Mất cân bằng giới
lượt xem 28
download
Với bằng chứng từ số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 của Việt Nam, ông Bruce Campbell cho biết: Trên thực tế, trình độ học vấn của người mẹ quan hệ tương hỗ chặt chẽ với tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS).
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Mất cân bằng giới
- Dân số Thứ tư, 27/10/2010, 08:10(GMT+7) Mất cân bằng giới tính khi sinh ở VN: Tăng ở nhóm học vấn cao GiadinhNet - Thông tin đáng giật mình này được ông Bruce Campbell - Trưởng Đại diện Quỹ Dân số LHQ (UNFPA) đưa ra trong cuộc họp báo về chênh lệch giới tính khi sinh ở Việt Nam, ngày 26/10. Cùng đó, sự mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam gia tăng nhanh chóng trong vòng 5 năm gần đây cũng là vấn đề thu hút sự quan tâm chú ý của thế giới. Mối liên hệ giữa mức sống và chọn lựa giới tính Với bằng chứng từ số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 của Việt Nam, ông Bruce Campbell cho biết: Trên thực tế, trình độ học vấn của người mẹ quan hệ tương hỗ chặt chẽ với tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS). Cụ thể, ở nhóm các bà mẹ có trình độ tiểu học và thấp hơn thì TSGTKS là 107,1, ở nhóm trung học phổ thông và học nghề lên đến 111,4, ở nhóm có trình độ cao đẳng trở lên là 113,9. Phụ nữ đã học hơn 10 năm phổ thông thường có tỉ lệ sinh con trai cao nhất. Mặt khác, sự mất cân bằng giới tính khi sinh cũng tùy thuộc nhiều vào vị thế kinh tế xã hội của hộ gia đình và lần sinh con thứ mấy trong gia đình.
- Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. (Ảnh chỉ mang tính minh họa). Nghiên cứu của UNFPA cho thấy, nhóm dân số nghèo nhất thường có TSGTKS rất gần với mức bình thường là 105, trong khi đó với nhóm dân số giàu thì con số này lên đến 112. Khi xem xét theo thứ tự sinh, nghiên cứu của UNFPA chỉ ra sự khác biệt của TSGTKS theo 5 nhóm kinh tế - xã hội, cho thấy: Ở các lần sinh 1 và 2, các nhóm nghèo nhất và nghèo, đạt đỉnh ở mức chênh lệch là 111,9 rồi giảm xuống. Nhưng đối với các lần sinh thứ 3 trở lên thì TSGTKS đã tăng lên một cách đều đặn và liên tục, từ mức bình thường 105 ở nhóm hộ gia đình nghèo nhất, đến mức 133 ở nhóm giàu nhất. Khi xem xét các biến số cá nhân khác được phân tích trước đây như việc làm, dân tộc, trình độ giáo dục, kết quả thu được càng khẳng định thêm mối liên quan chặt chẽ giữa mức sống và khả năng lựa chọn giới tính. Những phụ nữ có trình độ giáo dục cao sống trong các hộ gia đình khá giả về tiềm lực tài chính, dễ dàng tiếp cận với các kỹ thuật chọn lọc giới tính trước khi sinh hiện đại. Diễn biến phức tạp "Mặc dù TSGTKS của các quốc gia khác cao hơn Việt Nam, như Ấn Độ là 112, Trung Quốc 120 và Azerbaijan 117, nhưng sự mất cân bằng tỉ số
- này tại Việt Nam lại gia tăng nhanh chóng trong vòng 5 năm trở lại đây, thu hút sự quan tâm chú ý của thế giới", ông Bruce cho hay. Trên phạm vi cả nước, số liệu của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy không có sự khác biệt rõ ràng về sự chênh lệch giới tính khi sinh ở khu vực nông thôn (110,6) và thành thị (110,7). Tuy nhiên, phân tích số liệu cấp độ vùng lại cho thấy một kết quả ngạc nhiên về sự mất cân bằng TSGTKS ở các tỉnh phía Bắc, trừ khu vực miền núi và trung du Bắc bộ. Đó là TSGTKS ở nông thôn cao hơn nhiều so với khu vực thành thị. Ở khu vực phía Nam thì ngược lại. TSGTKS ở đô thị cao hơn ở nông thôn, rõ rệt nhất là tại một số điểm nóng quanh khu vực Đông Nam TP Hồ Chí Minh. Theo ông Bruce, phần lớn "Kịch bản" nào cho việc giảm chênh các quốc gia có TSGTKS lệch? cao, nhìn chung tỉ trọng trẻ em trai được sinh ra ở lần Dựa trên phân tích những số liệu từ cuộc sinh thứ 2 cao hơn lần 1 và Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, lần 3 cao hơn lần 2 nhưng nghiên cứu của UNFPA đã cho thấy ảnh ở Việt Nam thì ngược lại: hưởng nhân khẩu học của TSGTKS trong Việc chọn giới tính khi tương lai với những kịch bản khác nhau có sinh cho trẻ được thực thể xảy ra. Với kịch bản thứ nhất "Không hiện ở lần 1 - với mong can thiệp", TSGTKS toàn quốc sẽ lên đến muốn và tìm cách làm thế 115 vào năm 2015 và chắc chắn không dừng nào để sinh được con trai lại ở đó. Theo kịch bản này, tỉ số giới tính ngay từ lần sinh đầu tiên. với nhóm dân số ở độ tuổi trưởng thành (15-49 tuổi) hiện đang cân bằng ở mức 100/100 thì đến năm 2049 sẽ là 113/100, dẫn tới dư thừa 12% nam giới trong giai đoạn 2009 - 2049. Kịch bản thứ hai giả định có các chương trình và chính sách can thiệp mạnh mẽ để giải quyết sự mất cân bằng TSGTKS, làm sao lùi thời điểm TSGTKS là 115 từ năm 2015 đến tận năm 2020, sau đó quay lại tỉ số cân bằng sinh học vào năm 2030. Theo kịch bản này, tỉ số giới tính với nhóm dân số ở tuổi trưởng thành vào năm 2044 sẽ là 110 nam trên 100 nữ, rồi dần dần quay lại mức cân bằng sinh học. Kịch bản thứ ba giả định giữ được TSGTKS ở mức ổn định là 105 trong suốt giai đoạn 2009 - 2049. Giả định này hàm ý rằng, nhóm dân số dưới 10 tuổi của năm 2009 không bị ảnh hưởng bởi sự mất cân bằng giới tính
- như hiện nay. Kết quả là nửa đầu thế kỷ, tỉ lệ dân số nam giới sẽ không tăng. Tiến sĩ Christophe Guilmoto, tác giả của công trình nghiên cứu cho biết: "Kịch bản nào cũng cho thấy năm 2050, đối tượng bị tác động nhiều nhất cũng vẫn là thanh niên. Họ sẽ chịu tác động về cơ cấu xã hội và những thay đổi về chuẩn mực văn hóa cũng như lề lối xã hội, đặc biệt là cơ hội tìm bạn đời của nam giới sẽ bị ảnh hưởng. Điều này dẫn đến phụ nữ sẽ kết hôn sớm, ảnh hưởng đến học hành. Ngoài ra, có thể sẽ gia tăng mại dâm, buôn bán phụ nữ và các ảnh hưởng tiêu cực khác". Để TSGTKS có thể trở về mức cân bằng, theo ông Phạm Nguyên Bằng - cán bộ chương trình của UNFPA, người dân phải cân đối giữa 2 nhu cầu: con trai - sự nương tựa tuổi già và an ninh quốc gia về mặt cơ cấu dân số. Việt Nam cũng cần tham khảo một số nước tương tự với mình trong khu vực, đặc biệt là Hàn Quốc đã thành công trong việc đưa TSGTKS trở lại ngưỡng tự nhiên. Thời gian qua, Tổng cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế đã triển khai các hoạt động nhằm ngăn ngừa giảm thiểu sự mất cân bằng TSGTKS. Theo ông Bruce, có nhiều hướng chính sách và can thiệp có thể giải quyết sự mất cân bằng TSGTKS ở Việt Nam. "Tuy nhiên, phân tích định lượng cho thấy, ở Việt Nam, vấn đề này có tính phức tạp, nhiều phát sinh mới và không thể giải quyết một sớm một chiều, vì vậy phải sử dụng kết hợp nhiều biện pháp can thiệp. Hơn nữa, biện pháp nào thì cũng phải mất thời gian để có thể thay đổi hành vi của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và mỗi cộng đồng dân cư" - ông Bruce cho hay. Hà Thư
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Môi trường là vấn đề chung của nhân loại đang được toàn thế giới đặc biệt quan tâm. Nhiều nơi trên thế giới và ở Việt Nam môi trường đang bị suy thoái, tài nguyên thiên nhiên trở nên cạn kiệt, hệ sinh thái mất cân bằng, chất lượng cuộc sống suy giảm.
211 p | 817 | 242
-
Thuyết trình: " Thiên tai trên trái đất'
52 p | 1398 | 130
-
Môi trường và con người - Chương 6
18 p | 211 | 67
-
Vật lý đại cương - Chương 11
8 p | 156 | 28
-
Xây dựng quy trình phân tích định lượng apamin, phospholipaza a2 và melittin trong nọc ong loài Apis Melifera bằng phương pháp HPLC/UV
7 p | 139 | 6
-
Bài giảng Khí hậu học và Khí hậu Việt Nam (Phần 1: Khí hậu học): Chương 5 – Phan Văn Tân
38 p | 22 | 6
-
Các bí mật của Toán học: Phần 2
80 p | 39 | 6
-
Tìm hiểu công nghệ hấp thụ trong xử lý nước và nước thải: Phần 1
156 p | 10 | 5
-
Đánh giá tiềm năng phát triển thủy điện phục vụ công tác quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên nước xuyên biên giới ở lưu vực sông Mê Công
6 p | 51 | 4
-
Xử lý nước và nước thải bằng công nghệ hấp thụ: Phần 1
49 p | 10 | 3
-
Trạng thái ngưng tụ exciton mất cân bằng khối lượng trong bán kim loại/bán dẫn
8 p | 7 | 3
-
Nghiên cứu đề xuất quy trình đánh giá chất lượng mặt nước từ ảnh vệ tinh VNREDSat-1A
4 p | 29 | 2
-
Kinh nghiệm tổ chức nhà ở của Châu Âu tại các vùng ngập nước tương đồng điều kiện đồng bằng sông Cửu Long
8 p | 32 | 2
-
Xác định lượng bốc thoát nước thực tế tại lưu vực sông Cầu bằng ứng dụng tư liệu ảnh Landsat
8 p | 29 | 2
-
Biến đối khí hậu và vấn đề quy hoạch phát triển dải đồng bằng ven biển Việt Nam
5 p | 45 | 2
-
Nghiên cứu thực nghiệm giải pháp cải thiện lớp đất thân đê kết hợp làm đường giao thông bằng vật liệu gia cố chất kết dính vô cơ
6 p | 90 | 2
-
Xây dựng kịch bản phân bổ nguồn nước mặt lưu vực sông Vệ
11 p | 18 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn