TAP CHI KHOA HOC, Đai hoc Huê, Sô 43, 2007<br />
̣ ́ ̣ ̣ ̣ ́ ́<br />
<br />
<br />
<br />
MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN <br />
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM THỜI KỲ 1995 2004<br />
Phan Thanh Hoàn, Nguyễn Đăng Hào<br />
Trường Đại học Kinh tế,Đại học Huế<br />
<br />
Thực tiễn cho thấy, sự biến động của tỷ giá hối đoái có quan hệ mật thiết với <br />
kết quả của nền kinh tế vĩ mô. Đây là một biến số quan trọng ảnh hưởng đến sự <br />
cạnh tranh của hàng hoá ngoại thương và những biến số khác trong nền kinh tế. Sự <br />
thay đổi trong cán cân thương mại do biến động của tỷ giá là một vấn đề quan trọng <br />
và cơ bản trong chính sách kinh tế vĩ mô. Có hai lý do cho vấn đề này đó là: (i) những <br />
nhà hoạch định chính sách thường quan tâm đến việc ở mức độ nào thì cán cân <br />
thương mại là tối ưu cho một nước; (ii) sự biến động của cán cân thương mại ảnh <br />
hưởng trực tiếp đến thu nhập quốc dân trong ngắn hạn, vì vậy, nghiên cứu tác động <br />
của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại giúp cho việc hoạch định mục tiêu của <br />
thu nhập quốc dân. Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu và thảo luận về chính sách tỷ <br />
giá hối đoái trong thời gian qua là một vấn đề nhạy cảm, không những vì chính bản <br />
thân tầm quan trọng của nó mà còn vì ảnh hưởng lớn lao của nó đến nền kinh tế. <br />
Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng khá ấn tượng, tuy vậy <br />
cán cân thương mại của Việt Nam luôn thâm hụt. Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây là <br />
quan hệ giữa chính sách tỷ giá với ngoại thương là như thế nào? Liệu chính sách tỷ <br />
giá trong thời gian qua đã hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu? Kết quả trả lời những <br />
câu hỏi trên sẽ là căn cứ cho việc hoạch định chính sách tỷ giá nhằm đạt được một <br />
chính sách ngoại thương hợp lý, phục vụ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh toàn cầu <br />
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc của Việt Nam trong thời gian tới.<br />
Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng lý thuyết Đồng liên kết (Cointegration <br />
theory) và Cơ chế hiệu chỉnh sai số (ECM – Error Correction Model) nhằm kiểm định <br />
các hiệu ứng ngắn hạn và dài hạn của tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại <br />
nhằm xác định mô hình của mối quan hệ giữa hai nhân tố này. Lý thuyết Đồng liên <br />
kết được phát triển bởi Granger (1981) và hoàn thiện bởi Engle và Granger (1987). <br />
Lý thuyết này, từ đó, được áp dụng phổ biến trong phân tích quan hệ giữa các biến <br />
số kinh tế là dãy số thời gian. <br />
I. Cơ sở lý thuyết<br />
1.1. Phương trình quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại<br />
<br />
<br />
61<br />
Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại là mối quan tâm nghiên cứu <br />
của nhiều nhà kinh tế học từ trước đến nay. Nhiều nghiên cứu về vấn đề này đã chỉ <br />
ra rằng: Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại thay đổi qua thời <br />
gian, và có thể chia thành hai loại đó là quan hệ trong ngắn hạn và quan hệ trong dài <br />
hạn. Trước tiên, một sự giảm giá của nội tệ so với ngoại tệ, tức tỷ giá tăng, sẽ có <br />
ảnh hưởng trực tiếp ngay lên giá cả nhập khẩu. Trong khi đó, giá cả xuất khẩu chưa <br />
chịu sự tác động này. Kết quả là cán cân thương mại, được đo bằng hiệu số giữa <br />
kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu sẽ suy giảm. Tuy nhiên, qua thời gian, lượng <br />
nhập khẩu sẽ giảm do giá cả nhập khẩu tăng. Đồng thời, giá cả hàng hoá xuất khẩu <br />
tính bằng ngoại tệ sẽ giảm, làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế, dẫn <br />
đến lượng xuất khẩu tăng. Như vậy, theo thời gian (trong dài hạn), cán cân thương <br />
mại sẽ chuyển biến theo chiều hướng tích cực (thặng dư)1. <br />
Để kiểm định mối quan hệ giữa hai biến số này, cán cân thương mại được <br />
biểu thị là một hàm số của tỷ giá hối đoái thực đa phương. Cụ thể, ta có phương <br />
trình sau:<br />
ln( Bt ) 0 1 ln(q t ) ut<br />
Trong đó: Bt là tỷ số thương mại; ln biểu thị logarit tự nhiên và u là độ nhiễu. <br />
Ở đây, cán cân thương mại được biểu thị bằng tỷ số thương mại giữa kim ngạch <br />
xuất khấu và kim ngạch nhập khẩu. Lý do chính của việc sử dụng này là có thể dùng <br />
logarit của biến tỷ số thương mại này trong các mô hình kiểm định. Đây là phương <br />
trình quan hệ được sử dụng trong nghiên cứu này nhằm xác định mối quan hệ giữa <br />
cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái.<br />
1.2. Mô hình định lượng<br />
Với mô hình biểu thị mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại <br />
đã xác định ở trên (biểu thức 3), chúng tôi áp dụng phương pháp phân tích mối quan <br />
hệ này bằng lý thuyết Đồng liên kết (Cointegration theory) và mô hình cơ chế hiệu <br />
chỉnh sai số (ECM – Error Correction Model). <br />
Phân tích biến động dài hạn – Mô hình Đồng liên kết<br />
Trong nghiên cứu kinh tế, chúng ta thường giả lập mô hình mà ở đó các biến số <br />
kinh tế có quan hệ với nhau và thường được mô tả dưới dạng các cân bằng, chẳng <br />
hạn như:<br />
yt 0 1 xt ut<br />
Trong đó: yt và xt là các biến chuỗi, là tham số ước lượng,và ut là sai số. Điều <br />
đáng quan tâm ở đây là nếu phương trình cân bằng trên là tồn tại thì đặc tính của sai <br />
số cân bằng ut sẽ là như thế nào. Một đặc trưng quan trọng của ut sẽ là một biến <br />
chuỗi có giá trị trung bình nhỏ và không có xu hướng lớn dần hay nhỏ dần theo thời <br />
<br />
1<br />
Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld, International Economics: Theory and Policy, 5th Edition, Addison<br />
Wesley Publishing Company, p. 466468.<br />
62<br />
gian. Vì vậy, nếu biến chuỗi sai số này là biến ngẫu nhiên thì giá trị trung bình ước <br />
tính sẽ bằng 0 và có cùng phương sai. Một biến chuỗi sai số với đặc tính này được <br />
gọi là biến chuỗi tĩnh (Stationary Time Series). Biến chuỗi tĩnh là khái niệm cơ bản <br />
và quan trọng trong lý thuyết Đồng liên kết. Vì thế, trong khi ước lượng các tham số <br />
hoặc kiểm định giả thiết của các mô hình, nếu không kiểm định thuộc tính này của <br />
biến chuỗi thì các kỹ thuật phân tích thông thường (chẳng hạn như kỹ thuật OLS) sẽ <br />
không còn chính xác và hợp lý. Do đó, nếu sử dụng phương pháp phân tích hồi quy <br />
tương quan như trên sẽ dẫn đến “tương quan giả“ (Granger và Newbold, 1974)2. Kết <br />
quả của loại hồi quy này sẽ dẫn đến các kiểm định thống kê như t, F, R 2 sẽ bị lệch. <br />
Nói một cách khác, hồi quy lệch sẽ cho kết quả các kiểm định thống kê t và R 2 rất <br />
tốt nhưng mô hình có thể hoàn toàn không có ý nghĩa. Vì vậy, trước khi xây dựng và <br />
phân tích mô hình, cần phải có kiểm định thuộc tính tĩnh của các biến chuỗi trước <br />
khi đưa vào sử dụng.<br />
Hai biến chuỗi yt và xt được coi là đồng liên kết (cointegrated) nếu tồn tại một <br />
tham số để:<br />
ut yt xt<br />
cũng là một biến chuỗi tĩnh (stationary variable).<br />
Dựa vào lý thuyết về Đồng liên kết như trên, chúng ta có phương pháp kiểm <br />
định và phân tích mô hình sử dụng như sau:<br />
(i) Kiểm tra thuộc tính biến tĩnh của dữ liệu;<br />
(ii) Nếu các biến sử dụng là biến tĩnh liên kết cùng bậc thì tiến hành phương <br />
pháp hồi quy với phương trình: ln( Bt ) 0 1 ln(q t ) ut<br />
(iii) Kiểm tra thuộc tính tĩnh của phần dư (residual) từ kết quả hồi quy trên. <br />
Nếu phần dư là một biến chuỗi tĩnh thì hai biến số trong mô hình là đồng liên kết. <br />
Từ đó phân tích kết quả mô hình.<br />
Phân tích biến động ngắn hạn – Mô hình ECM ( Cơ chế hiệu chỉnh sai số)<br />
Để tính toán mức độ tác động của tỷ giá thực đến hoạt động thương mại, phần <br />
lớn các nghiên cứu quốc tế sử dụng khái niệm hệ số co giãn th ương mại hay cụ thể <br />
hơn là hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu. Các hệ số này đ ược đo bằng tỷ lệ <br />
giữa sự thay đổi phần trăm của xuất khẩu hay nhập khẩu với sự thay đổi phần trăm <br />
của tỷ giá thực. Mô hình ECM Cơ chế điều chỉnh sai số (ErrorCorrection <br />
Mechanism) được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu quốc tế để ước lượng các <br />
hệ số co giãn trên.<br />
Hệ số 1 là các kết quả ban đầu của hệ số co giãn dài hạn tỷ số thương mại <br />
của tỷ giá thực đa phương (từ mô hình đồng liên kết). Bước tiếp theo là ước lượng <br />
phương trình động, trong đó có các hiệu số khác biệt thứ nhất (first difference) của <br />
<br />
2<br />
Jack Johnston, John Dinardo (2003), Econometric Methods, Fourth Editions, McGRAW HILL <br />
International Editions<br />
63<br />
biến độc lập và sai số trễ (lag residuals) từ phương trình đầu tiên được gọi là “biến <br />
điều chỉnh sai số” (errorcorrection term). Cụ thể, mô hình ECM được sử dụng trong <br />
nghiên cứu này là mô hình kinh tế lượng chuẩn tắc có dạng sau: <br />
ln( Bt ) 0 1 ln(q t ) t 1 ut<br />
Trong đó 1 là hệ số co giãn xuất khẩu ngắn hạn của tỷ giá thực đa phương, <br />
là hệ số của biến điều chỉnh sai số chỉ tốc độ mà hệ thống tiếp cận đến trạng thái <br />
cân bằng dài hạn. Cụ thể, mức độ trễ trung bình của quá trình điều chỉnh đến trạng <br />
thái cân bằng dài hạn là 1/ . Điều này có nghĩa là giá trị tuyệt đối của càng lớn thì <br />
quá trình điều chỉnh diễn ra càng nhanh.<br />
Nghiên cứu về tác động của tỷ giá thực lên xuất khẩu của Việt Nam, Lord <br />
(2002) đã sử dụng mô hình ECM để tính hệ số co giãn xuất khẩu mặt hàng giày dép <br />
của tỷ giá thực trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả hồi quy của nghiên cứu này cho <br />
thấy tác động của tỷ giá thực lên xuất khẩu giày dép có ý nghĩa về mặt thống kê trên <br />
thị trường toàn cầu và trên một số thị trường khu vực. Hệ số co giãn xuất khẩu giày <br />
dép của tỷ giá thực trên thị trường toàn cầu là 1,8 trong ngắn hạn và 2,0 trong dài <br />
hạn. Trong ngắn hạn hệ số này là 0,1 đối với thị trường ASEAN5 và 0,3 đối với thị <br />
trường Mỹ. Trong dài hạn hệ số này là 0,4 đối với thị trường Mỹ và 1,9 đối với thị <br />
trường EU3.<br />
Lord còn cho rằng chỉ số đo lường mức cạnh tranh thích hợp hơn cho từng thị <br />
trường là tỷ giá thực so sánh (crossrates) giữa Việt Nam và các đối tác thương mại <br />
quan trọng. Sử dụng chỉ số tỷ giá thực so sánh tác giả chỉ ra rằng tính cạnh tranh của <br />
Việt Nam trong những năm gần đây tăng lên trên thị trường Trung Quốc, Mỹ, trong <br />
khi lại giảm xuống trên những thị trường khác như ASEAN, Nhật Bản và EU. Việc <br />
giảm tính cạnh tranh trên thị trường EU được giải thích là do đồng đô la lên giá so <br />
với đồng euro và mối liên quan chặt chẽ giữa đồng Việt Nam và đô la.<br />
Mô hình ECM được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu quốc tế và được nhìn <br />
nhận là một phương pháp thích hợp để lượng hóa tác động trong ngắn hạn và dài <br />
hạn của tỷ giá thực lên khối lượng xuất khẩu của nhiều nước, ví dụ trong các nghiên <br />
cứu của Bayoumi (1996), WrenLewis (1998), Lord (2002).... Tuy nhiên, hiện nay <br />
ngoài nghiên cứu của Lord (2002) trong lĩnh vực xuất khẩu giày dép vẫn chưa có một <br />
nghiên cứu nào sử dụng phương pháp trên để đánh giá tác động đối với toàn bộ xuất <br />
khẩu và nhập khẩu của Việt Nam. Do vậy trong nghiên cứu này chúng tôi đã áp dụng <br />
phương pháp trên với dãy số liệu theo quý từ năm 1995 đến năm 2005. Việc sử dụng <br />
số liệu theo quý cho phép có một chuỗi số liệu tương đối lớn để có thể đưa ra những <br />
kết quả có độ tin cậy về mặt thống kê. Tại Việt Nam, ngân hàng Nhà nước kiểm <br />
soát chặt chẽ biến động của tỷ giá, nên dao động ngắn hạn của tỷ giá là rất nhỏ <br />
<br />
3<br />
Nguyễn Văn Tiến (2003), Tỷ giá thực và tác động của nó đến cán cân thương mại, Tạp chí nghiên <br />
cứu Kinh tế, số 12<br />
64<br />
không gây tác động đáng kể đến xuất khẩu. Do đó, chúng tôi chỉ đề cập đến tác <br />
động của những thay đổi mang tính dài hạn hơn của tỷ giá lên xuất, nhập khẩu, cụ <br />
thể ở đây là những thay đổi theo quý.<br />
II. Kết quả<br />
Để sử dụng mô hình định lượng, chúng tôi tính toán hai biến số này với số liệu <br />
quý lấy từ nguồn số liệu của Thống kê tài chính quốc tế (IFS). Thời kỳ nghiên cứu ở <br />
đây là từ Quý 1 năm 1995 đến Quý 4 năm 2005 và Quý 11995 là kỳ gốc để xác lập <br />
tỷ giá thực đa phương. Các đối tác thương mại lớn có mặt trong tính toán tỷ giá gồm: <br />
Singapore, Nhật, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Úc và Đức. <br />
Ngoài ra, để kiểm tra tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm <br />
1997 đối với hai biến số phân tích nêu trên, chúng tôi sử dụng biến giả (dummy) <br />
DU99 với giá trị = 1 ở các quý năm 1999, thời gian còn lại biến giả có giá trị bằng 0. <br />
Lý do của việc lựa chọn mốc thời gian cho biến giả này là sau khủng hoảng tài chính <br />
tiền tệ, năm 1999 các nước trong khu vực đã điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái của nước <br />
mình cho phù hợp với điều kiện mới.<br />
Các bước phân tích mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại được thực <br />
hiện như sau: quan sát biểu đồ, chạy mô hình hồi quy đồng liên kết, hồi quy hiệu <br />
chỉnh sai số và kết luận.<br />
Bảng 1: Tỷ giá danh nghĩa, thực tế song phương và đa phương của <br />
Việt Nam thời kỳ 1995 2004<br />
Năm Tỷ giá danh Tỷ giá thực NEER3 REER4 Tỷ số thương <br />
nghĩa1 tế2 mại5<br />
1990 8.125 13.898 100,00 100,00 87,35<br />
1991 11.500 18.187 143,44 140,69 89,26<br />
1992 10.565 15.505 129,28 122,20 101,53<br />
1993 10.842 14.894 131,45 120,27 76,07<br />
1994 11.051 14.069 139,13 123,33 69,58<br />
1995 11.015 12.435 141,75 114,40 66,82<br />
1996 11.149 12.198 143,97 112,88 65,11<br />
1997 12.292 13.024 143,84 111,22 78,68<br />
1998 13.890 13.326 161,64 118,24 81,21<br />
1999 14.028 13.037 161,52 114,48 99,28<br />
2000 14.514 14.514 161,15 116,49 92,42<br />
2001 15.084 14.806 160,16 114,40 94,38<br />
2002 15.403 14.718 171,94 122,79 86,35<br />
2003 15.646 15.276 183,62 129,38 79,98<br />
2004 15.777 15.172 191,48 129,48 82,42<br />
65<br />
Ghi chú: 1: Tỷ giá danh nghĩa USD/VND (Số VND=1USD)<br />
2: Tỷ giá thực tế USD/VND (Số VND=1 USD)<br />
3: Chỉ số tỷ giá hiệu lực danh nghĩa đa phương (%, năm 1990=100)<br />
4: Chỉ số tỷ giá hiệu lực thực tế đa phương (%, năm 1990=100)<br />
5: Tỷ số xuất khẩu/nhập khẩu (%)<br />
Nguồn: Niên giám thống kê 2004, Thống kê tài chính quốc tế IFS (International <br />
Financial Statistics), 2005, Ngân hàng thế giới, 2005, Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2004<br />
2005.<br />
Từ năm 1992 đến năm 1997, chính sách tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để <br />
chống lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm <br />
phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái <br />
danh nghĩa. Vì vậy, thời kỳ này tỷ giá hiệu lực thực tế đa phương (REER) đã giảm <br />
tới 11%.<br />
Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích <br />
cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng <br />
kinh tế với tốc độ cao trên 8% năm. Nhưng việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa <br />
gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm <br />
phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác <br />
định tỷ giá của Việt Nam) và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt <br />
Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu <br />
hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Điều này đã có những ảnh hưởng tiêu <br />
cực đến hoạt động xuất khẩu mà biểu hiện ở tỷ số thương mại đã giảm từ 101,53% <br />
xuống còn 78,68%.<br />
<br />
Biểu đồ 1: Tỷ giá hiệu lực đa phương và tỷ số thương mại của Việt Nam <br />
với các bạn hàng chủ yếu thời kỳ 1995 2005<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
66<br />
1.6<br />
<br />
1.4<br />
<br />
1.2<br />
<br />
1.0<br />
<br />
0.8<br />
<br />
0.6<br />
<br />
0.4<br />
<br />
0.2<br />
<br />
0.0<br />
95<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1 0<br />
<br />
<br />
<br />
1 1<br />
95<br />
<br />
<br />
3 6<br />
96<br />
<br />
<br />
3 7<br />
97<br />
<br />
<br />
3 8<br />
98<br />
<br />
<br />
3 9<br />
99<br />
<br />
00<br />
<br />
<br />
<br />
01<br />
<br />
<br />
<br />
02<br />
<br />
<br />
1 2<br />
03<br />
<br />
<br />
1 3<br />
04<br />
<br />
<br />
1 4<br />
05<br />
<br />
05<br />
0<br />
<br />
<br />
<br />
0<br />
9<br />
<br />
<br />
<br />
9<br />
<br />
<br />
<br />
9<br />
<br />
<br />
<br />
9<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
0<br />
<br />
<br />
<br />
0<br />
<br />
<br />
<br />
0<br />
19<br />
<br />
19<br />
<br />
<br />
<br />
19<br />
<br />
<br />
<br />
19<br />
<br />
<br />
<br />
19<br />
<br />
<br />
<br />
19<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
<br />
20<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
19<br />
<br />
<br />
<br />
19<br />
<br />
<br />
<br />
19<br />
<br />
<br />
<br />
19<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
1<br />
<br />
3<br />
<br />
1<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
<br />
3<br />
<br />
<br />
<br />
3<br />
<br />
<br />
<br />
3<br />
<br />
<br />
<br />
3<br />
<br />
<br />
<br />
3<br />
<br />
<br />
<br />
3<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
<br />
Q<br />
Tỷ số thương mại REER<br />
<br />
Biểu đồ trên đây cho thấy biến động của tỷ giá hiệu lực đa phương và tỷ số <br />
thương mại của Việt Nam với các bạn hàng chủ yếu thời kỳ 19952005. Nhìn chung, <br />
xu hướng biến động của hai biến số này là tăng lên theo thời gian. Ở một vài thời kỳ <br />
như 19951996, 19971999, 19992001, khi tỷ giá hiệu lực tăng hay giảm thì tỷ số <br />
thương mại cũng biến động theo chiều hướng tương tự. Điều này chứng tỏ đã có <br />
mối liên hệ nhất định giữa tỷ giá thực với cán cân thương mại của Việt Nam trong <br />
thời gian qua, có nghĩa là sự xuống giá thực của đồng Việt Nam so với đồng tiền của <br />
các đối tác thương mại chủ yếu đã làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu <br />
của Việt Nam trên các thị trường đó, từ đó xuất khẩu gia tăng, làm tăng tỷ số thương <br />
mại; hay nói cách khác là cải thiện cán cân thương mại.<br />
Kết quả mô hình hồi quy đồng liên kết và cơ chế hiệu chỉnh sai số của các <br />
biến tỷ giá hiệu lực đa phương và cán cân thương mại như sau:<br />
Bảng 2: Kiểm định nghiệm đơn vị các biến trong mô hình đồng liên kết<br />
<br />
Biến số Kiểm định ADF (t statistics)<br />
Ln(Tỷ số TM) 1.551<br />
Ln(Chỉ số RER) 1.278<br />
∆(Ln(Tỷ số TM)) 2.264*<br />
∆(Ln(Chỉ số RER)) 2.611*<br />
Ghi chú: * có ý nghĩa thống kê ở mức 5%<br />
Bảng 3: Kết quả mô hình hồi quy đồng liên kết<br />
<br />
Biến số Hệ số ước lượng Giá trị kiểm định<br />
Hằng số 0,370* 16,397<br />
Ln(REER) 0,704* 6,592<br />
67<br />
DU99 0,0711 1,411<br />
Rsquare: 0,525. F test: F(2,41) = 22,72 (0,000). DurbinWatson test = 2,063<br />
Kiểm định nghiệm đơn vị ADF đối với phần dư từ hồi quy trên: t = <br />
2.970*<br />
Ghi chú: * có ý nghĩa thống kê ở mức 5%<br />
Như vậy, hàm hồi quy thể hiện mối quan hệ giữa Tỷ giá hiệu lực đa phương <br />
và Tỷ số thương mại sẽ là:<br />
Ln(Tỷ số TM) = 0,3706 + 0,7042 x Ln(REER)<br />
Kết quả kiểm định phần dư (Residual) cho thấy hai biến số này là đồng liên <br />
kết bậc I. Các tham số kiểm định sự phù hợp của mô hình khẳng định mô hình là có ý <br />
nghĩa.<br />
Bảng 4: Kết quả mô hình hiệu chỉnh sai số<br />
<br />
Biến số Hệ số ước lượng Giá trị kiểm định Mức ý nghĩa<br />
Hằng số 0,010 0,536 0,592<br />
Ln(REER) 0,157 0,234 0,815<br />
Ln(REER)1 0,559 0,801 0,423<br />
Ln(REER)2 0,673 0,966 0,334<br />
Ln(REER)3 1,409* 2,199 0,027<br />
Ln(REER)4 0,535 0,901 0,367<br />
(Sai số trễ)1 1,016 6,432 0,000<br />
Rsquare: 0,618, F test: F(6,32) = 8,65 (0,000), DurbinWatson test = 2,126<br />
Ghi chú: * có ý nghĩa thống kê ở mức 5%<br />
1;2... biểu thị mức độ trễ theo quý<br />
Kết quả mô hình thể hiện ở các bảng trên cho thấy tỷ giá hối đoái và cán cân <br />
thương mại có quan hệ với nhau trong dài hạn và ngắn hạn. Các tham số thống kê <br />
của các mô hình đều chứng tỏ các mô hình là phù hợp và có ý nghĩa. Mô hình hồi quy <br />
đồng liên kết chỉ rõ có mối liên kết giữa hai biến số phân tích. Hệ số ước lượng của <br />
tỷ giá hiệu lực đa phương mang dấu dương (0,704) và có ý nghĩa thống kê, tức là <br />
trong dài hạn, một sự tăng lên của tỷ giá hiệu lực đa phương có tác động tích cực <br />
đến cán cân thương mại mà ở đây chính là tỷ số thương mại. Điều này hoàn toàn phù <br />
hợp với giả thiết nghiên cứu ban đầu. Biến số DU99 không có ý nghĩa thống kê, điều <br />
đó có nghĩa là sự biến động mạnh của các đồng tiền liên quan trong cuộc khủng <br />
hoảng tài chínhtiền tệ khu vực năm 1997 không có tác động đến hoạt động ngoại <br />
thương của Việt Nam. Mối quan hệ giữa hai nhân tố này trong dài hạn còn được <br />
khẳng định qua kết quả của mô hình cơ chế hiệu chỉnh sai số, cụ thể là biến số (Sai <br />
số trễ)1 có ý nghĩa thống kê và mang dấu thích hợp. Tuy nhiên, mức độ giải thích <br />
của mô hình không cao, thể hiện ở hệ số kiểm định độ phù hợp của mô hình là <br />
<br />
68<br />
0,525. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp bởi trên thực tế, hoạt động ngoại thương <br />
của Việt Nam trong thời kỳ này còn chịu tác động bởi nhiều nhân tố khác.<br />
Về mối quan hệ giữa hai biến số trong ngắn hạn, kết quả mô hình cơ chế hiệu <br />
chỉnh sai số cho thấy có mối quan hệ giữa chúng. Mức độ trễ trong tác động của tỷ <br />
giá hiệu lực đa phương đến cán cân thương mại là khá lớn, thể hiện ở biến số <br />
Ln(REER)3. Có nghĩa là, biến động của tỷ giá ở quý thứ 3 về trước sẽ có tác động <br />
đến hoạt động xuất, nhập khẩu ở thời điểm hiện tại. Điều này phù hợp với lý <br />
thuyết thương mại cũng như thực tế ngoại thương Việt Nam, cụ thể là những mặt <br />
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phần lớn là nông sản. Vì thế, đây là phản ứng <br />
trễ trong sản xuất đối với thay đổi của tỷ giá hối đoái. Mặt khác nhập khẩu của Việt <br />
Nam chịu nhiều tác động của các chính sách khác hơn là tỷ giá.<br />
Kết quả nghiên cứu trên cũng với những nghiên cứu trước đây về vấn đề này <br />
một lần nữa khẳng định tác động tích cực của việc tăng tỷ giá thực (đồng Việt Nam <br />
xuống giá) đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Điều này cho thấy việc chủ <br />
động phá giá nội tệ trong những năm qua đã có hiệu quả nhất định trong việc tăng <br />
cường xuất khẩu. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu Việt Nam có nên phá giá đồng tiền <br />
trong thời gian tới để thúc đẩy xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thương mại hay <br />
không? Đây là một vấn đề phức tạp bởi để thúc đẩy xuất khẩu đòi hỏi một hệ thống <br />
biện pháp khác nhau, không đơn thuần là chính sách tỷ giá. Mặt khác, tỷ giá là một <br />
biến số vĩ mô rất nhạy cảm tác động đến nhiều biến số vĩ mô khác như thương mại, <br />
cán cân thanh toán, ngân sách chính phủ, nợ nước ngoài... Do đó, việc xem xét chính <br />
sách tỷ giá phải được đặt trong một tổng thể chính sách của Chính phủ. Có một số lý <br />
do cho thấy cần phải thận trọng khi xem xét quyết định có nên phá giá hay không <br />
như sau:<br />
Thứ nhất, trong mô hình cân bằng dài hạn (Cointegration Model) và mô hình <br />
biến động ngắn hạn (ECM) giữa tỷ giá thực và cán cân thương mại của nghiên cứu <br />
này mới đề cập đến tác động của tỷ giá thực lên xuất, nhập khẩu chứ ch ưa xem xét <br />
tác động đến các biến số vĩ mô khác. Bên cạnh đó, việc phá giá đồng Việt Nam sẽ <br />
làm cho nhập khẩu sẽ trở nên đắt đỏ hơn đối với các nhà sản xuất trong n ước. Hiện <br />
tại, nhiều ngành kinh tế của Việt Nam còn phụ thuộc nặng nề vào đầu vào nhập <br />
khẩu như nông nghiệp, dệt may, công nghiệp hóa chất, điện tử... Do đó, phá giá sẽ <br />
đẩy chi phí sản xuất của những ngành này lên cao có thể gây nên lạm phát do chi phí <br />
(costpush) đối với toàn nền kinh tế. Từ đó, giá cả hàng hoá xuất khẩu cũng gia tăng <br />
tính bằng nội tệ, dẫn đến hiệu ứng tích cực của phá giá đối với xuất khẩu trở nên <br />
bằng không. Thứ hai, phá giá sẽ làm nợ nước ngoài của chính phủ và những tổ chức <br />
kinh tế khác gia tăng tính theo đồng Việt Nam khiến cho ngân sách Chính phủ thêm <br />
khó khăn, những doanh nghiệp vay ngoại tệ của ngân hàng để tiến hành kinh doanh <br />
trên thị trường nội địa cũng sẽ bị thiệt hại do ngoại tệ lên giá so với đồng Việt Nam. <br />
<br />
69<br />
Vì những lý do trên, cần phải tính toán rất cẩn thận những lợi ích và chi phí của việc <br />
phá giá đồng Việt Nam trước khi ra những quyết định quan trọng về vấn đề này.<br />
III. Kết luận<br />
Đề cập đến chính sách tỷ giá ở Việt Nam là một vấn đề hết sức nhạy cảm, <br />
liên quan đến hàng loạt các yếu tố cấu trúc kinh tế và cả các vấn đề chính trị, xã hội. <br />
Nhiều nghiên cứu cho rằng, việc cần làm trước mắt là phá giá đồng Việt Nam để <br />
làm tăng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Quan điểm <br />
này còn cho rằng đồng Việt Nam hiện nay có tỷ giá thực có hiệu lực (real effective <br />
exchange rate REER) cao, nghĩa là tỷ giá đã điều chỉnh theo lạm phát của một rổ <br />
tiền tệ của các nước mà Việt Nam có quan hệ mậu dịch4. <br />
Kết quả nghiên cứu này cho thấy, trong thời kỳ 1995 – 2004, tỷ giá hối đoái <br />
danh nghĩa giữa đồng Việt Nam với các đồng tiền của các bạn hàng chủ yếu thể <br />
hiện xu hướng tăng, đồng nghĩa với việc đồng Việt Nam mất giá. Tuy nhiên, dựa <br />
trên kết quả tính toán được, tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%. Trong <br />
giai đoạn 19921997, việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong <br />
điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có <br />
đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt <br />
Nam) và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng <br />
USD có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị <br />
đánh giá cao hơn thực tế. Điều này đã tạo ra và tích lũy những nhân tố gây mất ổn <br />
định và kìm hãm sự phát triển kinh tế.<br />
Kết quả nghiên cứu cũng đã khẳng định được sự tồn tại của quan hệ giữa hai <br />
biến số vĩ mô này trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, sự tác động của tỷ giá <br />
có tính chất trễ, và trong dài hạn hai biến số này tiến tới một quan hệ cân bằng <br />
(đồng liên kết). Từ những phân tích trên, khuyến nghị đối với việc hoạch định chính <br />
sách tỷ giá phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam là:<br />
Thứ nhất, tỷ giá là một trong những nhân tố quan trọng ảnh h ưởng nhanh và <br />
mạnh đến trạng thái cán cân thương mại, chính vì vậy khi phân tích diễn biến và xu <br />
hướng vận động của cán cân thương mại, không thể không đề cập đến nhân tố tỷ <br />
giá. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào diễn biến của tỷ giá danh nghĩa (song phương hay đa <br />
phương) để phân tích ảnh hưởng lên cán cân thương mại là không chuẩn xác, mà <br />
phải sử dụng đến tỷ giá thực và chủ yếu là tỷ giá thực đa phương. <br />
Thứ hai, để thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng mạnh hơn thì tỷ giá thực không thể <br />
quá thấp như ở Việt Nam trong suốt thời gian qua. Vấn đề điều chỉnh tỷ giá là để tỷ <br />
giá thực đạt mức bao nhiêu là hợp lý. <br />
<br />
4<br />
Trần Ngọc Thơ, Tiền đồng được định giá cao hay thấp?, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 302006 (814)<br />
70<br />
Tóm lại, trong những nhân tố tác động đến hoạt động ngoại thương của Việt <br />
Nam trong thời gian qua, tỷ giá hối đoái có một vai trò hết sức quan trọng. Các nghiên <br />
cứu trong và ngoài nước trong thời gian qua đã khẳng định mối quan hệ và tác động <br />
giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại ở Việt Nam với các mức độ khác nhau. <br />
Nghiên cứu này nhằm phân tích một cách sâu hơn mối quan hệ giữa hai biến số đó và <br />
đã cho một kết quả tương tự. Điều này góp phần làm vững chắc cơ sở cho việc <br />
hoạch định chính sách tỷ giá nhằm phục vụ tốt hơn hoạt động ngoại thương của <br />
Việt Nam trong thời gian tới.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Jack Johnston, John Dinardo. Econometric Methods, Fourth Editions, McGRAW <br />
HILL International Editions (2003)<br />
2. Kenichi Ohno. Exchange Rate Management of Vietnam, Reexamination of Policy <br />
Goals and Modality, Research paper, The National Graduate Institute for Policy <br />
Studies, Japan (2003)<br />
3. Nguyễn Văn Tiến. Tỷ giá thực và tác động của nó đến cán cân thương mại, Tạp <br />
chí Nghiên cứu Kinh tế, số 12 (2003)<br />
4. Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld, International Economics: Theory and Policy, 5th <br />
Edition, AddisonWesley Publishing Company<br />
5. Phan Thanh Hoàn. Tỷ giá với cán cân thương mại: Kinh nghiệm của Hàn Quốc . <br />
Luận văn cao học, Đại học KyungHee, Hàn Quốc (2003)<br />
6. Quỹ tiền tệ Quốc tế, Thống kê tài chính quốc tế IFS (International Financial <br />
Statistics) (2005)<br />
7. Trần Ngọc Thơ, Tiền đồng được định giá cao hay thấp?, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, <br />
số 30 (2006) 814<br />
8. Viện Kinh tế học, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Quốc gia, Tạp chí <br />
Nghiên cứu Kinh tế, các số 292,293, 299 (2003, 2004)<br />
THE RELATIONSHIP BETWEEN EXCHANGE RATE AND TRADE <br />
BALANCE OF VIETNAM IN THE PERIOD OF 19952004<br />
Phan Thanh Hoan, Nguyen Dang Hao<br />
College of Economics, Hue University<br />
<br />
SUMMARY<br />
This study presents an empirical assessment of the relationship between the exchange <br />
rate and the balance of trade in Vietnam during the period of 19952004. Using cointegration <br />
theory, this study tests the relationship between exchange rate and trade balance of Vietnam. <br />
Specifically, the study test for the statistical significance, direction, and speed of the trade <br />
<br />
71<br />
balance response to the changes in exchange rate. The study also tests for shortrun and long<br />
run effects to determine the pattern of the exchange rate and trade balance relationship in <br />
general.<br />
The result shows the theoretical framework of the study as well as major findings of <br />
previous studies related to that. The statistical results provide evidence of the Jcurve effect, <br />
which indicates that the trade balance initially deteriorates in response to devaluations. More <br />
specifically, the result shows the trade balance adjusts gradually to the exchange rate change, <br />
requiring a period of about two quarters. In the longrun, we find that devaluation improves the <br />
trade balance. Our results thus confirm the potency of the exchange rate as a longrun tool of <br />
trade policy.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
72<br />