MOHANDAS KARAMCHAND GANDHI - NHỮNG CỐNG HIẾN LỚN LAO CHO CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI ẤN ĐỘ
lượt xem 34
download
Sau khi kết thúc môn học, cũng là lúc em thực hiện bài tiểu luận của mình. Vấn đề mà chúng em cần tim hiểu và thực hiện là nói về một trong những danh nhân có tác động mạnh đến con người và xã hội Ấn Độ, điều đó cũng có nghĩa là khơi dậy lại những giá trị và thành tựu mà danh nhân đó đem đến cho đất nước Ấn Độ xinh đẹp. Qua một thời gian học hỏi ở trường, được thầy Ngô Minh Oanh hướng dẫn kĩ lưỡng và một thời gian dài tìm hiểu về tiểu sử cũng như cuộc...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: MOHANDAS KARAMCHAND GANDHI - NHỮNG CỐNG HIẾN LỚN LAO CHO CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI ẤN ĐỘ
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM KHOA ĐÔNG NAM Á HỌC MÔN : VĂN MINH VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG ĐỀ TÀI :MOHANDAS KARAMCHAND GANDHI - NHỮNG CỐNG HIẾN LỚN LAO CHO CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI ẤN ĐỘ Giáo viên bộ môn: TS. NGÔ MINH OANH Sinh viên thực hiện đề tài : Tăng Th ị Mỹ Ngọc Mssv:50700037 Lớp :DN07 – chuyên ngành :quan hệ quốc tế Tp. HCM ngày 03 tháng 11 năm 2010 LỜI NÓI ĐẦU Sau khi kết thúc môn học, cũng là lúc em thực hiện bài tiểu luận của mình. Vấn đề mà chúng em cần tim hiểu và thực hiện là nói về một trong những danh nhân có tác động mạnh đến con người và xã hội Ấn Độ, điều đó cũng có nghĩa là khơi dậy lại những giá trị và thành tựu mà danh nhân đó đem đến cho đất nước Ấn Độ xinh đẹp. Qua một thời gian học hỏi ở trường, được thầy Ngô Minh Oanh hướng dẫn kĩ lưỡng và một thời gian dài tìm hiểu về tiểu sử cũng như cuộc đời cùa các danh nhân nổi tiếng Ấn Độ, cuối cùng em quyết định tìm hiểu sâu h ơn v ề m ột “ vị thánh, cha già của dân tộc Ấn Độ” – Mohandas Karamchand Gandhi.
- Nhắc đến ông không thể không kể về một đất nước xinh đẹp mang nhiều điều bí ẩn, như dòng sông Hằng mênh mông, dòng sông Ấn huy ền bí và dãy núi Himalaya hùng vĩ…, và cả con người nơi đây cũng có một sức hút kì lạ không chỉ với du khách mà còn tác động mạnh đến những ai có quyết tâm nghiên cứu con người và xã hội Ấn Độ. Nét độc đáo dễ thấy nhất chính là khả năng tiếp thu những tinh hoa văn hóa khác nhau, riêng biệt nhưng hài hòa. Ấn Đ ộ đ ược m ệnh danh là đất nước “ thần nhiều hơn người” , và con người tin vào “ lu ật nhân quả’”… Chính những điều kì bí, lôi cuốn đã hấp dẫn không ít đến trí tò mò cũng như ước ao được thực tế và tìm hiểu đối với không chỉ những nhà nghiên cứu, những khách du lịch,…mà còn cả những sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường cũng ước ao điều đó. Nói về đất nước và con người Ấn Độ không phải vài ngày mà hết mà còn phải tìm hiểu nhiều lắm mới thấy được nét độc đáo. Tuy nhiên, trong bài ti ểu luận này đang nói đến Mahandas Karamchand Gandhi, người có công trong xã hội Ấn. Ông không chỉ chiếm trọn lòng ngưỡng mộ của nhân dân Ấn Độ mà còn làm cho thế giới khâm phục bởi tài năng và lòng bao dung, đức độ…. Cảm ơn thầy rất nhiều vì đã tạo cơ hội cho chúng em nghiên cứu và tìm hiểu về đất nước, con người, mà đặc biệt là tìm hiểu về một nhân vật lịch s ử có tầm quan trọng đối với Ấn Độ… CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI ẤN ĐỘ 1.1 : Đất nước Ấn Độ : Thủ đô: Niu Đê-li Diện tích: 3.280.483 km² Tiền tệ: Rupi Khí hậu/Thời tiết: Ấn Độ có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Lạnh nhất vào tháng 12 và tháng 1, 2; nóng nhất vào tháng 5, 6; mùa mưa vào tháng 7, 8, 9; mùa khô vào tháng 10, 11, 12 Quốc khánh: 26/1/1950 Về mặt địa lý, nước cộng hòa Ấn Độ nằm trọn trong bán đảo Ấn Độ và một phần của lục địa châu Á, chiều dài đo từ Bắc xuống Nam là 3.050 km, chiều ngang trung bình đo từ Đông sang Tây khoảng 2.950 km. Ấn Độ cũng có hai chuỗi đảo, mỗi chuỗi hình thành một lãnh thổ hợp nhất riêng. Chuỗi đảo Andaman và Nicobar nằm ở phía Đông tiểu lục địa Ấn Độ, giữa vịnh Bengal và biển Andaman, hòn đảo xa nhất về phía Nam của cụm đảo này chỉ cách phía
- Bắc đảo Sumatra của Indonesia có 200 km. Chuỗi đảo Lakshadweep nằm ở vùng bờ biển phía Tây Nam nước này. Ấn Độ có 15.200 km đường biên giới với các nước láng giềng, 7.600 km bờ biển, bao gồm các đảo. Các vùng tự nhiên : Đất nước Ấn Độ có thể chia thành ba vùng chính: vùng núi Himalaya, vùng đồng bằng sông Gange (sông Hằng hay Hằng hà) và bán đảo Ấn Độ. Vùng nằm trong hệ thống núi non Himalaya rộng từ 160 đến 320 km và trải dài khoảng 2.400 km dọc theo các biên giới phía Bắc và phía Đông của Ấn Độ. Nằm ở phía Nam và song song với vùng núi non Himalaya là đồng bằng sông Gange, một vành đai đất thấp rộng từ 280 đến 400 km, hình thành bởi con sông Gange và các phụ lưu của nó. Vùng này bao gồm một số khu vực có mức sản xuất nông nghiệp cao nhất Ấn Độ. Cuối cùng, nằm ở phía Nam vùng đồng bằng là bán đảo Ấn Độ. Một loạt những dãy núi và cao nguyên nằm chắn cửa ngỏ phía Bắc của bán đảo này. Dãy Arvalli chạy theo hướng Bắc-Nam đến cạnh phía Đông của sa mạc Thar; những dãy đồi thấp cắt ngang bởi những thung lũng nằm dọc theo ranh giới giữa các bang Uttar Pradesh và Madhya Pradesh ở vùng trung tâm Ấn Độ. Ở phía Nam bán đảo Ấn Độ là cao nguyên Deccan rộng lớn với độ cao trung bình 600 m, có nơi cao đến 1.200 m. Bán đảo Ấn Độ được bao bọc bởi hầu hết là những vùng duyên hải phì nhiêu. Vùng bờ biển phía Tây gồm những cư dân sống về nông và ngư nghiệp. Những con đường mậu dịch xưa biến các thành phố và thị trấn của vùng này thành những trung tâm thương mại về vải vóc và đồ gia vị. 1.1.1 Khí hậu Khí hậu của Ấn Độ thuộc vào loại khí hậu gió mùa nhiệt đới. Do sự rộng lớn của đất đai và những biến đổi về cao độ của đất, quốc gia này có nhiều vùng khí hậu khác nhau. Dãy núi Himalaya hùng vĩ ngăn chặn cái lạnh lẽo của mùa Đông tràn về từ phía Bắc, khiến cho khí hậu của hầu hết các vùng ở Ấn Độ trở nên ôn hòa hơn, chỉ trừ một vài nơi như Kashmir hay những triền núi cao là nhiệt độ có thể xuống đến – 15oC vào mùa Đông. Lượng mưa phân phối không đều trên lãnh thổ Ấn Độ. Vùng duyên hải phía Tây và các bang Bengal và Assam ở phía Đông nhận một lượng mưa là 200 cm mỗi năm, còn bang Rajasthan và cao nguyên Ladakh của Kashmir chỉ được 6 cm mưa mỗi năm. Trong khi đó, mực nước mưa ở Cherapunji, thuộc Meghalaya, trong vùng Đông Bắc Ấn Độ, lên đến 1.062 cm, một trong những vũ lượng vào hàng cao nhất thế giới. 1.1.2 Tài nguyên thiên nhiên
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhất của Ấn Độ là đất và nước. Khoảng 54,7% diện tích đất đai là những vùng khả canh, nguồn nước ngầm dưới lòng đất rất đáng kể. Đồng bằng sông Gange là một trong những vùng đất phì nhiêu nhất của Ấn Độ. Đất đai củavùng này hình thành do phù sa của sông Gange và các phụ lưu của nó. Ở đây, nước ngầm rất dồi dào và gần mặt đất, thuận lợi cho việc canh tác. Mỗi năm vùng này có thể trồng trọt từ hai đến ba vụ mùa. Hầu hết lúa gạo và lúa mì của Ấn Độ đều được canh tác tại đây. Ngay cả đất đen và đất đỏ của cao nguyên Deccan, dù không có độ dày như đầt phù sa đồng bằng sông Gange nhưng cũng khá màu mỡ Nguồn khoáng chất của Ấn Độ bao gồm một vành đai than đá rộng trải dài từ bang Mahrshtra qua vùng đồi núi của các bang Madhya Pradesh và Bihr đến bang Tây Bengal. 1.1.3 Động và thực vật ở Ấn Độ Ấn Độ là một xứ sở có những hệ động, thực vật phong phú và một khí hậu phù hợp với tính đa dạng sinh học. Các nhà sinh học chia nước này ra làm 7 vùng phân bố động, thực vật chính: đồng bằng Indus khô h ạn, đ ồng b ằng sông Gange, vùng Himalaya, thung lũng Assam, vùng duyên hải Malabar, vùng cao nguyên, cùng nhóm đảo Andaman và Nicobar. Tại đây có rất nhiều động thực vật quí hiếm, tuy nhiên ít nhiều đang bị đe dọa bởi con người… 1.2 : Con người Ấn Độ : Dân tộc: Ấn Độ không có quốc đạo. Hiến pháp Ấn Độ quy định tự do tín ngưỡng, bình đẳng các tôn giáo. Có sáu tôn giáo chính: trên 80% dân s ố theo Ấn Độ giáo, 10% theo Hồi giáo, 2% theo Thiên chúa giáo, 2% theo Đ ạo Sikh; khoảng 1% theo đạo Thiền (Jainism); 0,75% theo Phật giáo Ngôn ngữ: Mười tám thứ tiếng được Hiến pháp công nhận là ngôn ngữ chính. Tiếng Hindu là ngôn ngữ chính thức làm việc của nhà n ước liên bang và được gần 40% dân số sử dụng. Tiếng Anh là tiếng giao ti ếp, đ ược sử d ụng rộng rãi. 1.2.1) Dân số, sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo Ấn Độ là quốc gia có dân số đông hàng thứ hai thế giới với 1.080,26 triệu người và một mật độ dân số bình quân 328,5 người/km2 (tháng 7/2005). Khoảng 73% dân số Ấn Độ sống trong vùng nông thôn. Trái với Trung Quốc đang áp dụng những biện pháp chặt chẽ nhất để hạn chế sự gia tăng dân số, ở Ấn Độ, đà gia tăng dân số vẫn diễn biến nhanh. Chỉ trong 10 năm, từ năm 1981 đến năm 1991, dân số đã tăng gần 24%. Tỉ lệ tăng dân số là 1,4% (2005). Tính đa dạng về phương diện sắc tộc và văn hóa của Ấn Độ thể hiện ở sự hiện diện trên tiểu châu lục này nhiều tộc người khác nhau đến từ những vùng
- đất nay là Pakistan, Bangladesh, Nepal, Bhutan, Sri Lanka..Nhóm người Ind- Aryan chiếm đa số (72%), kế đến là nhóm Dravidian (25%), nhóm Mogoloid và các nhóm sắc tộc khác chiếm 3% còn lại. Ấn Độ có rất nhiều ngôn ngữ khác nhau, tựu trung chia thành hai nhóm ngôn ngữ chính, đó là nhóm Indo-Aryan được sử dụng phần lớn ở phía Bắc và nhóm Dravidian, hầu hết ở miền Nam. Ngoài ra, còn có nhóm ngôn ngữ Trung Quốc-Tây Tạng của những người sống dọc theo dãy Himalaya. Trong nhóm ngôn ngữ Hindu-Aryan, phổ biến nhất hiện nay là tiếng Hindi và tiếngUrdu. Tiếng Hindi sử dụng chủ yếu trong tộc người Hinhu, còn tiếng Urdu phần lớn do người theo Hồi giáo sử dụng. Trong 4 ngôn ngữ chính của nhóm ngôn ngữ Dravidian, tiếng Tamil là ngôn ngữ cổ xưa nhất, với một lịch sử văn học bắt đầu từ thế kỷ thứ nhất. Tôn giáo giữ một vai trò rất quan trọng ở Ấn Độ, chủ yếu là đạo Hindu và đạo Phật. Cả hai tôn giáo này bắt nguồn từ lịch sử xa xưa của Ấn Độ. Ngoài hai tôn giáo trên, còn có Thiên Chúa giáo, đạo Sikh và đạo Jainism. Theo những số liệu công bố vào thập niên 1990, 82% người Ấn theo đạo Hindu, họ là những người tham gia vào các phong trào cải cách bắt đầu từ thế kỷ 19. 1.2.2) Đời sống xã hội Đời sống của người Ấn Độ tập trung trong môi trường gia đình. Không ít nhà là những đại gia đình với nhiều thế hệ sống chung với nhau. Ở nông thôn Ấn Độ, đàn ông thường làm việc ngoài đồng, người phụ nữ lo tiếp tế nước uống, chuẩn bị bữa ăn, rửa chén bát và vắt sữa đàn bò nuôi gần nhà. Các cô gái giúp đỡ mẹ trong công việc hay coi sóc các em nhỏ. Con trai ở nông thôn Ấn Độ thường được giao chăn thả đàn gia súc ngoài đồng. Người phụ nữ lấy chồng thường về sống với gia đình bên chồng; nếu khoảng cách giữa hai gia đình xa quá, họ ít khi về thăm nhà cha mẹ đẻ. Tại các đô thị, gia đình vẫn là trung tâm của đời sống xã hội. Nhiều gia đình có thể chia nhau các tầng trong cùng một ngôi nhà. Phụ nữ nghèo phải đi giúp việc nhà, làm công việc nặng nhọc ở các công trường xây dựng hay bán hàng rong dọc theo đường phố. Trong thành phần phụ nữ có học vấn, họ thường chọn nghề nghiệp giáo viên, thư ký hay các nhà chuyên môn. Người ta ít gặp phụ nữ Ấn Độ làm doanh nhân hay người đứng bán hàng. Trang phục của đa số người Ấn Độ - nam cũng như nữ - thường là một tấm vải khoác quanh người. Ở người phụ nữ là bộ sari, cách mặc thay đổi tùy vùng hoặc cộng đồng dân cư. Đàn ông Ấn Độ ở nông thôn mặc bộ trang phục gọi là dhoti để nguyên cả chiều dài. Cách thức ăn phổ biến của người Ấn Độ là dùng tay đưa trực tiếp thức ăn vào miệng. Cà ri là món "quốc hồn quốc túy", tượng trưng một phong cách ẩm
- thực riêng và độc đáo của họ. Ấn Độ là một trong những quốc gia có nhiều lễ hội tôn giáo nhất thế giới. Các lễ hội thường kèm theo tiệc tùng, âm nhạc và múa hát. Hai vấn đề xã hội quan trọng trong đời sống người Ấn Độ là sự nghèo khó và những bất công trong quan hệ giữa các thành phần trong xã hội. Người nghèo thường phải đối mặt với bệnh tật, ít có cơ hội học tập và thường bị lạm dụng bởi những người có quyền kiểm soát đời sống của họ. Trong mọi tầng lớp xã hội, ở thành thị cũng như nông thôn, sự phân biệt đối xử và các hình thức bạo hành đối với phụ nữ vẫn thường xảy ra. Kể từ ngày thu hồi nền độc lập (1947) đến nay, các chính quyền thay nhau điều hành đất nước đã có những nỗ lực “xóa đói giảm nghèo", nhưng đến năm 1994, vẫn còn 35,04% cư dân sống dưới mức nghèo khổ. Hoạt động công nghiệp hóa tạo công ăn việc làm tại thành thị, ở nông thôn, nông dân đã có cơ hội đa dạng hóa nguồn thu nhập của họ.Nguồn nước sạch trở nên khan hiếm và đa phần những người nghèo khổ sống tại đây luôn mắc nhiều chứng bệnh. Giữa thập niên 1990, bệnh AIDS trở thành một trong những vấn đề y tế xã hội nghiêm trọng ở Ấn Độ.Trong kế hoạch phòng chống bệnh tật, quan niệm "trọng nam khinh nữ" vẫn ăn sâu vào ý thức xã hội, hậu quả là trong những gia đình nghèo, sự chăm sóc y tế do các bậc cha mẹ dành cho con cái chú trọng nhiều hơn đối với con trai và tỉ lệ tử vong về phía các bé gái vẫn thường đạt mức cao hơn. Về mặt xã hội, không thể không đề cập đến một trong những tệ đoan được truyền từ đời này sang đời kia trong lịch sử Ấn Độ và mới được khắc phục gần đây; đó là tệ tảo hôn. Nên việc lấy vợ lấy chồng thường rất sớm và đó là nguyên nhân của việc tăng dân số. Trong một khía cạnh khác, mối quan hệ giữa người Hindu và người Hồi giáo cũng là một trong những vấn đề gay go của xã hội Ấn Độ. 1.2.3) Đời sống kinh tế Kể từ ngày giành lại nền độc lập đến nay, Ấn Độ trải qua một quá trình phát triển kinh tế chậm chạp, đôi lúc là những cơn thoái trào kinh tế do khí hậu khắc nghiệt và những rối loạn về chính trị gây nên. Đầu thập niên 1970, Ấn Độ đã hoàn tất mục tiêu tự túc về lương thực, mặc dù số thực phẩm không được phân phối đồng đều trong dân và thường thiếu hụt khi sắp đến mùa thu hoạch. Đến cuối thập niên 1970, chính phủ bắt đầu giảm bớt sự kiểm soát đối với nền kinh tế; tuy nhiên đến năm 1991, nhà nuớc vẫn còn điều tiết hay tự điều hành nhiều ngành công nghiệp, trong đó có khoáng sản và mỏ đá, ngân hàng và bảo hiểm; vận chuyển và lưu thông; sản xuất và xây dựng. Trong năm này, một cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra buộc chính phủ phải đề ra những biện pháp cải cách kinh tế quan trọng. Sau chiến
- tranh vùng vịnh (1990-1991), giá dầu hỏa gia tăng, đứng trước tình trạng mất cân bằng. Những cải cách kinh tế đem lại hiệu quả rõ rệt. Những năm 1996-1997, đầu tư nước ngoài lên gần 6 tỉ USD, tăng rất nhanh so với con số 165 triệu USD trong hai năm 1990-1991. Cũng trong thời kỳ này, lượng hàng xuất nhập khẩu tăng lên, đời sống kinh tế khá hơn, thành phần trung lưu cũng nhờ thế mà đông hơn, chiếm khoảng 20 đến 25% tổng dân số vào giữa thập niên 1990. Tỉ lệ tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ trong hơn một thập kỷ khoảng trên 6%/năm. Năm 2004, GDP cua Ân Độ tăng 6,2%, tỉ lệ lam phat ở mức 4,2%. Hiện ̉ ́ ̣ ́ nay, Ấn Độ được xếp thứ 6 thế giới về sức hấp dẫn FDI (sau Mỹ, Trung Quốc, Anh, Braxin và Mêhicô); xếp thứ 25 về tổng FDI. Thu nhập đầu người trên 500 USD/năm. Chính phủ mới ra mục tiêu tăng trưởng trung bình 7-8%. Mục tiêu của Ấn Độ là trở thành một nước phát triển vào năm 2020. CHƯƠNG 2 : MOHANDAS KARAMCHAND GANDHI – VỊ THÁNH, CHA GIÀ CỦA DÂN TỘC ẤN ĐỘ 2.1 : Tiểu sử và Thời niên thiếu của mohandas karamchand gandhi Mohandas Karamchand Gandhi, sinh ngày 02 / 10 / 1869 trong m ột gia đình quan lại ở Porbandar thuộc miền Tây Ần Độ. Cha của Mohandas Karamchand Gandhi, ông Kaba Gandhi, là một người thanh liêm và yêu th ương dân t ộc, đ ược nhiều người quí trọng. Mẹ của Mohandas Karamchand Gandhi lại là một ng ười phụ nữ mộ đạo, bà luôn tin tưởng vào tôn giáo mà bà đang theo là đ ạo Jain, r ằng luôn ăn chay và không sát sinh. Cũng vì ch ịu ảnh h ưởng từ đ ức tính c ủa cha m ẹ mà từ nhỏ Gandhi đã có những đức tính tốt,thừa hưởng tình yêu th ương dân t ộc mình như cha , thừa hưởng lòng nhân ái như mẹ, Gandhi ăn chay từ nhỏ và trong tiềm thức luôn nghĩ đến việc phải làm như thế nào để đất nước thoát kh ỏi ách thống trị của thực dân Anh và được tự do, hạnh phúc. Mặc dù ở vào cái tuổi ăn chưa no lo cho tới nhưng Gandhi luôn nung n ấu ý định giúp đất nước thoát khỏi cảnh đói nghèo và cơ cực. Vào năm 12 tu ổi ông cưới vợ theo sự sắp xếp của gia đình, vì cưới vợ s ớm là th ể hi ện s ự hi ếu th ảo đối với cha mẹ. Nhưng chẳng bao lâu, định mệnh nghiệt ngã lần lượt di ễn ra trong cuộc đời ông, kể từ sau cái chết của cha. Được sự ủng hộ của gia đình về việc sang Anh du học, hi vọng tới khi về nước sẽ có được một chức vụ cao trong bộ máy chính quyền. Nên vào tuổi 19, Gandhi vào Đại học College London (một trường thuộc Đại học London) học ngành luật. Trong thời gian tại London, Gandhi đã hứa với bản thân và với mẹ
- của mình là sẽ giữ giới luật Ấn Độ giáo không ăn thịt và uống rượu sau khi rời Ấn Độ. Mặc dù đã thử bắt chước văn minh người Anh, ví dụ nh ư h ọc nh ảy, nhưng Gandhi không ăn được thịt cừu và cải bắp bà chủ nhà trọ nấu cho mình. Bà chỉ Gandhi đến một trong những tiệm chay hiếm hoi tại London th ời đó. Nhưng thay vì đơn thuần làm toại nguyện bà mẹ, Gandhi đọc sách và đổi sang ăn chay ngay trên phương diện tri thức. Gandhi vào "Hội người ăn chay", đ ược cử làm uỷ viên ban chấp hành và lập ra một nhánh địa phương của nó. Về sau, Gandhi cho rằng công việc này đã giúp ông thu thập những kinh nghiệm giá trị trong việc quản lí và duy trì một tổ chức. Một số người ăn chay ông đã gặp là thành viên của hiệp hội Thần Trí học (hoặc Thông Thiên học), được bà Helena Petrovna Blavatsky thành lập vào năm 1875 để hỗ trợ tình người năm châu. Những nhà Thần Trí học này chuyên tâm nghiên cứu kinh điển Phật giáo và Ấn Độ giáo. Họ khuyến khích Gandhi đọc Chí Tôn ca. Mặc dù từ trước đây không tỏ vẻ hứng thú về tôn giáo, ông bắt đầu đọc những tác phẩm nói về Ấn Độ giáo, Kitô giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác. Sau khi kết thúc khóa học tại Anh quốc, Gandhi trở về nước mang trong lòng niền tin tưởng vào một tương lai tươi sáng nơi quê h ương “ chôn nhau c ắt rốn” của mình, nhưng không phải việc gì cũng mang đến s ụ hoàn h ảo trong cuộc sống khi mà ông biết mẹ của mình qua đời trong thời gian mình du h ọc, đó là sự mất mát không gì sánh nổi đối với ông bởi tình mẫu tử của mẹ đối với ông là rất lớn.Không những vậy, công việc mà ông có được sau khi trở về nước đã làm ông chán nản bởi “ tham quan” và “ cán cân công lý nhi ều khi nghiêng v ề phía kẻ có tiền” . Ông bỏ việc. Sau đó, một thời gian không lâu, ông được Abdulla Shath thuê làm lu ật s ự riêng và theo hợp đồng là làm việc tại Nam Phi với th ời h ạn 1 năm cùng s ố ti ền là 100 ghinê. Và ông đồng ý… 2.2 : những hoạt động trong thời gian đất nước bị xâm lược: Cuộc đời của ông bước sang một trang mới kể từ khi ông đặt chân đ ến Nam Phi, đó là con đường hoạt động chính trị và bắt đầu bằng : 2.2.1: Phong trào vận động quyền công dân tại Nam Phi: Vào thời điểm này, Gandhi là một người trầm tính, khiêm cung không chú tâm về chính trị. Ông đọc báo lần đầu tiên năm lên 18 và thường run sợ khi bước ra tòa thuyết trình. Nam Phi đã biến đổi ông m ột cách sâu s ắc khi ông ch ứng kiến sự hạ nhục và đàn áp mà cộng đồng Ấn Độ thường phải chịu đựng nơi đây. Vào một ngày, khi quan tòa thành phố Durban yêu cầu Gandhi gỡ khăn xếp (turban) trên đầu, ông từ chối và hùng hồn bước ra khỏi tòa. Một móc ngo ặc trong cuộc đời thường được các truyện kí thừa nhận - có thể xem là chất xúc tác cho chủ nghĩa hành động của ông - xảy ra ít lâu sau, khi ông bắt đầu một cuộc hành trình đến Pretoria. Ông bị vất ra khỏi xe lửa tại Pietermaritzburg sau khi t ừ chối chuyển từ toa xe hạng nhất đến toa hạng ba, vốn thường được những
- người da mầu sử dụng mặc dù đã mua vé hạng nh ất. Không lâu sau, trong cu ộc hành trình bằng xe ngựa, ông bị người lái xe đánh vì từ khước nhường chỗ cho một du khách châu Âu. Ông cũng kham chịu nhiều khổ đau khác như bị loại ra nhiều khách sạn vì chỉ mầu da của mình. Kinh nghiệm này khiến Gandhi quan sát kĩ hơn những thống khổ người đồng hương phải chịu đựng tại Nam Phi trong thời gian ông làm việc tại Pretoria. Chính trong th ời gian t ại Nam Phi, qua sự chứng kiến tận mắt chế độ kì thị chủng tộc, thành kiến và bất công, Gandhi bắt đầu thám vấn địa vị trong xã hội của những người đồng hương và của chính mình. Để giúp đồng bào mình tại Nam Phi thoát khỏi sự áp bức phân biệt vì màu da, ông quyết định trở thành người tổ chức và lãnh đạo phong trào c ủa ki ều dân Ấn.Không chỉ người Ấn căm phẫn và muốn lật độ người Anh mà còn có các tộc người khác cũng đứng lê đấu tranh. Nhưng không ph ải vì v ậy mà ông quên h ợp đồng của mình đối với thân chủ, ông làm việc rất hiệu quả và gi ải quy ết êm thấm vấn đề của thân chủ mình. Khi hợp đồng làm việc chấm dứt, Gandhi thu xếp trở về Ấn Độ. Tuy nhiên, trong buổi tiệc tiễn đưa tại Durban, ông tình cờ đọc một bài báo nói về một dự thảo pháp luật được Hội đồng lập pháp Natal đề nghị nh ằm lo ại b ỏ quyền bầu cử của người di dân Ấn Độ. Khi đưa việc này ra thảo luận với những người đồng hương, họ than không đủ kiến thức để phản đối d ự th ảo và khẩn khoản yêu cầu Gandhi ở lại giúp họ. Ông ph ổ bi ến m ột s ố ki ến ngh ị đ ến cả hai, Viện Lập Pháp Natal và chính quy ền Anh để phản đ ối d ự th ảo. M ặc dù không ngăn được việc dự thảo này được duyệt, cuộc đấu tranh của ông đã thành công trong việc soi rọi những điểm bất bình của người Ấn t ại Nam Phi. Nh ững người hỗ trợ thuyết phục ông lưu lại Durban để tiếp tục đấu tranh chống sự bất công được áp dụng đối với người Ấn tại đây. Ông lập Hội nghị Ấn Độ tại Natal năm 1894 và chính mình giữ vai bí thư. Qua tổ chức này, ông đã chuyển hóa cộng đồng người Ấn tại Nam Phi thành một lực lượng chính trị hỗn tạp, làm tràn ngập chính quyền cũng như báo chí với những lời trần thuật v ề s ự bất mãn của người Ấn và những bằng chứng của sự kì thị nơi người Anh tại Nam Phi. Năm 1896, Gandhi trở về Ấn Độ với mục đích mang vợ con sang Nam Phi. Năm 1897, khi trở lại Nam Phi, ông bị một nhóm bạo lực da trắng tấn công và tìm cách sát hại bằng tư hình. Như một dấu hiệu đầu tiên c ủa th ước đo n ội tâm ảnh hưởng đến những cuộc đấu tranh sau này, Gandhi khước từ việc t ố cáo b ất cứ cá nhân nào của nhóm bạo lực, nói rằng việc không tìm sự bồi thường tại tòa án dựa trên cơ sở lỗi lầm cá nhân là một trong những nguyên tắc chính của ông. Khi Chiến tranh Nam Phi bắt đầu, Gandhi chủ trương là người Ấn phải hỗ trợ chiến tranh để hợp pháp hóa yêu cầu trở thành công dân chính th ức. Ông tổ chức một nhóm tình nguyện cứu thương gồm 300 người Ấn Độ và 800 người
- làm mướn. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh kết thúc, tình trạng của người Ấn tại Nam Phi không khả quan hơn, vẫn tiếp tục sa đoạ. Năm 1906, chính quyền Transvaal công bố một pháp án mới, bắt người Ấn Độ của thuộc đ ịa ph ải kí chứng. Tại một cuộc biểu tình lớn được tổ chức tại Johannesburg vào tháng 9 ngay trong năm đó, Gandhi lần đầu áp dụng hình th ức “satyagraha” - kiên trì chân lí và đấu tranh bất bạo lực, khuyên các người đồng h ương ph ản bác luật mới và chịu đựng hình phạt để thực hiện việc này thay vì phản kháng b ằng phương tiện bạo lực.Gandhi nói : “Tôi không bao giờ dẫn dụ hay lôi cuốn một người nào theo tôi, nếu tôi không cho lương tâm và lí trí của h ọ th ấu rõ con đường tôi sẽ đắt họ vào. “ Bất bạo động” không phải là nhận chịu một cách khiếp nhược điều mà mình không thể tránh khỏi, không phải là rộng lòng với kẻ ác, mà là nhận đau khổ một cách tự giác. Cái đạo bất bạo động ch ẳng nh ững là đạo của dấng thánh nhân mà nó cũng là đạo của người phàm tục. Tôi mu ốn Ấn Độ tôn thờ đạo ấy, tôi muốn xứ Ấn Độ nhận thức được cái sức mạnh của đạo lí ấy”. Và với sự “ kiên trì chân lí” đó, Gandhi nói “ Nếu chúng ta đối xử với người Anh một cách công bằng và hợp lí thì ngày giải phóng Ấn Đ ộ c ủa chúng ta s ớm đến. Trái lại nếu chún ta coi họ như là thù địch thì ngày đó chưa biết đến bao giờ” Dự án này được áp dụng, dẫn đến một cuộc tranh đấu kéo dài 7 năm với hơn 7000 người Ấn bị bắt giam (trong đó có Gandhi, bị bắt bỏ tù nhi ều l ần), đánh đập, thậm chí bị bắn vì đình công, từ chối không kí ch ứng, đốt gi ấy kí chứng hoặc tham gia những cuộc kháng cự bất bạo động khác. Mặc dù chính quyền thành công trong việc đàn áp những người Ấn phản đối, tiếng thét gào của công chúng trước những phương pháp tàn bạo được áp dụng bởi chính quyền Nam Phi cho những người phản đối yên lặng hòa bình này cuối cùng đã bắt buộc tướng Jan Christian Smuts luận bàn một phương án thoả hiệp với Gandhi. Phong trào đấu tranh theo đường lối của Gandhi đã làm cho chính phủ mới nới tay hơn. Tuy vậy, chính phủ đã nhiều lần hăm d ọa và theo dõi Gandhi. Năm 1913, cuộc đấu tranh của kiều dân Ấn bùng nổ mạnh mẽ làm chính quy ền không kịp trở tay. Năm 1914, chính quyền Anh bãi bỏ các thứ thu ế và tr ả l ại quyền bầu cử cũng như Đạo luật hạn chế người Ấn nhập cư tại Nam Phi. Đường lối này cho thấy “ satyagraha” của Gandhi là đúng đắn. 2.2.2 : Phong trào đầu tranh giành độc lập Ấn Độ và vị lãnh tụ Đảng Quốc Đại Như đã thực hiện trong cuộc chiến Nam Phi, Gandhi khuyến khích việc ủng hộ người Anh trong cuộc chiến (Thế chiến thứ nhất) và ch ủ động khích l ệ người Ấn tham gia quân đội. Khác với quan niệm của nhiều người khác, cách biện luận duy lí của ông cho trường hợp này là quyền công dân đầy đủ, tự do và quyền lợi trong Đế quốc Anh, và như vậy thì việc giúp nó phòng v ệ không có gì sai. Ông thuyết trình trước Quốc dân Đại hội Ấn Đ được gọi tắt là Đ ảng Qu ốc
- Đại, nhưng phần lớn là chính ông được hướng dẫn vào những chủ đề Ấn Độ, chính trị và công chúng Ấn qua Gopal Krishna Gokhale, nhà lãnh đạo được tôn trọng nhất của đảng Quốc dân Đại hội bấy giờ. Được trở về quê hương, ông quyết định đi thăm các nơi để tân mắt chứng kiến sự thay đổi của đất nước. Nhưng ông nhận thấy rằng,đất nước đang rơi vào hoàn cảnh bi đát, cuộc sống của người dân nơi đây thì c ơ c ực, n ền văn hóa thì dần bị mai một. Vậy là ông quyết định thành lập trại “ Satyagraha Ashram”, trại gồm 30 người từ những vùng quê khác nhau có chung một tư tưởng, mục đích là hiên thân mình cho tổ quốc Gandhi gia nhập Đảng Quốc Đại, và với tiếng tăm của mình, sau khi Tilak từ trần, ông được nhân dân tôn vinh và nhận sứ mệnh lãnh đạo phong trào đấu tranh của dân tộc. Tháng 12/1921 Gandhi được bầu làm ch ủ t ịch Đ ảng Qu ốc Đại Ấn Độ. Những thành tích lớn đầu tiên của Gandhi xảy ra vào cu ối 1917 đ ầu 1918 với cuộc kích động tại Champaran và phong trào kiên trì chân lí tại Kheda m ặc dù ông chỉ thực hiện trên mặt danh nghĩa trong trường h ợp th ứ hai và ng ười chính chủ đạo là Sardar Vallabhbhai Patel, cánh tay phải của Gandhi. Tại Champaran, một khu vực nằm trong tiểu bang Bihar. Khu vực này là vùng chuyên canh cây tràm. Nông dân đã kí hợp đồng trồng tràm với người Anh, nhưng khi nghe tin người Đức đã tìm ra thuốc nhuộm bằng háo ch ất, các ông chủ người Anh không những đơn phương chấm dứt hợp đồng mà còn buộc người dân phải bồi thường cho chúng một khoản tiền thiệt hại. Qáu b ức xúc trước tình thế đó, Gandhi vận động tổ chức cuộc kháng cự cùng với h ơn 10.000 nông dân không có đất, nông nô và những nông gia nghèo khổ có số lượng đất không đáng kể chống lại những yêu sách ngang ngược của bọn chủ . Mặc dù Gandhi bị chính quyền thực dân Anh đưa ra tòa nh ưng phong trào đ ấu tranh v ẫn lên cao, cuối cùng bọn chủ phải nhân nhượng, bồi thường thiệt h ại cho nông dân. Bên cạnh những sự việc xảy ra được giải quyết thì cũng cho thấy bản chất của thực dân Anh khi chúng ép buộc nông dân phải trồng indigo và nh ững nông sản bán được trên thị trường thay vì gieo trồng những lo ại cung c ấp th ực ph ẩm cần thiết cho sự sinh tồn của họ. Bị đàn áp bởi dân binh của điền chủ (phần lớn là người Anh), họ được trả công rất ít nên cuộc sống rất vất vả cơ hàn. Thôn làng của họ rất dơ bẩn, thiếu vệ sinh. Những vấn đề nh ư uống rượu, kì th ị dân ti tiện (untouchable) và khăn che (purdah) ngày càng lan tràn. Giờ đây, ngay trước một cuộc chống đói kinh hoàng, thực dân Anh lại đưa ra một loại thu ế tàn ác, cứ y vào sự gia tăng theo chu kì mà thu thuế. Tình th ế rất tuy ệt vọng và t ại Kheda, bang Gujarat thì sự việc nhìn chung cũng không khác. Cũng trong năm 1918, Gandhi lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy sợi Ahmadabab. Để ngăn ngừa những hành động quá khích c ủa công nhân,
- ông đã tuyệt thực đồng thời yêu cầu bọn chủ phải nhượng bộ. Sau các cuộc đấu tranh này, uy tính của Gandhi ngày càng cao không chỉ trong nước mà còn đối với các nước trên thế giới Gandhi lập một Già-lam tại đó, tổ chức một nhóm người bao gồm người giúp cố cựu và người mới từ địa phương. Ông tổ chức một công trình nghiên cứu để có được một tổng quan về các thôn làng, xem xét những sự tàn bạo và những tình tiết thống khổ bao gồm những trạng thái thoái hóa của cuộc sống nói chung. Lập cơ sở trên lòng tự tin của người làng, Gandhi bắt đầu chỉnh lí các thôn xóm, lập trường học và bệnh viện, khuyến khích chủ làng xoá bỏ những việc hủ nát như phân biệt tiện dân, bắt phụ nữ mang khăn che và áp chế họ. Nhưng cuộc phát động có tổ chức đầu tiên của Gandhi xảy ra khi ông bị cảnh sát bắt giam với lí do gây bạo động và được yêu cầu rời địa ph ương này. Hàng trăm nghìn người biểu tình chống đối, vây quanh nhà giam, các tr ạm c ảnh sát và quan tòa đòi trả tự do lại cho ông, một sự việc pháp tòa không mu ốn nhưng sau cũng phải thực hiện. Gandhi đứng đầu những cuộc biểu tình có t ổ chức chống lại điền chủ, và họ, dưới sự lĩnh đạo của chính quy ền Anh, đã kí một hiệp định đảm bảo trả lương cao hơn và kiểm soát việc cho nông dân nghèo địa phương thuê đất, xoá bỏ việc tăng thuế cũng như việc thu thuế đến khi nạn đói chấm dứt. Chính trong thời gian kích động này, Gandhi được quần chúng tôn xưng là Bapu (quốc phụ) và Mahātmā. Tại Kheda, Patel đại di ện các nông gia trong những cuộc thương lượng với chính quyền Anh với kết quả là họ tạm dừng thu thuế, đảm bảo trợ cấp. Tất cả những người bị tù đều được thả ra. Danh tiếng Gandhi từ đây như một ngọn lửa lan truy ền khắp n ước và ông đã trở thành năng lực ảnh hưởng nhất định trong phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ. 2.2.3 : Phát động phong trào bất hợp pháp: Dự thảo pháp luật Rowlatt được duyệt năm 1919, cho phép chính phủ bắt giam những người bị vu khống gây loạn mà không cần đưa ra tòa duy ệt. Gandhi và đảng Quốc dân Đại hội tổ chức những cuộc biểu tình lớn phản đối và đình công, và tất cả những cuộc phản đối này đều được tổ chức rất hòa bình trên khắp nước. Tất cả những thành phố và thị xã lớn đều đóng cửa; các hoạt đ ộng cơ quan chính phủ đều phải được quân đội đảm nhiệm. Hàng nghìn người bị bắt giam, lệnh giới nghiêm được áp dụng ở nhiều vùng của Ấn Độ. Tại Punjab, cuộc đại tàn sát ở Amritsar với 379 người dân bị giết bởi quân đội Anh và Ấn Độ đã gây chấn thương nặng nề cho đất nước, gia tăng phẫn oán nơi quần chúng cũng như những hành vi bạo lực. Gandhi phê bình cả hai, hành vi của người Anh và bạo lực phục thù của người Ấn. Ông viết một bài phân ưu cùng với những nạn nhân Anh và lên án những cuộc bạo động. Bài này ban đầu bị phản đối trong đảng, nh ưng đ ược
- chấp thuận sau một bài thuyết giảng của Gandhi mà trong đó, ông đ ề cao nguyên tắc là tất cả những hành vi bạo lực đều có hại, không th ể đ ược bi ện minh[3]. Người Ấn không mang tội vì sự kì thị của người Anh, và không nên trừng phạt công dân Anh vô tội. Nhưng sau cuộc tàn sát lớn và bạo lực này, Gandhi nh ận th ức được là không chỉ người Ấn chưa được chuẩn bị cho việc kháng cự số đông, mà sự cai trị của người Anh đích thật tàn ác và nó có bản chất là đàn áp. Gandhi giờ đây chú tâm đến việc giành quyền tự trị và quyền quản lí t ất c ả nh ững c ơ quan chính quyền Ấn Độ, vươn đến trạng thái tự chủ ( svarāj), nghĩa là sự tự chủ toàn vẹn về mặt cá nhân, tâm linh và chính trị. Tháng 4 năm 1920, Gandhi được bầu làm chủ tịch hội Liên hiệp Tự trị Toàn Ấn Độ (All India Home Rule League). Ông được trao uy quyền chấp hành trong đảng Quốc dân Đại hội tháng 12 năm 1921. Dưới sự lĩnh đạo của Gandhi, Quốc dân Đại hội được tổ chức lại với một hiến pháp mới có mục đích là t ự chủ. Ai cũng có thể trở thành đảng viên sau khi đóng một l ệ phí trên danh nghĩa. Một tổ chức có giai cấp của các uỷ ban được thành lập nhằm cải thiện kỉ luật và kiểm soát những phong trào từ trước đến giờ không có định hình và khuếch tán, chuyển biến đảng từ một tổ chức tinh duệ số ít thành một đảng lớn với sức lôi cuốn toàn quốc. Gandhi mở rộng mặt trận bất bạo lực, bao gồm chính sách "bản quốc" (svadeshi) - nghĩa là tẩy chay những sản phẩm ngoại lai, đặc bi ệt là những sản phẩm Anh. Liên hệ với chính sách này là s ự ủng h ộ vi ệc mang y phục tự dệt ở nhà, được gọi là khadi, của ông, khuyên tất cả các người Ấn ăn mặc như vậy thay vì dùng đồ vải của người Anh. Gandhi khuyến cáo toàn dân, nam cũng như nữ, mỗi ngày dành chút thời gian để dệt vải ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập[4]. Đây là chiến thuật nhằm khắc sâu kỉ luật và s ự c ống hiến để loại trừ những người không có thiện ý và những người hoài bão, và bao gồm phụ nữ vào phong trào ở một thời điểm mà nhiều người cho rằng, nh ững việc làm như vậy không đáng trọng cho phụ nữ. Thêm vào việc tẩy chay các sản phẩm Anh, Gandhi cũng khuyến khích dân chúng tẩy chay các cơ quan giáo dục và pháp tòa Anh, từ ch ức không làm cho chính quyền, từ chối không đóng thuế và huỷ bỏ những danh hiệu, huy chương Anh. Chương trình mới này đã đạt được sức lôi cuốn và thành công rộng lớn, gia lực cho người Ấn chưa từng có từ xưa nay. Nhưng khi phong trào vừa đạt đỉnh điểm thì đã chấm dứt một cách đột ngột vì một cuộc xung đột b ạo l ực tại thị xã Chauri Chaura, bang Uttar Pradesh vào tháng 2 năm 1922. Lo ngại phong trào sẽ quay về phương tiện bạo lực và tin ch ắc rằng s ự vi ệc này có th ể lật đổ tất cả những công trình của mình, Gandhi li ền huỷ b ỏ chi ến d ịch b ất phục tòng[5]. Giờ đây, như một người đã phô bày nhược điểm của mình, Gandhi bị bắt bỏ tù ngày 10 tháng 3 năm 1922, bị đưa ra tòa vì lí do gây loạn và kết án
- sáu năm tù. Đây không phải lần đầu Gandhi vị bỏ tù nhưng là lần bị giam cầm lâu nhất. Bắt đầu từ ngày 18 tháng 3 năm 1922, ông ngồi tù khoảng hai năm và được thả tháng 2 năm 1924 sau một ca mổ viêm ruột thừa. Không có nhân cách hùng mạnh của Gandhi để kiềm ch ế các người đ ồng sự, đảng Quốc dân Đại hội bắt đầu tan vỡ, phân thành hai phái trong th ời gian ông ngồi tù. Một phái được dẫn đầu bởi Chitta Ranjan Das và Motilal Nehru, ủng hộ việc đảng tham dự cơ quan lập pháp. Phái thứ hai được dẫn đầu m ởi Chakravarti Rajagopalachari và Sardar Vallabhbhai Patel, phản đối việc này. Thêm vào đó là việc hợp tác giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo mạnh mẽ trong những chiến dịch bất bạo động giờ đây sa sút. Gandhi tìm cách b ắc c ầu n ối những điểm sai biệt này bằng nhiều phương tiện, bao gồm một cuộc tuy ệt thực ba tuần mùa thu năm 1924, nhưng chỉ với kết quả hạn chế[6]. 2.2.4 : Những năm 1930: Hội đồng Simon và cuộc hành trình muối: Trong hầu hết những năm thuộc thập niên 1920-30, Gandhi đứng bên ngoài ánh đèn công chúng. Ông chú trọng đến việc giải quyết cái nêm gi ữa đ ảng Swaraj và Quốc dân Đại hội, và khai mở các phương pháp ch ống kì thị dân vô giai cấp, uống rượu, thiếu học và nghèo đói. Ông trở về địa vị hàng đầu vào năm 1928. Một năm trước đó, chính quyền Anh đề cử một hội đồng cải cách hiến pháp dưới sự lĩnh đạo của Sir John Simon mà không có tên một người Ấn nào trong hội đồng. Kết quả của việc này là sự tẩy chay hội đồng c ủa các đ ảng Ấn Độ. Gandhi thúc đẩy một nghị quyết thông qua Quốc dân Đại hội Calcutta vào tháng 12 năm 1928, kêu gọi chính quyền Anh đảm bảo địa vị chủ quyền (dominion status) trong vòng một năm hoặc là sẽ đối đầu một chiến dịch bất bạo lực mới với mục đích giành độc lập hoàn toàn cho đất nước. Ngày 26 tháng 1 năm 1930 được Quốc dân Đại hội Ấn Độ - lúc đó đang hội họp tại Lahore - đề cao là ngày kỉ niệm độc lập Ấn Độ. Nó được tưởng niệm bởi hầu hết tất cả những tổ chức chính trị Ấn Độ khác, nh ững tổ ch ức nỗ lực giành độc lập đất nước hoặc tiến đến việc trao quyền xã hội chính trị cho những cộng đồng khác nhau. Như đã tuyên bố trước đây, vào tháng 3 năm 1930, ông phát động một chiến dịch kiên trì chân lí phản đối thuế muối,ông đưa ra 11 yêu sách n ổi ti ếng, đòi thục dân Anh phải cải cách về kinh tế và th ả những tù chính tr ị đã b ị k ết án không phải vì hành động bạo lực. Ông còn đưa ra yêu sách đòi chính quy ền th ực dân Anh bãi bỏ chính sách độc quyền về muối, để cho người Ấn được tự do sản xuất và mua bán muối . Khi những yêu sách trên bị phó v ương Irwin bác b ỏ, Gandhi đã chính thức phát động chiến dịch “ đề kháng bất bạo động” để phản đối. Đầu tiên được nhấn mạnh bởi cuộc Hành trình muối ( Salt March) đến Dandi nổi tiếng kéo dài từ 21 tháng 3 đến 6 tháng 4 năm 1930. Ông đi bộ 300 km từ Ahmedabad đến Dandi để lấy muối cho riêng mình. Hàng nghìn dân chúng Ấn
- Độ tham gia cuộc hành trình đến bờ biển này. Hành trình mu ối này là m ột trong những chiến dịch thành công nhất của ông với kết quả là hơn 60.000 người bị bắt giam. Chính quyền, được đại diện qua Lord Irwin, quyết định thương lượng với Gandhi. Hiệp ước Gandhi-Irwin được đóng dấu tháng 3 năm 1931. Trong đó, chính quyền Anh đồng ý thả tất cả những tù nhân chính trị để bù cho vi ệc đình ch ỉ cuộc vận động bất phục tòng. Thêm vào đó, Gandhi được mời sang Anh tham dự hội nghị bàn tròn (Round Table Conference) tại Luân Đôn với tư cách người đại diện duy nhất của Đảng Quốc Đại. Hội nghị này là một thất vọng cho Gandhi cũng như những người theo chủ nghĩa dân tộc bởi vì nó chỉ lưu ý đến nh ững tiểu vương cũng như những nhóm thiểu số Ấn Độ hơn là một s ự phó truy ền quyền lực (transfer of power). Ngoài ra, người thừa kế Lord Irwin là Lord Willingdon đã bắt đầu một chiến dịch mới để đàn áp những đại bi ểu ch ủ nghĩa dân tộc. Gandhi trở về Ấn Độ tiếp tục phong trào bất hợp pháp.Một lần nữa, Gandhi bị bắt giam, và chính quyền tìm cách đập tan ảnh hưởng của ông bằng cách cách li hoàn toàn ông và các người đi theo ủng hộ. Chiến lược này không hiệu quả. Năm 1932, qua chiến dịch của B. R. Ambedkar - lĩnh tụ của những người Dalit - chính quyền đảm bảo cho dân ti tiện Dalit nh ững khu b ầu c ử riêng trong hiến pháp mới. Để phản đối việc này, Gandhi bắt đ ầu m ột cu ộc tuy ệt thực 6 ngày vào tháng 9 năm 1932, thành công trong vi ệc buộc chính quy ền ti ếp nhận một hệ thống công bằng hơn qua sự thương lượng qua trung gian là ông Palwankar Baloo, vốn là một người Dalit chơi ngoạn bản cầu ( cricketer), sau trở thành nhà chính trị. Đây cũng là khởi điểm của một chiến dịch mới của Gandhi với mục đích cải thiện cuộc sống của dân ti ti ện, nh ững ng ười đ ược ông g ọi là Harijan, "con của trời Hari". Ngày 8 tháng 5 năm 1933, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 21 ngày để phản đối sự đàn áp của người Anh tại Ấn Độ. Mùa hè năm 1934, ông ba lần bị mưu hại không thành công. Khi Đảng Quốc Đại tranh luận về tuyển cử và chấp nh ận quy ền chính tr ị dưới kế hoạch liên bang, Gandhi quyết định rời đảng. Ông hoàn toàn không chống đối phương án này của đảng nhưng cảm thấy rằng nếu ông rút lui thì hình tượng của ông đối với thường dân Ấn Độ sẽ ngưng đè nén toàn th ể h ội viên của đảng vốn có bản chất đa dạng: thành viên theo ch ủ nghĩa c ộng s ản, xã hội, công đoàn, sinh viên, tôn giáo bảo thủ, kinh doanh và quy ền s ở h ữu. Gandhi cũng không muốn mình là mục tiêu của sự tuyên truy ền của chính quyền Anh khi lĩnh đạo một đảng đã có lần tạm thời thừa nhận sự phù hợp chính tr ị v ới chính quyền Anh. Gandhi trở về địa vị lĩnh đạo năm 1936 khi Jawaharlal Nehru nắm chức chủ tịch và Đảng Quốc Đại đang họp tại Lucknow. Mặc dù Gandhi mong muốn
- sự tập trung tuyệt đối vào việc giành độc lập, không chú tâm vào vi ệc suy đoán về chính quyền Ấn Độ tương lai, nhưng ông không ngăn được vi ệc Đ ảng Qu ốc Đại chọn chủ nghĩa xã hội là mục tiêu. Gandhi cũng phê bình Subhas Chandra Bose và việc ông thăng tiến, nhậm chức chủ tịch vào năm 1938. Trong khi một số sử gia cho rằng đây là một cuộc tranh quyền giữa hai nhà lĩnh đạo lớn thì Gandhi cơ b ản ph ản đ ối vi ệc Bose không thừa nhận nguyên tắc bất bạo lực cũng như dân quyền, hai điểm được Gandhi xem là nền tảng cho cuộc đấu tranh. Nguyện vọng phát động m ột cu ộc khởi nghĩa khắp nơi chống chính quyền Anh của Bose không hàm dung vi ệc chuẩn bị không dùng bạo lực của những người tham gia và trong năm đầu giữ quyền chủ tịch, Bose tập trung vào việc đưa những người thân c ận lên n ắm những chức quan trọng. Bose được nhậm chức lần thứ hai mặc dù bị Gandhi chỉ trích, nh ưng rời Đảng Quốc Đại khi tất cả những thành viên chức cao khác từ chức hàng loạt để phản đối việc ông từ bỏ những nguyên tắc Gandhi đã đưa vào trong nh ững năm đầu thập niên 1920. Năm 1938-1939, tất cả những ứng cử viên của Đảng Quốc Đại từ chức khi Quốc hội phản đối sự sáp nhập Ấn Độ một mặt vào Thế chiến thứ hai mà không tham vấn những đại biểu được bầu. Gandhi tiếp tục cuộc đấu tranh chống sự kì thị dân Dalit, khuy ến khích việc dệt tay và các ngành kĩ nghệ tại gia khác. Ông cũng cố gắng kiến lập một hệ thống giáo dục mới thích hợp cho những vùng thôn dã. Gandhi sống giản dị trong những năm này trong một thôn làng trung tâm Ấn Độ với tên Sevagram. Ngày 3 tháng 3 năm 1939, ông lại tuyệt thực một lần nữa. Thế chiến thứ hai bùng nổ năm 1939 khi Đức quốc xã xâm lấn Ba Lan. Gandhi hoàn toàn đồng cảm với nạn nhân của sự xâm chiếm này. Sau khi cân nhắc kĩ cùng những người đồng nghiệp trong Quốc hội, ông công bố rằng Ấn Độ không thể tham gia một cuộc chiến với mục đích bề ngoài là giành tự do dân chủ trong khi chính tự do dân chủ này bị phủ nhận tại Ấn Độ. Gandhi nói rằng ông sẽ hỗ trợ người Anh nếu họ cho ông thấy cách áp dụng mục đích c ủa cu ộc chiến tại Ấn Độ sau chiến tranh. Phản ứng của chính quy ền Anh hoàn toàn ph ủ định. Họ bắt đầu tạo sự căng thẳng giữa môn đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Khi chiến tranh tiến hành, Gandhi nâng cao yêu cầu, thảo một nghị quy ết kêu g ọi người Anh "Rời Ấn Độ" (Quit India). Đây là sự phản đối quyết định nhất, cực lực nhất của Gandhi và đ ảng Quốc dân Đại hội với mục tiêu xác nhận việc người Anh rời nước Ấn. Gandhi bị một số người trong Quốc hội và một số nhóm chính trị khác - thuộc cả hai mặt, theo Anh và chống Anh - chỉ trích. Một số người cho rằng, đối lập người Anh trong thời đoạn chiến đấu sinh tử của họ là một vi ệc phi đ ạo đ ức trong khi
- một số người khác lại cho rằng Gandhi chưa thực hiện đủ yêu cầu. Nhiều đảng chính trị phản đối lời kêu gọi của Gandhi. Ngoài sức khoẻ và tu ổi tác ra, đây có lẽ là bước tiến dẫn cuối cùng của Gandhi. Nó đã dẫn khởi một cuộc vận động đấu tranh giành độc lập Ấn Độ lớn nhất cho đến bây giờ - với sự bắt giam số đông và bạo l ực ở một m ức đ ộ ch ưa từng có. Hàng nghìn người kháng cự bị sát hại hoặc bị thương dưới nòng súng cảnh sát, và hàng trăm nghìn người đấu tranh giành độc l ập b ị b ắt giam. Gandhi và những người hỗ trợ ông nói rõ rằng họ sẽ không giúp người Anh trong th ế chiến nếu Ấn Độ không được đảm bảo tự do ngay lập tức. Gandhi th ậm chí nói rằng không thể đình chỉ cuộc vận động trong thời điểm này ngay trong trường hợp những hành vi bạo lực cá nhân xảy ra. Ông cho rằng, tình trạng "vô chính phủ có tổ chức" xung quanh ông "nguy hiểm hơn là vô chính ph ủ thật s ự". Ông yêu cầu tất cả những thành viên Quốc hội và dân chúng duy trì k ỉ lu ật hòa bình và "làm hay chết" vì tự do tuyệt đối. Gandhi và toàn bộ ban chấp hành Quốc hội bị bắt giam ngày 9 tháng 8 năm 1942 tại Mumbai bởi lực lượng quân đội nước Anh. Gandhi bị giam hai năm trong điện Aga Khan tại Pune. Tại đây, Gandhi trải qua những nỗi khổ lớn nhất của cuộc đời, đó là cái chết của vợ Kasturbai ch ỉ vài tháng sau khi Mahadev Desai - người thư kí được ông xem như con trai - chết vì bị nh ồi máu c ơ tim vào tuổi 42. Gandhi được thả trước khi chiến tranh chấm dứt vì sức khoẻ sa sút và một ca mổ cần thiết. Chính quyền Anh không muốn ông chết trong tù vì đây là một sự kiện có thể làm lòng căm phẫn của công chúng vượt kh ỏi t ầm ki ểm soát. Mặc dù sự đàn áp tàn nhẫn này mang đến một trạng thái trật tự tương đối tại Ấn Độ cuối năm 1943, nhưng phong trào "Rời Ấn Độ" đã thành công với những mục tiêu của nó. Khi chiến tranh chấm dứt, người Anh đã đưa ra nh ững dấu hiệu rõ ràng là quyền cai trị sẽ được chuyển đến tay Ấn Độ. Gandhi đình chỉ cuộc đấu tranh, những người lĩnh đạo Quốc hội và khoảng 100.000 người tù chính trị được thả. Sau 90 năm phấn đấu, tự do giờ đây nằm trong tầm tay Ấn Độ. Gandhi khuyên Quốc hội từ khước những đề nghị trong kế hoạch của phái đoàn chính phủ Anh năm 1946 vì ông rất nghi ngờ việc chia quyền với Liên minh Hồi giáo (Muslim League) cũng như sự phân chia và hạ giảm chính quyền trung ương có thể xảy ra. Gandhi cảnh cáo sự tập hợp được đề nghị dành cho những liên bang có số đông người Hồi. Tuy nhiên, đây là m ột trong nh ững l ần ít ỏi mà Quốc hội không nghe lời Gandhi (nhưng không đặt câu h ỏi v ề quy ền lĩnh đạo) vì những người cầm đầu không những muốn lập chính quyền nhanh như có thể khi người Anh trao quyền lại, mà còn muốn ngăn c ản Mohammed Ali
- Jinnah và Liên minh Hồi giáo đạt vị trí ngang hàng với đảng Qu ốc dân Đ ại h ội, vốn có bản chất dân tộc và hiện thế hơn. Trong thời gian 1946-1947, hơn 5000 dân bị sát hại. Liên minh được ủng hộ mạnh ở những bang có nhiều người theo Hồi giáo như Punjab, Bengal, Sindh, NWFP (North-West Frontier Province, Pakistan) và Baluchistan. K ế hoạch phân chia được ban lĩnh đạo Quốc hội thừa nhận là phương pháp duy nhất để ngăn cản một cuộc nội chiến lớn giữa môn đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Những nhà lĩnh đạo cố cựu của Quốc hội biết rõ Gandhi s ẽ ph ản đối c ực lực sự phân chia, nhưng họ cũng thừa biết là Quốc hội không ti ến bước n ếu không có sự thoả thuận của ông vì sự hỗ trợ trong đảng và toàn quốc dành cho Gandhi rất sâu rộng. Những người bạn đồng nghiệp thân cận nhất của ông đã chấp nhận việc phân chia như phương án giải đáp tốt nhất, và Sardar Patel cố gắng thuyết phục Gandhi đây là con đường duy nhất để tránh cuộc nội chi ến. Gandhi cuối cùng xuôi lòng, tán đồng bước thực hiện này. Gandhi có ảnh hưởng lớn trong các cộng đồng Ấn Độ giáo và Hồi giáo tại Ấn Độ. Tương truyền chỉ sự hiện diện của ông thôi cũng đủ ch ấm dứt các cuộc bạo động. Ông phản đối kịch liệt tất cả những kế hoạch phân chia Ấn Độ thành hai quốc gia độc lập. Liên minh Hồi giáo luận c ứ rằng thi ểu s ố ng ười H ồi giáo sẽ bị bức áp một cách có hệ thống bởi phần lớn môn đồ Ấn Độ giáo trong m ột quốc gia Ấn Độ thống nhất, và một quốc gia riêng cho người theo Hồi giáo là một giải pháp hợp lí. Tuy nhiên, nhiều người Hồi giáo ở trung tâm Ấn Đ ộ - v ốn chung sống với người Ấn giáo, đạo Sikhs, Phật giáo, Kì-na giáo, đạo Parsi, Kitô giáo và đạo Do Thái - lại muốn một quốc gia Ấn Độ thống nhất. Nh ưng Jinnah ra lệnh hỗ trợ rộng rãi các vùng Tây Punjab, Sindh, NWFP và Đông Bengal, tất cả những vùng đã hợp thành dạng Pakistan và Bangladesh ngày nay. Xứ sở mới của người theo Hồi giáo được kiến lập từ các vùng Đông và Tây Ấn Độ. Ban đầu nó được gọi là Tây và Đông Pakistan, và gi ờ đây t ương ưng v ới Pakistan và Bangladesh. Ngày trao quyền chính trị, Gandhi không ăn m ừng độc l ập cùng v ới công chúng Ấn Độ mà chỉ đơn độc tại Kolkata, đau buồn về sự phân chia và tiếp tục công việc nhằm chấm dứt bạo lực. 2.3 : những nguyên lí sống: “ Satyagarha”- kiên trì chân lí: Nguyên tắc chính của Gandhi là Satyagraha- kiên trì chân lí hay còn gọi là Chấp trì chân lí và người thực hiện việc này được gọi là một Satyagrahi. “Chấp trì chân lí không phải là năng lực th ể ch ất. Người ch ấp trì chân lí không t ổn thương đối thủ; ông ta không tìm cách huỷ diệt người ấy. Một người chấp trì chân lí không bao giờ dùng súng. Không có lòng sân ác hoặc bất cứ tâm bất thiện nào khác khi ứng dụng chấp trì chân lí”.
- Lúc đầu, Gandhi xem Chấp trì chân lí như là kháng cự th ụ động, nh ưng sau ông từ khước cách dùng này, bởi vì đối với ông, "th ụ động" ch ỉ đ ến m ột trạng thái thừa nhận định mệnh, một cách thầm nh ận nh ững gì b ất công và nh ư vậy, nó hạ thấp năng lực nằm trong từ "kháng cự". Theo Gandhi, kháng cự đòi hỏi một tư thái anh hùng và năng nỗ hơn là trạng thái thụ động hoặc khoan nhượng. Ba thành phần chính của nguyên tắc Chấp trì chân lí s ẽ làm sáng t ỏ s ự việc, đó là Chân lí (sa. satya), Bất hại (sa. ahiṃsā) và Khổ hạnh (sa. tapas) 2.3.1 Chân lí: Gandhi phân biệt hai loại chân lí, chân lí tương đối và chân lí tuy ệt đối. Trong trường hợp Chấp trì chân lí thì chân lí tương đối đóng vai trò chính. Trong nguyên tắc Chấp trì chân lí, chân lí tương đối - mang khái ni ệm th ực d ụng đ ể tìm chân lí - quan trọng hơn các khái niệm về Thượng đế, Brahman hoặc chân lí tuyệt đối. Trong khi khái niệm chân lí tuyệt đối của Gandhi bị ảnh hưởng v ề mặt siêu hình thì mặt khác, khái niệm chân lí tương đối, nh ư c ơ s ở c ủa ch ấp trì chân lí, lại rất khoa học và chính xác. Chỉ qua sự áp dụng và thực nghiệm ta mới biết được lập trường nào đứng gần chân lí tuyệt đối hơn. Nhưng, để không bị tấm màn vô minh và huyễn giác mê hoặc, người ta phải giữ những giới luật nhất định. Chúng được hàm dung trong hai thành ph ần khác của Chấp trì chân lí, là Bất hại và Khổ hạnh. 2.3.2 Bất hại: Bất hại cũng được hiểu là Bất bạo động. Theo Gandhi, chỉ một con đường dẫn đến chân lí, và con đường này mang tên Bất hại. Theo ông, chỉ nguyên tắc bất hại mới hòa hợp với quy luật vũ trụ là Dharma. Nguyên tắc bất hại toàn hảo đòi hỏi một niềm tin vào tính nhất thể của sự sống. Theo nguyên tắc Chấp trì chân lí, sinh mệnh của toàn th ể được đặt cao hơn sinh mệnh của cá nhân và như vậy, nó đòi hỏi một tấm lòng vị tha và vô uý. Để đạt được đẳng cấp này, người ta phải tu luy ện thân tâm, c ụ th ể là th ực hiện các phép tu khổ hạnh. 2.3.3 Khổ hạnh: Tapas - được dịch là Khổ hạnh ở đây - có nguyên nghĩa theo Ấn Độ giáo là "sự nóng", một "ngọn lửa" có thể đốt cháy các nghiệp trước đây. Thuật ngữ này sau được dùng để chỉ sự hành hạ thể xác, tuy ệt dục, lãnh đ ạm đ ối v ới các cảm nhận khổ lạc,... Tuy nhiên, dạng Khổ hạnh Gandhi đề cao không phải là dạng ẩn lánh vào rừng mà là dạng hết lòng phục vụ những người xung quanh, trong xã hội. Năng lực của một tâm thức chấp nhận khổ đau với ch ủ ý có kh ả năng dung hòa bạo lực. Giữ chặt chân lí mình cho là đúng có th ể gây kh ổ đau nhi ều dạng, ví như mất mát của cải, mang thương tích, thậm chí tử vong. Nh ưng Gandhi lại đòi hỏi ở những người đi theo mình một sự kham khổ tuyệt đối vì
- ông quan niệm rằng, mức độ khổ đau chính là thước đo chiều sâu tình thương của người chấp trì chân lí dành cho đối thủ cũng như của tính ch ất nghiêm trọng của niềm tin của ông ấy 2.3.4 Ăn chay: Mặc dù có thử ăn thịt lúc còn nhỏ nhưng Gandhi sau này trở thành m ột người ăn chay tuyệt đối. Ông viết sách về chủ đề này trong thời gian du học tại Luân Đôn, sau khi gặp người tranh đấu cho việc ăn chay là Henry Stephens Salt ở những cuộc hội họp của Hội người ăn chay. Nguyên tắc ăn chay có truy ền thống lâu đời trong các tôn giáo Ấn Độ nh ư Ấn Độ giáo, Kì-na giáo và Ph ật giáo, và trong tiểu bang của Gandhi, Gujarat, phần lớn môn đồ Ấn giáo đều ăn chay. Ông thử nhiều cách ăn và kết luận rằng, ăn chay đủ cung cấp ch ất dinh dưỡng tối thiểu cho thân thể. Tuy nhiên, cách ăn của ông cũng linh ho ạt và ông cũng không ngần ngại khi ăn trứng như bài viết "chìa khoá sức khoẻ" ( Key to Health) năm 1948 cho thấy. Ông thường nhịn ăn lâu ngày, dùng nh ịn ăn nh ư một vũ khí chính trị. Ông từ chối không ăn cho đến ch ết hoặc cho đ ến khi nh ững yêu cầu của ông được thực hiện. 2.3.5 Sống tuyệt dục: Gandhi sống tuyệt dục từ năm 36 tuổi. Quyết định này của ông bị ảnh hưởng mạnh bởi khái niệm Phạm hạnh (sa. brahmacarya) trong các tôn giáo Ấn Độ, tức là sự thanh tịnh của tâm linh và hành động, có mối liên h ệ tr ực ti ếp v ới việc tu khổ hạnh (sa. tapas) được nhắc bên trên. Tuy vậy, Gandhi không tin đây là một việc mỗi người nên làm. Trong Tự truyện, ông có nhắc lại cuộc phấn đấu chống lại sự thôi thúc tính dục và những cuộc ghen tuông vì bà Kasturba. Ông cho rằng, sống tuyệt dục là trách nhiệm riêng của ông để có th ể phát tri ển lòng từ bi thay vì đam mê nhục dục. 2.3.6 Im lặng: Gandhi giữ giới không nói một ngày trong tuần. Ông tin là không nói s ẽ mang đến sự an tĩnh nội tâm. Giới không nói bắt nguồn từ truyền thống Ấn giáo, mouna "tịnh khẩu" và santi "tịch tĩnh". Trong những ngày này, ông trao đổi với những người xung quanh bằng cách viết trên giấy. Từ năm 37 tuổi, h ơn ba năm liền ông không đọc báo vì cho rằng, trạng thái huyên náo của sự kiện th ế giới làm tâm ông hỗn loạn hơn là hỗn loạn nội tâm sẵn có. 2.3.7 Y phục: Trở về Ấn Độ sau khi làm luật sư thành công tại Nam Phi, ông từ kh ước mặc y phục phương Tây - cách ăn mặc được ông liên tưởng đến phú quý và thành công. Ông ăn mặc để người nghèo nhất Ấn Độ cũng có thể ch ấp nhận. Gandhi khuyến khích việc mặc y phục tự dệt ( khadi). Ông và môn đệ dệt vải từ sợi chỉ tự se và khuyến khích người khác cũng làm như thế. Mặc dù công
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn