tạp chí Người làm báo theo các nhóm
sinh viên
120
Năm thứ nhất
Năm thứ ba
Năm thứ năm
Dấ
N
%
N
%
N
%
u hiệu
nhận
biết
15. 42 26.1 Dấ 20. 53 3
1 u hiệu 1 7 8
19. 69 19. 21 13.0 Dấ 3
7 u hiệu 2 4 1
18 3 33 9.4 14 8.7 Dấ
u hiệu 3 2
30. 12 36. 64 42.2 Dấ 5
8 u hiệu 4 5 9 9
11. 67 19. 16 9.9 Dấ 2
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
1 u hiệu 5 0 2
Đối với nhóm sinh viên năm thứ nhất, dấu hiệu 4 có tỉ lệ nhận biết cao
nhất là 30.9%, dấu hiệu 1là 20.8%, dấu hiệu 2 là 19.1%, dấu hiệu 3 là 18%, thấp
nhất là dấu hiệu 5 chí đạt 11.2%.Nhóm sinh viên nă thứ ba tỉ lệ nhận biết cao
121
nhất cũng thuộc về dấu hiệu 4là 36.8%, tiếp đến là dấu hiệu 2 đạt 19.7%, dấu
hiệu 5 là 19.1%, đấu hiệu1 là 15.1%, thấp nhất là dấu hiệu 3 chỉ đạt 9.4%.
Nhóm sinh viên năm thứ năm cũng tương tự như năm thứ nhất và năm thứ ba, tỉ
lệ nhận biết cao nhất thuộc về dấu hiệu 4 là 42.2%, tiếp đến là dấu hiệu 1là
26.1%, dấu hiệu 2 là 13%, dấu hiệu 5 là 99%, thấp nhất là dấu hiệu 3 chỉ đạt
8.7%. Đánh giá chung cho thấy cả ba nhóm sinh viên đều có tỉ lệ nhận biết cao
nhất thuộc về dấu hiệu 4. tỉ lệ nhận biết thấp nhất của sinh viên năm thứ ba và
năm thứ năm thuộc về dấu hiệu 3.
Ở chỉ báo giới tính việc nhận biết các dấu hiệu của tạp chí Người làn báo
có tỉ lệ không cao nhưng cũng không có sự chênh lệch lớn. Cụ thể, đối với
nhóm sinh viên nam năm thứ nhất tỉ lệ nhận biết dấu hiệu 1 là 17.3%, nhóm nữ
là 22.9%. dấu hiệu 2 nhóm nam là 13%, nhóm nữ cũng là 22,9%, ở dấu hiệu 3
nhóm nam là 9%, nhóm nữ là 21.1%. Dấu hiệu 4 là dấu hiệu có tỉ lệ nhận biết
cao nhất nhóm nam đạt 42%, trong khi đó nhóm nữ chỉ đạt 23.8%. ở dấu hiệu 5
nhóm nam là 14.4%, nhóm nữ là 9.1%. Như vậy, nhóm viên nữ năm thứ nhất có
3/5 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn nhóm nam. Nhóm sinh viên nam thứ ba có tỉ lệ nhận
biết dấu hiệu 1 là 20.8%, trong khi đó nhóm nữ năm thứ ba là 10.1%, dấu hiệu 2
nhóm nam là 2.4%, nhó nữ là 17.4%, dấu hiệu 3 nhóm nam là 9.7%, nữ là 8.7%.
Dấu hiệu 4 là dấu hiệu nhóm nam có tỉ lệ nhận biết cao nhất đạt 28.6%, thấp
hơn nhóm nữ có tỉ lệ là 41%. Nhóm sinh viên nam năm thứ ba có 3/5 chí báo có
tỉ lệ cao hơn nhóm nữ. Đối với sinh viên năm thứ năm nhóm nam có tỉ lệ nhận
biết dấu hiệu 1 là 35.1%, nhóm nữ là 23.4%, dấu hiệu 2 nhóm nam là 10.8%,
nhóm nữ là 13.7%, dấu hiệu 3 nhóm nam là 8.1%, còn nữ là 8.9%, dấu hiệu 4
nhóm nam là 35.1%n nhóm nữ là 44.4%, ở dấu hiệu 5 nhóm nam là 10.8%,
nhóm nữ là 9.7%. Như vậy nhóm nữ năm thứ năm có 3/5 chỉ báo có tỉ lệ nhận
biết cao hơn nhóm nam.
3.1.2 Báo Nhà báo & Công luận
122
Báo Nhà báo & Công luận là cơ quan ngôn luận của Trung ương
Hội nhà báo Việt Nam. Nhóm công chúng sinh viên báo chí cũng được coi là
nhóm công chúng đặc thù của tờ báo này.
Có 5 dấu hiệu cơ bản của báo Nhà báo và Công luận được đưa ra khảo
sát là:
1. Là cơ quan ngôn luận của Trung ương hội nhà báo Việt
Nam. Bảo vệ quyền lợi của các nhà báo Việt Nam
2. Giúp bạn hình thành lý tưởng, quan niệm về nghề báo, nhà
báo
3. Phản ánh hoạt động của các nhà báo và các cơ quan báo chí
4. Nêu những gương sáng của các nhà báo, các cơ quan báo chí
trong hoạt động truyền thông đại chúng
5. Giới thiệu các tác giả, tác phẩm báo chí được giải trong các
cuộc thi trong nước và quốc tế.
Bảng 13 - Dấu hiệu nhận biết báo Nhà báo & Công luận theo các
Năm thứ nhất
Năm thứ ba
Năm thứ năm
nhóm sinh viên
Dấ
N
%
N
%
u hiệu
N
%
nhận biết
123
Dấ 5 32. 8 29. 5 34.
u hiệu 1 7 6 4 6 7 8
Dấ 3 18. 7 25. 3 18.
u hiệu 2 3 9 1 0 0 3
Dấ 3 17. 5 19. 3 19.
u hiệu 3 0 1 5 4 2 5
Dấ 3 18. 4 14. 3 18.
u hiệu 4 3 9 2 8 1 9
Dấ 2 12. 3 11. 1 8.5
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
u hiệu 5 2 6 2 3 4
Kết quả khảo sát cho thấy dấu hiệu 1 để nhận biết tờ báo này có tỉ lệ cao
nhất là là 49.5%, dấu hiệu 2 là 33.5%, dấu hiệu 3 là 29.3%, dấu hiệu 4 là 26.5%,
dấu hiệu 5 có tỉ lệ nhận biết thấp nhất là 17%.
Giữa các nhóm đối tượng kết quả nhận biết các dấu hiệu của báo Nhà báo
& Công luận có sự khác biệt khá rõ. Nhìn chung các nhóm sinh viên có tỉ lệ
nhận biết các dấu hiệu của tờ báo này khá thấp, không có chỉ báo nào có tỉ lệ
nhận biết đạt 40%. Cụ thể, nhóm sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ nhận biết dấu
hiệu 1 là 32.6%, nhóm sinh viên năm thứ ba là 29.6%, cao nhất là nhóm sinh
viên năm thứ năm là 34.8%. dấu hiệu 2 nhóm sinh viên năm thứ nhất là 18.9%,
năm thứ ba cao nhất là 25%, năm thứ năm là 18.3%, dấu hiệu 3 nhóm sinh viên
124
năm thứ nhất là 17.1%, năm thứ ba là 19.4%, năm thứ năm là 19.5%, với dấu
hiệu 4 năm thứ nhất là 18.9%, năm thứ ba là 14.8%, năm thứ năm 18.9%, dấu
hiêu 5 là dấu hiệu được nhận biết thấp nhất của cả 3 nhóm, năm thứ nhất 12.6%,
năm thứ ba là 11.3%, năm thứ năm 8.5%.
Trên chỉ báo giới tính cho thấy, sinh viên năm thứ nhất tỉ lệ nhận biết các
dấu hiệu của tờ Nhà báo & Công luận có sự chênh lệch không đáng kể. Dấu
hiệu 1 có tỉ lệ nhận biết cao nhất nhóm nam là 32.9%, nữ là 32.0%, dấu hiệu 2
nhóm nam là 18%, nữ là 19.7%, dấu hiệu 3 nhóm nam là 15.9%, nữ là 18.5%,
dấu hiệu 4 nhóm nam là 18%, nữ là 19.7%, dấu hiệu 5 cũng là dấu hiệu có tỉ lệ
tiếp nhận thấp nhất, nhóm nam là 14.8%, nhóm nữ là 9.8%. Nhóm sinh viên
nam năm thứ ba có tỉ lệ nhận biết với dấu hiệu 1 của tờ báo này là 31.6%, nữ là
27.8%, dấu hiệu 2 nhóm nam là 19.5%, nữ là 29.8%, dấu hiệu 3 nam cũng là
19.5%, nữ là 19.2%, dấu hiệu 4 nam là 13.5%, nữ là 15.9%, ở dấu hiệu 5, nam
là 15.8%, nữ chỉ là 7.2%. Đánh giá chung cho thấy cả ở nhóm nam và nhóm nữ
sinh viên năm thứ ba đều có tỉ lệ nhận biết cao nhất ở dấu hiệu 1. Nhóm sinh
viên nam có 3/5 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn nhóm nữ. Tỉ lệ nhận biết thấp nhất của
nhóm nam ở dấu hiệu 4 là 13.5%, trong khi đó tỉ lệ nhận biết thấp nhất của
nhóm nữ là ở dấu hiệu 5 chỉ đạt 7.2%. Đối với sinh viên năm thứ năm, tỉ lệ nhận
biết các dấu hiệu của báo Nhà báo và công luận giữa nhóm nam và nhóm nữ
không có tỉ lệ nào đạt tới 50%, tuy nhiên sự chênh lệch về tỉ lệ giữa các chỉ báo
là không lớn. Nhóm sinh viên nữ có 3/5 dấu hiệu có tỉ lệ nhận biết cao hơn
nhóm nam ở các dấu hiệu 3,4,5. Ở 2 chỉ báo còn lại nam có tỉ lệ nhận biết cao
hơn nhóm nữ. Cụ thể, ở dấu hiệu 1 nhóm nam là 42.9%, nhóm nữ là 32%. Dấu
hiệu 2 nhóm nam là 21.4%, nữ là 17.2%. Dấu hiệu 3 nhóm nam là 11.9%, trong
khi đó nhóm nữ là 22.1%. Dấu hiệu 4 nhóm nam là 16.7%, nhóm nữ là 19%. Ở
dấu hiệu 5 cũng là dấu hiệu thấp nhất của cả 2 nhóm, tỉ lệ nam là 7.1%, nữ là
9%.
3.1.3. Trang web nghebao.com
125
Có 6 dấu hiệu được đưa ra đề khảo sát đối vói công chúng sinh viên báo
chí đó là :
1. Là diễn đàn trao đổi các vấn đề về nghiệp vụ báo chí
2. Là nơi chia sẻ những tâm tư, tình cảm của những người làm
báo và của sinh viên báo chí
3. Phản ánh hoạt động báo chí các địa phương, báo chí Trung
ương và báo chí thế giới
4. Là nơi để bạn tìm kiếm những tư liệu về báo chí
5. Đăng tải những văn bản pháp quy của Nhà nước về báo chí
6. Là nơi bạn vừa có thể đọc báo, xem truyền hình, nghe radio...
Bảng 14 - Dấu hiệu nhận biết trang web nghebao.com theo các
Năm thứ nhất
Năm thứ ba
Năm thứ năm
nhóm sinh viên
Dấ
N
%
N
%
u hiệu
N
%
nhận biết
Dấ 4 21. 13 31. 7 34.
u hiệu 1 0 9 0 5 2 1
Dấ 4 23. 66 16. 2 13.
126
u hiệu 2 2 1 0 9 7
9.9 37 9.0 2 10. Dấ 1
u hiệu 3 8 1 0
Dấ 23. 10 25. 5 27. 4
u hiệu 4 2 1 7 7 0 9
2 10. 7.1 42 10. Dấ 1
u hiệu 5 3 3 9 2
Dấ 2 14. 31 7.5 9 4.3
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
u hiệu 6 7 8
Kết quả khảo sát cho thấy các dấu hiệu nhận biết vể trang web
nghebao.com có tỉ lệ khá cao, nhưng có sự cách biệt tương đối lớn về tỉ lệ giữa
các tỉ lệ. Ở dấu hiệu 1 có tỉ lệ nhận biết cao nhất đạt 60.5%, tiếp đến là dấu hiệu
4 đạt 51.%, dấu hiệu 2 là 34.2%, dấu hiệu 5 là 19.5%, dấu hiệu 3 là 19%, dấu
hiệu 6 có tỉ lệ nhận biết thấp nhất là 16.7%.
Giữa các nhóm sinh viên có sự khác biệt khá rõ trong việc nhận biết các
dấu hiệu của trang web này. Cụ thể, ở dấu hiệu 1 nhóm sinh viên năm thứ nhất
có tỉ lệ nhận biết là 21.9%, năm thứ ba là 31.5%, năm thứ năm cao nhất là
34.1%. Đây là tỉ lệ được cả ba nóm sinh viên nhận biết cao nhất. Dấu hiệu 2
được sinh viên năm thứ nhất nhận biết cao nhất là 23/1%, năm thứ ba là 16%,
năm thứ năm là 13.7%. Dấu hiệu 3 tỉ lệ nhận biết có sự tương đồng, năm thứ
127
nhất là 9.9%, năm thứ ba 9%, năm thưa năm 10%. Dấu hiệu 4 năm thứ nhất là
23.1%, năm thứ ba là 25.9%, cao nhất là năm thứ năm 27%. Dấu hiệu 5 là dấu
hiệu được nhận biết thấp nhất của sinh viên năm thứ nhất chỉ đạt 7.1%, năm thứ
ba là 10.%%, năm thứ năm là 10.9%. Dấu hiệu 6 năm thứ nhất là 14.8%, năm
thứ ba là 7.5%, năm thứ năm là 4.3%. Nhìn chung, tỉ lệ nhận biết các dấu hiệu
của trang web nghebao.com có tỉ lệ không cao, song đặc biệt dấu hiệu 5 của
năm thứ nhất và dấu hiệu 6 của năm thứ năm có tỉ lệ rất thấp dưới 10%.
Về chỉ báo giới tính, tỉ lệ nhận biết giữa các nhóm sinh viên cũng có sự
khác biệt. Cụ thể, với dấu hiệu 1 nhóm nam sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ nhận
biết là 24.7%, nhóm nữ là 17.3%. Dấu hiệu 2 nhóm nam là 18.5%, nữ là 30.4%.
Dấu hiệu 3 nam là 9.7%, nữ là 10.1%. Dấu hiệu 4 nam là 20.3%, nữ là 27.5%.
Dấu hiệu 5 nam là 7.9%, nữ là 5.7%. Dấu hiệu 6 nam là 18.5%, nữ là 8.6%.
tương quan về tỉ lệ nhận biết giữa nhóm nam và nhóm nữ năm thứ nhất cho
thấy, mỗi nhóm đều có 3 dấu hiệu được nhận biết với tỉ lệ cao hơn. Dấu hiệu 5
là dấu hiệu được nhận biết thấp nhất của 2 nhóm này chỉ đạt dưới 8%.
Sinh viên năm thứ ba nhóm nữ chỉ có 1/6 chỉ báo nhận biết có tỉ lệ cao
hơn nhóm nam, một chỉ báo có tỉ lệ tương đồng, các dấu hiệu cò lại đều có tỉ lệ
nhận biết thấp hơn nhóm sinh viên nam. Cụ thể, với dấu hiệu 1 nhóm nam có tỉ
lệ nhận biết cao nhất là 32.5%, nữ là 30.7%. Dấu hiệu 2 nam là 16.9%, nữ là
15.3%. Dấu hiệu 3 là dấu hiệu được nhận biết thấp nhất của nhóm nam là 9.9%,
nữ là 8.3%. Dấu hiệu 4 nam chỉ chiếm 13.9%, trong khi đó nữ đạt 34.4% và đây
cũng là dấu hiệu được nhận biết cao nhất của nhóm nữ. Dấu hiệu 5 nam là
19.1%, nữ là 3.7%. Đây là dấu hiệu được nhận biết thấp nhất của nhóm nữ. Ở
dấu hiệu 6 cả nhóm nam và nữ đều có tỉ lệ là 7.5%.
Nhóm sinh viên nam năm thứ năm ở dấu hiệu 1 có tỉ lệ nhận biết cao nhất
là 45.5%, nữ là 31.3%. Dấu hiệu 2 nam là 13.6%, nữ là 13.9%. Dấu hiệu 3 nam
là 18.2%, nữ là 7.8%. Dấu hiệu 4 nhóm nam chỉ đạt 6.8%, còn nhóm nữ là
128
32.5%. Dấu hiệu 5 nam là 15.9%, nữ là 9.6%. Dấu hiệu 6 là dấu hiệu được nhận
biết thấp nhất của cảc 2 nhóm, nam là 2.3%, nữ là 4.8%. Tương tự như năm thứ
nhất nhóm sinh viên nam năm thứ năm cũng có 3/6 dấu hiệu được nhận biết cao
hơn nhóm nữ. Dấu hiệu có tỉ lệ nhận biết cao nhất 45.5% thuộc về nhóm nam,
dấu hiệu có tỉ lệ nhận biết thấp nhất là 2.3% cũng thuộc về nhóm sinh viên nam.
Như vậy, sự nhận biết của công chúng sinh viên báo chí đối với những
dấu hiệu của hai tờ tạp chí Người làm báo, báo Nhà báo & Công luận và trang
web nghebao.com, là phù hợp với các nội dung thông điệp cơ bản của các tờ
báo đó đã truyền tải. Tuy nhiên, trong các nhóm công chúng sinh viên khác
nhau thì tỷ lệ nhận biết cũng có sự khác nhau nhất định. Tỷ lệ đó phụ thuộc vào
mức độ tiếp nhận thông tin trên các tờ báo đó. Những nhóm công chúng sinh
viên có tỷ lệ cao hơn về một số dấu hiệu, chủ yếu là do mức độ tiếp cận cao hơn
ở những nội dung và chủ đề của tờ báo. Rõ ràng về một khía cạnh nào đó độ lan
toả về dư luận xã hội của một tờ báo phụ thuộc cơ bản vào mức độ tiếp cận đối
với công chúng của tờ báo đó.
3.2. Vấn đề sử dụng thông điệp báo chí vào việc học tập và rèn luyện
của sinh viên báo chí.
Hiệu quả của truyền thông đại chúng trong đó có báo chí về cơ bản được
hiểu là: “ việc vận dụng các quy luật, các nguyên tắc, hình thức, phương pháp
hoạt động báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình
nhằm đạt mục đích” [31,170].
Có thể hiểu rằng, hiệu quả của truyền thông đại chúng là sự thay đổi
trong nhận thức, tình cảm cũng như hành vi của công chúng so với trạng thái
trước khi tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông. Hiệu quả truyền
thông cao thể hiện bằng việc công chúng luôn quan tâm theo dõi đến những vấn
đề được truyền tải, luôn nhận thức, xử lí được thông điệp và biến nó thành hành
động thực tiễn.
129
Việc đo lường tính hiệu quả của các nội dung thông điệp thực chất
là tìm hiểu một khía cạnh của yếu tố phản hồi thông tin truyền thông. Đo lường
và hiệu quả của nội dung thông điệp nói riêng và cả một quá trình truyền thông
nói chung là một trong những vấn đề phức tạp. Điều này xuất phát từ chỗ người
ta càng nhận thấy khả năng tác động to lớn của truyền thông đại chúng đối với
đời sống xã hội, mặt khác tính phức tạp của hướng nghiên cứu này lại phụ thuộc
bởi sự đa chức năng của truyền thông đại chúng trong thực tế. Nó liên quan đến
nhiều yếu tố tác động. Ngoài ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế - xã hội và
văn hóa cụ thể nó còn là sự tổng hoà của cơ chế truyền thông. Chẳng hạn như
yếu tố "nhiễu" thông tin, hay nói cách khác là sự sai lệch thông tin.
Những nghiên cứu hiệu quả của các phương tiện truyền thông đại
chúng phải dựa trên chức năng xã hội, điều hành và kiểm soát xã hội của hệ
thống này.Việc mở rộng khả năng tham gia của công chúng và hoạt động giao
tiếp đại chúng làm cho công chúng không chỉ đơn thuần là đối tượng tiếp nhận
các thông điệp được truyền tải, mà hệ thống này trở thành diễn đàn của quần
chúng nhân dân về các vấn đề phản ánh lợi ích, tạo nên mối quan tâm chung của
họ. Đây chính là điều kiện cơ bản để tạo nên các tương tác xã hội tích cực và ổn
định ở hoạt động truyền thông đại chúng. [56]
3.2.1. Mức độ tiếp nhận thông tin từ báo chí liên qua tới việc học tập và
rèn luyện của sinh viên báo chí
Để đánh giá mức độ tiếp nhận những thông tin có liên quan đến
việc học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí qua việc đọc báo, nghe radio,
xem truyền hình và truy cập internet, chúng tôi đưa ra 4 chỉ báo là:
1. Thường xuyên gặp 2. Thỉnh thoảng gặp
3. Hiếm khi gặp 4. Không gặp
Bảng 15 - Mức độ tiếp nhận những thông tin liên quan đến công việc
130
Năm thứ nhất
Năm thứ ba
Năm thứ năm
và học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí
Các
N
%
N
%
N
%
mức độ
Thườ 33. 78 31 45. 4 3
ng xuyên 4 0 5 5
gặp
4 Thỉnh 45. 10 55. 47. 4
thoảng gặp 7 6 8 4 7 5
Hiếm 16. 9 4.6 5 5.0 1
khi gặp 7 5
Khôn 5 4.8 0 0 2 2.0
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
g gặp
Kết quả điều tra cho thấy mức độ tiếp nhận với những thông tin liên quan
tới việc học tập và rèn luyện của công chúng sinh viên báo chí là tương đối cao.
Cụ thể, ở mức độ thường xuyên gặp là 39.2%, thỉnh thoảng gặp là có tỉ lệ cao
nhất là 50.5%, hiếm khi gặp 7.7%, và mức độ hoàn toàn không gặp là thấp nhất
chỉ chiếm 1.7%.
131
Xét theo các nhóm đối tượng cho thấy nhóm sinh viên năm thứ nhất tỉ lệ
thường xuyên gặp chiếm 33%, nhóm sinh viên năm thứ ba là 31%, nhóm sinh
viên năm thứ năm có mức độ thường xuyên gặp cao nhất là 45.5%. Trường hợp
thỉnh thoảng gặp ở cả ba nhóm sinh viên đều có tỉ lệ khá cao, nhất là sinh viên
năm thứ ba có tỉ lệ là 55.4%, tiếp đến là nhóm sinh viên năm thứ năm là 47.5%,
thấp nhất là nhóm sinh viên năm thứ nhất là 45.6%. Ở mức độ hiếm khi gặp
viên năm thứ nhất có tỉ lệ cao nhất là 16.5%, năm thứ năm là 5%, năm thứ
4.6%. Chỉ báo không gặp không có trường hợp nào ở nhóm sinh viên năm thứ
ba, năm thứ nhất là 4.8%, năm thứ năm là 2%.
Xét trên chỉ báo về giới tính, nhóm nam sinh năm thứ nhất có mức độ
thường xuyên gặp những thông tin liên quan tới việc học tập và rèn luyện là
37%, nhóm nữ là 28.5%, ở mức độ thỉnh thoảng gặp nhóm nam cũng là 37%,
còn nhóm nữ là 55.1%. hiếm khi gặp nhóm nam là 16.6%, nhóm nữ là 16.3%.
Đối với trường hợp không gặp nhóm nam là 9.2%, còn nhóm nữ không có
trường hợp nào. Nhóm nam năm thứ ba có tỉ lệ tiếp nhận ở mức độ thường
xuyên là 42%, nhóm nữ là 38.8%. Mức độ thỉnh thoảng gặp nhóm nam có tỉ lệ
là 47.2%, nhóm nữ là 60.4%, đây cũng là chỉ báo có tỉ lệ cao nhất của cả nhóm
nam và nữ, mức độ hiếm khi gặp nhóm nam là 10.8%, nhóm nữ chỉ là 0.8%.
Trường hợp không gặp cả nhóm nam và nữ đều không có trường hợp nào. Như
vậy, đối với sinh viên năm thứ ba nhóm nam có 2/3 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn
nhóm nữ.
Đối với sinh viên năm thứ năm, nhóm nam có tỉ lệ thường xuyên gặp là
42.3%, nhóm nữ là 46.6%, ở mức độ thỉnh thoảng gặp nhón nam là 53.8%,
nhóm nữ là 45.2%. Ở chỉ báo hiếm khi gặp nhóm nam không có trường hợp
nào, trong khi đó nhóm nữ là 6.8%. trường hợp không gặp nhóm nam là 3.8%,
nữ là 1.4%.
132
3.2.2 Ý nghĩa của những thông tin từ báo chí với việc học tập và rèn
luyện của sinh viên báo chí
Để có thể đánh giá một cách có căn cứ về vai trò và vị trí của các kênh
thông tin đại chúng đối với công chúng sinh viên báo chí, đề tài tìm hiểu sự nhìn
nhận về mức độ ý nghĩa của các nguồn thông tin nhận được từ nhiều kênh thông
tin khác nhau. Đây là một chỉ báo điển hình cho thấy hiệu quả của báo chí. Có 4
mức độ xem xét về ý nghĩa của thông tin từ cao đến thấp, đó là: rất có ý nghĩa,
có ý nghĩa vừa phải, ít có ý nghĩa và khó trả lời. Như vậy, ở cấp độ cuối là khó
có thể xem xét về việc đối tượng tiếp cận nguồn thông tin đó. Với những đối
tượng có thể tiếp cận nguồn thông tin có 3 mức độ đánh giá. Ở cấp độ thấp nhất
là ít có ý nghĩa mang tính chất âm tính khi khẳng định sự phủ nhận về vai trò
của nguồn thông tin đó. Ở cấp độ thư 2 là có ý nghĩa vừa phải, có tính chất
trung tính khi nhìn nhận rằng nguồn thông tin đó là tạm chấp nhận. Chỉ có ở cấp
độ thứ nhất, rất có ý nghĩa là hoàn toàn có tính chất dương tính khi khẳng định
vai trò của nguồn thông tin nhận được. Vì vậy, khi xem xét chúng tôi chủ yếu
chỉ là căn cứ vào mức độ đánh giá dương tính này.
Bảng 16 - Ý nghĩa của những thông tin tiếp nhận từ báo chí với việc
Năm thứ nhất
Năm thứ ba
Năm thứ năm
học tập
Các
N
%
N
%
N
%
mức độ
Rất 7 74. 11 68. 7 81.
có ý nghĩa 7 0 5 0 7 0
133
Tươn 1 17. 47 27. 1 14.
g đối có ý 8 3 8 4 7
nghĩa
Ít có 3 2.9 0 0 0 0
ý nghĩa
Khó 6 5.8 7 4.2 4 4.2
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
trảlời
Kết quả khảo sát cho thấy ở mức độ đánh giá ý nghĩa của những
thông tin tiiếp nhận được từ báo chí của sinh viên báo chí là tương đối cao. Cụ
thể, ở mức độ rất có ý nghĩa có tỉ lệ đánh giá cao nhất là 67,3%, tiếp theo là
mức độ tương đối có ý nghĩa là 29.8%, mức độ đánh giá ít có ý nghĩa có tỉ lệ
thấp nhất chỉ chiếm 2.9%. trường hợp khó trả lời cũng chỉ chiếm 4.2%.
Xét theo từng nhóm đối tượng, kết quả cho thấy nhóm sinh viên
năm thứ năm có tỉ lệ đánh giả rất có ý nghĩa cao nhất đạt 81%, nhóm sinh viên
năm thứ nhất là 74%, thấp nhất là nhóm sinh viên ănm thứ ba là 68%.
Đánh giá theo chỉ báo giới tính cũng cho những kết quả khác biệt.
Nhóm sinh viên nam năm thứ nhất có tỉ lệ đánh giá rất có ý nghĩa là 72.2%,
nhóm sinh viên nữ còn có tỉ lệ đánh giá cao hơn là 76%. Nhóm sinh viên nam
năm thứ ba đánh giá về những thông tin tiếp nhận được từ báo chí rất có ý nghĩa
đối với việc học tập là 78.9%, nhóm sinh viên nữ là 59.1%. Sinh viên nam năm
thứ năm 81.5% cho rằng những thông tin này rất có ý nghĩa, còn nhóm nữ có tỉ
134
lệ là 80.9%. Như vậy 2/3 nhóm sinh viên nữ có đánh giá cao hơn về ý nghĩa của
các thông tin tiếp nhận được từ báo chí so với sinh viên nam.
Việc thường xuyên sử dụng những thông tin tiếp nhận được từ báo
chí vào việc học tập cũng là một chỉ báo quan trọng để đánh giá hiệu quả của
những thông tin mà sinh viên báo chí tiếp nhận được. Chúng tôi đưa ra 4 chỉ báo
để khảo sát về vấn đề này là :
1. Thường xuyên sử dụng
2. Thỉnh thoảng sử dụng
3. Ít khi sử dụng
4. Không nhớ rõ
Bảng 17 - Mức độ sử dụng thông tin tiếp nhận từ báo chí với việc
Năm thứ nhất
Năm thứ ba
Năm thứ năm
học tập
Các
N
%
N
%
N
%
mức độ
Thườ 36. 11 56. 3 6 61.
ng xuyên sử 6 7 3 8 0 9
dụng
Thỉnh 51. 86 41. 34. 5 3
thoảng sử 0 0 7 3 0
135
dụng
Ít khi 8 8.2 1 0.5 3 3.0
sử dụng
Khôn 2 1.0 1 1.0 4 4.1
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
g nhớ rõ
Kết quả khảo sát cho thấy mức độ sử dụng các thông tin tiếp nhận
được từ báo chí vào việc học tập là khá cao. Ở mức độ thường xuyên sử dụng có
tỉ lệ cao nhất là 52.3%.Thỉnh thoảng sử dụng là 42.3%. Ít khi sử dụng là 3%.
Không nhớ rõ là 1.8%.
Xét theo các nhóm đối tượng, kết quả cho thấy việc sử dụng những
thông tin tiếp nhận được từ báo chí vào viẹc học tập của sinh viên báo chí là khá
cao. Đối với 2 chỉ báo là ít khi sử dụng và không nhớ rõ có tỉ lệ rất tháp nên
chúng tôi không sử dụng để đánh giá mức độ sử dụng những thông tin tiếp nhận
được từ báo chí vào công việc học tập của sinh viên báo chí.
Trên cơ sở đó cho thấy, sinh viên năm thứ nhất có mức độ thường xuyên
sử dụng là 36.7%, sinh viên năm thứ ba là 56.8%, sinh viên năm thứ năm có tỉ
lệ sử dụng cao nhất là 61.9%. Ở mức độ thỉnh thoảng sử dụng, nhóm sinh viên
năm thứ nhất có tỉ lệ cao nhất là 51%%, tiiếp đó là nhóm sinh viên năm thứ ba
là 41.7%, và thấp nhất là nhóm sinh viên năm thứ nămcó tỉ lệ là 34%. Nếu xét
bình quân ở cả hai mức độ sử dụng thì sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ cao nhất.
136
Việc thường xuyên cộng tác viết bài cho báo chí cũng là một trong những
chỉ báo quan trọng để đánh giá về hiệu quả của những thông tin tiếp nhận được
từ báo chí với việc học tập của sinh viên báo chí.
Bốn chỉ báo được đưa ra để khảo sát đối với sinh viên báo chí là:
1. Thường xuyên 2. Thỉnh thoảng
3. Ít khi 4. Chưa bao giờ
Năm thứ nhất
Năm thứ ba
Năm thứ năm
Bảng 18 - Mức độ cộng tác viết bài cho các báocủa sinh viên báo chí
Các
N
%
N
%
N
%
mức độ
Thườ 4 4.1 21 10. 1 10.
ng xuyên 0 3 5
Thỉnh 15. 10 52. 1 6 64.
thoảng 5 5 5 3 9 0
Ít khi 23. 42 21. 2 1 14.
3 5 4 4 0
Chưa 57. 32 16. 5 1 10.
6 0 0 3 0 bao giờ
137
(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1 năm 2007)
Kết quả điều tra cho thấy, mức độ viết bài cộng tác với các báo của
sinh viên báo chí là không cao. Ở mức độ thường xuyên viết bài cộng tác với
các báo chỉ chiếm 8.7%, thỉnh thoảng viết bài có tỉ lệ cao nhất chiếm 45.8%, ít
khi viết bài là 19.7% và chưa bao giờ viết bài cộng tác là 24.5%.
Kết quả điều tra cho thấy mức độ cộng tác viết bài cho báo chí có tỉ
lệ thuận với số năm học của sinh viên trong nhà trường. Cụ thể, ở mức độ
thường xuyên viết bài cộng tác với báo chí sinh viên năm thứ nhất chỉ chiếm
4.1%, sinh viên năm thứ 3 là 10.5%, năm thứ năm là 10.3%. Nói chung, ở mức
độ này đối với cả ba nhóm sinh viên đều có tỉ lệ rất thấp. Ở mức độ thỉnh thoảng
viết bài nhóm sinh viên năm thứ nhất cũng chỉ đạt 15.5%, trong khi đó năm thứ
ba là 52%, và năm thứ năm là 64%. Ở mức độ ít khi viết bài cộng tác thì thì sinh
viên năm thứ nhất lại chiếm tỉ lệ cao nhất là 23.5%, trong khi đó năm th’s ba chỉ
là 21%, năm thứ năm la 14.4%. Ở mức độ chưa bao giờ viết bài nhóm sinh viên
năm thứ nhất cũng chiếm tỉ lệ cao nhất là 57%, năm thứ ba là 16%, còn năm thứ
năm chỉ là 10.3%.
Trên chỉ báo giới tính cho thấy tỉ lệ viết bài cộng tác với các báo có
sự chênh lệch giữa nhóm nam và nhóm nữ. Cụ thể, đối vơi sinh viên năm thứ
nhất ở mức độ thường xuyên viết bài cộng tác với các báo nhóm nam có tỉ lệ là
7.5%, nhóm nữ không có trường hợp nào. Ở mức độ thỉnh thoảng viết bài giữa
nhóm nam và nhóm nữ sinh viên năm thứ nhất có sự tương đồng, nhóm nam là
15%, nhóm nữ là 15%. Mức độ ít khi viết bài cộng tác nhóm nam có tỉ lệ là
22.6%, trong khi đó nhóm nữ là 24.4%. Chưa bao giờ viết bài nhóm nam là
54.7%, nhóm nữ là 60%.
Nhóm sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ cộng tác viết bài cho các báo
cao hơn nhóm nam năm thứ nhất. Cụ thể, ở mức độ thường xuyên nhóm nam có
138
tỉ lệ là 21.3%, nhóm nữ là 3.4%, Thỉnh thoảng viết bài nhóm nam là 47.5%,
trong khi đó nhóm nữ là 55.8%. ít khi viết bài nam là 13.7%, nữ là 25.8%. Chưa
bao giờ viết bài nhóm nam là 17.5%, nhóm nữ là 15%. Xét một cách tổng thể
nhóm sinh viên nam năm thứ năm có tỉ lệ viết bài cộng tác với các báo cao hơn
nhóm nữ.
Nhóm sinh viên nam năm thứ năm có mức độ thường xuyên viết
bài là 15.4% nhóm nữ chỉ là 8.5%. Mức độ thỉnh thoảng viết bài nhóm nam là
57.7%, nhóm nữ là 67.6%. Ít khi viết bài nhóm nam 23.1%, nhóm nữ là 11.3%.
Chưa bao giờ viết bài nhóm nam chỉ chiếm 3.8%, còn nhóm nữ là 12.7%.
Xét một cách tổng thể của cả ba nhóm sinh viên năm thứ nhất, năm
thứ ba và năm thứ năm cho thấy tỉ lệ sinh viên nam có tỉ lệ viết bài cộng tác cao
hơn so với nhóm sinh viên nữ.
Tóm lại, khảo sát về tác động và hiệu quả của nội dung thông điệp đối với
công chúng sinh viên báo chí cho thấy một số điểm đáng chú ý sau đây:
Thứ nhất, công chúng sinh viên báo chí đã có mức độ tiếp nhận khá cao
lượng thông tin được chuyển tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng về
mọi lĩnh vực đời sống.
Thứ hai, trong hoạt động xử lý thông tin (trao đổi thông tin) của công
chúng sinh viên báo chí có ba kênh quan hệ được sử dụng nhiều nhất là: trao đổi
với bạn học, với các thầy cô giáo và với người khác. Điều đó chứng tỏ đây là
những kênh xử lý thông tin quan trọng nhất trong hoạt động truyền thông đối
với nhóm công chúng sinh viên. Đây cũng là cơ sở quan trọng của việc hình
thành quan điểm và dư luận xã hội trong nhóm cộng đồng công chúng sinh viên
Thứ ba, từ việc đo lường hiệu quả của các nội dung thông điệp trên các
phương tiện truyền thông đại chúng của công chúng sinh viên báo chí cho thấy
các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu
139
thông tin của công chúng sinh viên. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc cung
cấp thông tin cũng như giúp tầng lớp công chúng sinh viên có được những định
hướng đúng đắn trong cuộc sống.
140
PHẦN KẾT LUẬN
A. NHỮNG KẾT LUẬN CƠ BẢN
Công cuộc đổi mới của đất nước trong những năm gần đây đã tạo ra sự
chuyển biến tích cực trong mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có hoạt động truyền
thông đại chúng. Sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng của các
phương tiện truyền thông đại chúng đã có ảnh hưởng tích cực đến quảng đại công
chúng nói chung và công chúng sinh viên báo chí nói riêng.
Công chúng sinh viên báo chí, là tầng lớp xã hội có trình độ học vấn
tương đối cao, có điều kiện sống thuận lợi nhằm thúc đẩy nhu cầu giao tiếp xã
hội, điều đó cho thấy sự phát triển của nhu cầu giao tiếp đại chúng và khả năng
đáp ứng nhu cầu giao tiếp đại chúng trong đời sống sinh viên.
Khảo sát về mức độ tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông
đại chúng cho thấy: hoạt động giao tiếp đại chúng của sinh viên báo chí trong
nghiên cứu trường hợp của chúng tôi cho thấy hoạt động giao tiếp đại chúng
đang trở thành một dạng hoạt động cơ bản trong trong cơ cấu lối sống của họ và
đang dần hình thành một hoạt động đặc trưng. Đây là một chỉ báo cơ bản cho
thấy rõ hiệu quả xã hội của hoạt động truyền thông đại chúng. Quá trình đô thị
hoá và sự phát triển của các phương tiện nghe nhìn đã tác động rất đáng kể đến
quá trình này. Mức độ tiếp nhận thông tin từ các kênh truyền thông đại chúng là
rất cao, nhất là từ phương tiện vô tuyến truyền hình và đài phát thanh. Đặc biệt,
công nghệ thông tin hiện đại thông qua dịch vụ Internet đã được hầu hết sinh
viên báo chí sử dụng.
Nhìn chung các hình thức tiếp nhận thông tin từ các phương tiện thông tin
đại chúng của công chúng sinh viên báo chí là đa dạng. Tuy nhiên hình thức
chủ yếu được đại đa số công chúng sinh viên sử dụng là tiếp nhận tại nơi ở.
Riêng đối với báo in, cùng với việc đọc báo tại nơi ở thì có một bộ phận đáng kể
141
sinh viên đã đọc báo tại thư viện nhà trường. Điều đáng lưu ý là trong nhiều
hình thức tiếp cận thông tin truyền thông đại chúng thì hình thức câu lạc bộ -
nhà văn hoá ít có sức hấp dẫn đối với sinh viên trong hoạt động giao tiếp đại
chúng. Điều này đã làm hẹp chức năng của các thiết chế văn hoá nói trên.
Những thông tin chính trị, kinh tế, xã hội trên các phương tiện thông tin
đại chúng được công chúng sinh viên báo chí quan tâm theo dõi nhiều nhất là
các chương trình Thời sự trong nước và quốc tế. Các nhu cầu của thông tin, vấn
đề An ninh trật tự xã hội, khoa học và công nghệ thông tin, vấn đề Dành cho
sinh viên báo chí…cũng tạo nên sự quan tâm ở các mức độ khác nhau trong
công chúng sinh viên. Thực tế này cho thấy nhu cầu phong phú của công chúng
sinh viên báo chí và mặt khác cũng thể hiện sự phát triển của hoạt động thông
tin đại chúng ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Tuy nhiên,
kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tỉ lệ sinh viên báo chí tiếp nhận thông tin từ
các nhà báo và gửi thư đến các toà soạn các báo có liên quan đến nghề báo để
trao đổi những vấn đề có liên quan đến báo chí là rất thấp. Điều này cũng cho
thấy các trường đào tạo báo chí cần tăng cường hơn nữa hoạt động giao tiếp
giữa sinh viên báo chí với những nhà báo đang hoạt động thực tế. Đó cũng là cơ
sở để những kiến thức của sinh viên được kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Các nội dung, chương trình Văn hoá nghệ thuật và giải trí cũng rất được
công chúng sinh viên báo chí quan tâm. Điều này, không đơn thuần chỉ dừng lại
ở mức độ giải trí mà còn cho thấy nhu cầu hưởng thụ văn hoá một cách bổ ích
làm tăng cường sự hiểu biết, và khả năng phát triển nhân cách của tầng lớp xã
hội này. Đây cũng là những minh chứng cho thấy hiệu quả xã hội của các
phương tiện truyền thông.
Hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng đã khẳng định
được hiệu quả xã hội qua sự thừa nhận của đa số công chúng sinh viên về những
thông tin mà họ thường gặp. Phần lớn công chúng đánh giá ở mức độ rất có ý
142
nghĩa đối với những thông tin mà họ thường gặp. Điều quan trọng là một bộ
phận đáng kể trong số họ đã sử dụng những thông tin mà họ tiếp nhận được từ
các phương tiện truyền thông đại chúng vào công việc học tập và rèn luyện.
Việc nhận diện dấu hiệu đặc trưng của các tờ báo, trang web, trong công
chúng truyền thông thực chất là nhằm đo lường mức độ ảnh hưởng cũng như
khả năng tác động của những phương tiện truyền thông đó trong dư luận xã hội.
Việc nhận diện của công chúng được nghiên cứu về các dấu hiệu đặc trưng cho
thấy hình ảnh đúng về tờ báo, trang web đó. Những dấu hiệu đặc trưng của tờ
báo, trang web được chọn để nghiên cứu là tạp chí Người làm, báo Nhà báo &
Công luận và trang web nghebao.com. Kết quả nhận diện của các nhóm công
chúng sinh viên báo chí cho thấy mức độ nhận diện phụ thuộc chủ yếu vào mức
độ tiếp nhận thông tin trên các tờ báo và trang web đó.
Hiệu quả xã hội của các phương tiện truyền thông đại chúng còn được
nhìn nhận ở khía cạnh là sự tự đánh giá của công chúng về mức độ ý nghĩa của
các nguồn thông tin. Đối với công chúng sinh viên báo chí, các nguồn tin được
coi là có ý nghĩa quan trọng: Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Đài truyền
hình Trung ương, Internet... các phương tiện truyền thông đại chúng thực sự có
vai trò rất đáng kể trong sinh hoạt văn hoá tinh thần của sinh viên báo chí.
Truyền thông đại chúng tạo nên hiệu quả xã hội trong công chúng sinh
viên báo chí. Ngược lại, nhóm công chúng này cũng có nhận thức đúng đắn và
có đòi hỏi cao về các phương tiện truyền thông đại chúng.
B. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Đối với các phương tiện truyền thông đại chúng.
Tăng cường tiếp xúc, giao lưu giữa các cơ quan báo chí mà cụ thể là các
nhà báo với sinh viên báo chí. Hoạt động này sẽ giúp cho các cơ quan ngôn luận
nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị hiếu của các tầng lớp công chúng của mình,
143
giúp cho các phương tiện truyền thông đại chúng nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động truyền thông. Mặt khác, giúp công chúng sinh viên báo chí có
được những kiến thức thực tế đồng thời với việc tiếp cận với hệ thống lí luận về
báo chí. Các tờ báo có liên quan đến nghề báo cần đặc biệt quan tâm tới vấn đề
này.
Cần sớm hoàn thiện quy hoạch chiến lược phát triển các phương tiện
truyền thông đại chúng nhằm tạo nên các hiệu quả xã hội rộng lớn trong các bộ
phận dân cư, các tầng lớp xã hội trong đó có công chúng sinh viên báo chí. Hiện
nay một mặt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, dẫn đến khả năng thu hẹp phạm vị
giao tiếp đại chúng của công chúng sinh viên báo chí , mặt khác nó cũng nói lên
nhu cầu giao tiếp đại chúng của họ chưa có điều kiện được áp dụng.
2. Đối với công chúng sinh viên báo chí
Tăng cường những hoạt động văn hoá của sinh viên báo chí, trong đó có
hoạt động giao tiếp đại chúng. Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp…có đào tạo khoa báo chí cần chú ý đến nhu cầu chính đáng này của
sinh viên. Tạo điều kiện để các nhóm sinh viên tiếp cận được ở mức tối đa với
những phương tiện truyền thông đại chúng. Cần có kế hoạch duy trì và đổi mới
các phương thức tiếp cận báo chí, phát thanh, truyền hình… phù hợp với các
nhóm sinh viên theo nguyên tắc đa dạng, uyển chuyển, sinh động và hấp dẫn.
Tổ chức đoàn Thanh niên trong các nhà trường cần quan tâm đầy đủ hơn
và tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên tham gia vào hoạt động giao tiếp đại
chúng. Mặc dù hoạt động giao tiếp đại chúng có vẻ là hành vi cá nhân song nó lại
chịu sự chi phối đáng kể của hoạt động sinh hoạt tập thể và khả năng đầu tư kinh
phí cho dạng hoạt động này. Mối quan tâm nói trên cần được thực hiện cho phù
hợp với các đặc trưng, điều kiện riêng của mỗi nhà trường và mỗi bậc học của các
nhóm công chúng sinh viên báo chí.
144
3. Công tác nghiên cứu và giảng dạy
Tăng cường hơn nữa các nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại
chúng , đặc biệt là các nghiên cứu về đối tượng tiếp nhận thông tin. Công chúng
truyền thông đại chúng là đối tượng để đo lường hiệu quả của hoạt động truyền
thông. Có thể nói, công chúng là yếu tố quyết định sự tồn tại của không chỉ một
cơ quan ngôn luận mà của cả hệ thống báo chí. Không chỉ các nhà khoa học mới
tiến hành các hoạt động nghiên cứu này mà ở đây cần có sự phối hợp giữa các
viện nghiên cứu khoa học, các cơ quan truyền thông đại chúng. Các kết quả
nghiên cứu cần được các cơ quan quản lý truyền thông, các cơ quan ngôn luận
tham khảo và vận dụng vào hoạt động thực tiễn.
Nghiên cứu về công chúng báo chí là một hướng nghiên cứu cơ bản của
xã hội học truyền thông đại chúng. Nó rất được coi trọng trong lịch sử phát triển
của bộ môn khoa học này và trở thành hướng nghiên cứu chủ đạo. Các kết quả
nghiên cứu về truyền thông đại chúng cần được đưa vào các giáo trình giảng
dạy trong các khoa Xã hội học, khoa Báo chí, ở các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp. Các kết quả nghiên cứu đó còn là tài liệu thảm khảo
cho các nhà quản lý hoạt động truyền thông.
145
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(Xếp theo thứ tự A, B, C về tên tác giả)
Chung Á - Nguyễn Đình Tấn, Nghiên cứu Xã hội học, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
C. Mác, Ph.Ăng ghen tuyển tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,
1980
C.Mác, Ph.Ăng ghen,V.I.Lênin, Hồ Chí Minh bàn về báo chí xuất
bản. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003
C.Mác - Ph. Ăng ghen toàn tập, tập 18. tiếng Nga.
Đài Tiếng Nói Việt Nam, Phương pháp điều tra thính giả, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
Đinh Văn Hường, Dương Xuân Sơn. Trần Quang – Cơ sở lí luận
báo chí truyền thông – Nhà Xuất Bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2004
146
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ 8,9,10 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, 2001, 2006.
Đinh Văn Hường - Tổ chức hoạt động của Toà Soạn – Nhà Xuất
Bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2004.
Đinh Phương Thảo - Hiệu quả của truyền thông đại chúng với
công chúng Thanh niên đô thị - luận văn thạc sỹ Xã hội học, năm 2006.
Hồ Chí Minh toàn tập, T5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996.
Hồ Chí Minh toàn tập, T7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997.
Hồ Chí Minh toàn tập, T9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000.
Hồ Chí Minh toàn tập, T10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000.
Hồ Anh Dũng, Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản
xuất ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Khoa học – xã hội, 2002.
Hồ Bất Khuất Những vấn đề của một nền báo chí đang phát triển.
Tạp chí Cộng sản, số 11 tháng 6 – 1997.
147
Luật Thanh niên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
ngày 09 tháng 12 – 2005.
Mai Quỳnh Nam Thông điệp về trẻ em trên báo hình báo tin. Tạp
chí xã hội học. Số 2 – 2002.
Mai Quỳnh Nam Vai trò của dư luận xã hội trong cơ chế “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tạp chí Tâm lí học, số 2 – 2000.
Mai Quỳnh Nam Về việc nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại
chúng. Tạp chí Xã hội học, số 2 – 2000.
Mai Quỳnh Nam Vấn đề nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại
chúng. Tạp chí Xã Hội Học, Số 4 – 2001.
Mai Quỳnh Nam Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội. Tạp
chí Xã hội học, số 1 – 1996.
Mai Quỳnh Nam Sinh viên Hà Nội trong giao tiếp đại chúng, Tạp
chí Tâm lí học, Số 1 – 2004.
Mai Quỳnh Nam, Báo thiếu nhi dân tộc và công chúng thiếu nhi
dân tộc, Tâm lí học, Số 1 – 2004.
Mai Quỳnh Nam Mấy vấn đề về dư luận xã hội trong công cuộc
đổi mới, Tạp chí Xã hội học, số 1- 1996.
148
Nguyễn Thị Ngọc Huyền,Tìm hiểu một số mô hình tập đoàn báo
chí trên thế giới và vấn đề xây dựng tập đoàn báo chí ở Việt Nam - Đề
tài NCKHSV khoa Báo chí trường Đại học KHXHX & NV, năm 2006
Nguyễn Văn Dững, Đối tượng tác động của Báo chí, Tạp chí Xã
hội học số 4 – 2004.
Phan Quang: Về diện mạo báo chí Việt Nam - Tiểu luận và chân
dung. Nhà xuất bản Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004.
Tạ Ngọc Tấn, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí. Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
Tạp chí Xã hội học, Công chúng Thanh niên đô thị và báo chí –
Nghiên cứu trường hợp thành phố Hải Phòng năm 2002, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp bộ do Viện Xã hội học chủ trì, PGS, TS. Mai Quỳnh
Nam chủ nhiệm đề tài. Viện Xã hội học, Hà Nội, 2002.
Trần Hữu Quang, Chân dung công chúng truyền thông - khảo sát
xã hội học tại thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí
Minh, thời báo Kinh tế Sài Gòn, trung tâm kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương, 2001
149
Trần Hữu Quang, Xã hội học báo chí, Nhà xuất bản trẻ, TP. Hồ
Chí Minh, 2006.
Trần Hữu Quang, giáo trình Xã hội học về truyền thông đại chúng.
Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.
Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn – Khoa Báo chí:
Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn, tập 4, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2001.
Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn – Khoa Báo chí:
Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn - tập 6, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2005.
Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia, Hà Nội, 2004.
Vũ Đình Hoè, Truyền thông đại chúng công tác lãnh đạo quản lý,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
Các trang web.
Nghebao.com 1.
Vietnam Journalism.url 2.
3. Vietnamnet.vn
4. Wikipedia.url
150
151
152