intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mô hình đào tạo xen kẽ trong các trường sư phạm: Vì sao và như thế nào

Chia sẻ: ViSasuke2711 ViSasuke2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

52
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các yếu tố góp phần vào hiệu quả đào tạo, bao gồm cả đào tạo ban đầu và đào tạo liên tục, dường như vẫn chứa một sự bí ẩn, như một "hộp đen" và người ta cố gắng phân tích sự vận hành của nó để đề xuất các mô hình thử nghiệm trong đào tạo hướng đến hiệu quả đào tạo. Bài viết đề cập đến mô hình đào tạo xen kẽ trong việc phát triển các năng lực nghề nghiệp cho sinh viên các trường sư phạm. Mô hình này cũng có thể sử dụng trong đào tạo liên tục.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mô hình đào tạo xen kẽ trong các trường sư phạm: Vì sao và như thế nào

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 8A, pp. 50-59<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0129<br /> <br /> MÔ HÌNH ĐÀO TẠO XEN KẼ TRONG CÁC TRƯỜNG SƯ PHẠM:<br /> VÌ SAO VÀ NHƯ THẾ NÀO?<br /> Đỗ Hương Trà<br /> <br /> Khoa Vật lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Tóm tắt. Các yếu tố góp phần vào hiệu quả đào tạo, bao gồm cả đào tạo ban đầu và đào tạo<br /> liên tục, dường như vẫn chứa một sự bí ẩn, như một "hộp đen" và người ta cố gắng phân<br /> tích sự vận hành của nó để đề xuất các mô hình thử nghiệm trong đào tạo hướng đến hiệu<br /> quả đào tạo. Bài báo đề cập đến mô hình đào tạo xen kẽ trong việc phát triển các năng lực<br /> nghề nghiệp cho sinh viên các trường sư phạm. Mô hình này cũng có thể sử dụng trong đào<br /> tạo liên tục.<br /> Từ khóa: Mô hình đào tạo xen kẽ; sinh viên, chuyển vị didactic.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Vấn đề đào tạo giáo viên luôn là câu hỏi đặt ra trong xã hội cũng như với các nhà đào tạo.<br /> Đào tạo giáo viên luôn phải giải quyết sự không cân đối, thậm chí là đối lập về tỉ trọng giữa, một<br /> bên là các kiến thức học thuật mà các giáo viên cần làm chủ với một bên là sự cần thiết của các<br /> kiến thức sư phạm, kiến thức giáo dục bao gồm tổng thể các vấn đề về kĩ năng nghề, về đạo đức,<br /> ...cũng như mối quan hệ giữa kiến thức học thuật của khoa học cơ bản thuần túy với kiến thức về<br /> khoa học giáo dục học trong đào tạo [1].<br /> Ở Pháp, vào năm 1895, Viện sĩ Brunetiere, người phụ trách Tạp chí La Revue des Deux<br /> Mondes, đã viết đại ý: giáo viên trẻ của chúng ta không cần phải được dạy kiến thức sư phạm bởi<br /> vì chính họ sẽ phát hiện ra nó khi ý thức về phẩm giá của nghề này. Hơn một thế kỉ sau đó, nhiều<br /> người vẫn còn coi lời phát biểu này như sự chỉ dẫn trong đào tạo giáo viên.<br /> Thế nhưng, xã hội đã thay đổi rất nhiều, kể ngay từ năm 1895:<br /> Con người đang chứng kiến một sự gia tốc theo cấp số nhân về các tri thức được sinh ra:<br /> ngoài những kiến thức kế thừa từ lịch sử con người cần thiết phải làm chủ thì còn nổi lên những<br /> kiến thức mới, lĩnh vực khoa học mới.<br /> Con người cũng đang chứng kiến một sự phát triển cực kì ấn tượng (mặc dù bất bình đẳng)<br /> những trao đổi giữa những con người, giữa các khu vực, các quốc gia, các châu lục: sự cởi mở với<br /> tính khác biệt đã trở thành một đòi hỏi, cả trong lĩnh vực thái độ cũng như trong cách thức thực<br /> hiện.<br /> Từ đó, nhà trường phải đối mặt với một loạt những vấn đề mới như: Một sự gia tăng đáng<br /> kể về nhu cầu giáo dục, sự xâm nhập giữa các ngành khoa học tạo nên các chuyên ngành, sự công<br /> Ngày nhận bài: 15/8/2016. Ngày nhận đăng: 25/9/2016<br /> Liên hệ: Đỗ Hương Trà, e-mail: dhtra@hotmail.com<br /> <br /> 50<br /> <br /> Mô hình đào tạo xen kẽ trong các trường sư phạm: vì sao và như thế nào?<br /> <br /> bằng và dân chủ trong giáo dục, . . . . Những vấn đề này dẫn đến những yêu cầu không chỉ là sự<br /> tăng trưởng về số lượng mà còn là chất lượng của trường học, dẫn đến những đòi hỏi cao hơn ở<br /> giáo viên mà hoàn toàn không chỉ dừng lại ở các yêu cầu về kiến thức học thuật mà họ cần làm<br /> chủ. Các năng lực của giáo viên thế kỉ 21 có thể chia thành 4 nhóm năng lực như sau [3]:<br /> Nhóm năng lực khoa học bao gồm khoa học chuyên ngành và khoa học tổng hợp<br /> Trước hết, giáo viên cần được coi là nhà "bác học". Vì giáo viên cần phải biết nhiều hơn so<br /> với học sinh của mình, nên họ phải làm chủ các kiến thức trong phạm vi môn học của mình đảm<br /> nhận và kiến thức tối thiểu để hiểu các ngành khoa học khác có liên quan. Tiếp đó, họ phải chứng<br /> minh khả năng chuyển đổi các kiến thức học thuật ở bậc đại học thành kiến thức cần dạy và được<br /> dạy ở trường phổ thông liên quan đến việc làm chủ didactic của (các) môn học.<br /> Bên cạnh những kiến thức gắn với môn học, liên môn học, giáo viên cũng cần làm chủ các<br /> kiến thức từ các ngành khoa học xã hội và nhân văn để có thể đối mặt với các tình huống đa dạng<br /> trong dạy học và giáo dục.<br /> Nhóm năng lực dạy học<br /> Thuộc nhóm năng lực này, chúng tôi quan tâm tới:<br /> - Năng lực nghiệp vụ, chuyên môn: giáo viên phải tuân theo một chuỗi các thao tác kĩ thuật<br /> trong nghề dạy học, theo các quy trình được đề xuất để đạt được chuẩn nghề nghiệp của mình.<br /> - Năng lực suy xét, phản hồi: Khi xây dựng kế hoạch dạy học, giáo viên phải lường trước<br /> các tình huống có thể xảy ra. Sau khi thực hiện dạy học, giáo viên phải biết đánh giá, nhận xét kết<br /> quả, hiệu quả của quá trình dạy học. Năng lực này rất quan trọng, vì đối tượng của giáo dục là con<br /> người, luôn chứa đựng sự thay đổi theo thời gian, theo tình huống, theo hoàn cảnh và theo cảm<br /> xúc, nên giáo viên cần phải được trang bị tốt các năng lực suy xét, phản hồi để tự điều chỉnh trong<br /> quá trình dạy học.<br /> - Năng lực sáng tạo: giáo viên cũng như những nghệ nhân trong môi trường giáo dục, cần<br /> phải có những phương pháp, cách thức riêng cho từng loại đối tượng học sinh, thoát ra khỏi khuôn<br /> mẫu nghề nghiệp cho các trường hợp đặc biệt.<br /> Nhóm năng lực xã hội<br /> Đây là những năng lực quan trọng vì giáo viên luôn được đặt trong môi trường xã hội theo<br /> nghĩa rộng, họ phải thường xuyên tiếp xúc, trao đổi với phụ huynh học sinh, các tổ chức xã hội<br /> trong và ngoài nhà trường, họ cũng phải thường xuyên gặp gỡ và trao đổi riêng với từng học sinh<br /> hoặc các nhóm học sinh nên họ phải có năng lực xã hội để đáp ứng các yêu cầu này.<br /> Nhóm năng lực phát triển bản thân<br /> Năng lực kiểm soát bản thân là một trong những năng lực thuộc nhóm năng lực này: trong<br /> môi trường giáo dục, giáo viên được coi là hình mẫu cho người học. Nhưng giáo viên cũng là con<br /> người, họ cũng có cảm xúc và được quyền bày tỏ cảm xúc của mình, nhưng phải đặt trong một giới<br /> hạn cho phép để không mất hình mẫu đối với người học, nên khi gặp vấn đề cá nhân liên quan đến<br /> đồng nghiệp, đến lãnh đạo nhà trường hoặc cuộc sống gia đình, xã hội tác động đến bản thân, họ<br /> phải được trang bị năng lực kìm chế, tự điều chỉnh và thích nghi nhanh chóng để không làm ảnh<br /> hưởng đến quá trình giáo dục. Tương tự, khi gặp tình huống với cáchọc sinh cá biệt hoặc phạm lỗi,<br /> họ cũng phải biết tự kiểm soát và điều chế bản thân.<br /> Các năng lực này cần được đào tạo, rèn luyện và bồi dưỡng thường xuyên sao cho các giáo<br /> viên vừa phải có năng lực về môn khoa học mà mình đảm nhận, vừa phải có năng lực sư phạm<br /> để phát huy được sự sáng tạo trong nghề nghiệp (Houpert, 2010). Từ đó dẫn đến sự quan tâm của<br /> chúng tôi về hai vấn đề cần giải quyết trong đào tạo sinh viên:<br /> 51<br /> <br /> Đỗ Hương Trà<br /> <br /> - Một là: Mối quan hệ giữa tri thức khoa học (kiến thức khoa học cơ bản mang tính học<br /> thuật) với kiến thức của khoa học giáo dục.<br /> - Hai là: Mối quan hệ giữa kiến thức lí thuyết và kiến thức thực hành.<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Mối quan hệ giữa kiến thức khoa học cơ bản với kiến thức khoa học giáo<br /> dục<br /> <br /> Tri thức là một nhân tố quan trọng trong dạy học, nó là một trong những đích đến của chủ<br /> thể học tập, đồng thời là nội dung mà giáo viên mong muốn chuyển giao cho học sinh qua việc<br /> tạo dựng một môi trường để học sinh chiếm lĩnh được tri thức. Tuy nhiên, từ tri thức khoa học (tri<br /> thức được cộng đồng các nhà bác học thừa nhận) đến tri thức được dạy (thể hiện trong quá trình<br /> dạy học) là một quá trình biến đổi phức tạp mà Yves Chevallard [2] gọi nó là sự chuyển vị sư phạm<br /> (hay chuyển vị didactic).<br /> Để thực hiện chuyển vị sư phạm, cần xuất phát từ 2 nguồn: một, xuất phát từ tri thức bác<br /> học hoặc tri thức của các chuyên gia, và một, xuất phát từ thực hành xã hội quy chiếu. Có thể sơ<br /> đồ hóa chuỗi chuyển vị như sau:<br /> <br /> Sơ đồ 1. Chuỗi chuyển vị didactic<br /> - Mũi tên đầu tiên biểu thị việc chuyển tri thức và các thực hành xã hội (bao gồm các nhu<br /> cầu của xã hội, các vấn đề của xã hội, . . . ) thành chương trình dạy học chính thức và các mục tiêu<br /> của chương trình [6] được quy định trong các văn bản pháp quy. Chevallard gọi cái đó là chuyển<br /> vị didactic bên ngoài (còn gọi là chuyển vị lần thứ nhất).<br /> Mũi tên thứ 2 biểu thị việc chuyển chương trình dạy học thành chương trình thực tế để dạy<br /> học trên lớp. Đó là chuyển vị didactic bên trong(còn gọi là chuyển vị lần thứ hai), nó thể hiện một<br /> cách mạnh mẽ sự sáng tạo của giáo viên ở lần chuyển vị thứ hai này.<br /> Cùng một chương trình chính thức nhưng tùy thuộc vào bối cảnh giáo dục, vào điều kiện<br /> nhà trường và trình độ học sinh mà chương trình dạy học thực tế sẽ khác nhau.<br /> - Mũi tên thứ 3 biểu thị quá trình học, quá trình thích ứng, xây dựng kiến thức và hình thành<br /> năng lực ở người học/học sinh.<br /> Như vậy, khái niệm chuyển vị didactic vượt khỏi các môn học được dạy trong trường phổ<br /> thông và quá trình chuyển vị cần được thực hiện trong suốt chương trình đào tạo năng lực nghề<br /> cho sinh viên, mà ở đó được bắt đầu từ chuyển vị bên ngoài.<br /> Nếu không thực hiện được chuyển vị bên ngoài là làm mất đi sự liên tục của chuỗi chuyển<br /> 52<br /> <br /> Mô hình đào tạo xen kẽ trong các trường sư phạm: vì sao và như thế nào?<br /> <br /> vị, mất đi sự liên kết giữa các kiến thức khoa học cơ bản với các kiến thức khoa học giáo dục. Thực<br /> hiện chuyển vị bên ngoài trong quá trình đào tạo sinh viên, các kiến thức phổ thông sẽ được soi<br /> sáng bởi kiến thức khoa học cơ bản giúp họ có một cái nhìn thống nhất, toàn diện, sâu sắc và linh<br /> hoạt về chương trình cũng như kiến thức môn học mà họ đảm nhận.<br /> Như vậy, vai trò của các môn khoa học cơ bản trong đào tạo là ngoài việc cung cấp các kiến<br /> thức cơ bản và chuyên sâu một cách hệ thống còn có tiềm năng to lớn trong việc rèn cho sinh viên<br /> các năng lực nghề nghiệp, đặc biệt là năng lực phân tích chuyển vị didactic. Việc nhìn nhận các<br /> vấn đề của kiến thức phổ thông dưới góc nhìn của khoa học cơ bản giúp sinh viên có khả năng<br /> định hướng, biết cách huy động kiến thức một cách khoa học để tìm ra cách giải quyết vấn đề.<br /> Tuy nhiên, trong một thời gian dài, vấn đề liên kết giữa khoa học cơ bản và khoa học giáo<br /> dục trong các trường sư phạm còn ít được quan tâm. Sinh viên, thậm chí cả giảng viên chưa nhận<br /> thức được vai trò của các kiến thức khoa học cơ bản ở đại học trong mối quan hệ với kiến thức<br /> trong chương trình phổ thông. Việc trình bày các kiến thức khoa học cơ bản gần như tách rời nội<br /> dung kiến thức ở phổ thông làm cho việc tiếp thu kiến thức khoa học cơ bản để ứng dụng những<br /> hiểu biết đó vào thực tế dạy học ở phổ thông còn nhiều hạn chế. Điều này dẫn đến sự tồn tại kiểu<br /> tư duy tách biệt trong đào tạo, và đó cũng là câu hỏi đặt ra với các giảng viên trong quá trình đào<br /> tạo sinh viên trước những hạn chế của sinh viên và giáo viên trước các yêu cầu đổi mới giáo dục.<br /> Để tạo sự song hành và hỗ trợ lẫn nhau giữa kiến thức học thuật (kiến thức khoa học cơ bản)<br /> với kiến thức sư phạm (kiến thức khoa học giáo dục), chúng tôi cụ thể hóa các giai đoạn chuyển vị<br /> đối với sinh viên sư phạm trong quá trình đào tạo như sau [8]:<br /> <br /> Sơ đồ 2. Quan hệ giữa kiến thức khoa học cơ bản<br /> với kiến thức khoa học giáo dục trong chuyển vị didactic lần 1<br /> Dựa trên các kiến thức khoa học cơ bản sinh viên tiếp nhận được cùng với việc đối chiếu<br /> với tri thức bác học, sinh viên thực hiện phân tích các kiến thức quy định trong chương trình, sách<br /> giáo khoa trong quy chiếu với các vấn đề của xã hội. Kiến thức khoa học cơ bản của sinh viên càng<br /> rộng và sâu bao nhiêu thì quá trình phân tích chuỗi chuyển vị bên ngoài càng sâu sắc bấy nhiêu.<br /> Như vậy, việc đào tạo trong sinh viên trong các trường sư phạm cần thực hiện tốt mối quan<br /> hệ này trong sơ đồ của chuỗi chuyển vị didactic.<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Mối quan hệ giữa kiến thức lí thuyết và thực hành<br /> <br /> Nếu ở giai đoạn đầu trong chuỗi chuyển vị, sinh viên có thể thực hiện tại các cơ sở đào tạo<br /> ở các trường sư phạm, bên cạnh giảng viên đến từ các khoa khác nhau thì ở giai đoạn sau, khi thực<br /> hiện chuyển vị từ kiến thức cần dạy đến kiến thức được dạy cho học sinh lại cần được thực hiện<br /> xen kẽ giữa đào tạo lí thuyết ở cơ sở đào tạo với đào tạo thực hành ở trường phổ thông. Cũng có<br /> 53<br /> <br /> Đỗ Hương Trà<br /> <br /> thể có trường hợp: lí thuyết về nghề dạy học và các kĩ năng cơ bản được học tại các cơ sở đào tạo,<br /> phần kĩ năng nghề chuyên sâu sẽ được thực hiện ở trường phổ thông.<br /> Các mô hình lí thuyết quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình đào tạo, trên<br /> cở sở đó đưa ra những hướng dẫn chung cho sinh viên về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ<br /> chức và đánh giá quá trình dạy học và kết quả dạy học.<br /> Sự phân tích các quyết định cụ thể trong hoạt động giáo dục, dạy học và sự trở đi trở lại<br /> giữa các mô hình lí thuyết với các quyết định cụ thể của sinh viên, một mặt, giúp sinh viên điều<br /> chỉnh các hành động giáo dục của mình cho phù hợp với mô hình lí thuyết đã được học, mặt khác,<br /> giúp các nhà đào tạo điều chỉnh, xem xét lại mô hình lí thuyết [6]. Có thể sơ đồ hóa mối quan hệ<br /> của kiến thức lí thuyết và kiến thức thực hành trong đào tạo sinh viên qua sơ đồ dưới đây:<br /> <br /> Sơ đồ 3. Quan hệ giữa kiến thức lí thuyết với kiến thức thực hành<br /> Mô hình đào tạo xen kẽ này có những ưu điểm nổi bật:<br /> - Thứ nhất chương trình đào tạo được cập nhật thường xuyên, đáp ứng yêu cầu về kiến thức<br /> và kỹ năng theo yêu cầu của nhà trường phổ thông. Các vấn đề ở nhà trường phổ thông như phát<br /> triển năng lực, dạy học tích hợp, dạy học phân hóa, xây dựng chương trình nhà trường, . . . đòi hỏi<br /> sinh viên và cả các giảng viên phải tìm hiểu và bước đầu vận dụng vào thực tiễn làm cho chương<br /> trình đào tạo luôn được cập nhật và điều chỉnh linh hoạt đáp ứng mục tiêu giáo dục.<br /> - Thứ hai, đảm bảo chất lượng đào tạo, tiết kiệm chi phí đầu tư thiết bị đào tạo;<br /> - Thứ ba, với việc trường phổ thông cùng tham gia với giảng viên vào quá trình đánh giá<br /> sinh viên trong đào tạo (mà không phải chỉ ở các thời gian sinh viên đi thực tập sư phạm) sẽ đảm<br /> bảo việc đánh giá khách quan về kết quả học tập của sinh viên, do đó đòi hỏi các cơ sở đào tạo<br /> phải nâng cao chất lượng đào tạo để xây dựng thương hiệu của mình.<br /> Như vậy, mô hình đào tạo xen kẽ sẽ giúp kết nối không chỉ là mối quan hệ giữa kiến thức lí<br /> thuyết và thực hành của sinh viên mà còn là mối quan hệ giữa kiến thức khoa học cơ bản với kiến<br /> thức của khoa học giáo dục. Nó giúp sinh viên thực hiện đầy đủ các giai đoạn của chuỗi chuyển vị<br /> didactic.<br /> <br /> 2.3.<br /> <br /> Mô hình đào tạo xen kẽ và một số kết quả thu được<br /> <br /> Xuất phát từ 2 vấn đề đặt ra trong đào tạo, chúng tôi đề xuất và thực hiện mô hình đào tạo<br /> xen kẽ với các sinh viên, ngay từ năm thứ 2 và một trong những nguyên tắc của mô hình này là<br /> nguyên tắc đẳng cấu. Nguyên tắc này nhấn mạnh rằng tính đa dạng của hoạt động đào tạo/học tập<br /> phải phù hợp với tính đa dạng của các mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt động đào tạo/học tập. Cụ thể:<br /> - Hoạt động của người học gồm những nhiệm vụ nào cần được phản ánh vào cấu trúc của<br /> lô gic nội dung kiến thức được dạy và đáp ứng với các mục tiêu mà người dạy mong muốn người<br /> học đạt được<br /> 54<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2