MỤC LỤC

Trang PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài 4

9 2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 14

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 14

16 5. Đối tượng, khách thể và phạm vi

6. Phương pháp nghiên cứu 16

7. Giả thuyết nghiên cứu 18

8. Kết cấu của luận văn 18

PHẦN NỘI DUNG

20 Chương I: Những vấn đề lí luận và phương pháp

nghiên cứu hiệu quả của báo chí đối với công chúng.

1

1.1. Cơ sở lý luận 20

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về truyền thông 20

đại chúng

23 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về truyền thông đại chúng

1.1.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về truyền 26

thông đại chúng

28 1.1.4. Lý thuyết của M.Weber về đối tượng nghiên cứu của

truyền thông đại chúng

1.1.5. Mô hình của H.Lasswell và C.Shannon về truyền 31

thông đại chúng

32 1.2. Các khái niệm

1.2.1. Truyền thông 32

1.2.2. Truyền thông đại chúng 33

1.2.3. Hiệu quả truyền thông đại chúng 35

35 1.2.4. Công chúng của truyền thông đại chúng

2

1.2.5. Công chúng sinh viên báo chí 37

1.3. Địa điểm khảo sát và một số đặc điểm của đối tượng 37

nghiên cứu

37 1.3.1. Vài nét về địa điểm khảo sát

1.3.2. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 39

42 Chương II: Cách thức, mức độ và những vấn đề được

quan tâm trong giao tiếp đại chúng của công chúng sinh viên

báo chí.

2.1. Các phương tiện thông tin đại chúng và cách thức tiếp 42

nhận thông tin của công chúng sinh viên báo chí.

42 2.1.1. Các phương tiện truyền thông đại chúng

2.1.1.1. Báo in 42

2.1.1.2. Đài phát thanh - truyền hình 43

2.1.1.3. Báo trực tuyến 46

48 2.1.2. Địa điểm và cách thức tiếp nhận thông tin từ báo chí

của công chúng Sinh viên báo chí.

3

2.1.2.1. Địa điểm và cách thức đọc báo in 49

2.2.2.2. Địa điểm và cách thức nghe đài phát thanh 53

2.2.2.3. Địa điểm và cách thức xem truyền hình 55

2.1.2.4. Địa điểm và cách thức truy cập Interner 58

2.2. Mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên 61

báo chí

2.3. Những vấn đề được quan tâm của công chúng công 70

sinh viên báo chí

2.3.1. Những nội dung thông tin được quan tâm 69

72 2.3.1.1. Những thông tin thời sự, chính trị - xã hội

2.3.1.2. Những thông tin văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải 77

trí

2.3.2. Những thể loại tác phẩm báo chí được quan tâm 79

2.3.2.1. Tin

4

2.3.2.2. Phóng sự

2.3.2.3. Phỏng vấn, tọa đàm

2.3.3. Nhu cầu và mức độ trao đổi thông tin của công 82

chúng sinh viên báo chí

89 Chương III: Nhận diện một số kênh truyền thông đại

chúng liên quan đến nghề báo và việc sử dụng thông điệp từ

báo chí của công chúng sinh viên báo chí.

3.1. Nhận diện một số kênh truyền thông đại chúng

91 3.1.1. Tạp chí: Người làm báo

93 3.1.2. Báo: Nhà báo & công luận

3.1.3. Trang web: nghebao.com (Nghề báo – Thư ký của 95

thời đại )

3.2. Vấn đề sử dụng thông điệp báo chí vào việc học tập và 98

rèn luyện của sinh viên báo chí

3.2.1. Mức độ tiếp nhận thông tin từ báo chí liên quan đến 99

5

việc học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí

3.2.2. Ý nghĩa của những thông tin từ báo chí đối với việc 100

học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí

PHẦN KẾT LUẬN

1. Những kết luận cơ bản 106

2. Một số kiến nghị 108

111 TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN PHỤ LỤC

6

7

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài

Năm 1946, lần đầu tiên thuật ngữ truyền thông đại chúng được sử

dụng trong “Lời nói đầu của Hiến chương Liên hiệp quốc về văn hoá, khoa học

và Giáo dục”. Hiện nay, thuật ngữ này đã phổ biến rất rộng rãi các phương tiện

truyền thông đại chúng, tác động hàng ngày, hàng giờ đến sự phát triển của từng

lĩnh vực của xã hội.[3]

Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng mà trung tâm là

hệ thống báo chí hiện nay phát triển rất mạnh mẽ, đã trở thành một thành tố rất

quan trọng của xã hội. Hệ thống này vừa là động lực, vừa là công cụ trong hoạt

động tổ chức, quản lí và nâng cao dân trí trong xã hội.

Trong hoạt động của mình, hệ thống truyền thông đại chúng đã thể hiện

vai trò cũng như khả năng tạo sự tương tác xã hội, hướng dẫn, định hướng hành

vi hoạt động trong công chúng. Chính vì vậy, truyền thông đại chúng trở thành

một thiết chế xã hội, nó được coi là tác nhân cơ bản làm hình thành các liên kết

xã hội.

Hiện nay, truyền thông đại chúng có được sự hỗ trợ rất lớn của các

phương tiện Khoa học kĩ thuật. Công nghệ phát triển ở trình độ cao đã đưa hệ

thống này trở thành một trong những hệ thống quan trọng nhất của xã hội hiện

đại. Thông tin của từng quốc gia trở thành đối tượng của báo chí mọi quốc gia,

không gian thông tin của nhân loại đang được thu nhỏ lại. Sự quốc tế hoá truyền

thông đại chúng đang đặt cả thế giới vào tình huống mà trong đó các hàng rào

thông tin “cứng” bị phá vỡ. Điều này là cơ sở thực tiễn cũng như là điều kiện

thuận lợi thúc đẩy các nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng.

Ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới

theo xu hướng hội nhập và phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của

8

Nhà nước nhiều lĩnh vực xã hội đã có sự phát triển rõ rệt. Hoạt động truyền

thông đại chúng đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đóng góp

tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đường

lối đổi mới toàn diện, nổi bật lên là vấn đề dân chủ hoá các mặt của đời sống xã

hội; Thực tế này đã tạo nên những diến biến mới mẻ trong hoạt động thông tin

báo chí ở nước ta.

Báo chí hiện nay đã cơ bản hạn chế được hình thức thông tin một

chiều đơn điệu và ngày càng thể hiện được vai trò là cầu nối giữa Đảng và Dân.

Thông tin hai chiều được thực hiện trên báo chí: một mặt tuyên truyền, giải

thích đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với công

chúng mặt khác phản ánh những nguyện vọng, ý kiến phản hồi của công chúng

trong quá trình thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước.

Nói đến báo chí là nói đến các loại hình của nó như : Báo in, báo

ảnh, phát thanh, truyền hình, internet …Đó là các bộ phận, các kênh thông tin

cơ bản nhất, cốt lõi nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất và xu hướng vận

động của thông tin đại chúng.

Trong thực tế, mỗi loại hình báo chí có những thế mạnh và những

hạn chế riêng , chẳng hạn như: báo in có khả năng lưu trữ lâu, đồng thời đi sâu

phân tích chi tiết các sự kiện hiện tượng, công chúng của loại hình báo chí này

có thể tiếp nhận thông tin ở mọi nơi, mọi lúc mọi thời điểm khác nhau. Hạn chế

cơ bản của loại hình báo chí này là khó có khả năng phát hành rộng rãi tới công

chúng ở vùng sâu, vùng xa…Phát thanh, Truyền hình có thế mạnh là nhanh,

đồng thời, rộng khắp, hàng triệu triệu công chúng có thể tiếp nhận thông tin

đồng thời với thời điểm diễn ra sự kiện. Nhưng hạn chế của nó là tính thoảng

qua, khả năng lưu trữ kém …đòi hỏi công chúng tiếp nhận thông tin từ loại hình

9

báo chí này phải hết sức tập trung, quá trình thông tin bị phụ thuộc vào làn sóng,

thời tiết…

Ở nước ta các loại hình thông tin đại chúng đồng thời tồn tại và phát triển,

chúng không những không loại trừ nhau, mà ngược lại còn bổ khuyết, hỗ trợ

cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất

nước.

Hiện nay, cả nước ta có khoảng 14.000 nhà báo chuyên nghiệp

đang hoạt động. Ngoài ra còn có hàng ngàn cộng tác viên, thông tin viên và một

đội ngũ đông đảo đang hoạt động trong lĩnh vực thông tin xã hội. Đó là cán bộ ở

các phòng thông tin văn hoá, các đài truyền thanh cấp huyện, xã…

Cả nước hiện có 553 cơ quan báo in, trong đó có 157 báo 396 tạp

chí và khoảng hơn 1000 bản tin. Hàng năm, xuất bản hơn 550 triệu bản báo. 64

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 470 trong số 512 huyện, 7000 xã trong

tổng số hơn 10.359 xã được đọc báo trong ngày. Tính bình quân mỗi năm 1

người là 7,5 bản báo. 70% lượng báo chí tập trung ở thị xã, thành phố.

Có 1 đài truyền hình, 1 đài phát thanh quốc gia và 4 đài truyền hình khu

vực ở Huế, Đà Nẵng , Cần thơ, Thành phố Hồ Chí Minh. Một đài truyền hình kĩ

thuật số VTC của bộ bưu chính viễn thông. Ngoài ra 64 tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương đều có đài Phát thanh - Truyền hình. Riêng đối với loại hình

phát thanh, ngoài đài phát thanh quốc gia Tiếng nói Việt Nam và các đài phát

thanh cấp tỉnh còn có hệ thống đài truyền thanh của gần 520 huyện và hơn

10.000 xã. Đây là loại hình báo chí có tính ổn định và phân bố đồng đều nhất

trong cả nước.

Cả sóng phát thanh và truyền hình quốc gia đều được truyền qua vệ

tinh. Theo con số thống kê chưa đầy đủ cả nước hiện có hơn 10 triệu máy thu

10

hình, với gần 85% số hộ gia đình xem được truyền hình. Sóng phát thanh hiện

đã tới 5 châu lục và hơn 90% lãnh thổ nước ta.

Báo chí trực tuyến (qua mạng Internet) là một là một loại hình báo chí

mới ra đời so với báo chí truyền thống; Nhưng được sự hỗ trợ mạnh mẽ của

khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại đã khẳng định được vai trò cũng như

sức mạnh vượt trội của mình.

Ở nước ta, tờ báo trực tuyến đầu tiên chính thức ra đời năm 2000. Qua 7

năm phát triển, đến nay cả nước ta đã có khoảng hơn 2.500 trang Web đang hoạt

động và hầu hết các tờ báo đều có báo trực tuyến. Theo đánh giá của PGS.TS.

Trần Đình Hoan nguyên Uỷ viên bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng thì : “

Báo điện tử đang góp phần tích cực vào sự lớn mạnh của đất nước”( Nguồn :

Viêt Nam Nét ngày 20/05/2003).

Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng ở nước ta hiện nay

được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lí của Nhà nước. Chính

vì vậy, các hoạt động xuất bản và phát hành ấn phẩm của hệ thống này đều được

dựa trên những cơ sở thống nhất như :

Dấu hiệu về nghề nghiệp ( Giáo dục thời đại, Quân đôi nhân -

dân, Người làm báo ...)

Dấu hiệu về lứa tuổi ( Nhi đồng, Thanh niên, Tuổi trẻ, Người -

cao tuổi…)

Dấu hiệu về lãnh thổ ( Hà Nội mới, Sài gòn giải phóng, Hà -

tây, Hà Nam…)

Dấu hiệu về xã hội (Đại đoàn kết, Lao động …)1) -

11

Dấu hiệu về giới ( Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Thủ đô, Nữ -

sinh …)

- Dấu hiệu về nhu cầu thị hiếu ( Tạp chí Thời trang, Báo Văn Nghệ,

tạp chí Văn nghệ… )*

Tất cả các dấu hiệu trên là cơ sở để hoạt động xuất bản và phát

hành đối với tất cả các loại hình báo chí, kể cả báo chí Trung ương và địa

phương. Tất cả các đấu hiệu trên đều rất xác thực và gần gũi với đời sống xã

hội, do đó các đối tượng công chúng đều có thể tiếp nhận những thông tin phù

hợp từ hệ thống truyền thông đại chúng.

Trong thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu khảo sát và đánh giá về

những ảnh hưởng và tác động của truyền thông đại chúng đối với các tầng lớp

công chúng ở nước ta là có tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý

luận và thực tiễn.

Gần đây, một số tác giả cũng đã đưa vấn đề nhận diện công chúng

truyền thông đại chúng trong đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng

những công trình xem xét dưới góc độ Xã hội học và Báo chí theo hướng

nghiên cứu hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng nói chung

và đối với công chúng là sinh viên nói riêng.

Sinh viên là nhóm dân số xã hội tương đối lớn trong hệ thống cơ

cấu xã hội. Nhóm sinh viên được xác định bởi những đặc điểm rõ rệt :

- Có độ tuổi trung bình khoảng từ 18 – 24

thành phố Hải Phòng năm 2002.” Mai Văn Hai – Mai Quỳnh Nam: Chương IX :Đời sống văn hoá

tinh thần và hoạt động truyền thông đại chúng.Báo cáo Xã hội năm 2000. Trịnh Duy Luân chủ biên,

Viện Xã hội học.

* Dẫn theo Mai Quỳnh Nam “Công chúng Thanh niên đô thị và báo chí - nghiên cứu trường hợp

12

- Có trình độ học vấn tương đối cao

- Đang học nghề, trong một tổ chức trường học .

Có thể nói sinh viên là bộ phận lao động trí thức trong lực lượng lao

động của xã hội. Họ là nguồn nhân lực chủ yếu trong công cuộc công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước.

Lực lượng sinh viên sống và học tập tập trung tại các đô thị, do đó các

hoạt động giao tiếp với các phương tiện thông tin đại chúng cũng diễn ra trong

môi trường văn hoá, kinh tế, chính trị phát triển, vì vậy có nhiều điều kiện thuận

lợi để tiếp nhận nguồn thông tin đa dạng phong phú.

Đối với công chúng truyền thông là sinh viên, thì nhóm công chúng là

sinh viên báo chí cần được lưu ý và quan tâm. Bởi lẽ, trước hết, họ là lực lượng

lao động hùng hậu trong công cuộc đổi mới hiện nay. Họ là những trí thức, sẽ là

những chủ nhân của đất nước trong tương lai. Và đặc biệt sau khi ra trường họ

sẽ trở thành những nhà báo - những người sẽ trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực

truyền thông đại chúng. Chính vì vậy, sự tác động của các phương tiện truyền

thông đại chúng có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình học tập, cũng như

tác nghiệp của họ sau này. Nghiên cứu về nhóm công chúng sinh viên báo chí

trong mối quan hệ với hệ thống báo chí càng có ý nghĩa thiết thực trong giai

đoạn hiện nay.

Với ý nghĩa trên, luận văn của chúng tôi chọn sinh viên của Trường

Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1(Trực thuộc Đài Tiếng Nói Việt Nam)

tại Hà Nam để khảo sát hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên báo chí.

2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu

13

Nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng nằm trong hệ

thống tri thức của xã hội học, đây là một hoạt động khoa học tạo được sự quan

tâm của cả Báo chí học và Xã hội học truyền thông đại chúng.

Trong lịch sử nghiên cứu về sự tác động của truyền thông đại

chúng với xã hội, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan điểm nhìn nhận khác

nhau tuỳ thuộc vào sự biến động của mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội nhất định .

Năm 1905, việc phát minh ra vô tuyến điện và theo đó là sự ra đời

của đài phát thanh – đây là một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển các

phương tiện truyền thông đại chúng. Đài phát thanh ra đời với những ưu điểm

vượt trội về tốc độ thông tin cũng như sự quảng đại trong việc truyền bá nên đã

được công chúng hào hứng, say sưa tiếp nhận.

Các nhà nghiên cứu xã hội học thời kỳ này cho rằng các phương tiện

truyền thông đại chúng thực sự có một sức mạnh vạn năng. Tiêu biểu cho

khuynh hướng này là quan điểm của trường phái Frankfurt, họ cho rằng với khả

năng của đài phát thanh sẽ rất dễ thuyết phục công chúng, khiến họ phải tin

tưởng và phục tùng theo các thông điệp và mục đích của nó được truyền trên

sóng phát thanh. Nhận xét này được đưa ra từ sự quan sát số lượng công chúng

bị tác động và sự ảnh hưởng của nội dung thông điệp truyền tải, chưa dựa trên

những nghiên cứu thực nghiệm đối với công chúng truyền thông.

Năm 1944, P.Larsfeld cùng các cộng sự đã thông qua nghiên cứu

thực nghiệm đối với cử tri về quyết định bầu cử chỉ ra rằng, các chiến dịch vận

động tranh cử thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng hầu như chỉ

làm tăng thêm sự tin tưởng vào những ý định sẵn có của cử tri, thực tế ít làm

thay đổi quyết định của họ[403, 404].

Năm 1960, J.Klapper trong cuốn “Tác động của truyền thông đại

chúng” cho rằng “ truyền thông đại chúng chỉ là yếu tố tác động, bổ sung (dù là

14

tác động rất mạnh) cùng với những yếu tố trung gian khác chứ không phải là

yếu tố duy nhất dẫn đến sự thay đổi hành vi của công chúng”[40,144]. Nói cách

khác, truyền thông đại chúng không phải là nguyên nhân cần và đủ, không phải

là tác nhân cơ bản đẫn đến sự thay đổi thái độ ứng xử của công chúng.

Khi công nghệ truyền hình ra đời đã đánh đấu một bước tiến dài

trong sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng. Sức mạnh của

truyền hình được khẳng định bởi nó sử dụng tổng hợp sức mạnh của cả các loại

hình báo in, phát thanh và hình ảnh. Khoảng những thập niên 60 – 70 của thế kỷ

XX, truyền hình phát triển mạnh mẽ và phổ biến rộng rãi, những quan điểm

nghi ngờ về sức mạnh của truyền thông đại chúng được đặt ra xem xét lại. Đã

có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định sức mạnh cũng như sự tác động to

lớn của loại hình này.

Mạng Internet ra đời đã thực sự làm thay đổi quan niệm về các

phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống. Những hạn chế về khả năng

lưu trữ thông tin , thời lượng, sự đơn điệu, sự tương tác … của các phương tiện

truyền thống đã được giải quyết. Mạng Internet đã khẳng định được vai trò cũng

như sự tác động to lớn của nó đối với xã hội công chúng.

Những thập niên cuối của thế kỷ XX, công nghệ mạng Internet đã phát

triển mạnh mẽ và phổ biến ở hầu hết các quốc gia, nó tạo điều kiện để thế giới

xích lại gần nhau hơn. Có thể nói rằng, Internet là tác nhân cơ bản để thúc đẩy

quá trình toàn cầu hoá, tăng cường khả năng giao lưu, hội nhập, hợp tác, trên

mọi lĩnh vực giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Sự ra đời của mạng Internet với những ưu điểm vượt trội và phạm vi tác

động của nó đã tạo ra không gian rộng lớn hơn cũng như nhiều hướng nghiên

cứu mới về hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng xã hội.

Theo các tài liệu từ tiểu ban nghiên cứu truyền thông đại chúng của Đại hội Xã

hội học thế giới lần thứ XV, tổ chức năm 2002 cho thấy hướng nghiên cứu hiệu

15

quả truyền thông đại chúng của mạng Internet được đặc biệt chú trọng và phạm

vi nghiên cứu không chỉ trong mỗi quốc gia mà mở rộng ra toàn thế giới.

Đến cuối thế kỷ XX, J.Habermas đưa ra khái niệm “không gian cộng

đồng” trong đó các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò trung gian

liên lạc và tiếp xúc trong nội bộ xã hội dân sự, cũng như nội bộ xã hội xã hội

dân sự và các thiết chế Nhà nước. Đồng thời xác định truyền thông đại chúng

không phải là lãnh địa riêng của các nhà truyền thông hay các chuyên gia truyền

thông, nó là diễn đàn chung để thông tin về xã hội về con người. Truyền thông

đại chúng cũng là nơi thể hiện các mối quan hệ giữa các tầng lớp, các nhóm xã

hội[351, 352].

Nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng là một hướng

nghiên cứu cơ bản của xã hội hiện đại. Các nước có truyền thống nghiên cứu xã

hội học rất coi trọng hướng nghiên cứu này. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,

khi mà các quan hệ xã hội diễn ra ngày càng phức tạp trong bối cảnh toàn cầu

hóa. Truyền thông đại chúng được coi là một tác nhân xã hội, cơ bản tạo nên

các liên kết xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi khu

vực và quốc tế.

Trong giai đoạn phát triển của xã hội học, truyền thông đại chúng

bắt đầu từ những năm 20 của thế kỷ trước, bao giờ xã hội học cũng hết sức được

coi trọng, nó được coi là hướng nghiên cứu chủ yếu để xem xét các tác động xã

hội của hệ thống truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội, và để đánh giá

hiệu quả xã hội của hệ thống này.

Ngay từ năm 1910, M.Weber người đã đặt luận cứ cho các nghiên

cứu xã hội học truyền thông đại chúng đã xếp nghiên cứu về công chúng ở vị trí

hàng đầu trong các vấn đề cần phải ưu tiên của xã hội học truyền thông đại

chúng. Qua bốn giai đoạn phát triển, nghiên cứu xã hội học truyền thông đại

16

chúng chỉ ra rằng: truyền thông đại chúng tạo nên các tương tác xã hội để hình

thành hành động xã hội phù hợp với định hướng xã hội.

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về hiệu quả truyền thông đại chúng

với công chúng bước đầu đã tạo được sự quan tâm của giới chuuyên môn. Từ

năm 1990 đến nay đã có một số những công trình theo hướng nghiên cứu lý

thuyết và thực nghiệm về công chúng.

Trước hết phải nối đến những bài viết của tác giả Mai Quỳnh Nam

đăng trên Tạp chí Xã hội học, ngoài việc đưa ra những cơ sở lý thuyết cho việc

nghiên cứu truyền thông đại chúng và dư luận xã hội tác giả đã gợi mở ra hướng

nghiên cứu thực nghiệm trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.

Trên tạp chí Xã hội học số 2 – 1996 trong bài “Về đặc điểm và tính

chất của truyền thông đại chúng”,[55] tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa

giao tiếp các nhân, giao tiếp đại chúng và hệ thống truyền thông đại chúng.Trên

cơ sở phân tích mối quan hệ này, tác giả đã chỉ ra những tác động trực tiếp đến

hiệu quả của hoạt động báo chí; Thứ nhất là sự tác động từ hệ thống pháp luật

và quyết định quản lý của các cơ quan quản lý báo chí. Thứ hai là sự tác động từ

công chúng báo chí. Thực tế cho thấy rằng, trong xu thế hội nhập và toàn cầu

hoá hiện nay sự tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng dẫn đến

sự thay đổi ứng xử xã hội của công chúng là tương đối rõ nét; Đặc biệt trong đó

có nhóm công chúng là sinh viên báo chí.

Bài viết “Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại chúng”

trên tạp chí Xã hội học số 4 – 2001,[56] tác giả đã tổng hợp một số hệ thống chỉ

tiêu định tính và định lượng làm cơ sở để phân tích hiệu quả của các phương

tiện truyền thông đại chúng.

Các bài nghiên cứu xã hội học thực nghiệm về báo chí cũng của tác

giả này đã in trên tạp chí Tâm lí học số 1- 2004 như: “ Sinh viên Hà Nội trong

17

giao tiếp đại chúng”, [55] “ Báo thiếu nhi dân tộc và công chúng thiếu nhi dân

tộc” [48], “ Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn” – Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội 2001.Tác giả cùng các cộng sự đã khảo sát mối quan hệ giữa

các nhóm công chúng này với hệ thống truyền thông đại chúng trong môi

trường chính trị - xã hội. Đặc biệt, các nghiên cứu này chú ý tới đặc điểm quá

trình tiếp nhận thông tin, xử lí thông tin, cơ chế lây lan thông tin và các thức sử

dụng thông tin của họ, coi đó như những dấu hiệu tin cậy để đánh giá hiệu quả

hoạt động của hệ thống này.

Ngoài ra, tác giả này cũng đưa ra hàng loạt các nghiên cứu về dư

luận xã hội trong các bài viết trên tạp chí Xã hội học như “Dư luận xã hội - mấy

vấn đề lí luận và phương pháp nghiên cứu” ( Tạp chí Xã hội học số 1- 1995),

“Dư luận xã hội về con số”( Tạp chí Xã hội học số 3 – 1996), “ mấy vấn đề về

dư luận xã hội trong công cuộc đổi mới”(Tạp chí Xã hội học số 2 – 1996), “ Vai

trò của dư luận xã hội trong cơ chế “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm

tra”(Tạp chí Tâm lí học số 2 – 2000). Trong bài “ Truyền thông đại chúng và dư

luận xã hội” ( Tạp chí Xã hội học số 1 – 1996) tác giả đi sâu phân tích mối quan

hệ biện chứng giữa báo chí và công chúng trong quá trình hình thành và thể hiện

dư luận xã hội.

Các tác giả khác cũng công bố những công trình nghên cứu về xã

hội học báo chí như: luận án tiến sĩ Xã hội học của tác giả Trần Hữu Quang năm

2000 “ Chân dung công chúng báo chí Thành phố Hồ Chí Minh”. Luận án đi

sâu khảo sát cách thức và mức độ sử dụng các phương tiện truyền thông đại

chúng của công chúng. Trên cơ sở phân tích các hình thức tiếp nhận thông tin từ

các phương tiện truyền thông đại chúng của công chúng, để nhận diện công

chúng trong bối cảnh đổi mới của Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu khác như: luận án

tiến sĩ Xã hội học của tác giả Trương Xuân Trường năm 2002 “ Hiện trạng và

18

vai trò tác động của truyền thông dân số đối với người nông dân”, PGS.TS.

Nguyễn Văn Dững “Đối tượng tác động của báo chí” trên tạp chí Xã hội học số

4 – 2004, luận văn thạc sĩ của tác giả Đinh Thị Phương Thảo “ Hiệu quả của

truyền thông đại chúng đối với công chúng Thanh niên đô thị” nghiên cứu

trường hợp thành phố Hải Phòng năm 2006…

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Truyền thông đại chúng với

công chúng Thanh niên đô thị - nghiên cứu trường hợp thành phố Hải Phòng, do

Viện Xã hội học chủ trì PGS.TS Mai Quỳnh Nam chủ nhiệm đề tài có thể được

coi là công trình đầu tiên theo hướng nghiên cứu cơ bản là nghiên cứu công

chúng.

Việc nghiên cứu đề tài Hiệu quả của báo chí với công chúng sinh

viên báo chí có thể là một đóng góp để bước đầu hình dung được hiệu quả xã

hội của báo chí đối với công chúng là sinh viên báo chí, trong đó có công chúng

là sinh viên báo chí Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1.

3.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

3.1 Ý nghĩa khoa học

Xuất phát từ góc nhìn của báo chí học, xã hội học báo chí; nghiên

cứu vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên báo chí để đánh giá

tác động của hệ thống báo chí đối với công chúng là sinh viên báo chí được

chọn làm đối tượng nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu để tìm hiểu, nhận diện sự

lựa chọn nguồn tin cũng như sự tiếp thu, sử dụng những nguồn tin nhận được,

đồng thời tìm hiểu dư luận xã hội trong sinh viên báo chí về hoạt động của báo

chí trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng.

Việc nghiên cứu đề tài này cũng có thể góp phần vào việc nghiên

cứu hiệu quả của báo chí với công chúng nói chung, và đặc biệt là đối với công

chúng là sinh viên, trong đó có một bộ phận là sinh viên báo chí.

19

Kết quả nghiên cứu từ đề tài này có thể là tài liệu tham khảo cho

các nghiên cứu trong lĩnh vực báo chí học và xã hội học truyền thông đại chúng.

3.2 Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên

báo chí, chúng tôi hi vọng sẽ đưa ra được những khuyến nghị để các nhà quản lí

truyền thông, các cơ quan truyền thông nắm được thực trạng sự tác động của hệ

thống truyền thông đối với bộ phận công chúng này. Từ đó tạo cơ sở khoa học

cho những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của báo chí đối với công chúng

sinh viên báo chí.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1 Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh

viên báo chí nhằm tìm hiểu :

Công chúng sinh viên báo chí tiếp cận thông tin như thế -

nào?

- Những vấn đề nào truyền tải trên báo chí được công chúng

sinh viên báo chí quan tâm?

- Nhận diện một số kênh truyền thông đại chúng liên quan đến

nghề báo và việc sử dụng những thông điệp tiếp nhận được đối với việc

học tập và rèn luyện.

- Góp phần đề xuất những giải pháp tăng cường hiệu quả

thông tin tới nhóm công chúng này.

20

4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu cách thức tiếp nhận thông tin và hiệu quả việc sử dụng nội

dung các thông điệp được thông tin trên báo chí.

Phân tích các hình thức trao đổi thông tin trong nhóm công -

chúng sinh viên báo chí.

Phân tích hiệu quả của báo chí qua hoạt động tiếp nhận và sử -

dụng thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng của sinh viên

báo chí.

5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

5.1 Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên báo chí

5.2 Khách thể nghiên cứu

Là nhóm công chúng sinh viên báo chí Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1

5.3 Phạm vi nghiên cứu

Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1 trực thộc Đài

Tiếng Nói Việt Nam ( nằm trên địa bàn thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ).

6. Phương pháp nghiên cứu

6.1 Phương pháp luận

Dùa trªn quan ®iÓm vÒ mèi quan hÖ biÖn

chøng gi÷a kiÕn tróc th-îng tÇng vµ c¬ së h¹ tÇng trong mçi h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi, t- t-ëng cña

21

C.M¸c vÒ vai trß cña ý thøc x· héi trong ®êi sèng x·

héi, vÒ mèi liªn hÖ gi÷a truyÒn th«ng ®¹i chóng vµ d- luËn x· héi ®-îc lÊy lµm c¬ së cho viÖc nghiªn cøu sù

t¸c ®éng cña truyÒn th«ng ®¹i chóng vµ d- luËn x· héi. C.M¸c cho r»ng : Lý luËn cã thÓ trë thµnh lùc l-îng vËt chÊt khi nã th©m nhËp vµo quÇn chóng, s¶n phÈm cña truyÒn th«ng lµ d- luËn x· héi *.

Nghiªn cøu x· héi häc truyÒn th«ng ®¹i chóng ph¸t triÓn m¹nh mÏ trong nh÷ng thËp niªn

võa qua vµ trë thµnh mét chñ ®Ò c¬ b¶n cña x· héi hiÖn ®¹i. N¨m 1910, M.Weber ®· ®Ò xuÊt h-íng nghiªn

cøu nµy cã nhiÖm vô ph¸t triÓn mèi quan hÖ gi÷a truyÒn th«ng ®¹i chóng víi x· héi theo c¸c h-íng :

- Nghiªn cøu c«ng chóng

- Nghiªn cøu tæ chøc truyÒn th«ng vµ c¸c nhµ truyÒn th«ng víi vai trß lµ mét tÇng líp x· héi nghÒ nghiÖp

- Ph©n tÝch néi dung th«ng ®iÖp truyÒn t¶i

Nghiªn cøu hiÖu qu¶ truyÒn th«ng ®¹i

chóng lµ mét vÊn ®Ò cÊp b¸ch vµ phøc t¹p, ®iÒu ®ã xuÊt ph¸t tõ chç ng-êi ta ngµy cµng nhËn thÊy kh¶

n¨ng t¸c ®éng to lín cña ho¹t ®éng truyÒn th«ng . MÆt kh¸c, tÝnh phøc t¹p cña h-íng nghiªn cøu nµy l¹i phô

thuéc bëi tÝnh chÊt ®a chøc n¨ng cña th«ng tin ®¹i chóng vµ c¸c mèi quan hÖ nhiÒu chiÒu ë sù t-¬ng t¸c víi hÖ thèng th«ng tin ®¹i chóng trong thùc tÕ

* C.M¸c vµ Ph.¡ngghen, TuyÓn tËp T.1, tr.206. DÉn theo Mai Quúnh Nam, "TruyÒn th«ng ®¹i chóng vµ d- luËn x· héi", T¹p chÝ X· héi, sè 1 (53), 1996, tr.3

22

Trªn c¬ së ¸p dông lÝ luËn b¸o chÝ, quan

®iÓm lý thuyÕt x· héi häc chuyªn ngµnh để xem xÐt hiÖu

qu¶ t¸c ®éng cña b¸o chí víi nhãm c«ng chóng lµ sinh

viªn b¸o chÝ ®-îc ®Æt trong c¸c t-¬ng t¸c x· héi cô thÓ.

Quan ®iÓm lý thuyÕt x· héi häc ®-îc dïng lµm c¬ së nghiªn cøu ë ®©y gåm: C¸ch ph©n lo¹i

hiÖu qu¶ truyÒn th«ng ®¹i chóng ®èi víi c«ng chóng do Weiss (1988) ®-a ra vÒ t¸c ®éng ®Þnh l-îng cña truyÒn

th«ng ®¹i chóng; Nh÷ng l-u ý cña Moll (1993) khi ph©n tÝch chØ b¸o ®é ghi nhí cña c«ng chóng vÒ néi dung

th«ng ®iÖp; Những vÊn ®Ò t¹o nªn mèi quan t©m cña giíi

chuyªn m«n trong ph©n tÝch hiÖu qu¶ cña truyÒn th«ng ®¹i chóng liªn quan tíi:

1. ViÖc t¸ch gi¶i quyÕt ho¹t ®éng cña tõng kªnh

truyÒn th«ng cô thÓ.

2. NhËn xÐt cña Sechc« (1986) vÒ sù sai lÇm khi t¸ch t¸c ®éng truyÒn th«ng ®¹i chóng ra khái ¶nh

h-ëng tõ c¸c c¬ së x· héi kh¸c cïng t¸c ®éng hµng ngµy ®èi víi c«ng chóng truyÒn th«ng.

3. Sù ®an xen vµ t-¬ng hç gi÷a giao tiÕp ®¹i chóng vµ giao tiÕp c¸ nh©n d-íi t¸c ®éng cña c¸c ph-¬ng tiÖn truyÒn th«ng ®¹i chóng).

4. Lý luËn vÒ c¬ chÕ l©y lan th«ng tin; vÒ dßng

ph¶n håi th«ng tin.

5. LËp luËn cña M.Weber vÒ t¸c ®éng cña truyÒn th«ng ®¹i chóng ®èi víi viÖc h×nh thµnh ý thøc quÇn

chóng vµ d- luËn x· héi [7]…

23

Ng-êi nghiªn cøu còng ®Æc biÖt chó ý ®Õn c¸c khÝa c¹nh lý luËn vµ lÞch sö cña vÊn ®Ò mµ c¸c t¸c gi¶ ®i tr-íc ®· ®Æt ra, coi ®ã nh- nh÷ng tiÒn ®Ò lý luËn ®Ó triÓn khai ®Ò tµi cña m×nh.

6.2 Phương pháp thu thập thông tin

Những thông tin chúng tôi thu thập được qua việc sử dụng kết hợp

các phương pháp :

- Phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua việc điều tra

chọn mẫu. Điều tra được tiến hành với 400 bảng hỏi với sinh viên báo chí

Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1 trực thuộc Đài Tiếng

Nói Việt Nam ( nằm trên địa bàn thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ). Mẫu

nghiên cứu được dựa trên các chỉ báo về giới tính, năm học, ngành học

của sinh viên.

- Phương pháp điều tra định lượng thu thập thông tin được tiến hành với

sinh viên báo chí tại trường năm 2007.

Ngoài ra, thông tin còn được thu thập dựa trên các tư liệu sẵn có liên quan

đến chủ đề nghiên cứu, qua hệ thống báo chí được cập nhật thường xuyên.

Chúng tôi tiến hành xử lí thông tin theo phương pháp :

- Sử dụng phương pháp phân tích thống kê đối với những số

liệu định lượng.

7. Giả thuyết

Đề tài được triển khai để đánh giá và kiểm nghiệm các giả thuyết nghiên

cứu sau:

24

1. Vai trò, ý nghĩa của những thông tin được tiếp nhận từ báo chí, như

sự đối với việc học tập, rèn luyện và tác nghiệp của sinh viên báo chí .

2. Dư luận xã hội của công chúng sinh viên báo chí, thể hiện những đề

xuất về phương thức thông tin cũng như hiệu quả tác động đến nhóm công

chúng này.

3. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, hệ thống báo chí

đã phát triển mạnh mẽ và có nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới

đất nước. Tuy nhiên, trong hoạt động thông tin cũng đã xuất hiện những xu

hướng bất cập, hạn chế như tính thương mại hóa và có cả những sai lệch trong

thông điệp truyền thông; điều này sẽ tác động mạnh mẽ đến công chúng sinh

viên báo chí.

8. Kết cấu của luận văn

8.1 Phần mở đầu

Luận văn giới thiệu: Giả thuyết nghiên cứu; Phương pháp nghiên

cứu; Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu; Mục đích và nhiệm vụ

nghiên cứu; Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài; Tính cấp thiết của đề tài

nghiên cứu.

8.2 Phần nội dung luận văn gồm 3 chương

ChươngI: Những vấn đề lí luận và phương pháp nghiên cứu hiệu quả

của báo chí đối với công chúng.

Phần 1: Đưa ra các lí luận về truyền thông đại chúng, trên cơ sở của

báo chí học và xã hội học báo chí. Đặc biệt là các quan điểm lí thuyết về công

chúng của truyền thông và hiệu quả của truyền thông đại chúng. Vài nét về vấn

đề nghiên cứu và hệ thống các khái niệm phục vụ nghiên cứu.

25

Phần 2: Giới thiệu địa điểm khảo sát, và một số đặc điểm cơ bản của

đối tượng nghiên cứu.

ChươngII: Cách thức, mức độ và những vấn đề được quan tâm trong

giao tiếp đại chúng của công chúng sinh viên báo chí.

Phần 1: Trình bày cách thức tiếp nhận thông tin từ báo chí của công

chúng là sinh viên báo chí.

Phần 2: Trình bày mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên

báo chí

Phần 3: Trình bày những nội dung thông tin đăng tải trên báo chí và

những thể loại báo chí được sinh viên báo chí quan tâm.

Chương III: Trình bày kết quả những phân tích về những dấu hiệu để

nhận diện nội dung của một số phương tiện truyền thông đại chúng.

Phần 1: Mức độ tiếp nhận thông tin từ báo chí liên quan đến việc học tập

và rèn luyện của sinh viên báo chí.

Phần 2: Ý nghĩa của những thông tin từ báo chí đối với việc học tập và

rèn luyện của sinh viên báo chí

8.3 Phần kết luận

Từ các kết quả phân tích, tác giả tiến hành luận giải các giả thuyết

nghiên cứu, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm mở rộng khả năng tiếp nhận

thông tin của công chúng sinh viên nói chung và sinh viên báo chí nói riêng.

Mặt khác, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống truyền thông đại

chúng và đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học về truyền thông đại chúng và công

chúng của truyền thông đại chúng.

26

27

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

HIỆU QUẢ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI CỚI CÔNG CHÚNG

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về truyền thông đại

chúng

C.Mác, Ph.Ăng ghen,V.I.Lê nin là những nhà tư tưởng vĩ đại của

giai cấp vô sản thế giới – là người đặt nền móng cho lí luận báo chí cách

mạng[32, 42]. Là những người trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhiều tờ báo, đồng

thời là những nhà báo lỗi lạc, luôn rất quan tâm đến hoạt động báo chí, xuất bản.

Tư tưởng về công tác báo chí và hoạt động báo chí xuất bản của những nhà kinh

điển này vô cùng đồ sộ và phong phú – là một bộ phận quan trọng trong hình

thái ý thức xã hội mác xít.

Từ nhãn quan duy vật lịch sử và chủ nghĩa xã hội khoa học các nhà

kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải thích sự ra đời cũng như bản chất

của báo chí.

Bằng những bài báo, những tác phẩm của mình các nhà cách mạng

vô sản đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình: báo chí là vũ khí sắc bén đề chiến

đấu bảo vệ lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, bác bỏ và vạch

trần luận điệu của những thế lực thù địch. Báo chí cách mạng vô sản phải thực

sự là vũ khí chiến đấu hữu hiệu của giai cấp công nhân, là cơ quan tuyên truyền,

tham gia vào việc tổ chức phát triển xã hội bằng hoạt động ngôn luận. Trọng

trách của báo chí cách mạng là phục vụ lợi ích của nhân dân, vì sự tiến bộ và

giải phóng con người [36, 18].

28

Trong thực tế, C.Mác – Ph.Ăng ghen là những người sáng lập ra

nền báo chí cách mạng mà đấu mốc quan trọng là sự ra đời của tờ báo “Sông

Ranh mới” trong những năm 1848 – 1849. Tờ báo này do do C.Mác làm tổng

biên tập và Ph.Ăng ghen là cộng tác viên đắc lực[31, 39]. Tờ báo này gắn liền

với phong trào cộng sản ở châu Âu khoảng giữa thế kỷ thứ XIX.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong xã hội có phân

chia giai cấp thì mỗi con người phải thuộc về một giai cầp, tầng lớp nhất định và

quyền lợi của các giai cấp trong xã hội là khác nhau thậm chí đối lập nhau. Các

giai cấp tầng lớp trong xã hội đều sử dụng báo chí làm vũ khí chiến đấu để bảo

vệ địa vị chính trị và quyền lợi kinh tế của mình. Chính vì vậy, báo chí của giai

cấp nào thì phản ánh tôn chỉ mục đíc đường lối tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng

của giai cấp đó [31, 99].

Báo chí của các Đảng Cộng Sản được xác định là cơ quan ngôn

luận của Đảng, là sợi dây liên hệ giữa Đảng và giai cấp công nhân, là vũ khí đấu

tranh của gia cấp vô sản. Ph.Ăng ghen chỉ ra rằng: “ Đối với Đảng nhất là Đảng

của giai cấp công nhân thì việc lập ra tờ báo hàng ngày đầu tiên là cái mốc quan

trọng để tiến lên phía trước. Đó là nhận định ban đầu, từ đó Đảng sẽ tiến hành

cuộc đấu tranh với những đối thủ của mình bằng vũ khí tương xứng. Báo hàng

ngày là công cụ tuyên truyền, cổ động quần chúng không có gì thay thế được”

[36, 18].

C.Mác nhận định: “Báo chí sống trong nhân dân và trung thực chia

sẻ với nhân dân niềm hi vọng và sự lo lắng của họ. Trong hi vọng và lo lắng, có

điều gì báo chí nghe được từ cuộc sống, báo chí sẽ lớn tiếng loan tin cho mọi

người đều biết, báo chí tuyên bố sự phán xét của mình đối với những tin tức đó

một cách gay gắt, hăng say, phiến diện như những tình cảm và tư tưởng bị xúc

động thầm bảo nó vào lúc đó. Điều sai lầm hôm nay nằm trong các sự kiện mà

nó đưa tin, hoặc trong những lời nhận xét mà nó nêu lên thì ngày mai sẽ được

29

bản thân nó bác bỏ” [3, 237]. Từ nhận định trên cho thấy: báo chí cách mạng là

công cụ phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân, coi phong trào quần chúng là

cơ sở thực tiễn để phản ánh, chỉ có như vậy báo chí mới có thể bảo vệ được

quyền lợi của quần chúng một cách thiết thực.

V.I.Lê nin - người cộng sản ưu tú, kế thừa tư tưởng chủ nghĩa Mác

đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của báo chí trong phong trào cách mạng: “Chúng

ta cần trước hết là tờ báo, không có nó thì không thể tiến hành được một cách có

hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động hết sức nguyên tắc và toàn diện” [37, 10], “

Tờ báo không chỉ là người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể, mà còn là

người tổ chức tập thể… Nhờ có tờ báo, một tổ chức cố định tự nó hình thành, nó

không chỉ làm các công tác địa phương mà còn làm cả công tác chung thường

xuyên nữa, nó giúp cho những nhân viên của nó quen việc theo dõi chăm chú

những biến cố chính trị, đánh gia ý nghĩa của những biến cố ấy đến các tầng lớp

khác nhau trong nhân dân, và vạch ra cho đảng cách mạng những phương pháp

hợp lí để tác động đến những biến cố ấy” [37, 12]

Báo chí một mặt cung cấp thông tin cho công chúng, mặt khác nó

phản ánh những tâm tư nguyện vọng, ý kiến… của công chúng về những vấn đề

thời sự nóng bỏng của xã hội. Chính vì vậy, nó được xác định là một trong

những nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho những nhà quản lí xã hội.

Những quyết định quản lí chỉ thực sự phù hợp và hiệu quả khi nó dựa trên

những thông tin chính xác từ thực tế cuộc sống. V.I.Lênin đã yêu cầu thành lập

một uỷ ban đặc biệt để thu thập và xử lí thông tin ngay từ những ngày đầu cách

mạng: “Có thể và nhất thiết phải tổ chức một văn phòng như vậy, nó có thể đem

lại lợi lớn; không có nó, chúng ta sẽ không có mắt, không có tai, không có tay

để tham gia các phong trào quốc tế” [39, 156]

V.I.Lênin đề cao sự phù hợp giữa các yếu tố nội dung và hình thức

thể hiện của tác phẩm báo chí. Nó sẽ không đem lại hiệu quả cao với công

30

chúng khi nội dung thông tin tốt nhưng cách thể hiện không gần gũi, xa rời với

đời sống nhân dân: “Sự đơn giản, dễ hiểu và phổ cập, nội dung sinh động của tư

liệu đưa ra sẽ đảm bảo cho những tư tưởng của báo chí đi sâu vào lòng người

đọc thuộc mọi tầng lớp nhân dân” [38, 92].

Từ những quan điểm trên cho thấy: chủ nghĩa Mác – Lênin đánh

giá rất cao vai trò, cũng như hiệu quả của báo chí trong việc tác động vào xã

hội, nó làm thay đổi nhận thức, cũng như hành vi ứng xử của con người trong

thực tiễn cuộc sống. Hiệu quả của báo chí sẽ là một sức mạnh to lớn, góp phần

hình thành dư luận xã hội, định hướng dư luận xã hội tích cực trong công chúng.

1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về truyền thông đại chúng

Ở Việt Nam, nền báo chí cách mạng được đánh dấu bằng sự ra đời

của tờ báo “Thanh niên” ngày 21 tháng 6 năm 1925 do Hồ Chí Minh sáng lập.

Hồ Chí Minh - người chiến sĩ cộng sản ưu tú, nhà báo cộng sản đầu

tiên đã sáng lập ra nền báo chí cách mạng của giai cấp vô sản ở nước ta. Là

người kế thừa những tinh hoa của chủ nghĩa Mác – Ăng ghen, Lênin về báo chí

vô sản, áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam, quan điểm về báo chí của Hồ

Chí Minh rất cụ thể và sâu sát. Trước hết, đối với báo Đảng, Người cho rằng: tờ

báo của Đảng có nhiệm vụ làm cho tư tưởng và hành động thông suốt và thống

nhất. Cụ thể là tuyên truyền lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối chính

sách đối nội và đối ngoại của Đảng và của Chính phủ. Thông tin về tình hình

trong nước cũng như thế giới, những kinh nghiệm tốt, xấu của các nghành các

địa phương, phản ánh công tác học tập, công tác, tinh thần phê bình, tự phê

bình, cũng như đời sống và ý nguyện của nhân dân…Mỗi tờ báo Đảng là những

lớp huấn luyện đơn giản, thiết thực và rộng khắp: “Những tờ báo Đảng cung cấp

cho chúng ta những điều cần biết làm về công tác tuyên truyền, tổ chức, lãnh

đạo và công tác…nó giúp nâng cao trình độ chính trị và năng suất công tác của

chúng ta” [336, 337]. Hồ Chí Minh luôn xác định và đề cao vai trò của báo chí,

31

coi nó như một vũ khí sắc bén chiến đấu để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc:

“Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc

bén cuả họ” [377]. Đối với mỗi tờ báo để phục vụ được nhân dân tốt hơn đều

phải xác định nội dung, tôn chỉ mục đích cũng như đối tượng phục vụ rõ ràng:

- Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền cổ động, huấn luyện, Giáo

dục, và tổ chức dân chúng dể đưa dân chúng tới mục đích chung.

- Tôn chỉ mục đích của mỗi tờ báo là đoàn kết toàn dân, thi đua ái

quốc.

Đối tượng của báo chí là đại đa số dân chúng: “ Một tờ báo không

được đại đa số dân chúng ham chuộng, thì không xứng đáng là nột tờ báo”

[346]. Chính vì vậy, muốn để tờ báo được dân chúng ham chuộng, yêu thích thì

các tờ báo phải hết sức chú ý đến cảc mặt nội dung và hình thức của tờ báo. Về

nội dung “các bài báo phải đơn giản, dễ hiểu, phổ thông, thiết thực, hoạt bát”.

Về hình thức “ cách sắp đặt các bài, cách in phải sạch sẽ sáng sủa” [346]…

Không chỉ đối với những người làm báo, mà với tất cả các chiến sĩ

cách mạng trên các mặt trận Hồ Chí Minh đề cao vấn đề nhận thức, vì chỉ khi có

nhận thức con người mới có thể tự giác làm đúng, đi theo cái đúng cái cao cả: “

tuyệt đối cần thiết là chúng ta phải giúp đỡ các đồng chí của chúng ta khắc phục

những khó khăn ấy bằng cách tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thu những

kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sĩ cần phải có” [381].

Đối với nhà báo cách mạng trong đại hội lần thứ hai Hội nhà báo

Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Báo chí của chúng ta là phục vụ nhân dân

lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội,...cho hoà bình trên thế giới. Chính vì thế

cho nên, tất cả những người làm báo phải có lập trường chính trị vững chắc.

Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng

được” [366]. “Nhiệm vụ của mỗi người làm báo là quan trọng và vẻ vang.

32

Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư

tưởng, đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản, phải nâng cao trình độ

văn hoá, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình. Cần phải luôn cố gắng, mà cố

gắng thì nhất định thành công”. Trong hoạt động nghiệp vụ của nhà báo cách

mạng, mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ tư tưởng và lòng ước

ao của quần chúng. Chính vì vậy trong mỗi bài báo Hồ Chí Minh yêu cầu :

- Phải học cách nói của quần chúng. Chớ nói như giảng sách.

- Phải luôn dùng những lời lẽ những thí dụ đơn giản.

- Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu

được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi

của mình. Bao giờ cũng phải tự hỏi: “ Ta viết cho ai xem ? nói cho ai nghe”?

- Trước khi nói phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Sau khi

viết rồi phải xem đi xem lại ba bốn lần. [348, 349]

Hồ Chí Minh luôn xác định cách viết báo luôn gắn với hiệu quả

truyền thông của báo chí. Gắn báo chí với công chúng bằng hình thức thể hiện

phù hợp với cách nghĩ, cách hiểu, cách nói, cách làm, của công chúng, trên cơ

sở đó để truyền tải thông tin. Người nhấn mạnh : “Mình viết ra là cốt để Giáo

dục, cổ động; nếu người xem mà không nhớ được, không hiểu được, là viết

không đúng, nhằm không đúng mục đích. Mà muốn người xem hiểu được, nhớ

được, làm được thì phải viết cho đúng trình độ của người xem, viết rõ ràng gọn

gàng, không dùng chữ nhiều”.

Về cách viết báo trong bài giảng tại lớp chỉnh Đảng Trung ương

ngày 17 tháng 08 năm 1953, Người chỉ rõ, khi viết báo chúng ta phải luôn đặt ra

các câu hỏi : Vì ai mà viết? Mục đích viết để làm gì? và phải trả lời những câu

hỏi đó. Chẳng hạn, Viết cho ai? Viết cho đại đa số Công – Nông – Binh[10,

616]. Viết để làm gì? để giáo dục gải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần

33

chúng ...Viết cái gì? Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân ta…của bạn ta.

Đồng thời phê bình những khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ của nhân dân...

Không nên chỉ viết những cái tốt mà giấu những cái xấu. Nêu cái hay, cái tốt thì

phải có chừng mực, chớ phóng đại…Phê bình thì phải phê bình một cách thật

thà, chân thành đúng đắn chứ không phải để lợi dụng để nó phản tuyên

truyền[349].

Về vấn đề tài liệu để viết báo, trả lời câu hỏi lấy tài liệu ở đâu ?

Người chỉ rõ, muốn có tài liệu thì phải tìm, thông qua các hoạt động như: nghe,

hỏi, quan sát, thu thập từ các tài liệu thông tin khác và ghi chép[350].

Trả lời câu hỏi viết như thế nào? Người chỉ rõ : Cần phải tránh lối

viết “ rau muống” nghĩa là lằng nhằng “trường giang đại hải” làm cho người

xem như là “Chắt vắt vào rừng xanh”. Ngoài ra, Người còn yêu cầu viết báo

phải “ gọn gàng, rõ ràng, vắn tắt. Nhưng vắn tắt không phải là cụt đầu, cụt đuôi,

mà phải có đầu có đuôi”. Viết phải thiết thực “Nói có sách, mách có chứng” có

nghĩa là “ nói cái việc ấy ở đâu, thế nào, ngày nào, nó sinh ra thế nào, phát triển

thế nào, kết quả thế nào”. Người khuyên viết báo không nên “ham dùng chữ”;

Những chữ mà không biết rõ thì không nên dùng. Những chữ mà tiếng ta có thì

phải dùng tiếng ta. Đặc biệt, trong lúc viết thì phải chú ý giữ bí mật nó được coi

là điều kiện cơ bản để đảm bảo hiệu quả thông tin.[339, 340, 341]

Trong Đại hội lần thứ III Hội nhà báo Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc

biệt nhấn mạnh đến hiệu quả tác động của báo chí tới sự hình thành dư luận xã

hội. Người chỉ rõ báo chí phải giữ nhiệm vụ định hướng dư luận xã hội chứ

không được phép vuốt đuôi dư luận xã hội. Các phương tiện truyền thông đại

chúng được xác định có vai trò hết sức quan trọng trong việc “đem ý kiến đúng

đã được lựa chọn đến với người dân để họ so sánh, bàn bạc, lựa chọn lại”; Trên

cơ sở đó “phải khéo léo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái

đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét,

34

giải quyết các vấn đề mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân” [363, 364, 365,

366]

Có thể nói, quan điểm về báo chí và hoạt động báo chí của Hồ Chi

Minh cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Những quan điểm, tư tưởng đó được

coi là cách thức để đảm bảo dư luận xã hội của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã

hội, để chúng thực sự trở thành công cụ, đối tượng để lãnh đạo, quản lí xã hội

theo mục tiêu phát triển bền vững.

1.1.3 Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về truyền thông đại

chúng

Đảng Cộng Sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân

Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Ra đời ngày 03 tháng 02 năm

1930 Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam

cho mọi hoạt động của mình. Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách

mạng đem lại độc lập tự do cho đất nước. Trong các quá trình cách mạng, báo

chí được sử dụng như một phương tiện hữu hiệu để đấu tranh giành thắng lợi.

Đảng chỉ rõ báo chí phải luôn đi đầu trong trong việc tuyên truyền,

bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của

Đảng. Trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện

nay, Đảng lãnh đạo báo chí là điều kiện quan trọng để khơi dậy được nhiệt tình

cách mạng, sức sáng tạo, tiềm năng trí tuệ to lớn của nhân dân, tổng kết các

kinh nghiệm phong phú, sinh động từ thực tiễn để góp phần hoàn thiện đường

lối, chính sách của Đảng, thực hiện quá trình “ tự Giáo dục” của nhân dân.

Trên cơ sở nhận thức đó, Đảng luôn đề cao vai trò của hoạt động

báo chí; coi báo chí là “công cụ sắc bén trọng công tác tư tưởng của Đảng”, là

“lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hoá” [45]. Hiện nay báo chí

cũng được đặt vào vị trí xung kích trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước,

35

dân chủ hoá đời sống xã hội, cổ vũ, phát hiện những nhân tố mới, tích cực trong

cuộc sống; giám sát công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và bộ máy Nhà nước,

thúc đẩy phát triển kinh tế, thoả mãn nhu cầu thông tin, nâng cao dân trí của

nhân dân.

Hiện nay, sau hơn 20 năm đổi mới đất nước ta đã có sự phát triển

tương đối toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có báo chí.

Hệ thống báo chí của chúng ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, vận hành trong cơ

chế thị trường đã có được những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất

lượng, ngày càng đáp ứng được nhu cầu thông tin của công chúng trong xã hội.

Nội dung thông tin được chuyển tải trên báo chí ngày càng phong phú, đa dạng

và đặc biệt là vấn đề được đề cập xác thực hơn, đã thu hút được sự quan tâm của

công chúng; khiến họ cảm nhận những vấn đề thời sự xã hội như là “ chuyện

của mình”. Phương thức thông tin đa dạng, sinh động, hình thức đẹp, hấp dẫn…

Nói chung trong giái đoạn hiện nay, báo chí của chúng ta đã dần tiếp cận được

với trình độ của báo chí hiện đại trên thế giới.

Bắt nguồn từ đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, đường lối chính trị

cũng từng bước hoàn thiện, trong đó có sự đổi mới công tác tư tưởng và văn

hoá. Định hướng tư tưởng và quan điểm báo chí cũng có những bước đổi mới

đáng kể. Từ việc xác định “ Báo chí là công cụ tư tưởng sắc bén của Đảng” đến

quan điểm “ Báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà nước,của các tổ chức xã

hội, là diễn đàn của nhân dân” được coi là một bước phát triển mới của lí luận

báo chí cách mạng. Từ quan điểm này cho thấy: thông tin báo chí là đa dạng,

phong phú, nhiều chiều nhưng phải vận hành trong sự quản lí có tính định

hướng của Đảng, Nhà nước.

Quan điểm này đã thể hiện được mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa

Đảng và dân. Trên cơ sở “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, báo chí một

mặt tuyên truyền đường lối chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, đến với

36

công chúng, một mặt phản ánh những ý kiến, nguyện vọng của công chúng

trong quá trình thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước. Có thể nói,

báo chí là chiếc cầu nối giữa Đảng và dân, là kênh liên hệ giữa dân và Đảng, là

cầu nối tin cậy giữa văn bản chính sách và thực tế cuộc sống.

Ngoài ra, Đảng còn xác định báo chí là một trong những yếu tố

quan trọng hàng đầu để xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc.

Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định vai trò giám sát xã hội của truyền

thông đại chúng thông qua việc phản ánh thực tiễn cuộc sống và định hướng dư

luận xã hội, nâng cao nhận thức cho công chúng, đồng thời chỉ rõ: các cơ quan

truyền thông đại chúng “ vừa phải hiểu rõ nguyện vọng, tâm tư của quần chúng

để phục vụ tốt và phản ánh với Đảng, vừa có trách nhiệm tạo cho được dư luận

quần chúng đúng đắn” [1, 114]. Để thực hiện được điều đó, các cơ quan truyền

thông đại chúng phải “ coi trọng việc nâng cao chất lượng thông tin đại chúng,

tính chân thật, tính chiến đấu và tính đa dạng của thông tin” [2, 112].

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, được soi sáng bởi lí luận của chủ

nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình phát triển báo

chí cách mạng Việt Nam luôn gắn mật thiết, đi cùng và phản ánh từng nhiệm

vụ, diễn biến của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa

xã hội và đặc biệt là công cuộc đổi mới hiện nay.

1.1.4 Lý thuyết của M.Weber về đối tượngnghiên cứu của truyền thông

đại chúng

M.Weber là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “xã hội học báo chí”

trong bài phát biểu tại kỳ họp thứ nhất của Hội Xã hội học Đức. Ngay từ năm

1910, M.Weber đã đặt luận cứ cho các nghiên cứu xã hội học truyền thông đại

chúng, đã xếp nghiên cứu về công chúng ở vị trí hàng đầu trong các vấn đề cần

37

phải ưu tiên của xã hội học truyền thông đại chúng. Ông cũng chỉ ra rằng:

truyền thông đại chúng tạo nên các tương tác xã hội để hình thành hành động xã

hội phù hợp với định hướng xã hội.

M.Weber đã luận chứng về mặt phương pháp luận cho sự cần thiết

của môn xã hội học báo chí và đã vạch ra phạm vi các vấn đề của nó:

- Hướng vào các tập đoàn, các tầng lớp xã hội khác nhau.

- Phân tích các yêu cầu của xã hội đối với nhà báo.

- Các phương pháp phân tích báo chí.

- Phân tích hiệu quả của báo chí đối với việc xây dựng con người.

Lập luận của M.Weber chỉ rõ tác động của báo chí đối với việc

hình thành ý thức quần chúng và dư luận xã hội và vạch ra mối liên hệ giữa các

nhân tố này với hành động xã hội của cá cá nhân và các tầng lớp xã hội [53].

Trên cơ sở lập luận của M.Weber cho thấy các phương tiện truyền thông đại

chúng được xác định là một tác nhân quan trọng đối với quá trình xã hội hoá cá

nhân và hình thành dư luận xã hội.

Từ các đề xuất của M.Weber cho thấy, việc nghiên cứu xã hội học

về truyền thông đại chúng thì hướng nghiên cứu công chúng giữ vị trí quan

trọng hàng đầu. Hướng nghiên cứu này đã được các nhà nghiên cứu coi trọng

trong suốt các qúa trình phát triển của xã hội học về truyền thông đại chúng.

Thông qua các phân tích thực nghiệm, ghi nhận rằng xã hội càng phát

triển thì công chúng càng chủ động hơn trong hoạt động giao tiếp với các

phương tiện truyền thông đại chúng. Không những thế, họ còn chủ động hơn

trong việc sử dụng những thông tin tiếp nhận được từ hệ thống này áp dụng vào

hoạt động thực tiễn.

38

1.1.5 Mô hình của H.Lasswell và C.Shannon về truyền thông đại chúng

Trong lịch sử nghiên cứu sự phát triển của truyền thông đại chúng,

các nhà nghiên cứu đã đưa ra hai loại mô hình truyền thông cơ bản, đó là mô

hình truyền thông một chiều mang tính áp đặt và mô hình truyền thông đại

chúng hai chiều mềm dẻo.

Mô hình truyền thông một chiều áp đặt là mô hình truyền thông

đơn giản; Nó được hiểu là quá trình truyền thông tin giữa hai cá nhân, hay hai

nhóm người với nhau, trong đó một cá nhân hay một nhóm người giữ vai trò là

người truyền tin, truyền đi những thông điệp với tư cách là những tác nhân kích

thích nhằm để sửa đổi hành vi của những cá nhân hay nhóm người khác.

Năm 1948, H.Lasswell đã đưa ra mô hình truyền thông đại chúng

một chiều[26, 42] bao gồm những yếu tố:

- Who : Nguồn phát, chủ đề truyền thông

- Says what : Thông điệp, nội dung truyền thông

- Inh Which Channel : Kênh tuyền thông

- To Whom : Người nhận thông điệp

- With What Effects : Hiệu quả truyền thông

S M C R E

39

S (Source Sender) : Nguồn phát, chủ đề truyền thông

M(Message) : Thông điệp, nội dung truyền thông

C(Channel) : Kênh tuyền thông

R(Receiver) : Người nhận thông điệp

E(Effect) : Hiệu quả truyền thông

Từ mô hình truyền thông trên cho thấy, phương thức thông tin được

chuyển tải theo một chiều. Bắt đầu từ nguồn phát, những thông điệp được

truyền qua kênh truyền thông, đến người tiếp nhận thông tin. Khi hoàn thành

quá trình này sẽ tạo ra hiệu quả thông tin.

Đây là mô hình thông tin đơn giản, nhưng rất thuận lợi khi chuyển tải

những thông tin nhanh. Trong mô hình này, nguồn phát giữ vai trò quyết định,

có khả năng áp đặt quan điểm, tư tưởng của mình đối với người tiếp nhận thông

tin. Công chúng chỉ tiếp nhận thông tin một cách thụ động, không có họăc ít có

sự phản hồi trở lại dù đó là sự tác động tích cực để thấy được thái độ tiếp nhận

thông tin của công chúng hoặc những thông tin đã chuyển tải có phù hợp hay

không. Chính vì những hạn chế như vậy nên mô hình truyền thông này chưa

làm thoả mãn được nhu cầu thông tin, chưa thu hút, chưa tạo được sự quan tâm

của công chúng.

Khi C.Shannon đưa ra mô hình quá trình truyền thông hai chiều mềm dẻo

đã khắc phục được nhược điểm của mô hình truyền thông một chiều. Ông đã

đưa vào mô hình thông tin của mình những yếu tố mới đó là :

- F( Feedback) : Thông tin phản hồi từ người tiếp nhận thông

tin

40

N( Noise) : Nhiễu ( những yếu tố tạo sai số trong thông -

tin)

N

S M C R E

F

Từ mô hình trên cho thấy, thông tin được truyền đi từ nguồn phát

(S) qua các kênh thông tin đến với người nhận (R) qua quá trình xử lý, thu được

hiệu quả thông tin (E), hiệu quả thông tin sẽ định hướng suy nghĩ và hành động

của công chúng, từ đó tạo ra phản ứng của công chúng ngược lại với nguồn phát

(F). Nhờ có thông tin phản hồi mà các nhà cung cấp thông tin nắm được hiệu

quả thông tin đạt được mức độ nào, những thông tin cung cấp có phù hợp với

nhu cầu của công chúng hay không, trên cơ sở đó để điều chỉnh nội dung cũng

như hình thức thông tin cho phù hợp với từng loại đối tượng tiếp nhận.

Trong quá trình truyền thông, các thông điệp đến với người tiếp nhận

không đầy đủ, hoặc không tạo ra hiệu quả thông tin chính xác, đó là sự ảnh

hưởng của hiện tượng nhiễu (N). Hiện tượng nhiễu tạo ra những sai sót trong

quá trình chuyền tải và tiếp nhận thông tin.

Nếu xét về mặt bản chất thì mô hình truyền thông hai chiều của C.

Shannon là sự phát triển logic từ mô hình truyền thông của H.Lasswell. Trong

điều kiện xã hội phát triển, được sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật và công nghệ,

41

nhiều phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại ra đời nó cho phép thiết lập

mối quan hệ hai chiều liên tục, trực tiếp giữa nguồn phát và người tiếp nhận

thông tin. Trong mô hình truyền thông này, vai trò của công chúng tiếp nhận

được xem là một trong những yếu tố quyết định quá trình truyền thông. Tính

tích cực của công chúng với tư cách là đối tượng tiếp nhận thông tin, không chỉ

chỉ thể hiện ở việc lựa chọn những thông điệp tiếp nhận…mà còn là sự tham gia

trực tiếp, trở thành một yếu tố quyết định trong quá trình thực hiện hoạt động

truyền thông đại chúng.

Trên cơ sở này, có thể thấy trong việc nghiên cứu hiệu quả của truyền

thông đại chúng thì vấn đề nghiên cứu công chúng có vai trò hết sức quan trọng,

nó cho phép nhà truyền thông nắm bắt được nhu cầu, hình thành được nội dung

và phương pháp nghiên cứu thích ứng.

1.2 Các khái niệm

1.2.1 Truyền thông

Truyền thông tương ứng với thuật ngữ “communication” trong tiếng Anh

hoặc tiếng Pháp – là một dạng hoạt động căn bản của bất kỳ một tổ chức mang

tính xã hội nào. Hiện nay, chưa có một định nghĩa nào làm hài lòng các học giả

và giới nghiên cứu về truyền thông. Tuỳ theo lĩnh vực và góc độ nghiên cứu mà

người ta đưa ra những định nghĩa về truyền thông khác nhau:

Truyền thông là quá trình truyền thông tin có nghĩa giữa các cá -

nhân với nhau.

- Truyền thông là quá trình trong đó một cá nhân (người truyền tin)

truyền những thông điệp với tư cách là những tác nhân kích thích để sửa đổi

hành vi của những cá nhân khác.

42

- Truyền thông xảy ra khi thông tin được truyền từ nơi này đến nơi

khác.

- Không phải đơn thuần là sự chuyển tải các thông điệp bằng ngôn

ngữ xác định và có ý định trước mà nó bao hàm cả các quá trình trong đó con

người gây ảnh hưởng, tác động đến một người khác.

Từ những quan niệm trên có thể hiểu một cách chung nhất về

truyền thông như sau: “Truyền thông là hoạt động chuyển tải và chia sẻ thông

tin . Quá trình này diễn ra liên tục, trong đó tri thức, tình cảm, kỹ năng liên kết

với nhau, đây là một quá trình phúc tạp, qua nhiều mắt nhiều khâu, các mắt,

khâu đó chuyển đổi tương đối linh hoạt để hướng tới sự nhận thức và hành vi

của các cá nhân và các nhóm”.

Bản chất của qua trình truyền thông là truyền đạt thông tin từ nơi này đến

nơi khác. Truyền thông thường được thực hiện thông qua lời nói, chữ viết

nhưng cũng có thể thực hiện thông qua cử chỉ, điệu bộ hay hành vi để biểu thị

thái độ hay cảm xúc.

1.2.2 Truyền thông đại chúng

Thuật ngữ truyền thông đại chúng “ mass communication” được

hiểu là quá trình truyền tải thông tin một các rộng rãi hướng đến đông đảo mọi

thành viên trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (mass

media).

Chúng ta có thể đưa ra khái niệm cơ bản về truyền thông đại chúng: là

một hoạt động nhờ đó mà các thông điệp do nhiều người sản xuất được truyền

đạt đến đông đảo người nhận.

43

Sự khác biệt cơ bản giữa truyên thông và truyền thông đại chúng là số

lượng công chúng tiếp nhận thông tin, nhưng sự khác nhau về số lượng của

hàng triệu người tiếp nhận đã trở thành sự khác nhau về chất lượng.

Mô hình truuyền thông đại chúng cơ bản cũng giống như mô hình

truyền thông; Từ nguồn phát các thông điệp được truyền đến người tiếp nhận

thông qua các kênh truyền và từ người tiếp nhận tạo ra thông tin phản hồi lại

nguồn phát. Mặc dù sự khác biệt cơ bản giữa truyền thông đại chúng và truyền

thông giữa các cá nhân là số lượng người tiếp nhận và thời gian thông tin. Tuy

nhiên, truyền thông đại chúng cũng có khi đông đảo công chúng tiếp nhận thông

tin ngay lập tức, đồng thời với thời điểm xảy ra sự kiện như các chương trình

truyền hình hoặc phát thanh trực tiếp…cũng có khi các nhân tiếp nhận thông tin

lại diễn ra trong một thời gian khá dài như với phim ảnh, thậm chí hàng thế kỉ

như với các cuốn sách.

Truyền thông đại chúng được hiểu là giao tiếp đại chúng. Đó là sự

truyền bá với số lượng lớn những nội dung giống nhau cho những nhóm đông

người trong xã hội dựa vào kỹ thuật truyền bá tập thể [55].

Giao tiếp đại chúng và giao tiếp cá nhân có những điểm khác biệt

rất căn bản, tạo nên những ưu thế và hạn chế khác nhau. Giao tiếp đại chúng là

hình thức giao tiếp gián tiếp thông qua các phương tiện kỹ thuật, thể hiện định

hướng xã hội rõ ràng trong giao tiếp, nó có tính tổ chức và chịu sự tác động của

thiết chế xã hội, với những chuẩn mực chung ở mức độ cao, thông tin đến với

công chúng theo tính định kỳ, thể hiện rõ nét tính tập thể của nhà truyền thông.

Giao tiếp cá nhân là hình thức giao tiếp trực tiếp, trong đó có cả định hướng xã

hội và định hướng cá nhân, thể hiện rõ tính cá thể của nhà truyền thông. Tuy có

cả tính tổ chức lẫn tự phát nhưng người tham gia giao tiếp cá nhân có thể tự do

hơn trong việc tuân thủ chuẩn mực giao tiếp và thông tin không nhất thiết phải

có tính định kỳ. Ưu điểm nổi bật của giao tiếp cá nhân trực tiếp là sự liên hệ

44

ngược giữa những người giao tiếp trong quá trình giao tiếp, giao tiếp đại chúng

không thực hiện được mối liên hệ này.

1.2.3 Hiệu quả truyền thông đại chúng

Hiệu quả của truyền thông đại chúng trong đó báo chí là cơ bản

được hiểu là: “việc vận dụng các quy luật, các nguyên tắc, hình thức, phương

pháp hoạt động báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình

nhằm đạt mục đích” [31,170].

Để đạt hiệu quả cao trong truyền thông, các nhà cung cấp phải giải

quyết tốt mối quan hệ tác động trước hết từ các thiết chế xã hội mà các phương

tiện truyền thông là công cụ. Thứ đến là các quan hệ từ phía công chúng. Mối

quan hệ giữa báo chí và công chúng là quan hệ biện chứng hai chiều. Mối quan

hệ này thể hiện tính chính trị - xã hội tích cực của bản thân hệ thống báo chí và

công chúng báo chí. Hiệu quả của hoạt động báo chí phụ thuộc trực tiếp vào

mối quan hệ này.

Trong góc độ nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi hiểu hiệu quả

của truyền thông đại chúng là sự thay đổi trong nhận thức, tình cảm cũng như

hành vi của công chúng so với trạng thái trước khi tiếp nhận thông tin từ các

phương tiện truyền thông. Hiệu quả truyền thông cao thể hiện bằng việc công

chúng luôn quan tâm theo dõi đến những vấn đề được truyền tải, luôn nhận thức

xử lí được thông điệp và biến nó thành hành động thực tiễn.

1.2.4. Công chúng của truyền thông đại chúng

Công chúng truyền thông đại chúng được chúng tôi hiểu như là đối

tượng của các phương tiện truyền thông đại chúng.

Công chúng của truyền thông đại chúng được xác định là tất cả các

tầng lớp, giai cấp, các cộng đồng người trong xã hội tiếp nhận thông tin từ các

45

phương tiện truyền thông đại chúng. Lượng công chúng của truyền thông đại

chúng là không thể xác định chính xác. Tuy nhiên, mỗi nhóm công chúng có

những đặc thù riêng, mỗi cá nhân trong đó khi chịu tác động của các thông điệp

truyền thông sẽ có những cách suy nghĩ và hành động khác nhau.

Nhà xã hội học H.Blumer đã phân biệt bốn đặc điểm sau đây đề nhận

dạng khái niệm đại chúng.[39]

- Đại chúng bao gồm những người thuộc mọi thành phần xã

hội, bất kể đại vị nghề nghiệp, trình độ học vấn hay tầmh lớp xã hội nào.

- Nói đến đại chúng là nói đến những cá nhân nặc danh.

- Các thành viên của đại chúng thường là cô lập nhau xét về

mặt không gian, không ai biết ai, mà cũng không có sự tương tác hay

những mối quan hệ gì gắn bó với nhau ( khác với những khái niệm như

“cộng đồng” hay “ hiệp hội” ).

- Đặc điểm thứ tư của đại chúng là hầu như không có hình

thức tổ chức gì, hoặc nếu có thì cũng rất lỏng lẻo, và do đó khó có thể tiến

hành một hoạt động chung nào.

Trong thực tế, đa số người tiếp nhận thông tin từ các phương tiện

truyền thông đại chúng nhất định sẽ có những trao đổi với những nhóm công

chúng khác. Nội dung thông điệp mà các phương tiện truyền thông đại chúng

truyền tải thường xuyên là đề tài của các cuộc tranh luận hàng ngày trong cuộc

sống. Và như vậy, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng đã

được mở rộng một cách gián tiếp, cũng có thể lượng công chúng được mở rộng

này sẽ lớn hơn lượng công chúng trực tiếp tiếp nhận thông tin.

46

Khi mà báo chí ngày càng làm thoả mãn nhu cầu thông tin của

công chúng, thì trên cơ sở đó nhu cầu thông tin của công chúng cũng ngày một

cao hơn luôn đặt ra cho báo chí những yêu cầu mới

Công chúng tiếp nhận thông tin là cơ sở để hình thành dư luận xã

hội , dư luận xã hội tác động trở lại với hoạt động của hệ thống các phương tiện

truyền thông đại chúng. Thước đo về sự phản hồi từ công chúng là một chỉ báo

căn bản về hiệu quả hoạt động của các phương tiện truuyền thông đại chúng

trong việc hình thành và định hướng dư luận xã hội. Dư luận từ công chúng có

vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động

của báo chí.

1.2.5 Công chúng sinh viên báo chí

Sinh viên nói chung và sinh viên báo chí nói riêng là một bộ phận

chuyên biệt của công chúng báo chí. Ngoài những đặc điểm xã hội chung ở họ

mang những dấu hiệu nhận diện đặc thù bởi vị trí, vai trò trong xã hội.

Trước hết họ được xác định là nhóm dân số nằm trong độ tuổi Thanh

niên. Theo luật Thanh niên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày

09-12-2005 quy định Thanh niên là nhóm công dân “đủ từ 16 đến 30 tuổi”

[15,17]

Sinh viên báo chí mang những dấu hiệu nhận diện đặc thù:

- Có độ tuổi trung bình khoảng từ 18 – 24

- Có trình độ tri thức tương đối cao trong xã hội

- Đang học tập ngành báo chí, trong một trường Đại học hoặc Cao

đẳng.

47

Ngoài ra họ còn mang những đặc điểm chung của nhóm Thanh niên [35] như:

- Là nhóm dân cư có tốc độ phát triển nhanh về thể chất, có sức

khoẻ, nhạy bén, tiếp thu nhanh, nhu cầu xã hội cao

- Đang trong thời kỳ học hỏi, ước mơ thành đạt, sáng tạo, dễ hấp

thụ cái mới, mạnh dạn, năng nổ.

- Họ luôn khát vọng vươn tới tầm cao của các giá trị, muốn được

cống hiến, muốn tự do dân chủ, muốn công bằng xã hội.

1.3. Địa điểm khảo sát và đối tượng nghiên cứu

1.3.1. Vài nét về địa điểm khảo sát

Trường Cao Đẳng Phát thanh - truyền hình TW1 trực thuộc Đài

Tiếng Nói Việt Nam, hiện đóng trên địa bàn phường Minh Khai, thị xã Phủ Lý,

tỉnh Hà Nam là trường Cao đẳng đầu tiên đào tạo ngành báo chí Phát thanh -

Truyền hình trên cả nước.

Được thành lập trên cơ sở Trường trung học Phát thanh - Truyền hình,

tiền thân là trường Công nhân kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình. Được thành

lập tháng 12 năm 1957 tại Nghi Tàm, Từ Liêm, Hà Nội với nhiệm vụ đào tạo

cán bộ cho nghành Phát thanh - Truyền hình của các tỉnh phía Bắc từ thừa Thiên

- Huế trở ra.

Tháng 7 năm 1996, nhà trường được nâng cấp từ trường Công nhân

kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình thành trường trung học Phát thanh - Truyền

hình với nhiệm cụ đào tạo kỹ thuật viên, biên tập viên bậc trung học và công

nhân kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình bậc 3/7.

Tháng 12 năm 2003 trường được nâng cấp từ Trường Trung học

Phát thanh - Truyền hình lên Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1.

48

Đây là một bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển của một trường đào tạo của

nghành, nó đánh dấu kết quả sự nỗ lực không ngừng của các thế hệ giáo viên,

cán bộ, công nhân viên của nhà trường. Mặt khác, việc nâng cấp nhà trường

cũng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của phát thanh - truyền hình theo xu

hướng hiện đại.

Trong 50 năm qua, nhà trường đã đào tạo hàng chục ngàn cán bộ

kỹ thuật và phóng viên biên tập góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng

và phát triển mạng lưới Phát thanh - Truyền hình của cả nước. Góp phần đào tạo

nhân lực cho ngành để thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền đường lối chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao

của công chúng.

Tính đến nay, nhà trường đã đào tạo được 11 khoá học sinh trung

cấp biên tập , kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình với khoảng 2500 học sinh. Đào

tạo 7 khoá nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ các đài địa phương vói gần 500 học

viên. 52 khoá công nhân kỹ thuật với hơn 12000 học sinh.

Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, nhà trường thực hiện

đa dạng hoá các loại hình đào tạo bằng việc liên kết với trường Đại học

KHXH&NV đào tạo 2 khoá sinh viên báo chí bậc đại học với gần 200 sinh viên.

Liên kết với trường Đại học Công nghệ thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội đào tạo

3 khoá với 153 sinh viên. Ngoài ra nhà trường còn liện kết với Đại học Bách

Khoa Hà Nội đào tạo 11 khoá cử nhân cao đẳng điện tử viễn thông, Đại học

Ngoại Ngữ Hà Nội đào tạo bậc đại học, và liên kết với các trường nghiệp vụ

Phát thanh - Truyền hình ở các tỉnh như: Nghệ an, Thanh hoá, Hải phòng, Hải

dương, Nam định, quận Hoàng mai Hà Nội, truyền hình Cáp Hà Nội…đào tạo

trên 5000 học sinh hệ trung cấp phóng viên biên tập, kỹ thuật điện tử và công

nhân kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình.

49

Hiện nay, tại trường đang đào tạo 4 nghành chính quy cho 2200

sinh viên và học sinh tại trường. Trong đó sinh viên nghành báo chí chiếm số

lượng lớn nhất với khoảng 1700 sinh viên các hệ. Ngành tin học 270 sinh viên.

Ngành kỹ thuật Phát thanh Truyền hình và kỹ thuật Điện tử viễn thông khoảng

230 sinh viên các hệ.

Nhà trường hiện có 1 hệ thống thư viện hiện đại, trong đó có hàng

nghìn đầu sách các loại, khoảng hơn 40 đầu báo và tạp chí với hàng trăm tờ

báo…Bên cạnh đó nhà trường còn có một hệ thống truyền thanh vừa để thực

hiện những chương trình phát thanh nội bộ, vừa thực hiện tiếp sóng Đài Tiếng

Nói Việt Nam và Đài phát thanh Hà Nam

Ngoài ra, nhà trường còn trang bị hệ thống mạng Internet không dây

trong toàn trường, dự kiến tới đây sẽ phủ sóng hệ thống này tới toàn bộ khu kí

túc xá sinh viên. Đây là điều kiện thuận lợi để sinh viên học tập và rèn luyện và

giải trí ngoài giờ học.

Có thể nói, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các phương tiện truyền

thông đại chúng tạo điều kiện cho công chúng tiếp thu được những yếu tố văn

hoá mới, nâng cao khả năng trong giao tiếp đại chúng và hoà nhập xã hội. Việc

đọc báo, nghe phát thanh, xem truyền hình và truy cập internet… đã trở thành

một sinh hoạt văn hoá quan trọng, không thể thiếu trong đời sống tinh thần của

xã hội nói chung và đặc biệt là nhóm sinh viên báo chí được nghiên cứu nói

riêng.

1.3.2. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu

Chúng tôi tiến hành khảo sát tại trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền

hình TW1 trực thuộc Đài Tiếng Nói Việt Nam, đóng trên địa bàn phường Minh

Khai, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam năm 2007. Cụ thể là :

50

Nhóm sinh viên năm thứ nhất được khảo sát đối vói sinh -

viên hệ trung cấp báo chí K11.

Nhóm sinh viên năm thứ ba được khảo sát đối vói sinh viên -

hệ cao đẳng báo chí K2.

Nhóm sinh viêm năm thứ năm được khảo sat đối với sinh -

viên hệ đại học báo chí K1.

Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu như sau:

Tổng số 400 phiếu được chia theo các nhóm sinh viên. Cụ thể là:

Nhóm đối Số lượng trong Tỉ lệ %

tượng mẫu

Sinh viên năm 100 25

thứ nhất

200 50 Sinh viên năm

thứ ba

Sinh viên năm 100 25

thứ năm

400 100 Tổng

51

Cơ cấu về giới tính trong mẫu nghiên cứu

Giới tính Số lượng trong Tỉ lệ %

mẫu

154 38.5 Nam

246 61.5 Nữ

400 100 Tổng

Độ tuổi trong mẫu nghiên cứu:

Nhóm tuổi Số lượng trong Tỉ lệ %

mẫu

136 34 18 - 20

239 60 21 – 23

25 6 >24

52

400 100 Tổng

Bậc đào tạo của mẫu nghiên cứu:

Bậc đào tạo Số lượng trong Tỉ lệ %

mẫu

Bậc trung cấp 100 25

Bậc cao đẳng 200 50

Bậc đại học 100 25

400 100 Tổng

53

CHƯƠNG II

CÁCH THỨC, MỨC ĐỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC QUAN

TÂM TRONG GIAO TIẾP ĐẠI CHÚNG CỦA CÔNG CHÚNG SINH

VIÊN BÁO CHÍ

2.1. Các phương tiện truyền thông đại chíng và cách thức tiếp nhận

của công chúng sinh viên báo chí

2.1.1. Các phương tiện truyền thông đại chúng

Trong những năm đầu của thế kỷ 21, tình hình kinh tế - xã hội của

Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Nhiều năm liền, tỷ lệ tăng trưởng

GDP ở mức cao trung bình là 7%, năm 2005, đạt mức 8,4% [42].

Kinh tế phát triển, đời sống của người dân được nâng cao, trình độ

dân chí phát triển (hiện nay, tỷ lệ mù chữ ở Việt Nam chưa đầy 7%, “Rất thấp

so với thế giới” [42]). Theo tổng kết của Bộ văn hoá – Thông tin, trong thời kỳ

đổi mới, “Hệ thống báo chí nước ta có bước phát triển quan trọng cả về loại

hình, số lượng và chất lượng” [26], với đầy đủ các phương tiện truyền thông

tiên tiến nhất trên thế giới. Ngoài sự phát triển khởi sắc của 3 loại hình báo chí

truyền thống là báo in, báo nói, báo hình, là sự nở rộ của loại hình báo điện tử

(hay còn gọi là báo trực tuyến, báo online), và sự “kì diệu” của các loại hình báo

chí qua điện thoại di động. Thực sự chúng tôi chưa dám khẳng định số liệu

chính thức và mới nhất về báo chí Việt Nam hiện nay, cũng như chưa có được

số liệu tăng trưởng báo chí trong vòng 5 năm trở lại đây. Số liệu được xem là

chính thức đối với báo chí trong và ngoài nước dừng lại ở mốc năm 2005, chủ

yếu lấy từ hai nguồn: Bộ Văn hoá – Thông tin (các phát biểu trước báo giới của

Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Phạm Quang Nghị và Thứ trưởng Bộ Văn

hoá – Thông tin Đỗ Quý Doãn) và Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương (Phát

biểu của Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương Nguyễn Khoa Điềm).

54

Các số liệu cập nhật về mảng báo nói, báo hình, báo trực tuyến và các thông tin

khác chủ yếu trích dẫn từ các báo và các câu chuyện hậu trường nghề báo.

2.1.1.1. Về báo in

Theo thống kê của Bộ Văn hoá – Thông tin, nước ta hiện có 553 cơ quan

báo chí, trong đó có 157 tờ báo và 396 Tạp chí với 713 ấn phẩm báo chí và

khoảng hơn 1.000 bản in [26].

(Ngoài ra, còn có một số liệu khác là 676 cơ quan báo chí trong đó

có 618 “Loại báo in” với hơn 600 triệu bản/năm2).

Theo nhận định của tác giả Nguyễn Lê Hoàn,“kể từ khi mở cửa

kinh tế, số lượng báo in Việt Nam tăng lên nhanh chóng, đến 2004 có hơn 500

cơ quan báo chí với khoảng trên 650 ấn phẩm thay vì 268 ấn phẩm năm 1992.”

[15]. Như vậy, chỉ trong vòng 12 năm, số lượng ấn phẩm ở nước ta đã tăng gần

gấp 3.

Về tổng số lượng phát hành, theo giáo trình “Công tác tổ chức và

quản lý cơ quan báo chí”, giảng viên Bùi Huy Lan cho biết con số phát hành

bình quân của hơn 700 ấn phẩm báo, tạp chí, bản in, xuất bản là gần 2triệu

bản/ngày, trong đó tổng số phát hành của khoảng 160 tờ báo là 1,7 triệu

bản/ngày và của 400 tờ tạp chí là 300.000 bản/ngày. Cả nước có gần 20 tờ báo

xuất bản hàng ngày (được gọi và không được gọi là nhật báo), với con số phát

hành khoảng 1,2 triệu bản/ngày; có gần 20 bản tin thời sự, tin chuyên ngành, tin

Thông Tấn Xã xuất bản hàng ngày với số lượng phát hành hàng trăm ngàn

bản/ngày. Tính bình quân số phát hành các ấn phẩm hàng năm là 600 triệu bản/

năm. Có những tờ báo đạt tới con số phát hành 380.000 bản/ngày như tờ Tuổi

Trẻ (Số liệu năm 2006), song cũng có những tờ báo chỉ đạt ở mức 1500 – 2000

bản/ngày như hầu hết các tờ báo Đảng ở địa phương.

55

Tình hình đầu năm 2006 lại càng thấy rõ sự phát triển quyết liệt ở

mảng báo in: TP.HCM từ chỉ có 1 tờ nhật báo đúng nghĩa (tờ Sài Gòn Giải

Phóng) nay đã có đến 3 tờ (thêm Tuổi Trẻ và Thanh niên). Các tờ báo cũng

đồng loạt ra những ấn phẩm mới, nhất là ấn phẩm ngày chủ nhật (cuộc chiến

của báo Tuổi trẻ với báo Thanh niên, báo Pháp Luật), tạo nên sự đa dạng các ấn

phẩm báo chí ngay trong cùng một cơ quan. Các báo có sự cải tiến về mặt nội

dung và hình thức, thêm nhiều chuyên mục mới, đặc biệt có sự đổi mới ở các

trang quảng cáo, (những tờ báo lớn thường tặng kèm trang thông tin tiêu dùng).

Về mảng tạp chí, tác giả Văn Hùng, công tác ở Vụ Báo chí (Ban Tư tưởng –

Văn hoá Trung ương) qua bài viết “Phát triển và quản lý hệ thống tạp chí” đã

cho thấy một nhận định gần như toàn diện về tạp chí ở nước ta. Theo đó, hiện

nay, số đầu tạp chí lớn hơn nhiều so với số đầu báo, có gần 400 tạp chí các loại

trong khi chỉ có khoảng 200 đầu báo. Từ các tạp chí xuất bản hàng quý, hai

tháng, hàng tháng, đến nay, nổi trội là các tờ tạp chí ra 2- 4 kỳ/tháng (Tạp chí

Thế giới mới, Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, Tạp chí Thương mại,

Tạp chí Thời trang trẻ, Tạp chí Tiếp thị Việt Nam, Tạp chí Gia đình Việt

Nam…) Xu hướng tăng kỳ phát hành là kết quả của sự ra đời loại tạp chí mang

tính giải trí, đánh trúng thị hiếu của độc giả, đẩy số phát hành lên cao.

Góp phần làm toàn diện hơn bức tranh về tình hình báo chí của Việt Nam

những năm gần đây, cũng không thể bỏ qua vai trò của hãng thông tấn quốc gia-

Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN). Ngoài chức năng là ngân hàng tin, TTXVN

còn là cơ quan chủ quản của nhiều tờ báo, trong đó có các tờ Tin Tức, Viet Nam

news,… TTXVN có bề dày lịch sử hơn 60 năm hoạt động, với mạng lưới phân

xã ở 64 tỉnh thành trong cả nước và hơn 20 phân xã thường trú ở nước ngoài,

chuyên cung cấp cho Trung ương Đảng, Chính phủ, các phương tiện truyền

thông đại chúng, các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nước cùng hàng triệu

độc giả những thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài

nước[2].

56

2.1.1.2. Về Ph¸t thanh –TruyÒn hình:

Do lịch sử gắn liền của đài phát thanh - và đài truyền hình ở nước ta và do

kiến thức chuyên sâu còn giới hạn, người viết trình bày gộp hai mảng báo nói (

phát thanh) và báo hình (truyền hình).

Tổng hợp thông tin từ Bộ Văn Hoá – Thông tin, giáo trình “Công tác tổ

chức và quản lý báo chí” của giảng viên Bùi Huy Lan, và thông tin trên một số

báo, có thể thấy sự phát triển về số lượng của các đài phát thanh gần như ở mức

bão hoà, trong khi đó, mảng báo hình lại có sự khởi sắc bởi sự xuất hiện của

truyền hình cáp, truyền hình số, truyền hình Internet.

Tính đến năm 2005, nước ta có khoảng 70 đài phát thanh - truyền hình,

trong đó có 2 đài Trung ương ( Đài Tiếng Nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt

Nam), 4 trung tâm truyền hình khu vực (Huế, Đà Nẵng, Phú Yên, Cần Thơ), và

64 đài ở 64 tỉnh, thành phố. Ngoài TP. HCM tổ chức đài phát thanh, đài truyền

hình riêng, tỉnh Phú Yên chỉ có đài phát thanh, các tỉnh, thành khác tổ chức

chung thành một đài Phát thanh - Truyền hình [14]. Ngoài ra, mạng lưới cơ sở

có trên 600 đài truyền thanh cấp huyện, trong đó có 288 đài đã phát sóng FM,

và có gần 9000 đài truyền thanh, trạm phát lại, chuyển tiếp phát thanh - truyền

hình ở cơ sở phường, xã, tức gần một nửa số xã trong cả nước có trạm truyền

thanh.

Căn cứ vào các con số như đã nêu ở trên, có một nhận định phổ biến

trong giới báo chí: Việt Nam có một hệ thống Phát thanh - Truyền hình từ

Trung ương đến các tỉnh, thành, huyện, xã hết sức hùng mạnh.

Tuy nhiên, bên những nhận định khả quan theo hướng “biểu dương lực

lượng”, vào khoảng cuối năm 2005, theo tác giả Đinh Phong, sự xuất hiện của

nhiều đài Phát thanh - Truyền hình làm ăn không hiệu quả là một sự “ chơi

sang”, thừa thãi, lãng phí vì hầu hết vẫn phải bao cấp. Trong bài viết “Có cần

57

thiết xây dựng 64 Đài truyền hình, đài phát thanh địa phương hay không?”, tác

giả Đinh Phong nhận định: “ Ít có nước nào trên một diện tích không lớn lại có

hệ thống phát thanh, truyền hình quá nhiều như ở nước ta”. Thật vậy, ở Hà Nội,

mặc dù đã có 2 đài Trung ương, vẫn có thêm đài Phát thanh - Truyền hình Hà

Nội, ở Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, bên cạnh đài khu vực vẫn tồn tại các đài đài

phát thanh - truyền hình địa phương. Trong khi đó, các đài địa phương chỉ có

một số chương trình riêng biệt, tự sản xuất như chương trình thời sự, Phim

chuyên đề, Phim tài liệu, còn lại là tiếp sóng đài khu vực và đài quốc tế, chiếu

Phim giải trí thu quảng cáo. Theo đó, sự khởi sắc của hai loại hình báo nói – báo

hình tập trung chủ yếu ở các đài Trung ương và ở các tỉnh, thành lớn.

Hiện nay, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng Nói Việt Nam đã tăng

thời lượng, diện phủ sóng và các kênh riêng phục vụ cho thông tin đối ngoại và

đồng bào người Việt định cư, sinh sống ở nước ngoài [38]. Cụ thể, Đài Tiếng

Nói Việt Nam, cánh chim đầu đàn của ngành phát thanh Việt Nam đã phát

193h/ngày trên 6 hệ chương trình đối nội và đối ngoại, phát bằng 11 thứ tiếng

nước ngoài và 9 thứ tiếng dân tộc, với tổng công suất trên 8000KW, tín hiệu

được truyền dẫn qua vệ tinh; Đài Truyền hình Việt Nam phát trên 5 kênh đối

nội và đối ngoại, với thời lượng trên 60 giờ mỗi ngày. Từ đầu năm 2000, Đài

Truyền hình Việt Nam đã truyền qua vệ tinh, phủ sóng đến các nước châu Mỹ,

châu Âu và nhiều khu vực trên thế giới.Ước tính, hệ thống phát thanh đã phủ

sóng được khoảng 95% lãnh thổ và hệ thống truyền hình phủ sóng được 85% lãnh thổ.*

Đó là chỉ nói về mặt kỹ thuật, chuyên môn. Ngoài điều đó, cần đánh giá

ngành Phát thanh - Truyền hình của Việt Nam trên phương diện làm kinh tế.

Bởi vì, hiện nay truyền hình đang trong quá trình xã hội hoá, đặc biệt có sự xuất

hiện của truyền hình trả tiền (pay – TV). Đây là một miếng “bánh” lớn mà nhiều

đơn vị đang muốn đầu tư vào.

58

Truyền hình đã có ở Việt Nam từ lâu, bắt đầu từ sự ra đời của Trung tâm

Truyền hình cáp Việt Nam vào năm 1995. Sự phát triển về mặt công nghệ đã

đưa truyền hình cáp nhanh chóng vượt lên truyền hình analog (truyền hình

truyền thống), trong vòng vài năm trở lại đây truyền hình cáp không còn là đặc

quyền hưởng thụ của những người giàu có. Hiện tại, phổ biến là truyền hình kỹ

thuật số mặt đất (do VTC cung cấp), truyền hình số vệ tinh DTH (DTH Việt

Nam cung cấp), truyền hình cáp (do SCTV – Công ty Truyền hình cáp

Saigontourist, HTVC, VCTV, HaCTV và một số đài địa phương cung cấp), mới

nhất là truyền hình Internet (truyền hình băng thông rộng IPTV do FPT cung

cấp).

Tính đến năm 2006, cả nước có 20 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình

trả tiền, phục vụ 460.700 thuê bao; riêng truyền hình kỹ thuật số mặt đất VTC

phục cụ khoảng 2 triệu hộ dân. Mỗi mạng truyền hình cáp hiện nay trung bình

cung cấp khoảng 25 kênh (trong đó 7-10 kênh là truyền hình quảng bá của

Trung ương và địa phương), còn lại là các kênh truyền hình phổ biến như:

Cartoon Network, Star Sport, MTV, HBO, Star Movies…[45].

Tuy nhiên, theo nhận định từ Hội nghị “ Đánh giá và trao đổi kinh

nghiệm về công tác quản lý hệ thống truyền hình trả tiền” do Bộ Văn hoá –

Thông tin tổ chức, ngoài VTV và HTV, đa số các đài khác chưa đủ năng lực để

sản xuất các chương trình riêng cho lĩnh vực truyền hình trả tiền. Các đài này

chủ yếu sử dụng các kênh quảng bá miễn phí quốc tế và tiếp tục xài “chùa” một

số kênh, dù Công ước quốc tế Brussel về bảo vệ bản quyền tín hiệu truyền hình

đã có hiệu lực ở Việt Nam. Lý do là nhà đài không đủ khả năng mua bản quyền,

do chiến thuật sở hữu kênh “độc quyền” đẩy giá bản quyền lên cao; lại cũng do

nhà đài không thể trao đổi thêm kênh truyền hình của các địa phương bạn vì lý

do cạnh tranh quảng cáo, do không đủ khả năng biên, phiên dịch các kênh nước

ngoài theo đúng quy định của Bộ văn hoá – thông tin.

59

2.1.1.3. Về báo trực tuyến:

Theo nhà báo Lê Minh Quốc trong “Hỏi đáp báo chí Việt Nam”, tờ báo

trực tuyến đầu tiên của Việt Nam là tờ Nhân dân điện tử, ra đời vào 21/6/2000,

tức là chỉ 4 năm sau khi tờ báo điện tử đầu tiên của nhân loại - Tờ Mainichi

Shimbun của Nhật Bản (3. 1996) – ra đời. Rõ ràng, báo trực tuyến là thành tựu

phát triển của nền báo chí Việt Nam thế kỷ 21, đã có 6 năm hình thành và phát

triển. Bên cạnh dữ liệu này, theo Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), từ 3 -

12 - 1997, Việt Nam đã có tờ báo điện tử đầu tiên là tạp chí Quê Hương (đến

ngày 26/12/2000) tờ này mới chính thức được Bộ Văn hoá – Thông tin cấp

phép- NV), tức là 5 năm sau khi tờ báo điện tử đầu tiên trên thế giới - Chicago.

Tuy vậy, “thống trị” mạng Interner trong buổi ban đầu lại là các

trang web dịch vụ thông tin dưới hình thức dịch vụ giá trị gia tăng của các công

ty khai thác Internet như Công ty phần mềm và truyền thông VASC (tờ Việt

Nam Net chính thức là báo vào năm 2003, trước đó là trang web Việt Nam. Việt

Nam), Công ty FPT (Tờ VnExpress ra đời vào 26/2/2001),… Xu hướng này tiếp

tục phát triển với sự “nâng cấp” các trang web dịch vụ giá trị gia tăng lên thành

báo điện tử của các công ty quảng cáo. Sự kiện trang web 24h.com.vn (Công ty

Cổ phần Quảng cáo trực tuyến Hà Nội) bị đóng cửa “tạm” vào quãng đầu năm

2006 vì hoạt động như một tờ báo trực tuyến là sự minh chứng cho xu hướng

này. Tờ này sẽ chính thức ra mắt sau khi có giấy phép.

Tính đến đầu năm 2006, Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Phạm

Quang Nghị cho biết cả nước có 82 tờ báo điện tử đang hoạt động. Trong khi

đó, con số thống kê chính thức vào năm 2004 của Bộ Văn hoá – Thông tin cho

thấy, kể từ khi luật định vào năm 1999, Việt Nam có trên 50 đơn vị báo điện tử

và nhà cung cấp thông tin, với khoảng 2.500 trang web đang hoạt động.

Ông Nguyễn Tuấn Anh, Tổng biên tập của Viet Nam Net nói đến chỗ

khó của một tờ báo điện tử: “Nói gì thì nói, với mình đây là cơ quan kinh doanh

60

vì không được Nhà nước bao cấp, bù lỗ. Hiện nay, mỗi năm Công ty VASC vẫn

phải bù lỗ cho Viet Nam Net vài tỷ…Khó khăn nhất với báo điện tử hiện nay là

làm thế nào để thu được tiền. [31]” Bên cạnh nỗ lực tìm đầu vào cho báo trực

tuyến, là xu hướng thí điểm tích hợp các loại hình truyền thông khác, phát huy

thế mạnh của báo trực tuyến, đi đầu là các tờ VnExpress, TTO,..

Thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Đỗ Quý Doãn trả lời Phỏng

vấn báo điện tử Viet Nam Net vào ngày 25/2/2004 đã nhận định: “Báo điện tử là

một “trận địa” rất được coi trọng” [27]. Theo đó, trong chủ trương phát triển có

trọng điểm hệ thống báo chí, Chính phủ ưu tiên phát triển mảng báo trực tuyến,

bởi đây là một trong những xu hướng phát triển rất lớn, hội tụ công nghệ thông

tin, truyền thông, viễn thông, hay nói cách khác, tích hợp các loại hình báo chí

truyền thông trên nền Internet nhiều ưu điểm như thuận lợi, nhanh, không bị hạn

chế về thời gian, không gian, biên giới,…

Theo nhận định của các nhà chuyên môn, báo trực tuyến trong

tương lai sẽ lấn lướt thị phần quảng cáo của báo in.

61

2.1.2. Địa điểm và cách thức tiếp nhận thông tin từ báo chí của công

chúng sinh viên báo chí.

Đề xuất hướng nghiên cứu công chúng của M.Weber, cụ thể là

phân tích hiệu quả của báo chí đối với việc xây dựng con người, cho thấy rõ tác

dụng của báo chí trong việc hình thành ý thức quần chúng, khẳng định các

phương tiện truyền thông đại chúng là một tác nhân quan trọng đối với sự hình

thành dư luận xã hội. [13]

Báo chí có nhiều chức năng quan trọng như: thông tin, tuyên

truyền, Giáo dục, dự báo, giải trí, giao tiếp…trong đó thông tin là chức năng có

tầm quan trọng hàng đầu. Báo chí có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của nhiều tầng

lớp xã hội với những mối quan tâm, sở thích không giống nhau. Công chúng

báo chí đa dạng và phức tạp. Chính vì vậy “tiếp nhận” là chỉ báo đầu tiên để

đánh giá tác động của truyền thống đại chúng đối với công chúng báo chí. Đó là

sự đánh giá về số lượng, cách thức tiếp cận và chấp nhận nguồn thông tin từ các

phương tiện truyền thông đại chúng. Các chỉ báo dùng để đánh giá hiệu quả tiếp

nhận thường là: có bao nhiêu người theo dõi thông tin, theo dõi trong hoàn cảnh

nào, thành phần công chúng đó ra sao, theo dõi thường xuyên không. Tuy chỉ là

mức độ thấp, nhưng hiệu quả tiếp nhận lại là điều kiện đầu tiên để dẫn tới những

cấp độ hiệu quả cao hơn như hiệu ứng xã hội, hiệu quả thực tế [28 - 29].

Thiết chế truyền thông đại chúng hoàn toàn không mang tính chất

cưỡng bức đối với cá nhân, cá nhân có quyền tham gia hay không tham gia vào

thiết chế này. Người dân có quyền mua hay không mua một tờ báo, xem hay

không xem một bài báo hay một chương trình truyền hình.

Tuy nhiên, theo J.Stoetzel [41, 277, 283], báo chí là một phương

tiện giúp cho người ta cảm thấy mình là thành viên của một cộng đồng. Trong

bối cảnh của xã hội hiện đại, báo chí vẫn là 1 hoạt động thông tin đại chúng

nhất, năng động nhất, hiệu quả nhất và có nhiều công chúng nhất. Chính vì vậy

62

tập quán đọc báo, theo dõi thông tin trên các phương tiện truyền thông đại

chúng vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của sự tham gia vào đời sống xã hội.

Người ta không thể tham gia hoạt động xã hội nếu không thường xuyên theo dõi

tin tức, thời sự. Và ngược lại, việc theo dõi, nắm được, thông tin trên các

phương tiện truyền thông đại chúng cũng lại thúc đẩy người ta tích cực gia nhập

vào các sinh hoạt tập thể nhiều hơn, khi đó người ta cảm thấy những vấn đề

được trình bày đều là những vấn đề của xã hội mà mình là thành viên, dường

như đang có rất nhiều công chúng khác cũng đang theo dõi thông tin cùng mình

và cũng có phản ứng giống phản ứng của mình. Do vậy, người theo dõi thông

tin cảm thấy mình trong bộ phận của một tập thể nào đó. Hành vi theo dõi thông

tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng trong

việc giúp con người ta tự coi mình là thành viên của một cộng đồng.

Như vậy, một trong những đặc điểm của ứng xử theo dõi và sử

dụng truyền thông đại chúng của công chúng là ứng xử mang tính chất tập thể ở

mức độ nào đó chứ không chỉ mang tính chất cá nhân thuần tuý, mặc dù chính

cá nhân là người đọc báo, xem truyền hình hay nghe đài phát thanh.

Đồng thời, việc tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông

đại chúng gắn liền với thời gian rảnh rỗi và nhu cầu giải trí của người dân. Việc

khảo sát địa điểm đọc báo, nghe đài, xem ti vi đem lại hình dung ban đầu về

tính tích cực trong hoạt động giao tiếp đại chúng của công chúng báo chí nói

chung và công chúng sinh viên báo chí Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền

hình TW1 nói riêng.

2.1.2.1 Địa điểm và cách thức đọc báo in.

Việc lựa chọn địa điểm theo dõi thông tin đại chúng liên quan chặt

chẽ với cách thức phân bố sử dụng quỹ thời gian rỗi của công chúng báo chí.

Bốn địa điểm đọc báo in chủ yếu được khảo sát đối với sinh viên báo chí tại

Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1 là: tại nơi ở, tại thư viện, tại

63

nhà người quen và nơi khác. Tuy nhiên, các địa điểm càng ít tính gần gũi, thân

mật hơn thì lại càng đòi hỏi sự tích cực ưu tiên về sử dụng thời gian rỗi của cá

nhân tiếp nhận thông tin hơn.

Xét về các địa điểm đọc báo in của họ thấy bộc lộ sự diễn ra không

đồng đều. Kết quả khảo sát cho thấy 2 địa điểm được nhóm công chúng sinh

viên sử dụng nhiều nhất là đọc báo tại nơi ở và đọc báo tại thư viện. Những địa

điểm khác có mức độ sử dụng không cao.

Bảng1 - Địa điểm đọc báo in của công chúng sinh viên báo chí

Năm thứ I

Năm thứ 3

Năm thứ 5

Nơi

tiếp

cận

%

N

%

N

%

N

74

Tại nơi ở

76

77.6

165

61.8

74

%

Tại

thư

10

10.2

37

13.9

21

21

viện

Tại

nhà

2

2.0

3

1.1

0

0

người quen

Tại

nơi

10

10.2

62

23.2

5

5

khác

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

64

Từ số liệu bảng trên cho thấy 3 nhóm sinh viên năm thứ nhất, thứ ba và

thứ năm có sự tương đồng trong việc sử dụng các địa điểm đọc báo in. Cụ thể là

có tỉ lệ tương đối cao là địa điểm tại nơi ở sinh viên năm thứ nhất chiếm 77.6%,

năm thứ 3 chiếm 61.8%, năm thứ 5 chiếm 74%

Việc đọc báo tại thư viện sinh viên năm thứ nhất chiếm 10.2%, sinh viên

năm thứ ba chiếm 13.9, năm thứ năm chiếm 21% Tại nơi khác sinh viên năm

thứ nhất là 10.2%, năm thứ ba chiếm 23.2 và năm thứ năm chiếm 5%

Với số liệu thống kê trên, ta có thể thấy rõ sinh viên năm thứ nhất năm

thứ ba và năm thứ năm, địa điểm đọc báo in tại nơi ở là chiếm đa số nhiều nhất;

còn 2 địa điểm tại thư viện và tại nơi khác của cả 3 năm cũng có sự tương đồng

trong việc chọn địa điểm đọc báo in. Tuy số lượng không nhiều nhưng cũng

chứng tỏ được điều này. Còn lại ở nhà người quen chiếm tỉ lệ rất rất nhỏ hoặc

không hề có như năm thứ năm. Một điều nữa ta nhận thấy dễ dàng là số sinh

viên nam và nữ cũng có sự khác biệt cụ thể về chọn địa điểm đọc báo in. Với

sinh viên năm thứ nhất thì tỉ lệ sinh viên nam chọn địa điểm đọc báo là tại nơi ở

chiếm 80.4%, tại thư viện chiếm 13.7%, tại nhà người quen chiếm 3.9%, chọn

địa điểm đọc báo nhiều hơn so với sinh viên nữ, riêng tại địa điểm là nơi khác

thì tỉ lệ sinh viên nữ là 19.1% chọn đọc nhiều hơn so vói sinh viên nam.Với sinh

viên năm thứ ba tỷ lệ nam chọn địa điểm tại nơi ở chiếm 74.7%, tại thư viện

chiếm 16.1% nhiều hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ khi chọn hai địa điểm này,

nhưng tại địa điểm ở nhà người quen sinh viên nam chiếm 0.3% và ở nơi khác

chiếm 6.9% ít hơn sự lựa chọn địa điểm đọc báo của sinh viên nữ. Với sinh viên

nam năm thứ năm tại nơi ở chiếm 73.1%, ít hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ,

tại thư viện sinh viên nam chiếm 26.9% lựa chọn nhiều hơn so với sinh viên

nữ, tại địa điểm nơi khác sự lựa chọn của sinh viên nam và sinh viên nữ là bằng

nhau 100%, riêng tại địa điểm nhà người quen, cả sinh viên nam và sinh viên nữ

không hề lựa chọn là địa điểm để đọc báo in.

65

Do đặc thù vào việc học của sinh viên nên phần lớn đa số các bạn sinh

viên sáng đi học, hoặc chiều đi học nên chỉ có thể đọc báo ở nhà. báo đến tận 1.

Tại thư viện cũng được chọn là địa điểm đọc báo của tương đối nhiều trường

hợp sinh viên muốn tìm không gian yên tĩnh để sưu tầm, lựa chọn tiếp nhận đối

với nhiều loại báo. Có thể nói, thư viện, là nơi đọc báo lý tưởng và là cách lựa

chọn tốt nhất của các trường hợp sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Đọc báo ở

nhà người quen, tỉ lệ cao nhất thuộc về nhóm sinh viên năm thứ nhất.

Theo kết quả khảo sát về thời điểm đọc báo của nhóm sinh viên ta thấy cả

cùng có chung sự tương đồng là các bạn đều chọn đọc báo nhiều vào thời điểm

sáng và tối. cụ thể sinh viên năm thứ nhất lựa chọn thời điểm đọc báo vào buổi

sáng chiếm 45.6%, buổi tối chiếm 45.6%, sinh viên năm thứ ba lựa chọn thời

điểm đọc báo vào buổi sáng chiếm 30.5%, buổi tối chiếm 47.8%, sinh viên năm

thứ năm lựa chọn thời điểm đọc báo vào buổi sáng chiếm 31%, buổi tối chiếm

51%. Riêng buổi trưa và buổi chiều cả 3 nhóm sinh viên đều lựa chọn đọc rất ít.

cụ thể nhóm sinh viên năm thứ nhất chỉ có 3.9% sinh viên chọn đọc báo vào

buổi trưa, 4.9% sinh viên lựa chọn đọc báo vào buổi chiều, nhóm sinh viên năm

thứ ba chỉ có 9.1% sinh viên lựa chọn đọc báo vào buổi trưa và 12,8% lựa chọn

đọc báo vào buổi chiều, nhóm sinh viên năm thứ năm cũng chỉ chiếm 11% lựa

chọn đọc báo vào buổi trưa và 7% sinh viên lựa chọn đọc báo chiều, như vậy

nhóm sinh viên năm thứ nhất có sự đồng đều trong việc lựa chọn thời điểm đọc

báo buổi sáng và buổi tối còn nhóm sinh viên năm thứ ba và năm thứ năm lựa

chọn thời điểm đọc báo vào buổi tối nhiều hơn buổi sáng. Khảo sát về thời điểm

đọc báo của nhóm sinh viên nam ta thấy cả ba nhóm sinh viên nam đều lựa chọn

đọc báo vào buổi sáng nhiều hơn nhóm sinh viên nữ, cụ thể sinh viên nam năm

thứ nhất lựa chọn đọc báo vào buổi sáng chiếm 53.7%, sinh viên nam năm thứ

ba chiếm 42.3%, sinh viên nam năm thứ năm chiếm 57.1%, ngược lại sinh viên

nam của cả ba năm đều lựa chọn thời điểm đọc báo vào buổi tối ít hơn nhóm

sinh viên nữ cụ thể nhóm sinh viên nam năm thứ nhất chỉ lựa chọn đọc báo vào

66

buổi tối chiếm37%, sinh viên năm thứ ba chiếm 38%, sinh viên năm thứ năm

chiếm 25%.

Khảo sát về cách thức đọc báo của ba nhóm sinh viên ta cũng dễ dàng

nhận thấy sinh viên năm thứ nhất và năm thứ năm có sự tương đồng về lựa chọn

chỉ đọc những mục mình quan tâm, cụ thể sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ

53.7%, sinh viên năm thứ năm là 55%. Sinh viên năm thứ ba lại lựa chọn đọc

hầu hết các chuyên mục chiếm 61.5% nhiều hơn hai nhóm sinh viên năm thứ

nhất và năm thứ năm.

Kết quả khảo sát cho thấy dấu hiệu về tính tích cực tiếp cận thông tin từ

báo in ở công chúng sinh viên Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW I

thể hiện ở tập quán tranh thủ đọc báo tại nhà, thậm chí vào lúc đêm khuya, trong

hoàn cảnh công việc bận rộn học tập chiếm hầu hết thời gian rỗi ban ngày.

67

21.2.2. Địa điểm và cách thức nghe Đài phát thanh

Dựa trên cơ sở là sự thuận lợi và quen thuộc đối với việc học tập và sinh

hoạt của sinh viên báo chí, chúng tôi đưa ra bốn phương án để khảo sát về các

địa điểm nghe đài phát thanh là: tại nơi ở, tại câu lạc bộ hoặc nhà văn hoá, tại

quán hàng và tại nhà người quen. Trong đó, tương tự như phần phân tích trên,

tại nơi ở được xem là địa điểm mang tính cá nhân gần gũi về mặt giao tiếp xã

hội và ít đòi hỏi ưu tiên về sử dụng thời gian rỗi của cá nhân hơn hết so với

các địa điểm tại câu lạc bộ hoặc nhà văn hoá, tại quán hàng và nhà người

quen.

Khảo sát sâu hơn về việc lựa chọn các địa điểm nghe đài phát thanh và

xem ti vi theo các nhóm sinh viên năm thứ nhất, thứ 3 và thứ 5 cho thấy rõ nét

hơn về xu hướng này.

Bảng 2 - Địa điểm nghe đài phát thanh của công chúng sinh viên báo

chí

Năm thứ 1 Năm thứ 3 Năm thứ

5 Nơi tiếp

cận

87

84,5

197

84,

92

9

Tại nơi ở

9

2

4

3,9

2

0,9

2

2

Tại CLB,

NVH

N % N % N %

68

7

6,8

4

1,7

4

4

quán

hàng

5

4,8

29

12,

2

2

nhà

5

người quen

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

Qua bảng khảo sát cả ba nhóm sinh viên năm của trường Cao đẳng phát

thanh truyền hình, một lần nữa địa điểm được đa số sinh viên dùng để nghe đài

phát thanh là tại nơi ở. Cụ thể, sinh viên năm thứ nhất nghe đài phát thanh tại

nơi ở có tỉ lệ 84.5%, sinh viên năm thứ 3 chiếm 84.9%,sinh viên năm thứ 5

chiếm 92%. Tại nhà người quen, câu lạc bộ, nhà văn hoá, ở quán hàng tỉ lệ nghe

đài phát thanh là rất ít. Thậm chí với địa điểm tại câu lạc bộ, nhà văn hoá, sinh

viên năm thứ ba và sinh viên năm thứ năm sử dụng là rất ít cụ thể là chỉ có 2

trường hợp lựa chọn địa điểm này. Với sinh viên việc có bên mình một chiếc

radio nhỏ là rất có thể thực hiện được, hoặc ít ra trong một phòng 2- 3 người (

nếu ở trọ ngoài) còn 7 – 8 người đối với trong ký túc xá là hoàn toàn có khả

năng có từ 1 – 2 cái radio mọi người có thể tiếp nhận chung các kênh thông tin

rất nhanh và phù hợp.

Một đặc điểm rất dễ nhận thấy trong bảng thống khê là tỉ lệ nhóm sinh

viên nam nghe radio ít hơn so với tỉ lệ nhóm sinh viên nữ. Và số lượng sử dụng

radio càng tăng theo những năm học.

Khảo sát thời điểm nghe đài phát thanh cho thấy cả ba nhóm sinh viên

đều lựa chọn nghe đài vào buổi tối nhiều hơn buổi sáng. Cụ thể, nhóm sinh viên

năm thứ nhất lựa chọn nghe đài phát thanh vào buổi sáng chiếm 36.8%, buổi tối

chiếm 46.2%, nhóm sinh viên năm thứ ba lựa chọn nghe đài vào buổi tối sáng

69

chiếm26.8%, vào buổi tối chiếm 46.4%, nhóm sinh viên thứ năm lựa chọn nghe

vào buổi sáng chiếm 23%, buổi tối chiếm 39%, thời điểm nghe đài vào buổi trưa

và buổi chiều của nhóm sinh viên năm thứ nhất và năm thứ ba là rất ít, còn năm

thứ năm lựa chọn nghe đài vào buổi chiều lại nhiều hơn buổi sáng cụ thể chiếm

25%. khảo sát thời điểm nghe đài theo giới tính cũng cho ta thấy nhóm sinh viên

nam lựa chọn việc nghe đài vào buổi sáng nhiều hơn nhóm sinh viên nữ cụ thể

nhóm sinh viên nam năm thứ nhất lựa chọn nghe đài vào buổi sáng

chiếm42.6%, nhóm sinh viên nam năm thứ ba chiếm 28.8%, nhóm sinh viên

năm thứ năm chiếm 29.6%. ngược lại, thời điểm nghe đài vào buổi tối của sinh

viên nam cả ba năm đều ít hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ, cụ thể sinh viên

nam năm thứ nhất lựa chọn nghe đài vào buổi tối chiếm 40.4%, nhóm sinh viên nam năm thứ ba chiếm 37.7%, nhóm sinh viên nam năm thứ năm chiếm 33.3%.

Về cách thức nghe đài phát thanh của ba nhóm sinh viên ta nhận thấy cả

ba nhóm sinh viên có sự tương đồng trong việc lựa chọn nghe nhiều nhất những

chương trình mà mình yêu thích, cụ thể sinh viên năm thứ nhất lựa chọn nghe

những chương trình mà mình yêu thích chiếm 61.6%, sinh viên năm thứ ba

chiếm 60.5%, sinh viên năm thứ năm chiếm 53.6%. sinh viên năm thứ nhất và

năm thứ năm cũng có sự tương đồng trong việc lựa chọn nghe hầu hết các

chương trình nhiều hơn sự lựa chọn trong việc gặp gì nghe nấy, cụ thể sinh viên

năm thứ nhất chiếm 22.2%, sinh viên năm thứ năm chiếm 29.8%, ngược lại

nhóm sinh viên năm thứ ba lại lựa chọn việc gặp gì nghe nấy chiếm 25.4%

nhiều hơn việc lựa chọn nghe hầu hết các chương trình. khảo sát về cách thức

nghe đài phát thanh theo giới tính ta cũng nhận thấy sinh viên nam của cả ba

năm đều lựa chọn nghe những chương trình mà mình yêu thích nhiều hơn việc

gặp gì nghe nấy và việc nghe hầu hết các chương trình, cụ thể sinh viên nam

năm thứ nhất lựa chọn việc nghe những chương trình mà mình yêu thích chiếm

65.2% nhiều hơn sinh viên nữ. sinh viên nam năm thứ ba chiếm 59.4% ít hơn

lựa chọn của sinh viên nữ năm này, sinh viên nam năm thứ năm chiếm 59.3%

70

nhiều hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ.việc lựa chọn gặp gì nghe ấy và nghe

hầu hết các chương trình của sinh viên nam cả ba năm đều ít hơn.

2.1.2.3. Địa điểm và cách thức xem truyền hình của sinh viên báo chí

Cơ sở để lựa chọn địa điểm nghiên cứu cũng tương tự như đối với

đài phát thanh. Bốn phương án được đưa ra để khảo sát về cách thức tiếp cận

thông tin trên các phương tiện vô tuyến truyền hình của công chúng sinh viên

báo chí. Đó là: tại nơi ở, câu lạc bộ - nhà văn hóa, ở quán hàng, ở nhà người

quen . Kết quả kháo sát được thể hiện ở bảng 3

Bảng 3 - Địa điểm xem truyền hình của công chúng sinh viên báo

chí

Năm thứ 1 Năm thứ 3 Năm thứ

5 Nơi

75

73,5

153

74,

77

7

Tại nơi ở

7

7

4

3,9

1

0,5

1

1

Tại CLB,

NVH

9

8,8

13

6,4

8

8

quán

hàng

tiếp cận % N % N % N

71

14

13,7

38

18,

14

1

nhà

5

4

người quen

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

72

Cách thức được tuyệt đại bộ phận công chúng sinh viên lựa chọn để tiếp

cận thông tin trên vô tuyến truyền hình là tại nơi ở. Cụ thể, sinh viên năm thứ

nhất có tỉ lệ 73.5%, sinh viên năm thứ 3 là 74.7%, năm thứ 5 là 77%. Tại nhà

người quen cũng có tỉ lệ tiếp cận cao hơn so với tại các câu lạc bộ, nhà văn hoá

và ở quán hàng. Trong địa điểm tiếp cận xem vô tuyến này thì tỷ lệ nam năm

thứ nhất lựa chọn các địa điểm xem vô tuyến nhiều hơn sự lựa chọn của sinh

viên nữ, cụ thể là tại nơi ở, sinh viên nam chiếm 64.2%, tại câu lạc bộ nhà văn

hoá sinh viên nam chiếm 7.5%, tại quán hàng sinh viên nam chiếm 13.2%, tại

nhà người quen sinh viên nam chiếm 15.1%, tại nơi ở sinh viên nam năm thứ ba

chiếm 66.3%. Tại câu lạc bộ và nhà văn hoá không có trường hợp sinh viên nam

nào lựa chọn, ít hơn so với sự lựa chọn của sinh viên nữ.Tại quán hàng sinh viên

nam năm thứ 3 chiếm 7.5%, tại nhà người quen sinh viên nam chiếm 26.3%

nhiều hơn so với sự lựa chọn của sinh viên nữ. Đối với sinh viên nam năm thứ

năm thì tại nơi ở chiếm 70.4% và tại nhà người quen chiếm 18.5% lựa chọn

nhiều hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ. Tại câu lạc bộ nhà văn hoá, tỉ lệ cả nam

và nữ tiếp cận ở nơi này là rất rất ít tiêu biểu là sinh viên nam năm thứ 5 chỉ có

1 trường hợp, tại quán hàng sinh viên nam lại lựa chọn ít hơn sự lựa chọn của

sinh viên nữ.

Khảo sát thời điểm xem truyền hình cho thấy cả ba nhóm sinh viên năm

thứ nhất, năm thứ ba và năm thứ năm có sự tương đồng trong việc lựa chọn ,

xem truyền hình vào buổi tối, cụ thể nhóm sinh viên năm thứ nhất chiếm 67.3%,

nhóm sinh viên năm thứ ba chiếm 85.9%, nhóm sinh viên năm thứ năm chiếm

76%, việc lựa chọn thời điểm xem truyền hình vào buổi sáng, trưa, chiều của

năm thứ nhất và năm thứ năm cùng có chung sự tương đồng là rất ít nhưng

nhóm sinh viên năm thứ ba lại lựa chọn việc xem truyền hình vào buổi sáng

chiếm 48.5% nhiều hơn việc lựa chọn xem truyền hình vào buổi trưa và buổi

chiều. khảo sát về thời điểm xem truyền hình của nhóm sinh viên nam của cả ba

nhóm ta thấy sinh viên nam của cả ba năm đều lựa chọn xem truyền hình vào

buổi tối nhiều nhất, cụ thể nhóm sinh viên nam năm thứ nhất lựa chọn xem

73

truyền hình vào buổi tối chiếm 74% nhiều hơn sự lựa chọn của nhóm sinh viên

nữ, nhóm sinh viên nam năm thứ ba chiếm 80.7% ít hơn sự lựa chọn của nhóm

sinh viên nữ, nhóm sinh viên nam năm thứ năm chiếm 78.6% nhiều hơn sự lựa

chọn của nhóm sinh viên nữ,còn lại việc lựa chọn xem truyền hình vào buổi

sáng, trưa, tối của ba nhóm sinh viên nam đều rất ít, cao nhất trong việc lựa

chọn xem truyền hình vào buổi sáng thuộc về nhóm sinh viên năm thứ năm,

nhưng ở năm này không có trường hợp sinh viên nam nào lựa chọn xem truyền

hình vào buổi trưa và buổi tối.

Cách thức xem truyền hình của cả ba nhóm sinh viên đều lựa chọn việc

xem những chương trình mà bạn yêu thích là nhiều nhất, cụ thể nhóm sinh viên

năm thứ nhất chiếm 65.7%, nhóm sinh viên năm thứ ba chiếm 72.2%, nhóm

sinh viên năm thứ năm chiếm 62.2%. cách thức nghe hầu hết các chương trình

của cả ba nhóm sinh viên nhiều hơn cách thức gặp gì nghe nấy, cụ thể sinh viên

năm thứ nhất lựa chọn cách thức nghe hầu hết các chương trình chiếm 21.6%,

sinh viên năm thứ ba chiếm 16%, sinh viên năm thứ năm chiếm 23.4%. khảo sát

về cách thức xem truyền hình của nhóm sinh viên nam cả ba năm cho ta thấy

cách thức xem những chương trình mà mình yêu thích nhiều hơn việc lựa chọn

cách thức gặp gì nghe ấy và nghe hầu hết các chương trình, cụ thể sinh viên

nam năm thứ nhất lựa chọn xem hầu hết các chương trình chiếm 61.4% ít hơn

sự lựa chọn của nhóm sinh viên nữ, sinh viên nam của năm thứ ba chiếm 62.2%

ít hơn so với sự lựa chọn của nhóm sinh viên nữ, sinh viên nam năm thứ năm

chiếm 53.8% ít hơn so với sự lựa chọn của sinh viên nữ. cách thức gặp gì xem

ấy và cách thức xem hầu hết các chương trình chiếm tỷ lệ rất ít đối với sinh viên

nam cả ba năm.

So sánh giữa các nhóm sinh viên cho thấy, giống như nghe radio đối với

sinh viên những năm cuối có tỉ lệ tiếp cận với phương tiện vô tuyến truyền hình

cao hơn.

74

2.1.2.4. Địa điểm và cách thức truy cập nhập internet của sinh viên báo

chí

Ba chỉ báo được đưa ra để khảo sát về địa điểm và cách thức truy

cập internét của công chúng sinh viên báo chí. Kết quả cho thấy tỉ lệ truy cập

internet của công chúng sinh viên báo chí là khá cao. (xem bảng 4)

Bảng 4 - Địa điểm truy cập internet của công chúng sinh viên báo

chí

Năm thứ 1 Năm thứ 3 Năm thứ 5

Nơi tiếp

10

9.6

10

10.

7

3.

Tại nơi ở

3

5

89

85.6

87

89.

19

95

quán

6

1

hàng

5

4.8

0

0

3

1.

nhà

5

người quen

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

cận % N N % N %

Khảo sát địa điểm truy cập internet của cả ba nhóm sinh viên ta nhận thấy

cùng có chung sự tương đồng trong việc lựa chọn truy cập internet ở quán hàng,

cụ thể sinh viên năm thứ nhất chiếm 85.6%, sinh viên năm thứ ba chiếm 91%,

75

sinh viên năm thứ năm chiếm 87%. Tại nơi ở cả ba năm lựa chọn rất ít, cụ thể

sinh viên năm thứ nhất chỉ có 9.6%, sinh viên năm thứ ba chỉ có 3.5% , sinh

viên năm thứ năm chỉ có 10.3% còn tại địa điểm tại nhà người quen cả ba nhóm

sinh viên đều lựa chọn rất ít tiêu biểu nhóm sinh viên năm thứ năm không có

trường hợp nào lựa chọn điểm truy cập này, nhóm sinh viên lựa chọn điểm truy

cập tại nhà người quen nhiều nhất là nhóm sinh viên năm thứ nhất chiếm 4.8%,

sinh viên năm thứ ba chiếm 1.5%

Thời điểm truy cập internet của cả ba nhóm sinh viên có sự tương đồng

trong việc lựa chọn điểm truy cập internet vào buổi tối. Cụ thể sinh viên năm

thứ nhất chiếm 72.5%, sinh viên năm thứ ba chiếm 64.1%, sinh viên năm thứ

năm chiếm 51%. Do phụ thuộc vào lịch học tập ở trên lớp nên có những nhóm

sinh viên học buổi sáng ngoài việc lựa chọn truy cập vào buổi tối họ còn lựa

chọn truy cập internet vào buổi chiều, sinh viên năm thứ năm có tỉ lệ 21%, sinh

viên năm thứ ba là 20%, còn lại sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ ít hơn là 7,3%.

Thời điểm vào buổi sáng và buổi trưa rất ít công chúng sinh viên lựa chọn để

truy cập internet vào thời điểm này. Nhóm sinh viên lựa chọn thời điểm buổi

sáng nhiều nhất để truy cập thuộc về nhóm sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ

14.7%, nhóm sinh viên lựa chọn buổi trưa để truy cập nhiều nhất là nhóm sinh

viên năm thứ năm chiếm 19%.

Theo chỉ báo giới tính ta nhận thấy địa điểm truy cập Internet cả ba nhóm

sinh viên nam đều cùng sử dụng điểm truy cập internet tại quán hàng rất đông,

cụ thể sinh viên nam năm thứ nhất chiếm 82.1% ít hơn sự lựa chọn của nhóm

sinh viên nữ, sinh viên năm thứ ba chiếm 97.3% nhiều hơn sự lựa chọn của

nhóm sinh viên nữ, sinh viên nam năm thứ năm chiếm 96% nhiều hơn sự lựa

chọn điểm truy cập của sinh viên nữ. tại nơi ở nhóm sinh viên nam năm thứ nhất

chiếm 10.7% sử dụng nhiều hơn sinh viên nữ, sinh viên năm thứ ba chiếm 2.7%

ít hơn sự lựa chọn của sinh viên nữ và sinh viên nam năm thứ năm chiếm 4%, ít

hơn sinh viên nữ, điểm truy cập tại nhà người quen là rất ít, sinh viên năm thứ

76

nhất chíêm 7.1% nhiều hơn sinh viên nữ, sinh viên nam của năm thứ ba và năm

thứ năm lại không có trường hợp nào sử dụng truy cập tại địa điểm này. Thời

điểm truy cập internet vào buổi tối của cả ba nhóm sinh viên nam có tỉ lệ khá

cao. Cụ thể, nhóm sinh viên năm thứ nhất chiếm 36.6% nhiều hơn sinh viên nữ,

sinh viên nam năm thứ ba là 73.9% cao hơn sinh viên nữ, sinh viên nam năm

thứ năm là 100% bằng sự lựa chọn của sinh viên nữ. thời điểm truy cập vào

buổi sáng là rất ít, nhóm sinh viên nam lựa chọn cao nhất điểm truy cập này là

nhóm sinh viên nam năm thứ ba chiếm 73% nhiều hơn sự lựa chọn của nhóm

sinh viên nữ, sinh viên nam năm thứ năm chiếm 30.8% nhiều hơn sự lựa chọn

của nhóm sinh viên nữ, sinh viên nam năm thứ nhất chiếm 14.5% thấp hơn sự

lựa chọn của nhóm sinh viên nữ. Thời điểm truy cập vào buổi trưa và buổi chiều

của nhóm sinh viên nam là rất ít, tỉ lệ cao nhất trong sự lựa chọn này là nhóm

sinh viên nam năm thứ năm có tỉ lệ là 30.8% vào buổi trưa, 38.4% lựa chọn truy

cập vào buổi chiều.

Đối với chỉ báo về các trang web thường truy cập, cả ba nhóm sinh viên

cùng có tỉ lệ truy cập vào những trang web thông tin liên quan đến nghiệp vụ

báo chí tương đối cao, Cụ thể, nhóm sinh viên năm thứ nhất chiếm 55.8%,

nhóm sinh viên năm thứ ba chiếm 56.8%, nhóm sinh viên năm thứ năm chiếm

56.6%. cách thức truy cập vào những trang web khác được công chúng sinh

viên lựa chọn nhiều nhất là nhóm sinh viên năm thứ ba chiếm 44.4%.

Đánh giá chung về cách thức truy cập internet của nhóm sinh viên nam cả

ba năm ta nhận thây nhóm sinh viên nam năm thứ nhất và năm thứ ba có sự lựa

chọn truy cập internet là những trang web khác nhiều hơn cách thức lựa chọn

truy cập vào những trang web có liên quan đến nghiệp vụ báo chí. Cụ thể, nhóm

sinh viên nam năm thứ nhất có tỉ lệ là 53.7% nhiều hơn sự lựa chọn của nhóm

sinh viên nữ là 35.2%, sinh viên nam năm thứ ba là 51,2% cao hơn sự lựa chọn

của nhóm sinh viên nữ là 41.9%. Ngược lại, nhóm sinh viên nam năm thứ năm

lại lựa chọn cách thức truy cập vào những trang web có thông tin liên quan đến

77

nghiệp vụ báo chí nhiều hơn cách thức vào những trang web khác. Cụ thể, nhóm

sinh viên nam lựa chọn cách thức truy cập vào những trang web có thông tin

liên quan đến nghiệp vụ báo chí là 59.5% nhiều hơn nhóm sinh viên nữ là

55.8%.

Tóm lại, mức độ và kênh tiếp nhận thông tin của công chúng sinh

viên báo chí trong hoạt động giao tiếp đại chúng là khá đa dạng, phong phú và

có cường độ lớn. Công chúng sinh viên không những tiếp cận ở mức độ cao với

các phương tiện thông tin hiện đại Internet. Khảo sát về mức độ tiếp nhận thông

tin trên báo chí cũng cho thấy nhiều tờ báo được công chúng sinh viên ưa thích,

tìm đọc, nhất là đối với các nhóm sinh viên năm thứ năm và nhóm nam sinh

viên.

Nhiều hình thức tiếp cận thông tin trên các phương tiện truyền

thống đại chúng đã được sử dụng. Tuy nhiên hình thức chủ yếu vẫn là đọc tại

nơi ở, thư viện nhà trường (đối với báo in) và xem tại nơi ở nhà người quen (đối

với đài phát thanh và vô tuyến truyền hình). Các hình thức có tính thiết chế như

thư viện, câu lạc bộ, nhà văn hóa đối với giao tiếp đại chúng của sinh viên tác

dụng còn hạn chế.

2.2 Mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên báo chí

Cùng với sự nghiệp đổi mới, các phương tiện truyền thông đại

chúng ở nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ, đã có độ lan tỏa lớn trong

quảng đại công chúng ở mọi tầng lớp trong xã hội. Thực tế đó đã được phản ánh

trong nhóm công chúng sinh viên báo chí được khảo sát tại Trường Cao đẳng

Phát thanh - Truyền hình TW1.

Trong xã hội ngày nay, báo chí đang hàng ngày hàng giờ tác động vào

từng lĩnh vực của đời sống xã hội; chính vì vậy tiếp nhận thông tin trở thành

một nhu cầu không thể thiếu của mỗi cá nhân trong xã hội.

78

Mức độ tiếp nhận thông tin là sự phản ánh cụ thể nhu cầu thông tin

của mỗi cá nhân. Nếu nhu cầu thông tin cao sẽ thể hiện ở mức độ tiếp nhận

thông tin cao và nếu nhu cầu thông tin thấp, hoặc không có nhu cầu thì mức độ

tiếp nhận thông tin sẽ thể hiện tương ứng.

Nghiên cứu về mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh

viên báo chí, chúng tôi tiến hành khảo sát trên 12 kênh khác nhau đó là:

1. Các loại báo in Trung ưong và các tỉnh thành khác

2. Đài Tiếng Nói Việt Nam

3. Đài truyền hình Trung ương

4. Đài truyền hình kĩ thuậtsố VTC

5. Internet

6. Đài truyền hình Hà Nam

7. Đài Phát Thanh Hà Nam

8. Truyền hình cáp Hà Nam

9. Thông tin từ bạn bè

10.Thông tin từ các thày cô giáo

11.Thông tin từ các nhà báo

12. Nguồn khác

Bảng 5 - Mức độ tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền

thông đại chúng

79

Hàng ngày

Vài

lần

Rất ít khi

Hoàn toàn

trong tuần

không

Ng

uồn thông

N

%

N

%

N

%

N

%

tin

1.C 1 3 1 3 6 1 2 6

ác loại 21 0.3 54 8.5 4 6.0 6 .5

báo in

Trung

ưong

và các

tỉnh thành

khác

2. 2 5 1 3 3 8 8 2

Đài Tiếng 07 1.8 31 2.8 2 .0 .0

Nói Việt

Nam

5 2 8 3. 2 1 3 8 2

Đài 16 4.0 13 8.5 4 .5 .0

truyền

hình

Trung

ương

80

4. 7 1 1 2 9 2 4 1

1 7.8 14 8.5 3 3.5 4 1.0 Đài

truyền

hình kĩ

thuật số

VTC

7 2 9 2 5. 1 5 2 7

Internet 6 9.0 04 1.0 1 2.8 9 .3

5 1 9 2 1 3 4 1 6.

Đài 5 3.8 7 4.3 25 1.3 3 0.8

truyền

hình Hà

Nam

7. 6 1 8 2 1 2 5 1

Đài Phát 6 6.5 9 2.3 18 9.5 1 2.8

Thanh Hà

Nam

8. 5 1 3 9 9 2 1 2

Truyền 2 3.0 8 .5 3 3.3 09 7.3

hình cáp

Hà Nam

81

9. 2 5 5 1 2 7 7 1

Thông tin 39 9.8 7 4.3 9 .3 .8

từ bạn bè

10. 2 5 6 1 4 1 7 1

Thông tin 21 5.3 7 6.8 4 1.0 .8

từ các

thày cô

giáo

11. 3 8 7 1 1 3 5 5

Thông tin 4 .5 3 8.3 49 7.3 4 4.0

từ các nhà

báo

12. 1 3 7 1 7 1 1 4

Nguồn 24 1.0 8 9.5 5 8.8 6 .0

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

khác

Kết quả cho thấy tỉ lệ của các chỉ báo này trong công chúng sinh viên

báo chí là khá cao.(xem bảng 5)

Từ bảng trên , cho thấy sinh viên báo chí có mức độ tiếp nhận

thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng là khá cao. Mặc dù mức độ

mức độ tiếp nhận giữa các kênh không đồng đều. Những kênh được công chúng

sinh viên tiếp nhận cao như:

82

Từ Internét 92,8% -

Từ Đài Tiếng nói Việt Nam 92,6% -

Từ Đài truyền hình Trung ương 91% -

Từ các báo Trung ương và của các địa phương khác có tới -

84.8%

- Từ các thày cô giáo 83.1%.

Từ bạn bè 81.4% -

Trong những kênh được công chúng sinh viên báo chí tiếp nhận cao nổi

lên là hình thức tiếp nhận từ internet đạt 92.8%. Điều này cũng cho thấy tốc độ

phát triển của loại hình truyền thông đại chúng này cũng như nhu cầu của công

chúng sinh viên báo chí trong thời điểm hiện nay.

Các kênh khác cũng có các tỉ lệ tiếp nhận khá cao như:

Từ truyền hình kĩ thuật số VTC 69.8% -

Từ Đài Truyền hình Hà Nam 69.4% -

Các nguồn khác 69.3% -

Từ Đài Phát thanh Hà Nam 68.3% -

Hai kênh truyền thông có tỉ lệ tiếp nhận thấp nhất là:

Từ các nhà báo 64.1 % -

Từ Đài Truyền cáp Hà Nam 45.8% -

83

Ở mức độ tiếp cận cao nhất là theo dõi thông tin thường xuyên hàng ngày

cũng có những tỉ lệ đáng chú ý như: từ các thày cô giáo là 53.3% ; từ bạn bè là

59.8%; các báo Trung ương và đại phương khác 30.3%; Đài Tiếng Nói Việt

Nam; 51.8,9% ; Đài Truyền hình Việt Nam 54%; Đài Truyền hình Hà Nam

13,8%; đài phát thanh Hà Nam 16.5%; mạng Internet 19%. Điều đặc biệt đối

với công chúng sinh viên báo chí là những thông tin thu thập được hàng ngày từ

bạn bè có tỉ lệ cao nhất là 59.8%, sau đó là từ các thầy cô giáo, Đài truyền hình

Việt Nam, Đài Tiếng Nói Việt Nam. Tỉ lệ tiếp nhận thông tin hàng ngày của

sinh viên báo chí vói các nhà báo là thấp nhất chỉ đạt 8.5%.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy một khía cạnh khác là mức độ theo dõi

thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng của công chúng sinh viên

báo chí cũng rất khác nhau. Sự khác biệt đó được thể hiện rõ ở mức độ theo dõi

thông tin hàng ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Trong tương quan về sự tiếp nhận thông tin hàng ngày giữa các nhóm

sinh viên báo chí cho thấy, nhóm sinh viên năm thứ năm có tỉ lệ tiếp nhận cao

nhất. Cụ thể, từ Đài Tiếng Nói Việt Nam: năm thứ năm là 71.9%, năm thứ ba là

56.4%, năm thứ nhất là 36.6%. Từ Đài truyền hình Việt Nam năm thứ năm là

64.3%. năm thứ ba là 55.1%, còn năm thứ nhất chỉ đạt 49%. Tỉ lệ đọc báo in

hàng ngày giữa các nhóm sinh viên năm thứ năm là 40%, năm thứ ba là 37.7%,

còn năm thứ nhất chỉ đạt 31.9%. Từ các tỉ lệ trên cho thấy nhóm sinh viên năm

thứ nhất có các tỉ lệ tiếp nhận thông tin hàng ngày kể cả về đọc báo in, nghe đài

phát thanh và xem truyền hình đều thấp nhất.

Trong ba hình thức báo chí truyền thống thì hai loại hình là phát

thanh và truyền hình tạo được sự quan tâm lớn hơn với công chúng sinh viên

báo chí, thực tế này cho thấy mỗi loại hình truyền thông đại chúng đều có

những đặc trưng, những thế mạnh và hạn chế riêng. Với những lợi thế riêng của

phương tiện phát thanh và truyền hình trong xã hội hiện đại như tính trực quan

84

sinh động, tính đa dạng, kịp thời và đáp ứng được với nhiều loại đối tượng công

chúng cũng như cùng lúc có thể phục vụ được nhiều công chúng cùng theo dõi.

Mặt khác, hiện nay ở nước ta hiện nay đa số các đài phát thanh và truyền hình

được phát miễn phí, vì vậy hai loại hình này đã thu hút được đông đảo công

chúng quan tâm trong đó có một bộ phận công chúng là sinh viên báo chí. Tỉ lệ

tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên báo chí đối với báo in là thấp hơn.

Thực tế cho thấy, sinh viên phải dành phần nhiều thời gian cho việc học tập nên

thời gian tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng cũng bị hạn chế.

Mặt khác theo kết quả điều tra đối với sinh viên báo chí tại Trường Cao đẳng

Phát thanh - Truyền hình TW1 cho thấy 88.5% sinh viên hiện đang sống trong

các kí túc xá và nhà trọ tập thể, họ hầu hết là người các tỉnh khác vì vậy điều

kiện kinh tế để mua các phương tiện truyền thông đại chúng trong đó có báo in

là rất hạn chế. Mặt khác, đặc thù của báo in là không có khả năng phục vụ đồng

thời đối với nhiều công chúng, số lượng của mỗi đầu báo trong thư viện nhà

trường có hạn, lại phụ thuộc vào giờ mở cửa của thư viện nên việc sinh viên tiếp

cận với loại hình thông tin này ít hơn cũng là dễ hiểu.

Mặc dù tỉ lệ tiếp cận các phương tiện truyền thông đại chúng của

sinh viên báo chí là khá cao nhưng trong đó tỉ lệ rất ít khi tiếp cận và hoàn toàn

không cũng gây chú ý. Cụ thể, tỉ lệ ít khi tiếp cận với các báo in Trung ương và

các tỉnh thành khác là 16%, với Đài Tiếng Nói Việt Nam là 8%, Đài truyền hình

Trung ương là 8.5%, Đài truyền hình kĩ thuật số VTC 23.5, Internet 22.8%, Đài

truyền hình Hà Nam 31.3, Đài Phát Thanh Hà Nam 29.5, Truyền hình cáp Hà

Nam 23.3%, thông tin từ bạn bè 7.3%, thông tin từ các thày cô giáo 11.0%,

thông tin từ các nhà báo 37.3%, từ các nguồn khác 18.8%. Nhóm sinh viên

hoàn toàn không tiếp xúc với các loại báo in trung ưong và các tỉnh thành khác

6.5%, Đài Tiếng Nói Việt Nam 2.0%, Đài truyền hình Trung ương 2.0%. Đài

truyền hình kĩ thuật số VTC 11.0%, Internet 7.3%, Đài truyền hình Hà Nam

10.8%, Đài Phát Thanh Hà Nam 12.8%, Truyền hình cáp Hà Nam 27.3%, thông

tin từ bạn bè 1.8 %, thông tin từ các thày cô giáo 1.8%, thông tin từ các nhà báo

85

14.3%, nguồn khác 4.0%. Từ các tỉ lệ trên cho thấy nhóm sinh viên hoàn toàn

không tiếp nhận thông tin từ truyền hình cáp Hà Nam là cao nhất chiếm 27.3 %,

từ các nhà báo là 14.3%. Tỉ lệ sinh viên không tiếp nhận thông tin từ các thày cô

giáo và bạn bè là rất thấp nhất chỉ chiếm 1.8%.

Nếu xét trên chỉ báo giới tính thì tỉ lệ quan tâm đến các phương

tiện truyền thông đại chúng hàng ngày giữa nhóm sinh viên nam và nhóm sinh

viên nữ cũng có sự chênh lệch không đáng kể. Đối với nhóm sinh viên năm thứ

năm nhóm sinh viên nam quam tâm đến báo in của Trung ương và các địa

phương khác là 50%, nhóm sinh viên nữ là 37.7%, với Đài Tiếng Nói Việt Nam

nhóm sinh viên nam là 83.3%, nhóm sinh viên nữ là 67.8%, với Đài truyền hình

Trung ương là 75%, nhóm sinh viên nữ là 61.8%. Thông tin từ các nhà báo

nhóm sinh viên nam là 15.4%, nhóm sinh viên nữ là 16%, thông tin từ các thày

cô giáo đối với nhóm sinh viên nam là 47.1%, với nhóm sinh viên nữ là 75.8%.

Nói chung đối với nhóm sinh viên năm thứ năm tỉ lệ nhóm nữ sinh viên quan

tâm đến các kênh thông tin truyền thông đại chúng so vói nhóm nam sinh viên

là rất thấp hơn. Tuy nhiên, tỉ lệ nhóm nữ sinh viên tiếp nhận thông tin từ các

thày cô giáo và từ các nhà báo hàng ngày là cao hơn sơ với nam sinh viên. Cụ

thể, đối với các thày cô giáo nhóm nữ là 75.%, nhóm nam là 7.1%, từ các nhà

báo nhóm nữ là 16% nhóm nam là 15.4%, từ bạn bè nhóm nữ là 83.1%, nhóm

nam là 76.5%. Đối với nhóm sinh viên nam năm thứ năm những kênh hàng

ngày được quan tâm nhiều nhất là Đài Tiếng Nói Việt Nam 80.3%,thông tin từ

bạn bè 76.5%, từ Đài truyền hình Trung ương 75%. Các kênh ít được quan tâm

nhất là đài truyền hình Hà Nam 6.3%, thông tin từ các nhà báo là 15.4% Đối với

nhóm sinh viên nữ năm thứ năm các kênh hàng ngày được quan tâm nhiều nhất

là thông tin từ bạn bè 83.1%, từ các thầy cô giáo 75.8%, từ Đài Tiếng Nói Việt

Nam là 67.8%, từ Đài truyền hình Trung ương là 61.8%...Các kênh ít được quan

tâm nhất là từ các nhà báo 16%, từ đài truyền hình Hà Nam 18.4%. Như vậy đối

với cả sinh viên nam và sinh viên nữ đều có tỉ lệ quan tâm đến Đài Tiếng Nói

86

Việt Nam, Đài truyền hình Trung ương là khá cao, còn tỉ lệ về sự tiếp nhận

thông tin từ các nhà báo và từ đài truyền hình Hà Nam là thấp nhất.

Qua khảo sát cho thấy một tỉ lệ rất tích cực đối với sinh viên báo

chí năm thứ năm là cả nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ không có

trường hợp nào không quan tâm đến các phương tiện truyền thông như: các báo

in của Trung ương và các tỉnh thành, Đài Tiếng Nói Việt Nam, Đài truyền hình

trương ương, thông tin từ các thày cô giáo …Tuy nhiên, với internet đối với

nhóm nam trường hợp hoàn toàn không truy cập không có trường hợp nào, còn

nữ chỉ có 1trường hợp chiếm 1.25%. Trường hợp hoàn toàn không tiếp cận với

những nhà báo với nhóm nam chỉ là 3.2% còn nhóm nữ cao hơn là 9.5%.

Đối với sinh viên năm thứ ba, nhóm sinh viên nam có sự quan tâm

hàng ngày đến các phương tiện truyền thông đại chúng là khá cao. Cụ thể, đối

với 12 kênh được đưa ra khảo sát có các tỉ lệ là:

Các loại báo in Trung ưong và các tỉnh thành khác 59.5%

Đài Tiếng Nói Việt Nam 53.7%

Đài truyền hình Trung ương 65.2%

Đài truyền hình kĩ thuật số VTC 25.9%

Internet 41.8%

Đài truyền hình Hà Nam 8.8%

Đài Phát Thanh Hà Nam 21.8%

Truyền hình cáp Hà Nam 10.9%

Thông tin từ bạn bè 76.2%

87

Thông tin từ các thày cô giáo 64%

Thông tin từ các nhà báo 14.8%

Nguồn khác 45.9%

Trong những kênh thông tin được đưa ra khảo sát thì những kênh

tạo được sự quan tâm lớn nhất là thông tin từ bạ bè đạt 76.2%, thông tin từ các

thày cô giáo 64%, từ Đài truyền hình Trung ương 65.2%, các loại báo in Trung

ương và các tỉnh thành khác 59.5%, Đài Tiếng Nói Việt Nam 53.7%. Các kênh

ít tạo được sự quan tâm nhất là đài truyền hình Hà Nam chỉ chiếm 8.8%, thông

tin từ các nhà báo 14.8%. Đối với nhóm sinh viên nữ năm thứ ba sự quan tâm

đến những kênh thông tin được đưa ra khảo sát cũng khá cao. Những kênh tạo

được sự quan tâm nhiều nhất là, thông tin từ bạn bè 90%, thông tin từ các thày

cô giáo 69.2%, Đài Tiếng Nói Việt Nam 57.9%, Đài truyền hình Trung ương

49.3%, các loại báo in của Trung ương và các tỉnh thành khác 24.7%...Các kênh

ít được sự quan tâm nhất đối với nhóm sinh viên nữ năm thứ ba là thông tin từ

các nhà báo chỉ đạt 0.9% , từ truyền hình cáp Hà Nam 9.8%.

Từ các tỉ lệ trên cho thấy đối với sinh viên năm thứ ba kênh được quan

tâm nhiều nhất là thông tin từ bạn bè, thông tin từ các thầy cô giáo, từ Đài Tiếng

Nói Việt Nam, Đài truyền hình Trung ương. Các kênh ít được quan tâm nhất là

đài truyền hình Hà Nam, truyền hình cáp Hà Nam và thông tin từ các nhà báo.

Trong đó tỉ lệ về thông tin từ bạn bè của cả nhóm nam và nhóm nữ là cao nhất,

tương quan giữa nam và nữ về tỉ lệ này thì nữ cao hơn chiếm 90%, còn nam chỉ

là 76.2%. Đối với thông tin từ các thầy cô giáo tỉ lệ nữ là 69.2% cao hơn nam là

64%, từ Đài Tiếng Nói Việt Nam tỉ lệ nữ là 57.9% trong khi đó nam chỉ đạt

53.7%. Tuy nhiên việc tiếp nhận thông tin hàng ngày từ Đài truyền hình Trung

ương đối với nhóm nam sinh viên năm thứ ba là 65.2% trong khi đó nhóm nữ

chỉ đạt 49.3%, thông tin từ báo in của Trung ương và các tỉnh thành khác nam

88

chiếm 59.5% cao hơn nữ là 24,7%. Tỉ lệ đọc báo in giữa nhóm nam và nhóm nữ

sinh viên năm thứ ba có sự chênh lệch là khá lớn.

Xét một cách tổng thể về sự tương quan giữa nhóm nam và nữ sinh viên

báo chí năm thứ ba trong việc tiếp cận các kênh thông tin là tương đối đồng đều.

Tuy nhiên đối với cụ thể từng kênh thông tin đã được phân tích thì nhóm nữ có

phần cao hơn.

Đối với sinh viên năm thứ nhất các kênh thông tin tạo được quan tâm

hàng ngày đối với nhóm nam nhiều nhất là từ bạn bè 64%, từ báo in Trung ương

và các tỉnh thành khác 59.5%, từ Đài Tiếng Nói Việt Nam 61.5%, Đài truyền

hình Trung ương 53.8%, từ các thầy cô giáo 52%. Các kênh ít tạo được sự quan

tâm nhất là từ các nhà báo 12.7%, đài phát thanh Hà Nam 23.4%. Đối với nhóm

sinh viên nữ các kênh được quan tâm hàng ngày nhiều nhất là thông tin từ bạn

bè 66.6%, từ Đài truyền hình Trung ương 64.5%, từ các thầy cô giáo là 63.1%.

Các kênh ít tạo được sự quan tâm hàng ngày của nhóm nữ năm thứ nhất là từ

đài truyền hình kĩ thuất số VTC 11.3%. Điều đáng ngạc nhiên là tỉ lệ nghe Đài

Tiếng Nói Việt Nam hàng ngày của nhóm này chỉ đạt 10,2 %, với báo in của

Trung ương và các tỉnh thành khác 8.5%.

Trong sự tương quan giữa sinh viên các năm thứ nhất năm thứ ba và năm

thứ năm giữa nhóm sinh viên nam và sinh viên nữ nổi lên một số điểm đáng chú

ý là : sinh viên nam năm thứ năm tiếp nhận thông tin hàng ngày từ Đài Tiếng

Nói Việt Nam có tỉ lệ cao nhất là 83.3%, năm thưa nhất là 61.5%, năm thứ ba là

53.7%, từ Đài truyền hình Trung ương hàng ngày năm thứ năm 75%, năm thứ

ba là 65.2%, năm thứ nhất là, 53.8%. Thông tin từ bạ bè năm thứ năm 76.5%,

năm thứ ba 76.2%, năm thứ nhất 64%. Từ những tỉ lệ trên cho thấy nam sinh

viên năm thứ năm có sự quan tâm đến các phương tiện truyền thông đại chúng

lớn hơn nam sinh viên năm thứ ba và năm thứ nhất.

89

Đối với nữ sinh viên, nhóm sinh viên nữ năm thứ năm có tỉ lệ quan tâm

đến Đài Tiếng Nói Việt Nam hàng ngày là 67.8%, năm thứ ba 57.9%, năm thứ

nhất 10.2%, báo in của Trung ương và các tỉnh thành khác năm thứ năm là

37.7%, năm thứ ba là 24,2%, năm thứ nhất là 8.5%. Như vậy việc nghe Đài

Tiếng Nói Việt Nam và đọc báo in của Trung ương và các tỉnh thành khác giữa

sinh viên báo chí năm thứ năm, năm thứ ba với sinh viên báo chí năm thứ nhất

có sự chênh lệch tương đối lớn. Với Đài truyền hình Trung ương sinh nữ năm

thứ nhất có sự quan tâm lớn nhất đạt 64.5%, sinh viên nữ năm thứ năm 61.8%,

còn sinh viên nữ năm thứ ba là 49.3%. Từ các tỉ lệ vừa phân tích cho thấy nếu

xét một cách tổng thể thì sự quan tâm của sinh viên báo chí năm thứ năm đến

các phương tiện truyền thông đại chúng là lớn hơn so với sinh viên báo chí năm

thứ ba và năm thứ nhất.

Tỉ lệ từ những chỉ báo trên cho thấy thông tin từ các nguồn truyền thông

đại chúng đã trở thành nhu cầu thiết thực, thường xuyên của nhóm công chúng

sinh viên báo chí.

2.3. Những vấn đề quan tâm của công chúng sinh viên báo chí

2.3.1. Những nội dung thông tin được quan tâm.

Lựa chọn những vấn đề quan tâm trên báo chí là hành vi có tính

quy luật trong hoạt động tiếp nhận thông tin của con người. Trong thực tế hiện

nay, những vấn đề, lĩnh vực mà báo chí truyền tải là rất phong phú đa dạng.

Mặc dù nhu cầu thông tin của công chúng ngày càng được nâng cao, nhưng thời

gian dành cho công việc trong xã hội hiện đại cũng ngày một nhiều hơn; Chính

vì vậy công chúng thường lựa chọn và chỉ theo dõi những nội dung mà họ cho

là cần thiết và phù hợp theo cách thức của họ.

Đối với cá nhân mỗi công chúng thông tin được truyền tải trên báo

chí có thể được chia làm ba loại, thứ nhất là loại cần thiết, thứ hai là tương đối

90

cần, thứ ba là không cần thiết. Ba loại thông tin này quy định nhu cầu và cách

thức tiếp nhận thông tin của công chúng [53].

Có thể nói rằng việc lựa chọn thông tin không chỉ gắn liền với sở

thích mà còn kèm theo lợi ích của cá nhân người lựa chọn. Lợi ích quy định

động cơ, mục đích của sự lựa chọn [60]. Từ vị trí xã hội, trình độ nhận thức của

mình công chúng xác định thái độ của họ với thông tin và cũng từ đó xuất hiện

sự quan tâm đối với các kênh thông tin. Phần lớn công chúng báo chí ngày nay

thường đọc, nghe, xem đối với những tin bài mà họ cho là bổ ích, có thể làm

cho cuộc sống của họ tốt đẹp hơn.

Trong bản thân đối tượng công chúng sinh viên báo chí cũng có sự

khác biệt về trình độ nhận thức, tư tưởng chính trị, văn hoá, hoàn cảnh gia đình

và địa vị xã hội. Chính những yếu tố này tác động không nhỏ đến nhu cầu tiếp

nhận thông tin và quyết định khả năng họ sẽ lựa chọn và tiếp nhận thông tin từ

các phương tiện truyền thông đại chúng như thế nào.

Chúng tôi đưa ra hai nhóm vấn đề khảo sát đối với sinh viên báo

chí tại trường Cao Đẳng Phát thnah - Truyền hình trực thuộc Đài Tiếng Nói Việt

Nam. Thứ nhất là nhóm thông tin về thời sự, kinh tế, chính trị xã hội. Thứ hai là

nhóm thông tin về văn hoá, văn nghệ, giải trí.

Qua 28 vấn đề truyền tải trên các phương tiện truyền thông đại

chúng được đưa ra khảo sát đối với sinh viên báo chí kết quả cho thấy mức độ

quan tâm đến các vấn đề này là khá cao( xem bảng 6)

Bảng 6 - Mức độ quan tâm tới các chương trình, chuyên mục trên báo

chí

Mức độ quan tâm

91

Tên chương trình, chuyên mục

Số

%

người

Thời sự trong nước 370 92.5

Thời sự quốc tế 328 82.0

Dành cho sinh viên báo chí 318 79.5

Trò chuuyện với nhà báo 250 62.5

Vấn đề hội nhập 173 43.2

Vấn đề An ninh trật tự xã hội 263 65.7

Vấn đề khoa học 146 36.5

Vấn đề CNTT - Viễn thông 113 28.2

Vấn đề môi trường 202 50.5

Vấn đề Thiếu niên nhi đồng 68 17.0

Vấn đề Thanh niên 271 67.7

92

Vấn đề Người cao tuổi 38 9.5

Vấn đề Giáo dục 301 75.2

Vấn đề y tế 212 53.0

Thông tin Thể thao 175 43.7

Thông tin chứng khoán 83 20.7

Vấn đề An toàn giao thông 236 59.0

Vấn đề pháp luật 188 47.0

Vấn đề phụ nữ 196 49.0

Người xây tổ ấm 156 39.0

Thế giới động vật 173 43.2

Thời tiết 254 63.5

Quảng cáo 201 50.2

Thông tin Văn hoá nghệ thuật 191 47.7

93

Ca nhạc 302 75.5

Thời trang 217 54.2

Phim 280 70.0

Vui chơi giải trí 256 64.0

Truyền hình TW1 năm 2007

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Kết quả khảo sát cho thấy những chương trình, những chương trình,

chuyên mục được công chúng sinh viên báo chí quan tâm nhiều nhất là:

- Thời sự trong nước 92.5%

- Thời sự quốc tế 82%

- Dành cho sinh viên báo chí 79.5%

- Ca nhạc 75.5%

- Vấn đề Giáo dục 75.2%

- Phim 70%

Các chương trình, chuyên mục ít tạo được sự quan tâm nhất là:

- Vấn đề Người cao tuổi 9.5%

- Vấn đề Thiếu niên nhi đồng 17%

94

- Vấn đề thông tin chứng khoán 20,7%

2.3.1.1. Mức độ quan tâm đối với những thông tin thời sự, kinh tế, chính

trị xã hội

Mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng đối với những thông

tin thời sự, kinh tế, chính trị xã hội ...phản ánh sự quan tâm của công chúng về

những vấn đề này .Trên cơ sở đó có thể đánh giá được lượng thông tin mà cá

nhân công chúng thu được từ các phương tiện truyền thông đại chúng .

Mức độ quan tâm của công chúng sinh viên báo chí đến các vấn đề

thời sự, kinh tế, chính trị xã hội là một chỉ báo cho phép chúng ta hình dung về

sự chuyển biến có ý nghĩa trong ý thức và thái độ chính trị xã hội của công

chúng sinh viên báo chí . Sự chuyển biến này gắn liền với sự vận động của xã

hội trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, tiến tới

công bằng dân chủ, văn minh.

Một điều rất dễ nhận thấy đối với công chúng sinh viên báo chí là hầu

hết họ tất quan tâm tới chương trình thời sự. Đối với cả chương trình Thời sự

trong nước và chương trình Thời sự quốc tế đều có tỉ lệ theo dõi ở mức độ cao.

Chương trình Thời sự trong nước xếp đầu bảng trong thứ tự ưu tiên là 92.5%

thứ hai là chương trình Thời sự quốc tế 82.5%. Các chương trình chuyên mục

khác có tỉ lệ theo dõi cao trên 70% là chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí

79.5%, Ca nhạc 75.5%, Giáo dục 75.2%, Phim 70%.

Chương trình tạo được sự quan tâm lớn nhất của công chúng sinh viên

báo chí là Thời sự trong nước, trong đó nhóm đối tượng có tỉ lệ cao nhất về chủ

đề này là sinh viên năm thứ ba là 98%, thứ đến là sinh viên năm thứ năm đạt

93%, và thấp nhất trong ba nhóm sinh viên được khảo sát là năm thứ nhất đạt

81%. Đối với chương trình Thời sự quốc tế nhóm sinh viên năm thứ ba cũng có

tỉ lệ theo dõi cao nhất đạt 87%. Nhóm sinh viên năm nhất đạt 78%, còn nhóm

95

sinh viên năm thứ năm là 76%. Như vậy đối với hai chương trình này nhóm

sinh viên năm thứ ba đều có tỉ lệ tiếp nhận cao nhất. Sinh viên năm thứ năm có

tỉ lệ tiếp nhận thông tin Thời sự trong nước cao hơn, nhưng lại có tỉ lệ tiếp nhận

thông tin Thời sự quốc tế thấp hơn sinh viên năm thứ nhất. Trong chuyên mục

Dành cho sinh viên báo chí, tỉ lệ quan tâm của sinh viên năm thứ ba là 83.5%,

năm thứ năm là 76%, còn sinh viên năm thứ nhất là 75%. Như vậy, qua phân

tích tỉ lệ tiếp nhận của ba chương trình, chuyên mục tạo được nhiều sự quan tâm

nhất là Thời sự trong nước, Thời sự quốc tế và chuyên mục Dành cho sinh viên

báo chí thì sinh viên năm thứ ba đều có tỉ lệ tiếp nhận cao nhất. Sinh viên năm

thứ năm có tỉ lệ quan tâm nhiều hơn đến 2/3 chuyên mục so với sinh viên năm

thứ nhất là Thời sự trong nước và chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí.

Đối với các chương trình, chuyên mục ít tạo được sự quan tâm nhất là

vấn đề Người cao tuổi, vấn đề Thiếu niên nhi đồng và vấn đề thông tin chứng

khoán. Cụ thể, đối với vấn đề Người cao tuổi tỉ lệ quan tâm của sinh viên năm

thứ năm là 6%, sinh viên năm thứ ba là 11.5%, còn sinh viên năm thứ nhất là

9%. Với vấn đề Thiếu niên nhi đồng sinh viên năm thứ năm có tỉ lệ quan tâm là

16%, năm thứ ba là 17%, còn năm thứ nhất là 18%.Với chuyên mục thông tin

chứng khoán năm thứ năm có tỉ lệ quan tâm là 13%, năm thứ ba là 23%, năm

thứ nhất là 24%. Từ các tỉ lệ trên cho thấy đối với những vấn đề ít được quan

tâm thì tỉ lệ tương quan giữa sinh viên các năm thứ nhất, thứ ba và thứ năm là

tương đối đồng đều, sự chênh lệch giữa về tỉ lệ giữa các nhóm là không đáng

kể.

Nhìn từ chỉ báo giới tính những vấn đề được cả nhóm sinh viên nam và

nhóm sinh viên nữ quan tâm nhiều nhất là Thời sự trong nước, Thời sự quốc tế,

chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí, vấn đề An ninh trật tự xã hội, Thanh

niên, Giáo dục, An toàn giao thông và thông tin Thời tiết.( xem bảng 7)

96

Bảng 7- Mức độ quan tâm theo giới tính

Mức độ quan

tâm Tên chương trình, chuyên mục

Nam nữ

% %

Thời sự trong nước 96.7 89.9

Thời sự quốc tế 89.4 86.0

Dành cho sinh viên báo chí 77.0 48.8

Vấn đề Giáo dục 75.0 83.8

Vấn đề An ninh trật tự xã hội 67.8 71.7

Vấn đề Thanh niên 63.1 78.4

Vấn đề Thời tiết 63.2 70.8

Vấn đề An toàn giao thông 55.9 67.7

97

Truyền hình TW1 năm 2007)

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Từ kết quả khảo sát cho thấy mức độ quan tâm cao hơn đối với các

chương trình Thời sự trong nước, Thời sự quốc tế, và chuyên mục Dành cho

sinh viên báo chí đều thuộc về nhóm sinh viên nam. Cụ thể, đối với thông tin

Thời sự trong nước tỉ lệ quan tâm của nhóm sinh viên nam đạt tới 96.7%, trong

khi đó nhóm sinh viên nữ chỉ đạt 89.9%, với thông tin Thời sự quốc tế nhóm

nam đạt 89.4%, nhóm nữ chỉ đạt 86%, chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí

nhóm nam là 77%, trong khi đó nhóm nữ chỉ đạt 48.8%. Như vậy đối với cả 3

chương trình, chuyên mục tạo được sự quan tâm lớn nhất của sinh viên báo chí

đều thuộc về nhóm sinh viên nam.

Những vấn đề được quan tâm nhiều nhất như Thời sự trong nước, Thời sự

quốc tế, chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí, sinh viên nam có tỉ lệ quan

tâm cao hơn. Những chỉ báo còn lại nhóm sinh viên nữ có tỉ lệ cao hơn. Cụ thể,

đối với vấn đề Giáo dục nhóm nam là 75%, trong khi đó nhóm nữ đạt 83.8%,

thông tin về An ninh trật tự xã hội nam là 67.8%, trong khi đó nữ đạt 71.7%,

chuyên mục Thanh niên nam là 63.1%, nữ là 78.4%, thông tn Thời tiết nam là

63.3%, nữ là 70.8%, chuyên mục An toàn giao thông nhóm sinh viên nam là

55.9%, nữ là 67.7%. Đối với những thông tin Thời trang và Thể thao tỉ lệ về sự

quan tâm giữa nhóm nam và nhóm nữ là có sự khác biệt. Cụ thể đối với thông

tin Thời trang nhóm nam có tỉ lệ quan tâm là 39.5%, còn đối với nhóm sinh viên

nữ đạt 71.7%. Như vậy nhóm sinh viên nữ có tỉ lệ quan tâm cao hơn rất nhiều so

với nhóm sinh viên nam. Đối với thông tin Thể thao tỉ lệ quan tâm của nhóm

sinh viên nam là 59.2%, còn tỉ lệ quan tâm của nhóm nữ là 38.1%. Về vấn đề

này tỉ lệ tiếp nhận thông tin của nam là cao hơn nữ nhưng sự khác biệt cũng

không quá lớn như với vấn đề Thời trang.

98

Những vấn đề, chuyên mục ít tạo được sự quan tâm của cả nhóm nam và

nhóm nữ nhất là Thiếu niên nhi đồng và Người cao tuổi. Cụ thể, đối với những

thông tin về Thiếu niên nhi đồng nhóm sinh viên nam tỉ lệ quan tâm chỉ đạt

20%, nhóm nữ chỉ là 16.6%. Chuyên mục Người cao tuổi nhóm nam có tỉ lệ

quan tâm là 10.5%, nhóm nữ là 9.9%.

Sự tương quan cụ thể trong việc lựa chọn những vấn đề quan tâm giữa

sinh viên nam và sinh viên nữ trong bản thân mỗi nhóm cũng có sự khác biệt

đáng kể. Cụ thể, đối với nhóm sinh viên năm thứ năm nhóm sinh viên nam có tỉ

lệ quan tâm tới những thông tin Thời sự trong nước là 92.9%, nhóm sinh viên

nữ là 93.1%, như vậy đối với những thông tin Thời sự trong nước nhóm sinh

viên nữ năm thứ năm có tỉ lệ quan tâm cao hơn nhóm nam. Những thông tin

Thời sự quốc tế nhóm sinh viên nam cũng có tỉ lệ quan tâm là 92.9%, trong khi

đó nhóm nữ là 69.4%, chuyên mục Dành cho sinh viên báo chí nhóm nam có tỉ

lệ quan tâm là 67.9%, trong khi nhóm nữ có tỉ lệ là 79.2%. Về vấn đề An ninh

trật tự xã hội nhóm nam có tỉ lệ là 53.6%, nhóm nữ là 69.4%, chuyên mục

Thanh niên nhóm nam là 53.6%, nhóm nữ là 69.4%, vấn đề Giáo dục nhóm nam

có tỉ lệ quan tâm là 75%, nhóm nữ là 75%, thông tin Thời trang nhóm nam có tỉ

lệ quan tâm là 32.1%, nhóm nữ là 50%, vấn đề An toàn giao thông nhóm nam tỉ

lệ quan tâm là 53.65, nhóm nữ là 63.9%, thông tin Thời tiết nhóm nam là 57.1%

trong khi đó nhón nữ là 63.9%. Kết quả phân tích từ 9 chỉ báo cho thấy duy nhất

ở nội dung Thời sự quốc tế nhóm sinh viên nam năm thứ năm có tỉ lệ cao hơn

nhóm nữ ở các chỉ báo còn lại nhóm nữ đều có tỉ lệ cao hơn nhóm sinh viên

nam. Mặc dù đối với những thông tin Thể thao nhóm nam sinh viên có tỉ lệ

quan tâm là 35.7% cao hơn nhóm nữ là 31.9%, nhưng nhìn một cách tổng thể có

thể nói đối với sinh viên năm thứ năm nhóm nữ có 9/10 các chỉ báo có tỉ lệ quan

tâm đến các vấn đề được truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng cao

hơn nhóm nam sinh viên.

99

Đối với sinh viên năm thứ ba, nhìn chung các tỉ lệ quan tâm đến các vấn

đề được truyền tải trên báo chí đều khá cao. Sự chênh lệch giữa các tỉ lệ là

không lớn. Cụ thể, nhóm nam sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ quan tâm đến những

thông tin Thời sự trong nước là 100%, trong khi đó nhóm nữ là 96.8%, Thời sự

quốc tế nhóm nam là 88%, nhóm nữ là 86.4%. Chuyên mục Dành cho sinh viên

báo chí nhóm nam có tỉ lệ là 84%, nhóm nữ là 83.2%. Như vậy, đối với sinh

viên năm thứ ba ở 3 vấn đề tạo được sự quan tâm lớn nhất thì nhóm sinh viên

nam đều có tỉ lệ cao hơn nhóm sinh viên nữ. Ở những vấn đề khác cũng tạo

được sự quan tâm cao thì nhóm sinh viên nam hầu hết có tỉ lệ quan tâm thấp

hơn nhóm sinh viên nữ. Cụ thể như chuyên mục An ninh trật tự xã hội sinh viên

nam có tỉ lệ quan tâm là 66.7%, sinh viên nữ là 68%. Chuyên mục Dành cho

sinh viên báo chí nhóm nam có tỉ lệ là 57.3%, trong khi đó nhóm nữ là 72.8%.

Chuyên mục Thanh niên nhóm nam có tỉ lệ quan tâm là 62.7%, nhóm nữ là

70.4%, vấn đề Giáo dục nhóm nam là 66.7%, nhóm nữ là 78.4%, chuyên mục

An toàn giao thông nhóm nam là 56%, nhóm nữ là 60%. Thông tin Thời tiết

nhóm nam có tỉ lệ quan tâm là 60%, trong khi đó nhóm nữ là 67.2%. Về thông

tin Thể thao nhóm sinh viên nam năm thứ ba có tỉ lệ quan tâm là 61.3%, nhóm

nữ là 36%. Như vậy trong 10 chỉ báo được đem ra so sánh về mức độ quan tâm

đến các vấn đề truyền tải trên báo chí thì nhóm sinh viên nam năm thứ ba chỉ có

4/10 chỉ báo có tỉ lệ lớn hơn so với nhóm sinh viên nữ. Xét một cách tổng thể

đối với sinh viên năm thứ ba thì nhóm sinh viên nữ có tỉ lệ quan tâm đến các

vấn đề truyền tải trên báo chí lớn hơn nhóm sinh viên nam.

Đối với sinh viên năm thứ nhất nhóm nam sinh viên có tỉ lệ quan tâm tới

những thông tin Thời sự trong nước là 88.5%, nhóm nữ là 72.9%. Thông tin

Thời sự quốc tế nhóm nam là 84.6%, nhóm nữ là 70.8%, chuên mục An ninh

trật tự xã hội nhóm nam là 73.1%, nhóm nữ là 52.1%, về vấn đề Giáo dục nhóm

sinh viên nam năm thứ nhất có tỉ lệ quan tâm là 82.7%, nhóm nữ là 72.9%.

Những thông tin về Thể thao được nhóm nam quam tân là 65.3% còn nhóm nữ

là 35.4%, thông tin Thời tiết nhóm nam có 76.3% quan tâm còn nhóm nữ chỉ đạt

100

31.2%. Đối với những chỉ báo khác trong nhóm thông tin tời sự kinh tế, chính

trị xã hội tạo được sự quan tâm cao thì nhóm sinh viên nữ có các tỉ lệ cao hơn

nhóm nam. Cụ thể, với chuyêm mục Dành cho sinh viên báo chí nhóm nam là

67.3% trong khi đó nhóm nữ đạt 83.3%. Chuyên mục Thanh niên chỉ có 65.4%

sinh viên nam năm thứ nhất quan tâm, còn nhóm nữ là 77.1%. Thông tin Thời

trang được nhóm nữ quan tâm tới 68.7%, trong khi đó nhóm nam chỉ dành cho

nội dung này 48.1%. Chuyên mục An toàn giao thông nhóm nam có 53.8%

quan tâm còn nhóm nữ là 62.5%. Như vậy, đối với sinh viên năm thứ nhất 11

chỉ báo được so sánh gữa nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ trong đó

6/11 chỉ báo cho thấy nhóm nam có tỉ lệ quan tâm lớn hơn, 5/11 chỉ báo còn lại

nhóm nữ có tỉ lệ quan tâm lớn hơn. Nói chung tương quan giữa nhóm nam và

nữ sinh viên năm thứ nhất có sự chênh lệch không đáng kể.

Đánh giá một cách tổng quát trên phương diện giới tính về sự quan tâm

tới các vấn đề thời sự, kinh tế, chính trị xã hội của các nhóm sinh viên năm thứ

năm, năm thứ ba và năm thứ nhất cho thấy: sinh viên nam năm thứ ba có tỉ lệ

quan tâm tới Thời sự trong nước cao nhất đạt 100%, tiếp sau là nam sinh năm

thứ năm đạt 92.9%, nam sinh năm thứ nhất chỉ đạt 88.5%. Nhóm nữ sinh năm

thứ ba cũng có tỉ lệ quan tâm tới nội dung này cao nhất đạt 96.8%, tiếp đến là

nhóm nữ sinh năm thứ năm là 93.1% và thấp nhất vẫn là nhóm nữ sinh năm thứ

nhất là 72.9%.

2.3.1.2. Mức độ quan tâm đối với những thông tin văn hoá văn nghệ và

Vui chơi giải trí

Đối với những vấn đề về vă hoá văn nghệ và Vui chơi giải trí chúng tôi

đưa ra 4 chỉ báo để khảo sát mức độ quan tâm của công chúng sinh viên báo chí

là: Ca nhạc, Phim, các chương trình Vui chơi giải trí, và các thông tin về Văn

hoá nghệ thuật. Trong bốn chỉ báo này mức độ quan tâm của công chúng sinh

viên báo chí được xếp theo thứ tự ưu tiên lần lượt là:

101

- Ca nhạc 75.5%.

- Phim 70%.

- Vui chơi giải trí 64%.

- Thông tin Văn hoá nghệ thuật 47%.

Từ kết quả khảo sát trên cho thấy trong các vấn đề về văn hoá văn nghệ,

Vui chơi giải trí, thì Ca nhạc là vấn đề được ưu tiên quan tâm nhiều nhất đạt

75.5%, sau đó là chương trình Phim đạt 70%. Tỉ lệ quan tâm đến các chương

trình Vui chơi giải trí chỉ đứng thứ ba với 64%. Vấn đề ít tạo được sự quan tâm

là những thông tin về Văn hoá nghệ thuật chỉ đạt 47%.

Xét theo nhóm đối tượng sinh viên cho thấy, nhóm sinh viên năm thứ

năm dành sự quan tâm nhiều nhất cho Ca nhạc là 72%, Phim là 65%, các

chương trình Vui chơi giải trí là 54%, còn các thông tin Văn hoá nghệ thuật chỉ

là 35%. Nhóm sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ quan tâm đến Ca nhạc là 74%, Phim

là 75.5%, các chương trình Vui chơi giải trí là 76%, còn với những thông tin

Văn hoá nghệ thuật là 53,5%. Nhóm sinh viên năm thứ nhất có 82% quan tâm

đến vấn đề Ca nhạc, 68% quan tâm đến các chương trình Vui chơi giải trí, 64%

quan tâm đến chương trình Phim, còn thông tin Văn hoá nghệ thuật là 49%. Từ

các tỉ lệ trên cho thấy cả ba nhóm sinh viên đều dành sự quan tâm nhiều nhất

cho Ca nhạc, trong đó sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ cao nhất là 82%, so với

năm thứ ba là 74% và sinh viên năm thứ năm là 72%. Với chương trình Phim,

sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ quan tâm cao nhất là 75.5%, sau đó là sinh viên

năm thứ năm đạt 65%, và nhóm sinh viên năm thứ nhất là 64%. Các chương

trình Vui chơi giải trí nhóm sinh viên năm thứ ba có sự quan tâm nhiều nhất là

76%, nhóm sinh viên năm thứ nhất là 68% còn nhóm sinh viên năm thứ năm là

54%.

102

Xét theo chỉ báo giới tính nhóm nam sinh viên có các tỉ lệ quan tâm đến

các vấn đề về Văn hoá nghệ thuật và Vui chơi giải trí thấp hơn so vơi nhóm nữ.

Cụ thể, đối với các chương trình Ca nhạc có 67.7% nam sinh viên quan tâm,

trong khi đó nhóm nữ sinh là 89.2%, đối với chương trình Phim nhóm nam có

sự quan tâm là 68.4%, nhóm nữ là 78.9%, các chương trình Vui chơi giải trí

nhóm nam có tỉ lệ quan tâm là 59.8%, nhóm nữ là 74%. Các thông tin về Văn

hoá nghệ thuật là vấn đề ít tạo được sự quan tâm nhất nhóm nam có tỉ lệ là

32.9%, trong khi đó nhóm nữ là 63.2%. Như vây đối với cả 4 chỉ báo nữ sinh

viên đều có tỉ lệ quan tâm cao hơn nam sinh viên.

Sự tương quan về tỉ lệ quan tâm đến các vấn đề văn hoá, nghệ thuật và

Vui chơi giải trí trong bản thân mỗi nhóm sinh viên cũng có sự khác biệt giữa

nam và nữ sinh viên. Cụ thể, đối với nhóm sinh viên năm thứ năm, tỉ lệ nam

sinh viên quan tâm đến Ca nhạc là 53.6%, nhóm nữ sinh là 79.2%, nam sinh

viên năm thứ ba là 68%, nhóm nữ sinh năm thứ ba là 77.6%, nam sinh viên năm

thứ nhất là 71.1%, nhóm nữ sinh là 93.7%. Từ kết quả trên cho thấy nhóm nam

sinh viên năm thứ nhất quan tâm đến Ca nhạc nhiều nhất đạt 71.1%, so với

nhóm nam nă thứ ba là 68% và nhóm nam năm thứ năm là 53.6%. Tương tự

như vậy đối với nữ sinh năm thứ nhất cũng có tỉ lệ quan tâm đến Ca nhạc nhiều

nhất đạt 93.7%, so với năm thứ ba là 77.6% và năm thứ năm là 79.2%.

2.3.2. Những thể loại tác phẩm báo chí được công chúng sinh viên báo

chí quan tâm

Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Liên Xô, M...1985 “ Thể loại là

là khái quát hoá những đặc điểm của một nhóm lớn các tác phẩm có cùng thuộc

tính về nội dung, hình thức, cách biểu hiện tác phẩm của một thời đại, một giai

đoạn, một dân tộc hay một nền nghệ thuật thế giới”[431].

Sinh viên báo chí là nhóm công chúng đặc thù của báo chí.Tiếp cận

các phương tiện thông tin ngoài việc để tiếp nhận những thông tin bổ ích nhằm

103

nâng cao nhận thức và định hướng cho hoạt động học tập và rèn luyện nhóm

công chúng này còn đặc biệt quan tâm tới những thể loại báơ chí được sử dụng

trên báo chí. Đây là một hoạt động hết sức cần thiết, nó có ảnh hưởng đến quá

trình học tập cũng như đến thực tế quá trình tác nghiệp sau này của họ.

104

Bảng 8 - Mức độ quan tâm đến các thể loại báo chí

Sô % Tên thể loại

người

Tin 334 83.5

Phóng sự, điều tra 354 88.5

Phỏng vấn 168 42

Ghi nhanh 84 21

Bình luận 158 39.5

Xã luận 43 10.7

Tường thuật 85 21.2

Ký 66 16.5

Các thể loại Ảnh báo 170 42.5

chí

Các thể loại khác 102 25.5

105

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát

thanh - Truyền hình TW1 năm 2007

Mười chỉ báo được đưa ra khảo sát mức độ quan tâm của công

chúng sinh viên báo chí đối với các thể loại báo chí. Kết quả cho thấy đã có sự

chênh lệch tương đối lớn về tỉ lệ quan tâm của các chỉ báo. Cụ thể, các chỉ báo

được quan tâm nhiều nhất là thể loại Phóng sự, điều tra đạt 88.2%. Tin tức là

83.5%. Điều dáng ngạc nhiên là tỉ lệ quam tâm đến tất cả các chỉ báo còn lại

đều dạt dưới 50%. Các thể loại Ảnh báo chí 42.5%, Phỏng vấn 42%, Bình luận

39.5%. Các thể loại khác 25.5%, Tường thuật 21.2%, Ghi nhanh 21%, ký

16.5%, còn thể loại Xã luận chỉ chiếm 10%. Như vậy, đối với sinh viên báo chí

thể loại phản ánh có chiều sâu và mang tính quá trình là Phóng sự điều tra tạo

được sự quan tâm lớn nhất, thể loại phản ánh nhanh nhất đa dạng nhất là Tin

cũng dành được 83.5% số đối tượng quan tâm. Các thể loại ít tạo được sự quan

tâm của công chúng sinh viên báo chí là thể loại Xã luận, Ký và Ghi nhanh.

Trong thực tế, sinh viên báo chí là những người được đào tạo rất cơ bản

về hệ thống các thể loại báo chí, tuy nhiên các tỉ lệ quam tâm đến hệ thống này

của họ lại có sự chênh lệch lớn. Thực tế này có thể là một câu hỏi được đặt ra về

sự phù hợp của một số thể loại báo chí hiện nay.

Xét theo các nhóm đối tượng cho thấy sự tương quan trong mức độ quan

tâm của các nhóm sinh viên với hệ thống các thể loại báo chí. Cụ thể, sinh viên

năm thứ năm mức độ quan tâm tới thể loại Tin là 92%, Phóng sự, điều tra là

92%. Những thể loại khác đều có sự quan tâm rất thấp, hầu hết là dưới 40%. đặc

biêt với thể loại Xã luận nhóm sinh viên này chỉ có 9% số người quan tâm.

Nhóm sinh viên năm thứ ba tỉ lệ quan tâm đến thể loại tin là 88%, thể loaị

Phóng sự, điều tra là 94,5%, các thể loại Ảnh báo chí 46%, Phỏng vấn 45%,

Bình luận 43.5%. Các chỉ báo còn lại đều có tỉ lệ dưới 40%. Nhóm sinh viên

năm thứ nhất có tỉ lệ quan tâm đến thể loại Tin là 66%, thể loại Phóng sự điều

tra là 73%, các chỉ báo còn lại đều có tỉ lệ quan tâm dưới 40%. Như vậy, đối với

106

hai chỉ báo tạo được sự quan tâm nhiều nhất của công sinh viên báo chí là thể

loại Phóng sự điều tra và thể loại Tin sinh viên năm thứ năm đều có tỉ lệ cao

nhất. Nhóm sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ quan tâm đến các thể loại tương đối

đồng đều hơn, nhóm sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ quan tâm thấp nhất.

Xét trên chỉ báo giới tính cho thấy, tỉ lệ nam sinh viên quan tâm đến hai

chỉ báo có tỉ lệ quan tâm cao nhất là thể loại Phóng sự điều tra và Tin có sự

tương đồng với nhóm nữ. Cụ thể, tỉ lệ quan tâm của nam sinh viên với thể loại

Tin là 85.1%, với nhóm sinh viên nữ là 82.4%. Với thể loại Phóng sự điều tra

nhóm nam là 87.7%, trong khi đó nhóm nữ là 88.9%.

Trong từng nhóm sinh viên tỉ lệ quan tâm giữa nam và nữ cũng có

sự khác biệt. Sinh viên nam năm thứ năm có 92.9% quan tâm đến thể loại

Phóng sự điều tra trong khi đó nhóm nữ là 91.7%. Với thể loại Tin sinh viên

nam có sự quan tâm là 85.7%, sinh viên nữ là 94.4%. Nói chung, tỉ lệ quan tâm

của hai nhóm này là rất cao và sự chênh lệch là không lớn. Đối với sinh viên

năm thứ ba nhóm nam sinh quan tâm đến Phóng sự điều tra là 92%, nhóm nữ là

96%. Thể loại Tin nhóm nam cũng như nhóm nữ có sự quan tâm là 88%. Sinh

viên nam năm thứ nhất quan tâm đến thể loại Phóng sự điều tra là 78.8%, nhóm

nữ là 66.7%, với thể loại Tin nhóm nam là 80%, trong khi đó nhóm nữ là 50%.

Các chỉ báo còn lại cả nhóm nam và nhóm nữ đều có tỉ lệ quan tâm thấp dưới

50%. Như vậy, đối với sinh viên năm thứ nhất nhóm nam sinh viên có tỉ lệ quan

tâm đến các thể loại báo chí cao hơn nhóm sinh viên nữ.

Đối với những người làm báo nói chung và sinh viên báo chí nói

riêng việc nắm chắc lí luận về thể loại báo chí là một yêu cầu quan trọng. Lí

luận thể loại sẽ là công cụ giúp cho họ biết sử dụng những tư liệu cần thiết, vừa

và đủ để xây dựng một tác phẩm báo chí. Mặt khác khi một tác phẩm báo chí

được thực hiện đúng theo yêu cầu về nội dung và hình thức thể loại sẽ làm tăng

thêm tính hấp dẫn đối với công chúng. Vì vậy, khả năng tác động của tác phẩm

107

sẽ cao hơn [11]. Theo tác giả Đinh Hường trong bài : Một số vấn đề về thể loại

báo chí, trong tập : Báo chí - những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nhà xuất bản

Đại học quốc gia Hà Nội, 1998 cho rằng: khi xây dựng tác phẩm báo chí, nếu

người viết thực hiện tốt các yêu cầu về thể loại sẽ “ giúp cho người biên tập và

ban biên tập nhận diện đứng thể loại, tổ chức trang báo, chương trình phát

thanh, truyền hình một cách khoa học”.

Trong thực tế, thời gian học lí thuyết về các thể loại báo chí trong

các nhà trường của sinh viên là có hạn. Mặt khác, giữa lí thuyết trong nhà

trường và thực tế hoạt động báo chí còn có khoảng cách nhất định. Chính vì

vậy, việc sinh viên báo chí tiếp cận các thể loại báo chí trên báo chí là hết sức

cần thiết, nó vừa làm tăng thêm khả năng nhận thức thực tế của mỗi cá nhân

sinh viên vừa làm hoàn thiện thêm hệ thống các thể loại báo chí.

2.3.3. Nhu cầu và mức độ trao đổi thông tin của sinh viên báo chí.

Cho tới nay chưa có một định nghĩa chung nhất cho khái niệm nhu cầu.

Các sách giáo khoa chuyên nghành hay các công trình nghiên cứu khoa học

thường có những định nghĩa mang tính riêng biệt.Theo định nghĩa của từ điển

Bách khoa toàn thư Wikipedia nhu cầu là: tính chất của cơ thể sống, biểu hiện

trạng thái thiếu hụt của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường

sống. Nhu cầu tối thiểu nhất, hay còn gọi là nhu yếu tuyệt đối, đã được lập trình

qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát triển và tiến hóa.

Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách

thì khả năng chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu

cầu đồng nghĩa với việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này,

nhận thức có sự chi phối nhất định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự

thoả mãn nhu cầu).

108

Nhu cầu thông tin là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người

về thông tin giao tiếp để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi

trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có mức độ về nhu cầu

thông tin khác nhau.

Tiếp nhận thông tin là một quá trình quan trọng trong quy trình hoạt

động của truyền thông đại chúng. Có thể nói hành vi tiếp nhận thông tin từ các

phương tiện truyền thông đại chúng là yếu tố đầu tiên trong cả qua trình kể từ

khi thông điệp được truyền đi cũng như quá trình công chúng tiếp nhận, xử lí để

định hướng cho hành vi hoạt động của mình. Nói cách khác đay là quá trình

quan trọng đầu tiên diễn ra trong quá trình giao tiếp đại chúng.

Nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng còn phản ánh sự quan tâm

của công chúng dành cho các phương tiện truyền thông đại chúng. Trên cơ sở

đó có thể đánh giá được lượng thông tin mà cá nhân thu được từ các phương

tiện truyền thông đại chúng.

Nhu cầu thông tin là yếu tố đầu tiên cơ bản của quá trình thông tin,

nếu không có nhu cầu thông tin thì sẽ không làm xuất hiện qua trình thông tin,

kể cả đối với thông tin cá nhân và thông tin đại chúng. Có thể nói, nhu cầu được

tiếp nhận và trao đổi thông tin vừa là phương thức tồn tại của con người vừa là

yếu tố để đánh giá mức độ tiếp nhận và khả năng xử lí thông tin được tiếp nhận

của mỗi cá nhân.

Đối với sinh viên nói chung, và sinh viên báo chí nói riêng hầu hết

họ đang sống trong các kí túc xá và các nhà trọ tập thể. Cuộc sống xa gia đình,

người thân có thể nói đây là điều kiện tốt nhất để trao đổi thông tin mọi mặt

trong đó có những thông tin tiếp nhận được từ báo chí.

Kết quả khảo sát cho thấy 88.5% số sinh viên báo chí của Trường

Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1 sống trong kí túc xá và các nhà trọ tập

109

thể, trong tổng số đó, năm thứ nhất chiếm 21.5%, năm thứ ba chiếm 44.7%,

năm thứ năm là 22.2%.

Trao đổi thông tin được coi là một trong những hình thức để xử lí thông

tin tiếp nhận được của mỗi cá nhân, mỗi nhóm công chúng. Xử lý thông tin là

khâu quan trọng của một quá trình truyền thông. Nó được thể hiện ở hai khía

cạnh, một mặt là sự hướng dẫn, kiểm soát, định hướng trong hoạt động cung cấp

thông tin cho đối tượng và mặt khác là sự chia xẻ trao đổi thông tin giữa các đối

tượng tiếp nhận trong hoạt động sống thường ngày. Như đã đề cập, truyền

thông đại chúng có đặc điểm là các tin tức từ hệ thống này được truyền thông

đại chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và gián tiếp. Vì vậy khía cạnh hướng

dẫn, kiểm soát, định hướng của nó chủ yếu được ẩn chứa trong thông điệp

truyền thông, do đó vấn đề xử lý thông tin trong truyền thông đại chúng nổi rõ

hơn ở khía cạnh thứ hai. Các nhà xã hội học trên thế giới thường gọi đây là khâu

giải mã và xem nó là rất căn bản khi đo lường một hiệu quả truyền thông. Để

phần nào tìm hiểu về khía cạnh này, đề tài khảo sát 5 loại kênh giao tiếp xã hội

thường gặp qua câu hỏi: " Bạn thường nói chuyện với ai về các thông tin trên

báo, đài phát thanh, truyền hình … mà bạn tiếp nhận được”?

Sở dĩ người ta coi việc xử lý thông tin là một khâu quan trọng của quá

trình truyền thông vì lẽ khi qua giai đoạn này thì thông tin được cải tạo, ăn sâu

vào nhận thức và hình thành quan điểm, thái độ riêng của cá nhân và nhóm tiếp

nhận thông tin. Các nghiên cứu về truyền thông trên thế giới hiện nay cũng chỉ

ra rằng các kênh xử lý thông tin có ý nghĩa và hiệu quả nhất chính là các nhóm

nhỏ có nhiều điểm tương đồng với nhau, chẳng hạn như bạn bè, đồng nghiệp,

gia đình …

Bảng 9 - Mức độ trao đổi về các thông tin của truyền thông đại chúng

110

năm

năm

thứ

năm

thứ năm

ba

thứ nhất

Kênh trao đổi

N

t

N

t

t

ỉ lệ%

ỉ lệ% N

ỉ lệ%

Với bạn học 7 6 4 1 5

5 0 22 4.2 8 8.8

3 1 Với thầy cô giáo 9 7 2

.2 5.1 4 1.3 4

2 1 3 1 1 Người thân trong gia

đình 1 6.8 2 4.2 8 1.3

Với các nhà báo 4 3 8 3 6

.2 .6 0 .3

Người khác 1 1 2 1 1

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

6 2.8 9 2.9 0 2.5

Kết quả khảo sát công chúng sinh viên báo chí cho thấy những

kênh xử lý thông tin được sử dụng nhiều nhất là trao đổi với bạn học 60%,

những kênh còn lại có mức độ sử dụng là tương đối thấp đều đạt dưới 22%.

111

Đây là những mối quan hệ gần gũi nhất, có quan hệ tương tác chi

phối nhiều nhất đối với mỗi cá nhân trong đời sống cộng đồng. Kết quả khảo sát

cũng cho thấy đối với công chúng sinh viên báo chí ưu tiên hàng đầu trong việc

trao đổi thông tin là kênh bạn bè, tiếp theo mới là các quan hệ trao đổi thông tin

với các thày cô giáo, các nhà báo và người thân trong gia đình…Đối với kênh

trao đổi là người thân trong gia đình, do sinh viên hầu hết sống xa nhà nên tỉ lệ

sử dụng thấp là điều dễ hiểu. Đối với những kênh khác tỉ lệ sử dụng cũng rất

thấp là điều đáng ngạc nhiên.

Trong 3 nhóm công chúng sinh viên được khảo sát về mức độ trao

thông tin, ở kênh với bạn bè, nhóm sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ cao nhất là

60%. Tuy nhiên tỉ lệ các nhóm còn lại thì việc trao đổi thông tin trong bạn bè

cũng có những tỉ lệ không thấp lắm. Cụ thể, như nhóm sinh viên năm thứ ba là

54.3%; sinh viên năm thứ năm là 48.8%. Nhìn chung việc trao đổi thông tin đối

với các nhà của các đối tượng công sinh viên niên là rất thấp. Mức độ sử dụng

kênh này của sinh viên năm thứ nhất chỉ đạt 3.2%, sinh viên năm thứ ba là

3.6%, còn sinh viên năm thứ năm là 6.3%.

Sự trao đổi thông tin trong quan hệ với các thày cô giáo không có

sự chênh lệch lớn giữa các nhóm đối tượng. Ở mức độ cao nhất là nhóm sinh

viên năm thứ năm có tỉ lệ sử dụng là 21.3%, tiếp theo là nhóm sinh viên năm

thứ ba là 15.1% Ở nhóm còn lại tỷ lệ rất thấp là sinh viên năm thứ nhất 7.2%.

Trong quan hệ gia đình, việc trao đổi thông tin nhiều nhất thuộc nhóm sinh viên

năm thứ nhất 16.8%, tiếp theo là nhóm sinh viên năm thứ ba là 14.2%, ở mức

thấp nhất là sinh viên năm thứ năm 11.3 %.

Xét trên chỉ báo giới tính trong từng nhóm sinh viên cho thấy: nam

sinh viên năm thứ năm có mức độ sử dụng kênh trao đổi với bạn học là 43.2%,

trong khi đó nhóm nữ là 50.4%, với các thầy cô giáo nhóm nam là 27%, nữ là

19.5%. với người thân trong gia đình nhóm nam là 5.4%, nhóm nữ là 13%. Việc

112

trao đổi thông tin với các nhà báo nhóm nam là 10.8%, nhóm nữ là 4.9%. Trao

đổi thông tin vói những người khác nhóm nam là 13.5%, nhóm nữ là 12.2%.

Như vậy so sánh trên 5 chỉ báo cho thấy nhóm nam sinh năm thứ năm có 4/5 chỉ

báo có tỉ lệ cao hơn nhóm nữ sinh năm thứ năm trong việc trao đổi những thông

tin tiếp nhận được từ báo chí.

Đối với sinh viên năm thứ ba nhóm nam có mức độ sử dụng kênh

trao đổi với bạn học là 49.6%, nhóm nữ là 59.8%. Với các thày cô giáo là nhóm

nam là 17.1%, nhóm nứ là 12.7%, với người thân trong gia đình nhóm nam là

13.8%, nữ là 14.7%. Với các nhà báo nhóm nam là 4.9%, nhóm nữ là 1.9%, vói

người khác nam là 14.6%, nữ là 10.8%. Tương tự như sinh viên năm thứ năm,

nhóm nam sinh viên năm thứ ba cũng có 4/5 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn nhòm nữ.

Sinh viên năm thứ nhất, nhóm nam có mức độ sử dụng kênh trao

đổi với bạn học là 62.6%, nữ là 56.8%, với các thày cô giáo nhóm nam là 7.4%,

nữ là 6.8%. Với người thân trong gia đình nhóm nam là 13.4%, nữ là 20.6%.

với các nhà báo nhóm nam là 1.4%, nhóm nữ là 5.1%. Với người khác nam là

17.9%, nữ là 10.3%. Như vậy nhóm nam sinh viên năm thứ nhất có 3/5 chỉ báo

có tỉ lệ cao hơn hóm nữ. Xét một cách tổng thể, đối với cả ba nhóm sinh viên thì

tỉ lệ sinh viên nam có tỉ lệ quan tâm đến các kênh trao đổi thông tin cao hơn nữ.

Việc gửi thư đến toà soạn những tờ báo có liên quan đến nghành

báo để trao đổi những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ báo chí cũng là một

trong những chỉ báo quan trọng để đánh giá mức độ trao đổi và xử lí thông tin

của công chúng sinh viên báo chí.

Bốn mức độ là: thường xuyên, thỉnh thoảng, ít khi, và không nhớ,

được sử dụng để khảo sát.

113

Bảng 10 – Mức độ gửi thư đến toà soạn những tờ báo có liên

quan đến nghành báo để trao đổi những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ

báo chí

N

Không

Thường

Thỉnh

Ít khi

hóm

xuyên

thoảng

nhớ

sinh viên

N

%

N

%

N

%

N

%

N 6 6 1 1 4 4 3 3

ăm thứ .3 3 3.5 6 7.9 1 2.3

nhất

2 4 2 N 6 3 4 9 5

ăm thứ 5 3.0 3 7.5 2 6.6 .1

ba

N 4 4 3 3 3 3 2 2

ăm thứ .3 5 7.2 5 7.2 0 1.3

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

năm

Kết quả khảo sát cho thấy việc thường xuyên gửi thư đến toà soạn những

tờ báo có liên quan đến ngành báo để trao thông thông tin có liên quan đến báo

chí là rất thấp.Cụ thể, nhóm sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ cao nhất cũng chỉ là

6.3%, năm thứ năm là 4.3%, còn năm thứ ba thấp nhất là 3.1%. Ở mức độ thỉnh

thoảng, sinh viên năm thứ nhất cũng có tỉ lệ cao nhất đạt 13.5%, năm thứ ba là

114

23%, nâm thứ năm là 37.2%. Như vậy, ở cả hai chỉ báo quan trọng là thường

xuyên và thỉnh thoảng nhóm sinh viên năm thứ nhất đều đạt tỉ lệ cao nhất, tiếp

đó là sinh viên năm thứ năm, và thấp nhất là nhóm sinh viên năm thứ ba. Ở mức

độ ít khi gửi thư nhóm sinh viên năm thứ nhất và năm thứ ba có sự tương đồng,

năm thứ nhất là 47.9%, năm thứ ba là 47.5%, thấp nhất là nhóm sinh viên năm

thứ năm là 37.2%. Đánh giá chung là nhóm sinh viên năm thứ nhất có mức độ

gửi thư đến các toà soạn những tờ báo có liên quan đến ngành báo để trao đổi

thông tin có tỉ lệ cao nhất, tiếp đó là nhóm sinh viên năm thứ năm, thấp nhất là

nhóm sinh viên năm thứ ba.

Theo chỉ báo giới tính, nhóm nam sinh viên nam sinh viên năm thứ năm

chỉ có 4% số người thường xuyên gửi thư đến các toà soạn những từ báo có liên

quan đến ngành báo và số nữ cũng chỉ là 4.2%, ở mức độ thỉnh thoảng nhóm

nam đạt 36%, trong khi đó nhóm nữ đạt 36,6%, mức độ ít khi nhóm nam là

44%, nhóm nữ là 33.8%. Từ ba chỉ báo trên cho thấy nhóm nữ có 2/3 chỉ báo có

tỉ lệ cao hơn nhóm nam. Với sinh viên năm thứ ba ở mức độ thường xuyên

nhóm nam là 5.3%, nữ là 1.5%, mức độ thỉnh thoảng nhóm nam là 25.3%,

nhóm nữ là 19.8%, ở mức độ ít khi, nhóm nam là 48%, nhóm nữ là 51.1%.Cũng

như đối với năm thứ năm sinh viên nam năm thứ ba cũng có 2/3 chỉ báo có tỉ lệ

cao hơn nhóm nữ. Sinh viên nam năm thứ nhất có mức độ thường xuyên gửi thư

trao đổi thông tin tới các toà soạn là 13.9%, nhóm nữ năm thứ nhất không có

trường hợp nào, ở mức độ thỉnh thoảng nhóm nam là 11.6%, thấp hơn nữ là

18.6%, ở chỉ báo ít khi nhóm nam là 46.5%, nhóm nữ là 60.4%. Như vậy, với

sinh viên năm thứ nhất nhóm nữ có 2/3 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn nhóm sinh viên

nam.

115

116

CHƯƠNG III

NHẬN DIỆN MỘT SỐ KÊNH TRUYÊN THÔNG ĐẠI CHÚNG

LIÊN QUAN ĐẾN NGHỀ BÁO VÀ VIỆC SỬ DỤNG THÔNG ĐIỆP TỪ

BÁO CHÍ CỦA CÔNG CHÚNG SINH VIÊN BÁO CHÍ.

3.1. Nhận diện một số kênh truyền thông đại chúng

Khảo sát về mức độ nhận diện các dấu hiệu đặc trưng của các tờ

báo trong công chúng truyền thông được coi là chỉ báo quan trọng cho thấy sự

nhận diện của công chúng truyền thông về các chủ đề cơ bản thể hiện trong

thông điệp. Sự đo lường này cũng nhằm kiểm chứng mức độ tiếp nhận thông tin

trên tờ báo đó.

Mức độ tiếp cận với những tờ báo và những trang web có liên quan

đến nghề báo là một trong những chỉ báo quan trọng để công chúng báo chí

nhận diện đấu hiệu đặc trưng của những tờ báo. Chúng tôi đưa ra 4 tờ báo và

trang web có lên quan đến ngề báo để khảo sát mức độ quan tâm của công

chúng sinh viên báo chí.( xem bảng 11)

Bảng 11 - Mức độ quan tâm đến các tờ báo trang web có liên

Thườn

Thỉnh

Ít khi

K

quan đến nghề báo

g xuyên

thoảng

hông

Tên báo, trang

N

%

%

%

Báo Nhà báo &

web

Tạp chí Người

6 1 4 2

9 2 4 1

117

Tạp chí Nghề báo

làm báo 0 5.7 71 8.9 5 8.6 4 .8

1 3 4 1

Trangweb

09 2.0 62 7.6 0 1.7 9 .5

1 4 3 9

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

nghebao.com 75 8.7 30 6.2 4 .4 0 .5

Từ kết quả khảo sát cho thấy mức độ quan tâm của công chúng

sinh viên báo chí đến các tờ báo trang web có liên quan đến nghề báo là tương

đối cao. Ở mức độ theo dõi thường xuyên tờ báo được quan tâm nhiều nhất là

trang web nghebao.com đạt 48.7%, sau đó lần lượt là tạp chí Nghề báo 32%, tạp

chí Người làm báo 25.7% và thấp nhất là báo nhà báo và công luận chỉ đạt 18%.

Ở mức độ thỉnh thoảng mức độ quan tâm của công chúng sinh viên báo chí đến

các tờ báo và trang web trên đồng đều hơn, trong đó tạp chí Người làm báo có tỉ

lệ cao nhất là 48.9%, thứ đến là tạp chí Nghề báo là 47,6%, báo Nhà báo &

Công luận đạt 44.5%, và thấp nhất là trang web Nghebao.com chỉ đạt 36.2%.

Đối với chỉ báo ít khi tiếp cận báo Nhà báo & Công luận có tỉ lệ ít khi đọc cao

nhất chiếm 26.5%, tiếp đó là tạp chí Người làm báo 18.6%, tạp chí Nghề báo là

11.7%, trang web nghebao.com có tỉ lệ ít tiếp cận thấp nhất là 9.4%. Báo nhà

báo & Công luận có tỉ lệ sinh viên hoàn toàn không tiếp cận nhiều nhất là 11%,

trang web nghebao.com có tỉ lệ không tiếp cận ít nhất chỉ là 5.5%. Như vậy,

trang web nghebao.com có tỉ lệ theo dõi thường xuyên cao nhất, tỉ lệ ít khi quan

tâm thấp nhất, tỉ lệ sinh viên hoàn toàn không quan tâm thấp nhất.

Tương quan trong từng nhóm sinh viên, tỉ lệ giữa nam và nữ cũng

có sự khác biệt. Cụ thể, nhóm sinh viên nam năm thứ năm có mức độ quan tâm

118

thường xuyên đến báo Nhà báo & Công luận là 23.8%, trong khi đó nhóm nữ

chỉ là 13.5%, ở mức độ thỉnh thoảng quan tâm nhóm nam có tỉ lệ là 57.1%, còn

nhóm nữ là 46.2%. Nhóm nam tỉ lệ ít khi quan tâm đến tờ báo này chỉ là 9.5%,

còn nhóm nữ là 36.5%. Như vậy đối với sinh viên năm thứ năm nhóm nam có tỉ

lệ quan tâm đến tờ báo này cao hơn nhóm nữ. Với tạp chí Người làm báo nhóm

nam thường xuyên quan tâm là 35%, trong khi đó nhóm nữ là 38%, ở mức độ

thỉnh thoảng tiếp cận nhóm nam là 50%, nhóm nữ là 47%...Có thể nói rằng đối

với tờ báo này tỉ lệ quan tâm giữa nam và nữ là tương đối đồng đều. Với tạp chí

Nghề báo thì ở cả hai chỉ báo nhóm nữ đều có tỉ lệ cao hơn nhóm nam. Cụ thể ở

mức độ thường xuyên nhóm nam là 42.9%, trong khi đó nhóm nữ đạt 52.6%.

Mức độ thỉnh thoảng tiếp cận nhóm nam là 52,4%, nhóm nữ là 76.3%. Như

vậy, nhóm nữ ở cả hai mức độ đều có tỉ lệ cao hơn nhóm nam. Trang web

nghebao.com tỉ lệ nam sinh viên có mức độ quan tâm thường xuyên là 83.3%

cách biệt vói nhóm nữ là 55.7%. Đối với sinh viên năm thứ ba ở cả 4 tờ báo và

trang web ở mức độ quam tâm thường xuyên nhóm nam đều có các tỉ lệ cao hơn

nhóm nữ. Cụ thể, với tờ Nhà báo & Công luận nhóm nam là 17.9%, nhóm nữ là

7.7%, tạp chí Người làm báo nhóm nam có tỉ lệ là 29.8%, nhóm nữ là 14.8%.

tạp chí Nghề báo nhóm nam là 37.1%, nhóm nữ là 26.6%, trang web

nghebao.com nhóm nam là 62.1%, nhóm nữ là 48.5%. Nhóm sinh viên nữ năm

thứ nhất có ở mức độ quan tâm thường xuyên có tới 3/4 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn

nhóm nam. Cụ thể, với tờ Nhà báo & Công luận nhóm nữ là 37.7% trong khi đó

nhóm nam chỉ đạt 21.3%, với tập chí Người làm báo nhóm nữ là 26.8%, nhóm

nam 23,5%, tạp chí Nghề báo nhóm nữ là 33.3%, nhóm nam là 29.6%. Riêng

với trang web nghebao.com, nhóm nam có tỉ lệ quan tâm là 26.3% cao hơn

nhóm nữ là 22.8%. Nói chung với sinh viên năm thứ nhất tỉ lệ quan tâm đến các

tờ báo, trang web có liên quan đến nghề báo là tương đối đồng đều.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi đưa ra 2 tờ

báo và 1 trang web có nội dung liên quan đến nghề báo để khảo sát, đó là tạp

chí Người làm báo, báo Nhà báo & Công luận và trang web nghebao.com

119

3.1.1. Tạp chí Người làm báo

Đây là tờ báo được xuất bản theo dấu hiêu nghề nghiệp, là tạp chí lí

luận của Trung ương Hội nhà báo Việt Nam. Theo chúng tôi sinh viên báo chí là

một trong những nhóm công chúng đặc thù của tạp chí này. Năm dấu hiệu được

đưa ra khảo sát là:

1. Là tạp chí lí luận của Trung ương Hội nhà báo Việt Nam. Bảo vệ

quyền lợi của các nhà báo Việt Nam.

2. Phản ánh chân dung và kỷ niệm của những người làm báo.

3. Phản ánh hoạt động của báo chí trong nước và báo chí nước ngoài.

4. Là nơi để trao đổi những vấn đề nghiệp vụ của người làm báo và

những người quan tâm đến nghiệp vụ báo chí.

5. Chuyên mục “nhặt sạn trên mặt báo” chỉ ra những lỗi của tác phẩm

trên tất cả các loại hình báo chí.

Kết quả khảo sát cho thấy mức độ quâm tâm của công chúng sinh

viên báo chí tới các dấu hiệu được đưa ra không có sự tương đồng. Dấu hiệu 4

có mức độ nhận biết cao nhất là 63%, tiếp đến là dấu hiệu 1 đạt 33%, dấu hiệu 2

là 31%, dấu hiệu 4 là 25.7%, và dấu hiệu 3 là 19.8%.

Đối với các nhóm công chúng sinh viên kết quả nhận biêt tạp chí Người

làm báo cũng có sự khác biệt. Mặc dù các tỉ lệ nhận biết các dấu hiệu không cao

nhưng cũng không có dấu hiệu nào bị triệt để phủ nhận.

Bảng 12 - Dấu hiệu nhận biết tạp chí Người làm báo theo các nhóm

sinh viên

120

Năm thứ nhất

Năm thứ ba

Năm thứ năm

Dấ

N

%

N

%

N

%

u hiệu

nhận

biết

15. 42 26.1 Dấ 20. 53 3

1 u hiệu 1 7 8

19. 69 19. 21 13.0 Dấ 3

7 u hiệu 2 4 1

18 3 33 9.4 14 8.7 Dấ

u hiệu 3 2

30. 12 36. 64 42.2 Dấ 5

8 u hiệu 4 5 9 9

11. 67 19. 16 9.9 Dấ 2

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

1 u hiệu 5 0 2

Đối với nhóm sinh viên năm thứ nhất, dấu hiệu 4 có tỉ lệ nhận biết cao

nhất là 30.9%, dấu hiệu 1là 20.8%, dấu hiệu 2 là 19.1%, dấu hiệu 3 là 18%, thấp

nhất là dấu hiệu 5 chí đạt 11.2%.Nhóm sinh viên nă thứ ba tỉ lệ nhận biết cao

121

nhất cũng thuộc về dấu hiệu 4là 36.8%, tiếp đến là dấu hiệu 2 đạt 19.7%, dấu

hiệu 5 là 19.1%, đấu hiệu1 là 15.1%, thấp nhất là dấu hiệu 3 chỉ đạt 9.4%.

Nhóm sinh viên năm thứ năm cũng tương tự như năm thứ nhất và năm thứ ba, tỉ

lệ nhận biết cao nhất thuộc về dấu hiệu 4 là 42.2%, tiếp đến là dấu hiệu 1là

26.1%, dấu hiệu 2 là 13%, dấu hiệu 5 là 99%, thấp nhất là dấu hiệu 3 chỉ đạt

8.7%. Đánh giá chung cho thấy cả ba nhóm sinh viên đều có tỉ lệ nhận biết cao

nhất thuộc về dấu hiệu 4. tỉ lệ nhận biết thấp nhất của sinh viên năm thứ ba và

năm thứ năm thuộc về dấu hiệu 3.

Ở chỉ báo giới tính việc nhận biết các dấu hiệu của tạp chí Người làn báo

có tỉ lệ không cao nhưng cũng không có sự chênh lệch lớn. Cụ thể, đối với

nhóm sinh viên nam năm thứ nhất tỉ lệ nhận biết dấu hiệu 1 là 17.3%, nhóm nữ

là 22.9%. dấu hiệu 2 nhóm nam là 13%, nhóm nữ cũng là 22,9%, ở dấu hiệu 3

nhóm nam là 9%, nhóm nữ là 21.1%. Dấu hiệu 4 là dấu hiệu có tỉ lệ nhận biết

cao nhất nhóm nam đạt 42%, trong khi đó nhóm nữ chỉ đạt 23.8%. ở dấu hiệu 5

nhóm nam là 14.4%, nhóm nữ là 9.1%. Như vậy, nhóm viên nữ năm thứ nhất có

3/5 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn nhóm nam. Nhóm sinh viên nam thứ ba có tỉ lệ nhận

biết dấu hiệu 1 là 20.8%, trong khi đó nhóm nữ năm thứ ba là 10.1%, dấu hiệu 2

nhóm nam là 2.4%, nhó nữ là 17.4%, dấu hiệu 3 nhóm nam là 9.7%, nữ là 8.7%.

Dấu hiệu 4 là dấu hiệu nhóm nam có tỉ lệ nhận biết cao nhất đạt 28.6%, thấp

hơn nhóm nữ có tỉ lệ là 41%. Nhóm sinh viên nam năm thứ ba có 3/5 chí báo có

tỉ lệ cao hơn nhóm nữ. Đối với sinh viên năm thứ năm nhóm nam có tỉ lệ nhận

biết dấu hiệu 1 là 35.1%, nhóm nữ là 23.4%, dấu hiệu 2 nhóm nam là 10.8%,

nhóm nữ là 13.7%, dấu hiệu 3 nhóm nam là 8.1%, còn nữ là 8.9%, dấu hiệu 4

nhóm nam là 35.1%n nhóm nữ là 44.4%, ở dấu hiệu 5 nhóm nam là 10.8%,

nhóm nữ là 9.7%. Như vậy nhóm nữ năm thứ năm có 3/5 chỉ báo có tỉ lệ nhận

biết cao hơn nhóm nam.

3.1.2 Báo Nhà báo & Công luận

122

Báo Nhà báo & Công luận là cơ quan ngôn luận của Trung ương

Hội nhà báo Việt Nam. Nhóm công chúng sinh viên báo chí cũng được coi là

nhóm công chúng đặc thù của tờ báo này.

Có 5 dấu hiệu cơ bản của báo Nhà báo và Công luận được đưa ra khảo

sát là:

1. Là cơ quan ngôn luận của Trung ương hội nhà báo Việt

Nam. Bảo vệ quyền lợi của các nhà báo Việt Nam

2. Giúp bạn hình thành lý tưởng, quan niệm về nghề báo, nhà

báo

3. Phản ánh hoạt động của các nhà báo và các cơ quan báo chí

4. Nêu những gương sáng của các nhà báo, các cơ quan báo chí

trong hoạt động truyền thông đại chúng

5. Giới thiệu các tác giả, tác phẩm báo chí được giải trong các

cuộc thi trong nước và quốc tế.

Bảng 13 - Dấu hiệu nhận biết báo Nhà báo & Công luận theo các

Năm thứ nhất

Năm thứ ba

Năm thứ năm

nhóm sinh viên

Dấ

N

%

N

%

u hiệu

N

%

nhận biết

123

Dấ 5 32. 8 29. 5 34.

u hiệu 1 7 6 4 6 7 8

Dấ 3 18. 7 25. 3 18.

u hiệu 2 3 9 1 0 0 3

Dấ 3 17. 5 19. 3 19.

u hiệu 3 0 1 5 4 2 5

Dấ 3 18. 4 14. 3 18.

u hiệu 4 3 9 2 8 1 9

Dấ 2 12. 3 11. 1 8.5

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

u hiệu 5 2 6 2 3 4

Kết quả khảo sát cho thấy dấu hiệu 1 để nhận biết tờ báo này có tỉ lệ cao

nhất là là 49.5%, dấu hiệu 2 là 33.5%, dấu hiệu 3 là 29.3%, dấu hiệu 4 là 26.5%,

dấu hiệu 5 có tỉ lệ nhận biết thấp nhất là 17%.

Giữa các nhóm đối tượng kết quả nhận biết các dấu hiệu của báo Nhà báo

& Công luận có sự khác biệt khá rõ. Nhìn chung các nhóm sinh viên có tỉ lệ

nhận biết các dấu hiệu của tờ báo này khá thấp, không có chỉ báo nào có tỉ lệ

nhận biết đạt 40%. Cụ thể, nhóm sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ nhận biết dấu

hiệu 1 là 32.6%, nhóm sinh viên năm thứ ba là 29.6%, cao nhất là nhóm sinh

viên năm thứ năm là 34.8%. dấu hiệu 2 nhóm sinh viên năm thứ nhất là 18.9%,

năm thứ ba cao nhất là 25%, năm thứ năm là 18.3%, dấu hiệu 3 nhóm sinh viên

124

năm thứ nhất là 17.1%, năm thứ ba là 19.4%, năm thứ năm là 19.5%, với dấu

hiệu 4 năm thứ nhất là 18.9%, năm thứ ba là 14.8%, năm thứ năm 18.9%, dấu

hiêu 5 là dấu hiệu được nhận biết thấp nhất của cả 3 nhóm, năm thứ nhất 12.6%,

năm thứ ba là 11.3%, năm thứ năm 8.5%.

Trên chỉ báo giới tính cho thấy, sinh viên năm thứ nhất tỉ lệ nhận biết các

dấu hiệu của tờ Nhà báo & Công luận có sự chênh lệch không đáng kể. Dấu

hiệu 1 có tỉ lệ nhận biết cao nhất nhóm nam là 32.9%, nữ là 32.0%, dấu hiệu 2

nhóm nam là 18%, nữ là 19.7%, dấu hiệu 3 nhóm nam là 15.9%, nữ là 18.5%,

dấu hiệu 4 nhóm nam là 18%, nữ là 19.7%, dấu hiệu 5 cũng là dấu hiệu có tỉ lệ

tiếp nhận thấp nhất, nhóm nam là 14.8%, nhóm nữ là 9.8%. Nhóm sinh viên

nam năm thứ ba có tỉ lệ nhận biết với dấu hiệu 1 của tờ báo này là 31.6%, nữ là

27.8%, dấu hiệu 2 nhóm nam là 19.5%, nữ là 29.8%, dấu hiệu 3 nam cũng là

19.5%, nữ là 19.2%, dấu hiệu 4 nam là 13.5%, nữ là 15.9%, ở dấu hiệu 5, nam

là 15.8%, nữ chỉ là 7.2%. Đánh giá chung cho thấy cả ở nhóm nam và nhóm nữ

sinh viên năm thứ ba đều có tỉ lệ nhận biết cao nhất ở dấu hiệu 1. Nhóm sinh

viên nam có 3/5 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn nhóm nữ. Tỉ lệ nhận biết thấp nhất của

nhóm nam ở dấu hiệu 4 là 13.5%, trong khi đó tỉ lệ nhận biết thấp nhất của

nhóm nữ là ở dấu hiệu 5 chỉ đạt 7.2%. Đối với sinh viên năm thứ năm, tỉ lệ nhận

biết các dấu hiệu của báo Nhà báo và công luận giữa nhóm nam và nhóm nữ

không có tỉ lệ nào đạt tới 50%, tuy nhiên sự chênh lệch về tỉ lệ giữa các chỉ báo

là không lớn. Nhóm sinh viên nữ có 3/5 dấu hiệu có tỉ lệ nhận biết cao hơn

nhóm nam ở các dấu hiệu 3,4,5. Ở 2 chỉ báo còn lại nam có tỉ lệ nhận biết cao

hơn nhóm nữ. Cụ thể, ở dấu hiệu 1 nhóm nam là 42.9%, nhóm nữ là 32%. Dấu

hiệu 2 nhóm nam là 21.4%, nữ là 17.2%. Dấu hiệu 3 nhóm nam là 11.9%, trong

khi đó nhóm nữ là 22.1%. Dấu hiệu 4 nhóm nam là 16.7%, nhóm nữ là 19%. Ở

dấu hiệu 5 cũng là dấu hiệu thấp nhất của cả 2 nhóm, tỉ lệ nam là 7.1%, nữ là

9%.

3.1.3. Trang web nghebao.com

125

Có 6 dấu hiệu được đưa ra đề khảo sát đối vói công chúng sinh viên báo

chí đó là :

1. Là diễn đàn trao đổi các vấn đề về nghiệp vụ báo chí

2. Là nơi chia sẻ những tâm tư, tình cảm của những người làm

báo và của sinh viên báo chí

3. Phản ánh hoạt động báo chí các địa phương, báo chí Trung

ương và báo chí thế giới

4. Là nơi để bạn tìm kiếm những tư liệu về báo chí

5. Đăng tải những văn bản pháp quy của Nhà nước về báo chí

6. Là nơi bạn vừa có thể đọc báo, xem truyền hình, nghe radio...

Bảng 14 - Dấu hiệu nhận biết trang web nghebao.com theo các

Năm thứ nhất

Năm thứ ba

Năm thứ năm

nhóm sinh viên

Dấ

N

%

N

%

u hiệu

N

%

nhận biết

Dấ 4 21. 13 31. 7 34.

u hiệu 1 0 9 0 5 2 1

Dấ 4 23. 66 16. 2 13.

126

u hiệu 2 2 1 0 9 7

9.9 37 9.0 2 10. Dấ 1

u hiệu 3 8 1 0

Dấ 23. 10 25. 5 27. 4

u hiệu 4 2 1 7 7 0 9

2 10. 7.1 42 10. Dấ 1

u hiệu 5 3 3 9 2

Dấ 2 14. 31 7.5 9 4.3

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

u hiệu 6 7 8

Kết quả khảo sát cho thấy các dấu hiệu nhận biết vể trang web

nghebao.com có tỉ lệ khá cao, nhưng có sự cách biệt tương đối lớn về tỉ lệ giữa

các tỉ lệ. Ở dấu hiệu 1 có tỉ lệ nhận biết cao nhất đạt 60.5%, tiếp đến là dấu hiệu

4 đạt 51.%, dấu hiệu 2 là 34.2%, dấu hiệu 5 là 19.5%, dấu hiệu 3 là 19%, dấu

hiệu 6 có tỉ lệ nhận biết thấp nhất là 16.7%.

Giữa các nhóm sinh viên có sự khác biệt khá rõ trong việc nhận biết các

dấu hiệu của trang web này. Cụ thể, ở dấu hiệu 1 nhóm sinh viên năm thứ nhất

có tỉ lệ nhận biết là 21.9%, năm thứ ba là 31.5%, năm thứ năm cao nhất là

34.1%. Đây là tỉ lệ được cả ba nóm sinh viên nhận biết cao nhất. Dấu hiệu 2

được sinh viên năm thứ nhất nhận biết cao nhất là 23/1%, năm thứ ba là 16%,

năm thứ năm là 13.7%. Dấu hiệu 3 tỉ lệ nhận biết có sự tương đồng, năm thứ

127

nhất là 9.9%, năm thứ ba 9%, năm thưa năm 10%. Dấu hiệu 4 năm thứ nhất là

23.1%, năm thứ ba là 25.9%, cao nhất là năm thứ năm 27%. Dấu hiệu 5 là dấu

hiệu được nhận biết thấp nhất của sinh viên năm thứ nhất chỉ đạt 7.1%, năm thứ

ba là 10.%%, năm thứ năm là 10.9%. Dấu hiệu 6 năm thứ nhất là 14.8%, năm

thứ ba là 7.5%, năm thứ năm là 4.3%. Nhìn chung, tỉ lệ nhận biết các dấu hiệu

của trang web nghebao.com có tỉ lệ không cao, song đặc biệt dấu hiệu 5 của

năm thứ nhất và dấu hiệu 6 của năm thứ năm có tỉ lệ rất thấp dưới 10%.

Về chỉ báo giới tính, tỉ lệ nhận biết giữa các nhóm sinh viên cũng có sự

khác biệt. Cụ thể, với dấu hiệu 1 nhóm nam sinh viên năm thứ nhất có tỉ lệ nhận

biết là 24.7%, nhóm nữ là 17.3%. Dấu hiệu 2 nhóm nam là 18.5%, nữ là 30.4%.

Dấu hiệu 3 nam là 9.7%, nữ là 10.1%. Dấu hiệu 4 nam là 20.3%, nữ là 27.5%.

Dấu hiệu 5 nam là 7.9%, nữ là 5.7%. Dấu hiệu 6 nam là 18.5%, nữ là 8.6%.

tương quan về tỉ lệ nhận biết giữa nhóm nam và nhóm nữ năm thứ nhất cho

thấy, mỗi nhóm đều có 3 dấu hiệu được nhận biết với tỉ lệ cao hơn. Dấu hiệu 5

là dấu hiệu được nhận biết thấp nhất của 2 nhóm này chỉ đạt dưới 8%.

Sinh viên năm thứ ba nhóm nữ chỉ có 1/6 chỉ báo nhận biết có tỉ lệ cao

hơn nhóm nam, một chỉ báo có tỉ lệ tương đồng, các dấu hiệu cò lại đều có tỉ lệ

nhận biết thấp hơn nhóm sinh viên nam. Cụ thể, với dấu hiệu 1 nhóm nam có tỉ

lệ nhận biết cao nhất là 32.5%, nữ là 30.7%. Dấu hiệu 2 nam là 16.9%, nữ là

15.3%. Dấu hiệu 3 là dấu hiệu được nhận biết thấp nhất của nhóm nam là 9.9%,

nữ là 8.3%. Dấu hiệu 4 nam chỉ chiếm 13.9%, trong khi đó nữ đạt 34.4% và đây

cũng là dấu hiệu được nhận biết cao nhất của nhóm nữ. Dấu hiệu 5 nam là

19.1%, nữ là 3.7%. Đây là dấu hiệu được nhận biết thấp nhất của nhóm nữ. Ở

dấu hiệu 6 cả nhóm nam và nữ đều có tỉ lệ là 7.5%.

Nhóm sinh viên nam năm thứ năm ở dấu hiệu 1 có tỉ lệ nhận biết cao nhất

là 45.5%, nữ là 31.3%. Dấu hiệu 2 nam là 13.6%, nữ là 13.9%. Dấu hiệu 3 nam

là 18.2%, nữ là 7.8%. Dấu hiệu 4 nhóm nam chỉ đạt 6.8%, còn nhóm nữ là

128

32.5%. Dấu hiệu 5 nam là 15.9%, nữ là 9.6%. Dấu hiệu 6 là dấu hiệu được nhận

biết thấp nhất của cảc 2 nhóm, nam là 2.3%, nữ là 4.8%. Tương tự như năm thứ

nhất nhóm sinh viên nam năm thứ năm cũng có 3/6 dấu hiệu được nhận biết cao

hơn nhóm nữ. Dấu hiệu có tỉ lệ nhận biết cao nhất 45.5% thuộc về nhóm nam,

dấu hiệu có tỉ lệ nhận biết thấp nhất là 2.3% cũng thuộc về nhóm sinh viên nam.

Như vậy, sự nhận biết của công chúng sinh viên báo chí đối với những

dấu hiệu của hai tờ tạp chí Người làm báo, báo Nhà báo & Công luận và trang

web nghebao.com, là phù hợp với các nội dung thông điệp cơ bản của các tờ

báo đó đã truyền tải. Tuy nhiên, trong các nhóm công chúng sinh viên khác

nhau thì tỷ lệ nhận biết cũng có sự khác nhau nhất định. Tỷ lệ đó phụ thuộc vào

mức độ tiếp nhận thông tin trên các tờ báo đó. Những nhóm công chúng sinh

viên có tỷ lệ cao hơn về một số dấu hiệu, chủ yếu là do mức độ tiếp cận cao hơn

ở những nội dung và chủ đề của tờ báo. Rõ ràng về một khía cạnh nào đó độ lan

toả về dư luận xã hội của một tờ báo phụ thuộc cơ bản vào mức độ tiếp cận đối

với công chúng của tờ báo đó.

3.2. Vấn đề sử dụng thông điệp báo chí vào việc học tập và rèn luyện

của sinh viên báo chí.

Hiệu quả của truyền thông đại chúng trong đó có báo chí về cơ bản được

hiểu là: “ việc vận dụng các quy luật, các nguyên tắc, hình thức, phương pháp

hoạt động báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình

nhằm đạt mục đích” [31,170].

Có thể hiểu rằng, hiệu quả của truyền thông đại chúng là sự thay đổi

trong nhận thức, tình cảm cũng như hành vi của công chúng so với trạng thái

trước khi tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông. Hiệu quả truyền

thông cao thể hiện bằng việc công chúng luôn quan tâm theo dõi đến những vấn

đề được truyền tải, luôn nhận thức, xử lí được thông điệp và biến nó thành hành

động thực tiễn.

129

Việc đo lường tính hiệu quả của các nội dung thông điệp thực chất

là tìm hiểu một khía cạnh của yếu tố phản hồi thông tin truyền thông. Đo lường

và hiệu quả của nội dung thông điệp nói riêng và cả một quá trình truyền thông

nói chung là một trong những vấn đề phức tạp. Điều này xuất phát từ chỗ người

ta càng nhận thấy khả năng tác động to lớn của truyền thông đại chúng đối với

đời sống xã hội, mặt khác tính phức tạp của hướng nghiên cứu này lại phụ thuộc

bởi sự đa chức năng của truyền thông đại chúng trong thực tế. Nó liên quan đến

nhiều yếu tố tác động. Ngoài ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế - xã hội và

văn hóa cụ thể nó còn là sự tổng hoà của cơ chế truyền thông. Chẳng hạn như

yếu tố "nhiễu" thông tin, hay nói cách khác là sự sai lệch thông tin.

Những nghiên cứu hiệu quả của các phương tiện truyền thông đại

chúng phải dựa trên chức năng xã hội, điều hành và kiểm soát xã hội của hệ

thống này.Việc mở rộng khả năng tham gia của công chúng và hoạt động giao

tiếp đại chúng làm cho công chúng không chỉ đơn thuần là đối tượng tiếp nhận

các thông điệp được truyền tải, mà hệ thống này trở thành diễn đàn của quần

chúng nhân dân về các vấn đề phản ánh lợi ích, tạo nên mối quan tâm chung của

họ. Đây chính là điều kiện cơ bản để tạo nên các tương tác xã hội tích cực và ổn

định ở hoạt động truyền thông đại chúng. [56]

3.2.1. Mức độ tiếp nhận thông tin từ báo chí liên qua tới việc học tập và

rèn luyện của sinh viên báo chí

Để đánh giá mức độ tiếp nhận những thông tin có liên quan đến

việc học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí qua việc đọc báo, nghe radio,

xem truyền hình và truy cập internet, chúng tôi đưa ra 4 chỉ báo là:

1. Thường xuyên gặp 2. Thỉnh thoảng gặp

3. Hiếm khi gặp 4. Không gặp

Bảng 15 - Mức độ tiếp nhận những thông tin liên quan đến công việc

130

Năm thứ nhất

Năm thứ ba

Năm thứ năm

và học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí

Các

N

%

N

%

N

%

mức độ

Thườ 33. 78 31 45. 4 3

ng xuyên 4 0 5 5

gặp

4 Thỉnh 45. 10 55. 47. 4

thoảng gặp 7 6 8 4 7 5

Hiếm 16. 9 4.6 5 5.0 1

khi gặp 7 5

Khôn 5 4.8 0 0 2 2.0

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

g gặp

Kết quả điều tra cho thấy mức độ tiếp nhận với những thông tin liên quan

tới việc học tập và rèn luyện của công chúng sinh viên báo chí là tương đối cao.

Cụ thể, ở mức độ thường xuyên gặp là 39.2%, thỉnh thoảng gặp là có tỉ lệ cao

nhất là 50.5%, hiếm khi gặp 7.7%, và mức độ hoàn toàn không gặp là thấp nhất

chỉ chiếm 1.7%.

131

Xét theo các nhóm đối tượng cho thấy nhóm sinh viên năm thứ nhất tỉ lệ

thường xuyên gặp chiếm 33%, nhóm sinh viên năm thứ ba là 31%, nhóm sinh

viên năm thứ năm có mức độ thường xuyên gặp cao nhất là 45.5%. Trường hợp

thỉnh thoảng gặp ở cả ba nhóm sinh viên đều có tỉ lệ khá cao, nhất là sinh viên

năm thứ ba có tỉ lệ là 55.4%, tiếp đến là nhóm sinh viên năm thứ năm là 47.5%,

thấp nhất là nhóm sinh viên năm thứ nhất là 45.6%. Ở mức độ hiếm khi gặp

viên năm thứ nhất có tỉ lệ cao nhất là 16.5%, năm thứ năm là 5%, năm thứ

4.6%. Chỉ báo không gặp không có trường hợp nào ở nhóm sinh viên năm thứ

ba, năm thứ nhất là 4.8%, năm thứ năm là 2%.

Xét trên chỉ báo về giới tính, nhóm nam sinh năm thứ nhất có mức độ

thường xuyên gặp những thông tin liên quan tới việc học tập và rèn luyện là

37%, nhóm nữ là 28.5%, ở mức độ thỉnh thoảng gặp nhóm nam cũng là 37%,

còn nhóm nữ là 55.1%. hiếm khi gặp nhóm nam là 16.6%, nhóm nữ là 16.3%.

Đối với trường hợp không gặp nhóm nam là 9.2%, còn nhóm nữ không có

trường hợp nào. Nhóm nam năm thứ ba có tỉ lệ tiếp nhận ở mức độ thường

xuyên là 42%, nhóm nữ là 38.8%. Mức độ thỉnh thoảng gặp nhóm nam có tỉ lệ

là 47.2%, nhóm nữ là 60.4%, đây cũng là chỉ báo có tỉ lệ cao nhất của cả nhóm

nam và nữ, mức độ hiếm khi gặp nhóm nam là 10.8%, nhóm nữ chỉ là 0.8%.

Trường hợp không gặp cả nhóm nam và nữ đều không có trường hợp nào. Như

vậy, đối với sinh viên năm thứ ba nhóm nam có 2/3 chỉ báo có tỉ lệ cao hơn

nhóm nữ.

Đối với sinh viên năm thứ năm, nhóm nam có tỉ lệ thường xuyên gặp là

42.3%, nhóm nữ là 46.6%, ở mức độ thỉnh thoảng gặp nhón nam là 53.8%,

nhóm nữ là 45.2%. Ở chỉ báo hiếm khi gặp nhóm nam không có trường hợp

nào, trong khi đó nhóm nữ là 6.8%. trường hợp không gặp nhóm nam là 3.8%,

nữ là 1.4%.

132

3.2.2 Ý nghĩa của những thông tin từ báo chí với việc học tập và rèn

luyện của sinh viên báo chí

Để có thể đánh giá một cách có căn cứ về vai trò và vị trí của các kênh

thông tin đại chúng đối với công chúng sinh viên báo chí, đề tài tìm hiểu sự nhìn

nhận về mức độ ý nghĩa của các nguồn thông tin nhận được từ nhiều kênh thông

tin khác nhau. Đây là một chỉ báo điển hình cho thấy hiệu quả của báo chí. Có 4

mức độ xem xét về ý nghĩa của thông tin từ cao đến thấp, đó là: rất có ý nghĩa,

có ý nghĩa vừa phải, ít có ý nghĩa và khó trả lời. Như vậy, ở cấp độ cuối là khó

có thể xem xét về việc đối tượng tiếp cận nguồn thông tin đó. Với những đối

tượng có thể tiếp cận nguồn thông tin có 3 mức độ đánh giá. Ở cấp độ thấp nhất

là ít có ý nghĩa mang tính chất âm tính khi khẳng định sự phủ nhận về vai trò

của nguồn thông tin đó. Ở cấp độ thư 2 là có ý nghĩa vừa phải, có tính chất

trung tính khi nhìn nhận rằng nguồn thông tin đó là tạm chấp nhận. Chỉ có ở cấp

độ thứ nhất, rất có ý nghĩa là hoàn toàn có tính chất dương tính khi khẳng định

vai trò của nguồn thông tin nhận được. Vì vậy, khi xem xét chúng tôi chủ yếu

chỉ là căn cứ vào mức độ đánh giá dương tính này.

Bảng 16 - Ý nghĩa của những thông tin tiếp nhận từ báo chí với việc

Năm thứ nhất

Năm thứ ba

Năm thứ năm

học tập

Các

N

%

N

%

N

%

mức độ

Rất 7 74. 11 68. 7 81.

có ý nghĩa 7 0 5 0 7 0

133

Tươn 1 17. 47 27. 1 14.

g đối có ý 8 3 8 4 7

nghĩa

Ít có 3 2.9 0 0 0 0

ý nghĩa

Khó 6 5.8 7 4.2 4 4.2

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

trảlời

Kết quả khảo sát cho thấy ở mức độ đánh giá ý nghĩa của những

thông tin tiiếp nhận được từ báo chí của sinh viên báo chí là tương đối cao. Cụ

thể, ở mức độ rất có ý nghĩa có tỉ lệ đánh giá cao nhất là 67,3%, tiếp theo là

mức độ tương đối có ý nghĩa là 29.8%, mức độ đánh giá ít có ý nghĩa có tỉ lệ

thấp nhất chỉ chiếm 2.9%. trường hợp khó trả lời cũng chỉ chiếm 4.2%.

Xét theo từng nhóm đối tượng, kết quả cho thấy nhóm sinh viên

năm thứ năm có tỉ lệ đánh giả rất có ý nghĩa cao nhất đạt 81%, nhóm sinh viên

năm thứ nhất là 74%, thấp nhất là nhóm sinh viên ănm thứ ba là 68%.

Đánh giá theo chỉ báo giới tính cũng cho những kết quả khác biệt.

Nhóm sinh viên nam năm thứ nhất có tỉ lệ đánh giá rất có ý nghĩa là 72.2%,

nhóm sinh viên nữ còn có tỉ lệ đánh giá cao hơn là 76%. Nhóm sinh viên nam

năm thứ ba đánh giá về những thông tin tiếp nhận được từ báo chí rất có ý nghĩa

đối với việc học tập là 78.9%, nhóm sinh viên nữ là 59.1%. Sinh viên nam năm

thứ năm 81.5% cho rằng những thông tin này rất có ý nghĩa, còn nhóm nữ có tỉ

134

lệ là 80.9%. Như vậy 2/3 nhóm sinh viên nữ có đánh giá cao hơn về ý nghĩa của

các thông tin tiếp nhận được từ báo chí so với sinh viên nam.

Việc thường xuyên sử dụng những thông tin tiếp nhận được từ báo

chí vào việc học tập cũng là một chỉ báo quan trọng để đánh giá hiệu quả của

những thông tin mà sinh viên báo chí tiếp nhận được. Chúng tôi đưa ra 4 chỉ báo

để khảo sát về vấn đề này là :

1. Thường xuyên sử dụng

2. Thỉnh thoảng sử dụng

3. Ít khi sử dụng

4. Không nhớ rõ

Bảng 17 - Mức độ sử dụng thông tin tiếp nhận từ báo chí với việc

Năm thứ nhất

Năm thứ ba

Năm thứ năm

học tập

Các

N

%

N

%

N

%

mức độ

Thườ 36. 11 56. 3 6 61.

ng xuyên sử 6 7 3 8 0 9

dụng

Thỉnh 51. 86 41. 34. 5 3

thoảng sử 0 0 7 3 0

135

dụng

Ít khi 8 8.2 1 0.5 3 3.0

sử dụng

Khôn 2 1.0 1 1.0 4 4.1

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

g nhớ rõ

Kết quả khảo sát cho thấy mức độ sử dụng các thông tin tiếp nhận

được từ báo chí vào việc học tập là khá cao. Ở mức độ thường xuyên sử dụng có

tỉ lệ cao nhất là 52.3%.Thỉnh thoảng sử dụng là 42.3%. Ít khi sử dụng là 3%.

Không nhớ rõ là 1.8%.

Xét theo các nhóm đối tượng, kết quả cho thấy việc sử dụng những

thông tin tiếp nhận được từ báo chí vào viẹc học tập của sinh viên báo chí là khá

cao. Đối với 2 chỉ báo là ít khi sử dụng và không nhớ rõ có tỉ lệ rất tháp nên

chúng tôi không sử dụng để đánh giá mức độ sử dụng những thông tin tiếp nhận

được từ báo chí vào công việc học tập của sinh viên báo chí.

Trên cơ sở đó cho thấy, sinh viên năm thứ nhất có mức độ thường xuyên

sử dụng là 36.7%, sinh viên năm thứ ba là 56.8%, sinh viên năm thứ năm có tỉ

lệ sử dụng cao nhất là 61.9%. Ở mức độ thỉnh thoảng sử dụng, nhóm sinh viên

năm thứ nhất có tỉ lệ cao nhất là 51%%, tiiếp đó là nhóm sinh viên năm thứ ba

là 41.7%, và thấp nhất là nhóm sinh viên năm thứ nămcó tỉ lệ là 34%. Nếu xét

bình quân ở cả hai mức độ sử dụng thì sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ cao nhất.

136

Việc thường xuyên cộng tác viết bài cho báo chí cũng là một trong những

chỉ báo quan trọng để đánh giá về hiệu quả của những thông tin tiếp nhận được

từ báo chí với việc học tập của sinh viên báo chí.

Bốn chỉ báo được đưa ra để khảo sát đối với sinh viên báo chí là:

1. Thường xuyên 2. Thỉnh thoảng

3. Ít khi 4. Chưa bao giờ

Năm thứ nhất

Năm thứ ba

Năm thứ năm

Bảng 18 - Mức độ cộng tác viết bài cho các báocủa sinh viên báo chí

Các

N

%

N

%

N

%

mức độ

Thườ 4 4.1 21 10. 1 10.

ng xuyên 0 3 5

Thỉnh 15. 10 52. 1 6 64.

thoảng 5 5 5 3 9 0

Ít khi 23. 42 21. 2 1 14.

3 5 4 4 0

Chưa 57. 32 16. 5 1 10.

6 0 0 3 0 bao giờ

137

(Nguồn : Điều tra công chúng sinh viên báo chí trường hợp Trường Cao đẳng Phát thanh -

Truyền hình TW1 năm 2007)

Kết quả điều tra cho thấy, mức độ viết bài cộng tác với các báo của

sinh viên báo chí là không cao. Ở mức độ thường xuyên viết bài cộng tác với

các báo chỉ chiếm 8.7%, thỉnh thoảng viết bài có tỉ lệ cao nhất chiếm 45.8%, ít

khi viết bài là 19.7% và chưa bao giờ viết bài cộng tác là 24.5%.

Kết quả điều tra cho thấy mức độ cộng tác viết bài cho báo chí có tỉ

lệ thuận với số năm học của sinh viên trong nhà trường. Cụ thể, ở mức độ

thường xuyên viết bài cộng tác với báo chí sinh viên năm thứ nhất chỉ chiếm

4.1%, sinh viên năm thứ 3 là 10.5%, năm thứ năm là 10.3%. Nói chung, ở mức

độ này đối với cả ba nhóm sinh viên đều có tỉ lệ rất thấp. Ở mức độ thỉnh thoảng

viết bài nhóm sinh viên năm thứ nhất cũng chỉ đạt 15.5%, trong khi đó năm thứ

ba là 52%, và năm thứ năm là 64%. Ở mức độ ít khi viết bài cộng tác thì thì sinh

viên năm thứ nhất lại chiếm tỉ lệ cao nhất là 23.5%, trong khi đó năm th’s ba chỉ

là 21%, năm thứ năm la 14.4%. Ở mức độ chưa bao giờ viết bài nhóm sinh viên

năm thứ nhất cũng chiếm tỉ lệ cao nhất là 57%, năm thứ ba là 16%, còn năm thứ

năm chỉ là 10.3%.

Trên chỉ báo giới tính cho thấy tỉ lệ viết bài cộng tác với các báo có

sự chênh lệch giữa nhóm nam và nhóm nữ. Cụ thể, đối vơi sinh viên năm thứ

nhất ở mức độ thường xuyên viết bài cộng tác với các báo nhóm nam có tỉ lệ là

7.5%, nhóm nữ không có trường hợp nào. Ở mức độ thỉnh thoảng viết bài giữa

nhóm nam và nhóm nữ sinh viên năm thứ nhất có sự tương đồng, nhóm nam là

15%, nhóm nữ là 15%. Mức độ ít khi viết bài cộng tác nhóm nam có tỉ lệ là

22.6%, trong khi đó nhóm nữ là 24.4%. Chưa bao giờ viết bài nhóm nam là

54.7%, nhóm nữ là 60%.

Nhóm sinh viên năm thứ ba có tỉ lệ cộng tác viết bài cho các báo

cao hơn nhóm nam năm thứ nhất. Cụ thể, ở mức độ thường xuyên nhóm nam có

138

tỉ lệ là 21.3%, nhóm nữ là 3.4%, Thỉnh thoảng viết bài nhóm nam là 47.5%,

trong khi đó nhóm nữ là 55.8%. ít khi viết bài nam là 13.7%, nữ là 25.8%. Chưa

bao giờ viết bài nhóm nam là 17.5%, nhóm nữ là 15%. Xét một cách tổng thể

nhóm sinh viên nam năm thứ năm có tỉ lệ viết bài cộng tác với các báo cao hơn

nhóm nữ.

Nhóm sinh viên nam năm thứ năm có mức độ thường xuyên viết

bài là 15.4% nhóm nữ chỉ là 8.5%. Mức độ thỉnh thoảng viết bài nhóm nam là

57.7%, nhóm nữ là 67.6%. Ít khi viết bài nhóm nam 23.1%, nhóm nữ là 11.3%.

Chưa bao giờ viết bài nhóm nam chỉ chiếm 3.8%, còn nhóm nữ là 12.7%.

Xét một cách tổng thể của cả ba nhóm sinh viên năm thứ nhất, năm

thứ ba và năm thứ năm cho thấy tỉ lệ sinh viên nam có tỉ lệ viết bài cộng tác cao

hơn so với nhóm sinh viên nữ.

Tóm lại, khảo sát về tác động và hiệu quả của nội dung thông điệp đối với

công chúng sinh viên báo chí cho thấy một số điểm đáng chú ý sau đây:

Thứ nhất, công chúng sinh viên báo chí đã có mức độ tiếp nhận khá cao

lượng thông tin được chuyển tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng về

mọi lĩnh vực đời sống.

Thứ hai, trong hoạt động xử lý thông tin (trao đổi thông tin) của công

chúng sinh viên báo chí có ba kênh quan hệ được sử dụng nhiều nhất là: trao đổi

với bạn học, với các thầy cô giáo và với người khác. Điều đó chứng tỏ đây là

những kênh xử lý thông tin quan trọng nhất trong hoạt động truyền thông đối

với nhóm công chúng sinh viên. Đây cũng là cơ sở quan trọng của việc hình

thành quan điểm và dư luận xã hội trong nhóm cộng đồng công chúng sinh viên

Thứ ba, từ việc đo lường hiệu quả của các nội dung thông điệp trên các

phương tiện truyền thông đại chúng của công chúng sinh viên báo chí cho thấy

các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu

139

thông tin của công chúng sinh viên. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc cung

cấp thông tin cũng như giúp tầng lớp công chúng sinh viên có được những định

hướng đúng đắn trong cuộc sống.

140

PHẦN KẾT LUẬN

A. NHỮNG KẾT LUẬN CƠ BẢN

Công cuộc đổi mới của đất nước trong những năm gần đây đã tạo ra sự

chuyển biến tích cực trong mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có hoạt động truyền

thông đại chúng. Sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng của các

phương tiện truyền thông đại chúng đã có ảnh hưởng tích cực đến quảng đại công

chúng nói chung và công chúng sinh viên báo chí nói riêng.

Công chúng sinh viên báo chí, là tầng lớp xã hội có trình độ học vấn

tương đối cao, có điều kiện sống thuận lợi nhằm thúc đẩy nhu cầu giao tiếp xã

hội, điều đó cho thấy sự phát triển của nhu cầu giao tiếp đại chúng và khả năng

đáp ứng nhu cầu giao tiếp đại chúng trong đời sống sinh viên.

Khảo sát về mức độ tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông

đại chúng cho thấy: hoạt động giao tiếp đại chúng của sinh viên báo chí trong

nghiên cứu trường hợp của chúng tôi cho thấy hoạt động giao tiếp đại chúng

đang trở thành một dạng hoạt động cơ bản trong trong cơ cấu lối sống của họ và

đang dần hình thành một hoạt động đặc trưng. Đây là một chỉ báo cơ bản cho

thấy rõ hiệu quả xã hội của hoạt động truyền thông đại chúng. Quá trình đô thị

hoá và sự phát triển của các phương tiện nghe nhìn đã tác động rất đáng kể đến

quá trình này. Mức độ tiếp nhận thông tin từ các kênh truyền thông đại chúng là

rất cao, nhất là từ phương tiện vô tuyến truyền hình và đài phát thanh. Đặc biệt,

công nghệ thông tin hiện đại thông qua dịch vụ Internet đã được hầu hết sinh

viên báo chí sử dụng.

Nhìn chung các hình thức tiếp nhận thông tin từ các phương tiện thông tin

đại chúng của công chúng sinh viên báo chí là đa dạng. Tuy nhiên hình thức

chủ yếu được đại đa số công chúng sinh viên sử dụng là tiếp nhận tại nơi ở.

Riêng đối với báo in, cùng với việc đọc báo tại nơi ở thì có một bộ phận đáng kể

141

sinh viên đã đọc báo tại thư viện nhà trường. Điều đáng lưu ý là trong nhiều

hình thức tiếp cận thông tin truyền thông đại chúng thì hình thức câu lạc bộ -

nhà văn hoá ít có sức hấp dẫn đối với sinh viên trong hoạt động giao tiếp đại

chúng. Điều này đã làm hẹp chức năng của các thiết chế văn hoá nói trên.

Những thông tin chính trị, kinh tế, xã hội trên các phương tiện thông tin

đại chúng được công chúng sinh viên báo chí quan tâm theo dõi nhiều nhất là

các chương trình Thời sự trong nước và quốc tế. Các nhu cầu của thông tin, vấn

đề An ninh trật tự xã hội, khoa học và công nghệ thông tin, vấn đề Dành cho

sinh viên báo chí…cũng tạo nên sự quan tâm ở các mức độ khác nhau trong

công chúng sinh viên. Thực tế này cho thấy nhu cầu phong phú của công chúng

sinh viên báo chí và mặt khác cũng thể hiện sự phát triển của hoạt động thông

tin đại chúng ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Tuy nhiên,

kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tỉ lệ sinh viên báo chí tiếp nhận thông tin từ

các nhà báo và gửi thư đến các toà soạn các báo có liên quan đến nghề báo để

trao đổi những vấn đề có liên quan đến báo chí là rất thấp. Điều này cũng cho

thấy các trường đào tạo báo chí cần tăng cường hơn nữa hoạt động giao tiếp

giữa sinh viên báo chí với những nhà báo đang hoạt động thực tế. Đó cũng là cơ

sở để những kiến thức của sinh viên được kiểm nghiệm trong thực tiễn.

Các nội dung, chương trình Văn hoá nghệ thuật và giải trí cũng rất được

công chúng sinh viên báo chí quan tâm. Điều này, không đơn thuần chỉ dừng lại

ở mức độ giải trí mà còn cho thấy nhu cầu hưởng thụ văn hoá một cách bổ ích

làm tăng cường sự hiểu biết, và khả năng phát triển nhân cách của tầng lớp xã

hội này. Đây cũng là những minh chứng cho thấy hiệu quả xã hội của các

phương tiện truyền thông.

Hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng đã khẳng định

được hiệu quả xã hội qua sự thừa nhận của đa số công chúng sinh viên về những

thông tin mà họ thường gặp. Phần lớn công chúng đánh giá ở mức độ rất có ý

142

nghĩa đối với những thông tin mà họ thường gặp. Điều quan trọng là một bộ

phận đáng kể trong số họ đã sử dụng những thông tin mà họ tiếp nhận được từ

các phương tiện truyền thông đại chúng vào công việc học tập và rèn luyện.

Việc nhận diện dấu hiệu đặc trưng của các tờ báo, trang web, trong công

chúng truyền thông thực chất là nhằm đo lường mức độ ảnh hưởng cũng như

khả năng tác động của những phương tiện truyền thông đó trong dư luận xã hội.

Việc nhận diện của công chúng được nghiên cứu về các dấu hiệu đặc trưng cho

thấy hình ảnh đúng về tờ báo, trang web đó. Những dấu hiệu đặc trưng của tờ

báo, trang web được chọn để nghiên cứu là tạp chí Người làm, báo Nhà báo &

Công luận và trang web nghebao.com. Kết quả nhận diện của các nhóm công

chúng sinh viên báo chí cho thấy mức độ nhận diện phụ thuộc chủ yếu vào mức

độ tiếp nhận thông tin trên các tờ báo và trang web đó.

Hiệu quả xã hội của các phương tiện truyền thông đại chúng còn được

nhìn nhận ở khía cạnh là sự tự đánh giá của công chúng về mức độ ý nghĩa của

các nguồn thông tin. Đối với công chúng sinh viên báo chí, các nguồn tin được

coi là có ý nghĩa quan trọng: Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Đài truyền

hình Trung ương, Internet... các phương tiện truyền thông đại chúng thực sự có

vai trò rất đáng kể trong sinh hoạt văn hoá tinh thần của sinh viên báo chí.

Truyền thông đại chúng tạo nên hiệu quả xã hội trong công chúng sinh

viên báo chí. Ngược lại, nhóm công chúng này cũng có nhận thức đúng đắn và

có đòi hỏi cao về các phương tiện truyền thông đại chúng.

B. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

1. Đối với các phương tiện truyền thông đại chúng.

Tăng cường tiếp xúc, giao lưu giữa các cơ quan báo chí mà cụ thể là các

nhà báo với sinh viên báo chí. Hoạt động này sẽ giúp cho các cơ quan ngôn luận

nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị hiếu của các tầng lớp công chúng của mình,

143

giúp cho các phương tiện truyền thông đại chúng nâng cao chất lượng và hiệu

quả hoạt động truyền thông. Mặt khác, giúp công chúng sinh viên báo chí có

được những kiến thức thực tế đồng thời với việc tiếp cận với hệ thống lí luận về

báo chí. Các tờ báo có liên quan đến nghề báo cần đặc biệt quan tâm tới vấn đề

này.

Cần sớm hoàn thiện quy hoạch chiến lược phát triển các phương tiện

truyền thông đại chúng nhằm tạo nên các hiệu quả xã hội rộng lớn trong các bộ

phận dân cư, các tầng lớp xã hội trong đó có công chúng sinh viên báo chí. Hiện

nay một mặt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, dẫn đến khả năng thu hẹp phạm vị

giao tiếp đại chúng của công chúng sinh viên báo chí , mặt khác nó cũng nói lên

nhu cầu giao tiếp đại chúng của họ chưa có điều kiện được áp dụng.

2. Đối với công chúng sinh viên báo chí

Tăng cường những hoạt động văn hoá của sinh viên báo chí, trong đó có

hoạt động giao tiếp đại chúng. Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên

nghiệp…có đào tạo khoa báo chí cần chú ý đến nhu cầu chính đáng này của

sinh viên. Tạo điều kiện để các nhóm sinh viên tiếp cận được ở mức tối đa với

những phương tiện truyền thông đại chúng. Cần có kế hoạch duy trì và đổi mới

các phương thức tiếp cận báo chí, phát thanh, truyền hình… phù hợp với các

nhóm sinh viên theo nguyên tắc đa dạng, uyển chuyển, sinh động và hấp dẫn.

Tổ chức đoàn Thanh niên trong các nhà trường cần quan tâm đầy đủ hơn

và tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên tham gia vào hoạt động giao tiếp đại

chúng. Mặc dù hoạt động giao tiếp đại chúng có vẻ là hành vi cá nhân song nó lại

chịu sự chi phối đáng kể của hoạt động sinh hoạt tập thể và khả năng đầu tư kinh

phí cho dạng hoạt động này. Mối quan tâm nói trên cần được thực hiện cho phù

hợp với các đặc trưng, điều kiện riêng của mỗi nhà trường và mỗi bậc học của các

nhóm công chúng sinh viên báo chí.

144

3. Công tác nghiên cứu và giảng dạy

Tăng cường hơn nữa các nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại

chúng , đặc biệt là các nghiên cứu về đối tượng tiếp nhận thông tin. Công chúng

truyền thông đại chúng là đối tượng để đo lường hiệu quả của hoạt động truyền

thông. Có thể nói, công chúng là yếu tố quyết định sự tồn tại của không chỉ một

cơ quan ngôn luận mà của cả hệ thống báo chí. Không chỉ các nhà khoa học mới

tiến hành các hoạt động nghiên cứu này mà ở đây cần có sự phối hợp giữa các

viện nghiên cứu khoa học, các cơ quan truyền thông đại chúng. Các kết quả

nghiên cứu cần được các cơ quan quản lý truyền thông, các cơ quan ngôn luận

tham khảo và vận dụng vào hoạt động thực tiễn.

Nghiên cứu về công chúng báo chí là một hướng nghiên cứu cơ bản của

xã hội học truyền thông đại chúng. Nó rất được coi trọng trong lịch sử phát triển

của bộ môn khoa học này và trở thành hướng nghiên cứu chủ đạo. Các kết quả

nghiên cứu về truyền thông đại chúng cần được đưa vào các giáo trình giảng

dạy trong các khoa Xã hội học, khoa Báo chí, ở các trường đại học, cao đẳng,

trung học chuyên nghiệp. Các kết quả nghiên cứu đó còn là tài liệu thảm khảo

cho các nhà quản lý hoạt động truyền thông.

145

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(Xếp theo thứ tự A, B, C về tên tác giả)

Chung Á - Nguyễn Đình Tấn, Nghiên cứu Xã hội học, Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

C. Mác, Ph.Ăng ghen tuyển tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,

1980

C.Mác, Ph.Ăng ghen,V.I.Lênin, Hồ Chí Minh bàn về báo chí xuất

bản. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003

C.Mác - Ph. Ăng ghen toàn tập, tập 18. tiếng Nga.

Đài Tiếng Nói Việt Nam, Phương pháp điều tra thính giả, Nhà

xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004

Đinh Văn Hường, Dương Xuân Sơn. Trần Quang – Cơ sở lí luận

báo chí truyền thông – Nhà Xuất Bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2004

146

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ 8,9,10 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, 2001, 2006.

Đinh Văn Hường - Tổ chức hoạt động của Toà Soạn – Nhà Xuất

Bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2004.

Đinh Phương Thảo - Hiệu quả của truyền thông đại chúng với

công chúng Thanh niên đô thị - luận văn thạc sỹ Xã hội học, năm 2006.

Hồ Chí Minh toàn tập, T5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 1996.

Hồ Chí Minh toàn tập, T7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 1997.

Hồ Chí Minh toàn tập, T9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2000.

Hồ Chí Minh toàn tập, T10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2000.

Hồ Anh Dũng, Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản

xuất ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Khoa học – xã hội, 2002.

Hồ Bất Khuất Những vấn đề của một nền báo chí đang phát triển.

Tạp chí Cộng sản, số 11 tháng 6 – 1997.

147

Luật Thanh niên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

ngày 09 tháng 12 – 2005.

Mai Quỳnh Nam Thông điệp về trẻ em trên báo hình báo tin. Tạp

chí xã hội học. Số 2 – 2002.

Mai Quỳnh Nam Vai trò của dư luận xã hội trong cơ chế “Dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tạp chí Tâm lí học, số 2 – 2000.

Mai Quỳnh Nam Về việc nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại

chúng. Tạp chí Xã hội học, số 2 – 2000.

Mai Quỳnh Nam Vấn đề nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại

chúng. Tạp chí Xã Hội Học, Số 4 – 2001.

Mai Quỳnh Nam Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội. Tạp

chí Xã hội học, số 1 – 1996.

Mai Quỳnh Nam Sinh viên Hà Nội trong giao tiếp đại chúng, Tạp

chí Tâm lí học, Số 1 – 2004.

Mai Quỳnh Nam, Báo thiếu nhi dân tộc và công chúng thiếu nhi

dân tộc, Tâm lí học, Số 1 – 2004.

Mai Quỳnh Nam Mấy vấn đề về dư luận xã hội trong công cuộc

đổi mới, Tạp chí Xã hội học, số 1- 1996.

148

Nguyễn Thị Ngọc Huyền,Tìm hiểu một số mô hình tập đoàn báo

chí trên thế giới và vấn đề xây dựng tập đoàn báo chí ở Việt Nam - Đề

tài NCKHSV khoa Báo chí trường Đại học KHXHX & NV, năm 2006

Nguyễn Văn Dững, Đối tượng tác động của Báo chí, Tạp chí Xã

hội học số 4 – 2004.

Phan Quang: Về diện mạo báo chí Việt Nam - Tiểu luận và chân

dung. Nhà xuất bản Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 2004.

Tạ Ngọc Tấn, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí. Nhà

xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

Tạp chí Xã hội học, Công chúng Thanh niên đô thị và báo chí –

Nghiên cứu trường hợp thành phố Hải Phòng năm 2002, Đề tài nghiên

cứu khoa học cấp bộ do Viện Xã hội học chủ trì, PGS, TS. Mai Quỳnh

Nam chủ nhiệm đề tài. Viện Xã hội học, Hà Nội, 2002.

Trần Hữu Quang, Chân dung công chúng truyền thông - khảo sát

xã hội học tại thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí

Minh, thời báo Kinh tế Sài Gòn, trung tâm kinh tế Châu Á – Thái Bình

Dương, 2001

149

Trần Hữu Quang, Xã hội học báo chí, Nhà xuất bản trẻ, TP. Hồ

Chí Minh, 2006.

Trần Hữu Quang, giáo trình Xã hội học về truyền thông đại chúng.

Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.

Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn – Khoa Báo chí:

Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn, tập 4, Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội, 2001.

Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn – Khoa Báo chí:

Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn - tập 6, Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội, 2005.

Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, Nhà xuất bản Đại học Quốc

gia, Hà Nội, 2004.

Vũ Đình Hoè, Truyền thông đại chúng công tác lãnh đạo quản lý,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.

Các trang web.

Nghebao.com 1.

Vietnam Journalism.url 2.

3. Vietnamnet.vn

4. Wikipedia.url

150

151

152