intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam thời kỳ 1995 - 2004

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:12

85
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thực tiễn cho thấy, sự biến động của tỷ giá hối đoái có quan hệ mật thiết với kết quả của nền kinh tế vĩ mô. Đây là một biến số quan trọng ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của hàng hoá ngoại thương và những biến số khác trong nền kinh tế. Sự thay đổi trong cán cân thương mại do biến động của tỷ giá là một vấn đề quan trọng và cơ bản trong chính sách kinh tế vĩ mô. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam thời kỳ 1995 - 2004

TAP CHI KHOA HOC, Đai hoc Huê, Sô 43, 2007<br /> ̣ ́ ̣ ̣ ̣ ́ ́<br /> <br /> <br /> <br /> MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN <br /> THƯƠNG MẠI VIỆT NAM THỜI KỲ 1995 ­ 2004<br /> Phan Thanh Hoàn, Nguyễn Đăng Hào<br /> Trường Đại học Kinh tế,Đại học Huế<br /> <br /> Thực tiễn cho thấy, sự biến động của tỷ giá hối đoái có quan hệ mật thiết với  <br /> kết quả  của nền kinh tế  vĩ mô. Đây là một biến số  quan trọng  ảnh hưởng đến sự <br /> cạnh tranh của hàng hoá ngoại thương và những biến số khác trong nền kinh tế. Sự <br /> thay đổi trong cán cân thương mại do biến động của tỷ giá là một vấn đề quan trọng <br /> và cơ bản trong chính sách kinh tế vĩ mô. Có hai lý do cho vấn đề này đó là: (i) những  <br /> nhà hoạch định chính sách thường quan tâm đến việc  ở  mức độ  nào thì cán cân  <br /> thương mại là tối ưu cho một nước; (ii) sự biến động của cán cân thương mại ảnh  <br /> hưởng trực tiếp đến thu nhập quốc dân trong ngắn hạn, vì vậy, nghiên cứu tác động  <br /> của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại giúp cho việc hoạch định mục tiêu của  <br /> thu nhập quốc dân. Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu và thảo luận về chính sách tỷ <br /> giá hối đoái trong thời gian qua là một vấn đề  nhạy cảm, không những vì chính bản  <br /> thân tầm quan trọng của nó mà còn vì  ảnh hưởng lớn lao của nó đến nền kinh tế. <br /> Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng khá ấn tượng, tuy vậy <br /> cán cân thương mại của Việt Nam luôn thâm hụt. Do vậy, vấn đề  đặt ra  ở  đây là <br /> quan hệ giữa chính sách tỷ giá với ngoại thương là như thế nào? Liệu chính sách tỷ <br /> giá trong thời gian qua đã hỗ  trợ  cho hoạt động xuất khẩu? Kết quả  trả  lời những <br /> câu hỏi trên sẽ là căn cứ cho việc hoạch định chính sách tỷ giá nhằm đạt được một  <br /> chính sách ngoại thương hợp lý, phục vụ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh toàn cầu  <br /> hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc của Việt Nam trong thời gian tới.<br /> Trong bài viết này, chúng tôi sử  dụng lý thuyết Đồng liên kết (Cointegration  <br /> theory) và Cơ chế hiệu chỉnh sai số (ECM – Error Correction Model) nhằm kiểm định  <br /> các hiệu ứng ngắn hạn và dài hạn của tác động của tỷ  giá đến cán cân thương mại <br /> nhằm xác định mô hình của mối quan hệ giữa hai nhân tố  này. Lý thuyết Đồng liên <br /> kết được phát triển bởi Granger (1981) và hoàn thiện bởi Engle và Granger (1987). <br /> Lý thuyết này, từ  đó, được áp dụng phổ biến trong phân tích quan hệ giữa các biến  <br /> số kinh tế là dãy số thời gian. <br /> I. Cơ sở lý thuyết<br /> 1.1. Phương trình quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại<br /> <br /> <br /> 61<br /> Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại là mối quan tâm nghiên cứu <br /> của nhiều nhà kinh tế học từ trước đến nay. Nhiều nghiên cứu về vấn đề này đã chỉ <br /> ra rằng: Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại thay đổi qua thời  <br /> gian, và có thể chia thành hai loại đó là quan hệ trong ngắn hạn và quan hệ trong dài  <br /> hạn. Trước tiên, một sự  giảm giá của nội tệ  so với ngoại tệ, tức tỷ giá tăng, sẽ  có <br /> ảnh hưởng trực tiếp ngay lên giá cả nhập khẩu. Trong khi đó, giá cả xuất khẩu chưa  <br /> chịu sự  tác động này. Kết quả  là cán cân thương mại, được đo bằng hiệu số  giữa  <br /> kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu sẽ  suy giảm. Tuy nhiên, qua thời gian, lượng <br /> nhập khẩu sẽ giảm do giá cả nhập khẩu tăng. Đồng thời, giá cả hàng hoá xuất khẩu <br /> tính bằng ngoại tệ  sẽ  giảm, làm tăng tính cạnh tranh trên thị  trường quốc tế, dẫn <br /> đến lượng xuất khẩu tăng. Như  vậy, theo thời gian (trong dài hạn), cán cân thương  <br /> mại sẽ chuyển biến theo chiều hướng tích cực (thặng dư)1. <br /> Để  kiểm định mối quan hệ  giữa hai biến số  này, cán cân thương mại được <br /> biểu thị  là một hàm số  của tỷ  giá hối đoái thực đa phương. Cụ  thể, ta có phương <br /> trình sau:<br /> ln( Bt ) 0 1 ln(q t ) ut<br /> Trong đó: Bt là tỷ số thương mại;  ln biểu thị logarit tự nhiên và u là độ  nhiễu. <br /> Ở  đây, cán cân thương mại được biểu thị  bằng tỷ  số  thương mại giữa kim ngạch  <br /> xuất khấu và kim ngạch nhập khẩu. Lý do chính của việc sử dụng này là có thể dùng <br /> logarit của biến tỷ số thương mại này trong các mô hình kiểm định. Đây là phương  <br /> trình quan hệ được sử  dụng trong nghiên cứu này nhằm xác định mối quan hệ  giữa  <br /> cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái.<br /> 1.2. Mô hình định lượng<br /> Với mô hình biểu thị mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại  <br /> đã xác định ở  trên (biểu thức 3), chúng tôi áp dụng phương pháp phân tích mối quan  <br /> hệ  này bằng lý thuyết Đồng liên kết (Cointegration theory) và mô hình cơ  chế  hiệu  <br /> chỉnh sai số (ECM – Error Correction Model). <br /> Phân tích biến động dài hạn – Mô hình Đồng liên kết<br /> Trong nghiên cứu kinh tế, chúng ta thường giả lập mô hình mà ở đó các biến số <br /> kinh tế có quan hệ  với nhau và thường được mô tả  dưới dạng các cân bằng, chẳng  <br /> hạn như:<br /> yt 0 1 xt ut<br /> Trong đó: yt và xt là các biến chuỗi,   là tham số ước lượng,và ut là sai số. Điều <br /> đáng quan tâm ở đây là nếu phương trình cân bằng trên là tồn tại thì đặc tính của sai  <br /> số  cân bằng ut sẽ  là như  thế  nào. Một đặc trưng quan trọng của ut sẽ  là một biến <br /> chuỗi có giá trị trung bình nhỏ và không có xu hướng lớn dần hay nhỏ dần theo thời <br /> <br /> 1<br />  Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld, International Economics: Theory and Policy, 5th Edition, Addison­<br /> Wesley Publishing Company, p. 466­468.<br /> 62<br /> gian. Vì vậy, nếu biến chuỗi sai số này là biến ngẫu nhiên thì giá trị trung bình ước <br /> tính sẽ bằng 0 và có cùng phương sai. Một biến chuỗi sai số với đặc tính này được  <br /> gọi là biến chuỗi tĩnh (Stationary Time Series). Biến chuỗi tĩnh là khái niệm cơ bản <br /> và quan trọng trong lý thuyết Đồng liên kết. Vì thế, trong khi ước lượng các tham số <br /> hoặc kiểm định giả  thiết của các mô hình, nếu không kiểm định thuộc tính này của  <br /> biến chuỗi thì các kỹ thuật phân tích thông thường (chẳng hạn như kỹ thuật OLS) sẽ <br /> không còn chính xác và hợp lý. Do đó, nếu sử dụng phương pháp phân tích hồi quy  <br /> tương quan như trên sẽ dẫn đến “tương quan giả“ (Granger và Newbold, 1974)2. Kết <br /> quả của loại hồi quy này sẽ dẫn đến các kiểm định thống kê như t, F, R 2 sẽ bị lệch. <br /> Nói một cách khác, hồi quy lệch sẽ cho kết quả các kiểm định thống kê t và R 2 rất <br /> tốt nhưng mô hình có thể hoàn toàn không có ý nghĩa. Vì vậy, trước khi xây dựng và  <br /> phân tích mô hình, cần phải có kiểm định thuộc tính tĩnh của các biến chuỗi trước  <br /> khi đưa vào sử dụng.<br /> Hai biến chuỗi yt và xt được coi là đồng liên kết (cointegrated) nếu tồn tại một <br /> tham số để:<br /> ut yt xt<br /> cũng là một biến chuỗi tĩnh (stationary variable).<br /> Dựa vào lý thuyết về  Đồng liên kết như  trên, chúng ta có phương pháp kiểm  <br /> định và phân tích mô hình sử dụng như sau:<br /> (i) Kiểm tra thuộc tính biến tĩnh của dữ liệu;<br /> (ii) Nếu các biến sử dụng là biến tĩnh liên kết cùng bậc thì tiến hành phương  <br /> pháp hồi quy với phương trình:  ln( Bt ) 0 1 ln(q t ) ut<br /> (iii) Kiểm tra thuộc tính tĩnh của phần dư  (residual) từ  kết quả  hồi quy trên.  <br /> Nếu phần dư là một biến chuỗi tĩnh thì hai biến số  trong mô hình là đồng liên kết.  <br /> Từ đó phân tích kết quả mô hình.<br /> Phân tích biến động ngắn hạn – Mô hình ECM ( Cơ chế hiệu chỉnh sai số)<br /> Để tính toán mức độ tác động của tỷ giá thực đến hoạt động thương mại, phần <br /> lớn các nghiên cứu quốc tế sử dụng khái niệm hệ số co giãn th ương mại hay cụ thể <br /> hơn là hệ  số  co giãn xuất khẩu và nhập khẩu. Các hệ  số  này đ ược đo bằng tỷ  lệ <br /> giữa sự thay đổi phần trăm của xuất khẩu hay nhập khẩu với sự thay đổi phần trăm  <br /> của   tỷ   giá   thực.   Mô   hình   ECM   ­   Cơ   chế   điều   chỉnh   sai   số   (Error­Correction  <br /> Mechanism) được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu quốc tế để  ước lượng các <br /> hệ số co giãn trên.<br /> Hệ  số   1 là các kết quả  ban đầu của hệ  số co giãn dài hạn tỷ  số  thương mại  <br /> của tỷ  giá thực đa phương (từ  mô hình đồng liên kết). Bước tiếp theo là ước lượng <br /> phương trình động, trong đó có các hiệu số  khác biệt thứ  nhất (first difference) của  <br /> <br /> 2<br />  Jack Johnston, John Dinardo (2003), Econometric Methods, Fourth Editions, McGRAW ­ HILL <br /> International Editions<br /> 63<br /> biến độc lập và sai số trễ (lag residuals) từ phương trình đầu tiên được gọi là “biến <br /> điều chỉnh sai số” (error­correction term). Cụ thể, mô hình ECM được sử dụng trong <br /> nghiên cứu này là mô hình kinh tế lượng chuẩn tắc có dạng sau:  <br /> ln( Bt ) 0 1 ln(q t ) t 1 ut<br /> Trong đó  1 là hệ số co giãn xuất khẩu ngắn hạn của tỷ giá thực đa phương, <br /> là hệ  số của biến điều chỉnh sai số chỉ tốc độ  mà hệ  thống tiếp cận đến trạng thái  <br /> cân bằng dài hạn. Cụ thể, mức độ trễ trung bình của quá trình điều chỉnh đến trạng  <br /> thái cân bằng dài hạn là ­1/ . Điều này có nghĩa là giá trị tuyệt đối của   càng lớn thì <br /> quá trình điều chỉnh diễn ra càng nhanh.<br /> Nghiên cứu về  tác động của tỷ  giá thực lên xuất khẩu của Việt Nam, Lord <br /> (2002) đã sử dụng mô hình ECM để tính hệ số co giãn xuất khẩu mặt hàng giày dép <br /> của tỷ giá thực trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả hồi quy của nghiên cứu này cho <br /> thấy tác động của tỷ giá thực lên xuất khẩu giày dép có ý nghĩa về mặt thống kê trên  <br /> thị trường toàn cầu và trên một số thị trường khu vực. Hệ số co giãn xuất khẩu giày  <br /> dép của tỷ  giá thực trên thị  trường toàn cầu là 1,8 trong ngắn hạn và 2,0 trong dài  <br /> hạn. Trong ngắn hạn hệ số này là 0,1 đối với thị trường ASEAN­5 và 0,3 đối với thị <br /> trường Mỹ. Trong dài hạn hệ số này là 0,4 đối với thị  trường Mỹ và 1,9 đối với thị <br /> trường EU3.<br /> Lord còn cho rằng chỉ số đo lường mức cạnh tranh thích hợp hơn cho từng thị <br /> trường là tỷ  giá thực so sánh (cross­rates) giữa Việt Nam và các đối tác thương mại <br /> quan trọng. Sử dụng chỉ số tỷ giá thực so sánh tác giả chỉ ra rằng tính cạnh tranh của  <br /> Việt Nam trong những năm gần đây tăng lên trên thị  trường Trung Quốc, Mỹ, trong <br /> khi lại giảm xuống trên những thị trường khác như ASEAN, Nhật Bản và EU. Việc  <br /> giảm tính cạnh tranh trên thị  trường EU được giải thích là do đồng đô la lên giá so <br /> với đồng euro và mối liên quan chặt chẽ giữa đồng Việt Nam và đô la.<br /> Mô hình ECM được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu quốc tế và được nhìn  <br /> nhận là một phương pháp thích hợp để  lượng hóa tác động trong ngắn hạn và dài <br /> hạn của tỷ giá thực lên khối lượng xuất khẩu của nhiều nước, ví dụ trong các nghiên <br /> cứu của Bayoumi (1996), Wren­Lewis (1998), Lord (2002).... Tuy nhiên, hiện nay <br /> ngoài nghiên cứu của Lord (2002) trong lĩnh vực xuất khẩu giày dép vẫn chưa có một  <br /> nghiên cứu nào sử dụng phương pháp trên để đánh giá tác động đối với toàn bộ xuất  <br /> khẩu và nhập khẩu của Việt Nam. Do vậy trong nghiên cứu này chúng tôi đã áp dụng  <br /> phương pháp trên với dãy số liệu theo quý từ năm 1995 đến năm 2005. Việc sử dụng  <br /> số liệu theo quý cho phép có một chuỗi số liệu tương đối lớn để có thể đưa ra những <br /> kết quả  có độ  tin cậy về  mặt thống kê. Tại Việt Nam, ngân hàng Nhà nước kiểm  <br /> soát chặt chẽ  biến động của tỷ  giá, nên dao động ngắn hạn của tỷ  giá là rất nhỏ <br /> <br /> 3<br />  Nguyễn Văn Tiến (2003), Tỷ giá thực và tác động của nó đến cán cân thương mại, Tạp chí nghiên <br /> cứu Kinh tế, số 12<br /> 64<br /> không gây tác động đáng kể  đến xuất khẩu. Do đó, chúng tôi chỉ  đề  cập đến tác  <br /> động của những thay đổi mang tính dài hạn hơn của tỷ giá lên xuất, nhập khẩu, cụ <br /> thể ở đây là những thay đổi theo quý.<br /> II. Kết quả<br /> Để sử dụng mô hình định lượng, chúng tôi tính toán hai biến số này với số liệu  <br /> quý lấy từ nguồn số liệu của Thống kê tài chính quốc tế (IFS). Thời kỳ nghiên cứu ở <br /> đây là từ  Quý 1 năm 1995 đến Quý 4 năm 2005 và Quý 1­1995 là kỳ gốc để  xác lập  <br /> tỷ giá thực đa phương. Các đối tác thương mại lớn có mặt trong tính toán tỷ giá gồm: <br /> Singapore, Nhật, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Úc và Đức.  <br /> Ngoài ra, để kiểm tra tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ  khu vực năm <br /> 1997 đối với hai biến số  phân tích nêu trên, chúng tôi sử  dụng biến giả  (dummy)  <br /> DU99 với giá trị = 1 ở các quý năm 1999, thời gian còn lại biến giả có giá trị bằng 0.  <br /> Lý do của việc lựa chọn mốc thời gian cho biến giả này là sau khủng hoảng tài chính  <br /> tiền tệ, năm 1999 các nước trong khu vực đã điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái của nước <br /> mình cho phù hợp với điều kiện mới.<br /> Các bước phân tích mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại được thực  <br /> hiện như  sau: quan sát biểu đồ, chạy mô hình hồi quy đồng liên kết, hồi quy hiệu  <br /> chỉnh sai số và kết luận.<br /> Bảng 1: Tỷ giá danh nghĩa, thực tế song phương và đa phương của <br /> Việt Nam thời kỳ 1995 ­ 2004<br /> Năm Tỷ giá danh  Tỷ giá thực  NEER3 REER4 Tỷ số thương <br /> nghĩa1 tế2 mại5<br /> 1990 8.125 13.898 100,00 100,00 87,35<br /> 1991 11.500 18.187 143,44 140,69 89,26<br /> 1992 10.565 15.505 129,28 122,20 101,53<br /> 1993 10.842 14.894 131,45 120,27 76,07<br /> 1994 11.051 14.069 139,13 123,33 69,58<br /> 1995 11.015 12.435 141,75 114,40 66,82<br /> 1996 11.149 12.198 143,97 112,88 65,11<br /> 1997 12.292 13.024 143,84 111,22 78,68<br /> 1998 13.890 13.326 161,64 118,24 81,21<br /> 1999 14.028 13.037 161,52 114,48 99,28<br /> 2000 14.514 14.514 161,15 116,49 92,42<br /> 2001 15.084 14.806 160,16 114,40 94,38<br /> 2002 15.403 14.718 171,94 122,79 86,35<br /> 2003 15.646 15.276 183,62 129,38 79,98<br /> 2004 15.777 15.172 191,48 129,48 82,42<br /> 65<br /> Ghi chú: 1: Tỷ giá danh nghĩa USD/VND (Số VND=1USD)<br /> 2: Tỷ giá thực tế USD/VND (Số VND=1 USD)<br /> 3: Chỉ số tỷ giá hiệu lực danh nghĩa đa phương (%, năm 1990=100)<br /> 4: Chỉ số tỷ giá hiệu lực thực tế đa phương (%, năm 1990=100)<br /> 5:  Tỷ số xuất khẩu/nhập khẩu (%)<br /> Nguồn:   Niên  giám  thống  kê   2004,   Thống   kê   tài   chính  quốc   tế   ­  IFS  (International  <br /> Financial Statistics), 2005, Ngân hàng thế  giới, 2005, Kinh tế  Việt Nam và Thế  giới 2004­<br /> 2005.<br /> Từ  năm 1992 đến năm 1997, chính sách tỷ  giá hối đoái được điều chỉnh để <br /> chống lạm phát và thu hút đầu tư  nước ngoài. Để  thực hiện mục tiêu chống lạm  <br /> phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái  <br /> danh nghĩa. Vì vậy, thời kỳ này tỷ  giá hiệu lực thực tế đa phương (REER) đã giảm <br /> tới 11%.<br /> Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích  <br /> cực vào việc kiềm chế  lạm phát, thu hút đầu tư  nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng  <br /> kinh tế  với tốc độ  cao trên 8% năm. Nhưng việc duy trì tỷ  giá hối đoái danh nghĩa  <br /> gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm  <br /> phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ  trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để  xác <br /> định tỷ  giá của Việt Nam) và các nước có quan hệ  thương mại chủ  yếu của Việt  <br /> Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu  <br /> hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Điều này đã có những ảnh hưởng tiêu  <br /> cực đến hoạt động xuất khẩu mà biểu hiện ở tỷ số thương mại đã giảm từ 101,53% <br /> xuống còn 78,68%.<br />  <br /> Biểu đồ 1: Tỷ giá hiệu lực đa phương và tỷ số thương mại của Việt Nam <br /> với các bạn hàng chủ yếu thời kỳ 1995 ­ 2005<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 66<br /> 1.6<br /> <br /> 1.4<br /> <br /> 1.2<br /> <br /> 1.0<br /> <br /> 0.8<br /> <br /> 0.6<br /> <br /> 0.4<br /> <br /> 0.2<br /> <br /> 0.0<br /> 95<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1 0<br /> <br /> <br /> <br /> 1 1<br /> 95<br /> <br /> <br /> 3 6<br /> 96<br /> <br /> <br /> 3 7<br /> 97<br /> <br /> <br /> 3 8<br /> 98<br /> <br /> <br /> 3 9<br /> 99<br /> <br /> 00<br /> <br /> <br /> <br /> 01<br /> <br /> <br /> <br /> 02<br /> <br /> <br /> 1 2<br /> 03<br /> <br /> <br /> 1 3<br /> 04<br /> <br /> <br /> 1 4<br /> 05<br /> <br /> 05<br /> 0<br /> <br /> <br /> <br /> 0<br /> 9<br /> <br /> <br /> <br /> 9<br /> <br /> <br /> <br /> 9<br /> <br /> <br /> <br /> 9<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 0<br /> <br /> <br /> <br /> 0<br /> <br /> <br /> <br /> 0<br /> 19<br /> <br /> 19<br /> <br /> <br /> <br /> 19<br /> <br /> <br /> <br /> 19<br /> <br /> <br /> <br /> 19<br /> <br /> <br /> <br /> 19<br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> <br /> 20<br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> 19<br /> <br /> <br /> <br /> 19<br /> <br /> <br /> <br /> 19<br /> <br /> <br /> <br /> 19<br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> <br /> <br /> <br /> 20<br /> 1<br /> <br /> 3<br /> <br /> 1<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> <br /> 3<br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> <br /> Q<br /> Tỷ số thương mại REER<br /> <br /> Biểu đồ  trên đây cho thấy biến động của tỷ  giá hiệu lực đa phương và tỷ  số <br /> thương mại của Việt Nam với các bạn hàng chủ yếu thời kỳ 1995­2005. Nhìn chung,  <br /> xu hướng biến động của hai biến số này là tăng lên theo thời gian. Ở một vài thời kỳ <br /> như  1995­1996, 1997­1999, 1999­2001, khi tỷ  giá hiệu lực tăng hay giảm thì tỷ  số <br /> thương mại cũng biến động theo chiều hướng tương tự. Điều này chứng tỏ  đã có  <br /> mối liên hệ  nhất định giữa tỷ  giá thực với cán cân thương mại của Việt Nam trong  <br /> thời gian qua, có nghĩa là sự xuống giá thực của đồng Việt Nam so với đồng tiền của <br /> các đối tác thương mại chủ yếu đã làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu  <br /> của Việt Nam trên các thị trường đó, từ đó xuất khẩu gia tăng, làm tăng tỷ số thương  <br /> mại; hay nói cách khác là cải thiện cán cân thương mại.<br /> Kết quả  mô hình hồi quy đồng liên kết và cơ  chế  hiệu chỉnh sai số  của các  <br /> biến tỷ giá hiệu lực đa phương và cán cân thương mại như sau:<br /> Bảng 2: Kiểm định nghiệm đơn vị các biến trong mô hình đồng liên kết<br /> <br /> Biến số Kiểm định ADF (t statistics)<br /> Ln(Tỷ số TM) ­1.551<br /> Ln(Chỉ số RER) 1.278<br /> ∆(Ln(Tỷ số TM)) ­2.264*<br /> ∆(Ln(Chỉ số RER)) ­2.611*<br /> Ghi chú: * có ý nghĩa thống kê ở mức 5%<br /> Bảng 3: Kết quả mô hình hồi quy đồng liên kết<br /> <br /> Biến số Hệ số ước lượng Giá trị kiểm định<br /> Hằng số ­0,370* ­16,397<br /> Ln(REER) 0,704* 6,592<br /> 67<br /> DU99 0,0711 1,411<br /> R­square: 0,525. F test: F(2,41) = 22,72 (0,000). Durbin­Watson test = 2,063<br /> Kiểm định nghiệm đơn vị ADF đối với phần dư từ hồi quy trên: t = <br /> ­2.970*<br /> Ghi chú: * có ý nghĩa thống kê ở mức 5%<br /> Như  vậy, hàm hồi quy thể hiện mối quan hệ giữa Tỷ giá hiệu lực đa phương  <br /> và Tỷ số thương mại sẽ là:<br /> Ln(Tỷ số TM) = ­0,3706 + 0,7042 x Ln(REER)<br /> Kết quả  kiểm định phần dư  (Residual) cho thấy hai biến số  này là đồng liên  <br /> kết bậc I. Các tham số kiểm định sự phù hợp của mô hình khẳng định mô hình là có ý  <br /> nghĩa.<br /> Bảng 4: Kết quả mô hình hiệu chỉnh sai số<br /> <br /> Biến số Hệ số ước lượng Giá trị kiểm định Mức ý nghĩa<br /> Hằng số 0,010       0,536  0,592<br /> Ln(REER) ­0,157 ­0,234 0,815<br /> Ln(REER)­1 0,559       0,801 0,423<br /> Ln(REER)­2 ­0,673  ­0,966 0,334<br /> Ln(REER)­3 1,409*      2,199 0,027<br /> Ln(REER)­4 ­0,535 ­0,901 0,367<br /> (Sai số trễ)­1  ­1,016 ­6,432 0,000<br /> R­square: 0,618, F test: F(6,32) = 8,65 (0,000), Durbin­Watson test = 2,126<br /> Ghi chú: * có ý nghĩa thống kê ở mức 5%<br /> ­1;­2... biểu thị mức độ trễ theo quý<br /> Kết quả  mô hình thể  hiện  ở các bảng trên cho thấy tỷ  giá hối đoái và cán cân <br /> thương mại có quan hệ  với nhau trong dài hạn và ngắn hạn. Các tham số  thống kê  <br /> của các mô hình đều chứng tỏ các mô hình là phù hợp và có ý nghĩa. Mô hình hồi quy  <br /> đồng liên kết chỉ rõ có mối liên kết giữa hai biến số phân tích. Hệ số ước lượng của  <br /> tỷ  giá hiệu lực đa phương mang dấu dương (0,704) và có ý nghĩa thống kê, tức là <br /> trong dài hạn, một sự  tăng lên của tỷ  giá hiệu lực đa phương có tác động tích cực  <br /> đến cán cân thương mại mà ở đây chính là tỷ số thương mại. Điều này hoàn toàn phù  <br /> hợp với giả thiết nghiên cứu ban đầu. Biến số  DU99 không có ý nghĩa thống kê, điều <br /> đó có nghĩa là sự  biến động mạnh của các đồng tiền liên quan trong cuộc khủng <br /> hoảng tài chính­tiền tệ  khu vực năm 1997 không có tác động đến hoạt động ngoại <br /> thương của Việt Nam. Mối quan hệ  giữa hai nhân tố  này trong dài hạn còn được <br /> khẳng định qua kết quả của mô hình cơ chế hiệu chỉnh sai số, cụ thể là biến số  (Sai <br /> số  trễ)­1 có ý nghĩa thống kê và mang dấu thích hợp. Tuy nhiên, mức độ  giải thích  <br /> của mô hình không cao, thể  hiện  ở  hệ  số  kiểm định độ  phù hợp của mô hình là <br /> <br /> 68<br /> 0,525. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp bởi trên thực tế, hoạt động ngoại thương  <br /> của Việt Nam trong thời kỳ này còn chịu tác động bởi nhiều nhân tố khác.<br /> Về mối quan hệ giữa hai biến số trong ngắn hạn, kết quả mô hình cơ chế hiệu <br /> chỉnh sai số cho thấy có mối quan hệ giữa chúng. Mức độ  trễ  trong tác động của tỷ <br /> giá hiệu lực đa phương đến cán cân thương mại là khá lớn, thể  hiện  ở  biến số <br /> Ln(REER)­3. Có nghĩa là, biến động của tỷ giá ở quý thứ 3 về trước sẽ có tác động <br /> đến hoạt động xuất, nhập khẩu  ở  thời  điểm hiện tại. Điều này phù hợp với lý <br /> thuyết thương mại cũng như  thực tế ngoại thương Việt Nam, cụ thể là những mặt  <br /> hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phần lớn là nông sản. Vì thế, đây là phản ứng  <br /> trễ trong sản xuất đối với thay đổi của tỷ giá hối đoái. Mặt khác nhập khẩu của Việt <br /> Nam chịu nhiều tác động của các chính sách khác hơn là tỷ giá.<br /> Kết quả  nghiên cứu trên cũng với những nghiên cứu trước đây về  vấn đề  này <br /> một lần nữa khẳng định tác động tích cực của việc tăng tỷ giá thực (đồng Việt Nam  <br /> xuống giá) đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Điều này cho thấy việc chủ <br /> động phá giá nội tệ  trong những năm qua đã có hiệu quả  nhất định trong việc tăng  <br /> cường xuất khẩu. Vấn đề  đặt ra  ở  đây là liệu Việt Nam có nên phá giá đồng tiền <br /> trong thời gian tới để  thúc đẩy xuất khẩu, từ  đó cải thiện cán cân thương mại hay  <br /> không? Đây là một vấn đề phức tạp bởi để thúc đẩy xuất khẩu đòi hỏi một hệ thống  <br /> biện pháp khác nhau, không đơn thuần là chính sách tỷ  giá. Mặt khác, tỷ  giá là một <br /> biến số vĩ mô rất nhạy cảm tác động đến nhiều biến số vĩ mô khác như thương mại, <br /> cán cân thanh toán, ngân sách chính phủ, nợ nước ngoài... Do đó, việc xem xét chính <br /> sách tỷ giá phải được đặt trong một tổng thể chính sách của Chính phủ. Có một số lý  <br /> do cho thấy cần phải thận trọng khi xem xét quyết định có nên phá giá hay không  <br /> như sau:<br /> Thứ  nhất, trong mô hình cân bằng dài hạn (Cointegration Model) và mô hình <br /> biến động ngắn hạn (ECM) giữa tỷ giá thực và cán cân thương mại của nghiên cứu <br /> này mới đề cập đến tác động của tỷ giá thực lên xuất, nhập khẩu chứ ch ưa xem xét <br /> tác động đến các biến số vĩ mô khác. Bên cạnh đó, việc phá giá đồng Việt Nam sẽ <br /> làm cho nhập khẩu sẽ trở nên đắt đỏ hơn đối với các nhà sản xuất trong n ước. Hiện <br /> tại, nhiều ngành kinh tế  của Việt Nam còn phụ  thuộc nặng nề  vào đầu vào nhập <br /> khẩu như  nông nghiệp, dệt may, công nghiệp hóa chất, điện tử... Do đó, phá giá sẽ <br /> đẩy chi phí sản xuất của những ngành này lên cao có thể gây nên lạm phát do chi phí  <br /> (cost­push) đối với toàn nền kinh tế. Từ đó, giá cả hàng hoá xuất khẩu cũng gia tăng <br /> tính bằng nội tệ, dẫn đến hiệu  ứng tích cực của phá giá đối với xuất khẩu trở  nên <br /> bằng không. Thứ hai, phá giá sẽ làm nợ nước ngoài của chính phủ và những tổ chức <br /> kinh tế  khác gia tăng tính theo đồng Việt Nam khiến cho ngân sách Chính phủ  thêm  <br /> khó khăn, những doanh nghiệp vay ngoại tệ của ngân hàng để  tiến hành kinh doanh  <br /> trên thị trường nội địa cũng sẽ bị thiệt hại do ngoại tệ lên giá so với đồng Việt Nam.  <br /> <br /> 69<br /> Vì những lý do trên, cần phải tính toán rất cẩn thận những lợi ích và chi phí của việc  <br /> phá giá đồng Việt Nam trước khi ra những quyết định quan trọng về vấn đề này.<br /> III. Kết luận<br /> Đề  cập đến chính sách tỷ  giá  ở  Việt Nam là một vấn đề  hết sức nhạy cảm,  <br /> liên quan đến hàng loạt các yếu tố cấu trúc kinh tế và cả các vấn đề chính trị, xã hội.  <br /> Nhiều nghiên cứu cho rằng, việc cần làm trước mắt là phá giá đồng Việt Nam để <br /> làm tăng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Quan điểm  <br /> này còn cho rằng đồng Việt Nam hiện nay có tỷ  giá thực có hiệu lực (real effective  <br /> exchange rate ­ REER) cao, nghĩa là tỷ  giá đã điều chỉnh theo lạm phát của một rổ <br /> tiền tệ của các nước mà Việt Nam có quan hệ mậu dịch4.  <br /> Kết quả  nghiên cứu này cho thấy, trong thời kỳ  1995 – 2004, tỷ  giá hối đoái  <br /> danh nghĩa giữa đồng Việt Nam với các đồng tiền của các bạn hàng chủ  yếu thể <br /> hiện xu hướng tăng, đồng nghĩa với việc đồng Việt Nam mất giá. Tuy nhiên, dựa  <br /> trên kết quả  tính toán được, tỷ  giá hối đoái thực tế  đã bị  giảm tới hơn 20%. Trong  <br /> giai đoạn 1992­1997, việc duy trì tỷ  giá hối đoái danh nghĩa gần như  cố  định trong  <br /> điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có  <br /> đồng tiền chiếm tỷ  trọng chủ  yếu trong giỏ  ngoại tệ  để  xác định tỷ  giá của Việt  <br /> Nam) và các nước có quan hệ  thương mại chủ  yếu của Việt Nam, đồng thời đồng <br /> USD có xu hướng tăng giá từ  năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị <br /> đánh giá cao hơn thực tế. Điều này đã tạo ra và tích lũy những nhân tố  gây mất  ổn  <br /> định và kìm hãm sự phát triển kinh tế.<br /> Kết quả nghiên cứu cũng đã khẳng định được sự tồn tại của quan hệ giữa hai  <br /> biến số vĩ mô này trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, sự tác động của tỷ giá  <br /> có tính chất trễ, và trong dài hạn hai biến số  này tiến tới một quan hệ  cân bằng  <br /> (đồng liên kết). Từ những phân tích trên, khuyến nghị đối với việc hoạch định chính  <br /> sách tỷ giá phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam là:<br /> Thứ  nhất, tỷ  giá là một trong những nhân tố  quan trọng  ảnh h ưởng nhanh và <br /> mạnh đến trạng thái cán cân thương mại, chính vì vậy khi phân tích diễn biến và xu <br /> hướng vận động của cán cân thương mại, không thể  không đề  cập đến nhân tố  tỷ <br /> giá. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào diễn biến của tỷ giá danh nghĩa (song phương hay đa <br /> phương) để  phân tích  ảnh hưởng lên cán cân thương mại là không chuẩn xác, mà <br /> phải sử dụng đến tỷ giá thực và chủ yếu là tỷ giá thực đa phương.    <br /> Thứ hai, để thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng mạnh hơn thì tỷ giá thực không thể <br /> quá thấp như ở Việt Nam trong suốt thời gian qua. Vấn đề điều chỉnh tỷ giá là để tỷ <br /> giá thực đạt mức bao nhiêu là hợp lý. <br /> <br /> 4<br />  Trần Ngọc Thơ, Tiền đồng được định giá cao hay thấp?, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 30­2006 (814)<br /> 70<br /> Tóm lại, trong những nhân tố  tác động đến hoạt động ngoại thương của Việt <br /> Nam trong thời gian qua, tỷ giá hối đoái có một vai trò hết sức quan trọng. Các nghiên  <br /> cứu trong và ngoài nước trong thời gian qua đã khẳng định mối quan hệ và tác động  <br /> giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại  ở  Việt Nam với các mức độ  khác nhau. <br /> Nghiên cứu này nhằm phân tích một cách sâu hơn mối quan hệ giữa hai biến số đó và <br /> đã cho một kết quả  tương tự. Điều này góp phần làm vững chắc cơ  sở  cho việc <br /> hoạch định chính sách tỷ  giá nhằm phục vụ  tốt hơn hoạt động ngoại thương của  <br /> Việt Nam trong thời gian tới.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Jack Johnston,  John  Dinardo.  Econometric  Methods,  Fourth Editions,  McGRAW  ­ <br /> HILL International Editions (2003)<br /> 2. Kenichi   Ohno.  Exchange  Rate   Management   of   Vietnam,  Re­examination  of   Policy  <br /> Goals   and   Modality,   Research   paper,   The   National   Graduate   Institute   for   Policy <br /> Studies, Japan  (2003)<br /> 3. Nguyễn Văn Tiến. Tỷ  giá thực và tác động của nó đến cán cân thương mại, Tạp <br /> chí Nghiên cứu Kinh tế, số 12 (2003)<br /> 4. Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld, International Economics: Theory and Policy, 5th <br /> Edition, Addison­Wesley Publishing Company<br /> 5. Phan Thanh Hoàn.  Tỷ  giá với cán cân thương mại: Kinh nghiệm của Hàn Quốc . <br /> Luận văn cao học, Đại học KyungHee, Hàn Quốc (2003)<br /> 6. Quỹ  tiền tệ  Quốc tế,  Thống kê tài chính quốc tế  ­ IFS (International Financial  <br /> Statistics) (2005)<br /> 7. Trần Ngọc Thơ, Tiền đồng được định giá cao hay thấp?, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, <br /> số 30 (2006) 814<br /> 8. Viện Kinh tế  học, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Quốc gia,  Tạp chí  <br /> Nghiên cứu Kinh tế, các số 292,293, 299 (2003, 2004)<br /> THE RELATIONSHIP BETWEEN EXCHANGE RATE AND TRADE <br /> BALANCE OF VIETNAM IN THE PERIOD OF 1995­2004<br /> Phan Thanh Hoan, Nguyen Dang Hao<br /> College of Economics, Hue University<br /> <br /> SUMMARY<br /> This study presents an empirical assessment of the relationship between the exchange  <br /> rate and the balance of trade in Vietnam during the period of 1995­2004. Using cointegration  <br /> theory, this study tests the relationship between exchange rate and trade balance of Vietnam.  <br /> Specifically,  the study test for the statistical significance, direction, and speed of  the  trade  <br /> <br /> 71<br /> balance response to the changes in exchange rate. The study also tests for short­run and long­<br /> run effects to determine the pattern of the exchange rate and trade balance relationship in  <br /> general.<br /> The result shows the theoretical framework of the study as well as major findings of  <br /> previous studies related to that. The statistical results provide evidence of the J­curve effect,  <br /> which indicates that the trade balance initially deteriorates in response to devaluations. More  <br /> specifically, the result shows the trade balance adjusts gradually to the exchange rate change,  <br /> requiring a period of about two quarters. In the long­run, we find that devaluation improves the  <br /> trade balance. Our results thus confirm the potency of the exchange rate as a long­run tool of  <br /> trade policy.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 72<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1