BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN (cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)

HƯNG

PHẠM NGỌC HƯNG

MÔ HÌNH PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT CƯ VÀ LỢI ÍCH VỀ THU NHẬP CỦA HỘ GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI XUẤT CƯ

Chuyên ngành: Toán kinh tế

Mã số: 62310101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. NGUYỄN CAO VĂN

2. PGS.TS. LƯU BÍCH NGỌC

Hà Nội - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật.

Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và

không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.

Tôi xin cam đoan đề tài luận án “Mô hình phân tích các nhân tố ảnh

hưởng đến xuất cư và lợi ích về thu nhập của hộ gia đình có người xuất cư”

là công trình nghiên cứu của tôi.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

Tác giả luận án

Phạm Ngọc Hưng

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn Cao Văn và

PGS. TS. Lưu Bích Ngọc đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình

nghiên cứu cũng như hoàn thành luận án này.

Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thị Minh – Chủ

nhiệm Khoa Toán kinh tế - Trường đại học Kinh tế Quốc dân đã có những

góp ý, động viên tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô đã và đang công tác tại Khoa Toán

kinh tế, các đồng nghiệp trong và ngoài Khoa Toán kinh tế với những góp ý

về chuyên môn, động viên về tinh thần để tôi hoàn thành luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn Viện Đào tạo sau đại học – Trường đại học

Kinh tế Quốc dân, các đồng chí trong bộ phận quản lý nghiên cứu sinh đã

đồng hành, hỗ trợ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận án.

Trên hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các đấng sinh thành, những người

thân yêu trong gia đình đã luôn hy sinh vì tôi, luôn động viên, khích lệ tôi trong

suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.

Phạm Ngọc Hưng

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................i LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... v DANH MỤC BẢNG ............................................................................................vii DANH MỤC HÌNH .............................................................................................. ix PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ..................................................... 13 Các khái niệm về di cư .............................................................................. 13 1.1. 1.2. Các lý thuyết về di cư và động lực di cư ...................................................... 19 1.2.1. Lý thuyết vĩ mô về di cư ............................................................................. 19 1.2.2. Lý thuyết trung mô về di cư ........................................................................ 20 1.2.3. Lý thuyết vi mô về di cư ............................................................................. 21 1.2.4. Lý thuyết lao động di cư kinh tế mới (New Economics Labour Migration

- NELM) ..................................................................................................... 22 1.2.5. Thảo luận về động lực di cư ........................................................................ 24 1.3. Tổng quan các nghiên cứu về di cư và mô hình phân tích các nhân tố

tác động đến quyết định di cư ................................................................... 25 1.3.1. Mô hình phân tích xu thế di cư .................................................................... 25 1.3.2. Mô hình phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di cư .................. 30 1.4. Tổng quan một số phân tích lợi ích về thu nhập và chi tiêu của người

di cư và hộ gia đình có người di cư ........................................................... 40 1.5. Thực tiễn và một số phân tích về di cư ở Việt Nam ................................. 43 1.5.1. Rà soát một số chính sách và pháp luật liên quan đến di cư ......................... 43 1.5.2. Tình hình di cư và một số phân tích di cư ở Việt Nam ..................................... 45 1.5.3. Di cư giữa các vùng từ số liệu được công bố trên Niên giám thống kê của

TCTK các năm 2010, 2012, 2014 ................................................................ 53 1.5.4. Di cư phân tích từ Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014 ...................... 54 1.5.5. Phân tích di cư từ bộ số liệu Điều tra Lao động việc làm năm 2014 .................. 63 1.5.6. Phân tích di cư từ Bộ số liệu Điều tra Mức sống hộ gia đình năm 2014 ....... 65 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 71 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................ 74 2.1. Mô hình phân tích quyết định di cư ......................................................... 74 2.1.1. Mô hình logit với số liệu mảng phân tích xác suất hộ gia đình có ít nhất

một người xuất cư ....................................................................................... 74

2.1.2. Mô hình logit đa trạng thái phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết

định di cư cá nhân ....................................................................................... 86

2.1.3. Mô hình logit đa trạng thái nhiều mức phân tích các nhân tố ảnh hưởng

đến quyết định di cư cá nhân ....................................................................... 91

2.2. Mô hình đánh giá tác động của di cư đến thu nhập và mức sống của

hộ có người di cư ....................................................................................... 93

2.2.1. Mô hình phân rã Blinder – Oaxaca phân tích khác biệt về thu nhập của hộ

có người xuất cư với hộ không có người xuất cư ......................................... 93 2.2.2. Mô hình phân tích tác động của di cư tới các mức phân vị chi tiêu của hộ ... 94 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 96 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ MÔ HÌNH PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DI CƯ .......................................................................................... 97 3.1. Kết quả ước lượng mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến hộ có ít nhất một

người xuất cư từ Bộ số liệu VHLSS kết nối ba năm 2010-2012-2014 ........... 97

3.2. Kết quả mô hình phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến di cư cấp độ

cá nhân ..................................................................................................... 103 3.2.1. Kết quả mô hình logit đa trạng thái............................................................ 103 3.2.2. Kết quả mô hình logit đa trạng thái nhiều mức .......................................... 105 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................. 109 CHƯƠNG 4: LỢI ÍCH VỀ THU NHẬP CỦA HỘ GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI XUẤT CƯ .......................................................................................................... 110 4.1. Kiểm định thống kê mức cải thiện về thu nhập của hộ có người xuất cư . 110 4.2. Kiểm định thống kê mức cải thiện về chi tiêu của hộ có người xuất cư 115 4.3. Phân rã Blinder – Oaxaca và kết quả ước lượng ................................... 120 4.4. Kết quả mô hình hồi quy phân vị ........................................................... 121 4.4.1. Mục đích sử dụng mô hình hồi quy phân vị ............................................... 121 4.4.2. Phân tích kết quả mô hình hồi quy phân vị ............................................... 122 4.5. Kết quả mô hình hồi quy tuyến tính số liệu mảng phân tích di cư tác

động đến chi tiêu hộ ................................................................................ 124 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 .................................................................................. 126 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................... 127 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÁC BÀI BÁO .................................................. 133 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 134 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 143

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN Association of South East Asian Nations

AEC ASEAN Economic Community

CMKT Chuyên môn kỹ thuật

CML Conditional maximum likelihood

Dc Di chuyển

Dcld Di chuyển lâu dài

Dctt Di chuyển tạm thời

FE Fixed Effect – Tác động cố định

GDP Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm quốc nội

IMF International Monetary Fund – Quỹ tiền tệ quốc tế

LFS Labour Force Survey – Điều tra Lao động – Việc làm

LL Loga likelihood

ML Maximum likelihood

NCS Nghiên cứu sinh

Mig Migration – Di cư

NELM New Economics Labour Migration

NM Net Migration – Di cư thuần

NT – NT Nông thôn – nông thôn

NT – TT Nông thôn – thành thị

OR Odds Ratio

PML Pooled maximum likelihood

Pop Population – Dân số

RE Random Effect – Tác động ngẫu nhiên

TCTK Tổng cục Thống kê

TĐTDS Tổng điều tra dân số

TNBQ Thu nhập bình quân

TT – NT Thành thị – nông thôn

TT – TT Thành thị – thành thị

UNFPA United Nations Fund for Population Activities – Quỹ Dân

số Liên hợp quốc

V Vùng

VHLSS Vietnam Household Living Standards Survey – Điều tra

mức sống hộ gia đình Việt Nam

DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1: Các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng di cư ở Việt Nam .................. 47

Bảng 1.2: Nơi thường trú tại thời điểm 5 năm trước thời điểm tổng điều tra

và loại hình di cư ............................................................................. 54 Bảng 1.3: Dân số 5 tuổi trở lên chia theo các dòng di cư qua các năm ............. 55 Bảng 1.4: Số người di cư và tỷ lệ người di cư chia theo dòng di cư xét theo

khoảng cách và địa bàn nông thôn – thành thị ................................. 57 Bảng 1.5: Số lượng và cơ cấu các luồng di cư phân theo vùng, 2009-2014 ...... 58 Bảng 1.6: Tuổi trung bình và tuổi trung vị của người di cư chia theo dòng di

cư và giới tính, TĐT 1999, 2009, 2014 ............................................ 59 Bảng 1.7: Cơ cấu giới tính của người di cư và không di cư trong TĐTDS 1999, 2009, 2014 ............................................................... 60

Bảng 1.8: Tỷ lệ dân số tuổi từ 15-54 chia theo dòng di cư và trình độ

chuyên môn kỹ thuật, 2014 ............................................................. 61

Bảng 1.9: Tỷ lệ người di cư và không di cư sống trong các hộ gia đình có điều kiện sống khác nhau phân theo các dòng di cư, TĐTDS 2009 và 2014 ................................................................................... 62 Bảng 1.10: Số người và tỷ lệ người di cư trong mẫu điều tra ............................. 63 Bảng 1.11: Số lượng và tỷ lệ người di cư phân theo loại hình và giới tính ......... 64 Bảng 1.12: Số lượng và tỷ lệ người di cư phân theo loại hình và theo tình

trạng hôn nhân................................................................................. 64

Bảng 1.13: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

giới tính của chủ hộ ......................................................................... 65

Bảng 1.14: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

nhóm tuổi của chủ hộ ...................................................................... 66

Bảng 1.15: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

nhóm bằng cấp của chủ hộ .............................................................. 67

Bảng 1.16: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

theo 6 vùng kinh tế .......................................................................... 67

Bảng 1.17: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

theo khu vực thành thị - nông thôn .................................................. 68

Bảng 1.18: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

tình trạng hôn nhân của chủ hộ ........................................................ 69

Bảng 1.19: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

tình trạng hộ nghèo năm 2013 ......................................................... 69

Bảng 1.20: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

chi tiêu thực bình quân năm 2014 .................................................... 70

Bảng 2.1: Nhóm nhân tố tác động tới động lực xuất cư ................................... 76 Bảng 2.2: Mô tả và các giá trị của biến độc lập trong mô hình phân tích

động lực xuất cư các năm 2010, 2012, 2014 .................................... 81

Bảng 2.3: Mô tả và các giá trị của biến độc lập trong mô hình phân tích các

nhân tố ảnh hưởng đến di cư cá nhân từ Bộ số liệu LFS 2014 ......... 90

Bảng 3.1: Số hộ và tỷ lệ hộ gia đình có người xuất cư trong các bộ số liệu

VHLSS 2010, 2012, 2014 ............................................................... 97

Bảng 3.2: Số hộ gia đình và tỷ lệ hộ có người xuất cư trong bộ số liệu

VHLSS nối 3 năm 2010, 2012, 2014 ............................................... 98 Bảng 3.3: Kết quả ước lượng mô hình tác động cố định .................................. 99 Bảng 3.4: Kết quả ước lượng mô hình logit đa trạng thái ............................... 103 Bảng 3.5: Kết quả ước lượng phương sai và hiệp phương sai đặc trưng riêng

của các tỉnh và các vùng ................................................................ 105 Bảng 3.6: Kết quả ước lượng mô hình logit đa trạng thái nhiều mức ............ 106 Bảng 4.1: Trung bình của thu nhập bình quân tháng của các hộ..................... 111 Bảng 4.2: Mức chênh thu nhập bình quân của các hộ giữa năm 2014 với

2012 .............................................................................................. 112

Bảng 4.3: Trung bình mức tăng tuyệt đối thu nhập bình quân của 2 nhóm trong

các năm 2010-2012-2014 ................................................................ 113

Bảng 4.4: Trung bình mức tăng tương đối thu nhập bình quân của 2 nhóm

các năm 2010-2012-2014 .............................................................. 114

Bảng 4.5: Thống kê trung bình chi tiêu thực bình quân năm của các hộ

trong các năm 2010, 2012, 2014 .................................................... 116

Bảng 4.6: Thống kê mức chênh thu nhập các hộ thuộc nhóm 0_0_0 và

nhóm 0_0_1 năm 2014 so với năm 2012 ....................................... 117

Bảng 4.7: So sánh trung bình mức tăng chi tiêu của 2 nhóm ở 2 giai đoạn

2010-2012 và 2012-2014 ............................................................... 118

Bảng 4.8: So sánh trung bình mức tăng tương đối chi tiêu của 2 nhóm ở 2

giai đoạn 2010-2012 và 2012-2014 ............................................... 118 Bảng 4.9: Kết quả phân rã Blinder – Oaxaca ................................................. 120 Bảng 4.10: Kết quả mô hình hồi quy phân vị ................................................... 123 Bảng 4.11: Kết quả mô hình phân tích chi tiêu hộ với số liệu kết nối các năm

2010, 2012, 2014 ........................................................................... 124

DANH MỤC HÌNH

Hình 1:

Khung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định xuất cư và

lợi ích sau xuất cư ............................................................................. 7

Hình 1.1: Sơ đồ phân tích di cư bao hàm phân tích quyết định di cư ............... 25

Hình 1.2: Tỷ lệ người di cư trong dân số theo các dòng di cư, 1989 - 2014 ..... 56

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài

Ngày nay, hộ gia đình nông thôn ở các nước nghèo ngày càng sử dụng

các chiến lược di cư để bảo đảm sinh kế của họ và để thích ứng với một môi

trường tự nhiên và xã hội thay đổi nhanh chóng. Thu nhập của người di cư gửi

về các gia đình đã giúp tăng chi tiêu cho các nhu cầu cơ bản và từ đó nâng cao

mức sống của họ, nếu có tích lũy họ sẽ có chiến lược để phát triển hơn. Những

người di cư ra nước ngoài họ mang ngoại tệ có giá trị vào trong nước giúp nâng

cao khả năng phát triển đất nước, duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần

giảm thiểu tác động của các cú sốc bất lợi và giảm nghèo (IMF, 2005).

Di cư là yếu tố quan trọng, là động lực tích cực thúc đẩy sự phát triển

kinh tế - xã hội, góp phần phân bổ lại dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế lao

động, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, là một bộ phận của chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội bền vững của Chính phủ các nước. Kinh tế phát

triển, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế

diễn ra nhanh chóng cùng với chính sách mở cửa, hội nhập dẫn đến việc di cư

nội địa và di cư quốc tế tăng lên.

Tuy nhiên, trong dòng di cư nói chung, hầu hết lao động di cư là nhóm

người dễ bị tổn thương và chịu ảnh hưởng mạnh từ các sự kiện trong đời sống

kinh tế - xã hội. Với bối cảnh toàn cầu hoá, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu

hơn với thế giới, việc tiếp cận thị trường thế giới tác động tới các ngành công

nghiệp mới và tạo việc làm cho hàng triệu người. Sự tập trung vốn đầu tư vào các

vùng kinh tế, sự khác biệt về điều kiện kinh tế giữa các vùng miền dẫn đến di cư

của một bộ phận dân số là điều tất yếu.

Quá trình di cư luôn chịu tác động của yếu tố “đẩy” và yếu tố “kéo” hay

quá trình di cư xảy ra khi có sự khác biệt về đặc trưng giữa vùng đi và vùng

đến. Những nhân tố “đẩy” như: điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị,

2

văn hóa ở nơi đi, ví dụ: do điều kiện sống khó khăn, thiếu việc làm, thiếu đất

đai... Cùng với nó, các nhân tố “kéo” ở nơi đến như những điều kiện, yếu tố

thuận lợi về tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa… và sự hấp dẫn về

việc làm, cơ hội có thu nhập và mức sống cao ở nơi đến, đây là yếu tố “kéo”.

Sự kết hợp giữa yếu tố “đẩy” và yếu tố “kéo” đã thúc đẩy quá trình di cư diễn

ra (Lee, 1966).

Di cư vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của quá trình phát triển. Di cư đã

và đang trở thành sự lựa chọn của người dân nhằm cải thiện mức sống và tạo

cơ hội làm ăn cho mình, và nó trở thành một cấu phần không thể thiếu được

của quá trình phát triển, nó còn là đặc trưng cho mối quan hệ qua lại giữa các

vùng miền cũng như các lãnh thổ quốc gia.

Trong cuộc Tổng điều tra Dân số ở Việt Nam năm 2009, “di cư được định

nghĩa là sự di chuyển nơi sinh sống thường xuyên của con người từ một đơn

vị lãnh thổ hành chính này đến một đơn vị lãnh thổ hành chính khác, đó là

chuyển đến một xã khác, huyện khác, thành phố hoặc một tỉnh khác để sinh

sống trong một khoảng thời gian nhất định” (TCTK, 2010).

Sau Đổi Mới, chế độ bao cấp dựa trên đăng ký cư trú theo hộ khẩu được

xoá bỏ, kinh tế thị trường được hình thành và phát triển đã khiến cho di cư trong

nước của Việt Nam diễn ra mạnh mẽ. Hiện nay, di cư trong nước vẫn đang tiếp

tục gia tăng, nhất là trong bối cảnh nước ta hội nhập sâu rộng cùng các nước

trong khu vực và trên thế giới. Việc tham gia cộng đồng kinh tế các quốc gia

ASEAN (ASEAN Economic Community - AEC) vào tháng 12 năm 2015 cũng

đem lại nhiều cơ hội song cũng đặt ra nhiều thách thức đối với người lao động

Việt Nam. Khả năng di chuyển để có việc làm, có thu nhập đòi hỏi người di cư

phải có những “nguồn vốn” đi kèm. Đó là vốn con người, vốn tài chính, vốn xã

hội… Các đặc trưng nhân khẩu học của người di cư cũng sẽ ảnh hưởng đến khả

năng di chuyển khi mà di cư mang bản chất là một quá trình “chọn lọc”.

3

Di cư trong nước mang lại cả những tác động tích cực lẫn ảnh hưởng

tiêu cực. Một số nghiên cứu đến nay đã cho thấy di cư giúp giải quyết được

vấn đề việc làm cho lao động dư thừa và xóa đói giảm nghèo ở nông thôn,

chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, bổ sung và trẻ hóa lực lượng lao

động ở thành thị, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của các đô thị (Nguyễn

Nữ Đoàn Vy, 2015). Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, hiện tượng

di cư nông thôn ra thành thị dẫn đến thiếu hụt lao động trình độ cao ở khu vực

nông thôn, người lao động từ nông thôn ra thành thị làm phát sinh thêm

những vấn đề phức tạp ở đô thị như gia tăng các tệ nạn xã hội (nghiện hút,

mại dâm, cờ bạc, lô đề, trộm cướp, …), gây thêm sức ép về quản lý trật tự xã

hội cho các cấp chính quyền thành phố. Người di cư đến các thành phố đã tạo

sức ép lên việc cung cấp các dịch vụ xã hội như nhà ở, nước sạch, y tế, cơ sở

hạ tầng, giao thông, đặc biệt là ở các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ

Chí Minh, Đà Nẵng (Lưu Bích Ngọc và cộng sự, 2015).

Bên cạnh những đánh giá về tác động tích cực cũng như tiêu cực của các

dòng di cư trong nước, các yếu tố tác động đến khả năng hay quyết định di cư

của cá nhân người lao động, lực hút của những địa phương đang thu hút

người di cư đến lẫn lực đẩy của những vùng xuất cư cũng cần được cập nhật

theo tiến trình phát triển chung của xã hội. Những nghiên cứu các yếu tố tác

động đến khả năng hay quyết định di cư của cá nhân người lao động đã được

thực sự quan tâm trong 10 năm trở lại đây. Một số mô hình nghiên cứu về di

cư trong nước đã được thực hiện như mô hình di cư nông thôn – đô thị (Đặng

Nguyên Anh và cộng sự, 2007), mô hình di cư tạm thời đến Hà Nội và thành

phố Hồ Chí Minh (Lưu Bích Ngọc và cộng sự, 2015) hay mô hình di cư đến

vùng đô thị hoá, công nghiệp hoá nhanh (Lưu Bích Ngọc và cộng sự, 2015).

Có thể thấy các mô hình này mới chỉ xem xét quyết định di cư đến một vùng

địa lý nhất định và ở cấp độ cá nhân (vi mô) chứ chưa phân tích được các yếu

tố tác động đến quyết định di cư của cá nhân ở cấp độ hộ gia đình (trung mô)

4

và những ảnh hưởng tới quyết định di cư từ những biến số phát triển trên

phạm vi quốc gia (vĩ mô). Đề tài “Mô hình phân tích các nhân tố ảnh

hưởng đến xuất cư và lợi ích về thu nhập của hộ gia đình có người xuất

cư” được thực hiện trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ mang tính cấp thiết,

nhằm bù đắp “khoảng trống” thông tin về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết

định di cư cá nhân với những phân tích trên phạm vi toàn quốc và các yếu tố

ảnh hưởng đến khả năng hộ gia đình có ít nhất một thành viên xuất cư.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án này được thực hiện nhằm các mục tiêu cụ thể như sau:

- Phân tích các nhân tố tác động đến quyết định xuất cư của các cá nhân

trong các hộ gia đình trên toàn quốc ở một số năm dựa trên số liệu điều tra

VHLSS bằng thử nghiệm mô hình số liệu mảng có trễ phân phối nhằm lượng hoá

tác động của một số nhân tố ở thời kỳ trước tới quyết định di cư ở thời kỳ sau;

- Đo lường tác động của mức sống của hộ gia đình ở thời kỳ trước đến

xác suất đưa ra quyết định di cư của một cá nhân trong hộ gia đình ở thời

kỳ sau;

- Phân tích và đo lường tác động của một số biến cấp tỉnh tác động tới

hành vi di cư của một thành viên trong hộ gia đình, từ đó đưa ra một số hàm ý

chính sách cho chính quyền cấp tỉnh xây dựng những chính sách thích hợp

điều tiết di cư giúp tăng trưởng kinh tế;

- Phân tích, so sánh bằng nhiều phương pháp khác nhau về thu nhập và

chi tiêu của hộ có người di cư so với hộ không có người di cư để xác định

mức độ cải thiện về thu nhập và chi tiêu khi có hiện tượng xuất cư.

Những câu hỏi nghiên cứu chính cần được trả lời trong Luận án này gồm:

Câu hỏi nghiên cứu 1:

Mức sống thấp của hộ gia đình ở thời kỳ trước có làm tăng xác suất di

cư của ít nhất một thành viên trong hộ gia đình ở thời kỳ sau hay không?

5

Di cư đòi hỏi phải có “vốn”. Đó là vốn vật chất, vốn con người và vốn

xã hội. Với những hộ gia đình có mức sống thấp, các nguồn vốn của họ hạn

chế hơn so với những hộ gia đình có mức sống trung bình trở lên xét về tất cả

các loại vốn. Điều này có thể ảnh hưởng đến quyết định di cư và quá trình di

cư của các cá nhân là thành viên của hộ gia đình nói trên.

Câu hỏi nghiên cứu 2:

Một số nhân tố liên quan đến tạo việc làm cấp tỉnh được cải thiện có tác

động làm giảm xác suất xuất cư xét ở cấp độ hộ gia đình hay không?

Liên quan đến quyết định di cư cá nhân, theo Harris và Todaro (1970),

cần phải đánh giá xem những nhân tố nào ảnh hưởng đến quyết định di cư mà

thuộc vào nhóm yếu tố “lực hút”, và những nhân tố nào ảnh hưởng đến quyết

định di cư nhưng lại thuộc vào nhóm yếu tố “lực đẩy”. Các nhân tố lực hút và

lực đẩy này tồn tại ở cả địa phương đầu đi lẫn địa phương đầu đến. Thiếu việc

làm trên thị trường lao động tại địa phương đầu đi là một trong những nhân tố

“lực đẩy” tác động đến quyết định di cư của các cá nhân. Tại địa phương đầu

đi, khả năng tạo việc làm tăng lên, ngược lại, sẽ là nhân tố “lực hút” giữ chân

các cá nhân ở lại, không đưa ra quyết định di cư. Tuy nhiên, một người trong

quá trình xem xét, lựa chọn hành vi di cư sẽ còn tính đến các yếu tố mà Lee

trong lý thuyết của mình gọi là các “chi phí” và “lợi ích” của việc di cư này.

Quyết định di cư được thực hiện dựa trên phân tích của mỗi cá nhân cho rằng

“lợi ích” từ việc di cư sẽ lớn hơn “chi phí” cho việc di cư.

Câu hỏi nghiên cứu 3:

Thu nhập của hộ gia đình có thành viên di cư đã được cải thiện như

thế nào?

Khi một thành viên trong hộ gia đình di cư, sức ép về lao động và việc

làm lên phương tiện sản xuất (đất đai, nhà xưởng…) cũng như chi tiêu của hộ

gia đình có thể giảm đi. Theo quy luật, người di cư ra đi với mục tiêu tìm

6

kiếm thêm thu nhập và việc làm mới tốt hơn ở nơi gốc. Họ thường cố gắng

tích luỹ và gửi tiền về cho gia đình ở quê để chi tiêu, tiết kiệm hay cải thiện

điều kiện nhà cửa… Một số nghiên cứu định tính đã phát hiện ra vấn đề này,

tuy nhiên, mức độ cải thiện về thu nhập cụ thể của hộ gia đình sau khi có

người di cư cần được lượng hoá và chỉ ra sự khác biệt trong mức độ cải thiện

về thu nhập giữa những hộ gia đình có người di cư và hộ gia đình không có

người di cư.

Để xây dựng mô hình phân tích, một số giả thuyết được nêu ra. Các giả

thuyết này cần được kiểm nghiệm bằng các luận chứng trong quá trình thực

hiện Luận án. Cụ thể:

Giả thuyết 1: Hộ có mức sống thấp hơn mức trung bình ở thời kỳ trước

sẽ làm tăng xác suất xuất cư của thành viên trong hộ ở thời kỳ sau.

Giả thuyết 2: Vốn đầu tư thực hiện trễ một thời kỳ, số lao động được tạo

việc làm trễ một thời kỳ, và chỉ số PCI được cải thiện sẽ làm giảm xác suất

xuất cư.

Xuất phát từ thực tế là những tỉnh có vốn đầu tư thực hiện và chỉ số PCI

tăng thì dẫn đến cơ sở hạ tầng cũng như chính sách điều hành cấp tỉnh đối với

các doanh nghiệp được cải thiện, hai chỉ số này tăng gợi ý cho tác giả đưa ra

giả thuyết là tỉnh đó sẽ tạo việc làm tốt và giữ được người lao động ở lại tỉnh

nên khả năng người lao động xuất cư giảm.

Giả thuyết số 3: Hộ gia đình có thành viên di cư đã cải thiện được mức

sống hơn so với hộ không có thành viên di cư.

Các giả thuyết trên được mô tả khái quát trong khung phân tích dưới đây

với 3 nhóm nhân tố tác động tới quyết định di cư của mỗi cá nhân gồm nhóm

nhân tố cá nhân (các biến số cấp độ vi mô), nhóm nhân tố hộ gia đình (các

biến số cấp độ trung mô) và nhóm nhân tố cấp tỉnh (các biến số cấp độ vĩ mô)

(Hình 1).

7

Nguồn: Tác giả tự xây dựng

Hình 1. Khung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định xuất cư và

lợi ích sau xuất cư

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài có hai đối tượng nghiên cứu chính, gồm:

+) Mối quan hệ giữa các nhân tố (biến số) cấp hộ gia đình và một số

nhân tố (biến số) cấp tỉnh với xác suất xuất cư của người dân là thành viên

trong hộ gia đình có ít nhất một người xuất cư.

+) Lợi ích về thu nhập của hộ gia đình có ít nhất một người xuất cư.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện trên cơ sở sử dụng các thông tin sẵn có

từ bộ dữ liệu VHLSS năm 2010, 2012, 2014. Các bộ dữ liệu cho phép xác

định được HỘ GIA ĐÌNH có người xuất cư hay không xuất cư. Các bộ dữ

liệu được kết nối thành một panel dữ liệu cho phép phân tích trong thời

khoảng 2010-2014.

8

Theo Điều 106 Bộ luật dân sự năm 2005, HỘ GIA ĐÌNH bao gồm các

thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế

chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất,

kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự

thuộc các lĩnh vực này.

• Hộ một người (01 nhân khẩu): Là hộ chỉ có một người đang thực tế

Hộ gia đình được phân loại như sau:

• Hộ hạt nhân: Là loại hộ chỉ bao gồm một gia đình hạt nhân đơn (gia đình chỉ

thường trú tại địa bàn.

có 1 - 2 thế hệ cùng chung sống) và được phân tổ thành: Gia đình có một

cặp vợ chồng có con đẻ hoặc không có con đẻ hay bố đẻ cùng với con

• Hộ mở rộng: Là hộ bao gồm gia đình hạt nhân đơn và những người có quan

đẻ, mẹ đẻ cùng với con đẻ.

hệ gia đình với gia đình hạt nhân. Ví dụ: một người cha đẻ cùng với con đẻ

• Hộ hỗn hợp: Là trường hợp đặc biệt của loại Hộ mở rộng, nó bao gồm

và những người thân khác, hoặc một cặp vợ chồng với người thân khác.

nhiều thành viên có cùng hoặc không cùng huyết thống, ở nhiều thế hệ

khác nhau, cùng chung sống với nhau.

Theo Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2014, thành viên

trong hộ là những người ăn chung, ở chung từ 6 tháng trở lên trong 12 tháng

qua và chung quỹ thu, chi.

Về nội dung, Luận án này giới hạn trong phạm vi: (cid:2) Xác định các nhân tố tác động tới xác suất xuất cư của ít nhất một

thành viên trong hộ gia đình. Có nghĩa đây là những yếu tố ảnh hưởng tới di

cư được phân tích ở “đầu đi” mà không phải phân tích tại “đầu đến”. Do hạn

chế của bộ số liệu, việc phân tích được các nhân tố ảnh hưởng tới di cư tại

“đầu đến” đã không thực hiện được.

9

(cid:2) Lợi ích về thu nhập của hộ gia đình có người xuất cư được giả thuyết

rằng hộ gia đình có người xuất cư thì thu nhập của hộ được cải thiện do người

di cư có tiền gửi về cho hộ gia đình, từ đó tổng thu nhập thực và chi tiêu thực

của hộ tăng lên.

4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận tư duy

Các phân tích và luận điểm được đưa ra trong luận án đều dựa trên phương

pháp luận tư duy duy vật biện chứng và tư duy duy vật lịch sử. Nghiên cứu các

nhân tố ảnh hưởng tới quyết định di cư được dựa trên cơ sở tư duy duy vật lịch

sử, kế thừa các lý thuyết về “lực hút” và “lực đẩy” trong di cư hay “chi phí” và

“lợi ích” do di cư mang lại. Các nhân tố tác động tới quyết định di cư hay

những lợi ích thu nhập do di cư mang lại đều có “độ trễ” về mặt thời gian. Cụ

thể, những đặc trưng của hộ gia đình tại thời điểm này có thể tạo nên quyết

định di cư vào thời điểm sau hay di cư diễn ra năm nay song lợi ích thu nhập

chỉ thu được trong những năm tiếp theo. Điều này cho thấy việc áp dụng mô

hình “có yếu tố trễ” trong phân tích các mối quan hệ nhân quả liên quan đến

hành vi di cư của các thành viên trong một hộ gia đình ở nghiên cứu này mang

tính biện chứng và có tính giá trị cũng như độ tin cậy cao hơn so với các nghiên

cứu di cư áp dụng mô hình “tĩnh” trước đây. Các dữ liệu thực chứng thu được

trong các bộ dữ liệu điều tra quốc gia có độ tin cậy cao được sử dụng để tìm

các luận chứng chứng minh cho các luận điểm được nêu ra.

4.2. Phương pháp tiếp cận phân tích

Qua tổng quan tài liệu, nghiên cứu này thực hiện tiếp cận theo lý

thuyết lao động di cư kinh tế mới (New Economics Labour Migration -

NELM) vì đề tài luận án nghiên cứu mục đích di cư của thành viên trong

hộ là để làm kinh tế cho hộ (mục 1B bảng hỏi của Điều tra Mức sống hộ

gia đình Việt Nam năm 2014).

Dựa trên tổng quan các mô hình nghiên cứu của các tác giả Mendola

10

(2005), Mahinchai (2010) và Syafitri (2012), mô hình nghiên cứu của luận án

được quyết định dựa trên tham khảo mô hình nghiên cứu của Mendola (2005).

4.3. Nguồn số liệu

Bộ số liệu VHLSS được Tổng cục Thống kê cung cấp và cho phép sử

dụng đã được kết nối 3 năm 2010, 2012 và 2014. Trong panel số liệu này, số

hộ được quan sát sau khi kết nối 3 năm dữ liệu điều tra là 1.914 hộ.

4.3.1. Mô tả sơ bộ số liệu

(cid:2) Bộ số liệu VHLSS năm 2010 có 9.402 hộ được điều tra trên toàn quốc.

Có 5 mục tương ứng với 5 nhóm biến.

• Mục 1A: Danh sách thành viên hộ có 11 biến mô tả đặc trưng các

thành viên trong hộ;

• Mục 1B: Danh sách những người giúp việc và người đi làm ăn xa

nhà có 11 biến mô tả đặc điểm của người giúp việc và người đi

làm ăn xa nhà;

• Mục 2: Giáo dục có 16 biến mô tả giáo dục và đào tạo của các

thành viên trong hộ;

• Mục 3: Y tế và chăm sóc sức khỏe có 15 biến mô tả điều kiện y

tế và chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong hộ;

• Mục 4: Thu nhập có 156 biến mô tả chi tiết các khoản thu của hộ; • Mục 5: Chi tiêu có 38 biến mô tả chi tiết mức chi tiêu của hộ. (cid:2) Bộ số liệu năm 2012 có 9.399 hộ được điều tra, các mục 1A, 1B, mục

2, 3, 4, 5 đều tương tự như các mục trong Bộ số liệu năm 2010. Tuy

nhiên Bộ số liệu năm 2012 có thêm mục 1C: Các thành viên của hộ

trong khảo sát mức sống 2010, mục này có 11 biến dùng để nối số liệu

năm 2010 với 2012.

(cid:2) Bộ số liệu năm 2014 có 9.392 hộ được điều tra, các mục 1A, 1B, mục

2, 3, 4, 5 đều tương tự như trong Bộ số liệu năm 2010. Tuy nhiên, Bộ

số liệu năm 2014 cũng có thêm mục 1C: các thành viên của hộ trong

11

khảo sát mức sống 2012, mục này có 11 biến dùng để kết nối với Bộ số

liệu năm 2012 với 2014.

(cid:2) Bộ số liệu Điều tra lao động việc làm năm 2014 (số liệu tháng 12 năm

2014) có 62.025 cá nhân được điều tra. Câu số 9 trong bảng hỏi được

lựa chọn để xác định trạng thái không di cư (không di chuyển), di cư

ngắn hạn (di chuyển trong vòng 12 tháng) và di cư dài hạn (di chuyển

trên 12 tháng).

4.3.2. Ưu điểm và hạn chế của bộ số liệu (cid:2) Ưu điểm: Bộ số liệu VHLSS được điều tra trên phạm vi toàn quốc với

những chỉ tiêu mô tả khá chi tiết mức sống hộ gia đình Việt Nam. Mục 1B

cho biết hộ có thành viên đi làm ăn xa nhà (hay có thành viên di cư) với mục

đích làm kinh tế cho hộ. Mục 1C của bộ dữ liệu năm 2012 và 2014 cho phép

nối số liệu 3 năm 2010, 2012, 2014.

(cid:2) Hạn chế: Mục 1B chỉ cung cấp mã hiệu của người di cư, không biết

được những người di cư thuộc hộ nào nên không phân tích được đặc điểm của

cá nhân người di cư tác động đến xác suất hộ có ít nhất một người di cư.

(cid:2) Do hạn chế của bộ số liệu VHLSS là không nối được thông tin của người

di cư với hộ của họ, do vậy tác giả đã phân tích một số nhân tố tác động tới quyết

định di cư cá nhân từ bộ số liệu Điều tra lao động việc làm của Tổng cục Thống

kê năm 2014 (bộ số liệu LFS năm 2014) để mang tính chất tham chiếu.

5. Những đóng góp mới của luận án (cid:3) Nghiên cứu di cư tiếp cận theo hướng từ hộ gia đình là thích hợp bởi vì

hộ gia đình ở Việt Nam, nhất là ở nông thôn, các thành viên trong hộ gắn kết

và quan hệ chặt chẽ với nhau. Di cư dù là của một thành viên nào đó nhưng

lại được quyết định mang tính tập thể hộ gia đình và vai trò của chủ hộ lại có

tầm ảnh hưởng lớn nhất đến các quyết định của hộ gia đình. Trong khi các

nghiên cứu trước chỉ thực hiện trên các dữ liệu đơn lẻ, việc nối thông tin hộ

các năm 2010, 2012 và 2014 trong các Bộ số liệu VHLSS cho phép quan sát

được động thái di cư (với ít nhất một thành viên) của hộ và do đó xem xét

12

được nhiều khía cạnh của mối quan hệ như hộ có mức sống thấp ở năm trước

thì có là nguyên nhân để ít nhất một thành viên của hộ năm sau di cư hay

không hay việc ít nhất một thành viên di cư thì có giúp cải thiện mức sống

của hộ hay không và nếu có cải thiện thì ở mức nào?

(cid:3) Việc nối thông tin hộ có nhược điểm là làm giảm tính đại diện của mẫu, nhưng lại có những ưu điểm mà chưa có nghiên cứu nào về di cư ở Việt

Nam có được từ trước đến nay, đó là:

Cho phép nghiên cứu di cư bằng mô hình số liệu mảng có yếu tố trễ (một dạng của mô hình động), mô hình này rất phù hợp khi phân tích tác động

nhân quả trong nghiên cứu di cư, như đánh giá xem mức sống thấp ở thời kỳ

trước có làm tăng khả năng xuất cư ở thời kỳ sau hay không?

Cho phép so sánh trực tiếp thu nhập và chi tiêu của các hộ có thành viên di cư với hộ không có thành viên di cư, từ kết quả so sánh có thể đưa ra

các phân tích hay đánh giá về quyết định di cư của các thành viên hộ gia đình. (cid:3) Các nghiên cứu của Nguyễn Thu Phương và cộng sự (2008), Ian Coxhead và cộng sự (2016) đã phân tích một số nhân tố địa bàn cư trú cấp xã

tác động đến di cư. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về di cư ở

Việt Nam đã nghiên cứu một số nhân tố cấp tỉnh tác động đến di cư của các

hộ gia đình bằng mô hình số liệu mảng có yếu tố trễ. Xuất phát từ thực tế là

những tỉnh có vốn đầu tư thực hiện và chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) tăng

thì dẫn đến cơ sở hạ tầng cũng như chính sách điều hành cấp tỉnh đối với các

doanh nghiệp được cải thiện, tỉnh đó sẽ tạo được việc làm tốt và giữ được

người lao động ở lại tỉnh. Điều này có nghĩa là xác suất xuất cư giảm đi.

Trong luận án này, với biện giải cho rằng các tác động của một số nhân tố cấp

độ vĩ mô tới di cư không thể ngay tức thì (đồng thời cùng năm) mà nó cần có

“độ trễ” về mặt thời gian, tác giả đã đưa các biến vốn đầu tư thực hiện của

tỉnh cũng như số lao động được tạo việc làm trễ một thời kỳ vào mô hình để

phân tích xác suất di cư của ít nhất một thành viên hộ gia đình. Kết quả

nghiên cứu đã khẳng định khi các biến này tăng thì xác suất di cư giảm. Kết

13

quả nghiên cứu này đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm giúp các nhà lãnh

đạo cấp tỉnh đưa ra các chính sách phù hợp để điều tiết di cư giúp tăng trưởng

kinh tế cho tỉnh.

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Chương này trình bày các khái niệm về di cư, lý thuyết về di cư. Tổng

quan các mô hình phân tích xu thế di cư và các nhân tố ảnh hưởng đến quyết

định di cư trên thế giới. Mô hình phân rã Blinder – Oaxaca phân tích sự khác

biệt thu nhập của nhóm hộ có người di cư và nhóm hộ không có người di cư.

Rà soát một số nghiên cứu về di cư ở Việt Nam.

1.1. Các khái niệm về di cư

Di cư là khái niệm được các nhà nghiên cứu định nghĩa chưa thống nhất.

Có nhà nghiên cứu coi đó là sự “thay đổi nơi cư trú cố định” (Lee, 1966), có

nhà nghiên cứu lại coi “sự thoát ly hay tách khỏi cộng đồng sống” là nội dung

chính trong nội hàm khái niệm di cư (Mangalam và Morgan, 1968). Có nhà

nghiên cứu cho rằng “giá trị hệ thống dựa trên đó con người hay cộng đồng

người lựa chọn nơi cư trú” là tiêu chí chủ yếu nhận dạng quá trình di cư

(Paul Shaw, 1975). Như vậy, di cư có thể hiểu là sự di chuyển của con

người từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác trong thời gian

nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn. Nói cách

khác, di cư là một thuật ngữ mô tả quá trình dịch chuyển dân số theo không

gian hoặc quá trình con người rời bỏ hoặc hội nhập, hoặc thiết lập nơi cư trú

mới vào một đơn vị hành chính - địa lý trong một thời gian nhất định. Di cư

có thể liên quan đến sự di chuyển của một cá nhân, một gia đình, thậm chí cả

một cộng đồng.

Cùng với khái niệm “di cư” có một số khái niệm liên quan như “người di

14

cư”, “di cư tổng”, “di cư thuần”, “nơi nhập cư”, “nơi xuất cư”, “chênh lệch di

cư”… “Người di cư” là người trong một thời gian nhất định, có ít nhất một

lần thay đổi nơi cư trú của mình từ đơn vị hành chính này sang đơn vị hành

chính khác, từ khu vực lãnh thổ này sang khu vực lãnh thổ khác. “Di cư tổng”

là tổng cộng số người đến và đi trên cùng một vùng, là chỉ số đo lường toàn

bộ dân số đến và đi trong một cộng đồng dân cư trên cùng một địa bàn sống.

“Di cư thuần” là khái niệm chỉ sự chênh lệch giữa tổng số người di chuyển

đến và tổng số người di chuyển đi khỏi một vùng lãnh thổ nhất định do sự

chuyển dịch nơi cư trú của người dân. “Nơi nhập cư” là thuật ngữ chỉ địa bàn

mà người di cư tìm đến với mục đích xác lập nơi cư trú mới. “Xuất cư” là sự

di chuyển hoặc rời bỏ nơi cư trú của người di cư để xác lập địa bàn cư trú

mới. “Chênh lệch di cư” chỉ khoảng cách giữa các nhóm di cư khác nhau về

yếu tố nhân khẩu, hoàn cảnh xã hội, yếu tố văn hoá, kinh tế… Điều đó có

nghĩa là đối với những luồng di cư khác nhau sẽ có sự khác nhau trong cơ cấu

thành phần, trong đặc điểm nhận diện, trong tính chất di chuyển.

Dựa trên những tiêu chí khác nhau, có thể phân chia di cư thành các loại

hình khác nhau. Theo tiêu chí thời gian, di cư bao gồm di cư lâu dài, di

cư tạm thời và di cư mùa vụ. “Di cư lâu dài" chỉ người hay nhóm người di cư

di chuyển nơi cư trú trong một khoảng thời gian tương đối dài và có ý định ở

lại nơi đến lâu dài. “Di cư tạm thời” là sự xác lập nơi cư trú của người hay

nhóm người trong một khoảng thời gian ngắn trước khi quyết định có ở lại định

cư tại nơi đó hay không. “Di cư mùa vụ” là hình thức di cư đặc biệt của di cư

tạm thời, nó không chỉ ám chỉ khoảng thời gian di cư trùng với thời gian “nông

nhàn” sau khi thu hoạch mùa vụ canh tác, mà còn chỉ khoảng thời gian di cư

phục vụ hoạt động kinh tế mùa vụ (mùa xây dựng, mùa du lịch…), có nghĩa là

người di cư di chuyển nơi cư trú theo mùa vụ để tìm kiếm việc làm, không có ý

định ở lại lâu dài tại địa bàn nhập cư, sẽ quay trở lại nơi xuất cư nếu có nhu

cầu lao động hoặc công việc gia đình.

15

Theo tiêu chí về hướng di cư, có di cư nội địa và di cư quốc tế. Sự di

chuyển nơi cư trú bên trong biên giới quốc gia hoặc vượt ra ngoài biên giới

quốc gia tới quốc gia khác.

Căn cứ theo tiêu chí trình độ phát triển giữa địa bàn đi – đến, di cư có

bốn loại hình: Nông thôn – nông thôn; Nông thôn – thành thị; Thành thị –

thành thị; Thành thị – nông thôn.

Căn cứ theo tính pháp lý của di cư, có hai hình thức: Di cư có tổ chức và

tự do; trong đó, di cư có tổ chức là loại hình di cư diễn ra trong khuôn khổ các

chương trình của Nhà nước, theo đó người di cư được nhận sự hỗ trợ ổn định

đời sống từ Nhà nước, được Nhà nước định hướng địa bàn cư trú, tạo việc

làm, còn di cư tự do bao gồm những người di cư không nằm trong chương

trình di cư của Chính phủ, do người di cư tự quyết định từ việc lựa chọn địa

bàn nhập cư, đến trang trải mọi chi phí di chuyển, tìm việc làm…

Một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên về di cư hiện đại là

Ravenstein, vào những năm 1880, Ravenstein đã nghiên cứu "quy luật di cư"

dựa trên dữ liệu di cư thực nghiệm, bộ dữ liệu thực nghiệm này cho thấy một

số quy luật, ví dụ thực tế là hầu hết người di cư chỉ di chuyển trong khoảng

cách ngắn. Mô hình di cư của Zipf (1946) sử dụng một khái niệm trong vật lý

đó là khái niệm trọng lực để giải thích di cư, Zipf cho rằng di cư là một hàm

của khoảng cách từ vùng đi và vùng đến của người di cư, tác giả đã dự đoán

di cư tỷ lệ nghịch với khoảng cách.

Trong những năm 1950, lý thuyết di cư ra đời từ mô hình cơ học để khái

quát hóa mô hình di cư. Lý thuyết luồng di cư đầu tiên xuất hiện trong mô

hình hai khu vực của Lewis những năm 1950-1960, trong đó di cư xảy ra như

là kết quả của sự khác biệt trong cung và cầu lao động giữa khu vực nông

thôn và thành thị. Harris – Todaro những năm 1970 – 1980 đề xuất một số mô

hình dựa vào quan sát thực nghiệm để định dạng cho một số mô hình cụ thể

16

về di cư.

Trong quá trình phân tích, khi nhìn vào số liệu tổng hợp thì thường thấy

di cư như cơ chế cân bằng, từ những năm 1980 nhiều tác giả đã nghiên cứu di

cư dựa trên các mô hình kinh tế vi mô. Ngoài những mô hình phân tích những

động lực cá nhân để di chuyển, một số tác giả còn xem xét các yếu tố ở cấp

độ cộng đồng. Phương pháp tiếp cận hiện đại hơn liên kết các cấp độ vi mô và

vĩ mô. Đóng góp của các nghiên cứu gần đây là sự phân biệt giữa nguyên

nhân di cư và tồn tại của di cư. Lý thuyết kinh tế mới của lao động di cư do

Hagen – Zanker, J. ( 2008) phát triển trong những năm 1980 cho thấy di cư

liên quan đến quyết định của hộ gia đình và có nhiều lý giải cho việc di cư.

Lý thuyết này được thảo luận rộng rãi và được đưa ra từ các lý thuyết cổ điển

về di cư, trong đó các tác giả cố gắng mô hình hóa các quá trình ra quyết định

di cư một cách thực tế hơn bằng cách đưa ra một loạt các yếu tố tác động đến

quyết định di cư.

Quyết định di cư cá nhân có thể được hình thành dựa trên các nhân tố

“hút” và “đẩy” phụ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi cá nhân cũng như bối cảnh

kinh tế - xã hội nói chung (các cơ hội hay áp lực về lao động và việc làm,

khoảng cách về thu nhập và sự phát triển của các dịch vụ xã hội giữa các khu

vực, v.v.). Quyết định nhập cư căn cứ vào việc phân tích chênh lệch giữa “chi

phí” và “lợi ích” của quá trình nhập cư và nó không giống nhau đối với tất cả

mọi người dân di cư. Các nghiên cứu quy luật nhập cư đã chỉ ra rằng các khu

vực công nghiệp hóa, đô thị hoá nhanh có sức hấp dẫn lớn đối với nhập cư.

Điều này được chỉ ra thông qua thực tế là các khu vực công nghiệp hoá, đô thị

hoá nhanh thường đòi hỏi nhiều lao động hơn để vận hành luồng công việc và

đáp ứng được các yêu cầu về năng suất. Hơn nữa, các khu vực phát triển

nhanh này cũng đem lại thu nhập cao hơn cho các lao động và vì vậy thu hút

được ngày càng nhiều người nhập cư vào nhằm kiếm được nhiều tiền hơn và

17

có được mức sống cao hơn.

Có nhiều yếu tố tác động dẫn đến sự di chuyển của dân cư song có thể

chia thành bốn nhóm chính:

Nhóm 1: Các yếu tố về kinh tế như mức sống, cơ hội việc làm, sự thay

đổi về tiến bộ và công nghệ…

Nhóm 2: Các yếu tố về chính trị, luật pháp như thể chế chính trị, chính

sách dân số của vùng miền...

Nhóm 3: Các yếu tố văn hoá – xã hội như điều kiện giáo dục, y tế, giải

trí, tình trạng hôn nhân, gia đình, thay đổi nghề nghiệp, việc làm…

Nhóm 4: Các yếu tố về môi trường như khí hậu, địa hình, đất đai và

tài nguyên…

Những thuận lợi hay khó khăn của các yếu tố này ở các vùng sẽ tạo nên

“lực hút” hay “lực đẩy” của mỗi vùng mà có ảnh hưởng tới sự chuyển đến

hay ra đi của dân cư. Lực hút bao gồm những điều kiện thuận lợi cho việc

sinh sống, làm việc, học tập và phát triển ở nơi đến. Lực đẩy bao gồm những

trở ngại hay hạn chế cho việc sinh sống, làm việc, học tập và phát triển.

Bất kỳ một vùng lãnh thổ nào cũng đều có những thuận lợi hay khó khăn

nhất định. Nói cách khác, các yếu tố tác động đến hút và đẩy của một vùng

luôn tồn tại song song. Những lý thuyết nghiên cứu về lực hút và lực đẩy đã

đưa ra quy luật chung của di cư là dân cư sẽ di chuyển từ nơi có đời sống thấp

đến nơi có đời sống cao hơn, từ vùng có điều kiện tự nhiên kém thuận lợi đến

vùng có điều kiện thuận lợi hơn. Di cư ngày càng diễn ra mạnh mẽ theo sự tiến

bộ ngày càng cao của xã hội. Chính sự thay đổi về tiến bộ khoa học, kỹ thuật

dẫn đến sự hình thành các vùng trung tâm phát triển với các khu công nghiệp,

hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp… sẽ thu hút các dòng di dân đến.

Vùng nông thôn xa xôi thường là nơi ra đi của lực lượng lao động trẻ, vì

ở đó thường không có hoặc thiếu các cơ hội phát triển kinh tế, lối sống buồn

18

tẻ, ít có cơ hội phát triển. Ngược lại, các trung tâm công nghiệp, đô thị hay

thành phố lớn thường là những nơi có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trẻ

vùng nông thôn vì có nhiều cơ hội việc làm, học tập, tiện nghi sinh hoạt và

những triển vọng tương lai đầy tươi sáng. Từ đó hình thành và bùng phát

luồng di chuyển đặc trưng nông thôn – thành thị và dòng di chuyển này ngày

càng diễn ra mạnh mẽ ở các vùng đang phát triển.

Tại các đô thị, nguyên nhân khiến cho nhập cư gia tăng có thể bao gồm

hai nhóm chính cơ bản gồm:

Nguyên nhân kinh tế: hầu hết các nhà kinh tế học, các nhà xã hội học

đều nhất trí rằng hiện tượng nhập cư vào thành thị có thể được giải thích chủ

yếu bằng nguyên nhân kinh tế. Những nhân tố này bao gồm không chỉ bởi

những lực đẩy quen thuộc từ nơi xuất cư như thiếu đất canh tác, thiếu việc

làm, thu nhập thấp,… mà còn bởi những lực hút từ những nơi nhập cư như cơ

hội việc làm có tính ổn định, thu nhập cao hơn so với nơi ở cũ… Các nghiên

cứu đều cho thấy tiền lương, thu nhập, việc làm, mức độ thất nghiệp… đều

ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định di cư của người dân.

Nguyên nhân phi kinh tế: Vấn đề chất lượng cuộc sống, những người di

dân muốn có cuộc sống tốt hơn cho bản thân và cho gia đình thông qua cuộc

sống ở thành thị, nơi có thể gọi là “chốn phồn hoa đô hội”, các phương tiện giao

thông tấp nập, phương tiện thông tin đại chúng rộng khắp, cơ sở hạ tầng ở thành

thị được hiện đại hóa, nơi có hệ thống giáo dục, y tế, dịch vụ phát triển. Vấn đề

về phong tục tập quán và các nhân tố xã hội cũng tác động sâu sắc tới quá trình

di dân từ nông thôn ra thành thị, ví dụ như những người di dân muốn thoát khỏi

những ràng buộc truyền thống, những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu ở nông

thôn. Vấn đề đi học của con cái, đoàn tụ gia đình cũng là những lực hút của dòng

di dân từ nông thôn ra thành thị (Lưu Bích Ngọc, 2016).

Trong Luận án này, khái niệm về người di cư và hộ gia đình có người di cư

19

được căn cứ theo khái niệm mà Tổng cục Thống kê đã áp dụng cho các điều tra

quốc gia trong đó có Điều tra Mức sống dân cư. Cụ thể, “người di cư” ở đây là

“những người đã chuyển tới chung sống trong hộ gia đình từ 6 tháng trở lên

trong 12 tháng qua và những thành viên trong hộ đã rời khởi hộ gia đình để làm

kinh tế cho hộ, kể cả đi xuất khẩu lao động” (Câu hỏi 1 – Mục 1B). Căn cứ vào

định nghĩa này, trường hợp những “người xuất cư” là những thành viên trong hộ

đã rời khởi hộ gia đình để làm kinh tế cho hộ được lựa chọn nghiên cứu. “Hộ có

người xuất cư” là hộ gia đình trong Điều tra có ít nhất một người xuất cư trong 12 tháng qua như đã đề cập ở trên1.

1.2. Các lý thuyết về di cư và động lực di cư 1.2.1. Lý thuyết vĩ mô về di cư

Các lý thuyết vĩ mô về di cư quan tâm phân tích các luồng hay dòng di

cư và xu thế di cư trong một quốc gia. Khởi đầu các lý thuyết di cư vĩ mô tân

cổ điển giải thích di cư như là một phần của sự phát triển kinh tế. Di cư trong

nước xảy ra do sự khác biệt về cung và cầu lao động giữa các vùng địa kinh

tế, chủ yếu là giữa khu vực nông nghiệp ở nông thôn và các ngành công

nghiệp sản xuất ở các đô thị. Các mô hình cơ bản đã phát triển các lý thuyết

mô hình hai khu vực, giả định thị trường lao động cân bằng thì một lượng dư

thừa lao động trong ngành nông nghiệp truyền thống được hấp thụ bởi các

khu công nghiệp. Các khu công nghiệp phát triển thu hút người lao động từ

1 Khái niệm người di cư trong Bộ số liệu VHLSS được sử dụng trong luận án được căn cứ vào câu hỏi số 1 mục 1B “Trong hộ [Ông/Bà] có người giúp việc ăn chung, ở chung cùng hộ từ 6 tháng trở lên trong 12 tháng qua và có ai trong hộ đi xa nhà trên 6 tháng không?” Nếu câu trả lời là KHÔNG thì hộ đó không có người giúp việc và cũng không có người đi khỏi hộ, còn nếu câu trả lời là CÓ thì căn cứ vào câu hỏi số 4 mục 1B để xác định hộ có người giúp việc hay có người đi khỏi hộ. Nếu câu trả lời ở câu số 4 mục 1B là số 1 thì hộ đó có người giúp việc, còn nếu câu trả lời là số 2 thì hộ đó có người đi xa nhà để làm kinh tế. Từ thông tin câu số 1 và câu số 4 mục 1B xác định được hộ có người đi xa nhà để làm kinh tế cho hộ và được gọi là hộ có ít nhất

người xuất cư.

khu vực nông nghiệp. Lao động nông thôn bị thu hút bởi sự khác biệt tiền

20

lương, tiền lương ở khu vực thành thị luôn cao hơn ở khu vực nông thôn và

đây là động lực chủ yếu khiến người lao động ở nông thôn di chuyển đến các

khu vực đô thị (Lewis, 1954).

Todaro và Harris (Todaro, 1969; Harris & Todaro, 1970) tiếp tục nghiên

cứu mô hình này để giải thích cho vấn đề thất nghiệp đô thị ở nhiều nước kém

phát triển. Di cư không phải là hoàn toàn không có rủi ro, vì người di cư

không biết trước có thể tìm được việc làm tại nơi đến mới hay không. Di cư

từ nông thôn ra thành thị tiếp tục xảy ra nếu mức thu nhập thực tế ở thành thị

còn cao hơn ở khu vực nông thôn, thậm chí di cư còn gia tăng hơn nếu tiền

công trả cho người lao động tại các đô thị cao hơn vượt bậc so với tiền công

trả cho người lao động ở nông thôn. Một nhân tố khác cũng tác động mạnh

đến động lực di cư nông thôn – thành thị đó là cơ hội tìm được việc làm ở các

khu đô thị cao hơn nhiều so với tìm được việc ở khu vực nông thôn.

Lý thuyết thị trường lao động kép thường bỏ qua các quyết định ở cấp vi

mô như phân tích chi phí và lợi ích của một cá nhân di cư, thay vào đó, các

nhà nghiên cứu lý thuyết này tập trung phân tích nhập cư như một "hệ quả tự

nhiên của toàn cầu hóa kinh tế và thâm nhập thị trường qua các biên giới quốc

gia" (Massey và cộng sự, 1994:432). Lý thuyết này không nghiên cứu những

vấn đề liên quan tới các quyết định di chuyển cá nhân nhưng tập trung vào

nhóm người di cư. Lý thuyết thị trường lao động kép còn giải thích di cư như

là kết quả của yếu tố kéo tạm thời, nhu cầu lao động cụ thể có sự phân biệt rõ

ở các nước phát triển (Piore, 1979). Theo cách tiếp cận này, di cư chịu ảnh

hưởng mạnh bởi sự phát triển và mức lương cũng như tính chất công việc của

khu vực chính thức và khu vực phi chính thức.

1.2.2. Lý thuyết trung mô về di cư

Mô hình cấp trung mô cũng giải thích di cư của những thành viên hộ gia

đình từ nông thôn ra thành thị ở các nước kém phát triển, chẳng hạn mô hình

21

di cư của Mabogunje (1970), mô hình này được xem như là một mô hình hệ

thống, trong đó ông giải thích di cư là một quá trình không gian động. Dòng

di cư được mô hình hóa bằng cách bắt đầu với một nhóm người di cư tiềm

năng ở nông thôn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau trong các quyết định

di cư. Việc kiểm soát ở nông thôn chính là kiểm soát luồng đi (ví dụ như

thông qua gia đình hoặc cộng đồng làng, xã,…), kiểm soát ở đô thị chính là

kiểm soát luồng đến (ví dụ như thông qua các cơ quan tuyển dụng), thông tin

phản hồi sẽ được chuyển lại cho người di cư tiềm năng. Những thông tin này

cùng với môi trường nền (điều kiện kinh tế, chính sách, vận tải, truyền thông,

cơ sở hạ tầng…) sẽ ảnh hưởng đến luồng di cư.

1.2.3. Lý thuyết vi mô về di cư

Lý thuyết vi mô về di cư phân tích những yếu tố tác động đến quyết định

di chuyển của các cá nhân, đó là các nhân tố động lực di cư cá nhân. Lee

(1966) là người đầu tiên nghiên cứu di cư theo cách tiếp cận các yếu tố tác

động đến lực hút (nhập cư) và các yếu tố tác động đến lực đẩy (xuất cư) trên

mức độ cá nhân từ cả hai phía cung và cầu của di cư. Cách tiếp cận “vốn con

người” là lý thuyết di cư ở cấp vi mô tân cổ điển. Dựa trên nghiên cứu của

Sjaastad (1962) di cư được coi là một quyết định đầu tư cá nhân để tăng năng

suất của vốn con người. Cá nhân thực hiện việc tính toán chi phí-lợi ích, nếu

lợi nhuận kỳ vọng không được cải thiện thì di cư dự kiến sẽ giảm theo các

khoảng thời gian trong tương lai, họ chỉ di cư khi lợi nhuận kỳ vọng được cải

thiện. Các lý thuyết nhấn mạnh rằng di cư có thể dẫn đến việc nâng cao tay

nghề. Tuổi của người di cư rõ ràng đóng một yếu tố quan trọng, do đó lợi ích

kỳ vọng giảm khi tuổi của người di cư tăng lên. Mô hình này có thể dự báo

được người di cư còn trẻ và được đào tạo. Tuy nhiên, mô hình này bị chỉ trích

vì dựa trên các giả định lý thuyết (giả định không thực tế). Do đó Fischer và

cộng sự (1997) đã đề xuất một phương pháp cải tiến mô hình này trong

22

trường hợp không có rủi ro và giả định các thông tin bất đối xứng giảm.

Với mô hình giá trị kỳ vọng (hay giá trị mong đợi) của Crawford (1973),

ông cho rằng người di cư tin tưởng nơi mà họ đến có giá trị kỳ vọng cao hơn

nơi ở cũ (ví dụ như được hưởng lợi từ sự thịnh vượng sẵn có của nơi mà họ

đến, được tự quyết hay được tôn trọng). Giá trị và kỳ vọng phụ thuộc vào đặc

điểm cá nhân và hộ gia đình (ví dụ như trình độ học vấn) và chuẩn mực xã

hội. Những giá trị này không nhất thiết phải là kinh tế mà có khi là yếu tố phi

kinh tế (ví dụ như an ninh được đảm bảo). Mô hình này một lần nữa nó cho

thấy sự lựa chọn di cư là do chủ quan. Ngoài ra, còn có các mô hình cá nhân

ra quyết định tương tự dựa trên hành vi của người di cư, ví dụ: nghiên cứu của

Jong & Fawcett (1981) hay phương pháp tiếp cận tạo động lực của Ritchey

(1976). Các phương pháp tiếp cận hành vi di cư cũng xem xét đến yếu tố phi

kinh tế và ảnh hưởng xã hội nhưng nó không rõ ràng và ra quyết định vẫn chỉ

dựa trên giả định hợp lý.

1.2.4. Lý thuyết lao động di cư kinh tế mới (New Economics Labour

Migration - NELM)

Lý thuyết lao động di cư kinh tế mới tập trung nghiên cứu cá nhân đưa ra

quyết định di cư dựa trên đặc điểm của hộ gia đình. Nghiên cứu của Harbison

(1981) có tên "cấu trúc gia đình và chiến lược ra quyết định di cư" chỉ ra rằng gia

đình có thể ảnh hưởng đến quyết định di cư của cá nhân thông qua cơ cấu nhân

khẩu học. Sandell (1977) và Mincer (1978) lại xem di cư là một quyết định của

cả gia đình và cả gia đình di cư cùng nhau. Các gia đình di cư nếu lợi ích ròng

của họ là tích cực, thực chất là tổng hợp lợi ích từ di cư của các cá nhân. Bigsten

(1988) thì lại cho rằng các gia đình không nhất thiết mọi thành viên di cư cùng

nhau mà các gia đình nên phân bổ thành viên đến khu vực thành thị hoặc nông

thôn phụ thuộc vào tiền lương của các sản phẩm cận biên cộng lại.

Một số nghiên cứu tiếp cận theo lý thuyết lao động di cư kinh tế mới

23

(NELM) còn cho rằng di cư như là kết quả logic của một "chiến lược có tính

toán" được xác định ở cấp độ hộ gia đình của người di cư. Theo Stark

(1991:145) thì trong cuộc sống thực quyết định di cư còn bị ảnh hưởng bởi

việc xem xét thu nhập tuyệt đối và tương đối. Thu nhập tương đối có thể được

xem như là "tình trạng" xã hội, được đánh giá so với các nhóm tham khảo của

các hộ gia đình. Các nhóm tham khảo có thể là cộng đồng địa phương, làng,

thị trấn, v.v… Tình trạng này không chỉ có giá trị nội tại, nhưng nó cũng có

thể chuyển thành lợi ích tiền tệ, chẳng hạn như đối với các nước kém phát

triển thì người có tài sản thế chấp là đất ở khu vực thành thị được vay tiền

nhiều hơn người ở nông thôn.

Quyết định di cư được thực hiện phối hợp của người di cư và gia đình

của họ do đó phân tích di cư như một quyết định trong gia đình chứ không

phải là một quyết định cá nhân. Họ chia sẻ chi phí di cư và lợi nhuận nhận

được từ một thành viên di cư thì cả gia đình cùng hưởng (Stark và Blomm,

1985). McDebitt và Gadalla (1984) cũng khẳng định rằng quyết định di cư có

liên quan đến các đặc tính hôn nhân của người di cư (có vợ/chồng hay không

có). Quyết định di cư của các hộ gia đình có liên quan đến việc phân bổ lao động

hiện tại của một quốc gia, việc biến động lao động giữa các địa phương cũng ảnh

hưởng đến sản xuất dài hạn của một quốc gia (Taylor et al., 2003). Di cư ở cấp

độ hộ gia đình nhằm mục đích đa dạng hóa thu nhập để giảm thiểu những rủi ro

như thất nghiệp, mất thu nhập hoặc mất mùa, và loại bỏ những hạn chế mà có

thể gây ra thất bại thị trường trong nước (Arango, 2000). Stark khẳng định rằng

quyết định di cư có thể được hiểu như là xuất phát từ sở thích của gia đình đối

với mức thu nhập ổn định, đạt được thông qua một danh mục đầu tư đa dạng của

người lao động, và sự cần thiết phải phối hợp đảm bảo an sinh của gia đình.

Demir & Shearer (2003) nhấn mạnh rằng để giảm thiểu rủi ro khi xin việc, các

gia đình lựa chọn đào tạo cho mỗi thành viên trong gia đình một ngành nghề

khác nhau để đảm bảo rằng thành viên này khó xin việc thì có thành viên

24

khác.

1.2.5. Thảo luận về động lực di cư

Còn đang có những tranh luận về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định

di cư và các yếu tố cấu thành động lực di cư. Có ý kiến cho rằng động lực di

cư là yếu tố sâu xa, bên trong mỗi con người. Vì vậy để thấy rõ động lực di cư

thì cần có điều tra sâu để phát hiện nội hàm khái niệm “động lực di cư”. Tuy

nhiên cũng có ý kiến cho rằng các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định di cư hay

các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi di cư chính là động lực di cư.

Theo kết quả Điều tra di cư nội địa năm 2015 của Tổng cục thống kê thì

các vấn đề kinh tế vẫn là lý do hàng đầu dẫn đến quyết định di cư. Kết quả

điều tra cho thấy, có gần 30% người di cư được hỏi cho biết họ di chuyển là

do “tìm được việc làm ở nơi mới”; 11,5% di cư để có “điều kiện làm việc tốt

hơn”; 11,9% di cư để “thuận tiện cho công việc”; 12,6% di cư để “cải thiện

đời sống”. Vậy các yếu tố “tìm được việc làm ở nơi mới”, “điều kiện làm việc

tốt hơn”, “thuận tiện cho công việc”, “cải thiện đời sống”,… được gọi là “một

số yếu tố ảnh hưởng đến quyết định di cư”. Tuy nhiên các yếu tố này có được

coi là “động lực di cư” hay không thì cần bàn luận thêm.

Sau khi nghiên cứu tổng quan các lý thuyết về di cư và một số mô hình

phân tích di cư, tác giả rút ra được kết quả là có hai nhóm mô hình phân tích

di cư. Nhóm mô hình thứ nhất là phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến di cư với

biến phụ thuộc là số người di cư hoặc tỷ lệ người di cư, nhóm mô hình thứ hai

là phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định di cư cá nhân hay hành vi di

cư cá nhân.

Hình 1.1: Sơ đồ phân tích di cư bao hàm phân tích quyết định di cư dưới

đây cho biết mô hình phân tích quyết định di cư cá nhân là một bộ phận của

mô hình phân tích di cư. Nếu mô hình phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến di

cư có thể là phân tích các nhân tố tác động tới luồng di cư hay dòng di cư

(chẳng hạn, phân tích các nhân tố tác động tới số người di cư từ các tỉnh miền

25

Bắc vào các tỉnh miền Nam, từ nông thôn ra thành thị,…), còn mô hình phân

tích các nhân tố tác động tới quyết định di cư là phân tích các nhân tố tác

động đến việc lựa chọn có di cư hay không di cư của mỗi cá nhân ở cấp độ

mỗi người đơn lẻ hoặc của mỗi cá nhân trong một hộ gia đình.

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DI CƯ

CÁC YẾU TỐ CẤP ĐỘ CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH, ĐỊA BÀN CƯ TRÚ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH DI CƯ

Nguồn: Tác giả tự xây dựng

Hình 1.1: Sơ đồ phân tích di cư bao hàm phân tích quyết định di cư

1.3. Tổng quan các nghiên cứu về di cư và mô hình phân tích các

nhân tố tác động đến quyết định di cư

1.3.1. Mô hình phân tích xu thế di cư

Lowry (1966) đã áp dụng hệ thức Newton (1687) về định luật vạn vật

hấp dẫn và Lowry cho rằng số người di chuyển từ vùng i đến vùng j tỉ lệ

thuận với dân số ở 2 vùng đó và tỉ lệ nghịch với khoảng cách giữa 2 vùng đó.

(cid:7) (cid:6)(cid:2)

Lowry đưa ra hệ thức sau:

(cid:8) (cid:6)(cid:3) (cid:10) (cid:9)(cid:2)(cid:3)

(cid:1)(cid:2)(cid:3) = (cid:5)

Trong đó: Mij là số người di cư từ vùng i đến vùng j; Pi, Pj là dân số vùng

i và vùng j; là khoảng cách từ vùng i đến vùng j; g, α, β, γ là các tham số (cid:9)(cid:2)(cid:3)

26

cần ước lượng

(cid:8)(cid:18)

(cid:8)(cid:14)

(cid:8)(cid:15)

Etzo (2007) đã kế thừa Lowry, đưa ra hệ thức sau

(cid:8)(cid:13) (cid:6)(cid:2)

(cid:8)(cid:19)

(cid:17)(cid:3) (cid:1)(cid:2)(cid:3) = (cid:12) (cid:17)(cid:2) (cid:6)(cid:3) (cid:8)(cid:16) (cid:9)(cid:2)(cid:3)

Trong đó Xi là các biến ngoại sinh được lựa chọn mà chúng tác động đến

yếu tố đẩy (xuất cư), Xj là các biến ngoại sinh được lựa chọn mà chúng tác động

đến yếu tố hút (nhập cư),

Các tham số β0, β1, β2, β3, β4, β5 cần ước lượng,

Fan (2005) đã áp dụng mô hình trọng lực để phân tích các yếu tố ảnh

(cid:21)(cid:14)

(cid:21)(cid:15)

(cid:21)(cid:13) (cid:6)(cid:2)

hưởng đến di cư liên vùng ở Trung Quốc giai đoạn 1985-2000, có dạng:

(cid:1)(cid:2)(cid:3) = (cid:20) (cid:6)(cid:3) (cid:21)(cid:18) (cid:22)(cid:2)(cid:3)

↔ ln(cid:26)(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:27) = (cid:28)(cid:29) + (cid:28)(cid:31)ln ((cid:6)(cid:2)) + (cid:28)"ln ((cid:6)(cid:3)) + (cid:28)#ln ((cid:22)(cid:2)(cid:3)) ($)

Trong đó: Mij là số người di cư từ tỉnh i đến tỉnh j , Pi, Pj lần lượt là dân

số tỉnh i, và tỉnh j, dij là khoảng cách đường sắt từ tỉnh i đến tỉnh j, ai (i =

0,1,2,3) là các tham số cần ước lượng. Các tham số a0, a1, a2 được kỳ vọng

mang dấu dương, còn a3 được kỳ vọng mang dấu âm. Tiếp theo, tác giả nhận

thấy biến GDP bình quân đầu người của các tỉnh tác động mạnh đến di cư nên

ln(cid:26)(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:27) = (cid:28)(cid:29) + (cid:28)(cid:31) ln((cid:6)(cid:2)) + (cid:28)" ln(cid:26)(cid:6)(cid:3)(cid:27) + (cid:28)# ln(cid:26)(cid:22)(cid:2)(cid:3)(cid:27) + (cid:28)% ln(&(cid:2)) + (cid:28)' ln(cid:26)&(cid:3)(cid:27) (() Trong đó: Gi, Gj lần lượt là GDP bình quân đầu người tỉnh i và j, tham số

đã thêm biến này vào mô hình (A) và ước lượng mô hình sau:

a4 được kỳ vọng mang dấu âm còn a5 được kỳ vọng mang dấu dương. Kết quả

ước lượng cho thấy di cư liên tỉnh gần như tăng lên gấp ba lần sau 15 năm,

biến khoảng cách tác động yếu dần theo thời gian trong khi chênh lệch về

GDP bình quân đầu người giữa các tỉnh tác động rất mạnh đến di cư.

27

Lợi thế của mô hình này là phân tích các nhân tố dân số (như mật độ dân

số), khoảng cách di cư (khoảng cách giữa hai địa phương nơi đi và nơi đến),

thu nhập bình quân đầu người ở địa phương nơi đi và nơi đến ảnh hưởng đến

số người di cư từ địa phương i đến địa phương j, nên khả năng áp dụng mô

hình này để phân tích khá phù hợp với nhiều quốc gia trên thế giới. Hầu hết

các quốc gia đều có sẵn số liệu của các nhân tố trong mô hình này, các nhân

tố trong mô hình tác động đến di cư đều là các nhân tố tác động trực tiếp đến

di cư và có thể nhận thấy ngay nó phù hợp trong thực tế.

Tuy nhiên qua tổng quan và tìm hiểu các bộ số liệu quốc gia về di cư thì

mô hình này không áp dụng được để phân tích di cư ở Việt Nam vì những lý

do sau đây:

(+) Cho đến nay Việt Nam vẫn quản lý nhân khẩu thông qua hộ khẩu

nên khái niệm di cư thông qua chuyển đăng ký hộ khẩu có độ tin cậy chưa

cao vì thực tế đã có người di cư nhưng không thực hiện các khai báo và

không đăng ký hộ khẩu.

(+) Nghiên cứu này cho thấy khoảng cách từ tỉnh i đến tỉnh j có tác động

đến số người từ tỉnh i di cư đến tỉnh j. Tuy nhiên khoảng cách từ tỉnh i đến

tỉnh j có ảnh hưởng đến quyết định di cư cá nhân hay không thì mô hình này

chưa có câu trả lời.

(+) Do phát triển kinh tế có tính đặc thù của địa phương nên chiều di cư

cũng có thể được xác định từ những tỉnh thuần nông, lực lượng lao động dồi

dào do mức sinh cao trong quá khứ, diện tích đất canh tác bình quân đầu

người giảm mạnh, lao động thiếu việc làm trầm trọng (như Thái Bình, Nam

Định, Ninh Bình, Thanh Hóa,…) đến các khu công nghiệp, đô thị và thành

phó lớn.

Puhani (1999) trong bài viết về di chuyển lao động – hiệu chỉnh cơ cấu lao động trong liên minh Châu Âu, tác giả đã chỉ định mô hình sau để

28

phân tích và kiểm chứng thực nghiệm xu thế di cư với 3 nước là Tây Đức,

Pháp, Italy:

(cid:7)(cid:14) 0(cid:2)+.(cid:31) (cid:7)(cid:14) 01+.(cid:31)

(cid:7)(cid:15) 2(cid:2)+.(cid:31) (cid:7)(cid:15) 3 21+.(cid:31)

= $(cid:2)+ / )*(cid:5)(cid:2)+ + ,-,(cid:2)+.(cid:31) ,-,(cid:2)+.(cid:31)

Hay

(cid:7)(cid:14) 0(cid:2)+.(cid:31) (cid:7)(cid:14) 3 + 8"45 / 01+.(cid:31)

(cid:7)(cid:15) 2(cid:2)+.(cid:31) (cid:7)(cid:15) 3 + 9(cid:2) + :+ + ;(cid:2)+ 21+.(cid:31)

45 6 7 = 8(cid:29) + 8(cid:31)45 /

)*(cid:5)(cid:2)+ + ,-,(cid:2)+.(cid:31) ,-,(cid:2)+.(cid:31) Trong đó:

45($(cid:2)+) = 9(cid:2) + :+ + ;(cid:2)+

mig: (net migration) di dân thuần tuý – dân số tăng lên trong năm do di

cư; pop: (population) dân số;

u: (unemployment rate) tỷ lệ thất nghiệp; y: (income/GDP) thu nhập. Các

chỉ số i, n, t tương ứng là vùng trong một quốc gia, quốc gia đó và năm. Mục

tiêu của nghiên cứu này là đánh giá, phân tích các nhân tố thất nghiệp và thu

nhập ảnh hưởng tới di chuyển lao động của các quốc gia Tây Đức, Pháp, Italy

để từ đó đề xuất chính sách hiệu chỉnh cơ cấu lao động của các quốc gia này

cho phù hợp. Từ kết quả ước lượng tác giả thu được kết quả là: tỷ lệ thất

nghiệp năm trước ở Tây Đức ảnh hưởng tới di cư năm sau là cao nhất

(29,6%), tiếp theo là đến Pháp (8,4%) và cuối cùng là Italy (3,7%).

Mô hình này rất phù hợp cho phân tích di cư, vì đây là mô hình động với

số liệu mảng. Hiện tượng di cư là một quá trình động và quan hệ nhân quả thể

hiện khá rõ trong phân tích di cư, cụ thể là phân tích nhân quả, “thất nghiệp”

và “thu nhập thấp” là nhân tố “đẩy” hay nguyên nhân để người ta đi nơi khác

còn “có việc làm” và “thu nhập cao” là nhân tố “kéo” hay nguyên nhân kéo

người ta đến hay giữ người ta ở lại nơi ở mới. Chẳng hạn năm trước, một cá

nhân bị thất nghiệp thì đó là nguyên nhân để năm sau cá nhân đó di cư để tìm

29

việc, suy rộng ra trong phạm vi một tỉnh mà năm trước có tỷ lệ thất nghiệp

cao so với cả nước thì đó là nguyên nhân để năm sau người dân tỉnh này xuất

cư đến tỉnh khác để tìm việc.

Mặc dù mô hình này rất phù hợp cho phân tích luồng di cư, tuy nhiên nó

lại không thể áp dụng vào phân tích di cư ở Việt Nam cũng vì ở Việt Nam

không có số liệu về thất nghiệp cấp tỉnh. Một hạn chế khác khi áp dụng mô

hình động với số liệu mảng là số liệu dọc theo thời gian cần khá dài (khoảng

trên 10 năm như số liệu phân tích với mô hình của nhóm tác giả này). Tại thời

điểm hiện tại, đây là một hạn chế căn bản ở Việt Nam.

Bentivogli và Pagano (1999) khi nghiên cứu di chuyển lao động và sự khác biệt vùng trên thế giới, các tác giả đã chọn mô hình sau để phân tích di

chuyển lao động của Mỹ và Châu Âu:

" = >(cid:29) + >(cid:31)45(0(cid:2)+) + >"45(?(cid:2)+) + >#45(cid:26)@(cid:2)+

6 (cid:27) + >%A(cid:2)+ + B(cid:2)+ 7 (cid:2)+ <(cid:1) (cid:6)=(cid:6) Trong đó: i là chỉ số các vùng (51 với Mỹ, 44 với Euro - 11); t là chỉ số

các năm; (NM/Pop): số di cư thuần tuý hàng năm tính trên 1000 người dân của

địa phương trong năm (đơn vị ‰);

u là tỷ lệ thất nghiệp; w là tiền lương (được xác định bởi GDP đầu người); σ2 là đại diện những yếu tố không quan sát được nhưng có ảnh hưởng

đến biến phụ thuộc (chẳng hạn sự biến động của GDP đầu người theo thời

gian, chúng ta sẽ lấy chuỗi trung bình trượt 3 năm liên tếp của GDP đầu

người để thay thế); C là vectơ các biến điều khiển (control variables). Kết quả

ước lượng mô hình các tác giả đã nhận được một số kết quả sau:

+) Sự khác biệt vùng có ảnh hưởng (tương đối nhạy) tới mức độ di chuyển;

+) Mức chênh lệch về thu nhập ảnh hưởng tới di trú ở Mỹ cao hơn Châu

Âu cả trong ngắn hạn và dài hạn;

+) Thất nghiệp và di cư thực ở các vùng của Mỹ có quan hệ ngược chiều

30

nhau, còn ở các vùng của Châu Âu thì thất nghiệp không ảnh hưởng đến mức

độ di cư.

1.3.2. Mô hình phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di cư

Mô hình phân tích động lực di cư có thể hiểu là mô hình phân tích các

nhân tố có tác động tới quyết định có di cư của người dân. Mô hình phân tích

động lực di cư đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu,

Ruyssen và cộng sự (2012) nghiên cứu động lực di cư của 19 nước OECD từ

năm 1998 đến năm 2007 cho thấy động lực chủ yếu của di cư là cơ hội thu

nhập tốt hơn và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn ở nơi mà người di cư đến.

Cơ hội việc làm và phúc lợi cũng là các nhân tố làm gia tăng động lực di cư.

Lý thuyết về các quyết định di cư có thể được tìm thấy trong Greenwood

(1997), Borjas (1999), Chiswick (1999) và Bauer & Zimmermann (1999).

Theo một số lý thuyết, dòng di cư phần lớn là do sự khác biệt về mức sống

chênh lệch giữa các khu vực (Harris và Todaro, 1970). Do đó, sự khác biệt về

thu nhập, tỷ lệ thất nghiệp, chi phí sinh hoạt, hàng hóa công cộng và chuyển

giao công nghệ cũng là yếu tố quan trọng tác động đến quyết định di cư.

Quyết định di chuyển bị ảnh hưởng bởi các chi phí, bao gồm cả những chi phí

hữu hình như chi phí đi lại, mất thu nhập ở nơi cũ… lẫn các chi phí vô hình

như: tâm lý phát sinh từ việc tách khỏi gia đình và bạn bè. Khả năng di cư sẽ

giảm theo tuổi tác. Những người có trình độ học vấn, bằng cấp cao có khả

năng di cư cao hơn, bởi vì người có trình độ cao sẽ giảm rủi ro khi di cư vì có

khả năng sẽ tìm được việc và có thu thập cao, đồng thời những người có trình

độ cao xử lý thông tin tốt hơn để tránh rủi ro ở nơi đến. Khoảng cách giữa nơi

đi và nơi đến, còn gọi là độ dài di cư cũng ảnh hưởng tới quyết định di cư.

Hoàn cảnh sống của gia đình cũng đóng một vai trò quan trọng đối với quyết

định di cư (Mincer, 1978). Nhìn chung, người di cư có thể lựa chọn di cư

hoặc không di cư còn tùy thuộc vào các đặc trưng cá nhân của họ (Borjas,

1987; Chiswick, 1999). Trên thế giới, một số nghiên cứu khẳng định rằng

31

quyết định di cư có liên quan chặt chẽ đến việc đã từng di cư và chưa từng di

cư, Gordon và Molho (1995) cho thấy khoảng 90% số người Anh được hỏi đã

bày tỏ ý định di chuyển thì họ đã từng di chuyển trong vòng 5 năm trước đó,

Boheim & Taylor (2002) sử dụng dữ liệu mảng nghiên cứu di cư ở Anh cho

thấy với những người đã từng di cư thì khả năng di cư tiếp cao hơn gấp ba lần

người chưa từng di cư, Dustmann (2003) phân tích dữ liệu mảng cho nghiên

cứu di cư quay về ở Đức cho thấy trong thời gian 1984-1997, có 84% người

di cư trước năm 1984 có ý định di cư trở lại.

Một số các mô hình thực nghiệm phân tích các nhân tố tác động đến di cư

đã được phát triển cho cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Với

các nước đang phát triển, điển hình như mô hình phân tích mối quan hệ giữa di

cư với trạng thái việc làm ở khu vực chính thức hay phi chính thức của

(cid:10)LM(cid:7)IL

K FIJ

K (cid:8)LMHIJ

(cid:6)(C = D|F(cid:2)+, H(cid:2)+, 8(cid:2)(cid:31), 8(cid:2)", 8(cid:2)#) =

D = 1,2,3

K (cid:8)OMHIJ FIJ

(cid:20) # ∑ PQ(cid:31)

(cid:20)

K (cid:10)OM(cid:7)IO (j = 1) = formal, (j = 2) = informal, (j = 3) = not working

Xiaodong Gong và cộng sự (2000) cho thị trường lao động của Mexico, có dạng:

Trong đó biến phụ thuộc Y thể hiện trạng thái việc làm ở khu vực chính

thức hay phi chính thức của người lao động, (Y = 1) cho biết người lao động

làm việc trong khu vực chính thức; (Y = 2) cho biết người lao động làm việc

trong khu vực phi chính thức; (Y = 3) cho biết người lao động chưa tìm được

được việc làm; X là vec-tơ của các biến giải thích bao gồm tuổi của người lao

động, bậc đào tạo của người lao động (biến giả), tình trạng hôn nhân, số năm

kinh nghiệm,… Z là vector của các biến giả chỉ ra tình trạng thị trường lao

động có độ trễ, và các tương tác của các biến giả với các biến X.

Kết quả thu được từ mô hình phân tích này phù hợp với lý thuyết cho

rằng việc làm ở khu vực chính thức được coi trọng hơn việc làm ở khu vực

phi chính thức. Những người làm việc trong khu vực phi chính thức chỉ là

trạng thái tạm thời, khu vực phi chính thức dành cho những người không thể

32

tìm được việc làm ở khu vực chính thức hoặc chưa đủ khả năng để làm việc

trong khu vực chính thức.

Boheim & Taylor (2000) trong bài di chuyển nơi cư trú và sở hữu nhà ở

trong thị trường lao động ở Anh đã chỉ định mô hình dưới đây để phân tích

FIUL

D = 1,2,3

(cid:20)FIUV

(cid:20) W 1 + ∑ XQ(cid:31)

(cid:6)(C(cid:2) = D) =

(cid:6)(C(cid:2) = 0) =

1 + ∑

(cid:20)FIUV

1 W XQ(cid:31)

cấp độ di cư theo địa bàn:

Với (j = 0) ≡ không di cư, (j = 1) ≡ di cư trong tỉnh, (j = 2) ≡ di cư giữa

các tỉnh trong vùng, (j = 3) ≡ di cư giữa các vùng, X là véc tơ các biến độc lập

(như đặc điểm cá nhân, hộ gia đình, địa bàn nông thôn – thành thị…).

Kết quả chính của các tác giả cho thấy những người thất nghiệp có

nhiều khả năng để di chuyển hơn so với người đã có việc. Điều này củng cố

giả thuyết kinh tế cổ điển cho rằng cá nhân di chuyển để thoát khỏi tình trạng

thất nghiệp, kết quả còn cho thấy những người thất nghiệp không phải nằm

chờ để được gọi đi làm mà họ chủ động di chuyển để tìm việc làm. Một mong

muốn di chuyển có động lực bởi lý do việc làm có tác động tích cực lớn nhất

là khả năng di chuyển giữa các vùng.

Đây là mô hình logit đa trạng thái được dùng để phân tích các nhân tố

đặc điểm cá nhân, hộ gia đình, địa bàn cư trú,… tác động tới khả năng di cư

“xa hay gần” nơi xuất phát của người di cư. Tính chất đặc biệt của mô hình

này là biến phụ thuộc lại là biến quyết định di cư xa hay gần nơi xuất phát, do

vậy mô hình này cũng chưa cho biết khoảng cách có tác động tới quyết định

di cư hay không di cư của một cá nhân hay không.

John P., Haisken D., & Maren M. (2011) trong bài vai trò của kinh

33

nghiệm làm việc trong sự khác biệt tiền lương giữa người lao động nông thôn

– thành thị ở Mexico, các tác giả đã chỉ định các mô hình sau để phân tích:

P(wi = 1) = Φ(γZi) (1)

Trong đó: (wi = 1) = có làm việc, (wi = 0) = không làm việc

Z là véc tơ các biến độc lập, như: đặc điểm cá nhân, đặc trưng hộ gia

đình…

Sau đó tính được tỷ số Mill’s:

Z =

1 − \(?) ](?) Trong đó F(w) và f(w) lần lượt là hàm phân bố và hàm mật độ của biến

ngẫu nhiên w.

Sau đó ước lượng mô hình:

Ln(wagei) = αi + βXi + γλ + εi (2)

X là kinh nghiệm làm việc của người lao động (như số năm làm việc).

Để lý giải sự khác biệt tiền lương giữa người nông thôn – thành thị các

tác giả dùng phân tách Blinder – Oaxaca:

ln(?(cid:28)(cid:5)(cid:20))^ − ln(?(cid:28)(cid:5)(cid:20))_ = >∗a b(cid:17)^ − (cid:17)_c + (cid:26)>^a − >∗a(cid:27)(cid:17)^ + (cid:26)>∗a − >_a (cid:27)(cid:17)_

Kết quả chính được tìm thấy gồm có:

Phân tách Blinder – Oaxaca cho thấy sự khác biệt về tiền lương nông

thôn – thành thị trong khu vực chính thức và phi chính thức được xác định bởi

sự khác biệt về vốn con người (quan sát được). Trong lĩnh vực phi chính thức,

sự khác biệt tiền lương chủ yếu là do sự khác biệt về kinh nghiệm làm việc.

Các phát hiện còn cho thấy di cư nông thôn ra thành thị vẫn tiếp tục, đặc biệt

di cư khu vực phi chính thức tiếp tục tăng.

Để phân tích lợi ích về thu nhập của hộ gia đình có người di cư thì mô

34

hình phân rã Blinder – Oaxaca là một trong những mô hình được áp dụng.

Fan & Stark (2010) đã phát triển một mô hình lý thuyết về di cư lao

động. Khác với các lý thuyết về di cư trước đó cho rằng sự khác biệt giữa tiền

lương, tiền công giữa nơi đi và nơi đến khiến cho người ta quyết định di cư vì

mong muốn có mức lương cao hơn ở nơi đến. Hai tác giả cũng chỉ ra rằng

những mong muốn có được các phần thưởng bằng tiền hay tài sản không phải

là động lực duy nhất để di cư, mà các khía cạnh phi tiền tệ hay phi tài sản của

di cư cũng cần được quan tâm nghiên cứu như là một động lực thúc đẩy việc

di cư. Chẳng hạn, nghề nghiệp liên quan đến uy tín xã hội hoặc kỳ thị xã hội,

và việc lựa chọn nghề nghiệp cũng bị điều chỉnh bởi “màu sắc xã hội” của

nghề nghiệp đó. Ngành nghề có liên quan đến địa vị xã hội, giữa các ngành

nghề có sự khác nhau đáng kể về địa vị xã hội. Mô hình của Fan & Stark cho

thấy di cư làm tăng số lượng các cá nhân lựa chọn làm những công việc thấp

hèn, và do đó làm giảm giá cả của các loại hàng hóa được sản xuất trong lĩnh

vực này liên quan đến địa vị xã hội thấp kém. Theo các ông, ngày càng có

nhiều di cư làm giảm “tình trạng bẽ mặt” của việc chấp nhận các công việc

thấp hèn, thì cũng có ngày càng nhiều các cá nhân sẽ lựa chọn những công

việc đó, giá cả của hàng hóa sản xuất trong lĩnh vực tương ứng cũng sẽ ngày

càng thấp hơn. Một hàm ý có thể kiểm chứng được có liên quan và thú vị là di

cư quốc tế làm giảm “làm cân bằng sự khác biệt tiền lương” đối với các công

việc thấp hèn, những công việc làm giảm giá trị. Các tác giả cũng đã thực

hiện một phân tích về phúc lợi, so sánh mức phúc lợi trong một nền kinh tế

mở với mức phúc lợi trong một nền kinh tế đóng và phát hiện ra rằng chi phí

tâm lý cho cá nhân thực hiện các công việc thấp hèn càng lớn thì nhiều khả

năng cá nhân sẽ nhận được một sự tăng phúc lợi khi nền kinh tế mở ra. Cuối

cùng, các tác giả đã mở rộng mô hình bằng cách đề cập đến các trường hợp di

cư như là một sự đáp lại đối với danh dự nghề nghiệp. Phần mở rộng này giúp

giải thích hiện tượng di cư của những người lao động có kỹ năng từ nước giàu

35

đến các nước nghèo. Mô hình này đưa ra một số gợi ý về chính sách thú vị.

Chẳng hạn, nó cho thấy việc làm của người di cư trong những hoạt động thấp

hèn có thể không phải là do sự phân biệt đối xử của xã hội nơi đến mà hơn hết

là sự lựa chọn của cá nhân về những điểm đến xa nhà cũng như là những khu

vực cho các hoạt động của họ.

Zhang & Song (2003) đã tiến hành một nghiên cứu về di cư từ khu vực

nông thôn đến thành thị ở Trung Quốc trong giai đoạn 1978-1999. Nghiên

cứu này sử dụng các số liệu chéo với mô hình hồi quy tuyến tính được phát

triển, trong đó lượng nhập cư thuần vào thành thị là biến phụ thuộc và các

biến độc lập bao gồm sự khác biệt về thu nhập giữa khu vực thành thị và nông

thôn, tốc độ tăng trưởng GDP, vốn đất đai và sự di chuyển của lao động từ

nông nghiệp sang lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp. Kết quả thực nghiệm

cho thấy rằng các biến độc lập này có thể giải thích được 32% các thay đổi

trong tỷ lệ nhập cư vào các đô thị ở Trung Quốc trong khoảng thời gian được

xem xét. Hơn nữa, Zhang & Song (2003) nhận định rằng tốc độ tăng trưởng

GDP có tác động đáng kể tới tỷ lệ nhập cư.

Wang & cộng sự (2004) đã tiến hành một nghiên cứu về nhập cư ở

Trung Quốc trong những năm 2000. Nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi

quy với tỷ lệ nhập cư là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm chênh

lệch về thu nhập giữa địa điểm ban đầu và địa điểm chuyển đến, chênh lệch

về chi phí sinh hoạt giữa địa điểm ban đầu và địa điểm chuyển đến, tỷ lệ thất

nghiệp ở khu vực thành thị và khoảng cách di cư. Kết quả thực nghiệm cho

thấy các biến độc lập này có thể giải thích được 19% các thay đổi trong tỷ lệ

nhập cư. Hơn nữa, sự chênh lệch về thu nhập và khoảng cách di cư là hai biến

có tác động đáng kể tới tỷ lệ nhập cư tới các khu vực đô thị ở Trung Quốc

trong giai đoạn này.

Syafitri (2012) khi nghiên cứu các nhân tố tác động tới quyết định có di

36

cư hay không di cư của người lao động ở tỉnh Đông Java, Indonesia dựa trên

lý thuyết lao động di cư kinh tế mới (New Economics of Labour Migration -

NELM), nghiên cứu phân tích động lực di cư nông thôn - thành thị, di cư ra

nước ngoài và không di cư. Tác giả xác định các yếu tố tác động đến quyết

định di cư hay không di cư là rất cần thiết cho việc thiết kế các chính sách và

chương trình nhằm thúc đẩy phát triển nông thôn. Số liệu sơ cấp được điều tra

ở 12 làng của Huyện Wagir và số liệu thứ cấp được cung cấp bởi Cục thống

kê trung ương với 7.677 làng, tác giả sử dụng mô hình Probit với biến phụ

thuộc là biến nhị phân (=1 nếu có di cư, =0 nếu không di cư). Các biến độc

lập tác giả lựa chọn cho mô hình là: số năm đến trường học (=1 nếu lớn hơn

hoặc bằng 6 năm, bằng 0 nếu ngược lại), tình trạng hôn nhân của người di cư,

tuổi, số trẻ em trong hộ gia đình, giá trị bằng tiền Indonesia của căn nhà,

quyền sở hữu đất, có là thành viên của tổ chức cộng đồng địa phương (cấp

làng) hay không, có nhận trợ cấp trực tiếp từ Chính phủ hay không, có tiếp

cận tín dụng từ Ngân hàng, Chính phủ, họ hàng người thân, hàng xóm hay

không. Tác giả phân tích 3 mô hình: i/ mô hình di cư ra nước ngoài; ii/ mô

hình di cư từ nông thôn ra thành thị; và iii/ mô hình không di cư. Các kết quả

chứng minh rằng yếu tố thể chế, tiếp cận thị trường, tiếp cận với các khoản tín

dụng, các khoản trợ cấp của Chính phủ, bảo hiểm y tế và cơ sở hạ tầng, đặc

biệt là nguồn nước, có tác động tích cực đến quyết định hộ gia đình nông thôn

không di cư. Trong khi đó, đất phi nông nghiệp, số cơ sở giáo dục, tỷ lệ các

hộ nông dân trong làng và tỷ lệ dân số sống trong nghèo đói có tác động tích

cực đến di cư quốc tế. Phụ nữ làm việc ở nước ngoài được giúp đỡ để nâng

cao địa vị xã hội và đồng thời họ có vai trò quan trọng giúp thu nhập của hộ

gia đình tăng lên, cho dù họ là độc thân hay đã kết hôn, nguyên nhân khiến họ

di cư tìm việc làm. Kết quả cũng cho thấy rằng chính quyền địa phương có

thể đóng góp đáng kể vào việc giảm di cư bằng cách hỗ trợ việc gia nhập thị

trường và tiếp cận tín dụng, kích thích đầu tư để nâng cao năng suất nông

37

nghiệp và thu nhập của các hộ gia đình nông thôn.

Mô hình của Syafitri nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định

di cư cá nhân bằng mô hình Probit. Tác giả nghiên cứu khá kỹ với ba mô

hình: di cư từ trong nước ra nước ngoài, di cư từ nông thôn ra thành thị,

không di cư. Ưu điểm của các mô hình cho biết nhân tố nào tác động tới

quyết định di cư ra nước ngoài, nhân tố nào tác động tới di cư nông thôn ra

thành thị và nhân tố nào tác động tới quyết định không di cư, kết quả nghiên

cứu giúp cho các nhà quản lý có những gợi ý làm cơ sở cho việc hiệu chỉnh

cơ cấu lao động thông qua di cư. Một ưu điểm khác để có thể vận dụng các

mô hình này vào việc phân tích di cư ở Việt Nam là do Indonesia và Việt

Nam là hai nước thành viên trong khối các nước ASEAN nên có nhiều điểm

tương đồng trong phân tích di cư, các biến độc lập trong mô hình cũng khá

tương đồng với các biến số có thể thu thập được ở Việt Nam như tình trạng

hôn nhân của người di cư, tuổi của người di cư, số trẻ em trong hộ gia đình,

giá trị bằng tiền Indonesia của căn nhà, quyền sở hữu đất, có là thành viên của

tổ chức cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, hạn chế khi vận dụng các mô hình

trên vào phân tích di cư ở Việt Nam vẫn là nguồn số liệu ở quy mô quốc gia

về di cư. Bộ số liệu Điều tra quốc gia về Di cư ở Việt Nam năm 2015 do

Tổng cục thống kê chủ trì hiện vẫn chưa được cho phép sử dụng. Hy vọng

rằng thời gian tới sẽ có những phân tích tốt hơn khi Bộ số liệu Điều tra quốc

gia về Di cư ở Việt Nam năm 2015 được cho phép sử dụng.

Mahinchai (2010) đã nghiên cứu các đặc điểm hộ gia đình và cá nhân có

tác động đến quyết định di cư hay không ở tỉnh Nam Rong, Thái Lan bằng

mô hình logit đa trạng thái, kết quả cho thấy các đặc điểm này có ảnh hưởng

đáng kể đến quyết định di cư, phát hiện này cũng chỉ ra rằng các nhà hoạch

định chính sách cũng nên xem xét đến sự lựa chọn điểm đến khác nhau của

người di cư.

38

Mendola (2005) đã nghiên cứu các nhân tố cấp hộ gia đình và địa bàn cư

trú tác động đến hộ gia đình có ít nhất một thành viên di cư bằng mô hình

logit. Tác giả đã sử dụng số liệu của 5.062 hộ gia đình Bangladesh năm 1994

và 1995 với biến phụ thuộc M = 0 với những hộ không có thành viên nào di

cư và M = 1 với những hộ có ít nhất một thành viên di cư. Các biến độc lập là

các biến thể hiện đặc điểm nhân khẩu của hộ gia đình, vốn con người (như số

năm kinh nghiệm và số năm đi học), mối quan hệ văn hóa – xã hội, môi

trường kinh tế và thể chế (địa bàn cư trú của hộ), của cải sẵn có của hộ (như

sở hữu đất, gia súc, vốn nông nghiệp). Kết quả là các gia đình giàu thì có xu

hướng di cư quốc tế và đạt được năng suất lao động cao hơn. Tuy nhiên, gia

đình nghèo chỉ có thể đủ khả năng di cư trong nước, làm các việc giản đơn

với năng suất thấp, còn với những gia đình có điều kiện kinh tế hơn các thành

viên trong hộ được đào tạo nghề bài bản có vốn để di cư quốc tế sẽ có thu

nhập cao hơn với năng suất cao hơn.

Mô hình của Mendola đã phân tích các nhân tố cấp độ cá nhân, cấp độ

hộ gia đình và cấp độ địa bàn cư trú ảnh hưởng đến hộ có ít nhất một thành

viên di cư. Đây là mô hình phù hợp nhất để áp dụng phân tích các nhân tố ảnh

hưởng đến quyết định di cư cá nhân cấp độ hộ gia đình ở Việt Nam. Việc tiếp

cận di cư theo hướng hộ gia đình bởi vì tính đặc trưng hộ gia đình ở Việt

Nam, đặc biệt là các gia đình ở nông thôn có tính chất gắn kết và quan hệ khá

chặt chẽ. Di cư dù là của một thành viên nào đó cũng là quyết định mang tính

tập thể gia đình, đặc biệt là bố hay mẹ là những người có vai trò trụ cột hay

chủ hộ của gia đình. Luận án đã tiếp cận phương pháp của Mendola, tuy

nhiên để phù hợp với bối cảnh của Việt Nam thì cần có lựa chọn những nhân

tố phù hợp cũng như khả thi với mô hình phân tích xuất cư ở Việt Nam.

Việc lựa chọn các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di cư được

tham khảo từ các nghiên cứu của Mendola (2005), Mahinchai (2010), Syafitri

(2012) cùng với xem xét sự phù hợp của những nhân tố trong bối cảnh dữ liệu

39

của Việt Nam, tác giả đã lựa chọn các nhóm nhân tố đặc điểm cá nhân, đặc

điểm chủ hộ, một số nhân tố phản ánh mức sống của hộ và một số nhân tố địa

bàn cư trú.

Ngoài những nhóm nhân tố đã được đề cập trong sơ đồ khung phân tích

của luận án, tổng quan nghiên cứu di cư cho thấy di cư còn chịu ảnh hưởng

của các yếu tố “khoảng cách” (Fan, 2005) và xu hướng chịu “áp lực đồng

đẳng”, ví dụ như việc di cư của người cùng làng, người trong cùng gia đình,

bạn cùng lứa hay cùng lớp ảnh hưởng tới quyết định di cư của cá nhân người

di cư.

Nguyễn Thu Phương và cộng sự (2008) sử dụng mô hình Probit để phân

tích các nhân tố đặc trưng hộ gia đình và các nhân tố đặc trưng địa bàn cư trú

cấp xã tác động đến xác suất hộ có thành viên di cư dài hạn (di cư từ 6 tháng

đến 12 tháng) và xác suất hộ có thành viên di cư nhắn hạn (di cư từ 1 tháng

đến dưới 6 tháng). Ngoài ra, các tác giả cũng sử dụng mô hình hồi quy tuyến

tính phân tích các nhân tố đặc điểm hộ gia đình cũng như đặc điểm địa bàn

cấp xã tác động đến tiền gửi về cũng như chi tiêu của hộ. Kết quả cho thấy di

cư là một quá trình chọn lọc cao và bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các đặc điểm

hộ gia đình cũng như đặc điểm địa bàn cư trú cấp xã. Các tác giả cũng đã

phân tích ảnh hưởng của di cư đến chi tiêu hộ gia đình và bất bình đẳng. Di

cư có tác động tích cực đến chi tiêu của hộ gia đình nhưng làm tăng hệ số

Gini của chi tiêu bình quân đầu người từ 0,38 đến 0,42.

Lưu Bích Ngọc và cộng sự (2015) sử dụng mô hình Logit phân tích di

dân tạm thời ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy các

nhân tố ảnh hưởng mạnh đến di cư lâu dài bao gồm các biến trình độ học vấn,

trình độ chuyên môn, những vùng kinh tế xa Thành phố Hồ Chí Minh. Thành

phố Hồ Chí Minh là điểm đến của di cư lâu dài nhiều hơn Hà Nội. Ngoài tìm

việc làm với thu nhập cao hơn thì đoàn tụ gia đình, học tập, chỗ ở tốt hơn

hoặc rẻ hơn là lý do chính khiến người ta tham gia vào đội quân di cư lâu dài.

40

Lê Xuân Bá và cộng sự (2009) đã sử dụng mô hình Probit nghiên cứu dự

báo chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn và các giải pháp giải

quyết việc làm trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô

thị hóa ở Việ Nam. Kết quả cho thấy xã mà được hưởng lợi ích từ các chương

trình mục tiêu quốc gia luôn là yếu tố thúc đẩy chuyển dịch lao động theo

hướng từ nông nghiệp sang các ngành nghề phi nông nghiệp khác, hay xã mà

có đường ô tô đến trung tâm xã sẽ có ảnh hưởng tích cực đến các loại hình

chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp.

Ian Coxhead và cộng sự (2016) sử dụng mô hình logit và logit đa trạng

thái để phân tích các đặc điểm cá nhân, hộ gia đình và địa bàn cư trú cấp xã tác

động đến xác suất di cư làm việc, di cư không làm việc (di cư do hôn nhân,

nghiên cứu,..) và không di cư (trạng thái không di cư được chọn là trạng thái

tham chiếu). Kết quả ước lượng với số liệu VHLSS năm 2012 cho thấy xác

suất di cư liên quan chặt chẽ với đặc điểm cá nhân, hộ gia đình và địa bàn cư

trú cấp xã. Các hộ gia đình coi việc di cư là một phần trong chiến lược đa dạng

hóa đầu tư. Người trẻ tuổi có nhiều khả năng di cư hơn. Phụ nữ có nhiều khả

năng di cư vì mục đích không làm việc hơn nam giới do phụ nữ có xu hướng

kết hôn và sống với chồng ở tỉnh khác. Hạn hán cũng được coi là một nhân tố

“đẩy” đáng kể cho việc di cư làm việc. Thành viên hộ thuộc nhóm dân tộc

thiểu số di cư với tỷ lệ thấp hơn rất nhiều so với người Kinh/Hoa.

1.4. Tổng quan một số phân tích lợi ích về thu nhập và chi tiêu của

người di cư và hộ gia đình có người di cư

Nghiên cứu xác định những yếu tố tác động đến chênh lệch mức

lương giữa người di cư từ nông thôn ra thành thị và người dân đã cư trú ở

thành thị của Ma (2016) ở Trung Quốc từ năm 2002 đến năm 2013 dựa trên

mô hình phân rã Blinder - Oaxaca cho thấy sự khác nhau của: đặc điểm cá

nhân, vị trí địa lý, ngành nghề, làm việc ở khu vực công hay khu vực tư

41

nhân là những yếu tố chính tác động đến chênh lệch mức lương. Hơn nữa,

các yếu tố chính gây ra sự khác biệt về mức lương giữa năm 2002 và 2013

là những yếu tố nguồn nhân lực, các ngành công nghiệp, và phân biệt đối

xử về giới (Ma, 2016).

Tsafack – Nanfosso & Zamo – Akono (2009) phân tích các nhân tố tác

động đến chênh lệch tiền lương giữa người di cư và người không di cư dựa trên

số liệu 3.585 cá nhân năm 2005 ở hai thành phố Yaoundé và Douala của

Cameroon bằng mô hình phân rã Blinder – Oaxaca. Kết quả cho thấy sự khác

biệt lương nhận được giữa nhóm di cư và không di cư là 12,8% trong đó sự khác

biệt lương do các yếu tố trong mô hình giải thích được 10,1% và sự khác biệt

lương do các yếu tố ngoài mô hình (gồm những yếu tố không phải biến độc lập

nhưng những yếu tố đó có tác động đến biến phụ thuộc) giải thích được 2,7%.

Luận văn thạc sĩ kinh tế của Varkevisser (2015) cũng sử dụng phân rã

Blinder – Oaxaca để phân tích khác biệt tiền lương theo giờ giữa người phụ

nữ nhập cư và người phụ nữ bản địa, người nhập cư nhỏ hơn 18 tuổi và người

nhập cư từ 18 tuổi trở lên ở Hà Lan năm 2015. Kết quả cho thấy người nhập

cư có mức lương theo giờ cao hơn người bản địa ở cả ba nhóm (nhóm phụ nữ,

nhóm dưới 18 tuổi và từ 18 tuổi trở lên).

Figueiredo và cộng sự (2016) đã sử dụng mô hình hồi quy phân vị để

phân tích tác động của di cư đến tổng chi tiêu cho hàng hóa nhập khẩu của

các nước tiếp nhận nhập cư. Kết quả cho biết tác động của di cư là đáng kể và

tích cực đến chi tiêu cho hàng hóa nhập khẩu.

Alan De Brauw và Tomoko Harigaya (2006) sử dụng mô hình với biến

công cụ kiểm soát biến nội sinh di cư (phương pháp mô men tổng quát) với

hai Bộ số liệu VHLSS năm 1993 và năm 1998 để khảo sát các hộ gia đình ở

Việt Nam di cư theo mùa có làm tăng mức sống của họ hay không. Kết quả

cho thấy di cư làm tăng 5,2 % chi tiêu hàng năm của các hộ gia đình và di cư

42

giúp giảm 3% tỷ lệ người nghèo. Ngoài ra di cư còn đóng một vai trò quan

trọng trong việc cải thiện mức sống các hộ gia đình ở Việt Nam.

Nguyễn Việt Cường (2008) đã sử dụng mô hình hồi quy tác động cố

định với số liệu VHLSS năm 2002 và 2004 để phân tích tiền chuyển về từ

nước ngoài đến vấn đề đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam. Kết quả cho

thấy việc nhận tiền kiều hối đã làm gia tăng thu nhập và tiêu dùng hộ gia đình

một cách đáng kể, tuy nhiên kiều hối lại có tác động giảm nhẹ đến nghèo đói

với những người nhận tiền chuyển về. Ngoài ra, kiều hối lại làm tăng bất bình

Nguyễn Việt Cường và cộng sự (2009) nghiên cứu tác động của di cư

đẳng ở mức độ nhỏ.

làm việc và di cư không làm việc lên phúc lợi gia đình, nghèo đói và bất bình

đẳng từ dữ liệu VHLSS năm 2004 và 2006, bài báo ước tính tác động của di

cư làm việc và di cư không làm việc đến thu nhập bình quân đầu người, chi

tiêu bình quân đầu người, nghèo đói và bất bình đẳng. Kết quả cho thấy cả di

cư làm việc và di cư không làm việc đều có tác động tích cực đến chi tiêu

bình quân đầu người của các hộ gia đình di cư.

Nguyễn Việt Cường và Daniel Mont (2012) xem xét tác động của tiền

gửi quốc tế tới các chỉ số phúc lợi hộ gia đình. Những phát hiện từ bài viết

này cho thấy hầu hết các hộ nhận được tiền từ người di cư ra nước ngoài gửi

về lại là các gia đình không nghèo, do đó ảnh hưởng của di cư đến giảm

nghèo còn hạn chế.

Sau khi luận án này được bảo vệ cấp cơ sở ngày 10 tháng 03 năm 2017,

một nghiên cứu mới nhất được cập nhật của Nguyễn Việt Cường và Vũ

Hoàng Linh (2017) đã sử dụng hồi quy tác động cố định với hai Bộ số liệu

VHLSS năm 2010 và 2012 để phân tích tác động của di cư và tiền gửi về đến

phúc lợi hộ gia đình. Kết quả cho thấy xu hướng các hộ gia đình ở nông thôn

có thành viên di cư cao hơn là các hộ gia đình ở thành thị. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ

nhận tiền gửi về từ những người di cư trong nước tương đối giống nhau giữa

43

thành thị và nông thôn. Tỷ lệ hộ ở thành thị nhận tiền gửi về từ những người

di cư quốc tế cao hơn nông thôn.

1.5. Thực tiễn và một số phân tích về di cư ở Việt Nam

1.5.1. Rà soát một số chính sách và pháp luật liên quan đến di cư

1.5.1.1. Pháp luật liên quan đến di cư

Cho đến nay Việt Nam không có văn bản luật riêng quy định về vấn đề

di cư trong nước, tuy nhiên trong các văn bản pháp luật khác nhau, đặc biệt là

Hiến pháp đã ghi nhận nhiều quyền cơ bản của công dân trong đó có quyền tự

do di chuyển. Cụ thể:

Điều 22. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. Mọi người có quyền

bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác

nếu không được người đó đồng ý.

Điều 23. Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có

quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này

do pháp luật quy định.

Luật cư trú năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2013 đã cụ thể hóa quy định

của Hiến pháp, khẳng định và bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân một

cách toàn diện, quy định cụ thể quyền công dân về vấn đề này: “Công dân có

quyền tự do cư trú theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp

luật có liên quan. Công dân có đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú thì có

quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho đăng ký thường trú, tạm

trú” (Điều 3). Nhà nước bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân. Luật này

cũng quy định “nghiêm cấm cản trở công dân thực hiện quyền tự do cư trú và

nghiêm cấm lạm dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân” (khoản 1 và khoản 2 Điều 8).

1.5.1.2. Các chính sách liên quan đến di cư

Sau khi thống nhất đất nước (1975), với chính sách quản lý dân cư theo

44

hộ khẩu và chế độ phân phối, bao cấp lương thực, thực phẩm, di cư tự do

không xuất hiện. Di chuyển dân cư giữa các vùng miền chỉ được thực hiện

thông qua các chương trình của Nhà nước như di dân đi xây dựng các vùng

kinh tế mới, điều động cán bộ, công chức, viên chức nhà nước nhằm mục tiêu

phát triển đội ngũ… Sau Đổi mới (1986), di cư tự phát xuất hiện ngày càng

mạnh lên.

Giai đoạn từ năm 1996 đến nay, công tác di cư xây dựng vùng kinh tế

mới được tổ chức thực hiện lồng ghép với các chương trình có mục tiêu của

Nhà nước như chương trình 327, hay chương trình 773 nhằm tận dụng đất

trống đồi trọc, bãi bồi ven biển và mặt nước. Đặc biệt từ năm 1998, chương

trình di cư có tổ chức gắn với việc thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo và

phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng đặc biệt khó khăn (Hà Quế Lâm, 2002).

Di cư để phát triển sản xuất nông lâm nghiệp ở vùng đất hoang hóa được đưa

vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội với những ưu tiên cho các đối

tượng nghèo thiếu đất, đồng bào dân tộc thiểu số, một loạt những quyết định

của Chính phủ nhằm triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói

giảm nghèo được ban hành qua nhiều năm như quyết định 133, 135, 138,

143,… Trong những năm 2001 – 2005, Chính phủ đã có nhiều chính sách

nhằm hỗ trợ cho đồng bào các dân tộc ở các tỉnh đặc biệt khó khăn để giúp họ

ổn định đời sống và phát triển kinh tế. Một số chính sách ưu tiên trực tiếp hỗ

trợ di dân đến vùng biên giới, vùng cao, như quy định mức hỗ trợ cho việc di

chuyển, làm nhà cho các hộ dân trở lại vùng biên giới.

Hiện nay, chính sách di dân của Nhà nước chỉ áp dụng cho những

chương trình, kế hoạch thực hiện các mục tiêu phát triển (xây dựng các công

trình dân sinh, các nhà máy thuỷ điện, các khu công nghiệp, khu chế xuất…)

và ổn định an ninh các vùng biên giới, hải đảo. Từng bước tổ chức hợp lý đời

sống sinh hoạt của người dân ở những nơi có điều kiện khó khăn, tạo điều

45

kiện ổn định đời sống cho người dân. Chương trình di dân kinh tế mới đã góp

phần đảm bảo an ninh lương thực, tạo điều kiện cho hộ nghèo có đất sản xuất,

có việc làm và cải thiện cơ sở hạ tầng miền núi. Thông qua chương trình di

dân có tổ chức, nguồn lao động được phân bổ hợp lý hơn, các vùng đất có

tiềm năng kinh tế được khai thác và phát huy tác dụng.

1.5.2. Tình hình di cư và một số phân tích di cư ở Việt Nam

Số liệu Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999 cho thấy hơn 5,8 triệu

người (khoảng 6,5% dân số trên 5 tuổi trở lên) đã thay đổi nơi cư trú trong

giai đoạn 1994-1999. Trong giai đoạn 2004-2009, số người di cư đã tăng lên

đến hơn 9,0 triệu người và trong giai đoạn 2009-2014 là 7,44 triệu người

(Tổng cục Thống kê, 2000; 2010; 2015). Điều tra quốc gia về Di cư nội địa

năm 2015 cho kết quả là 13,7% dân số từ 15 tuổi trở lên của Việt Nam đã

tham gia vào di cư 5 năm trước thời điểm điều tra (Tổng cục Thống kê, 2016).

Trong thời kỳ từ sau năm 1975 đến trước “Đổi mới” năm 1986, di dân

nông thôn - nông thôn đi vùng kinh tế mới chiếm vai trò chủ đạo. Tuy nhiên

những năm gần đây mặc dù di dân nông thôn – nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ lớn

nhưng đã và đang dần nhường chỗ cho di dân nông thôn – thành thị. Xu

hướng di cư ra thành thị chiếm đến 53% trong tổng số các cuộc di cư, chủ yếu

là di cư đến các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (Lê

Bạch Dương, Khuất Thu Hồng, 2008:78; Lưu Bích Ngọc, 2016). Vì vậy, với

tình trạng hiện nay mức sinh của phụ nữ ở đô thị đã đạt gần tới mức sinh thay

thế, thì di dân là yếu tố quan trọng nhất làm tăng dân số tại đô thị. Tổng điều

tra Dân số và Nhà ở năm 1999 cho thấy di cư từ nông thôn ra thành thị đã

đóng góp tới 1/3 mức tăng dân số đô thị trong giai đoạn 1994-1999.

Một số phân tích di cư ở Việt Nam đến nay chủ yếu mô tả đặc trưng của

người di cư hay nói cách khác mới dừng lại ở việc chỉ ra người di cư là Ai?.

46

Kết quả các nghiên cứu trong thập niên trước đã cho thấy phần lớn người di

cư là thanh niên, với hơn một nửa trong tổng số người di cư dưới 25 tuổi

(Đặng Nguyên Anh và Nguyễn Thanh Liêm, 2006). Người di cư độ tuổi từ

15-24 chiếm tỷ lệ cao nhất với tổng số khoảng 66,2% (Vũ Thị Hồng và cộng

sự, 2003:171). Nếu như trong những năm 1970, người di cư đại bộ phận là

nam giới, thì từ sau khi Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới

kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì tỷ lệ nữ di cư đang tăng lên và số

lượng phụ nữ di cư đến các khu đô thị và khu công nghiệp đã bắt đầu nhiều

hơn nam giới. Xu hướng nữ hoá dòng di cư bắt đầu xuất hiện và gia tăng

(UNFPA, 2007:10).

Khoảng 85% người di cư được điều tra ở địa bàn đô thị sinh ra tại khu

vực nông thôn và đa số người di cư đến đô thị còn độc thân (TCTK, UNFPA,

2005a, UNFPA, 2007:10). Mặc dù số liệu giữa các nguồn khác nhau có thể

khác nhau, nhưng tổng kết các nghiên cứu trước có thể thấy rằng, tỷ lệ người

di cư trẻ tuổi, chưa lập gia đình trong cộng đồng người di cư ra thành thị

chiếm khoảng 50% (Lê Bạch Dương và cộng sự, 2006:106). Thậm chí, có

nghiên cứu còn cho biết tỷ lệ độc thân của người di chuyển còn lên tới gần

70% (Vũ Thị Hồng và cộng sự, 2003:66). Nhưng nếu xem xét tình trạng hôn

nhân phân theo giới tính của người di cư, các nghiên cứu trước cũng chỉ ra

rằng tỷ lệ nữ đã kết hôn di chuyển nhiều hơn nam (Lê Bạch Dương, Khuất

Thu Hồng, 2008:86).

Một số phân tích đã cho thấy di cư ở Việt Nam có liên quan chặt chẽ với

bất bình đẳng về kinh tế - xã hội. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm còn

khá phổ biến ở nông thôn, nơi mà lao động dư thừa chiếm 1/5 dân số (Lê

Bạch Dương và cộng sự, 2006:99). Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng đã chỉ ra

rằng thất nghiệp không phải là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến quyết

định di chuyển mà nguyên nhân chủ yếu là do chênh lệch về thu nhập, chênh

47

lệch về điều kiện sống do giá cả sản phẩm nông nghiệp thấp (UNFPA,

2007:1; Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng, 2008:87). Có thể tổng hợp các

nguyên nhân di chuyển trong Bảng 1.1 dưới đây:

Bảng 1.1: Các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng di cư ở Việt Nam

Các nhân tố Đẩy Các nhân tố Kéo

Thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việc làm

Thiếu việc làm trong lúc nông nhàn Thu nhập cao hơn, thu nhập khác

Điều kiện sống còn nhiều khó khăn, Mong muốn được hưởng chất lượng

chất lượng giáo dục và y tế chưa cao dịch vụ y tế, giáo dục tốt hơn

Nguồn: Lưu Bích Ngọc và cộng sự, 2016

Cuộc sống khó khăn do thiên tai, bão lụt Thách thức mới, cơ hội mới

Lê Bạch Dương & Khuất Thu Hồng (2008) chỉ ra rằng bản thân người di

cư là người quyết định chính, không kể họ là nam giới hay phụ nữ. Tuy nhiên,

theo dữ liệu từ Điều tra di cư Việt Nam 2004, khoảng 2/3 nam giới và 80% nữ

giới di cư nói là đã có những người khác tham gia vào quyết định di cư của họ

(UNFPA, 2007:13). Mặt khác, các nghiên cứu trước cũng cho thấy “Quyết

định di cư có thể không đơn thuần phản ánh nguyện vọng hoặc nhu cầu của bản

thân người di cư mà thường có sự tham gia của cả hộ gia đình nhằm thu lợi cao

nhất hoặc giảm thiểu thấp nhất rủi ro (Lê Bạch Dương và cộng sự, 2006:100).

Trong những năm 70 và những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ XX, mức

độ di cư tỷ lệ thuận với trình độ học vấn (UNFPA, 2007:11). Tuy nhiên sau

“Đổi Mới”, dòng di dân ra thành phố dường như có sự thay đổi. Bên cạnh xu

thế truyền thống lại có dòng di cư của những người có trình độ học vấn thấp

ra thành phố làm việc tại khu vực phi chính thức hoặc làm những công việc

lặt vặt, nội trợ. Nhiều nghiên cứu đã rút ra kết luận là trình độ học vấn của lao

động di cư nữ thấp hơn lao động di cư nam. Số năm học bình quân của lao

động nam di cư cao hơn lao động nữ di cư (Lê Bạch Dương và cộng sự,

48

2006:107; Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng, 2008:92).

Một số nghiên cứu đã phân tích hoàn cảnh sống của người di cư sau khi

đến nơi cư trú mới, dưới cả góc độ việc làm, thu nhập lẫn các điều kiện sống,

phúc lợi và mạng lưới xã hội mà họ có được. Điều tra Di cư quốc gia năm

2004 cho kết quả hầu hết người di cư đến thành phố cho biết rằng họ đã đăng

ký cư trú tại nơi đến. Trong số những người đã đăng ký, 80% người di cư đã

đăng ký tạm trú. Lý do chủ yếu được người không đăng ký tạm trú nêu ra là

không thuộc diện được đăng ký, chỉ có một số ít người cho là thủ tục quá

phức tạp (UNFPA, 2007:27).

Những người di cư từ nông thôn ra thành thị thường ít biết đến cơ sở

giới thiệu việc làm, kể cả của Nhà nước và tư nhân. Trong những người biết

đến các cơ sở này chỉ có 60% sử dụng thông tin ở đó để tìm việc làm. Mạng

lưới xã hội cá nhân (gia đình, bạn bè, đồng hương…) là nguồn thông tin chủ

yếu được người di cư sử dụng để tìm việc làm (UNFPA, 2007:17).

Các nghiên cứu cũng đã cho thấy 60% người di cư làm công việc đầu

tiên không đòi hỏi kỹ năng, ở doanh nghiệp quy mô nhỏ hoặc cơ sở sản xuất

tự doanh (UNFPA, 2007:18). So với nhóm trẻ thì những người di cư nhiều

tuổi hơn có khả năng tìm được việc nhanh hơn. Đối với người đã có gia đình,

mong muốn sớm ổn định việc làm là một động lực thúc đẩy họ tìm việc nhanh

hơn những người chưa có gia đình. Những người di cư có trình độ học vấn

cao thường dành nhiều thời gian tìm việc hơn so với những người có trình độ

học vấn thấp (TCTK, UNFPA, 2005a:31). Phụ nữ di cư thường có xu hướng

tự doanh hơn là nam giới. Nam giới thường làm việc trong các phân xưởng tư

nhân, cửa hàng và các công trường xây dựng (Lê Bạch Dương và Khuất Thu

Hồng, 2008:94). Sau khi thích nghi với cuộc sống tại nơi mới, người di cư

thường chuyển sang làm công việc đòi hỏi tay nghề cao hơn. Tỷ trọng người

di cư làm nghề chuyên môn kỹ thuật bậc cao, bậc trung và lao động có kỹ

thuật tăng. Mặc dù có nhiều rào cản trong cuộc sống, nhưng khi di chuyển ra

49

thành thị nói chung và ra Hà Nội nói riêng, người di cư, không phân biệt nam

nữ đều có xu hướng thăng tiến (TCTK, UNFPA, 2005:17).

Chỉ có khoảng dưới 50% lao động di cư có hợp đồng lao động. Tỷ lệ

người di cư làm việc có hợp đồng lao động cao nhất ở lứa tuổi 20-24 và giảm

dần khi độ tuổi càng cao. Những người có chuyên môn nghề nghiệp cao thì có

khả năng ký hợp đồng lao động cao (TCTK, UNFPA, 2005a:45). Có rất ít

người di cư được hưởng phúc lợi và an sinh xã hội, thậm chí cả những người

đã được ký hợp đồng. Sự giúp đỡ của chủ sử dụng lao động với người lao

động di cư cũng rất hạn chế (Lê Bạch Dương và cộng sự, 2006:115; Lê Bạch

Dương và Khuất Thu Hồng, 2008:100). Tiền thưởng là dạng phúc lợi phổ

biến nhất, việc hưởng phúc lợi xã hội tỷ lệ thuận với trình độ chuyên môn

(TCTK, UNFPA, 2005a:50).

Nhà ở là vấn đề làm người di cư ít hài lòng nhất, đặc biệt là ở các thành

phố lớn. Thuê nhà là phương thức người di cư thường dùng khi sinh sống tại

thành phố. Đại bộ phận người di cư ra thành phố phải sống trong các ngôi nhà

trọ bán kiên cố hoặc thô sơ. So với người không di cư, người di cư sống trong

các căn hộ có ít phương tiện sinh hoạt hơn. Mức chi cho ăn uống của những

người di cư thấp hơn rất nhiều so với người không di cư (TCTK, UNFPA,

2005a:19).

Mức thu nhập trung bình của người di cư thấp hơn nhiều so với người

không di cư. Tuy nhiên, số đông người di cư hài lòng với mức thu nhập của

mình sau khi di cư bởi vì đa số họ cho rằng mức thu nhập hiện tại cao hơn mức

thu nhập của họ trước khi di cư. Nhìn chung nam di cư có thu nhập cao hơn nữ

di cư và người có trình độ học vấn cao hơn thì có mức thu nhập cao hơn người

có trình độ học vấn thấp (TCTK, UNFPA, 2005a:4; TCTK, UNFPA,

2005b:39). Mặc dù người di cư cho biết có thu nhập cao hơn so với nơi ở cũ,

nhưng do giá cả sinh hoạt ở thành phố cao hơn, nên nhiều người đã không thể

có tiền tiết kiệm mà lại còn mắc nợ (Lê Bạch Dương và cộng sự, 2006:114).

50

Mặc dù số tiền kiếm được không lớn, nhưng người di cư vẫn tằn tiện

chi tiêu để gửi về quê. Điều tra di cư quốc gia năm 2004 cho thấy hơn một

nửa số người di cư đã gửi tiền về cho gia đình ở nơi ở cũ trong 12 tháng

trước điều tra. Trong số đó, hơn 2/3 đã gửi trên 1 triệu đồng. Số tiền gửi về

quê của những người di cư được sử dụng vào nhiều mục đích, nhưng nhiều

nhất là chi tiêu hàng ngày, chữa bệnh và chi giáo dục cho con cái (TCTK,

UNFPA, 2005b:4).

Khoảng 50% người di cư cho rằng họ đã gặp khó khăn khi đến nơi ở

mới. Trong đó có hai phần ba số người đã tìm kiếm sự giúp đỡ. Hầu hết họ

tìm sự giúp đỡ từ bạn bè, người ruột thịt, họ hàng và đồng hương. Rất ít người

tìm sự giúp đỡ từ chủ sử dụng lao động làm hay các cấp chính quyền địa

phương (TCTK, UNFPA, 2005b:59).

Liên quan đến sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ của người di cư, phân tích

sâu số liệu Điều tra Di cư quốc gia năm 2004, chuyên khảo “Di dân và sức

khỏe” (2006) đã rút ra những kết luận sau: di cư mang tính chọn lọc về sức

khỏe, người có sức khỏe tốt mới di cư. Có sự khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ,

nam giới khẳng định sức khỏe của mình tốt nhiều hơn phụ nữ. Người di cư ít

chú trọng đến chăm sóc sức khỏe, những khi ốm đau, đại bộ phận chọn cơ sở

y tế nhà nước để khám và chữa bệnh. Đây là nhân tố làm tăng sự quá tải hạ

tầng cơ sở y tế ở nơi đến, đặc biệt là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Nhưng có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi, nhóm tuổi trẻ có xu hướng ưa

thích đến y tế tư nhân hơn là y tế công. Người di cư chưa chú trọng đến bảo

hiểm y tế. Trong đó tỷ lệ phụ nữ di cư sở hữu bảo hiểm y tế cao hơn tỷ lệ nam

giới sở hữu bảo hiểm y tế (TCTK, UNFPA, 2005).

Phuong Nguyen – Hoang, John McPeak (2010) đã sử dụng số liệu Điều

tra về biến động Dân số và KHHGĐ hàng năm với số liệu di cư được công bố

bởi Tổng cục Thống kê Việt Nam để tổng quan về xu hướng di cư từ khi đất

nước thống nhất năm 1975 và phát triển một khung mô hình về các dòng di

51

cư nội địa, mô tả dữ liệu và các thước đo hay công cụ đo lường được sử dụng

trong một mô hình kinh tế lượng, giải thích và bàn luận về các kết quả hồi

quy và đưa ra các hàm ý chính sách. Các tác giả đã chỉ ra rằng người di cư

Việt Nam đang chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi chi phí di chuyển do yếu tố

khoảng cách giữa nơi đi và nơi đến, chênh lệch thu nhập mong đợi, sự chênh

lệch về chất lượng các dịch vụ công được cung cấp bởi các tỉnh, và những yếu

tố cấu thành đặc điểm nhân khẩu học tại nơi đến (nơi nhập cư) và nơi đi (nơi

xuất cư): quy mô dân số, tỷ lệ thất nghiệp, xác suất để nhận được một công

việc, cơ cấu ngành nghề nông nghiệp – công nghiệp – thương mại, dịch vụ…

Kết quả của nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc mới cho sự lựa chọn

chính sách di cư, và đề nghị rằng Chính phủ áp dụng một phương pháp tiếp

cận chính sách toàn diện để tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu chi phí liên quan

đến di cư trong nước.

Kết quả phân tích số liệu mẫu của Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm

2009 cho thấy xu hướng tăng của di cư cả về số lượng tuyệt đối lẫn tỷ lệ. Các

kết quả phân tích cũng cho thấy những đóng góp của di cư vào khu vực thành

thị, đặc biệt là tại các thành phố lớn. Trong số hơn 78 triệu dân từ 5 tuổi trở

lên trong năm 2009, có 2,1% hay tương ứng với 1,6 triệu người di cư trong

huyện; 2,2% hay 1,7 triệu người di cư giữa các huyện; 4,3% hay 3,4 triệu

người di cư giữa các tỉnh, và có một tỷ lệ rất nhỏ chiếm 0,1% hay 40.990

người nhập cư quốc tế. Dân số di cư giữa các tỉnh có xu hướng ngày càng gia

tăng rõ rệt. Số người di cư giữa các tỉnh tăng từ 1,3 triệu người năm 1989 lên

2 triệu người năm 1999 và lên tới 3,4 triệu người năm 2009. Tỷ lệ của nhóm

di cư này trong tổng dân số cũng tăng tương ứng từ 2,5% trong năm 1989 lên

2,9% năm 1999 và 4,3% năm 2009. Số liệu TĐTDS đã cung cấp bằng chứng

rõ ràng về một hiện tượng rất được chú ý trong các nghiên cứu di cư thường

được biết với tên gọi “nữ hóa các dòng di cư”. Điều này được thể hiện rất rõ

qua hai chỉ số. Thứ nhất, dân số nữ di cư chiếm khoảng một nửa tổng số dân

52

di cư. Thứ hai, tỷ lệ dân số nữ di cư trên tổng số dân di cư liên tục tăng trong

hai thập kỷ qua (TCTK, 2011).

Lê Thị Kim Anh và cộng sự (2012) trên cơ sở phân tích dữ liệu từ điều

tra mẫu 15% của Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam 2009, mẫu 3% của

tổng điều tra năm 1999 và mẫu 5% của tổng điều tra năm 1989, và dữ liệu

được lựa chọn từ Điều tra Mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2008, đã sử

dụng mô hình hồi quy logistic để xác định các yếu tố kinh tế - xã hội liên

quan đến di dân. Các tác giả đã chỉ ra 3 xu hướng đáng chú ý trong giai đoạn

1989 và 2009: (i) tổng dân số được đặc trưng bởi tăng tỷ lệ người di cư; (ii) tỷ

lệ di cư nữ tăng; và (iii) tuổi trung bình của người di cư đang giảm dần. Các

yếu tố kinh tế - xã hội liên quan đến di cư liên tỉnh bao gồm tình trạng kinh tế

của tỉnh (thu nhập bình quân đầu người một tháng) và đô thị hóa (tỷ lệ dân số

đô thị) cho thấy rằng các tỉnh có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng cao

và những tỉnh đô thị hóa có khả năng nhiều hơn để có tỷ lệ người nhập cư cao

hơn. Mô hình hồi quy logistic đơn giản về các yếu tố tác động đến nhập cư đã

chứng minh rằng các tỉnh có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng ở mức

cao (ví dụ trên 803.000 đồng/tháng) và có tỷ lệ dân số đô thị ở mức cao (chẳng

hạn trên 19,1% dân đô thị trên tổng dân số) sẽ có nhiều khả năng hơn so với các

tỉnh khác trong thu hút tỷ lệ lớn người nhập cư (OR = 4.62 and OR = 3.47, tương

ứng). Ngược lại, những nhân tố như là tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ bỏ học và tỷ suất

trong nhóm ngũ phân vị thứ năm đến thứ nhất không có liên quan đến nhập cư.

Những phát hiện này phản ánh những tác động của thị trường lao động phát triển

không đồng đều ở các tỉnh Việt Nam tới di cư và gợi ý việc cải tiến cơ sở hạ tầng

và nhu cầu dịch vụ công trong những khu vực này. Phân tích di cư có thể cung

cấp thông tin hữu ích cho xây dựng kế hoạch về các dịch vụ sức khỏe và dịch vụ

xã hội và hoạch định chính sách về phát triển kinh tế quốc gia.

Lê Bạch Dương và cộng sự (2011) dựa trên một điều tra năm 2008 ở 4

tỉnh/thành phố (Thái Bình, Tiền Giang, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh)

53

đã thảo luận về việc thiếu các chính sách thích hợp và các chương trình có tổ

chức về bảo trợ xã hội cho người di cư nói chung và tính chất cư trú dựa trên

khuôn khổ các chính sách xã hội hiện hành nói riêng, tạo ra tính dễ bị tổn

thương và một sự loại trừ xã hội trong nhóm người di cư nông thôn - đô thị ở

Việt Nam. Cụ thể, trong nghiên cứu của mình, các tác giả đã phân tích những

khoảng trống của chính sách, và ảnh hưởng của chính sách hộ khẩu đối với

cuộc sống của người di cư trên các khía cạnh: việc làm, nhà ở, điều kiện sức

khỏe, dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục cho trẻ em, và hòa nhập xã hội. Đồng

thời, họ cũng đề xuất rằng nhà nước trước hết cần công nhận tư cách pháp lý

của người di cư ở nơi đến và thứ hai là cần tăng cường tiếp cận của người di

cư đối với các nguồn lực kinh tế và xã hội quan trọng.

1.5.3. Di cư giữa các vùng từ số liệu được công bố trên Niên giám

thống kê của TCTK các năm 2010, 2012, 2014

Di cư vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam với chênh lệch mức sống

ngày càng gia tăng dẫn đến di biến động lao động rất mạnh trong nội bộ Việt

Nam. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2014, thu nhập bình quân đầu

người một tháng theo giá hiện hành ở thành thị là 3,968 triệu đồng, cao gần

gấp đôi ở nông thôn là 2,041 triệu đồng (phụ lục A bảng 1). Chênh lệch về

thu nhập bình quân đầu người giữa các vùng cũng khá cao, chẳng hạn thu

nhập vùng Đông Nam Bộ cao gấp 2,5 lần vùng Trung du và miền núi phía

Bắc, cao gấp 2 lần Vùng Tây Nguyên cũng như Vùng duyên hải miền Trung

(phụ lục A bảng 2). Vùng Đông Nam Bộ cũng là vùng có số lao động được

tạo việc làm cao nhất so với các vùng còn lại trong 3 năm 2010, 2012 và 2014

(phụ lục A bảng 3). Số liệu trong Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê

cho thấy mức chênh lệch về thu nhập khá lớn giữa thành thị và nông thôn,

giữa vùng Đông Nam Bộ so với các vùng còn lại, số lao động được tạo việc

làm của Vùng Đông Nam Bộ cũng cao nhất so với các vùng còn lại của cả

nước. Chưa cần phân tích số liệu di cư của các vùng, ta cũng dễ nhận thấy

54

người lao động có xu hướng tìm đến các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ để

tìm việc làm và để có thu nhập cao hơn. Tuy nhiên với số liệu tỷ suất nhập cư

các vùng được cung cấp bởi Tổng cục thống kê (phụ lục A bảng 4), có thể

thấy không ngạc nhiên khi tỷ suất nhập cư vùng Đông Nam Bộ cao nhất cả

nước, đây có thể gọi là vùng hút di cư nhanh và mạnh. Từ số liệu, tính hệ số

tương quan của các biến cũng cho thấy tỷ suất nhập cư của các vùng đều

tương quan thuận chiều với thu nhập bình quân đầu người và biến số lao động

được tạo việc làm năm 2012. Kết quả này cho phép nhận định thu nhập bình

quân đầu người và biến số lao động được tạo việc làm có tác động thuận

chiều đến tỷ suất nhập cư (phụ lục A bảng 6).

1.5.4. Di cư phân tích từ Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014

1.5.4.1. Loại hình di cư và luồng di cư

Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014 của TCTK đã phân chia loại

hình di cư của Việt Nam như sau:

Bảng 1.2: Nơi thường trú tại thời điểm 5 năm trước thời điểm tổng điều tra và loại hình di cư

Việt Nam

Nước ngoài

Cùng tỉnh

Tỉnh khác

Quận/huyện khác

Cùng quận/huyện

Xã/phường khác Cùng xã/phường

Không di cư

Di cư giữa

Di cư

Nhập cư quốc tế

giữa các xã

các huyện

trong huyện

Không di cư giữa các huyện

Di cư giữa các tỉnh

Không di cư giữa các tỉnh

Không nhập cư quốc tế

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014: Di cư và

đô thị hóa. Nhà xuất bản Thống kê, 85 trang.

55

Về luồng di cư hay các dòng di cư được xác định dựa trên đặc điểm

nông thôn hay thành thị của nơi thường trú tại thời điểm 5 năm trước thời

điểm điều tra và nơi thường trú hiện tại:

• Di cư từ khu vực nông thôn đến nông thôn (NT – NT)

• Di cư từ khu vực nông thôn đến thành thị (NT – TT )

• Di cư từ khu vực thành thị đến nông thôn (TT – NT)

• Di cư từ khu vực thành thị đến thành thị (TT – TT)

Dữ liệu điều tra cũng cho biết biến động về số lượng người di cư cũng

như tỉ lệ người di cư trong huyện, giữa các huyện trong tỉnh và giữa các tỉnh

(Bảng 1.3).

Bảng 1.3: Dân số 5 tuổi trở lên chia theo các dòng di cư qua các năm

1999 2009 2014

Số lượng Số lượng Số lượng

Dòng di cư

1 342 568

1,9

1 618 160

2,1

1 430 235

1,7

% % % (người (người) (người)

1 137 843

1,7

1 708 896

2,2

1 644 257

2,0

Di cư trong huyện

2 001 408

2,9

3 397 904

4,3

2 594 297

3,1

Di cư giữa các huyện

64 493 309

93,4 71 686 913 91,3

77 548 084

93,1

Di cư giữa các tỉnh

70 389

0,1

40 990

0,1

65 678

0,1

Không di cư

100

100

Nhập cư quốc tế

69 045 517

78 452 862 100

83 282 551

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014:

Di cư và đô thị hóa. Nhà xuất bản Thống kê, 85 trang.

dân số 5+

56

Bảng 1.3 cho thấy di cư trong tỉnh, di cư giữa các tỉnh chiếm tỷ

trọng nhỏ nhưng số lượng người di cư giữa các tỉnh khá lớn. Cụ thể, năm

2009 gần 3,4 triệu người di cư và năm 2014 có gần 2,6 triệu người di cư.

Để thấy rõ hơn biến động của dòng di cư ta quan sát hình 1.2 dưới đây:

Hình 1.2: Tỷ lệ người di cư trong dân số theo các dòng di cư, 1989 - 2014

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014:

Di cư và đô thị hóa. Nhà xuất bản Thống kê, 85 trang

Hình 1.2 cho thấy giai đoạn 2009 – 2014, quy mô di cư giảm đi so với

giai đoạn 2009 – 2014 xét trên cả 3 dòng di cư trong huyện, di cư giữa các

huyện và di cư giữa các tỉnh. Trong 3 dòng di cư, di cư giữa các tỉnh biến

động nhiều nhất sau đó là đến di cư giữa các huyện, và cuối cùng di cư trong

huyện ít biến động nhất. Biến động của các dòng di cư phân theo tiêu chí

khoảng cách di chuyển và theo tiêu chí nông thôn – thành thị được trình bày

trong bảng dưới đây:

57

di cư trong huyện

Tổng số

Bảng 1.4: Số người di cư và tỷ lệ người di cư chia theo dòng di cư xét theo khoảng cách và địa bàn nông thôn – thành thị di cư giữa các di cư giữa các tỉnh huyện

Năm

số lượng (người)

Tỷ lệ (%)

số lượng (người)

Tỷ lệ (%)

số lượng (người)

Tỷ lệ (%)

số lượng (người)

Tỷ lệ (%)

Luồng di cư

NT - NT

559 851

12,5

318 596

781 769

17,4 1 660 216

7,1

37,0

NT - TT

257 773

723 786

16,1 1 215 955

5,2

234 396

5,8

27,1

2,9

130 852

1999

TT - NT

118 146

183 945

4,1

432 943

9,7

2,6

TT - TT

406 798

453 999

10,1

311 908

7,0 1 172 705

26,2

9,1

Tổng

1 342 568

30,0 1 137 843

25,4 2 001 408

44,7 4 481 819

100,0

NT - NT

684 482

10,2

384 502

5,7 1 202 858

17,9 2 271 841

33,8

NT - TT

179 616

420 388

6,2 1 512 067

22,5 2 112 071

2,7

31,4

2009

TT - NT

108 417

208 485

3,1

248 047

3,7

564 949

1,6

8,4

TT - TT

647 264

695 521

10,3

434 932

6,5 1 777 716

26,4

9,6

Tổng

1 619 778

24,1 1 708 896

25,4 3 397 904

50,5 6 726 578

100,0

NT - NT

543 286

359 701

6,3

726 059

12,8 1 632 988

9,6

28,8

NT - TT

142 992

353 538

6,3 1 148 078

20,3 1 642 186

2,5

29,0

2014

TT - NT

112 037

241 911

4,3

333 305

5,9

686 551

2,0

12,1

TT - TT

631 919

11,2

689 106

12,2

386 854

6,8 1 707 063

30,1

Tổng

1 430 235

25,3 1 644 257

29,0 2 594 297

45,8 5 668 788

100,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014:

Di cư và đô thị hóa. Nhà xuất bản Thống kê, 85 trang

Theo kết quả Bảng 1.4, giai đoạn 1994 – 1999 thì tỉ lệ di cư giữa các

tỉnh là cao nhất và luồng di cư đi (xuất cư) chủ yếu là người nông thôn với

17,4% là di cư NT – NT và 16,1% là di cư NT – TT, thậm chí di cư NT – NT

còn cao hơn di cư NT- TT. Đến giai đoạn 2010-2014, loại hình di cư giữa các

tỉnh vẫn chiếm ưu thế và luồng di cư đi cũng chủ yếu là người nông thôn, tuy

nhiên luồng di cư đến đã thay đổi so với giai đoạn 1994 – 1999, đó là di cư

NT – NT chỉ còn 12,8% và di cư NT – TT đã lên đến 20,3%.

58

Bảng 1.5: Số lượng và cơ cấu các luồng di cư phân theo vùng, 2009-2014

Năm

Tổng số

Tây Nguyên

Luồng di cư

Đông Nam Bộ

Đồng bằng sông Hồng

Trung du và miền núi phía Bắc

Đồng bằng sông Cửu Long

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 281 923

NT-NT

249 633

427 412

182 728

782 729 347 415

2 271 841

2 112 071

NT-TT

118 636

395 053

272 948

88 526

1038 426 198 483

TT-NT

47 596

110 023

86 854

36 253

194 332

89 890

564 949

TT-TT

75 933

378 289

255 361

68 035

861 135 138 963

1 777 716

Tổng số

491 798

1 310 777

897 086

375 541

2 876 623 774 752

6 726 578

Cơ cấu (%)

NT-NT

50,8

32,6

31,4

48,6

27,2

44,8

33,8

NT-TT

24,1

30,3

30,6

23,7

36,3

25,8

31,4

2009

TT-NT

9,7

8,4

9,7

9,6

6,7

11,6

8,4

TT-TT

15,4

28,7

28,3

18,0

29,8

17,9

26,4

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

Tổng số

NT-NT

226 968

311 122

281 661

117 202

397 276 298 759

1 632 988

NT-TT

83 959

296 902

196 386

55 120

856 723 153 096

1 642 186

TT-NT

50 125

95 566

196 111

31 776

207 077 105 896

686 551

1 707 063

TT-TT

76 749

340 477

235 551

56 112

881 304 116 870

Tổng số

437 801

1 044 068

909 708

260 210

2 342 379 674 621

5 668 788

Cơ cấu (%)

NT-NT

51,6

29,5

30,7

45,0

16,9

44,2

28,8

NT-TT

19,3

28,6

21,7

21,2

36,6

22,7

29,0

2014

TT-NT

11,5

9,2

21,6

12,2

8,8

15,7

12,1

TT-TT

17,6

32,7

26,0

21,6

37,7

17,3

30,1

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

Tổng số

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014:

Di cư và đô thị hóa. Nhà xuất bản Thống kê, 85 trang

59

Bảng 1.5 cho thấy năm 2009 luồng di cư TT – NT chỉ có 8,4% nhưng

đến năm 2014 thì luồng di cư này đã tăng lên 12,1%. Luồng di cư đến thành

thị vùng Đông Nam Bộ năm 2014 cao nhất cả nước, cụ thể di cư NT – TT là

36,6% và di cư TT – TT là 37,7%, kết quả này cho thấy vùng Đông Nam Bộ

là vùng thu hút người di cư đến cao nhất cả nước. Vùng Trung du và miền núi

phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng Sông Cửu Long có tỉ lệ di cư NT – NT cao

nhất cả nước năm 2009 và 2014

1.5.4.2. Đặc trưng nhân khẩu học và mức sống của người di cư • Di cư chủ yếu vẫn dành cho người trẻ tuổi do phần lớn người di cư là

tìm việc làm và cải thiện thu nhập

Bảng 1.6: Tuổi trung bình và tuổi trung vị của người di cư chia theo dòng di cư và giới tính, TĐT 1999, 2009, 2014

1999

2009

Đơn vị tính: Tuổi 2014

Loại hình di cư

Tuổi trung bình

Tuổi trung vị

Tuổi trung vị

Tuổi trung vị

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

Chung

Di cư trong huyện

28,0

28,3

26,0

26,0

29,1

27,0

Di cư khác huyện

27,0

28,0

24,0

25,0

29,6

27,0

Di cư khác tỉnh

27,0

26,5

24,0

24,0

27,8

25,0

Không di cư

30,2

32,9

27,0

30,0

35,4

34,0

Nam

Di cư trong huyện

27,7

29,8

26,0

29,0

30,8

30,0

Di cư khác huyện

27,3

28,9

24,0

27,0

30,8

29,0

Di cư khác tỉnh

27,0

26,9

25,0

24,0

28,2

26,0

Không di cư

29,0

31,6

26,0

29,0

34,0

32,0

Nữ

Di cư trong huyện

28,2

27,6

25,0

25,0

28,3

26,0

Di cư khác huyện

26,8

27,4

23,0

24,0

28,9

26,0

Di cư khác tỉnh

27,0

26,1

24,0

23,0

27,4

25,0

Không di cư

31,2

34,1

28,0

32,0

36,7

35,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014:

Di cư và đô thị hóa. Nhà xuất bản Thống kê, 85 trang

60

Bảng 1.6 cho thấy tuổi trung bình và trung vị của người di cư chủ yếu

từ 24 đến 30, đây là lứa tuổi của thời kỳ lập nghiệp của một cá nhân nên

người di cư ở lứa tuổi này chủ yếu là để tìm việc làm. Tuổi trung bình của

người di cư ngắn (di cư trong huyện và di cư trong tỉnh) có tăng, chẳng hạn

bảng di cư chung cả nam và nữ thì tuổi trung bình di cư trong huyện năm

1999 là 28, năm 2009 là 28,3, năm 2014 là 29,1 tương tự tuổi trung bình của

người di cư giữa các huyện trong tỉnh năm 1999 là 27, năm 2009 là 28, và

năm 2014 là 29,6.

Bảng 1.7: Cơ cấu giới tính của người di cư và không di cư trong

TĐTDS 1999, 2009, 2014

Đơn vị tính: %

1999

2009

2014

Loại hình di cư

Nam

Nam

Nam

Nữ

Nữ

Nữ

Di cư trong huyện

41,8

58,2

36,4

63,6

34,1

65,9

Di cư giữa các huyện

45,2

54,8

43,4

56,6

40,4

59,6

Di cư giữa các tỉnh

50,0

50,0

47,0

53,1

45,4

54,6

Không di cư

49,0

51,0

49,8

50,2

49,6

50,4

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014:

Di cư và đô thị hóa. Nhà xuất bản Thống kê, 85 trang

Bảng 1.6 và 1.7 cho thấy nữ di cư nhiều hơn nam, đặc biệt là ở bảng 1.7

thì nữ di cư không những cao hơn nam mà tỉ lệ này còn tăng theo các năm ở

cả 3 dòng di cư. Cụ thể di cư trong huyện năm 1999 tỉ lệ nữ di cư là 58,2%

nhưng đến năm 2009 tỉ lệ này đã tăng 63,6% và đến năm 2014 tỉ lệ nữ di cư

lên tới 65,5%. Phân tích tương tự cho di cư giữa các huyện và di cư giữa các

tỉnh thì nữ di cư cũng nhiều hơn nam và tỉ lệ nữ di cư ngày càng tăng. Kết quả

cho thấy khi nền kinh tế ở thời kỳ chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (trồng lúa,

chăn nuôi gia súc,…) thì những phụ nữ ở vùng nông thôn giữ vai trò chủ đạo

61

trong công việc này, do vậy họ ít di cư hơn. Tuy nhiên, ở thời kỳ nền kinh tế

chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, người phụ nữ ở nông

thôn sẽ ít việc làm hơn do ruộng đất cho nông nghiệp bị thu hẹp, năng suất lao

động giản đơn trong nông nghiệp cũng thấp hơn các ngành khác nên phụ nữ

di cư nhiều hơn để tìm việc làm phi nông nghiệp để nâng cao năng suất lao

động và từ đó nâng cao mức sống.

Bảng 1.8: Tỷ lệ dân số tuổi từ 15-54 chia theo dòng di cư

và trình độ chuyên môn kỹ thuật, 2014

Loại hình di cư

Tổng số

Cao đẳng

Sơ cấp

Trung cấp

Đơn vị tính: % Đại học trở lên 16,1

5,9

Di cư trong huyện

100,0

Không có CMKT 65,0

2,5

10,4

6,8

21,9

Di cư giữa các huyện

100,0

58,8

2,4

10,1

5,6

11,8

Di cư giữa các tỉnh

100,0

72,6

2,2

7,7

2,7

6,8

Không di cư

100,0

83,0

1,8

5,7

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014:

Di cư và đô thị hóa. Nhà xuất bản Thống kê, 85 trang

Bảng 1.8 cho thấy người không có trình độ CMKT di cư chiếm tỷ lệ khá

cao ở tất cả các dòng di cư. Đặc biệt, khoảng cách di cư càng xa, tỷ trọng

người di cư có trình độ chuyên môn kỹ thuật được đào tạo càng giảm. Trong

dòng di cư giữa các tỉnh, có tới 72,6% người di cư không có trình độ CMKT.

Thực trạng này cho thấy người di cư phần lớn là lao động giản đơn nên

năng suất lao động thấp. Một điểm đáng chú ý khác là tỷ lệ di cư của những

người có bằng đại học trở lên lại cao hơn hẳn những người có bằng sơ cấp,

trung cấp và cao đẳng. Phát hiện này cho thấy một gợi ý là muốn người di cư

có năng suất lao động tăng thì cần có chính sách hỗ trợ đào tạo chuyên môn

kỹ thuật ở các cấp độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề cho người

lao động trẻ. Kết quả bảng 1.8 còn cho thấy tỷ lệ người có bằng sơ cấp thấp

62

nhất sau đó đến người có bằng cao đẳng, tiếp theo là người có bằng trung cấp,

người có bằng đại học có tỉ lệ cao nhất trong số những người có trình độ

chuyên môn kỹ thuật. Con số này còn cho biết người lao động có tay nghề

(trung cấp nghề, cao đẳng nghề) hiện còn khá ít so với người lao động được

đào tạo đại học trở lên.

Bảng 1.9: Tỷ lệ người di cư và không di cư sống trong các hộ gia đình có điều kiện sống khác nhau phân theo các dòng di cư, TĐTDS 2009 và 2014

Đơn vị tính: %

Loại hình di cư

Cao

Tổng số

Thấp

Trung bình

Điều kiện sống Dưới trung bình

Trên trung bình

Năm 2009

Di cư trong huyện

100,0

12,1

13,8

16,0 21,9

36,2

Di cư giữa các huyện

100,0

7,0

8,9

23,9 10,0

50,2

Di cư giữa các tỉnh

100,0

5,1

7,2

13,4 31,6

42,7

Không di cư

100,0

14,6

19,3

21,1 21,4

23,6

Năm 2014

Di cư trong huyện

100,0

9,2

11,4

16,9 23,1

39,4

Di cư giữa các huyện

100,0

5,3

9,8

15,7 24,7

44,5

Di cư giữa các tỉnh

100,0

5,9

16,1

31,2 25,5

21,3

Không di cư

20,3 22,1

100,0

16,7

25,5

18,7 Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014:

Di cư và đô thị hóa. Nhà xuất bản Thống kê, 85 trang

Bảng 1.9 cho thấy trong dòng di cư giữa các tỉnh, tỷ lệ di cư có điều

kiện sống thấp đến trung bình đều tăng ở giai đoạn 2010-2014 so với giai

đoạn 2004 – 2009. Tuy nhiên, tỷ lệ những người di cư có điều kiện sống trên

trung bình và cao lại giảm đi. Kết quả này cho gợi ý rằng những người có

điều kiện sống thấp đến trung bình có động lực di cư cao hơn những người đã

có mức sống khá. Nói cách khác cải thiện mức sống là động lực chủ yếu để

người lao động di cư.

63

1.5.5. Phân tích di cư từ bộ số liệu Điều tra Lao động việc làm năm 2014

Bộ số liệu Điều tra Lao động – Việc làm do TCTK điều tra hàng năm

cho biết số người và tỉ lệ người di cư, di cư ngắn hạn hay di cư lâu dài và đặc

điểm của người di cư. Trong Bộ số liệu Điều tra Lao động – Việc làm năm

2014 (LFS 2014) có thông tin cho biết một người là di cư hay không di cư, cụ

thể căn cứ vào câu hỏi số 9 trong Bảng hỏi: “Anh/Chị không di chuyển hay

chuyển từ xã/phường/thị trấn khác đến đây được bao lâu?” (4 phương án trả

lời gồm: (1) dưới 6 tháng, (2) từ 6 tháng đến dưới 12 tháng, (3) trên 12 tháng,

(4) không di chuyển), người ta xác định được người di cư theo định nghĩa về

người di cư được Tổng cục Thống kê quy định. Theo định nghĩa này những

người bản địa hoặc những người người di cư ổn định từ 5 năm trở lên (hay từ

60 tháng trở lên) được gọi là người không di cư. Những người di cư dưới 12

tháng còn được gọi là di cư ngắn hạn, những người di cư từ 12 tháng đến dưới

60 tháng được gọi là di cư dài hạn.

Những người di chuyển từ xã/phường/thị trấn khác đến và được hiểu là

di cư từ cấp độ trong quận/huyện trở lên (tức là người đó có thể di cư trong

quận/huyện, có thể di cư khác quận/huyện trong tỉnh, có thể di cư giữa các

tỉnh). Người từ xã khác đến được gọi là di cư từ nông thôn đến, còn người từ

phường/thị trấn khác đến gọi là di cư từ thành thị đến.

Bảng 1.10: Số người và tỷ lệ người di cư trong mẫu điều tra

Số người Tỷ lệ (%)

Không di cư 67,6 31.480

Di cư trong vòng 12 tháng 0,8 378

Di cư trên 12 tháng và dưới 60 tháng 31,6 14.692

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014:

Di cư và đô thị hóa. Nhà xuất bản Thống kê, 85 trang

100,0 46.550 Tổng

64

Kết quả phân tích cho thấy trong Điều tra Lao động – Việc làm năm

2014, trong số 46.550 người được điều tra có trả lời câu 9, có 31.480 người

không di chuyển chiếm 67,6%; 378 người chuyển đến trong vòng 12 tháng,

chiếm 0,8% và 14.692 người di chuyển đến trong thời gian trên 12 tháng và

dưới 60 tháng, chiếm 31,6%.

Bảng 1.11: Số lượng và tỷ lệ người di cư phân theo loại hình và giới tính

Nam giới Nữ giới

Số người Tỷ lệ(%) Số người Tỷ lệ(%)

Không di cư 16.432 73 15.048 62,6

Di cư ≤ 12 tháng 160 0,7 218 0,9

Di cư > 12 tháng 5910 26,3 8782 36,5

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu Điều tra LĐVL 2014

22.502 100,0 24.048 100,0 Tổng

Bảng 1.11 cho thấy trong số 378 người di cư ngắn hạn thì nữ có 218

người, chiếm 57,7% và trong số 14.692 người di cư dài hạn thì nữ có 8.782,

chiếm 59,8%. Như vậy, có thể khẳng định trong cả di cư ngắn hạn lẫn di cư

dài hạn, xu hướng nữ hoá dòng di cư đã hiện rõ.

Bảng 1.12: Số lượng và tỷ lệ người di cư phân theo loại hình và theo tình trạng hôn nhân

Không vợ/chồng Có vợ/chồng

Số người Tỷ lệ(%) Số người Tỷ lệ (%)

Không di cư 10.825 77,4 20.639 63,4

Di cư ≤ 12 tháng 153 1,1 224 0,7

Di cư > 12 tháng 3008 21,5 11.677 35,9

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu Điều tra LĐVL 2014

13.986 100,0 32.540 100,0 Tổng

65

1.5.6. Phân tích di cư từ Bộ số liệu Điều tra Mức sống hộ gia đình

năm 2014

Trong khi Bộ số liệu LFS 2014 cho thông tin di cư đến (nhập cư) ở cấp

độ cá nhân song không cung cấp thông tin di cư ở đầu đi (xuất cư). Để phân

tích quyết định di cư ở đầu đi (xuất cư) thì Bộ số liệu Điều tra Mức sống hộ

gia đình Việt Nam 2014 cho phép bóc tách được một số thông tin hữu ích.

Bộ số liệu Điều tra Mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2014 (VHLSS

năm 2014) được thực hiện trên 9.392 hộ gia đình. Kết quả điều tra cho thấy

có 894 hộ có người xuất cư, chiếm 9,5% trong tổng mẫu.

Bảng 1.13: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

giới tính của chủ hộ

Không xuất cư Có xuất cư Giới tính Tổng số hộ % Số hộ Số hộ %

Nam 6.995 6.319 90,0 676 10,0

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu VHLSS 2014

Nữ 2.397 2.179 91,0 218 9,0

Bảng 1.13 cho biết trong số 9.392 hộ được điều tra, có 6.995 hộ có chủ

hộ là nam giới chiếm 74,48% và trong số đó có 676 hộ có người xuất cư,

chiếm 10%. Số hộ được điều tra có chủ hộ là nữ chiếm 25,52%, trong đó có

218 hộ có người xuất cư, chiếm 9%. Kết quả này cho thấy những hộ gia đình

có nam giới làm chủ hộ có ít nhất một thành viên trong hộ di cư cao hơn ở

những hộ gia đình có phụ nữ làm chủ hộ.

Từ biến tuổi chủ hộ trong bộ số liệu, tác giả tạo biến nhóm tuổi chủ hộ

theo tiêu chí nhóm “thanh niên” (16 – 29 tuổi), nhóm bước vào tuổi trưởng

thành như lập nghiệp, kết hôn, có con nhỏ,…(30 – 39 tuổi), nhóm tuổi trưởng

thành như vững vàng trong công việc, con cái lớn hơn (40 – 49 tuổi) và nhóm

66

lao động cao tuổi (50-59 tuổi) và cuối cùng là nhóm hết tuổi lao động, hưu trí

(≥ 60 tuổi). Vì tuổi của chủ hộ cũng cho biết thông tin hộ có thành viên xuất

cư hay không, vì vậy bảng sau cho thông tin về hộ có người xuất cư theo

nhóm tuổi chủ hộ.

Bảng 1.14: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

nhóm tuổi của chủ hộ

Nhóm tuổi chủ hộ

Tổng số hộ

Không xuất cư Số hộ %

Có xuất cư Số hộ % 3,4

412 398 96,6 14 16 – 29

2,4 1.725 1.684 97,6 41 30 – 39

11,0 2.554 2.270 89,0 284 40 – 49

15,0 2.402 2.051 85,0 351 50 – 59

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu VHLSS 2014

9,0 2.299 2.095 91,0 204 ≥ 60

Bảng 1.14 cho thấy với những hộ gia đình có chủ hộ nằm trong khoảng

tuổi từ 16 đến 39, tỷ lệ hộ có người xuất cư giao động từ 2,4% đến 3,4%.

Trong khi đó, với những hộ gia đình có chủ hộ ở khoảng tuổi trên 40, tỷ lệ hộ

có người xuất cư giao động ở khoảng 9% đến 15%. Kết quả này cho thấy

những hộ có chủ hộ ở độ tuổi từ 40 trở lên có xác suất xuất cư của các thành

viên trong hộ cao hơn hẳn so với những hộ mà chủ hộ ở độ tuổi dưới 40.

Ngoài nhóm tuổi chủ hộ thì trình độ học vấn thông qua bằng cấp của chủ

hộ cũng có ảnh hưởng tới thành viên xuất cư của hộ. Chủ hộ có trình độ cao

giúp định hướng tốt cho các thành viên trong hộ trong việc nên xuất cư hay

không nên xuất cư. Bảng sau cho thông tin về hộ có thành viên xuất cư với

loại bằng cấp của chủ hộ.

67

Bảng 1.15: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

nhóm bằng cấp của chủ hộ

Có xuất cư Bằng cấp chủ hộ Tổng số hộ Không xuất cư Số hộ % Số hộ %

Không đi học hoặc tiểu học 4.096 3.670 89,6 426 10,4

Trung học cơ sở 2.700 2.414 89,4 286 10,6

Trung học phổ thông 1.399 1.291 92,3 108 7,7

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu VHLSS 2014

Cao đẳng hoặc đại học 621 603 97,0 18 3,0

Bảng 1.15 cho thấy tỷ lệ hộ gia đình có người xuất cư trong nhóm hộ gia

đình mà chủ hộ có bằng trung học cơ sở trở xuống cao hơn trong nhóm hộ gia

đình mà chủ hộ có bằng trung học phổ thông trở lên (10,6% và 10,4% so với

7,7% và 3%).

Để có thông tin phân tích di cư các vùng như vùng nào có tỷ lệ xuất cư

cao nhất và vùng nào có tỷ lệ xuất cư thấp nhất xem kết quả bảng dưới đây:

Bảng 1.16: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

theo 6 vùng kinh tế

Vùng

Đồng bằng Sông Hồng

Tổng số hộ 1.992

Không xuất cư Có xuất cư Số hộ % Số hộ % 8,54 170 1.822

91,46

Miền núi phía bắc

1.659

1.527

92,0

132

8,0

Bắc Trung bộ & Duyên hải Nam trung bộ

2.066

1.814

87,8

252

12,2

Tây Nguyên

651

633

97,0

18

3,0

Đông Nam Bộ

1.119

1.094

97,8

25

2,2

Đồng bằng Sông Cửu Long

1.905

1.608

84,4

297

15,6

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu VHLSS 2014

68

Bảng 1.16 cho thấy tỷ lệ hộ có người xuất cư cao nhất ở Vùng Đồng

bằng Sông Cửu Long (15,6%), trong khi đó Vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ hộ

có người xuất cư thấp nhất (2,2%). Kết quả này cho thấy Đông Nam Bộ là

vùng hút người lao động đến (nhập cư cao, xuất cư thấp) còn Đồng bằng

Sông Cửu Long là vùng đẩy người lao động đi (xuất cư cao, nhập cư thấp).

Kết quả này phù hợp với các phân tích từ một nghiên cứu động lực di cư đến

Đông Nam Bộ của Lưu Bích Ngọc và cộng sự (2015).

Ngoài di cư vùng, một tiêu chí cần quan tâm khi phân tích là hộ ở nông

thôn hay thành thị thì có khả năng di cư cao hơn, kết quả bảng sau cho biết

thông tin hộ có người xuất cư nông thôn, thành thị

Bảng 1.17: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và

theo khu vực thành thị - nông thôn

Không xuất cư Có xuất cư Khu vực Tổng số hộ % Số hộ Số hộ %

Thành thị 2.781 2.654 95,4 127 4,6

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu VHLSS 2014

Nông thôn 6.611 5.844 88,4 767 11,6

Bảng 1.17 cho thấy tỷ lệ hộ ở nông thôn có người xuất cư cao hơn 2,5

lần tỷ lệ hộ ở thành thị có người xuất cư, tương ứng là 11,6% so với 4,6%.

Kết quả cho thấy người nông thôn xuất cư nhiều, chứng tỏ ở nông thôn tình

trạng thất nghệp và thiếu việc làm vẫn còn khá cao và luồng di cư nông thôn –

thành thị chiếm ưu thế.

Tình trạng hôn nhân của chủ hộ cũng cho thông tin về hộ có người xuất

cư, để có thông tin về hộ có người xuất cư và tình trạng hôn nhân của chủ hộ,

xem kết quả bảng sau:

69

Bảng 1.18: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và tình trạng hôn nhân của chủ hộ

Tình trạng hôn nhân Tổng số hộ Không xuất cư % Số hộ Có xuất cư Số hộ %

Có vợ hoặc chồng 7.553 6.793 90 760 10

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu VHLSS 2014

Không có vợ hoặc chồng 1.389 1.705 92,7 134 7,3

Bảng 1.18 cho thấy tỷ lệ hộ có người xuất cư thuộc nhóm hộ mà chủ hộ

có vợ hoặc chồng cao hơn ở nhóm hộ mà có chủ hộ không có vợ hoặc chồng,

tương ứng là 10% so với 7,3%, chứng tỏ chủ hộ có vợ hoặc chồng thì sức ép

di cư tìm việc làm hay cải thiện thu nhập cho hộ cao hơn hộ mà chủ hộ không

có vợ/chồng. Hộ mà chủ hộ có vợ/chồng thường kèm theo những người phụ

thuộc trong hộ như con cái, bố mẹ già nên sức ép chi tiêu tối thiểu cho hộ cao

dẫn đến khả năng hộ có thành viên xuất cư cao hơn hộ không có vợ/chồng.

Một trong những động lực xuất cư năm 2014 là hộ nghèo năm 2013, bảng

sau cho thông tin về hộ nghèo năm 2013 và hộ có người xuất cư năm 2014.

Bảng 1.19: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và tình trạng hộ nghèo năm 2013

Tiêu chí hộ gia đình Tổng số hộ Không xuất cư % Số hộ

Có xuất cư Số hộ % 6,0 Nghèo 1.114 1.049 94,0 65

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu VHLSS 2014

10,0 Không nghèo 8.278 7.449 90,0 829

Bảng 1.19 cho thấy tỷ lệ hộ gia đình có người xuất cư ở nhóm hộ nghèo

thấp hơn ở nhóm những hộ không nghèo. Giả thuyết có thể đưa ra ở đây là để

xuất cư được thì cần có chi phí tối thiểu cho việc xuất cư. Hộ nghèo có thể có

động lực xuất cư nhưng không đủ chi phí thực hiện di cư. Nói cách khác

nghèo quá lại là một rào cản cho việc xuất cư.

70

Để có phân tích chi tiết hơn mức sống của hộ với khả năng hộ có ít nhất

một thành viên xuất cư, tác giả đã sử dụng biến nhóm chi tiêu thực đã được

TCTK tạo sẵn trong bộ số liệu, và biến nhóm chi tiêu thực này được chia

thành 5 mức, bảng kết quả sau cho biết mức chi tiêu thực bình quân năm 2014

với hộ có ít nhất một thành viên xuất cư.

Bảng 1.20: Số lượng và phân bố (%) các hộ gia đình theo tình trạng di cư và chi tiêu thực bình quân năm 2014

Đơn vị tính: ngàn đồng

Có xuất cư Mức chi tiêu thực bình quân

năm 2014 Tổng số hộ

Mức 1: từ 2777 đến 14398 Không xuất cư Số hộ % 2.201 2.046 93,0 Số hộ % 7,0 155

Mức 2: từ 14442 đến 20482 1.934 1.707 88,3 227 11,7

Mức 3: từ 20507 đến 27647 1.873 1.627 89,3 201 10,7

Mức 4: từ 27693 đến 39358 1.773 1.588 89,6 185 10,4

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu VHLSS 2014

Mức 5: từ 39568 trở lên 1.611 1.485 92,2 126 7,8

Bảng 1.20 cho thấy tỷ lệ hộ có người xuất cư trong nhóm hộ gia đình có

mức chi tiêu từ mức 2 đến mức 4 gần tương tự như nhau (tương ứng là

11,7%; 10,7% và 10,4%) và cao hơn trong nhóm những hộ có mức chi tiêu ở

mức 1 và mức 5 (tương ứng là 7% và 7,8%). Kết quả này cho thấy hộ gia đình

có mức chi tiêu thấp hẳn hoặc cao hẳn thì lại ít di cư hơnMới nhất, Điều tra

Di cư nội địa quốc gia năm 2015 cũng thực hiện so sánh thu nhập trước và

sau di cư cho thấy khoảng 60% người di cư tự đánh giá thu nhập của họ ở

nơi mới hoặc nơi làm việc mới cao hơn hoặc cao hơn nhiều so với nơi ở cũ

hoặc nơi làm việc cũ, tỷ lệ này ở nữ (62,3%) cao hơn so với nam (55%).

Như vậy, đa số người di cư được hưởng lợi về kinh tế do di chuyển. Có

63,6% người di cư đến cho rằng thu nhập ở nơi đến tốt hơn trước khi di

chuyển và chỉ có 9,2% cho rằng thu nhập kém hơn nơi cũ (TCTK, 2016).

71

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Các phân tích ở chương này cho thấy:

Về lý thuyết di cư: Các lý thuyết vĩ mô về di cư tập trung phân tích luồng

di cư, chẳng hạn từ vùng này đến vùng khác, từ nông thôn ra thành thị (Todaro,

1969; Harris & Todaro, 1970) trong khi các lý thuyết vi mô về di cư (Lee, 1966;

Sjaastad, 1962), thì tập trung phân tích động lực di cư ở cấp độ cá nhân, tức là

phân tích hành vi một cá nhân quyết định di cư hay không di cư (những nhân tố

tác động ở cấp độ cá nhân, chẳng hạn chi phí cho việc di cư, thu nhập dự kiến ở

nơi đến,…). Các lý thuyết trung mô về di cư hay lý thuyết lao động di cư kinh tế

mới (New Economics Labour Migration – NELM) thì tập trung phân tích động

lực di cư ở cấp độ hộ gia đình (Stark, 1991). Luận án này lựa chọn cách tiếp cận

nghiên cứu dựa trên lý thuyết cấp trung mô về di cư hay lý thuyết lao động di cư

kinh tế mới (New Economics Labour Migration – NELM), có nghĩa là phân tích

di cư cấp độ hộ gia đình trong bối cảnh Việt Nam.

Về mô hình phân tích di cư: Tham khảo một số nghiên cứu những năm

gần đây cho thấy một số nghiên cứu điển hình sử dụng các mô hình để phân tích

các động lực di cư ở các quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam.

Trước nhất phải kể đến Syafitri (2012) đã phân tích di cư ở Indonesia và mô

hình này có sử dụng biến đặc điểm hộ gia đình như là một nhóm biến giải

thích có tác động đến quyết định di cư cá nhân. Nghiên cứu của Mahinchai

(2010) phân tích di cư ở Thái Lan và trong mô hình này, tác giả cũng có sử

dụng nhóm biến đặc điểm hộ gia đình giải thích cho khả năng di cư cá nhân.

Tài liệu tham khảo chính được lựa chọn là nghiên cứu của Mendola (2005)

phân tích di cư cấp độ hộ gia đình ở Bangladesh. Mendola đã phân tích các

nhân tố tác động tới xác suất hộ có ít nhất một thành viên di cư bằng mô hình

logit với số liệu mảng, tuy nhiên chiều thời gian mà Mendola phân tích mới

chỉ có hai năm là 1994 và 1995. Nhận thấy đối tượng nghiên cứu của

72

Mendola khá tương đồng với đối tượng nghiên cứu của đề tài này nên tác giả

chọn tài liệu này là tài liệu tham khảo chính cho luận án.

Về mô hình phân tích lợi ích về thu nhập của hộ có người di cư: tác

giả áp dụng phân rã Blinder – Oaxaca để phân tích chênh lệch thu nhập của

hộ có người xuất cư với hộ không có người xuất cư. Phân rã Blinder – Oaxaca

cũng đã được áp dụng để phân tích chênh lệch tiền lương thực tế của người di

cư đến thành thị và người đã ở thành thị của Trung Quốc (Ma, 2016) và các

tác giả Tsafack-Nanfosso & Zamo-Akono (2009) cũng áp dụng phân rã này

để phân tích chênh lệch thu nhập của người nhập cư và người bản địa của

Cameroon.

Khoảng trống nghiên cứu ở Việt Nam

• Về di cư: ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu quan tâm đến quyết

định ở mức cá nhân, ngoài ra nghiên cứu của Nguyễn Thu Phương và cộng sự

(2008) đã sử dụng mô hình Probit để phân tích các nhân tố đặc trưng hộ gia

đình và các nhân tố đặc trưng địa bàn cư trú cấp xã tác động đến xác suất hộ

có thành viên di cư dài hạn (di cư từ 6 tháng đến 12 tháng) và xác suất hộ có

thành viên di cư nhắn hạn (di cư từ 1 tháng đến dưới 6 tháng). Nhận thấy

nghiên cứu của Nguyễn Thu Phương và cộng sự mới nghiên cứu mô hình với

số liệu chéo và với bộ số liệu VHLSS 2004 cách đây đã 14 năm đồng thời

chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu quyết định di cư cá nhân cấp độ hộ gia

đình bằng mô hình số liệu mảng với những bộ số liệu cập nhật. Vì vậy Luận

án nghiên cứu về khía cạnh này. Thêm vào đó, Luận án sử dụng các phương

pháp ước lượng khác nhau cho những bộ số liệu cập nhật nhất. Việt Nam là

một nước đang phát triển nên mối quan hệ giữa các biến số kinh tế thay đổi

khá nhanh, vì vậy việc cập nhật số liệu sẽ mang lại những chứng cứ khoa học

mới nhất cho việc hoạch định chính sách.

73

• Về tác động của di cư: các mô hình nghiên cứu tác động của di cư lên

thu nhập hộ thường có vấn đề về biến nội sinh. Luận án đã giải quyết vấn đề

biến nội sinh. Ngoài ra, Luận án cũng sử dụng thêm phân rã Blinder –

Oaxaca bên cạnh các mô hình truyền thống để đảm bảo tính vững của các kết

quả phân tích cũng như xem xét được một cách chi tiết các khía cạnh của mối

quan hệ giữa di cư lên thu nhập của hộ gia đình.

• Luận án xem xét một cách đồng thời hai vấn đề: các yếu tố (bao gồm

các yếu tố hộ) tác động đến di cư và tác động của di cư đến thu nhập của hộ.

Từ đó có thể giúp đưa ra các khuyến nghị một cách toàn diện hơn cho vấn đề

di cư.

74

CHƯƠNG 2

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mô hình phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di cư hay

không di cư của cá nhân đã được một số nhà nghiên cứu di cư đề xuất sử

dụng mô hình logistic để phân tích quyết định di cư cá nhân (Mahinchai 2010

và Syafitri 2012). Mendola 2005 đã sử dụng mô hình logit với số liệu mảng để

phân tích xác suất hộ có ít nhất một người di cư.

Chương này giới thiệu một số mô hình và phương pháp ước lượng các

mô hình đó. Mô hình logit với số liệu mảng phân tích các nhân tố ảnh hưởng

đến xác suất hộ có ít nhất một người xuất cư. Mô hình logit nhiều mức và mô

hình logit đa trạng thái nhiều mức để phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới

quyết định di cư cá nhân. Các mô hình phân rã Blinder – Oaxaca, mô hình

hồi quy phân vị (với số liệu chéo, số liệu VHLSS năm 2014), mô hình hồi quy

số liệu mảng để phân tích lợi ích về chi tiêu của hộ gia đình có người xuất cư

(số liệu VHLSS các năm 2010, 2012, 2014).

2.1. Mô hình phân tích quyết định di cư

2.1.1. Mô hình logit với số liệu mảng phân tích xác suất hộ gia đình có

(cid:6)((cid:22)*d0(cid:2)+ = 1/F(cid:2)+) =

K i(cid:27) fgh(cid:26)(cid:7)I M FIJ K i (cid:27) (2.1) (cid:31) M fgh(cid:26)(cid:7)I M FIJ * = 1 ÷ 1914, n = 2010; 2012; 2014

ít nhất một người xuất cư

X là véc tơ các biến độc lập (xem bảng 2.2) trong mô hình phân tích xác

suất hộ gia đình có ít nhất một người xuất cư, véc tơ các biến độc lập X bao

gồm các nhóm biến sau:

Nhóm biến liên quan đến đặc điểm của chủ hộ: Giới tính, bằng cấp, tuổi

Nhóm biến liên quan đến hộ: Chi tiêu thực bình quân đầu người, tỷ lệ

75

người phụ thuộc, tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên, các biến kiểm soát

mức sống của hộ gồm các biến: loại nhà, nguồn nước dùng để ăn uống, loại

hố xí.

Nhóm biến liên quan đến môi trường ngoài (gồm các biến cấp tỉnh có

liên quan đến di cư: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, vốn đầu tư thực hiện,

số lao động được tạo việc làm.

là véc tơ hệ số góc cần ước lượng p là hệ số chặn ứng với hộ i 8(cid:2) 2.1.1.1. Các biến số

Biến phụ thuộc

(cid:22)*d0(cid:2)+ = q 1 nếu hộ có ít nhất một người xuất cư 0 nếu hộ không có người xuất cư

Tổng cục Thống kê đã tạo sẵn biến di cư (hộ có người xuất cư) cho từng

năm trong bộ số liệu các năm 2010, 2012, 2014 và có mã hộ để nối số liệu các

biến trong ba năm 2010, 2012 và 2014.

Thông tin trong bảng hỏi của Điều tra các năm 2010, 2012, 2014 là câu 1

và câu 4 mục 1B.

Nối biến di cư trong bộ dữ liệu điều tra các năm 2010 – 2012 – 2014 dựa

vào thông tin trong mục 1C bảng hỏi của Điều tra năm 2012 và 2014.

Các biến độc lập

Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng di cư được xem xét là các đặc điểm

của chủ hộ, của hộ gia đình và những yếu tố thuộc về mức sống hộ gia đình

(yếu tố ảnh hưởng cấp độ trung mô) và đặc điểm phát triển của tỉnh (yếu tố

ảnh hưởng cấp độ vĩ mô). Các yếu tố đặc điểm của chủ hộ và hộ gia đình

gồm: giới tính, tuổi, bằng cấp chuyên môn của chủ hộ, tỷ số phụ thuộc, tỷ lệ

lao động có bằng đại học trong hộ.

Syafitri (2012) và Mendola (2005) đã xác định có 2 nhóm nhân tố tác

động đến động lực xuất cư của một thành viên trong gia đình đó là nhóm

76

“trong” và nhóm “ngoài”. Kế thừa nghiên cứu của các tác giả trên, tác giả

cũng xác định 2 nhóm nhân tố tác động đến động lực xuất cư của của thành

viên trong hộ như sau:

Bảng 2.1: Nhóm nhân tố tác động tới động lực xuất cư

Nhóm Gồm các nhân tố (hay các biến)

“trong” Thứ nhất: liên quan đến chính những người di cư (như giới

tính, tuổi, tình trạng hôn nhân, bậc đào tạo (tay nghề), kỹ

năng làm việc,…

Thứ hai: liên quan đến hộ gia đình của người di cư, bao gồm

các đặc điểm của chủ hộ, mức sống của hộ thể hiện qua mức

chi tiêu bình quân thực của hộ, hoàn cảnh sống của hộ (như

loại nhà, nguồn nước, hố xí,…)

Nhóm Gồm các nhân tố cấp tỉnh - thành phố như cơ sở hạ tầng

“ngoài” (thông qua vốn đầu tư thực hiện), số lao động được tạo việc

Nguồn: Syafitri (2012) và Mendola (2005)

làm, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (chỉ số PCI)

Đưa các biến vào mô hình, do số liệu của các cá nhân xuất cư trong bộ

số liệu VHLSS không nối được với bộ số liệu của hộ gia đình, vì vậy mặc dù

tác giả rất muốn nhưng không thể đưa các biến thể hiện đặc điểm các nhân của người di cư vào mô hình được2.

+ Nhóm biến liên quan đến đặc điểm chủ hộ

Thực tế, chủ hộ gia đình là người có vai trò rất lớn trong hộ. Vì thế một

giả thuyết được đưa ra ở đây là đặc điểm của chủ hộ cũng tác động mạnh đến

quyết định di cư của các thành viên trong hộ. Do vậy, tác giả đã đưa nhóm

2 Muốn nối được số liệu thì cần id

biến này vào mô hình để phân tích.

77

- Giới tính chủ hộ: Biến này được sử dụng nhằm xem xét sự khác biệt

giữa chủ hộ là nam giới hay không là nam giới có tác động khác nhau hay

không đến khả năng có thành viên trong hộ xuất cư. Biến này được sử dụng

trong mô hình như một biến giả.

- Bằng cấp của chủ hộ: Mục đích sử dụng biến này xem những chủ hộ có

bằng cấp cao (chẳng hạn có bằng đại học) thì ảnh hưởng đến khả năng hộ có

người xuất cư như thế nào. Tác giả cho rằng những chủ hộ có trình độ cao sẽ

định hướng tốt cho các thành viên khác trong hộ về giáo dục cũng như đào tạo

nghề để có thể tìm việc thích hợp ở nơi cư trú hiện thời mà không phải xuất cư.

Biến này là biến định tính có thứ bậc và tác giả chọn mức 2 là mức chủ hộ có

bằng tốt nghiệp trung học cơ sở là trạng thái tham chiếu vì theo số liệu thống kê

bằng cấp chủ hộ năm 2014 thì kết quả cho giá trị trung bình là 1,99.

- Tuổi chủ hộ: Mục đích sử dụng biến này là xem xét chủ hộ ở nhóm tuổi

nào thì hộ có khả năng có người xuất cư cao. Tuổi chủ hộ phản ánh kinh

nghiệm cũng như sự chín chắn trong suy nghĩ của chủ hộ, điều này có ảnh

hưởng đến việc định hướng cho các thành viên khác trong hộ. Mặt khác tuổi

chủ hộ cũng phản ánh thời kỳ mà mối liên kết giữa các thành viên trong hộ là

chặt chẽ hay không chặt chẽ, con cái họ ở độ tuổi còn đi học hay đã trưởng

thành. Biến này cũng là biến định tính có thứ bậc và tác giả chọn mức 2 là

mức tuổi chủ hộ từ 30 đến 39 là trạng thái tham chiếu. Theo tác giả chủ hộ ở

nhóm tuổi này đã bắt đầu ổn định cuộc sống với gia đình riêng, họ phải đưa ra

những quyết định về nơi sinh sống cho hộ để phù hợp với nơi làm việc của

các thành viên trong hộ. Vì vậy, họ thường phải đưa ra quyết định là có di cư

hay không di cư.

+ Nhóm biến liên quan đến mức sống của hộ

Căn cứ theo Quyết định số 43/2010/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ

ban hành ngày 02/06/2010 về hệ thống các chỉ tiêu thống kê quốc gia đo

78

lường mức sống dân cư của Việt Nam và mức độ sẵn có của số liệu trong Bộ

số liệu VHLSS các năm 2010, 2012 và 2014, các chỉ tiêu về mức sống hộ gia

đình được lựa chọn gồm:

- Chi tiêu thực bình quân đầu người của hộ: Đây là một biến số quan

trọng trong mô hình phân tích, biến số này sẽ cho biết phần nào mức sống của

hộ gia đình ở những nhóm chi tiêu khác nhau sẽ tác động khác biệt như thế

nào đến xác suất hộ có ít nhất một người xuất cư. Nghiên cứu này sử dụng các

nhóm chi tiêu được chia theo ngũ phân vị bởi các chuyên gia của Ngân hàng

Thế giới (WB) đã thực hiện cho Bộ số liệu VHLSS 2010, 2012, 2014. Mức

phân vị thứ 3 được chọn làm trạng thái tham chiếu so với hai mức chi tiêu

thấp hơn là mức 1 và 2 và so với hai mức chi tiêu cao hơn là mức 4 và 5.

Luận án lựa chọn trễ một thời kỳ của biến nhóm chi tiêu để phân tích vì

2 lý do:

+) Kiểm định xem những hộ có mức sống thấp hơn mức trung bình ở

thời kỳ trước thì có tác động làm tăng khả năng xuất cư ở thời kỳ sau hay

không.

+) Tránh hiện tượng biến di cư lại tác động ngược trở lại tới biến chi tiêu

của hộ.

- Tỷ số phụ thuộc trong hộ: Biến này được xác định bằng tổng số người

dưới độ tuổi lao động (dưới 15 tuổi) và người trên độ tuổi lao động (trên 65

tuổi) chia cho tổng số người trong độ tuổi lao động (từ 15 - 64 tuổi) là thành

viên của hộ. Giả thuyết được đặt ra khi sử dụng biến số này là hộ có tỷ số này

càng cao (tức là người trong độ tuổi lao động của hộ này phải gánh nhiều người “ăn theo”) thì tác động đến khả năng xuất cư càng tăng.

- Tỷ lệ lao động trong hộ có trình độ đại học: Biến này được xác định

bằng số người trong độ tuổi lao động có bằng đại học của hộ chia cho tổng số

người trong độ tuổi lao động của hộ. Mục đích sử dụng biến này để xem

những hộ có tỷ lệ lao động được đào tạo bậc cao thì khả năng xuất cư của lao

động trong hộ là cao hay thấp.

79

+ Nhóm biến liên quan đến hoàn cảnh sống của hộ (nhóm biến

kiểm soát)

- Các biến loại nhà, nguồn nước dùng cho ăn uống, loại hố xí đều phản

ánh mức sống của hộ gia đình, vai trò của các biến này như là các biến kiểm

soát giúp cho việc phân tích được chặt chẽ hơn. Ta biết rằng ngoài mức thu

nhập, thể hiện điều kiện kinh tế tức thời, thì một số yếu tố khác như: loại nhà,

nguồn nước dùng cho ăn uống hay loại hố xí giúp phân biệt được rõ hơn tiềm

lực kinh tế dài hạn của hộ gia đình. Những gia đình có loại nhà thiếu kiên cố

sẽ cố gắng hơn trong việc tìm việc làm, do đó có động lực di cư. Tác giả giả thuyết rằng hộ nghèo thì các thành viên trong độ tuổi lao động của hộ luôn

mong muốn xuất cư để tìm việc, tuy nhiên nếu quá nghèo thì mặc dù có mong

muốn xuất cư, họ cũng khó thực hiện được vì để di cư, ngoài sự mong muốn,

còn cần phải có chi phí tối thiểu ở nơi đến để tìm việc, thuê trọ và chi tiêu cho

ăn uống.

Nhóm biến “ngoài”: Một số chỉ tiêu cấp tỉnh có liên quan đến di cư

- Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (Provincial Competitiveness Index

– PCI): nghiên cứu chỉ số này là một trong những điều tra xã hội học lớn và

toàn diện nhất cả nước, PCI được sử dụng như một công cụ quan trọng để đo

lường và đánh giá công tác quản lý và điều hành kinh tế của 63 tỉnh, thành

phố Việt Nam trên 9 lĩnh vực có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khu vực

kinh tế dân doanh. Nghiên cứu PCI cũng xây dựng chỉ số đánh giá chất lượng

cơ sở hạ tầng cấp tỉnh, vốn được coi là một trong những rào cản lớn nhất đối

với đầu tư. Mục đích sử dụng biến này để xem xét công tác quản lý và điều

hành kinh tế (được xem như biến đại diện cho thể chế) (Syafitri, 2012) của

chính quyền cấp tỉnh có tác động đến xuất cư như thế nào, tác giả giả thuyết

là tỉnh được các doanh nghiệp đánh giá tốt về năng lực cạnh tranh sẽ làm

giảm khả năng xuất cư (bởi vì chỉ số PCI cao tức là công tác quản lý và điều

hành của tỉnh đó được các doanh nghiệp đánh giá tốt, điều này sẽ thu hút đầu

80

tư và làm gia tăng việc làm tại tỉnh, dẫn đến người lao động ở lại trong tỉnh để

làm việc không phải xuất cư tìm việc) (kỳ vọng dấu âm).

- Vốn đầu tư thực hiện cấp tỉnh: Kỹ thuật đo lường “trễ một thời kỳ”

được sử dụng với biến số này để xem xét những tỉnh có vốn đầu tư thực hiện

gia tăng ở thời kỳ trước có tác động làm giảm xác suất xuất cư ở thời kỳ sau

(kỳ vọng dấu âm). Thực tế cho thấy những tỉnh có vốn đầu tư thực hiện gia

tăng sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư mở doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, tạo

ra việc làm, thu hút người lao động từ đó người lao động không phải xuất cư.

- Số lao động được tạo vệc làm cấp tỉnh: Kỹ thuật đo lường “trễ một

thời kỳ” được sử dụng với biến số này để xem những tỉnh tạo được nhiều

việc làm ở thời kỳ trước có giữ người lao động ở lại tỉnh thời kỳ sau hay

không (kỳ vọng dấu âm). Puhani (1999) đã đưa biến tỷ lệ thất nghiệp vào

mô hình để phân tích. Tuy nhiên, ở Việt Nam, do hạn chế trong công tác

thống kê, dữ liệu về tỷ lệ thất nghiệp cấp tỉnh không thu thập được, tác giả

đã lấy biến “số lao động được tạo việc làm cấp tỉnh” để thay cho biến tỷ lệ

thất nghiệp để phân tích.

Một số biến khác cấp tỉnh có tác động mạnh đến di cư nhưng không đưa

vào mô hình, chẳng hạn biến quy mô dân số. Ta biết rằng dân số của 2 thành

phố lớn là Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh rất lớn so với dân số các tỉnh

thành khác trong cả nước nên nếu đưa biến dân số vào mô hình mà không

tách 2 thành phố này thì kết quả ước lượng sẽ bị sai lệch. Việc thực hiện tách,

tác giả đã tạo biến giả “thành phố lớn” để tách dân số 2 thành phố này, ngoài

ra tác giả còn tạo biến Vùng (có 6 vùng là Đồng bằng Sông Hồng, Miền núi

phía bắc, Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung, Tây nguyên, Đông Nam bộ,

Đồng bằng Sông Cửu Long). Tuy nhiên, khi ước lượng mô hình Logit Panel

tác động cố định bằng phương pháp hợp lý cực đại có điều kiện, phần mềm tự

động loại bỏ biến Vùng và biến thành phố lớn do đó biến quy mô dân số

không được đưa vào mô hình, mặc dù biến này có tác động lớn đến di cư.

81

Bảng 2.2: Mô tả và các giá trị của biến độc lập trong mô hình phân tích động

lực xuất cư các năm 2010, 2012, 2014

Tên Giải thích biến

Dicu

Xuất cư Những giá trị của biến 0: Hộ không có người xuất cư 1: Hộ có người xuất cư

gioitinh_ch Giới tính chủ hộ 1: Nam; 0: Nữ

bangcap_chuho Bằng cấp của chủ hộ 1: Không đi học hoặc có bằng tiểu

học 2: Có bằng THCS 3: Có bằng THPT 4: Có bằng cao đẳng/đại học trở lên

nhomtuoi_ch Nhóm tuổi chủ hộ

1: từ 16 đến 29 2: từ 30 đến 39 3: từ 40 đến 49 4: từ 50 đến 59 5: từ 60 trở lên

theo 5

nhomchitieu (chia phân vị)

Chi tiêu thực bình quân đầu người của hộ (đơn vị nghìn đồng)

Năm 2010 Mức1: từ 1.205 đến 8.152 Mức2: từ 8.185 đến 11.716 Mức3: từ 11.725 đến 16.181 Mức4: từ 16.211 đến 24.139 Mức5: từ 24.312 trở lên

Năm 2012 Mức1: từ 2.066 đến 11.763 Mức2: từ 11.796 đến 16.799 Mức3: từ 16.817 đến 22.867 Mức4: từ 22.912 đến 32.985 Mức5: từ 33.008 trở lên

Năm 2014 Mức1: từ 2.777 đến 14.398 Mức2: từ 14.442 đến 20.482

82

Tên Giải thích biến Những giá trị của biến

Mức3: từ 20.507 đến 27.647 Mức4: từ 27.693 đến 39.358 Mức5: từ 39.568 trở lên

tl_phuthuoc

Tỷ số người phụ thuộc

(số người dưới tuổi lao động + số người trên tuổi lao động)/(số người trong tuổi lao động của hộ)

tl_daihoc Tỷ lệ đại học Nhận giá trị trong khoảng (0;1)

loainha Loại nhà

1: Kiên cố 2: Nhà bán kiên cố 3: Nhà tạm/các loại nhà khác

ngnuoc

Nguồn nước dùng (ăn, uống)

1: Nước máy 2: Nước giếng 3: Nước mưa và khác

loaihoxi Loại hố xí

1: Tự hoại/bán tự hoại 2: Thô sơ 3: Không có hố xí/hố xí loại khác

PCI

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Biến liên tục nhận giá trị trong khoảng từ 45,12 đến 69,77

Lvondt

Loga (Vốn đầu tư thực hiện cấp tỉnh) Biến liên tục nhận giá trị trong khoảng từ 14,85 đến 19,27

vieclam

Nguồn: Tác giả tự xây dựng

Số lao động được tạo việc làm cấp tỉnh Biến liên tục nhận giá trị trong khoảng từ 7,5 đến 12,22

2.1.1.2. Mô hình tác động cố định phù hợp hay mô hình tác động ngẫu

nhiên phù hợp

Mô hình được viết dưới dạng sau:

∗ (cid:22)*d0(cid:2)+

ƒ = F(cid:2)+

(2.2) i + d(cid:2) + ;(cid:2)+

∗ 1 5ế0 (cid:22)*d0(cid:2)+ ∗ 0 5ế0 (cid:22)*d0(cid:2)+

(cid:22)*d0(cid:2)+ = q > 0 ≤ 0

83

+) Nếu giả thiết ci không tương quan với xit hay hàm mật độ f(ci / xit)

không phụ thuộc vào xit được thỏa mãn thì ta có mô hình tác động ngẫu nhiên

(Greene, 2012:718).

Với mô hình Logit và Probit tác động ngẫu nhiên ta viết lại mô hình:

ƒ i) exp(0(cid:2) + F(cid:2)+ ƒ 1 + exp(0(cid:2) + F(cid:2)+

(cid:6)((cid:22)*d0(cid:2)+ = 1/F(cid:2)+) = (2.3) i)

ƒ (cid:6)((cid:22)*d0(cid:2)+ = 1/F(cid:2)+) = ˆ(0(cid:2) + F(cid:2)+

(2.4) i)

Trong đó ui được xem như các biến ngẫu nhiên ứng với hộ i.

+) Nếu giả thiết ci tương quan với xit được thỏa mãn thì ta có mô hình tác

động cố định (Greene, 2012:721).

Với mô hình Logit và Probit tác động cố định ta viết lại mô hình:

ƒ i) exp(8(cid:2) + F(cid:2)+ ƒ 1 + exp(8(cid:2) + F(cid:2)+

(cid:6)((cid:22)*d0(cid:2)+ = 1/F(cid:2)+) = (2.5) i)

ƒ (cid:6)((cid:22)*d0(cid:2)+ = 1/F(cid:2)+) = ˆ(8(cid:2) + F(cid:2)+ Trong đó αi được xem như các hằng số.

(2.6) i)

Phương pháp ước lượng mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect -

RE) là phương pháp mô phỏng hợp lý cực đại (maximum simulated

likelihood – MSL), còn phương pháp ước lượng mô hình tác động cố định

(Fixed Effect - FE) là phương pháp hợp lý cực đại có điều kiện (Conditional

Maximum Likelihood – CML) (Greene, 2012:720-723).

Để kiểm định xem mô hình tác động ngẫu nhiên phù hợp hay mô hình

"

.(cid:31)

χ

[(cid:144)(cid:28)‘(cid:26)i‹Œ(cid:141)Ž(cid:27) − (cid:144)(cid:28)‘(cid:26)i‹(cid:141)Ž(cid:27)]

(cid:26)i‹Œ(cid:141)Ž − i‹(cid:141)Ž(cid:27) ~ χ

"((cid:12)) (2.7)

ƒ = (cid:26)i‹Œ(cid:141)Ž − i‹(cid:141)Ž(cid:27) Với cặp giả thuyết:

tác động cố định phù hợp ta dùng kiểm định Hausman:

H0 : Mô hình phù hợp là mô hình tác động ngẫu nhiên

H1 : Mô hình phù hợp là mô hình tác động cố định

84

" χ•P

" > χ(cid:7)

Với mức ý nghĩa α mà thì ta bác bỏ H0, kết luận mô hình ((cid:12)) phù hợp là mô hình tác động cố định (Greene, 2012:724).

2.1.1.3. Phương pháp ước lượng a. Mô hình logit tác động ngẫu nhiên

Mô hình tác động ngẫu nhiên có thể dùng được trong cả hai dạng mô

hình logit và probit. Mô hình logit và probit với số liệu mảng cũng sử dụng

phương pháp ước lượng hợp lý tối đa giống như đối với số liệu chéo. Phương

pháp ước lượng hợp lý tối đa với mô hình tác động ngẫu nhiên giả định rằng

các phần ảnh hưởng riêng biệt là phân phối chuẩn với trung bình bằng 0 và

",

" 8(cid:2)~ <(0; @(cid:7)

" tối đa hóa

š

phương sai là . @(cid:7) và ) Mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên sẽ đi ước lượng i @(cid:7) logarit hàm hợp lý, ký hiệu là:

(cid:2)Q(cid:31)

–– = — 45]((cid:22)*d0(cid:2)|F˜, i, @(cid:7) ") (2.8)

"

(cid:31)

(cid:7)I

Trong đó:

(cid:15) (cid:20) , b−

(cid:15)c

") = › ]((cid:22)*d0(cid:2)|F˜, i, 8(cid:2))

"žŸ

œ"(cid:157)žŸ

(2.9) (cid:22)8(cid:2) ]((cid:22)*d0(cid:2)|F˜, i, @(cid:7)

b. Mô hình logit tác động cố định

Phương pháp ước lượng mô hình tác động cố định với biến phụ thuộc

dạng nhị thức trong số liệu mảng chỉ sử dụng được cho mô hình logit và

không thể ước lượng được cho các mô hình dạng khác như probit. Hồi quy

logit với tác động cố định trong số liệu mảng bản chất là ước lượng mô hình

hồi quy logit có điều kiện và được ước lượng theo phương pháp ước lượng

hợp lý tối đa.

Hàm mật độ đồng thời của đối với (cid:22)*d0(cid:2) = ((cid:22)*d0(cid:2)(cid:31), (cid:22)*d0(cid:2)", … , (cid:22)*d0(cid:2)¢) mô hình logit:

"(cid:29)(cid:31)%

¤(cid:2)¥¦IJ

¤(cid:2)¥¦IJ

1

]((cid:22)*d0(cid:2)|F˜, i, 8(cid:2)) = £ /

3

/

3

ƒ i) exp(8(cid:2) + F(cid:2)+ ƒ 1 + exp(8(cid:2) + F(cid:2)+

i)

i)

ƒ 1 + exp(8(cid:2) + F(cid:2)+

+Q"(cid:29)(cid:31)(cid:29)

"(cid:29)(cid:31)% +Q"(cid:29)(cid:31)(cid:29)

85

ƒ (cid:22)*d0(cid:2)+(8(cid:2) + F(cid:2)+ ƒ (1 + exp(8(cid:2) + F(cid:2)+

= (2.10) (cid:20) ,(∑ "(cid:29)(cid:31)% ∏ +Q"(cid:29)(cid:31)(cid:29) i) ) i))

Đối với số liệu mảng, hàm mật độ trên có điều kiện phụ thuộc vào , để

ước lượng được các hệ số cần loại bỏ các trong phương trình ước lượng. Đối

với đối tượng thứ i, từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm kết thúc T, có tổng

+

+

+

các thời điểm nhận giá trị bằng 1. ∑ (cid:22)*d0(cid:2)+ Đặt tập là tập tất cả các chuỗi các số © (¥ = ¨(cid:22)(cid:2)| ∑ (cid:22)(cid:2)+ = ∑ (cid:22)*d0(cid:2)+ = d 0 và 1 có tổng tất cả các giá trị của T thời kỳ bằng c. Khi đó với điều kiện

+

, hàm mật độ đồng thời sau khi lược bỏ là: ∑ (cid:22)*d0(cid:2)+ = d

+

+

) ] 6(cid:22)*d0(cid:2)ª — (cid:22)*d0(cid:2)+ = d, F˜, i7 = ) (cid:6)((cid:22)*d0(cid:2), ∑ (cid:22)*d0(cid:2)+ = d + (cid:6)(∑ (cid:22)*d0(cid:2)+ = d

ƒ (cid:20) ,(cid:26)(∑ (cid:22)*d0(cid:2)+F(cid:2)+ +

(2.11)

+

¤∈¬

¤∈¬

(cid:6)((cid:22)*d0(cid:2)) = = = ∑ ) (cid:6)((cid:22)(cid:2)) ∑ )i(cid:27) ƒ (cid:20) , b(∑ (cid:22)(cid:2)+F(cid:2)+ + )ic

(cid:6)((cid:22)*d0(cid:2)) (cid:6)(∑ (cid:22)*d0(cid:2)+ = d c. Một vài thảo luận với kỹ thuật ước lượng trên phần mềm Stata

+) Việc thực hiện ước lượng mô hình Pooled Logit và Pooled Probit

bằng phương pháp hợp lý cực đại thông thường ta thực hiện ước lượng như

mô hình Logit và Probit với số liệu chéo. Tuy nhiên giả thiết các đặc tính

không quan sát được là thuần nhất hầu như không gặp trong thực tế nên ước

lượng mô hình gộp không được thực hiện trong luận án này.

+) Với mô hình Logit: Nếu mô hình phù hợp là mô hình tác động cố định

thì phương pháp ước lượng FE (Fixed Effect) được thực hiện. Do phương pháp

này thực hiện là phương pháp hợp lý tối đa có điều kiện nên phần mềm tự động

loại bỏ các biến giải thích là biến giả (biến nhận giá trị 0 – 1) do kỹ thuật ước

86

lượng mô hình này cần loại bỏ αi. Một lưu ý nữa là số quan sát khi thực hiện ước

lượng bằng phương pháp này giảm đi khá nhiều vì đây là phương pháp ước

lượng với điều kiện biến độc lập cho trước đối với từng tham số.

Nếu mô hình phù hợp là mô hình tác động ngẫu nhiên thì phương pháp

ước lượng RE (Random Effect) được thực hiện chính là phương pháp hợp lý

tối đa tương tự như ước lượng với mô hình số liệu chéo.

+) Với mô hình Probit: Phần mềm không thực hiện ước lượng mô hình

tác động cố định, với mô hình tác động ngẫu nhiên thì phương pháp ước

lượng tương tự như ước lượng mô hình Logit tác động ngẫu nhiên.

2.1.1.4. Một số ưu điểm của mô hình logit với số liệu mảng trong phân

tích di cư

Trong thực tiễn, có người cả đời không di cư nhưng cũng có người lại

lựa chọn di cư nhiều lần, do vậy lựa chọn di cư hay không di cư suy cho cùng

là quyết định của mỗi cá nhân. Nếu sử dụng mô hình logit với số liệu chéo để

phân tích di cư thì ta chỉ phân tích được tức thời các nhân tố tác động đến quyết

định có di cư hay không di cư của người lao động ở một thời điểm nào đó mà

ta không phân tích được động thái di cư theo thời gian. Mô hình logit số liệu

mảng giúp ta phân tích các nhân tố tác động đến quyết định có di cư hay không

di cư của người lao động ở những thời kỳ khác nhau theo thời gian. Quá trình

di cư là một quá trình động nên mô hình phù hợp nhất để phân tích di cư là mô

hình số liệu mảng động (Puhani, 1999). Luận án sử dụng mô hình logit có có

yếu tố trễ một thời kỳ để phân tích xác suất hộ có thành viên xuất cư.

2.1.2. Mô hình logit đa trạng thái phân tích các nhân tố ảnh hưởng

đến quyết định di cư cá nhân

Do bộ số liệu VHLSS không nối được cá nhân di cư tương ứng với hộ của

người đó, trong khi việc phân tích một số nhân tố như đặc điểm cá nhân tác

động đến quyết định di cư của chính người đó là rất cần thiết, do vậy tác giả

87

sử dụng bộ dữ liệu Điều tra lao động việc làm năm 2014 (LFS 2014) cũng do

TCTK cung cấp để phân tích các nhân tố tác động đến quyết định di cư cá

nhân. Trong mục 3.4 chương 3 về thực trạng di cư ở Việt Nam, tác giả đã mô

tả rõ số liệu liên quan đến di cư của bộ số liệu LFS 2014.

Một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến di cư là bậc đào

tạo hay trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động, phần phân tích di

cư từ Bộ số liệu Điều tra Lao động - Việc làm năm 2014 (mục 1.5.5) cho thấy

người không qua đào tạo di cư nhiều nhất, với di cư ngắn hạn có 44,94% lao

động nam giới di cư là những người chưa qua đào tạo, còn với những người

nữ di cư, con số này là 43,06%. Với di cư dài hạn, nam di cư là những người

chưa qua đào tạo chiếm 54,18%, tỷ lệ này ở nhóm nữ di cư là 64,2%. Nhóm

người di cư có tần suất cao thứ hai là những người có trình độ chuyên môn sơ

cấp nghề và nhóm di cư có tần suất cao thứ ba là những người đã tốt nghiệp

đại học trở nên.

Kết quả phân tích tình hình di cư cho thấy có 378 người di cư ngắn hạn

có câu trả lời từ xã/phường/thị trấn đến và di cư cùng tỉnh hay khác tỉnh.

Trong số 378 người di cư ngắn hạn thì có 213 người từ phường/thị trấn khác

đến (nơi xuất cư là thành thị), chiếm 56,35% và có 165 người từ xã khác đến

(nơi xuất cư là nông thôn), chiếm 43,65%. Cũng trong 378 người di cư ngắn

hạn thì có 209 người di cư cùng tỉnh, chiếm 55,3% và 169 người di cư khác

tỉnh, chiếm 44,7%.

Tổng quan các nghiên cứu trước cho thấy một trong những nhóm nhân

tố tác động mạnh đến động lực di cư là nhóm “trong” tức là nhóm nhân tố đặc

điểm của chính người di cư và nhóm nhân tố “ngoài” tức là nhóm nhân tố liên

quan đến đặc điểm địa bàn nơi cư trú của người di cư (Syafitri, 2012;

Mendola, 2005). Từ lý do này tác giả phân tích các nhân tố “trong” và nhân tố

“ngoài” tác động đến xác suất không di cư, di cư ngắn hạn và di cư dài hạn

bằng mô hình logit đa trạng thái.

88

Biến phụ thuộc “dicu” có 3 trạng thái: (dicu = 0) với người không di

chuyển (được chọn là trạng thái tham chiếu); (dicu = 1) ứng với người di

chuyển trong vòng tháng (hay còn gọi là di cư ngắn hạn); (dicu = 2) ứng với

người di chuyển trên 12 tháng và dưới 60 tháng (hay còn gọi là di cư dài hạn).

Nếu đặt Z là véc tơ các biến độc lập (xem bảng 2.5) trong mô hình logit

đa trạng thái phân tích quyết định không di cư (dicu = 0), di cư trong vòng 12

tháng (dicu = 1), di cư trên 12 tháng (dicu = 2) thì ta có mô hình sau:

,(cid:29) = (cid:6)((cid:22)*d0 = 0) =

1 1 + ((cid:20)(cid:7)(cid:14)M ®H + (cid:20)(cid:10)(cid:14)M ¯H) (cid:7)(cid:14)M ®H (cid:20) ,(cid:31) = (cid:6)((cid:22)*d0 = 1) =

1 + ((cid:20)(cid:7)(cid:14)M ®H + (cid:20)(cid:10)(cid:14)M ¯H) (cid:10)(cid:14)M ¯H (cid:20) ," = (cid:6)((cid:22)*d0 = 2) = 1 + ((cid:20)(cid:7)(cid:14)M ®H + (cid:20)(cid:10)(cid:14)M ¯H) Trong đó:

,(cid:29) + ,(cid:31) + ," = 1

là hệ số chặn, là véc tơ hệ số của các biến độc 8(cid:31) ® = ( 8", 8#, … , 8(cid:31)°) lập trong mô hình ứng với trạng thái (dicu = 1)

là hệ số chặn, là véc tơ hệ số của các biến độc ±(cid:31) ¯ = ( ±", ±#, … , ±(cid:31)°) lập trong mô hình ứng với trạng thái (dicu = 2).

Nhóm nhân tố “trong” gồm các biến:

- Giới tính (gender): Mục đích sử dụng biến này nhằm xem xét sự khác

biệt giữa nam và nữ trong khả năng di cư. Có ý kiến cho rằng hiện nay nữ có

xác suất di cư nhiều hơn, liệu ý kiến này có đúng hay không?

- Nhóm tuổi (agegr): Mục đích sử dụng biến này xem xét khi tuổi của

người lao động tăng lên sẽ làm tăng hay giảm khả năng di cư. Người lao động

ở nhóm tuổi nào thì có khả năng di cư cao. Biến này được chia thành 3 nhóm

[nhóm lao động trẻ (16 – 29), nhóm lao động trưởng thành (25 – 49) và nhóm

lao động cao thuổi (≥ 50)].

89

- Dân tộc (dantoc): Mục đích sử dụng biến này nhằm xem xét sự khác

biệt giữa dân tộc kinh và dân tộc khác trong khả năng di cư.

- Tình trạng hôn nhân (married): Mục đích sử dụng biến này nhằm xem

xét sự khác biệt giữa người có vợ hoặc chồng (hay còn gọi là những người có

ràng buộc hôn nhân) và những người không có vợ chồng (hay còn gọi là

những người không có ràng buộc hôn nhân, như: chưa kết hôn, ly hôn, ly

thân, góa) trong khả năng di cư.

- Chuyên môn kỹ thuật (CMKT): Mục đích sử dụng biến này nhằm xem

xét sự khác biệt giữa những người được đào tạo nghề (sơ cấp nghề, trung cấp

nghề,… đến đại học trở lên) và những người chưa qua đào tạo nghề trong khả

năng di cư xem nhóm nào có khả năng di cư cao hơn? Từ đó có những tư vấn

định hướng đào tạo phù hợp.

Nhóm nhân tố “ngoài” gồm các biến:

- Tiền lương (wage): Nhằm đánh giá tác động của tín hiệu thị trường về

di chuyển lao động, tiền lương thị trường được xem xét như là yếu tố tác động

đến khả năng hút lao động (gia nhập) hoặc đẩy (thoát khỏi) một thị trường

(cấp tỉnh). Biến tiền lương thị trường được xác định bằng tiền lương bình

quân trên mỗi địa bàn của một tỉnh của những người đang làm công hưởng

lương trên thị trường đó.

- Thành thị - nông thôn (urban): Mục đích sử dụng biến này nhằm xem

xét sự khác biệt giữa người đến từ phường/thị trấn (di cư thành thị) và đến từ

xã (di cư nông thôn) trong khả năng di cư.

- Vùng cư trú hiện tại (V): Mục đích sử dụng các biến này nhằm xem xét

sự khác biệt cư trú ở các vùng khác nhau trong khả năng di cư. Các phân tích

mô tả cho thấy Đông Nam Bộ đang là vùng thu hút nhập cư mạnh nhất. Liệu

khả năng người lao động di cư đến vùng Đông Nam Bộ là cao nhất cả nước

hay không? Ngược lại vùng nào thì khả năng người di cư đến thấp nhất?

90

Bảng 2.3: Mô tả và các giá trị của biến độc lập trong mô hình phân tích các

nhân tố ảnh hưởng đến di cư cá nhân từ Bộ số liệu LFS 2014

Những giá trị của biến

Tên biến Giải thích biến Di cư Mig

Gender Giới tính Agegr

Nhóm tuổi

Dân tộc

trạng hôn

Ethnic Married Tình nhân

0: di cư trên 60 tháng hoặc không di cư 1: di cư trong vòng 12 tháng 2: di cư từ trên 12 tháng đến 60 tháng 0: Nữ ; 1: Nam 1: từ 15 đến 24 (nhóm lao động trẻ) 2: từ 25 đến 49 (nhóm lao động trưởng thành) 3: từ 50 trở lên (nhóm lao động cao tuổi) 1: dân tộc kinh; 0: dân tộc khác 1: có vợ/chồng 2: chưa có vợ/chồng 3: ly hôn/ ly thân/ góa

Training Nhóm biến về CMKT hay bậc đào tạo 1: chưa qua đào tạo nghề 2: sơ cấp nghề 3: trung cấp nghề 4: trung cấp chuyên nghiệp 5: cao đẳng nghề 6: cao đẳng chuyên nghiệp 7: đại học trở lên

Lwage Biến liên tục nhận giá trị từ 6,14 đến 9,31

Loga cơ số e của tiền lương trung bình Thành thị - Nông thôn 0: nông thôn; 1: thành thị

Nguồn: tác giả tự xây dựng

Urban Region Nhóm biến vùng cư trú hiện tại 1: Đồng bằng Sông Hồng 2: Trung du miền núi phía bắc 3: Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung 4: Tây nguyên 5: Đông Nam bộ 6: Đồng bằng Sông Cửu Long

91

2.1.3. Mô hình logit đa trạng thái nhiều mức phân tích các nhân tố

ảnh hưởng đến quyết định di cư cá nhân

Mô hình logit đa trạng thái ở mục 2.1.2 phân tích các nhân tố ảnh

hưởng đến di cư trong vòng 12 tháng và di cư trên 12 tháng ở mức cá nhân di

cư.Với bộ số liệu LFS 2014 cho phép phân tích di cư ở mức cá nhân và các

mức tiếp theo là xã, huyện, tỉnh, vùng. Tùy mục đích nghiên cứu người ta xác

định các mức cho phù hợp. Chẳng hạn khi phân tích di cư thì có thể không

chọn mức mức xã vì di cư giữa các xã trong cùng một huyện thì ít có ý nghĩa

trong thực tế do các xã trong cùng một huyện thì có rất nhiều đặc điểm tương

đồng. Trong luận án này, tác giả lựa chọn mức 1 là cấp tỉnh và mức 2 là cấp

vùng, do các tỉnh khác nhau thì có điều kiện tự nhiên cũng khác nhau và một

số chính sách trong điều hành cấp tỉnh cũng khác nhau. Tương tự như vậy cho

cấp vùng. Do mỗi tỉnh cũng như mỗi vùng đều có những đặc trưng riêng khác

nhau và những đặc trưng riêng này cũng tác động khác nhau đến khả năng di

cư. Các đặc trưng riêng này được xem như các biến tiềm ẩn có tác động đến

quyết định di cư của mỗi cá nhân. Mô hình logit đa trạng thái nhiều mức giúp

kiểm soát các đặc trưng riêng mỗi tỉnh cũng như mỗi vùng có tác động như

nhau hay khác nhau đến khả năng có di cư ở những trạng thái di cư khác

nhau. Nếu các đặc trưng riêng tác động khác nhau đến quyết định di cư cá

nhân mà khi ước lượng không được kiểm soát thì dẫn đến kết quả ước lượng

có thể bị chệch. Phương pháp ước lượng mô hình logit đa trạng thái nhiều

mức có kiểm soát biến tiềm ẩn tác động đến biến phụ thuộc giúp cho kết quả

ước lượng các hệ số của các biến độc lập được chính xác hơn (nếu ước lượng

mô hình mà không kiểm soát biến tiềm ẩn thì mô hình gặp phải hiện tượng

thiếu biến giải thích quan trọng sẽ gây ra ước lượng chệch cho các hệ số)

Ta đặt : P(dicu = 0) = p0, P(dicu = 1) = p1, P(dicu = 2) = p2,

Với: P(dicu = 0) = p0 là xác suất một cá nhân không di cư đặt bằng p0

và p0 + p1 + p2 = 1

92

Gọi X là véc tơ các biến độc lập bao gồm các biến gắn liền với người lao

động di cư đó là các biến: giới tính, nhóm tuổi, dân tộc, tình trạng hôn nhân,

bậc đào tạo và các biến thể hiện đặc điểm nơi cư trú là các biến: Thành thị -

nông thôn, Vùng cư trú và cuối cùng là biến tiền lương thị trường. Ký hiệu m

là chỉ số trạng thái (m = 0 là trạng thái không di cư, m = 1 là di cư trong vòng

12 tháng, m = 2 là di cư trên 12 tháng) và j là chỉ số mức (j = 1: mức tỉnh, j =

2: mức vùng), n = 46550 quan sát, nj là số quan sát ở mức j , gọi i = 1, 2, …,

nj là chỉ số cá nhân ở mức j.

(³)

(³)

(³)

(³)

ƒ(³)

Ta đặt:

(º)

»

= 8 + i ²(cid:2)(cid:3) F(cid:2)(cid:3) + 0(cid:3) + ;(cid:2)(cid:3)

»

(cid:31)M ∑

µ¶·¸¹IL ¼ J½(cid:15)

(J) µ¶·¸¹IL

(2.16) (cid:6)(cid:26)(cid:22)*d0(cid:2)(cid:3) = )´ F(cid:2)(cid:3), 0(cid:3), ;(cid:2)(cid:3)(cid:27) =

(³) là hệ số chặn của mô hình ở trạng thái m,

ƒ(³) là véc tơ hệ số

(³) là sai số ngẫu nhiên ứng với trạng thái m mức j (đây chính là phần

Với i 8 các biến độc lập của mô hình ở trạng thái m;

(³) là sai số ngẫu nhiên ứng với quan sát i, mức j, trạng thái m.

0(cid:3) tác động ngẫu nhiên đến hệ số chặn mức j);

((cid:31))

(")

;(cid:2)(cid:3) Phương pháp ước lượng

ƒ = (

là các biến ngẫu nhiên Giả thiết: các sai số ngẫu nhiên )′ , 0(cid:3) 0(cid:3) ¿(cid:3) độc lập cùng phân phối chuẩn với kỳ vọng bằng 0 và phương sai là đường

chéo chính của ma trận hiệp phương sai các hệ số ước lượng mô hình ở mức j.

ƒ . Á(cid:2)(cid:3)

Giả thiết tương tự với

(³)

ƒ(³)

Phương pháp ước lượng các tham số là , i  = Ã8 () = 1, 2)Ä phương pháp hợp lý tối đa với hàm hợp lý:

1L

"

93

(cid:3)Q(cid:31)

(cid:2)Q(cid:31)

;(cid:2)(cid:3) (2.17) –(Å) = £ Æ £ qÆ (cid:6)((cid:22)*d0(cid:2)(cid:3)/ F(cid:2)(cid:3) ,0(cid:3), ;(cid:2)(cid:3))](0(cid:3))(cid:22)0(cid:3)Ç ](;(cid:2)(cid:3))(cid:22)

Từ đó tìm được ma trận hiệp phương sai các hệ số ước lượng mô hình

ở các mức j ứng với trạng thái m.

2.2. Mô hình đánh giá tác động của di cư đến thu nhập và mức sống

của hộ có người di cư

2.2.1. Mô hình phân rã Blinder – Oaxaca phân tích khác biệt về thu

nhập của hộ có người xuất cư với hộ không có người xuất cư

Để phân tích, lý giải sự khác biệt về thu nhập của hộ gia đình có người

xuất cư với hộ không có người xuất cư, mô hình phân rã Blinder – Oaxaca

được áp dụng. Mô hình có dạng:

Ln(TNBQ)mig – ln(TNBQ)non_mig = βnon_mig (Xmig – Xnon_mig)

+ (βmig – βnon_mig)Xnon_mig + (Xmig – Xnon_mig)(βmig – βnon_mig) (2.18)

Trong đó: TNBQmig và TNBQnon_mig là thu nhập bình quân của những hộ

1É1_³(cid:2)È là các biến

³(cid:2)È

1É1_³(cid:2)È là các hệ số ứng với các mô hình có người xuất cư và không

³(cid:2)È

có người xuất cư và hộ không có người xuất cư (cid:17) , (cid:17) độc lập ứng với hộ có người xuất cư và hộ không có người xuất cư,

, > > có người xuất cư.

Ln(TNBQ)mig = βmig Xmig + u, Ln(TNBQ)non_mig = βnon_mig Xnon_mig + u

Sự khác biệt về thu nhập bình quân của hai nhóm hộ có người xuất cư và hộ

không có người xuất cư được phân tác thành 3 phần:

1É1_³(cid:2)È

³(cid:2)È

1É1_³(cid:2)È

Phần thứ nhất cho biết sự khác biệt về thu > (cid:26)(cid:17) (cid:27) − (cid:17) nhập bình quân được giải thích bởi sự khác nhau giữa các biến độc lập có

trong mô hình ở 2 nhóm hộ có người di cư và hộ không có người di cư như

nhóm tuổi chủ hộ khác nhau, bằng cấp chủ hộ khác nhau,…

94

³(cid:2)È

1É1_³(cid:2)È

1É1_³(cid:2)È

Phần thứ hai − β cho biết sự khác biệt về thu (cid:26)β (cid:27)(cid:17) nhập bình quân được giải thích bởi sự khác nhau giữa các hệ số trong mô hình

ở 2 nhóm hộ có người di cư và hộ không có người di cư

³(cid:2)È

1É1_³(cid:2)È

³(cid:2)È

1É1_³(cid:2)È

Phần thứ ba − (cid:17) − β (cid:26)(cid:17) cho biết sự khác biệt (cid:27) (cid:27) (cid:26)β về thu nhập bình quân được giải thích bởi tích chéo của sự khác nhau giữa các

biến độc lập có trong mô hình và sự khác nhau giữa các hệ số trong mô hình ở 2

nhóm hộ có người di cư và hộ không có người di cư.

Nói khác đi sự khác biệt về thu nhập bình quân của 2 nhóm hộ có người

di cư và không có người di cư được giải thích bởi sự khác biệt ở phần thứ

nhất được gọi là phần quan sát được, còn phần thứ 2 và phần thứ 3 được gọi

là phần không quan sát được, ta cần tìm những yếu tố không quan sát được

hay các yếu tố không có trong mô hình nhưng các yếu tố này có tác động đến

sự khác biệt về thu nhập bình quân giữa 2 nhóm hộ có người di cư và không

có người di cư.

2.2.2. Mô hình phân tích tác động của di cư tới các mức phân vị chi

tiêu của hộ

a. Định nghĩa phân vị

Phân vị của biến ngẫu nhiên X có hàm phân bố xác suất \( ) = Å là giá trị nhỏ nhất sao cho: ÌÍ

(cid:6)((cid:17) ≤ ) ÌÍ = \

.(cid:31)(Å) = *5]¨ : \( ) ≥ Å© mô tả trung vị Ví dụ: Å = 0,5

ˆq

của mẫu được tính theo công thức sau: Phân vị

ρ

θ

θ

argmin z

i 1 =

n

I

(1

=

θ ⋅

) I + − θ ⋅

Å = ¨(cid:17)(cid:31), … , (cid:17)1© n ∑ (X z) − i

X z − i

(X z) > i

(X z) < i

 

 

i 1 =

95

Trong đó I là hàm chỉ số thỏa mãn: ШÑI Ò Ó© = q 1 nếu (cid:17)(cid:2) > Ô 0 nếu (cid:17)(cid:2) < Ô

b. Hồi quy phân vị

Đặt biến phụ thuộc Y là biến chi tiêu của hộ, X2, …, Xk là các biến độc

lập bao gồm các biến: di cư và các biến đặc điểm chủ hộ, qθ là phân vị θ của

Y, hàm phân vị của biến ngẫu nhiên (Y/ X2, …, Xk) ký hiệu qθ(Y/ X2, …, Xk).

Í (2.19)

Hồi quy phân vị dạng tuyến tính có dạng:

Í C(cid:2) = >Í,(cid:31) + >Í,"(cid:17)"(cid:2) + ⋯ + >Í,X(cid:17)X(cid:2) + 0(cid:2) Với

ƒ = F(cid:2) Xji là biến độc lập j quan sát i.

iÍ + ¿(cid:2)

ƒ

* = 1, … , < D = 1, … , (cid:12)

iÍ = (>Í,(cid:31), >Í,", … , >Í,X) là véc tơ tham số cần ước lượng

ƒ = C(cid:2) − F(cid:2)

là biến ngẫu nhiên độc lập cùng phân bố iÍ

Í ¿(cid:2) Giả thiết:

Í ÌÍ(0(cid:2)

= 0 /(cid:17)(cid:3)(cid:2))

ƒ

Với mẫu ta tìm: ×1 = ¨((cid:17)"(cid:2), … , (cid:17)X(cid:2), C(cid:2)), * = 1, … , 5©

ƒ

là ước lượng của iÍ = i‹Í = (>ØÍ,(cid:31), >ØÍ,", … , >ØÍ,X)

)

β

ˆ β = θ

θ

β

θ

(>Í,(cid:31), >Í,", … , >Í,X) theo công thức: argmin V(

1 (cid:2)Q(cid:31)

(cid:31) ƒ 1 ∑ ÌÍ(C(cid:2) − F(cid:2)

Với (cid:144)(>Í) = iÍ)

Í C(cid:2) = >ØÍ,(cid:31) + >ØÍ,"(cid:17)"(cid:2) + ⋯ + >ØÍ,X(cid:17)X(cid:2) + (cid:20)(cid:2)

Mô hình hồi quy mẫu ứng với phân vị θ có dạng:

Í là phần dư.

Trong đó (cid:20)(cid:2)

96

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Mô hình phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến xuất cư cấp độ hộ gia

đình trong nghiên cứu này thực chất là mô hình phân tích các nhân tố tác

động tới hộ có thành viên quyết định xuất cư hay không xuất cư, mặt khác

quyết định di cư của một cá nhân có thể thay đổi theo thời gian, do vậy mô

hình phù hợp cho phân tích là mô hình logit với số liệu mảng được áp dụng

để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến di cư cấp độ hộ gia đình với Bộ số

liệu VHLSS được kết nối ba năm 2010, 2012, 2014. Do không kết nối được

thông tin của người di cư với hộ gia đình của họ trong các Bộ số liệu

VHLSS, trong khi việc phân tích các nhân tố đặc điểm cá nhân tác động

đến quyết định di cư mỗi cá nhân là cần thiết, Luận án sử dụng mô hình

logit đa trạng thái và mô hình logit đa trạng thái nhiều mức để phân tích

các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di cư cá nhân với Bộ số liệu LFS

năm 2014.

Việc phân tích lợi ích thu nhập của hộ gia đình có người xuất cư được sử

dụng bằng mô hình phân rã Blinder – Oaxaca, đồng thời lý giải thu nhập của

hộ gia đình có người xuất cư cao hơn hộ không có người xuất cư do sự khác

biệt của những yếu tố nào gây ra. Để có được phân tích dưới khía cạnh khác

về lợi ích thu nhập và chi tiêu của hộ có người xuất cư, Luận án đã sử dụng

mô hình hồi quy phân vị (chỉ với số liệu VHLSS 2014) để phân tích di cư tác

động mạnh đến chi tiêu của hộ ở mức phân vị nào.

97

CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ MÔ HÌNH PHÂN TÍCH

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DI CƯ

Chương này trình bày kết quả ước lượng các mô hình phân tích nhân tố

ảnh hưởng đến quyết định di cư thông qua 2 mô hình: Mô hình logit số liệu

mảng có trễ phân phối nghiên cứu quyết định di cư cá nhân cấp độ hộ gia đình

với số liệu VHLSS kết nối các năm 2010, 2012, 2014. Mô hình thứ hai là mô

hình logit đa trạng thái nhiều mức phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết

định di cư cá nhân cấp độ cá nhân, sử dụng số liệu LFS năm 2014.

3.1. Kết quả ước lượng mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến hộ có ít

nhất một người xuất cư từ Bộ số liệu VHLSS kết nối ba năm 2010-2012-2014

Luận án đã sử dụng bộ số liệu VHLSS các năm 2010, 2012, 2014. Sau

đây là những thông tin mô tả chi tiết về số liệu được sử dụng.

Bảng 3.1: Số hộ và tỷ lệ hộ gia đình có người xuất cư trong các bộ số liệu

VHLSS 2010, 2012, 2014

Năm 2010

Năm 2012

Năm 2014

Số hộ

%

Số hộ

%

Số hộ

%

Hộ không có người xuất cư

8.548

90,1

6.462

68,7

8.498

90,5

Hộ có ít nhất một người xuất cư

854

9,9

2.937

31,3

894

9,5

Tổng số hộ

9.402

100

9.399

100

9.392

100

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu VHLSS 2010, 2012, 2014

Bảng 3.1 cho thấy, VHLSS 2010 thực hiện điều tra 9.402 hộ thì có 8.548

hộ có ít nhất một người xuất cư, chiếm 90,1% và có 854 hộ có ít nhất một người

98

xuất cư, chiếm 9,9%. Năm 2012 thực hiện điều tra 9.399 hộ có 6.462 hộ không

có người xuất cư, chiếm 68,7% và 2.937 hộ có ít nhất một người xuất cư, chiếm

31,3%. Năm 2014 thực hiện điều tra 9.392 hộ có 8.498 hộ không có người xuất

cư, chiếm 90,5% và 894 hộ có ít nhất một người xuất cư, chiếm 9,5%.

Tuy nhiên khi nối số liệu 3 năm ta có:

Bảng 3.2: Số hộ gia đình và tỷ lệ hộ có người xuất cư trong bộ số liệu VHLSS

nối 3 năm 2010, 2012, 2014

Năm 2010

Năm 2012

Năm 2014

Số hộ

%

Số hộ %

Số hộ

%

Hộ không có người xuất cư

1713 89,5

1259

65,8

1733

90,5

Hộ có ít nhất một người xuất cư

201 10,5

655

34,2

181

9,5

Tổng số hộ

1914

100

1914

100

1914

100

Nguồn: Kết quả phân tích số liệu VHLSS nối các năm 2010, 2012, 2014

Tổng số quan sát trong bộ dữ liệu VHLSS kết nối 3 năm (2010, 2012 và

2014) là 5.742 hộ gia đình. Trong đó, có 1.037 quan sát là hộ có người xuất

cư, chiếm 18% còn lại 4.705 quan sát hộ không có người xuất cư, chiếm 82%.

Tác giả Luận án lần lượt ước lượng mô hình gộp, mô hình tác động ngẫu

nhiên và mô hình tác động cố định và dùng các kiểm định so sánh để tìm ra

mô hình phù hợp nhất để phân tích. Kiểm định Hausman cho kết quả mô hình

phù hợp là mô hình tác động cố định (Phụ lục số 1.3).

99

***

0,2247148

Bảng 3.3: Kết quả ước lượng mô hình tác động cố định

Giới tính chủ hộ (Nữ là trạng thái tham chiếu) Nhóm tuổi chủ hộ (nhóm tuổi 30 – 39 là tham chiếu)

***

16 - 29

1,079443

***

40 - 49

3,379227

***

50 - 59

3,614156

***

3,092064

≥ 60 Bằng cấp chủ hộ (không đi học hoặc có bằng tiểu học là tham chiếu)

***

Trung học cơ sở

0,4864661

***

0,7754918 1,3237430***

Trung học phổ thông Cao đẳng hoặc đại học

***

0,2162958

Tỷ lệ phụ thuộc

***

-0,9493506

Tỷ lệ đại học Nhóm chi tiêu thực bình quân (trễ một thời kỳ) (phân vị 3 là tham chiếu)

***

Nhóm chi tiêu phân vị 1

0,4704270

***

Nhóm chi tiêu phân vị 2

0,1584617

***

Nhóm chi tiêu phân vị 4

-0,4052619

***

-0,7445187

Nhóm chi tiêu phan vị 5 Loại nhà (nhà tạm và khác là nhóm tham chiếu)

***

Kiên cố

0,0375316

***

-0,5436579

Bán kiên cố Nguồn nước (nước mưa/nước khác là tham chiếu)

***

Nước máy

0,0622998

***

0,0387055

Nước giếng Loại hố xí (không có hố xí là tham chiếu)

***

Tự hoại

0,8976571

***

Thô sơ

0,6460515

***

-0,0000193

Số lao động được tạo việc làm (trễ một thời kỳ) [vieclam(-1) ]

***

-7,073884

Loga vốn đầu tư thực hiện (trễ một thời kỳ) [lvondt(-1) ]

***

-0,0928696

922

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Số quan sát

*** p < 0,01. ** p < 0,05. * p < 0,1

Nguồn: Kết quả ước lượng mô hình từ bộ số liệu VHLSS nối ba năm 2010, 2012, 2014

100

Phân tích kết quả ước lượng

Trước hết cần lưu ý rằng, khi nối dữ liệu của VHLSS trong ba năm

2010, 2012, 2014 thì mỗi năm còn 1.914 hộ và mỗi hộ này được quan sát cả 3

năm 2010, 2012, 2014. Điều này cho thấy kết quả nối này đã làm giảm kích

thước mẫu và giảm tính đại diện của mẫu và do đó có ảnh hưởng đến kết quả

ước lượng. Tuy nhiên ưu điểm của việc nối dữ liệu này cho biết thông tin hộ

có hay không sự thay đổi trạng thái có người di cư theo thời gian.

a. Phân tích kết quả ước lượng nhóm biến liên quan đến chủ hộ

Kết quả ước lượng mô hình cho thấy chủ hộ có bằng cấp cao hơn bằng

trung học cơ sở (THCS) đã làm tăng khả năng xuất cư của các thành viên

trong hộ. Chủ hộ có bằng cấp cao hơn bằng THCS đã giúp cho các thành viên

khác trong hộ có định hướng tốt về giáo dục và đào tạo để khi xuất cư sẽ tìm

được công việc phù hợp với tay nghề được đào tạo từ đó tăng năng suất lao

động và tăng cơ hội có thu nhập cao.

Tuổi chủ hộ càng cao thì khả năng xuất cư của thành viên trong hộ càng

cao. Cụ thể tuổi chủ hộ dưới 30, khả năng có người xuất cư trong hộ thấp hơn

trong hộ mà chủ hộ ở khoảng từ 30-39 tuổi, ngược lại tuổi chủ hộ cao hơn 40

tuổi thì khả năng có người xuất cư cao hơn hộ có chủ hộ ở khoảng từ 30-39

tuổi. Có thể lý giải ở đây là những hộ gia đình có chủ hộ ở nhóm tuổi dưới 30

thường là những cặp vợ chồng trẻ, con cái còn nhỏ, với mức độ ràng buộc

trong gia đình hạt nhân cao nên ít có thành viên trong gia đình họ tham gia

vào di cư. Qua nhóm tuổi này, những hộ gia đình có chủ hộ lớn hơn 40 tuổi

thì thành viên của hộ gia đình có khả năng xuất cư cao hơn so với những hộ

gia đình có chủ hộ ở độ tuổi trẻ hơn. Thực tế, khi chủ hộ bước vào độ tuổi

ngoài 40, con cái họ sẽ bước vào độ tuổi trưởng thành, có nhu cầu tìm việc,

tính ràng buộc giữa các thành viên trong gia đình không còn chặt chẽ. Đây

chính là những yếu tố “đẩy” một thành viên nào đó của hộ gia đình di cư.

101

b. Phân tích kết quả ước lượng nhóm biến liên quan đến mức sống của hộ

Hệ số ước lượng của biến trễ một thời kỳ chi tiêu thực bình quân đầu

người trong hộ được phân tích cho thấy những hộ có mức chi tiêu thực bình

quân đầu người năm trước thấp hơn mức tham chiếu (mức trung bình trong

ngũ phân vị) thì xác suất hộ có người xuất cư năm sau cao hơn. Có thể thấy

đây là những hộ có mức chi tiêu thấp (chi bình quân đầu người chưa đạt 1

triệu đồng/1 người/1 tháng vào năm 2010), những hộ gia đình này mong

muốn được di cư để cải thiện mức sống.

Ngược lại, kết quả phân tích số liệu cho thấy những hộ có mức chi tiêu

bình quân đầu người năm trước cao hơn mức tham chiếu thì xác suất hộ có

người xuất cư năm sau thấp hơn. Kết quả này cho thấy đây là những hộ đã có

“điều kiện sống” tốt hơn nên xác suất xuất cư thấp hơn mức tham chiếu.

Kết quả ước lượng cũng cho thấy quan hệ tỷ lệ thuận giữa hộ có tỷ số

phụ thuộc cao với khả năng xuất cư. Điều này hoàn toàn hợp quy luật vì tỷ số

phụ thuộc cao có nghĩa là “người làm ra thì ít mà người ăn theo thì nhiều” đã

dẫn đến sức ép cao trong chi tiêu của hộ gia đình, dẫn đến nhu cầu cần có thu

nhập và việc làm tăng cao, từ đó làm gia tăng khả năng hộ có người xuất cư.

Những hộ ở nhà kiên cố có khả năng xuất cư cao hơn hộ có nhà tạm, tuy

nhiên hộ có nhà bán kiên cố có khả năng xuất cư thấp hơn hộ ở nhà tạm và

nhà loại khác.

Loại nhà, nguồn nước và loại hố xí chính là những “biến kiểm soát”, thể

hiện điều kiện sống của các hộ gia đình trong dài hạn. Sau ăn uống, các hộ gia

đình luôn mong muốn đầu tư vào xây dựng nhà cửa, sửa nhà cửa, khu vệ sinh.

Điều kiện nhà ở, khu vệ sinh thấp thể hiện điều kiện sống khó khăn chính là

động lực đẩy thành viên trong hộ gia đình di cư.

102

Như vậy, với nhóm biến hộ gia đình thì có thể thấy mức sống thấp khiến

động lực di cư tăng, tuy nhiên, khả năng di cư còn phụ thuộc vào “vốn di cư”,

nếu quá nghèo, các cá nhân cũng không đủ chi phí và thông tin cho việc di cư.

Kết quả này cho thấy di cư ở Việt Nam hiện vẫn là chiến lược sinh kế giúp

các hộ gia đình “xoá đói giảm nghèo” chứ chưa phải là phương thức giúp các

hộ gia đình “làm giàu và phát triển”.

c. Phân tích kết quả ước lượng nhóm biến liên quan đến cấp tỉnh

Hệ số ước lượng biến trễ một thời kỳ của biến “số lao động được tạo

việc làm” bằng -0,0000193 (< 0, và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%) cho thấy

khi số lao động được tạo việc làm của tỉnh năm trước tăng lên thì khả năng

các hộ gia đình ở tỉnh đó có người xuất cư năm sau giảm xuống. Có thể thấy

kết quả ước lượng này phù hợp với thực tế vì tỉnh tỉnh mà tạo được việc làm

cho người lao động thì họ không cần phải xuất cư nữa mà ở lại địa phương để

làm việc và sinh sống.

Hệ số ước lượng của biến PCI bằng -0,0928696 (< 0) cho biết khi chỉ số

PCI tăng thì khả năng xuất cư của thành viên các hộ gia đình giảm. PCI tăng

tức là các doanh nghiệp đánh giá tích cực về công tác quản lý và điều hành và

tính minh bạch của chính quyền địa phương. Tín hiệu này cho thấy các doanh

nghiệp vẫn tiếp tục hoạt động trên địa bàn tỉnh và tiếp tục tạo ra gia tăng việc

làm. Do đó, khả năng hộ gia đình ở tỉnh đó có người xuất cư giảm xuống.

Hệ số ước lượng của biến trễ một thời kỳ của biến loga đầu tư thực hiện

bằng -7,073884 (< 0), cho biết khi vốn đầu tư thực hiện tăng lên thì khả năng

hộ có người xuất cư giảm. Kết quả cho thấy tỉnh mà có vốn đầu tư thực hiện

thời kỳ trước tăng lên giúp cải thiện cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư, từ đó tỉnh

tạo được nhiều việc làm nên thu hút người lao động nên xác suất hộ có người

xuất cư giảm.

103

3.2. Kết quả mô hình phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến di cư cấp

độ cá nhân

3.2.1. Kết quả mô hình logit đa trạng thái

Bảng 3.4: Kết quả ước lượng mô hình logit đa trạng thái

Di cư

≤ 12 tháng -0,2693443**

> 12 tháng -0,5229755***

Giới tính (Nữ là trạng thái tham chiếu)

Nhóm tuổi (Nhóm 15-24 là tham chiếu)

-1,819193***

-0,0105177

25 – 49

-3,091811***

-0,151908

≥ 50

0,2976616

0,4546265**

Dân tộc (dân tộc khác là tham chiếu) Tình trạng hôn nhân (có vợ/chồng là tham chiếu)

-1,208364***

-1,191703***

Chưa vợ/chồng

0,3804966**

-0,2649932***

Ly hôn/ly thân/góa

Chuyên môn kỹ thuật (chưa qua đào tạo là tham chiếu)

Sơ cấp nghề

0,4862089***

0,2853839***

Trung cấp nghề

0,2610684

0,5843345***

Trung cấp chuyên nghiệp

1,321495***

0,6639552***

Cao đẳng nghề

1,088808*

0,2831003

Cao đẳng chuyên nghiệp

1,719389***

0,4234019***

Đại học trở lên

1,461743***

0,5531229***

0,1624816

0,3511441*

Tiền lương thị trường

Thành thị - nông thôn (nông thôn là tham chiếu)

0,5515039***

0,6285552***

Vùng địa lý kinh tế (Đồng bằng Sông Hồng là tham chiếu) Trung du miền núi phía bắc

0,4039825

Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung

0,2563388 0,8424944***

Tây nguyên

Đông Nam bộ

0,2855458 1,833143*** 0,934214***

Đồng bằng Sông Cửu Long

0,5680343 1,262797*** 0,6744461**

0,3298201

Số quan sát

43.998

43.998

Nguồn: Kết quả ước lượng mô hình từ bộ số liệu LFS 2014

104

Các hệ số ước lượng biến vùng với di cư trong vòng 12 tháng cho thấy:

Hệ số ước lượng các vùng Trung du miền núi phía bắc và Tây nguyên không

có ý nghĩa thống kê ở cả ba mức 1%, 5% và 10%; Hệ số ước lượng vùng

Đông Nam bộ và vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung đều có ý

nghĩa thống kê ở mức 1% và đều dương, kết quả này cho thấy người di cư

trong vòng 12 tháng quyết định đến vùng Đông Nam bộ và vùng Bắc trung bộ

và Duyên hải miền Trung cao hơn vùng Đồng bằng sông Hồng.

Với hệ số ước lượng biến vùng với trạng thái di cư trên 12 tháng: Hệ số

ước lượng các vùng Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải

miền Trung, Đồng bằng Sông Cửu Long không có ý nghĩa thống kê; Hệ số

ước lượng cho các vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên mang dấu (+) và đều

có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, kết quả cho thấy khả năng di cư trên 12 tháng

đến các vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên cao hơn khả năng di cư đến vùng

Đồng bằng sông Hồng.

Cả di cư trong vòng 12 tháng cũng như di cư trên 12 tháng thì khả năng

người di cư quyết định đến vùng Đông Nam bộ đều cao hơn vùng Đồng bằng

sông Hồng. Kết quả cho thấy vùng Đông Nam bộ là vùng hút lao động mạnh

nhất cả nước.

Trước khi phân tích kết quả ước lượng hệ số của các biến độc lập còn

lại trong mô hình ta cần một số lưu ý sau:

+) Bộ số liệu LFS 2014 cho ta xác định được xã/phường, huyện/quận,

tỉnh/thành phố của người di cư, lợi thế này cho phép ta có thể áp dụng mô

hình nhiều mức (multilevel) để phân tích.

+) Mỗi tỉnh cũng như mỗi vùng đều có những đặc trưng riêng khác

nhau (như vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,...). Vì vậy, khi ước lượng mô hình

mà không có cơ chế để kiểm soát những đặc trưng này thì có thể kết quả ước

lượng có thể bị sai lệch (hiện tượng mô hình thiếu biến (như biến tiềm ẩn) thì

105

kết quả ước lượng bị chệch do thiếu biến giải thích). Mô hình logit đa trạng

thái nhiều mức kiểm soát được những đặc trưng này.

3.2.2. Kết quả mô hình logit đa trạng thái nhiều mức

Trước hết để xem xét việc ước lượng mô hình logit đa trạng thái nhiều

mức phù hợp hay không ta xem xét kết quả ước lượng phương sai và hiệp

phương sai của các đặc trưng riêng các tỉnh và các vùng, sau đó kiểm định

xem các đặc trưng riêng của các tỉnh cũng như các vùng có thực sự khác nhau

hay không, nếu có thực sự khác nhau thì việc ước lượng mô hình logit đa

trạng thái nhiều mức sẽ giúp ta có kết quả ước lượng tốt hơn ước lượng mô

hình logit đa trạng thái thông thường.

Bảng 3.5: Kết quả ước lượng phương sai và hiệp phương sai đặc trưng riêng

của các tỉnh và các vùng

z

P_value

Coef.

Se

z2 13,31

Var(M1[tỉnh])

0,4749482 0,130178 3,648452

Var(M2[vùng])

1,028594

0,18822

5,464849

29,86

Cov(M1[tỉnh], M2[vùng]) 0,3872715 0,123734 3,13

9,7969

0,002

Nguồn: Kết quả ước lượng mô hình từ bộ số liệu LFS 2014

Để xác định đặc trưng riêng các tỉnh có khác biệt nhau hay không ta

kiểm định cặp giả thuyết:

" ~ Ý

" (cid:15)a žÜ (cid:15)a c3

PµbžÜ

" Û(cid:29): @(cid:141)(cid:31) Ú " Û(cid:31): @(cid:141)(cid:31)

với kiểm định Wald = (1) / = 0 > 0

" Ý(cid:29),(cid:29)(cid:31)

Với mức ý nghĩa 1% ta có giá trị tới hạn (1) = 6,635 mà giá trị

quan sát của kiểm định Wald bằng 13,31 nên bác bỏ H0 ở mức ý nghĩa 1%,

kết luận đặc trưng riêng các tỉnh có tác động khác biệt đến quyết định di cư cá

nhân. Kết quả bảng 3.3 cho thấy đặc trưng riêng các vùng cũng có tác động

khác biệt đến quyết định di cư và các đặc trưng riêng này cũng có liên quan

với nhau.

106

Với kết quả kiểm định này nếu ước lượng mô hình mà không kiểm soát

các đặc trưng riêng các tỉnh và các vùng cũng như phần tương quan của

chúng thì kết quả ước lượng các hệ số có thể bị chệch. Do vậy, ước lượng mô

hình đa trạng thái nhiều mức sẽ cho kết quả ước lượng chính xác hơn.

Bảng 3.6: Kết quả ước lượng mô hình logit đa trạng thái nhiều mức

≤ 12 tháng

> 12 tháng

Di cư

Giới tính (Nữ là trạng thái tham chiếu)

-0,28688***

-0,57563***

Nhóm tuổi (Nhóm 15-24 là tham chiếu)

-1,82928***

-0,02425

25 – 49

-3,15063***

-0,16915***

≥ 50

Dân tộc (dân tộc khác là tham chiếu)

0,573462***

0,735646***

Tình trạng hôn nhân (có vợ/chồng là tham chiếu)

-1,24118***

-1,27046***

Chưa vợ/chồng

0,396248*

-0,29301***

Ly hôn/ly thân/góa

Chuyên môn kỹ thuật (chưa qua đào tạo là tham chiếu)

0,444837***

0,313601***

Sơ cấp nghề

0,196658

0,635918***

Trung cấp nghề

1,269404***

0,612021***

Trung cấp chuyên nghiệp

0,949744

0,287835

Cao đẳng nghề

1,701744***

0,425091***

Cao đẳng chuyên nghiệp

1,424669***

0,562084***

Đại học trở lên

0,065859

0,28637***

Tiền lương thị trường

Thành thị - nông thôn (nông thôn là tham chiếu)

0,58988***

0,628555***

Số quan sát

43.998

43.998

Nguồn: Kết quả ước lượng mô hình từ bộ số liệu LFS 2014

107

So sánh kết quả ước lượng trong Bảng 3.4 với Bảng 3.6, ta thấy kết quả

ước lượng tương đồng về dấu và ý nghĩa thống kê của các hệ số ước lượng,

tuy nhiên độ lớn của các hệ số ước lượng có khác nhau ở mức khá nhỏ và

như đã phân tích ở Chương 2 thì kết quả ước lượng mô hình Bảng 3.6 đáng

tin cậy hơn.

Từ kết quả ước lượng thu được ở Bảng 3.6 ta có một số phân tích sau:

+) Hệ số ước lượng của biến giới tính đều mang giá trị (-) ở cả hai nhóm

di cư ngắn hạn và di cư dài hạn đồng thời có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Kết

quả này cho biết có sự khác biệt giữa nam và nữ trong quyết định di cư, nữ

giới có xu hướng di cư cao hơn so với nam, điều này phù hợp với xu thế nữ

hoá các dòng di cư đã được ghi nhận trong kết quả của Tổng điều tra Dân số

và Nhà ở năm 2009 và Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2004 và năm

2014. Đồng thời, nó cũng phù hợp với một thực tế là có nhiều phụ nữ đến các

thành phố lớn làm các công việc đáp ứng với nhu cầu lao động nữ như: giúp

làm việc nhà, trông trẻ, chăm sóc bệnh nhân ở các bệnh viện lớn, làm trong

các công ty may mặc, các công ty chế biến thủy hải sản…

+) Kết quả ước lượng các hệ số nhóm biến tuổi đều mang giá trị (-) cho

biết khi người lao động gia tăng tuổi thì ít lựa chọn di cư hơn, tâm lý của

những người tuổi cao lên thường muốn ổn định công việc và nơi cư trú nên

khả năng di cư thấp hơn.

+) Người dân tộc kinh có khả năng di cư cao hơn người dân tộc khác.

+) Kết quả ước lượng các hệ số nhóm biến tình trạng hôn nhân cho thấy

ngoại trừ di cư trong vòng 12 tháng thì người có vợ/chồng có khả năng di cư

thấp hơn người ly hôn/ly thân/góa còn lại người đã có vợ/chồng thì có khả

năng di cư cao hơn, cho thấy sức ép có việc làm hoặc tăng thu nhập để trang

trải chi tiêu cho gia đình có nhiều thành viên phụ thuộc (như con nhỏ, người

già,…) của những người đã có vợ/chồng nên họ có khả năng di cư cao hơn.

108

+) Bậc đào tạo hay chuyên môn kỹ thuật của người lao động ảnh hưởng

mạnh đến quyết định di cư. Thực tế, trình độ thể hiện qua bậc đào tạo của

người lao động sẽ giúp người lao động có nhiều thông tin, nhận thức được cơ

hội việc làm từ đó dẫn đến quyết định có di cư hay không di cư. Kết quả ước

lượng hệ số các bậc đào tạo đều mang giá trị (+) (ngoại trừ hệ số ước lượng

nhóm có bằng trung cấp nghề với di cư trong vòng 12 tháng và cao đẳng nghề

không có ý nghĩa thống kê), còn lại hệ số ước lượng của các bậc đào tạo

còn lại đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, kết quả ước lượng cho biết khả

năng di cư của những người đã qua đào tạo đều cao hơn người chưa qua

đào tạo, có thể nói người có tay nghề có xu hướng di cư tìm việc cao hơn

người chưa qua đào tạo.

+) Tiền lương trên thị trường luôn là yếu tố hấp dẫn thu hút người nhập

cư. Kết quả ước lượng biến tiền lương thị trường ở nhóm di cư trong vòng 12

tháng không có ý nghĩa thống kê chứng tỏ người di cư ngắn hạn với mục đích

tìm việc làm. Họ tìm đến những nơi dễ có việc chứ chưa quan tâm tới mức

lương được trả thông qua tín hiệu tiền lương thị trường. Tuy nhiên hệ số ước

lượng của biến này ở nhóm di cư trên 12 tháng bằng 0,28637 > 0 và có ý

nghĩa thống kê ở mức 1%. Kết quả này chứng tỏ những nơi có tín hiệu tiền

lương thị trường tốt, khả năng di cư trên 12 tháng đến nơi đó tăng lên.

+) Hệ số ước lượng của biến thành thị - nông thôn đều dương và có ý

nghĩa thống kê ở mức 1% ở cả hai nhóm di cư trong vòng 12 tháng và trên 12

tháng cho biết người thành thị (ở cấp độ phường/thị trấn) có khả năng di cư

cao hơn người nông thôn (ở cấp độ xã).

109

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương này nghiên cứu các yếu tố tác động đến quyết định di cư cá

nhân ở mức hộ gia đình và ở mức cá nhân.

• Về nghiên cứu di cư mức hộ, Luận án sử dụng mô hình logit số liệu

mảng có biến độc lập trễ. Kết quả cho thấy năm trước hộ có mức sống thấp

hơn mức tham chiếu thì xác suất hộ đó có người di cư năm sau cao hơn. Có

bằng chứng cho thấy hộ có mức sống thấp ở thời kỳ trước là một trong những

nguyên nhân dẫn đến quyết định di cư ở thời kỳ sau. Với nhóm biến thể hiện

tạo việc làm cấp tỉnh, kết quả cho thấy những tỉnh có vốn đầu tư thực hiện

cũng như số lao động được tạo việc làm năm trước gia tăng thì xác suất hộ có

người xuất cư năm sau ở tỉnh đó giảm. Cuối cùng những tỉnh có chỉ số PCI

tăng thể hiện chính sách điều hành cấp tỉnh với các doanh nghiệp được cải

thiện thì cũng tác động làm giảm xác suất xuất cư.

• Nghiên cứu di cư mức cá nhân, do quyết định di cư có nhiều lựa chọn:

không di cư, di cư ngắn hạn và di cư dài hạn, ngoài ra, các yếu tố quyết định

đến lựa chọn có thể từ vùng và từ tỉnh. Do đó luận án đề xuất và sử dụng mô

hình logit đa trạng thái nhiều mức (multinomial multi-level logit model). Kết

quả cho thấy tiền lương thị trường không ảnh hưởng tới xác suất di cư ngắn

hạn nhưng lại có ảnh hưởng tích cực đến di cư dài hạn. Kết quả cho thấy mục

đích di chuyển trong vòng 12 tháng (di cư ngắn hạn) của người lao động là để

tìm việc làm ổn định nên người lao động có thể chưa quan tâm nhiều tới tiền

lương thị trường, tuy nhiên với những người di chuyển trên 12 tháng (di cư

dài hạn) có thể họ đã tìm được việc làm ổn định nên tiền lương thị trường là

một vấn đề mà người lao động rất quan tâm, nó có thể được coi như một tín

hiệu cho biết “lực hút” người lao động đến hay “lực đẩy” người lao động đi

khỏi thị trường lao động đó.

110

CHƯƠNG 4

LỢI ÍCH VỀ THU NHẬP CỦA HỘ GIA ĐÌNH

CÓ NGƯỜI XUẤT CƯ

Chương này nghiên cứu tác động của di cư lên thu nhập và chi tiêu của

hộ thông qua 3 mô hình kinh tế lượng: Phân rã Oaxaca được sử dụng để

phân tách nguồn của sự khác biệt trong thu nhập giữa hộ có người di cư và

hộ không có người di cư; mô hình hồi quy phân vị dùng để nghiên cứu tác

động của di cư theo từng nhóm phân vị, và cuối cùng là mô hình có kiểm soát

vấn đề nội sinh của biến di cư. Kết quả ước lượng từ các mô hình đều khá

thống nhất: di cư có tác động tích cực đến thu nhập và mức sống của hộ.

Ngoài ra, với nhóm mức sống thấp thì di cư có tác động mạnh hơn so với các

nhóm còn lại.

4.1. Kiểm định thống kê mức cải thiện về thu nhập của hộ có người

xuất cư

Một trong các mục tiêu cơ bản của di cư kinh tế là mức sống của người di

cư cũng như hộ gia đình có người di cư là được cải thiện. Tuy nhiên, với những

hộ có người xuất cư vào năm 2014 thì liệu mức sống của những hộ này có được

cải thiện hay không? để trả lời câu hỏi này tác giả dựa vào thông tin về thu nhập

bình quân tháng của mỗi thành viên trong hộ và mức chi tiêu thực bình quân

năm của hộ trong bộ số liệu VHLSS kết nối ba năm 2010, 2012 và 2014.

Từ bộ số liệu VHLSS kết nối 3 năm 2010, 2012, 2014, tác giả xác định

được 2 nhóm hộ:

Nhóm hộ 0_0_0: là nhóm cả 3 năm 2010, 2012, 2014 đều không có

người xuất cư.

Nhóm hộ 0_0_1: là nhóm mà 2 năm 2010, 2012 không có người xuất

cư, nhưng đến năm 2014, hộ có ít nhất một người xuất cư.

111

Luận án so sánh mức chênh thu nhập bình quân tương đối của những hộ

thuộc nhóm 0_0_1 giai đoạn 2012 – 2014 so với mức chênh thu nhập bình

quân tương đối của chính những hộ này giai đoạn 2010 – 2012 (còn gọi là so

sánh dọc theo thời gian, hay còn gọi là so sánh tuyệt đối). Nếu mức chênh thu

nhập giai đoạn 2012 – 2014 cao hơn giai đoạn 2010 – 2012 thì hộ có người

xuất cư vào năm 2014 đã giúp cải thiện thu nhập của hộ gia đình đó.

Ngoài ra muốn so sánh mức chênh thu nhập của các hộ thuộc hai nhóm

hộ 0_0_1 với nhóm 0_0_0 giai đoạn 2012 – 2014 (còn gọi là so sánh chéo,

hay so sánh ngang giữa các đối tượng, hay so sánh tương đối) xem liệu mức

chênh thu nhập của các hộ thuộc nhóm 0_0_1 có cao hơn hay không? Nếu

câu trả lời là “có” – có nghĩa là việc hộ có người xuất cư vào năm 2014 đã

giúp cải thiện tốt hơn về thu nhập so với hộ không có người xuất cư.

Trước hết để xem mức thu nhập bình quân của 2 nhóm hộ 0_0_0 và

0_0_1, ta có kết quả thống kê mô tả trung bình của thu nhập bình quân 2

nhóm hộ ở bảng dưới đây:

Bảng 4.1: Trung bình của thu nhập bình quân tháng của các hộ

Đơn vị tính: ngàn đồng

Nhóm 0_0_0 Nhóm 0_0_1

Năm Số hộ Số hộ Trung bình thu nhập bình quân Trung bình thu nhập bình quân

2010 1.155 1.535,256 51 984,8002

2012 1.155 2.036,343 51 1.405,606

2014 1.155 2.571,832 51 2.309,135

Nguồn: Kết quả phân tích từ bộ số liệu VHLSS nối ba năm 2010, 2012, 2014

Dựa vào kết quả Bảng 4.1 nhận thấy:

• Thu nhập bình quân trung bình của các hộ thuộc nhóm 0_0_1 trong cả

ba năm 2010, 2012 và 2014 đều thấp hơn thu nhập bình quân trung bình của

112

các hộ thuộc nhóm 0_0_0. Kết quả này cho thấy những hộ có thu nhập thấp,

khả năng xuất cư của người trong hộ đó cao hơn.

• Thu nhập bình quân trung bình của các hộ nhóm 0_0_1 trong năm

2010 là 984,8 ngàn đồng và thu nhập bình quân trung bình của các hộ nhóm

0_0_0 trong năm 2010 là 1.535,256 ngàn đồng, cho thấy một khoảng cách

chênh lệch về thu nhập giữa 2 nhóm hộ này khá xa.

• Thu nhập bình quân trung bình của các hộ nhóm 0_0_1 trong năm

2014 là 2.309,135 ngàn đồng, đã “đuổi” gần đến con số 2.571,832 ngàn đồng

là mức thu nhập bình quân trung bình của các hộ nhóm 0_0_0 trong năm

2014. Điều này cho thấy di cư đã giúp cải thiện thu nhập đáng kể.

Ta nhận thấy dù hộ thuộc nhóm 0_0_0 hay nhóm 0_0_1 thì thu nhập

bình quân ba năm 2010, 2012, 2014 đều tăng và thu nhập bình quân trung

bình của nhóm 0_0_0 đều lớn hơn thu nhập bình quân trung bình của nhóm

0_0_1. Kết quả này chưa phản ánh rõ mức cải thiện (lợi ích) về thu nhập của

hộ có người xuất cư.

Từ Bộ số liệu nối 3 năm, tác giả tạo biến “mức chênh thu nhập” của các

hộ thuộc nhóm 0_0_0 và nhóm 0_0_1 năm 2014 so với năm 2012

Bảng 4.2: Mức chênh thu nhập bình quân của các hộ giữa năm 2014 với 2012

Mức chênh thu nhập năm 2014 so với 2012

Nhóm hộ 0_0_0 Mức chênh dương (hộ) 816 Mức chênh âm (hộ) 342

Nguồn: Kết quả phân tích từ bộ số liệu VHLSS nối ba năm 2010, 2012, 2014

0_0_1 42 9

Từ Bảng 4.2 cho thấy trong số 1.158 hộ nhóm 0_0_0 thì có 816 hộ có

mức chênh thu nhập dương, tức là thu nhập năm 2014 cao hơn năm 2012,

chiếm 70%. Trong số 51 hộ nhóm 0_0_1 thì có 42 hộ có mức chênh thu nhập

dương, tức là thu nhập năm 2014 cao hơn năm 2012, chiếm 82%.

113

Như vậy, có thể nói đa số các hộ có mức tăng thu nhập theo các năm. Để

có sự so sánh mức tăng thu nhập của các hộ nhóm 0_0_1 theo hai chiều

(chiều dọc theo thời gian và chiều ngang giữa hai nhóm), tác giả tạo các biến

“mức tăng tuyệt đối thu nhập bình quân” và “mức tăng tương đối thu nhập

bình quân” của các hộ trong mỗi nhóm.

Với biến “mức tăng tuyệt đối thu nhập bình quân” lấy mức thu nhập bình

quân của mỗi hộ năm sau trừ đi mức thu nhập bình quân của hộ đó năm trước.

Sau khi có số liệu của biến “mức tăng tuyệt đối thu nhập bình quân” ta xác

định được các thống kê trung bình của biến này.

Bảng 4.3: Trung bình mức tăng tuyệt đối thu nhập bình quân của 2 nhóm trong các năm 2010-2012-2014

Đơn vị tính: ngàn đồng Nhóm 0_0_1

Trung bình mức tăng

Nhóm 0_0_0 Trung bình mức tăng

Số

Giai đoạn

Số hộ

thu nhập bình quân

thu nhập bình quân

hộ

2010 – 2012

1.155

525,2789

464,5098

51

2012 – 2014

1.155

462,4957

916,9216

51

Nguồn: Kết quả phân tích từ bộ số liệu VHLSS nối ba năm 2010, 2012, 2014

Kết quả bảng 4.3 cho thấy trung bình mức tăng thu nhập của các hộ thuộc

nhóm 0_0_0 giai đoạn sau (2012 – 2014) đã thấp hơn giai đoạn trước (2010 –

2012). Tuy nhiên trung bình mức tăng thu nhập của các hộ thuộc nhóm 0_0_1

giai đoạn sau (2012 – 2014) cao hơn giai đoạn trước (2010 – 2012).

Để so sánh thu nhập của các hộ nhóm 0_0_1 có thực sự được cải thiện

hay không, tác giả tạo biến “mức tăng tương đối thu nhập bình quân” bằng

cách lấy mức thu nhập bình quân của mỗi hộ năm sau trừ đi mức thu nhập

bình quân của hộ đó năm trước rồi lấy kết quả này chia cho mức thu nhập

bình quân của hộ đó năm trước.

114

Bảng 4.4: Trung bình mức tăng tương đối thu nhập bình quân của 2 nhóm

các năm 2010-2012-2014

Nhóm 0_0_0 Nhóm 0_0_1

Số hộ

Giai đoạn Số hộ

Trung bình mức tăng tương đối thu nhập bình quân Trung bình mức tăng tương đối thu nhập bình quân

2010 – 2012 1.155 0,6156 51 0,602

Nguồn: Kết quả phân tích từ bộ số liệu VHLSS nối ba năm 2010, 2012, 2014

2012 – 2014 1.155 0,3718 51 0,8677

Kết quả Bảng 4.4 cho thấy:

• Mức tăng thu nhập tương đối của các hộ nhóm 0_0_1 giai đoạn 2012 –

2014 là 0,8677 cao hơn mức tăng thu nhập tương đối của chính các hộ này

giai đoạn 2010 – 2012 là 0,602. Kết quả này cho thấy hộ có người xuất cư

năm 2014 đã gia tăng về mức tăng thu nhập cho chính họ.

• Mức tăng thu nhập tương đối của các hộ nhóm 0_0_1 giai đoạn 2012 –

2014 là 0,8677 cao hơn mức tăng thu nhập tương đối của các hộ nhóm 0_0_0

giai đoạn 2012 – 2014 là 0,3718. Kết quả này cho thấy hộ có người xuất cư

năm 2014 đã có cải thiện thu nhập tốt hơn các hộ không có người xuất cư.

Tuy nhiên, để có kết luận vững chắc hơn ta cần đến những kiểm định

thống kê.

Các kết quả kiểm định (Phụ lục 2.1, Phụ lục 2.2 và Phụ lục 2.3) đã cho

kết quả như sau:

• Với mức tăng thu nhập bình quân tương đối của các hộ thuộc nhóm

0_0_1 ở hai giai đoạn 2010 – 2012 và 2012 – 2014, ta có P-value của kiểm

định bằng 0,16 thì với cả ba mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% đều nhỏ hơn P-

value nên chưa có cơ sở bác bỏ giả thuyết có sự bằng nhau của trung bình

115

mức tăng thu nhập của các hộ thuộc nhóm 0_0_1 ở hai giai đoạn, hay mức

tăng thu nhập bình quân tương đối của các hộ thuộc nhóm 0_0_1 giai đoạn

2012 – 2014 không cao hơn giai đoạn 2010 – 2012.

• Với mức tăng thu nhập bình quân tương đối của các hộ thuộc nhóm

0_0_0 ở hai giai đoạn 2010 – 2012 và 2012 – 2014, ta có P-value của kiểm

định bằng 0,00 thì với cả ba mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% đều lớn hơn P-

value nên bác bỏ giả thuyết có sự bằng nhau của trung bình mức tăng thu

nhập của các hộ thuộc nhóm 0_0_0 ở hai giai đoạn, kết quả kiểm định cho

biết mức tăng thu nhập bình quân tương đối của các hộ thuộc nhóm 0_0_0

giai đoạn sau (2012 – 2014) lại thấp hơn giai đoạn trước (2010 – 2012).

• Với kiểm định trung bình mức tăng thu nhập bình quân tương đối của các

hộ thuộc nhóm 0_0_1 cao hơn trung bình mức tăng thu nhập bình quân tương

đối của các hộ thuộc nhóm 0_0_0 ở giai đoạn 2012 – 2014, ta có P-value của

kiểm định bằng 0,00 thì với cả ba mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% đều lớn hơn P-

value, nên bác bỏ giả thuyết trung bình mức tăng thu nhập 2 nhóm như nhau.

Kết luận: Mức tăng thu nhập bình quân tương đối của các hộ thuộc nhóm

0_0_1 cao hơn trung bình mức tăng thu nhập bình quân tương đối của các hộ

thuộc nhóm 0_0_0 ở giai đoạn 2012 – 2014. Như vậy, xuất cư thực sự đã cải

thiện về mặt thu nhập cho những hộ có người xuất cư.

4.2. Kiểm định thống kê mức cải thiện về chi tiêu của hộ có người

xuất cư

Do chi tiêu thực phản ánh mức sống của hộ nên để đánh giá mức sống

của những hộ có người xuất cư vào năm 2014 có được cải thiện hay không ta

thực hiện tương tự như phần phân tích mức cải thiện về thu nhập. Nếu hộ có

người xuất cư cải thiện được mức chi tiêu thực bình quân thì có thể cho rằng

hộ có người xuất cư đã cải thiện được mức sống.

116

Phần phân tích cải thiện thu nhập ở trên đã cho thấy hộ có người xuất cư

(hộ thuộc nhóm 0_0_1) đã đem lại mức cải thiện về thu nhập cho hộ. Để đánh

giá mức sống của hộ có người xuất cư có được cải thiện hay không tác giả

phân tích chi tiêu thực của các hộ thuộc nhóm này tương tự như phần phân

tích thu nhập ở mục 4.1.

Bảng 4.5: Thống kê trung bình chi tiêu thực bình quân năm của các hộ trong các năm 2010, 2012, 2014

Nhóm 0_0_0

Đơn vị tính: ngàn đồng Nhóm 0_0_1

Năm Số hộ Số hộ Trung bình chi tiêu thực Trung bình chi tiêu thực

2010 1.151 15.984,7112 51 11.550,6288

2012 1.151 22.089,5542 51 16.570,7286

Nguồn: Kết quả phân tích từ bộ số liệu VHLSS nối ba năm 2010, 2012, 2014

2014 1.151 26.914,3872 51 23.261,6390

Kết quả Bảng 4.5 cho thấy mức chi tiêu thực trung bình của các hộ nhóm

0_0_1 thấp hơn chi tiêu thực của các hộ nhóm 0_0_0 trong cả ba năm 2010,

2012 và 2014. Kết quả phân tích cũng cho thấy hộ có mức chi tiêu thấp mới

có người xuất cư. Tuy nhiên, ta có một số so sánh để có thể đánh giá sơ bộ về

hộ có người di cư.

- Nhóm hộ không có người xuất cư trong cả ba năm, tức là nhóm 0_0_0

thì giá trị trung bình mức chi tiêu thực của các hộ năm 2014 cao hơn năm

2010 là 10.929,676 ngàn đồng (tăng khoảng 68,4%).

- Nhóm hộ 0_0_1 (nhóm hộ có người xuất cư năm 2014) thì giá trị trung

bình mức chi tiêu thực của các hộ năm 2014 cao hơn năm 2010 là 11.711

ngàn đồng (tăng khoảng 104,4%).

117

Như vậy, số liệu thống kê mô tả đã cho thấy mức tăng chi tiêu thực của hộ

có người xuất cư năm 2014 đã tăng cao hơn đáng kể hộ không có người xuất cư.

Bảng 4.5 mới chỉ cho thấy thông tin chi tiêu thực trung bình của tất cả

các hộ trong nhóm. Tuy nhiên để có phân tích kỹ hơn ta cần xét mức chênh

năm sau so với năm trước về chi tiêu của từng hộ trong mỗi nhóm. Trên cơ sở

mức chênh đó ta mới có thể đưa ra kết luận về mức độ cải thiện chi tiêu.

Việc tạo biến “mức tăng tuyệt đối chi tiêu thực bình quân” và “mức tăng

tương đối chi tiêu thực bình quân” của các hộ trong mỗi nhóm được thực hiện

tương tự mục 4.1.

Để xem mức chênh chi tiêu thực bình quân mỗi hộ mang giá trị dương

hay âm, tức là chi tiêu thực của mỗi hộ năm 2014 cao hơn hay thấp hơn năm

2012, thực hiện thống kê mô tả với biến “mức tăng tuyệt đối chi tiêu thực

bình quân” ta có:

Bảng 4.6: Thống kê mức chênh thu nhập các hộ thuộc nhóm 0_0_0 và nhóm 0_0_1 năm 2014 so với năm 2012

Nhóm hộ Mức chênh dương (hộ) Mức chênh âm (hộ)

0_0_0 794 357

Nguồn: Kết quả phân tích từ bộ số liệu VHLSS nối ba năm 2010, 2012, 2014

0_0_1 43 8

Kết quả Bảng 4.6 cho biết có 794 hộ trong số 1.151 hộ nhóm 0_0_0 có

mức chi năm 2014 cao hơn năm 2012 và có 43 hộ trong số 51 hộ nhóm 0_0_1

có mức chi năm 2014 cao hơn năm 2012, như vậy phần lớn các hộ thuộc 2

nhóm đều có mức chi tiêu tăng.

118

Bảng 4.7: So sánh trung bình mức tăng chi tiêu của 2 nhóm ở 2 giai đoạn 2010- 2012 và 2012-2014

Đơn vị: ngàn đồng

Giai đoạn

Số hộ

Nhóm 0_0_0 Trung bình mức tăng chi tiêu bình quân

Nhóm 0_0_1 Trung bình mức tăng chi tiêu bình quân

Số hộ

2010 – 2012 1.151

6.104,8430

5.020,0997

51

2012 – 2014 1.151

4.824,8330

6.690,9105

51

Nguồn: Kết quả phân tích từ bộ số liệu VHLSS nối ba năm 2010, 2012, 2014

Kết quả Bảng 4.7 cho thấy trung bình mức tăng chi tiêu của các hộ thuộc

nhóm 0_0_0 giai đoạn 2012 – 2014 đã thấp hơn giai đoạn 2010 – 2012. Kết

quả này có tính logic vì theo Bảng 4.3 thì trung bình thu nhập của các hộ

nhóm này giai đoạn sau cũng thấp hơn giai đoạn trước. Tuy nhiên, trung bình

mức tăng chi tiêu của các hộ thuộc nhóm 0_0_1 giai đoạn 2012 – 2014 cao

hơn giai đoạn 2010 – 2012.

Bảng 4.8 : So sánh trung bình mức tăng tương đối chi tiêu của 2 nhóm ở 2 giai đoạn 2010-2012 và 2012-2014 Nhóm 0_0_0

Nhóm 0_0_1

Giai đoạn Số hộ Số hộ

2010 – 2012 1.151 Trung bình mức tăng tương đối chi tiêu bình quân 0,5485 Trung bình mức tăng tương đối chi tiêu bình quân 0,5840 51

Nguồn: Kết quả phân tích từ bộ số liệu VHLSS nối ba năm 2010, 2012, 2014

2012 – 2014 1.151 0,3134 0,5452 51

Dựa vào kết quả các Bảng 4.8 ta nhận thấy:

• Mức tăng chi tiêu thực tương đối của các hộ nhóm 0_0_1 giai đoạn

2012 – 2014 là 0,5452 thấp hơn mức tăng chi tiêu tương đối của chính các hộ

này giai đoạn 2010 – 2012 là 0,584.

• Mức tăng chi tiêu thực tương đối giai đoạn 2012 – 2014 của các hộ

119

nhóm 0_0_1 là 0,5452 cao hơn nhóm 0_0_0 là 0,3134. Theo kết quả này hộ

có người xuất cư năm 2014 đã giúp cải thiện chi tiêu thực cao hơn các hộ

không có người xuất cư.

Tuy nhiên để có kết luận vững chắc hơn ta cần đến những kiểm định

thống kê.

Các kết quả kiểm định (Phụ lục 2.4, Phụ lục 2.5 và Phụ lục 2.6) đã cho

kết quả như sau:

• Với mức tăng chi tiêu thực bình quân tương đối của các hộ thuộc nhóm

0_0_1 ở hai giai đoạn 2010 – 2012 và 2012 – 2014, ta có P-value của kiểm định

bằng 0,823 thì với cả ba mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% đều nhỏ hơn P-value nên

chưa có cơ sở bác bỏ giả thuyết có sự bằng nhau về trung bình mức tăng tương

đối chi tiêu thực, hay mức tăng chi tiêu thực bình quân của các hộ thuộc nhóm

0_0_1 giai đoạn 2012 – 2014 không cao hơn giai đoạn 2010 – 2012.

• Với mức tăng chi tiêu thực bình quân tương đối của các hộ thuộc

nhóm 0_0_0 ở 2 giai đoạn 2010 – 2012 và 2012 – 2014, ta có P-value của

kiểm định bằng 0,00 thì với cả ba mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% đều lớn hơn

P-value nên bác bỏ sự bằng nhau về trung bình mức tăng tương đối chi tiêu

thực, hay mức tăng chi tiêu thực bình quân của hộ thuộc nhóm 0_0_0 giai

đoạn 2012 – 2014 thấp hơn giai đoạn 2010 – 2012.

• Với kiểm định trung bình mức tăng chi tiêu thực bình quân tương đối

của các hộ thuộc nhóm 0_0_1 cao hơn trung bình mức tăng chi tiêu thực bình

quân tương đối của các hộ thuộc nhóm 0_0_0 ở giai đoạn 2012 – 2014, ta có

P-value của kiểm định bằng 0,01 thì với hai mức ý nghĩa 5% và 10% đều lớn

hơn P-value, nên bác bỏ giả thuyết trung bình mức tăng tương đối chi tiêu

thực bình quân 2 nhóm như nhau.

Kết luận: Mức tăng chi tiêu thực bình quân tương đối của các hộ thuộc

nhóm 0_0_1 cao hơn trung bình mức tăng chi tiêu thực bình quân tương đối của

120

các hộ thuộc nhóm 0_0_0 ở giai đoạn 2012 – 2014. Như vậy, xuất cư đã cải

thiện về mức sống thông qua mức chi tiêu thực cho những hộ có người xuất cư.

4.3. Phân rã Blinder – Oaxaca và kết quả ước lượng

Mục 4.1 và 4.2 trên đây đã kiểm định dựa trên số liệu mẫu và kết luận

chung là hộ có người xuất cư đã giúp cải thiện về thu nhập cũng như chi tiêu.

Tuy nhiên, để lý giải sự khác biệt về thu nhập của 2 nhóm hộ, hộ có người di

cư và hộ không có người di cư ta áp dụng mô hình phân rã Blinder – Oaxaca.

Kết quả phân rã Blinder – Oaxaca được thể hiện trong bảng 4.9 (Kết quả chi

tiết trong Phụ lục số 3)

Bảng 4.9: Kết quả phân rã Blinder – Oaxaca

Các thành phần của mô hình phân rã Số quan sát = 5.014 Blinder - Oaxaca

Mô hình phân rã tuyến tính

Nhóm 1: dicu = 0 Số quan sát nhóm 1 = 4.145

Nhóm 2: dicu = 1 Số quan sát nhóm 2 = 869

Hệ số tác động đến thu nhập nhóm 1 7,34597***

Hệ số tác động đến thu nhập nhóm 2 7,359848***

Tổng khác biệt về thu nhập của nhóm 1 so với -0,0138776***

nhóm 2

Sự khác biệt thu nhập do sự khác biệt của các 0,0347004***

biến độc lập trong mô hình gây ra

Sự khác biệt thu nhập do sự khác biệt hệ số ước 0,0045857***

lượng mô hình hai nhóm gây ra

Sự khác biệt thu nhập do tích chéo của sự khác -0,0531637***

biệt các biến độc lập với sự khác biệt hệ số ước

Nguồn: Kết quả ước lượng từ bộ số liệu VHLSS nối ba năm 2010, 2012,2014

lượng mô hình hai nhóm gây ra

121

Phân rã Blinder – Oaxaca cho thấy nhóm hộ có người di cư giai đoạn 2010

– 2014 có mức thu nhập cao hơn nhóm hộ không có người di cư 1,388%.

Giá trị 0,0347 cho biết sự khác biệt các biến độc lập có trong mô hình

gây ra cho sự chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm hộ có người di cư và hộ

không có người di cư (chẳng hạn đặc điểm chủ hộ ở 2 nhóm). Kết quả này

cho thấy nhóm hộ không có người di cư lại có thu nhập cao hơn 3,47%.

Giá trị 0,0045857 cho biết sự khác biệt hệ số các biến trong mô hình (tức

là sự khác biệt của những yếu tố không có trong mô hình nhưng những yếu tố

đó cũng tác động đến mức chênh thu nhập của 2 nhóm hộ) thì nhóm hộ không

có người xuất cư lại có thu nhập cao hơn 0,45857%.

Thành phần tích chéo sự khác biệt những yếu tố có trong mô hình và các

yếu tố ngoài mô hình giải thích nhiều nhất sự khác biệt về thu nhập của 2

nhóm hộ. Con số -0,053 cho biết thành phần này giải thích mức chênh thu

nhập hộ có người xuất cư cao hơn hộ không có người xuất cư là 5,09%.

Vì sao phân tích chéo lại giải thích sự khác biệt thu nhập giữa hai nhóm

nhiều nhất, do nhóm nhân tố đặc điểm cá nhân của người di cư không có

trong mô hình, mà nhóm nhân tố này tác động mạnh đến mức thu nhập của

chính người di cư và thu nhập của người di cư đóng góp vào mức thu nhập

chung của hộ. Do vậy tích chéo của sự khác biệt những yếu tố trong mô hình

với sự khác biệt những yếu tố ngoài mô hình giải thích nhiều nhất sự khác

biệt của thu nhập giữa hai nhóm hộ.

4.4. Kết quả mô hình hồi quy phân vị

4.4.1. Mục đích sử dụng mô hình hồi quy phân vị

Tác động của di cư lên thu nhập hay chi tiêu hộ có thể không mang tính

tuyến tính, với các hộ nghèo, sự di cư có thể mang lại những cải thiện lớn, nhất

là khi đo lường sự cải thiện theo nghĩa tương đối vì vậy luận án sử dụng hồi quy

phân vị để xem xét di cư tác động đến mức phân vị nào của chi tiêu hộ.

122

Gần đây một số tác giả đã sử dụng hồi quy phân vị để phân tích chi tiêu

như Figueiredo và cộng sự (2016) đã sử dụng hồi quy phân vị để phân tích tác

động của di cư tới tổng chi tiêu cho hàng hóa nhập khẩu của quốc gia tiếp

nhận người di cư, kết quả cho biết di cư tác động đáng kể và tích cực đến

hàng hóa nhập khẩu. Jawadi và cộng sự (2014) sử dụng hồi quy phân vị phân

tích chi tiêu phụ thuộc vào tài sản (gồm tài sản tài chính và tài sản nhà ở) của

người lao động các nước Mỹ, Anh và Châu Âu, kết quả cho thấy hệ số co

giãn của chi tiêu theo tổng tài sản ở Anh là lớn nhất. Soja và cộng sự (2014)

đã sử dụng hồi quy tuyến tính đơn giản và hồi quy phân vị để phân tích chi

tiêu cho tiêu dùng đồ uống có cồn và thuốc lá (đại diện cho hàng hóa xa xỉ)

phụ thuộc vào thu nhập hộ, các tác giả đã so sánh ưu nhược điểm của từng

loại hồi quy và rút ra hồi quy phân vị có ưu điểm hơn, kết quả cho thấy thu

nhập không tác động đến tiêu dùng hàng xa xỉ ở phân vị cao.

Luận án phân tích ba mức phân vị của biến chi tiêu, đó là: (1) phân vị

10% (phân vị của những hộ có mức chi tiêu thấp); (2) phân vị 50% (phân vị

của những hộ có mức chi tiêu trung bình) và (3) phân vị 90% (phân vị của

những hộ có mức chi tiêu cao) để xem di cư tác động tích cực ở mức phân vị

nào của chi tiêu hộ.

4.4.2. Phân tích kết quả mô hình hồi quy phân vị

Sau khi kết nối số liệu các năm của VHLSS, mỗi năm có 8.203 hộ và 3

năm 2010, 2012, 2014 thì có 24.609 hộ, kết quả ước lượng mô hình hồi quy

phân vị thể hiện ở bảng 4.10 sau:

123

Bảng 4.10: Kết quả mô hình hồi quy phân vị

Loga chi tiêu bình quân

Di cư

Giới tính chủ hộ ( Nữ là tham chiếu)

Tuổi chủ hộ

Phân vị 10% Phân vị 50% Phân vị 90% 0,0265143** 0,0649901*** 0,0066567 0,0421081*** 0,0489735*** 0,0681761*** 0,0059758*** 0,0068825*** 0,0082941***

Bằng cấp chủ hộ (chưa qua đào tạo là tham chiếu)

Tiểu học

Trung học cơ sở

Trung học phổ thông

Cao đẳng

Đại học trở lên

0,1782587*** 0,1982545*** 0,199039*** 0,3223322*** 0,3158617*** 0,3521083*** 0,5585514*** 0,576705*** 0,6390296*** 0,8455113*** 0,7887214*** 0,7956821*** 1,0547500*** 1,100387*** 1,034553***

Log(dân số)

0,10259*** 0,1056339*** 0,1428874*** -0,202858*** -0,213867***

-0,196861***

Tỷ lệ phụ thuộc

Biến giả năm 2012

Biến giả năm 2014

0,3299073*** 0,3343757*** 0,3242502*** 0,495245*** 0,4872285*** 0,4969493***

Vùng (Đồng bằng Sông Hồng là tham chiếu)

Trung du miền núi phía bắc

-0,169150***

0,030524 0,008500

Bắc trung bộ & Duyên hải nam trung bộ Tây nguyên Đông nam bộ

Đồng bằng Sông Cửu Long

-0,236274*** -0,29403*** -0,033645*** -0,098455*** -0,141998*** -0,0114384 0,1875346*** 0,1714278*** 0,1335917*** 0,0829112*** 0,053665*** 0,0595151***

7,706881***

_cons Số quan sát

24.609

8,223015*** 24.609

8,47535*** 24.609

Nguồn: Kết quả phân tích từ bộ số liệu VHLSS 2010, 2012, 2014

Bảng 4.10 cho thấy mô hình ở phân vị 10% và 50% của biến loga chi

tiêu thực bình quân của hộ thì hệ số ước lượng của biến di cư mang dấu

dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Kết quả này cho thấy hộ có người

xuất cư tác động tích cực đến mức chi tiêu của hộ, hay nói khác đi hộ có

người xuất cư đã giúp cải thiện chi tiêu cho hộ có mức sống thấp và trung

bình. Tuy nhiên, kết quả ước lượng mô hình ở mức phân vị 90% thì hệ số ước

124

lượng của biến di cư không có ý nghĩa thống kê. Kết quả cho thấy di cư chỉ có

ý nghĩa cải thiện chi tiêu với những hộ có mức sống trung bình hoặc mức

sống thấp, còn những hộ có mức sống cao thì di cư không có ý nghĩa.

4.5. Kết quả mô hình hồi quy tuyến tính số liệu mảng phân tích di cư

tác động đến chi tiêu hộ

Để kết quả ước lượng vững tác động của di cư đến mức chi tiêu của hộ,

tác giả ước lượng mô hình với số liệu kết nối các năm 2010, 2012, 2014 của

VHLSS có sử dụng trọng số hộ năm 2014. Kết quả ước lượng mô hình với

61.271.509 quan sát có kết quả ở bảng 4.11 sau đây:

0,0210713*** 0,0458258*** 0,0069059***

Bảng 4.11: Kết quả mô hình phân tích chi tiêu hộ với số liệu kết nối các năm 2010, 2012, 2014 Loga chi tiêu bình quân

Di cư Giới tính chủ hộ ( Nữ là tham chiếu) Tuổi chủ hộ Bằng cấp chủ hộ (chưa qua đào tạo là tham chiếu) Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Cao đẳng Đại học trở lên

0,1901274*** 0,3156440*** 0,5815801*** 0,7919210*** 1,0384490***

Loga (Dân số) Tỷ lệ phụ thuộc

0,1308264*** -0,1932092***

0,3260052*** 0,4882623***

Biến giả năm 2012 Biến giả năm 2014

Vùng (Đồng bằng Sông Hồng là tham chiếu) Trung du miền núi phía bắc Bắc trung bộ & Duyên hải nam trung bộ Tây nguyên Đông nam bộ Đồng bằng Sông Cửu Long

-0,2307524*** -0,0984287*** -0,0527755*** 0,1671418*** 0,0448840***

Số quan sát

61.271.509 Nguồn: Kết quả phân tích từ bộ số liệu VHLSS kết nối ba năm 2010, 2012, 2014

125

Bảng 4.11 cho thấy hệ số ước lượng của biến di cư là 0,0210713 cho biết hộ có người di cư thì chi tiêu bình quân hàng năm cao gấp e0,0210713 lần hộ

không có người di cư (hay hộ có người di cư thì chi tiêu bình quân hàng năm

cao gấp 1,02 lần hộ không có người di cư). Kết quả cho thấy di cư đã giúp cải

thiện chi tiêu cho hộ gia đình.

Kết quả ước lượng hệ số các biến giới tính chủ hộ và tuổi chủ hộ cho

biết, chủ hộ là nam giới có mức chi tiêu cao hơn và tuổi chủ hộ tăng thì mức

chi tiêu cho hộ cũng tăng.

Hệ số ước lượng biến bằng cấp chủ hộ cho thấy chủ hộ có bằng cấp càng

cao thì mức chi tiêu của hộ càng tăng, kết quả còn cho thấy khoảng cách chi

tiêu của các hộ có bằng cấp cao cách khá xa các hộ có bằng cấp thấp.

Các hộ năm 2012 và năm 2014 đều có mức chi bình quân cao hơn

năm 2010.

Hệ số ước lượng biến Vùng cho thấy, hộ ở vùng Đông nam bộ và Đồng

bằng Sông Cửu Long thì mức chi tiêu bình quân năm cao hơn hộ ở vùng

Đồng bằng Sông Hồng, còn lại những hộ ở các vùng còn lại đều có mức chi

tiêu thấp hơn vùng Đồng bằng Sông Hồng.

126

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

• Các kiểm định thống kê đã cho kết quả hộ gia đình có người xuất cư

đã được cải thiện về thu nhập cũng như mức sống.

• Mô hình phân rã Blinder – Oaxaca cho biết nhóm hộ có người xuất cư

có mức thu nhập cao hơn và tích chéo của sự khác biệt những yếu tố có trong

mô hình với sự khác biệt của những yếu tố ngoài mô hình giải thích được

nhiều nhất cho sự khác biệt về thu nhập của hai nhóm hộ có người xuất cư và

không có người xuất cư. Sự khác biệt những yếu tố ngoài mô hình có thể là sự

khác biệt về nhóm đặc điểm cá nhân của người di cư, bởi vì nhóm đặc điểm

này là nhóm đặc điểm gắn với người di cư nên nó tác động mạnh đến quyết định di cư của họ, nhưng nhóm đặc điểm này lại không có trong mô hình3.

• Kết quả mô hình hồi quy phân vị với số liệu VHLSS năm 2014 cho

biết di cư chỉ có ý nghĩa giúp cải thiện thu nhập và chi tiêu với những hộ có

mức sống thấp hoặc trung bình (những hộ có loga mức chi tiêu ở phân vị 10%

và 50%) nhưng không có ý nghĩa thống kê ở những hộ có mức sống cao (ở

mức phân vị 90%). Kết quả phân tích này cũng cho biết người giàu thì khả

năng di cư thấp thậm chí là không di cư.

• Kết quả ước lượng mô hình kiểm soát biến nội sinh di cư bằng mô

hình biến công cụ với phương pháp bình phương nhỏ nhất hai bước cho biết

3 Tác giả đã giải thích lý do tại sao nhóm đặc điểm cá nhân của người di cư không có trong mô hình ở Chương 3.

hộ có người di cư đã cải thiện được chi tiêu so với hộ không có người di cư.

127

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Phần này trình bày kết luận chung của luận án và từ kết quả nghiên cứu

của luận án tác giả đưa ra một số khuyến nghị liên quan đến mô hình phân

tích quyết định di cư, kiến nghị về nguồn số liệu cho những nghiên cứu tiếp

theo về di cư, kiến nghị coi di cư là động lực và từ đó muốn khuyến khích

động lực di cư thì cần có chính sách tăng “vốn di cư” và người lại muốn hạn

chế động lực di cư thì cần có chính sách tăng “vốn ở lại”.

(cid:2) Kết luận và hàm ý chính sách

Những nghiên cứu về di cư đã được thực sự quan tâm trong 10 năm trở

lại đây. Một số mô hình nghiên cứu về di cư trong nước đã được thực hiện

như mô hình di cư nông thôn – đô thị (Đặng Nguyên Anh và cộng sự, 2007),

mô hình di cư tạm thời đến Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh hay mô hình

động lực di cư đến Đông Nam Bộ (Lưu Bích Ngọc và cộng sự, 2015). Có thể

thấy các mô hình này mới chỉ xem xét di cư đến một vùng địa lý nhất định và

ở cấp độ cá nhân (vi mô) chứ chưa phân tích được di cư trên phạm vi quốc gia

cũng như ở những cấp độ hộ gia đình, mô hình nghiên cứu di cư làm việc, di

cư không làm việc và không di cư (Ian Coxhead và cộng sự, 2016) với số liệu

VHLSS năm 2012. Đề tài được thực hiện trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ

mang tính cấp thiết, nhằm bù đắp “khoảng trống” thông tin về hộ có ít nhất

một thành viên xuất cư với những phân tích trên phạm vi toàn quốc với số

liệu nối các hộ trong VHLSS các năm 2010, 2012 và 2014.

Nghiên cứu cho thấy:

Các mô hình phân tích di cư chủ yếu có hai dạng mô hình: Thứ nhất là

mô hình dạng tuyến tính với biến phụ thuộc là biến định lượng như số lượng

người di cư, tỷ lệ người di cư (Puhani, 1999). Thứ hai là mô hình logistic với

biến phụ thuộc là biến định tính như quyết định có hay không di cư của một

128

cá nhân (Syafitri 2012, Mahinchai 2010), hộ có ít nhất một thành viên di cư

hay hộ không có thành viên nào di cư (Mendola 2005), số liệu phân tích cho

cả hai loại mô hình hầu như là số liệu mảng. Dạng mô hình được lựa chọn

cho đề tài này là mô hình logit với số liệu mảng có trễ phân phối để phân tích

hộ gia đình có ít nhất một thành viên di cư và mô hình logit đa trạng thái

nhiều mức để phân tích quyết định có hay không di cư của một cá nhân. Mô

hình phân tích lợi ích về thu nhập của hộ gia đình có người di cư được áp

dụng mô hình phân rã Blinder – Oaxaca, mô hình hồi quy phân vị và mô hình

hồi quy với số liệu mảng.

Mức sống thấp của hộ gia đình ở năm trước có tác động tích cực đến khả

năng xuất cư của ít nhất một thành viên các hộ gia đình ở Việt Nam hiện nay.

Những yếu tố ảnh hưởng mạnh đến khả năng xuất cư của ít nhất một thành

viên trong các hộ gia đình hiện có người di cư là nhóm chi tiêu bình quân đầu

người của hộ ở thời kỳ trước, tỷ số phụ thuộc của hộ, điều kiện nhà ở.

Chi tiêu bình quân đầu người trong hộ gia đình thời kỳ trước thấp hơn

ngưỡng chi tiêu trung bình khiến cho động lực xuất cư thời kỳ sau tăng. Đây

chính là lực đẩy mạnh khiến thành viên trong hộ gia đình phải di cư. Kết quả

này cho thấy một hàm ý chính sách ở đây là trong các chính sách hỗ trợ cho

các hộ gia đình sau này, đặc biệt hộ nghèo, sẽ cần phải quan tâm đến việc hỗ

trợ “vay vốn” cho thành viên của hộ gia đình thực hiện mục đích di cư nếu cá

nhân họ có nhu cầu di cư tìm việc làm, cải thiện thu nhập cho gia đình.

Chủ hộ gia đình là nữ, tỷ số phụ thuộc của hộ gia đình cao và điều kiện

nhà ở thấp kém đang là những nhân tố đẩy mạnh thành viên trong các hộ gia

đình di cư. Thực trạng này cho thấy di cư ở Việt Nam hiện vẫn là chiến lược

sinh kế giúp các hộ gia đình “xoá đói giảm nghèo” chứ chưa phải là phương

thức giúp các hộ gia đình “làm giàu và phát triển”. Trong tương lai, rất cần có

những chính sách khuyến khích gia tăng động lực di cư hướng tới mục tiêu

129

“làm giàu và phát triển” cho các cá nhân, các hộ gia đình và các cộng động

địa phương.

Luận án đã nghiên cứu hai nội dung chính, đó là:

1. Xác định một số biến thuộc nhóm nhân tố “trong” và một số biến

thuộc nhóm nhân tố “ngoài” tác động đến hộ có ít nhất một thành viên xuất

cư cũng như quyết định di cư ở cấp độ cá nhân. Kết quả thu được cho thấy

muốn tăng hay giảm khả năng xuất cư thì có thể tác động vào nhóm nhân tố

ngoài như tăng số lao động được tạo việc làm hàng năm ở thời kỳ trước thì sẽ

làm cho xác suất hộ có người xuất cư thời kỳ sau giảm xuống, hoặc chính

quyền cấp tỉnh cải thiện điều hành theo hướng giúp đỡ và cởi mở với các

doanh nghiệp để tăng chỉ số PCI thì sẽ làm cho khả năng hộ có người xuất cư

giảm xuống. Hệ số ước lượng của biến trễ của vốn đầu tư thực hiện cấp tỉnh

mang dấu âm cho biết vốn đầu tư thực hiện thời kỳ trước tăng lên sẽ giúp cải

thiện cơ sở hạ tầng và từ đó thu hút được doanh nghiệp đến tỉnh làm ăn, tạo

việc làm tốt cho tỉnh, từ đó làm tăng khả năng hộ có người xuất cư. Chương 3

đã phân tích kết quả ước lượng hệ số biến này, do vậy để giữ người lao động

ở lại làm việc thì tỉnh cần tăng đầu tư tư nhân tạo ra nhiều việc làm, với đầu

tư công cần tăng cường kiểm soát để có hiệu quả, tránh lãng phí. Còn nhóm

nhân tố trong giúp lý giải nguyên nhân làm gia tăng động lực xuất cư cá nhân

ở cấp độ hộ gia đình.

2. Nội dung thứ hai là lợi ích về thu nhập cũng như mức sống của hộ có

người xuất cư. Kết quả phân tích cho thấy có bằng chứng rõ ràng về việc xuất

cư giúp cải thiện thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Cụ thể:

(cid:3) Các kiểm định thống kê cho thấy, hộ có người xuất cư tốt hơn với

chính họ nếu không có người xuất cư. Cụ thể là mức thu nhập bình quân

cũng như mức chi tiêu thực bình quân được bù đắp (do thời kỳ suy giảm

kinh tế đáng lẽ thu nhập và chi tiêu giảm đi như đã quan sát thấy ở nhóm

hộ 3 năm 2010, 2012, 2014 không có người xuất cư).

130

(cid:3) Các kiểm định thống kê cũng cho thấy, hộ có người xuất cư có thu

nhập và chi tiêu được cải thiện tốt hơn hộ không có người xuất cư.

(cid:3) Ngoài các kiểm định thống kê, muốn xem những hộ có người xuất cư

cả 3 năm 2010, 2012, 2014 thì thu nhập có tốt hơn hộ không có người xuất cư

hay không. Kết quả phân rã Blinder – Oaxaca cho biết hộ có người xuất cư thì

có thu nhập cao hơn, đồng thời phần tích chéo về sự khác biệt của những yếu

tố có trong mô hình với sự khác biệt của những yếu tố không có trong mô

hình ở hai nhóm hộ giải thích được nhiều nhất sự khác biệt về thu nhập giữa

hai nhóm hộ. Kết quả hồi quy phân vị (với Bộ số liệu VHLSS năm 2014) cho

thấy di cư chỉ có ý nghĩa cải thiện chi tiêu với những hộ có mức sống trung

bình hoặc mức sống thấp, còn những hộ có mức sống cao thì di cư không có ý

nghĩa này.

Kết quả mô hình hồi quy với số liệu mảng cho biết chi tiêu của hộ có

người di cư cao hơn gấp 1,02 lần hộ không có người di cư. Kết quả cung cấp

bằng chứng cho thấy hộ có người di cư đã cải thiện được mức sống.

(cid:2) Kiến nghị

Do quyết định di cư của mỗi cá nhân có thể thay đổi theo thời gian và

những nhân tố tác động ở thời kỳ trước ảnh hưởng đến quyết định di cư ở thời

kỳ sau. Chẳng hạn: năm 2012, nếu cá nhân rơi vào tình trạng bị thất nghiệp,

hộ gia đình có mức sống thấp thì những nhân tố này sẽ tác động đến quyết

định di cư của cá nhân đó ở năm 2014. Vì vậy, mô hình phù hợp cho phân

tích các nhân tố tác động đến quyết định di cư là mô hình động với số liệu

mảng (logit panel dynamic). Tuy nhiên, luận án mới phân tích với số liệu

mảng 3 năm (còn gọi là mô hình số liệu mảng ngắn). Các nhà nghiên cứu di

cư khuyến cáo nên dùng số liệu mảng dài bởi vì trong mô hình động ta còn

dùng đến biến trễ nên quan sát bị cắt bớt khi ước lượng. Qua nghiên cứu này

tác giả kiến nghị TCTK duy trì những cuộc điều tra quốc gia như Bộ số liệu

131

VHLSS để có những thông tin theo thời gian dài hơn để kết quả nghiên cứu

được tin cậy và chính xác hơn. Một kiến nghị xin được đề xuất là TCTK có

thông tin về di cư và duy trì mục 1C (mục để nối số liệu) trong những cuộc

điều tra VHLSS những năm tiếp theo để có thể đảm bảo nguồn dữ liệu tốt cho

phân tích các động lực di cư.

(cid:4) Từ kết quả nghiên cứu này có thể thấy Chính phủ cần đưa cuộc Điều

tra di cư nội địa quốc gia vào danh sách các cuộc điều tra thống kê quốc gia

định kỳ để có những thông tin cập nhật về di cư của người dân, hay khả thi

hơn là Tổng cục thống kê nên đưa thêm một số câu hỏi chuyên sâu về di cư

vào các cuộc điều tra quốc gia hiện có (như các bộ số liệu VHLSS và LFS) để

từ đó các nhà nghiên cứu về di cư có dữ liệu cho những nghiên cứu tiếp theo,

và các kết quả nghiên cứu sâu sẽ phục vụ cho quá trình hoạch định chính sách

phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

(cid:4) Để tạo động lực tăng trưởng kinh tế, cần phải tăng năng suất lao

động, có nghĩa là cần phải tăng động lực di cư đối với những lao động ở

những vùng còn khó khăn, tiềm năng hạn chế. Muốn tăng động lực di cư cần

có chính sách để tăng "các nguồn vốn di cư”, cụ thể là tăng “vốn con người”

và “vốn xã hội” hướng tới cầu lao động ở thành thị.

(cid:2) Việc tăng vốn con người được thực hiện thông qua thúc đẩy giáo dục

và đào tạo có chất lượng, có chính sách hỗ trợ để mọi người dân hoàn thành

chương trình giáo dục phổ thông. Hỗ trợ đào tạo nghề hướng tới cầu lao động

ở thành thị như các nghề về điện lạnh, điện tử, tin học, thợ xây dựng, giúp

việc,... Cần coi giúp việc nhà là một nghề với những có kiến thức và kỹ năng

nghề cần có như: biết nấu ăn, lau dọn nhà cửa, giao tiếp đúng mực, trung

thực,…Trong quá trình đào tạo ngoài việc giúp cho người lao động có trình

độ chuyên môn kỹ thuật thì rất cần tập trung giúp cho người lao động có

những kiến thức kỹ năng mền, ví dụ như: có ý thức tự giác, nghiêm túc chấp

hành kỷ luật lao động, tác phong làm việc chuyên nghiệp, hiệu quả. Kiến thức

132

xã hội cũng là một nội dung quan trọng cần được trang bị cho người di cư.

Tăng vốn kiến thức xã hội thông qua các tổ chức như hội phụ nữ, hội nông

dân,… nâng cao hiểu biết về sức khỏe sinh sản, nâng cao hiểu biết và kỹ năng

phòng tránh các tệ nạn xã hội vốn rất phức tạp ở các đô thị như cờ bạc, ma

túy, mại dâm,…

(cid:2) Tăng cường “vốn xã hội” thông qua các mô hình can thiệp của các tổ

chức đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức dân sự trợ giúp người di cư,

khuyến khích và hỗ trợ các hội/nhóm kết nối bạn bè đồng hương, anh chị em

cùng họ hàng ở quê hương cùng di cư để chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau.

(cid:4) Để ổn định nguồn nhân lực cho mục tiêu phát triển bền vững, một số

vùng cần giảm động lực di cư. Muốn giảm động lực di cư cần có chính sách

để tăng “vốn ở lại” hướng tới cầu lao động ở nông thôn. Có chính sách hỗ trợ

làng nghề như làm gốm sứ, mây tre đan, thợ làm về đồ gỗ,.. phù hợp với từng

địa phương. Ví dụ ở Đồng bằng sông Hồng, mô hình phát triển các làng nghề

như gốm sứ Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội; đồ gỗ nghệ ở Đồng Kỵ Từ Sơn,

Bắc Ninh,… đã tạo lực hút lao động địa phương không xuất cư.

(cid:4) Cần xem di cư là động lực tích cực cho phát triển. Di cư giúp cải

thiện mức sống cá nhân người di cư và hộ gia đình của họ, đồng thời người di

cư tìm được việc làm phù hợp sẽ tăng năng suất lao động, từ đó thúc đẩy tăng

trưởng nền kinh tế đất nước.

133

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÁC BÀI BÁO

1. Phạm Ngọc Hưng, Nguyễn Hải Dương, Phạm Ngọc Toàn, Nguyễn Phương

Lan (2016), “Một số yếu tố quyết định di cư trong nước của dân số 15 tuổi

trở lên và cơ hội việc làm phi nông nghiệp của người di cư, Kỷ yếu hội nghị

toàn quốc lần thứ IV về ứng dụng toán học.

2. Phạm Ngọc Hưng, Lưu Bích Ngọc (2016), “Ảnh hưởng của hoàn cảnh sống

hộ gia đình đến khả năng xuất cư ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế & phát triển,

số đặc biệt 9/2016.

3. Lưu Bích Ngọc, Phạm Ngọc Hưng (2017), “Một số yếu tố tác động đến khả

năng di cư của lao động Việt Nam: Phân tích thực hiện bộ dữ liệu điều tra

lao động – việc làm năm 2014, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 1 (464), tháng

1 năm 2017.

134

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Arango, J. (2000). “Explaining Migration: A Critical Review,”

International Social Science Journal, 165:283-296.

2. Bauer, T. K. & Zimmermann, K. F. (1999), ‘Assessment of Possible

Migration Pressure and its Labour Market Impact Following EU

Enlargement to Central and Eastern Europe’, IZA Research Report No.3,

Institute for the Study of Labor, Bonn, Germany.

3. Bentivogli, C., Pagano, P. (1999). Regional Disparities and Labour

Mobility : the Euro – 11 versus the USA. Labour 13 (3)

4. Bigsten, A. (1988). "A Note on the Modelling of Circular Smallholder

Migration.". Economics Letters 28: 87-91.

5. Böheim, R. & Taylor, M. (2002), ‘Residential mobility, housing tenure

and the labor market in Britain’ cited in Ritchey, P. N. (1976).

‘Explanations of Migration’, Annual Review of Sociology, 2: 363-404.

6. Böheim, R., Taylor, M. (2000). Residential mobility, housing tenure

and the labor market in Britain. Institute for Social and Economic

Research and Institute for Ritchey, P. N. (1976). "Explanations of

Migration." Annual Review of Sociology 2: 363-404.

7. Borjas, G. J. (1999), “The Ecomic Analysis of Immigration”, in O. C.

Ashenfelter and D. Card (eds.), Handbook of Labor Economics, Volume

3A, Chapter 28, Amsterdam, Elsevier

8. Brau, A. and Harigaya T. 2007. Seasonal migration and improving living

standards in Vietnam. American Journal of Agricultural Economics

89(2): 430-447.

9. Chiswick, B. R. (1999), ‘Are Immigrants Favorably Self-Selected?’,

American Economic Review, 89 (2), 181-85.

135

10. Coxhead, I., Nguyen, C., Vu, L. (2014), “Internal migration in Vietnam:

new evidence from recent surveys”, Unpublished paper

11. Coxhead, Ian & Vu, Linh & Nguyen, Cuong, 2016. "Migration in Vietnam: New Evidence from Recent Surveys," MPRA Paper 70217,

University Library of Munich, Germany.

12. Crawford, T. (1973). Beliefs About Birth Control: A Consistency Theory Analysis. Representative Research in Social Psychology, 4, 53-65. 13. Đặng Nguyên Anh và Lê Bạch Dương (2007). “An sinh xã hội và Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị, các vấn đề thực tế và chính sách”,

Tạp chí Phát triển kinh tế xã hội, số 50.

14. De Jong, G., et al. (1983) ‘International and Internal Migration Decision-

Making’. International Migration Review, Vol. 17, No. 3, pp. 470-484. 15. Demir & Shearer, J. (2003). The Trafficking of women for sexual exploitation: a gender-based and wellfounded fear of persecution?

Geneva: UNHCR

16. Dustmann, C. (2003), ‘Children and Return Migration’, Journal of

Population Economics, 16, 81530.

17. Etzo, I. (2007). Determinants of interregional migration in Italy: A panel

data analysis. MPRA Paper No. 5307

18. Fan, C. C. (2005), “Modeling Interprovincial Migration in China1985– 2000”, Eurasian Geography and Economics, 46 No. 3, pp. 165-184. 19. Fan, C. S., Stark, O. (2010). A Theory of Migration as a Response to

Occupational Stigma. Reihe Ökonomie Economics Series 247

20. Figueiredo, E., et al. (2016), “Third Country Effect of Migration: the Trade -Migration Nexus Revisited” , CEP II Working Paper, No. 22 21. Fischer, P. A., Martin. R, et al. (1997). Should I Stay or Should I Go? International Migration, Immobility and Development. T. Hammer, G.

Brochmann, K. Tamas and T. Faist. Oxford, Berg Publishers

22. Gong, X., Villagomez, E., Soest, A., (2000). Mobility in the Urban Labor Market: A Panel Data Analysis for Mexico. IZA Discussion Paper

No. 213

136

23. Gordon, I. & Molho, I. (1995), ‘Duration Dependence In Migration

Behaviour: Cumulative Inertia Versus Stochastic Change’, Environment

and Planning, A 27.

24. Greene, W. H. (2012). Econometric Analysis (seventh edition) 25. Greenwood, M. J. (1997), ‘Internal Migration in Developed Countries’,

in M.R. Rosenzweig and O. Stark (eds.), The Handbook of Population

and Family Economics, Vol. 1B, Amsterdam, North-Holland, 1- 48. 26. Grilli, L. & Rampichini, C. (2007), “A multilevel multinomial logit model

for the analysis of graduates’ skills” Stat. Meth. & Appl. 16: 381–393 27. Hà Quế Lâm (2002). “Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta

hiện nay – Thực trạng và giải pháp”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2002. 28. Hagen – Zanker, J. (2008) Why do people migrate? A review of the

theoretical literature, ZPRA

29. Harbison, S.F. (1981) “Family structure and family strategy in migration

decision making”, in DeJong, G.F. and Gardner, R.W. (eds) Migration

Decision Making. New York: Pergamon, 225 51.

30. Harris, J. and M. Todaro (1970). "Migration, Unemployment and

Development: A Two-Sector Analysis." The American Economic Review

60: 126-142.

31. Jawadi, F., Sousa, R. M. (2014). “The Relationship between

Consumption and Wealth: A Quantile Regression Approach”, REP124

(4) juillet-août 2014

32. John, P., Haisken, D., & Maren, M. (2011) “Migration Magnet: The

Role of Work Experience in Rural-Urban Wage Differentials in

Mexico”, Ruhr Economic Papers # 263

33. Jong, G. D. and J. Fawcett (1981). Motivations for Migration: An

Assessment and a Value-Expectancy Model. Migration Decision

Making. G. D. Jong and R. Gardner. New York, Pergamon Press.

137

34. Lê Bạch Dương và cộng sự (2006). “Bảo trợ xã hội cho những nhóm

thiệt thòi ở Việt Nam”, NXB Thế giới, Hà Nội – 2006, 285 trang.

35. Lê Bạch Dương, Khuất Thu Hồng (Đồng chủ biên) (2008). “Di dân và

bảo trợ xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế thị

trường”, NXB Thế giới, Hà Nội – 2008, 260 trang.

36. Le Thi Kim Anh, Lan Hoang Vu, Bassirou Bonfoh, Esther Schelling

(2012), An analysis of interprovincial migration in Vietnam from 1989

to 2009. Global Health Action, 2012; Vol.5 (2012),

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3535692/#__ffn_sectitle

truy cap ngay 29/4/2014

37. Lê Xuân Bá và cộng sự (2009). “Nghiên cứu dự báo chuyển dịch cơ cấu

lao động nông nghiệp, nông thôn và các giải pháp giải quyết việc làm

trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở

nước ta”. Đề tài trọng điểm cấp Nhà Nước, Viện Nghiên cứu quản lí

kinh tế trung ương chủ trì, 237 trang.

38. Lee, E. (1966). "A Theory of Migration." Demography 3(1): 47-57.

39. Lewis, W. A. (1954). Economic Development with Unlimited Supply of

Labour. The Manchester School, 22(2), 139-191.

40. Lowry, I. (1966). Migration and metropolitan growth: two analytical

models. San Francisco: Chandler

41. Lưu Bích Ngọc & Hà Tuấn Anh (2015), “Động lực nhập cư đến vùng công

nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh: nghiên cứu trường hợp Đông Nam Bộ, Việt

Nam”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế các vấn đề kinh tế - xã hội trong phát triển,

Đại học Kinh tế Quốc dân, Việt Nam và Đại học Khon Kaen, Thái Lan.

42. Lưu Bích Ngọc (2016), “‘Di cư trong nước và đến các thành phố lớn

của Việt Nam giai đoạn 2004 - 2014, dự báo tới 2015”, Nhà xuất bản

Đại học Kinh tế Quốc dân, 76 trang.

138

43. Lưu Bích Ngọc và cộng sự (2014). “Di dân tạm thời ở Hà Nội và Thành

Phố Hồ Chí Minh”. Đề tài cấp Bộ Giáo dục – Đào tạo, Trường đại học

Kinh tế quốc dân chủ trì, 167 trang.

44. Lưu Bích Ngọc và cộng sự (2015), “Di dân tạm thời ở Hà Nội và Thành

Phố Hồ Chí Minh”, Đề tài cấp Bộ Giáo dục - Đào tạo, Trường đại học

Kinh tế Quốc dân chủ trì, 167 trang.

45. Ma, X. (2016), Determinants of the Wage Gap between Migrants and

Local Urban Residents in China: 2002-2013, Modern Economy, 2016, 7,

786-798 http://dx.doi.org/10.4236/me.2016.77081

46. Mabogunje, A. L. (1970). "Systems Approach to a Theory of Rural-

Urban Migration." Geographical Analysis 2: 1-18.

47. Mahinchai, M. (2010), “Determinants of migration: A case study of Nam Rong, Thailand”. Honors thesis submitted in partial fulfillment of the

requirements for Graduation with Distinction in Economics in Trinity

College of Duke University.

48. Mangalam, J. J. and Morgan, Cornelia. (1968). Human Migration: A Guide

to Migration Literature in English 1955–1962. Geography. Book 1

49. Maslow, A. H. (1943). A Theory of Human Motivation. Psychological

Review, 50(4), 370-96.

50. Maslow, A. H. (1954). Motivation and Personality. New York: Harper

and Row.

51. Massey, D., J. Arango, et al. (1994). "Theories of International Migration: A Review and Appraisal." Population and Development

Review 19(3).

52. McDevitt, T. M., & Gadalla, S. M. (1984). Use of intentions data in refining the functional specification of models of family migration

decision making: An analysis of Egyptian survey data. Carolina

Population Center Papers Series No. 35, University of North Carolina at

Chapel Hill.

139

53. Mendola, M. (2005). “Migration and Technological Change in Rural Households: Complements or Substitutes?”. Journal of Development

Economics 85 (1-2), 150-75.

54. Mincer, J. (1978), “Family migration decisions”. Journal of Political

Economy, 86:749-773.

55. Nguyễn Nữ Đoàn Vy (2014). “Tác động của di dân tự do đến kinh tế xã hội”, Tạp chí phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, bài đăng toàn văn 5

trang trên

http://dised.danang.gov.vn/LinkClick.aspx?fileticket=gI%2Bql40WSnM

%3D&tabid=61

56. Nguyen T. P., Tran N. T. M. T., Nguyen T. N., and R. Oostendorp.

(2008). Determinants and impacts of migration in Vietnam. Depocen

Working Paper Series No. 2008/01 (available online at

http://www.depocenwp.org).

57. Nguyễn Thị Thiềng và cộng sự (2009). “Báo cáo nghiên cứu thanh niên di cư làm việc trong khu vực phi chính thức tạ Hà Nội”, Báo cáo kỹ thuật

trình Care Internation, Hà Nội.

58. Nguyen, C., and Mont, D„ (2012). "Economic impacts of international in Vietnam." remittances on household welfare migration and

International Journal of Development Issues, 11(2), pages 144-163. 59. Nguyen, Cuong & Vu, Linh, 2017. "The Impact of Migration and

Remittance on Household Welfare: Evidence from Vietnam," MPRA

Paper 80084, University Library of Munich, Germany.

60. Nguyen, V. C. (2008). Do Foreign Remittances Matter to Poverty and Inequality? Evidence from Vietnam. Economics Bulletin 15(1): 1-11. 61. Nguyen, V. C., Van den Berg M., and Lensink R. (2011). "The impact of

work and non-work migration on household welfare, poverty and

inequality," The Economics of Transition, 19(4), 771-799.

140

62. Newton, I. (1687) Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (Mathematical Principles of Natural Philosophy). Pepys, London. ISBN

9781536887051

63. Phuong Nguyen - Hoang, John McPeak (2010), Leaving or staying: inter- provincial migration in Vietnam, Asian and Pacific Migration Journal, Vol.19,

No.4, 2010, p.473-500. http://ppc.uiowa.edu/sites/default/files/dev_-

_final_proof_with_correct_affiliations.pdf truy cap ngay 29/4/2014

64. Piore, M. J. (1979). Birds of passage: migrant labor and industrial

societies: Cambridge University Press.

65. Published for the United Nations Development Programme (UNDP)

“Human Development Report 1998”, 228 page

66. Puhani, P. A. (1999). Labour Mobility – An Adjustment Mechanism in

Euroland ?. IZA Discussion Paper No. 34

67. Quyết định số 43/2010/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành

ngày 02/06/2010 về hệ thống các chỉ tiêu thống kê quốc gia.

68. Ravenstein, E. G. (1885). The Laws of Migration. Journal of the

Statistical Society of London, 48(2), 167-235.

69. Ritchey, P. N. (1976) ''Explanations of Migration", Annual Review of

SocioIogy, Vol 2, pp 363-404.

70. Ruyssen, I., Everaert, G., and Rayp, G. (2012). “Determinants and Dynamics of Migration to OECD Countries in a Three - Dimensional

Panel Framework”. SHERPPA Ghent University

71. Sandell, S. H. (1977). Women and the Economics of Family Migration.

The Review of Economics and Statistics, 59(4), 406-414.

72. Shaw, P. (1975). Migration theory and fact : a review and bibliography

of current literature. Paperback – 1975

73. Sjaastad, L. (1962). "The Costs and Returns of Human Migration."

Journal of Political Economy 70(5): 80-93.

141

74. Soja, S. J., et al. (2014), “Quantile regression in the consumption of luxury goods” Int. J. Agricult. Stat. Sci., ISSN : 0973-1903, Vol. 10, No. 1, pp.

35-41

75. Stark, O., Bloom, E. D. (1985). The New Economics of Labor

Migration. The American Economic Review, 75 (2): 173-178.

76. Syafitri, W. (2012), “Determinants of labour migration decisions: The

case of East Java, Indonesia”. Bulletin of Indonesian Economic Studies,

49(3), 385-386.

77. Taylor, J. E., Rozelle, S. & Brauw, A. (2003). “Migration and Incomes in Source Communities: A New Economics of Migration Perspective

from China.” Economic Development and Cultural Change 52(1):75-

102 (October).

78. TCTK (2011). “Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009: Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam: Thực trạng, xu hướng và những khác biệt”, NXB

Thống kê, 114 trang.

79. TCTK, UNFPA (2005), Điều tra di cư Việt Nam 2004: Những kết quả

chủ yếu.

80. TCTK, UNFPA (2005a), Điều tra di cư Việt Nam 2004: Di cư trong nước và mối liên hệ với các sự kiện của cuộc sống, Giấy phép xuất bản số: 880-

2006/CXB/17-221/LĐXH cấp ngày 24 tháng 11 năm 2006, 103 trang 81. TCTK, UNFPA (2005b), Điều tra di cư Việt Nam 2004: Chất lượng

cuộc sống của người di cư ở Việt Nam.

82. TCTK, UNFPA (2016), Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ (2014) Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam, NXB Thông tấn Hà Nội, 2016, 85 trang. 83. TCTK, UNFPA (2016), Điều tra di cư nội địa quốc gia 2015: các kết quả

chủ yếu, 182 trang.

84. Todaro, M. (1969). "A Model of Labor Migration and Urban Unemployment in Less Developed Countries." The American Economic

142

Review 59(March 1969): 138-148.

85. Tsafack-Nanfosso, R. & Zamo-Akono, C. (2009) Migration and Wages Differentials in Urban Cameroon, Research in Applied Economics, ISSN

1948-5433, 2009, Vol. 1, No. 1: E1.

86. UNFPA (2007), Hiện trạng di cư trong nước ở Việt Nam, 31 trang

87. Varkevisser, T. (2015) An Oaxaca-Blinder decomposition of the native-

immigrant wage gap in the Netherlands, Master Thesis MSc Economics,

VU University Amsterdam, July 2015.

88. Vũ Thị Hồng, Patrick Gubry, Lê Văn Thành (2003), Con đường đi vào

thành phố, NXB TP HCM, 389 trang.

89. Wang, Dewen, Wu Yaowu and Cai Fang (2004), Migration,

unemployment and urban labor market segregation in China’s economic

transition. The World Economy, No.4

90. Zhang, K. H., Song, S. F. (2003). Rural-urban migration and

urbanization in China: Evidence from time-series and crosssection

analysis. China Economic Review 14: 386–400.

91. Zipf, G. (1946). The PP/D hypothesis: on the Intercity Movement of

Persons. American Sociological Review, 11, 677-686.

143

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC A: SỐ LIỆU NIÊN GIÁM THỐNG KÊ

Bảng 1: Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá hiện

hành phân theo thành thị - nông thôn các năm 2010, 2012, 2014

(Đơn vị tính: nghìn đồng)

Khu vực 2010 2012 2014

Thành thị 2.130 2.989 3.968

Nông thôn 1.070 1.579 2.041

Nguồn: Niên giám thống kê -Tổng cục Thống kê

Bảng 2: Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá

hiện hành phân theo vùng

(Đơn vị tính: nghìn đồng)

2010 2012 2014 Vùng địa lý kinh tế

Đồng bằng sông Hồng 1.580 2.351 3.278

Trung du và miền núi phía Bắc 905 1.258 1.613

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung 1.018 1.505 1.982

Tây Nguyên 1.088 1.643 2.008

Đông Nam Bộ 2.304 3.173 4.124

Đồng bằng sông Cửu Long 1.247 1.797 2.326

Nguồn: Niên giám thống kê - Tổng cục Thống kê

140

Bảng 3: Số lao động được tạo việc làm phân theo vùng, đơn vị

tính lượt ngời

2010 2012 2014 Vùng địa lý – kinh tế

Đồng bằng sông Hồng 351.200 320.000 354.500

Trung du và miền núi phía Bắc 152.000 133.000 165.000

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung 352.300 121.000 328.000

Tây Nguyên 97.200 55.500 84.000

Đông nam bộ 360.500 405.500 345.000

Đồng bằng sông Cửu Long 323.800 314.000 323.500

Nguồn: Niên giám thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội

Bảng 4 : Tỷ suất nhập cư theo vùng (đơn vị tính ‰ )

2010 2012 2014 Các vùng địa lý – kinh tế

Đồng bằng sông Hồng 3,5 2,7 3,1

Trung du và miền núi phía Bắc 2,3 1,6 2,3

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung 3,1 2,1 5,3

5,7 8,7 7,7 Tây Nguyên

24,8 15,5 18,5 Đông Nam Bộ

Đồng bằng sông Cửu Long 1,8 1,5 2,2

Nguồn: Niên giám Tổng cục Thống kê

141

Bảng 5 : Tỷ suất xuất cư theo vùng

(đơn vị tính ‰)

2010 2012 2014 Các vùng địa lý – kinh tế

Đồng bằng sông Hồng 3,0 2,5 3,6

Trung du và miền núi phía Bắc 6,2 4,2 4,3

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung 8,8 6,5 7,1

Tây Nguyên 6,1 5,0 6,1

Đông Nam Bộ 4,9 3,8 7,3

Nguồn: Niên giám Tổng cục Thống kê

Đồng bằng sông Cửu Long 10,2 6,5 8,9

Bảng 6: Hệ số tương quan của các biến

NC TNBQ VL

NC 1

TNBQ 0,7534 1

Nguồn: Tính toán từ số liệu trong niên giám Tổng cục thống kê

VL 0,3417 0,83286 1

142

PHỤ LỤC B: KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG MÔ HÌNH

PHỤ LỤC SỐ 1: Các bảng kết quả ước lượng mô hình động lực xuất

cư và kiểm định Hausman

***

0,2247148

Phụ lục số 1.1: Kết quả ước lượng mô hình tác động cố định

Giới tính chủ hộ (Nữ là trạng thái tham chiếu) Nhóm tuổi chủ hộ (nhóm tuổi 30 – 39 là nhóm tham chiếu)

***

16 - 29

1,079443

***

40 - 49

3,379227

***

50 - 59

3,614156

***

3,092064

≥ 60 Bằng cấp chủ hộ (Không đi học hoặc có bằng tiểu học)

***

Trung học cơ sở

0,4864661

***

0,7754918 1,3237430***

Trung học phổ thông Cao đẳng hoặc đại học

***

0,2162958

Tỷ lệ phụ thuộc

***

-0,9493506

Tỷ lệ đại học

Trễ một thời kỳ biến nhóm chi tiêu thực bình quân (nhóm 3 là tham chiếu)

***

1

0,4704270

***

2

0,1584617

***

4

-0,4052619

***

-0,7445187

5 Loại nhà (nhà tạm và khác là nhóm tham chiếu)

***

Kiên cố

0,0375316

***

-0,5436579

Bán kiên cố Nguồn nước (nước mưa/nước khác là nhóm tham chiếu)

***

Nước máy

0,0622998

***

0,0387055

Nước giếng Loại hố xí (không có hố xí là nhóm tham chiếu)

***

Tự hoại

0,8976571

***

Thô sơ

0,6460515

143

***

-0,0000193

Trễ một thời kỳ số lao động được tạo việc làm [ vieclam(-1) ]

***

-7,073884

Trễ một thời kỳ loga vốn đầu tư thực hiện [ lvondt(-1) ]

***

-0,0928696

922

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Số quan sát

*** p < 0,01. ** p < 0,05. * p < 0,1

Phụ lục số 1.2: Kết quả ước lượng mô hình tác động ngẫu nhiên

***

0,1475937

Giới tính chủ hộ (nữ là trạng thái cơ sở)

Nhóm tuổi chủ hộ (nhóm tuổi 30 – 39 là nhóm tham chiếu)

***

16 - 29

0,4588842

***

40 - 49

1,71701

***

50 - 59

2,708508

***

≥ 60

2,365574

Bằng cấp chủ hộ (Không đi học hoặc có bằng tiểu học là nhóm tham chiếu)

***

Trung học cơ sở

0,0099056

***

Trung học phổ thông

-0,0070641

***

Cao đẳng hoặc đại học

0,4867648

***

0,0572168

Tỷ lệ phụ thuộc

***

-0,4309877

Tỷ lệ đại học

Trễ một thời kỳ biến nhóm chi tiêu thực bình quân (nhóm 3 là tham chiếu)

***

1

-0,1056744

144

***

2

0,0571181

***

4

0,1639592

***

5

-0,0196837

Loại nhà (nhà tạm và khác là nhóm tham chiếu)

***

Kiên cố

-0,3103713

***

Bán kiên cố

-0,1624928

Nguồn nước (nước mua và khác là nhóm tham chiếu)

***

Nước máy

-0,6303535

***

Nước giếng

-0,2238353

Loại hố xí (không có hố xí là nhóm tham chiếu)

***

Tự hoại

0,2812561

***

Thô sơ

0,5362077

***

0,00000436

Trễ một thời kỳ số lao động được tạo việc làm [ vieclam(-1) ]

***

-0,5635635

Trễ một thời kỳ loga vốn đầu tư thực hiện [ lvondt(-1) ]

***

-0,0163577

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

3.317

Số quan sát

*** p < 0,01. ** p < 0,05. * p < 0,1

145

FE

RE

(b)

(B)

(b - B)

sqrt(diag (V_b - V_B)

0,2247148

0,1475937

0,0771212

0,0181956

Phụ lục số 1.3: Kết quả kiểm định Hausman

Giới tính chủ hộ

Nhóm tuổi chủ hộ

1

1,079443

0,4588842

0,6205591

0,0459711

3

3,379227

1,71701

1,662217

0,0247719

4

2,708508

0,9056486

0,0264201

3,61415

5

2,365574

0,7264899

0,0287879

3,092064

Bằng cấp chủ hộ

THCS

0,0099056

0,4765606

0,0091148

0,486466

THPT

-0,0070641

0,7825558

0,0132778

0,7754918

Cao Đẳng - ĐH

0,4867648

0,8369785

0,0771734

1,3237430

0,0572168

0,159079

0,0065579

Tỷ lệ phụ thuộc

0,2162958

-0,4309877

-0,5183629

0,0090604

Tỷ lệ đại học

-0,9493506

Trễ một thời kỳ biến nhóm chi tiêu thực

1

-0,1056744

0,5761015

0,0090764

0,4704270

2

0,0571181

0,1013436

0,0068162

0,1584617

4

0,1639592

-0,5692211

0,0066139

-0,4052619

5

-0,0196837

-0,724875

0,0090604

-0,7445187

Loại nhà

Kiên cố

-0,3103713

0,347903

0,016878

0,0375316

146

-0,162492

-0,3811652

0,0154999

Bán kiên cố

-0,5436579

Nguồn nước

-0,6303535

0,6926533

0,0096872

Nước máy

0,0622998

-0,2238353

0,2625408

0,010558

Nước giếng

0,038705

Loại hố xí

0,2812561

0,616401

0,0134556

Tự hoại

0,8976571

0,5362077

0,1098438

0,0127526

Thô sơ

0,6460515

0,00000436

-0,0000237

0,000000268

Trễ việc làm

-0,0000193

-0,5635635

-6,510321

0,0145584

Trễ vốn đầu tư

-7,073884

-0,0163577

-0,0765119

0,0009689

Chỉ số PCI

-0,0928696

Kết quả của thống kê khi bình phương

" Þ("")

= (b - B)'[(V_b - V_B)^(-1)](b - B) = 258440,63 " Þ("#) Prob ( ) = 0,0000

H0 : Mô hình phù hợp là mô hình tác động ngẫu nhiên

H1 : Mô hình phù hợp là mô hình tác động cố định

" Þ("#)

Với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% đều lớn hơn Prob ( nên bác bỏ )

H0. Kết luận mô hình phù hợp là mô hình tác động cố định

147

PHỤ LỤC SỐ 2: Kiểm định thu nhập bình quân, chi tiêu thực bình quân các hộ thuộc nhóm 0_0_1 hai giai đoạn 2010 – 2012 và 2012 – 2014 và so sánh với nhóm 0_0_0 giai đoạn 2012 – 2014.

Phụ lục số 2.1: Kiểm định so sánh trung bình mức tăng tương đối

thu nhập của nhóm 0_0_1 giai đoạn 2010 - 2012 và 2012 – 2014

Kiểm định so sánh trung bình mức tăng Thống Bậc tự Mức ý

tương đối thu nhập nhóm 0_0_1 hai giai kê T do nghĩa 2

đoạn 2010 – 2012 và 2012 – 2014 phía

1,426 50 0,16

Phụ lục số 2.2: Kiểm định so sánh trung bình mức tăng tương đối

thu nhập của nhóm 0_0_0 giai đoạn 2010 - 2012 và 2012 – 2014

Kiểm định so sánh trung bình mức tăng Thống Bậc Mức ý

tương đối thu nhập nhóm 0_0_0 hai giai kê T tự do nghĩa 2

đoạn 2010 – 2012 và 2012 – 2014 phía

-5,779 1150 0,00

148

Phụ lục số 2.3: Kiểm định so sánh trung bình mức tăng thu nhập bình quân của hộ nhóm 0_0_1 so với hộ nhóm 0_0_0 giai đoạn 2012 – 2014.

ANOVA Table

Sum of Squares

Mean Square

df

F

Sig.

gthu1214 *

Between

(Combine

12,012

1 12,012

24,258

0,000

nhom

Groups

d)

Within Groups

597,690 1207

0,495

Total

609,702 1208

Phụ lục số 2.4: Kiểm định so sánh trung bình mức tăng chi tiêu thực của hộ

nhóm 0_0_1 giai đoạn 2010 - 2012 và 2012 - 2014

Paired Samples Test

Paired Differences

t

df

Sig. (2- tailed)

95% Confidence Interval of the Difference

Mean

Std. Deviation

Std. Error Mean

Lower

Upper

g_chibq1214 -

Pair 1

.0388

1.23166

.17247

-.30760

.38522

.225

50

.823

g_chibq1012

149

Phụ lục số 2.5: Kiểm định so sánh trung bình mức tăng chi tiêu thực của hộ nhóm 0_0_0 giai đoạn 2010 - 2012 và 2012 – 2014

Paired Samples Test

Paired Differences

t

df

Sig. (2- tailed)

Mean

95% Confidence Interval of the Difference

Std. Deviatio n

Std. Error Mean

Lower

Upper

Pair1 g_chibq1214 -

-00,23511

1,02485

0,0302

-0,29438

-0,17584

-7,783 1150

0,000

g_chibq1012

Phụ lục 2.6: Kiểm định so sánh trung bình mức tăng chi tiêu bình quân của

hộ thuộc nhóm 0_0_1với hộ thuộc nhóm 0_0_0 giai đoạn 2012 – 2014.

ANOVA Table

Sum of

Mean

Squares

df

Square

F

Sig.

Between

(Combined)

g_chibq1214 *

2.625

1

2.625 6.738

.010

Groups

nhom

Within Groups

467.474

1200

.390

Total

470.099

1201

150

Mô hình phân rã Blinder-Oaxaca

Số quan sát = 5014

Mô hình tuyến tính

Số quan sát nhóm 1 =

Nhóm 1: dicu = 0

4145

số quan sát nhóm 2 =

Nhóm 2: dicu = 1

869

Hệ số tác động đến thu nhập nhóm 1

7,34597***

Hệ số tác động đến thu nhập nhóm 2

7,359848***

Tổng khác biệt về thu nhập của nhóm 1 so với

-0,0138776***

nhóm 2

Sự khác biệt thu nhập do sự khác biệt của các biến

0,0347004***

độc lập trong mô hình gây ra

Sự khác biệt thu nhập do sự khác biệt hệ số ước

0,0045857***

lượng mô hình hai nhóm gây ra

Sự khác biệt thu nhập do tích chéo của sự khác biệt

-0,0531637***

các biến độc lập với sự khác biệt hệ số ước lượng

mô hình hai nhóm gây ra

Sự khác biệt thu nhập do sự khác biệt của các biến độc lập trong mô hình gây

ra

Giới tính chủ hộ

-0,0033457***

Nhóm tuổi chủ hộ

-0,0062169***

PHỤ LỤC SỐ 3: Kết quả phân rã Blinder -Oaxaca

151

0,0372897***

Bằng cấp chủ hộ

0,02663***

Tỷ lệ đại học

-0,0196566***

Tỷ lệ phụ thuộc

Sự khác biệt thu nhập do sự khác biệt hệ số ước lượng mô hình hai nhóm gây

ra

0,0109546***

Giới tính chủ hộ

0,3178439***

Nhóm tuổi chủ hộ

0,0207431***

Bằng cấp chủ hộ

-0,0060705***

Tỷ lệ đại học

-0,0223099***

Tỷ lệ phụ thuộc

Sự khác biệt thu nhập do tích chéo của sự khác biệt các biến độc lập với sự

khác biệt hệ số ước lượng mô hình hai nhóm gây ra

-0,0002941***

Giới tính chủ hộ

-0,0479487***

Nhóm tuổi chủ hộ

0,0054871***

Bằng cấp chủ hộ

-0,005036***

Tỷ lệ đại học

-0,0053721***

Tỷ lệ phụ thuộc