intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số trao đổi về điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam giai đoạn năm 2004-2014

Chia sẻ: Tưởng Bách Xuyên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

16
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu "Một số trao đổi về điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam giai đoạn năm 2004-2014" được thực hiện nhằm tìm hiểu và đánh giá thực trạng điều hành lãi suất của NHNN giai đoạn năm 2004-2014, nhận diện các hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong công tác điều hành lãi suất của NHNN và đưa ra kiến nghị nhằm khắc phục các hạn chế này. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số trao đổi về điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam giai đoạn năm 2004-2014

  1. MỘT SỐ TRAO ĐỔI VỀ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NĂM 2004-2014 ThS. Phạm Thị Bảo Oanh Trường Đại học Thăng Long Tóm tắt Điều hành lãi suất đang dần trở thành trọng tâm trong điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của các ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới. Thông qua điều hành lãi suất, NHTW có thể kiểm soát giá cả từ đó kiềm chế lạm phát, kích thích kinh tế phát triển ổn định. Tuy nhiên, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) khá lúng túng trong điều hành lãi suất. Lãi suất chưa mang tính định hướng thị trường. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu và đánh giá thực trạng điều hành lãi suất của NHNN giai đoạn năm 2004-2014, nhận diện các hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong công tác điều hành lãi suất của NHNN và đưa ra kiến nghị nhằm khắc phục các hạn chế này. Từ khóa: Chính sách tiền tệ, điều hành lãi suất, ngân hàng trung ương. Abstract Interest rate is becoming the focus of monetary policy management of the central bank in the world. Using the interest rate based monetary policy, the central bank can control prices and then inflation, stimulating economic development stability. However, State Bank of Vietnam (SBV) is still facing difficulties in managing interest rate. Interest rates are not market oriented. Therefore, this study was conducted to analyse the interest rate management by State Bank of Viet Nam in the period of 2004- 2014, identify limitations, causes of limitations and make recommendations to overcome these limitations. Key words: Monetary policy, interest rate management, central bank. 1. Điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương Điều hành lãi suất của NHTW là việc NHTW sử dụng các công cụ lãi suất của CSTT để điều tiết thị trường, đảm bảo thị trường tiền tệ hoạt động theo đúng quy luật từ đó đạt được các mục tiêu đề ra. Điều hành lãi suất là nội dung của điều hành CSTT, do vậy, mục tiêu điều hành CSTT chi phối toàn bộ các quyết định của NHTW trong điều hành lãi suất. 507
  2. Cuối những năm 1970, một số NHTW trên thế giới thực hiện CSTT theo đuổi mục tiêu cung tiền (Money Targeting)1, lấy cung tiền làm cơ sở kiểm soát lạm phát, kích thích kinh tế phát triển. Chính sách này được xây dựng dựa trên quan điểm của M.Friedman. Friedman cho rằng, NHTW cần kiểm soát cung tiền chặt chẽ, bởi cung tiền là nhân tố tác động đến tất cả các yếu tố: sản lượng, lãi suất và giá cả [2]. Khi NHTW tăng/giảm cung tiền sẽ kéo theo sự thay đổi của các đại lượng khác như sản lượng, giá cả và lãi suất. Như vậy, với CSTT theo đuổi mục tiêu cung tiền, NHTW không tập trung kiểm soát lãi suất mà trọng tâm là kiểm soát tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, từ đó lãi suất phải tự điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của thị trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy điều hành CSTT theo mục tiêu cung tiền có nhiều hạn chế. Các NHTW không những gặp khó khăn trong quản lý tổng cung tiền của nền kinh tế mà việc kiểm soát lạm phát thông qua kiểm soát cung tiền nhiều trường hợp không hiệu quả. Từ giữa những năm 1980, NHTW của một số quốc gia phát triển như: NewZealand, Canada, Anh, Thụy Điển, Phần Lan, Australia… [10] chuyển sang thực hiện CSTT theo đuổi mục tiêu lạm phát (Inflation Targeting)2, trong đó, chính phủ và NHTW cùng xác định mức lạm phát mục tiêu và sử dụng mọi công cụ của CSTT để đạt được mục tiêu này. CSTT theo mục tiêu lạm phát đặc biệt nhấn mạnh vai trò của lãi suất, coi lãi suất là nhân tố quyết định đến mức giá chung của nền kinh tế, thông qua việc kiểm soát, đảm bảo duy trì lãi suất mục tiêu từ đó tác động đến lãi suất thị trường, trên cơ sở này đạt được mục tiêu lạm phát đề ra, kích thích kinh tế phát triển bền vững. CSTT theo đuổi mục tiêu lạm phát được xây dựng trên cơ sở học thuyết Keynes, dựa vào động cơ đầu cơ của các nhà đầu tư trên thị trường để điều tiết nền kinh tế [1]. Khi NHTW công bố mức lãi suất mục tiêu, các nhà đầu tư tin rằng NHTW sẽ có một loạt các động thái đi kèm để đạt được mục tiêu lãi suất này, do vậy, để đảm bảo lợi ích của mình, các nhà đầu tư sẽ đưa ra quyết định mua/bán trái phiếu chính phủ từ đó tác động đến cung tiền, sản lượng và giá cả trong nền kinh tế. Để xây dựng công thức xác định lãi suất khi NHTW theo đuổi mục tiêu lạm phát, năm 1993, J.B Taylor nghiên cứu chính sách lãi suất của Fed giai đoạn năm 1987-1992 trong bối cảnh kinh tế Mỹ phát triển chậm lại do CSTT thắt chặt nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng giá dầu mỏ và trường hợp Đông Đức, Tây Đức sau khi sáp nhập, nhu cầu đầu tư gia tăng khiến ngân sách thâm hụt nghiêm trọng, lạm phát tăng. Taylor phát hiện lãi suất của Fed tuân theo nguyên tắc nhất định đối với lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Taylor đã nghiên cứu và xây dựng công thức xác định lãi suất điều 1 NHTW sử dụng kết hợp các công cụ điều hành CSTT để đảm bảo đạt được mức cung tiền đã định trước 2 NHTW sử dụng kết hợp các công cụ điều hành CSTT để đảm bảo đạt được mức lạm phát đã định trước 508
  3. hành của NHTW- thường được biết đến với tên gọi quy tắc Taylor (Taylor Ruler) - và sử dụng phương pháp mô phỏng để xem xét lại lãi suất điều hành của Fed. Ông nhận thấy quy tắc Taylor mô tả chính sách của Fed “chính xác một cách đáng ngạc nhiên”[12]. Taylor cho rằng công thức xác định lãi suất “nhất định phải là công thức cơ học”, song ông cũng không phủ nhận để có thể xác định mức lãi suất mục tiêu hợp lý, thích hợp trong từng giai đoạn, NHTW phải tính đến nhiều yếu tố khác. Nghiên cứu của Benjamin M. Friedman, Kenneth N. Kuttner cho rằng lãi suất điều hành của NHTW phải dựa trên mức dự trữ của các NHTM, hiệu quả thanh khoản của hệ thống các NHTM, độ co dãn của cầu tiền với mức dự trữ của các NHTM [13]. Hiện nay, kết quả nghiên cứu của Taylor đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới và trở thành công cụ để các quốc gia xem xét, đánh giá và điều chỉnh CSTT. 2. Thực tế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.1. Mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ Luật NHNN năm 1997 xác định mục tiêu của CSTT: “Nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân[7]”. Sau đó, Luật NHNN năm 2010 đã thu hẹp mục tiêu của CSTT: “Ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra[8]”. Tuy nhiên, Luật NHNN năm 2010 cũng quy định quá trình điều hành CSTT của NHNN phải đạt được một loạt các nội dung: “Ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội [8]”. Về bản chất, CSTT của Việt Nam là chính sách đa mục tiêu, chưa xác định được mục tiêu cuối cùng trong quá trình điều hành. Việc này khiến CSTT vi phạm quy tắc bộ ba bất khả thi. Bởi về nguyên tắc, điều hành CSTT luôn phải xác định mục tiêu ưu tiên hàng đầu, từ đó đưa ra các quyết định điều hành chính xác3 [14]. Như vậy, ngay từ bước xác định mục tiêu điều hành CSTT của NHNN đã có bất cập, dẫn đến việc NHNN chưa giải quyết xong vấn đề kiểm soát lạm phát đã phải tính đến việc giữ ổn định tỷ giá và kích thích kinh tế phát triển theo đúng chỉ tiêu kế hoạch được giao. Điều này đã lý giải tại sao thời gian qua, NHNN khá lúng túng trong điều hành lãi suất. 3 Bộ ba bất khả thi (Impossible Trinity) cho rằng NHTW không thể thực hiện đồng thời đạt cả ba mục đích: kích thích kinh tế phát triển, kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá. Khi NHTW muốn kích thích kinh tế phát triển cần hy sinh mục tiêu lạm phát, và khi lạm phát tăng sẽ khiến tỷ giá tăng và ngược lại. 509
  4. 2.2. Phương pháp xác định lãi suất Để đảm bảo đạt được các mục tiêu đề ra, NHNN duy trì CSTT vừa theo đuổi mục tiêu cung tiền4, vừa theo đuổi mục tiêu tỷ giá5 nên việc NHNN phải gồng mình tính toán, điều chỉnh các mức lãi suất cũng như điều hành lãi suất trong từng giai đoạn, khiến cho các quyết định trở lên chồng chéo và phải quay trở lại sử dụng phương pháp chỉ huy là điều không thể tránh khỏi. Theo Khoản 2, Điều 3 Luật NHNN năm 2010: “Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.” Và theo Khoản 4, Điều 3 của Luật này: “Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm. Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.[8]” Quy định này đã chi phối việc tính toán và đưa ra các mức lãi suất của NHNN. Trong đó, NHNN phải căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế, tình trạng lạm phát, biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường, mức cung tiền của NHNN, nhu cầu vốn thực tế của thị trường và sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ để tính toán ra các mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất chào mua thị trường mở mà không dựa vào bất cứ một công thức hay phương pháp định lượng cụ thể nào. Cụ thể, nếu như Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ban hành ngày 30/5/2002 mở đường cho các tổ chức tín dụng Việt Nam (TCTD) trong việc được tự mình tính toán lãi suất kinh doanh bằng đồng Việt Nam6, tạo cơ hội cho lãi suất kinh doanh của các TCTD tuân thủ theo đúng cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ thì Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ban hành ngày 16/5/2008 đã tuyên bố xóa bỏ cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam, chấm dứt khoảng thời gian 6 năm lãi suất tự điều chỉnh, quay trở lại với trần lãi suất huy động vốn và cho vay. Trong quyết định này, NHNN vẫn xác định lãi suất cơ bản tiếp tục là “cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh[4] ” và là cơ sở để NHNN điều hành lãi suất thị trường. Tuy nhiên, cơ sở xác định lãi suất cơ bản của NHNN không có sự 4 Thể hiện thông qua việc Quốc hội hàng năm giao chỉ tiêu tăng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, NHNN thực hiện nhiệm vụ kiểm soát cung tiền, tăng trưởng tín dụng… 5 Thể hiện thông qua việc NHNN thường xuyên công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng, kết hợp quy định biên độ giao động của tỷ giá hối đoái. 6 Gồm: lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay 510
  5. thay đổi, vẫn dựa vào “lãi suất cho vay thương mại” của 5 ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước là Agribank, BIDV, Vietcombank, Vietinbank, MHB7; 20 NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh như: ACB, Sacombank, Techcombank, Eximbank, Habubank8, MB, Maritimebank, VIB, Saigonbank, Vpbank, HSBC, ANZ, Citibank, VID Public, Indovinabank… [5] để tính toán mức lãi suất cơ bản. Điều này tạo ra sự bất hợp lý khi lãi suất điều hành của NHNN được tính toán dựa trên các mức lãi suất kinh doanh của NHTM, không phải bám theo các mục tiêu điều hành vĩ mô. Do đó, lãi suất cơ bản không mang tính chất định hướng thị trường. Không chỉ vậy, Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN cũng nêu rõ: “các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố.” Trong khi, bối cảnh kinh tế năm 2008 gặp nhiều khó khăn, để có thể bù đắp chi phí và tối đa hóa lợi nhuận, hầu hết TCTD áp trần lãi suất cho vay theo quy định của NHNN làm lãi suất đầu ra trong hoạt động của mình. Như vậy, về bản chất, một lần nữa, NHNN quay trở lại sử dụng phương pháp chỉ huy, ban hành mức lãi suất cho vay và huy động vốn tối đa trong hoạt động kinh doanh của các TCTD, lãi suất kinh doanh của các TCTD không còn bóng dáng của yếu tố thị trường. 2.3. Thực tế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Hình 1. Biến động lãi suất giai đoạn năm 2004-2014 Nguồn: NHNN và tính toán của tác giả 7 Nay đã sáp nhập vào BIDV 8 Nay đã sáp nhập vào SHB 511
  6. Nhìn chung, từ năm 2004 đến đầu năm 2008, chỉ có ba mốc tháng 2/2005, tháng 6/2005 và tháng 12/2005, NHNN tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu, còn lại các mức lãi suất này được giữ ổn định trong suốt thời gian dài. Điều này được giải thích là từ năm 2002, kinh tế Việt Nam tương đối ổn định, không có nhiều biến động, hơn nữa, theo Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN, NHNN cho phép các TCTD được thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm với quyết định kinh doanh của mình. Do đó, NHNN để lãi suất thị trường tự điều tiết theo quan hệ cung cầu, tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế phát triển công bằng. Đây chính là điều kiện quan trọng mở đường cho hệ thống các TCTD Việt Nam phát triển mạnh, đặc biệt là hệ thống các NHTM. Điều này được minh chứng thông qua việc hàng loạt các NHTM cổ phần nông thôn chuyển lên thành NHTM cổ phần đô thị, khối ngân hàng nước ngoài phát triển mạnh, thị phần huy động vốn và cho vay chuyển dần từ khối TCTD quốc doanh sang các TCTD khác[3]. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2007, tình hình lạm phát tăng cao, tăng trưởng tín dụng “quá nóng”. Để ổn định tình hình kinh tế vĩ mô, NHNN thực hiện hàng loạt các biện pháp mạnh. Hình 2. Tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn năm 2004-2014 Nguồn: NHNN Cụ thể, ngay từ đầu tháng 2/2008, NHNN phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc các TCTD đang hoạt động trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam phải mua với tổng giá trị 20.300 tỷ đồng. NHNN cũng đồng thời tăng mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên mức 11% đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 11%, và 5% đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng cho cả đồng nội và ngoại tệ. Như vậy, các biện pháp này được đưa ra với mong muốn giảm lượng cung tiền, từ đó hạ thấp tăng trưởng tín dụng, nhằm ổn định tình hình kinh tế. 512
  7. Hình 3. Diễn biến lãi suất và tốc độ tăng cung tiền giai đoạn năm 2004-2014 Nguồn: NHNN, ADB và tính toán của tác giả Tuy nhiên, tình hình kinh tế không mấy khả quan, mặc dù cung tiền năm 2008 giảm khá mạnh so với các năm trước song lượng vốn lớn vẫn bị đọng ở thị trường bất động sản và chứng khoán, trong khi nhu cầu vốn của nền kinh tế không có dấu hiệu giảm, gây áp lực mạnh tới thanh khoản, đe dọa sự an toàn của hệ thống các TCTD, đặc biệt là các NHTM cổ phần. Điều này khiến NHNN tiếp tục sử dụng công cụ lãi suất nhằm tác động đến lãi suất thị trường, giảm áp lực về tăng trưởng tín dụng. Cụ thể, trong chưa đầy 1 tháng, từ ngày 19/5/2008 đến ngày 11/6/2008, NHNN liên tiếp tăng mạnh các mức lãi suất cơ bản từ 8,75% lên 12% rồi 14%, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 6% lên 11% rồi 13%, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7,5% lên 13% rồi 15%. Đồng thời, từ ngày 19/5/2008, NHNN lần đầu tiên đặt lại trần lãi suất cho vay thông qua việc quy định giới hạn cho vay tối đa không quá 150% lãi suất cơ bản, chấm dứt cơ chế lãi suất thỏa thuận, dẫn đến lãi suất cho vay chính thức bằng VNĐ từ ngày 19/5/2008 tối đa là 18%/năm, sau đó tăng lên 21%/năm từ ngày 11/6/2008 và được duy trì đến hết ngày 20/10/2008. Tuy nhiên, quy định này không giải quyết được vấn đề. Để đạt lợi nhuận kỳ vọng, đặc biệt, khối NHTM cổ phần trước áp lực thu hút sự chú ý của nhà đầu tư mua cổ phiếu nhằm đạt được mục tiêu tăng vốn điều lệ đạt mức vốn pháp định tối thiểu 1000 tỷ đồng vào ngày 31/12/2008 theo Nghị định số 141/2006/NĐ – CP của Chính phủ, đã lách luật bằng cách giữ nguyên mức lãi suất cho vay, song lại tăng các mức phí kèm theo, dẫn đến lãi suất vay vốn thực tế khách hàng phải trả tăng gấp nhiều lần so với quy định của NHNN. Việc này, một lần nữa, khiến NHNN phải ban hành mệnh lệnh hành chính yêu cầu các TCTD không được thu thêm các khoản phí ngoài lãi cho vay. Với những biện pháp mạnh và dồn dập, NHNN đã nhanh chóng kiểm soát lại tình hình lạm phát. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam lại rơi vào một trạng thái mới, khi các 513
  8. doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất, không xoay vòng được vốn để trả nợ ngân hàng, người dân kiệt quệ do lạm phát cao năm 2008, sức tiêu dùng của nền kinh tế giảm sâu. Trong bối cảnh mới, NHNN thực hiện nới lỏng CSTT, tìm mọi biện pháp tăng cung tiền như: cho phép thanh toán sớm 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN, hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất cơ bản từ 8,5% xuống 7%, hạ lãi suất tái cấp vốn từ 9,5% xuống 8%, rồi 7%, hạ lãi suất tái chiết khấu từ 7,5% xuống 6% rồi 5% và duy trì các mức lãi suất này đến hết năm 2009. Động thái này của NHNN đã giúp lãi suất cho vay tối đa giảm từ 21%/năm xuống còn 10,5%/năm. Đến tháng 12/2009, khi CSTT nới lỏng bắt đầu phát huy hiệu quả, kinh tế dần phục hồi, nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng trở lại, để đảm bảo quyền lợi cho các NHTM, NHNN đồng loạt tăng các mức lãi suất thêm 1%, kéo chi phí vốn của nền kinh tế gia tăng, lúc này trần lãi suất cho vay kinh doanh bằng VNĐ tăng từ 10,5%/năm lên 12%/năm. Các mức lãi suất này được giữ đến hết tháng 10/2010. Sau đó, do áp lực về vốn của thị trường, lãi suất huy động vốn và cho vay của các NHTM thực tế tăng mạnh thông qua các hình thức thưởng tiền, tặng quà, khiến lãi suất vượt quá giới hạn tối đa NHNN đưa ra, các ngân hàng bước vào cuộc chạy đua lãi suất mới, lãi suất cơ bản dường như không còn sức chi phối đối với lãi suất của thị trường, dẫn đến việc từ năm 2011 đến nay, NHNN âm thầm rút lãi suất cơ bản ra khỏi chính sách lãi suất, thay vào đó là các mệnh lệnh hành chính cụ thể như: trần lãi suất huy động vốn, trần lãi suất cho vay. 3. Tác động của điều hành lãi suất tới chỉ số giá tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế Bảng 1. Chỉ số giá tiêu dùng và tăng trưởng GDP Đơn vị tính: % Chỉ số giá tiêu Chỉ số giá tiêu Tốc độ tăng Tốc độ tăng dùng dùng GDP (Thực GDP (Mục (Thực hiện) [9] (Mục tiêu) [6] hiện) [9] tiêu) [6] Năm 2004 9.50 ≤ 5.0 7.70 từ 7.5 – 8.0 Năm 2005 8.40 < 7.0 8.40 từ 8.0 – 8.5 Năm 2006 7.53 < 8.0 8.17 8.0 Năm 2007 12.63 < từ 8.2 – 8.5 8.48 từ 8.2 – 8.5 Năm 2008 19.89 < từ 8.5 – 9.0 6.23 từ 8.5 – 9.0 Năm 2009 6.52 < 15.0 5.32 6.5 Năm 2010 11.75 ≤ 7.0 6.42 6.5 Năm 2011 18.13 < 7.0 6.24 từ 7.0 – 7.5 Năm 2012 6.81 từ 5.0 – 7.0 5.25 từ 6.5 – 7.0 Năm 2013 6.04 8.0 5.42 5.5 16 Năm 2014 1.84 7.0 5.98 5.8 Nguồn: Quốc hội Việt Nam, Tổng cục Thống kê 16 Số liệu sơ bộ 514
  9. Việc NHNN điều hành lãi suất chặt chẽ nhằm kiểm soát lạm phát, tạo tính công bằng cũng như ổn định hệ thống các TCTD đã không thể đồng thời đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Số liệu thống kê cho thấy, chỉ hai năm 2006 và năm 2014, Việt Nam đồng thời đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng GDP theo đúng kế hoạch Quốc hội đề ra. Trong khi đó, 9/11 năm còn lại, CSTT không đạt được đồng thời mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Trong 9 năm này, hoặc Việt Nam phải hy sinh mục tiêu tăng trưởng kinh tế để kiểm soát lạm phát, hoặc phải chấp nhận lạm phát cao để đảm bảo kinh tế tăng trưởng cao. Mặt khác, khi xem xét tác động của lãi suất tới mức giá chung trong nền kinh tế, có thể thấy, lãi suất của NHNN chưa thực hiện tốt vai trò kiểm soát giá, 6/11 năm Việt Nam không thực hiện được chỉ tiêu lạm phát Quốc hội đưa ra. Đây là bằng chứng cho thấy sức lan tỏa của lãi suất điều hành tới nền kinh tế chưa cao, công tác điều hành lãi suất của NHNN còn thiếu hợp lý và chưa chuyên nghiệp. 4. Các nguyên nhân của hạn chế Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc điều hành lãi suất của NHNN không đạt được mục tiêu đã đề ra, song cơ bản gồm các nguyên nhân chính như sau: Một, NHNN chưa xác định được mục tiêu cuối cùng trong điều hành CSTT, cùng một thời điểm, NHNN theo đuổi quá nhiều mục tiêu đã gây khó khăn cho việc xác định lãi suất và lúng túng trong điều hành lãi suất của NHNN. Hai, tính tự chủ của NHNN chưa cao, theo Luật NHNN 2010: “NHNN là cơ quan ngang bộ của Chính phủ” nên toàn bộ các quyết định về CSTT phải tuân theo sự chỉ đạo từ Chính phủ, trong khi Chính phủ phải chịu áp lực từ nhiều phía cũng như phải đảm bảo thực hiện nhiều chỉ tiêu quản lý kinh tế - xã hội trong cùng một thời điểm, dẫn đến việc luôn có độ trễ nhất định trong quyết định điều hành CSTT nói chung, điều hành lãi suất nói riêng, cũng như tính tự quyết của NHNN chưa cao. Ba, NHNN gặp nhiều khó khăn trong quá trình kiểm soát cung tiền bởi toàn bộ hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, hệ thống các công ty bảo hiểm, hệ thống Kho bạc nằm ngoài sự quản lý của NHNN. Bốn, thị trường ngân hàng Việt Nam chưa phải thị trường cạnh tranh hoàn hảo. 515
  10. Bảng 2. Thị phần huy động vốn và đầu tư cho nền kinh tế Đơn vị tính: % Thị phần huy động vốn Thị phần đầu tư cho nền kinh tế NHTMNN, NHTMNN, NHCS & NH TCTD khác NHCS & NH TCTD khác Nhà ĐBSCL Nhà ĐBSCL Năm 2005 73.89 26.11 69.96 30.04 Năm 2006 69.71 30.29 66.97 33.03 Năm 2007 58.07 41.93 57.05 42.95 Năm 2008 56.06 43.94 55.66 44.34 Năm 2009 49.71 50.29 54.13 45.87 Năm 2010 45.29 54.71 51.36 48.64 Năm 2011 43.92 56.08 51.36 48.64 Năm 2012 46.62 53.38 50.91 49.09 Năm 2013 44.57 55.43 51.16 48.84 Nguồn: NHNN Mặc dù thị phần huy động vốn và cho vay có xu hướng chuyển dần từ khối các TCTD quốc doanh sang các TCTD khác song vẫn nằm trong sự khống chế của các TCTD nhà nước, trong đó 4 NHTMNN là Agribank, BIDV, Vietcombank, Vietinbank vẫn chiếm thị phần chi phối17. Do vậy, khi 4 ngân hàng này điều chỉnh mức lãi suất kinh doanh sẽ chi phối mạnh đến dòng vốn của nền kinh tế, gây khó khăn trong việc huy động vốn và cho vay ra đối với các TCTD khác, đặc biệt là khối NHTM cổ phần và ngân hàng liên doanh. Trong khi đó, vốn trên thị trường liên ngân hàng có lãi suất quá cao18 [11], việc tiếp cận vốn vay NHNN không phải thời điểm nào cũng dễ dàng, hơn nữa quy định của NHNN khá chặt trong việc cho vay ra, cũng như các NHTM này không có đủ các giấy tờ có giá đáp ứng đủ điều kiện chiết khấu và tái cấp vốn theo quy định của NHNN. Đây chính là nguyên nhân giải thích cho việc thời gian qua, các 17 Theo Báo cáo thường niên năm 2013 của NHNN, thị phần huy động vốn của 4 NHTM NN là 43.05%, thị phần đầu tư cho nền kinh tế của 4 NHTM NN là 46.84%. 18 Năm 2008, có thời điểm, lãi suất thị trường liên ngân hàng đạt mức 43%/năm. 516
  11. NHTM cổ phần nhỏ khó khăn trong việc tiếp cận vốn, đồng thời tìm mọi biện pháp né tránh quy định của NHNN trong thực hiện quy định liên quan đến giới hạn huy động vốn và cho vay. 5. Kiến nghị Để điều hành tốt lãi suất trong điều kiện kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu với thế giới, tính toàn cầu hóa ngày càng cao. Trong ngắn hạn, NHNN cần thực hiện các nội dung sau: Một là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh ngân hàng để phát hiện kịp thời sai phạm của các TCTD và nhanh chóng đưa ra biện pháp ngăn chặn, xử lý. Hai là, tiếp tục thực hiện phương pháp điều hành lãi suất hỗn hợp, kết hợp phương pháp quản lý chỉ huy với phương pháp quản lý dựa trên cơ sở thị trường. Tức là NHNN xây dựng khung lãi suất, trong đó, NHNN cần tính toán và có chuẩn lãi suất cơ sở, làm căn cứ cho các TCTD xác định lãi suất kinh doanh và cho phép các TCTD được tự mình quyết định lãi suất trong giới hạn cho phép của NHNN để vừa đảm bảo tính công bằng, song vẫn tạo cơ hội cho các TCTD có lợi nhuận. Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD, thực hiện sáp nhập tự nguyện và bắt buộc để xử lý các TCTD yếu kém, gia tăng cạnh tranh công bằng cho các TCTD trong hệ thống, tạo điều kiện cho các TCTD Việt Nam đủ sức hội nhập trong điều kiện kinh tế mới. Trong dài hạn, các cơ quan nhà nước cần tạo điều kiện để thực hiện các kiến nghị sau: Một là, Nhà nước cần xác định lại mục tiêu điều hành CSTT, neo CSTT dựa trên một cơ sở duy nhất, có thể nghiên cứu, áp dụng mục tiêu lạm phát trong điều hành CSTT, cũng như sử dụng quy tắc Taylor để tính toán lãi suất điều hành và thường xuyên đánh giá lại CSTT, giúp NHNN có cơ sở điều chỉnh CSTT hợp lý trong từng thời kỳ. Hai là, cần xem xét gia tăng quyền tự chủ cho NHNN, tránh tình trạng chậm chễ trong việc ra quyết định và thiếu tự chủ trong điều hành CSTT. 517
  12. PHỤ LỤC Bảng 1. Các lãi suất do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố giai đoạn năm 2004-2014 (Dữ liệu thô)19 Đvt: %/năm Lãi suất tái Lãi suất tái Lãi suất STT Tháng cấp vốn chiết khấu cơ bản 1 tháng 1/2004 5.00 3.00 7.50 2 tháng 2/2004 5.00 3.00 7.50 3 tháng 3/2004 5.00 3.00 7.50 4 tháng 4/2004 5.00 3.00 7.50 5 tháng 5/2004 5.00 3.00 7.50 6 tháng 6/2004 5.00 3.00 7.50 7 tháng 7/2004 5.00 3.00 7.50 8 tháng 8/2004 5.00 3.00 7.50 9 tháng 9/2004 5.00 3.00 7.50 10 tháng 10/2004 5.00 3.00 7.50 11 tháng 11/2004 5.00 3.00 7.50 12 tháng 12/2004 5.00 3.00 7.50 13 tháng 1/2005 5.00 3.00 7.50 14 tháng 2/2005 5.50 3.50 7.80 15 tháng 3/2005 5.50 3.50 7.80 19 Dữ liệu thô, được thu thập từ Báo cáo thường niên của NHNN, giai đoạn năm 2004 – 2013 và các quyết định số 305/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 306/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 1317/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 1906/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 213/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 2316/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 2318/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 2559/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 2561/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 2809/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 2810/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 2948/2008/QĐ – NHNN, quyết định số 2949/2008/QĐ – NHNN. 518
  13. Lãi suất tái Lãi suất tái Lãi suất STT Tháng cấp vốn chiết khấu cơ bản 16 tháng 4/2005 5.50 3.50 7.80 17 tháng 5/2005 5.50 3.50 7.80 18 tháng 6/2005 6.00 4.00 7.80 19 tháng 7/2005 6.00 4.00 7.80 20 tháng 8/2005 6.00 4.00 7.80 21 tháng 9/2005 6.00 4.00 7.80 22 tháng 10/2005 6.00 4.00 7.80 23 tháng 11/2005 6.00 4.00 7.80 24 tháng 12/2005 6.50 4.50 8.25 25 tháng 1/2006 6.50 4.50 8.25 26 tháng 2/2006 6.50 4.50 8.25 27 tháng 3/2006 6.50 4.50 8.25 28 tháng 4/2006 6.50 4.50 8.25 29 tháng 5/2006 6.50 4.50 8.25 30 tháng 6/2006 6.50 4.50 8.25 31 tháng 7/2006 6.50 4.50 8.25 32 tháng 8/2006 6.50 4.50 8.25 33 tháng 9/2006 6.50 4.50 8.25 34 tháng 10/2006 6.50 4.50 8.25 35 tháng 11/2006 6.50 4.50 8.25 36 tháng 12/2006 6.50 4.50 8.25 519
  14. Lãi suất tái Lãi suất tái Lãi suất STT Tháng cấp vốn chiết khấu cơ bản 37 tháng 1/2007 6.50 4.50 8.25 38 tháng 2/2007 6.50 4.50 8.25 39 tháng 3/2007 6.50 4.50 8.25 40 tháng 4/2007 6.50 4.50 8.25 41 tháng 5/2007 6.50 4.50 8.25 42 tháng 6/2007 6.50 4.50 8.25 43 tháng 7/2007 6.50 4.50 8.25 44 tháng 8/2007 6.50 4.50 8.25 45 tháng 9/2007 6.50 4.50 8.25 46 tháng 10/2007 6.50 4.50 8.25 47 tháng 11/2007 6.50 4.50 8.25 48 tháng 12/2007 6.50 4.50 8.25 49 tháng 1/2008 6.50 4.50 8.25 50 tháng 2/2008 7.50 6.00 8.75 51 tháng 3/2008 7.50 6.00 8.75 52 tháng 4/2008 7.50 6.00 8.75 53 tháng 5/2008 7.50 6.00 8.75 54 từ 19/5/2008 13.00 11.00 12.00 55 từ 1/6/2008 13.00 11.00 12.00 56 từ 11/6/2008 15.00 13.00 14.00 57 tháng 7/2008 15.00 13.00 14.00 520
  15. Lãi suất tái Lãi suất tái Lãi suất STT Tháng cấp vốn chiết khấu cơ bản 58 tháng 8/2008 15.00 13.00 14.00 59 tháng 9/2008 15.00 13.00 14.00 60 từ 1/10/2008 15.00 13.00 14.00 61 từ 21/10/2008 14.00 12.00 13.00 62 từ 5/11/2008 13.00 11.00 12.00 63 từ 21/11/2008 12.00 10.00 11.00 64 từ 5/12/2008 11.00 9.00 10.00 65 từ 22/12/2008 9.50 7.50 8.50 66 tháng 1/2009 9.50 7.50 8.50 67 tháng 2/2009 8.00 6.00 7.00 68 tháng 3/2009 8.00 6.00 7.00 69 từ 1/4/2009 8.00 6.00 7.00 70 từ 10/4/2009 7.00 5.00 7.00 71 tháng 5/2009 7.00 5.00 7.00 72 tháng 6/2009 7.00 5.00 7.00 73 tháng 7/2009 7.00 5.00 7.00 74 tháng 8/2009 7.00 5.00 7.00 75 tháng 9/2009 7.00 5.00 7.00 76 tháng 10/2009 7.00 5.00 7.00 77 tháng 11/2009 7.00 5.00 7.00 78 tháng 12/2009 8.00 6.00 8.00 521
  16. Lãi suất tái Lãi suất tái Lãi suất STT Tháng cấp vốn chiết khấu cơ bản 79 tháng 1/2010 8.00 6.00 8.00 80 tháng 2/2010 8.00 6.00 8.00 81 tháng 3/2010 8.00 6.00 8.00 82 tháng 4/2010 8.00 6.00 8.00 83 tháng 5/2010 8.00 6.00 8.00 84 tháng 6/2010 8.00 6.00 8.00 85 tháng 7/2010 8.00 6.00 8.00 86 tháng 8/2010 8.00 6.00 8.00 87 tháng 9/2010 8.00 6.00 8.00 88 tháng 10/2010 8.00 6.00 8.00 89 tháng 11/2010 9.00 7.00 9.00 90 tháng 12/2010 9.00 7.00 9.00 91 tháng 1/2011 9.00 7.00 92 tháng 2/2011 11.00 7.00 93 tháng 3/2011 12.00 12.00 94 tháng 4/2011 13.00 12.00 95 tháng 5/2011 14.00 13.00 96 tháng 6/2011 14.00 13.00 97 tháng 7/2011 14.00 13.00 98 tháng 8/2011 14.00 13.00 99 tháng 9/2011 14.00 13.00 522
  17. Lãi suất tái Lãi suất tái Lãi suất STT Tháng cấp vốn chiết khấu cơ bản 100 tháng 10/2011 15.00 13.00 101 tháng 11/2011 15.00 13.00 102 tháng 12/2011 15.00 13.00 103 tháng 1/2012 15.00 13.00 104 tháng 2/2012 15.00 13.00 105 tháng 3/2012 14.00 12.00 106 tháng 4/2012 13.00 11.00 107 tháng 5/2012 12.00 10.00 108 tháng 6/2012 11.00 9.00 109 tháng 7/2012 10.00 8.00 110 tháng 8/2012 10.00 8.00 111 tháng 9/2012 10.00 8.00 112 tháng 10/2012 10.00 8.00 113 tháng 11/2012 10.00 8.00 114 tháng 12/2012 9.00 7.00 115 tháng 1/2013 9.00 7.00 116 tháng 2/2013 9.00 7.00 117 tháng 3/2013 8.00 6.00 118 tháng 4/2013 8.00 6.00 119 tháng 5/2013 7.00 5.00 120 tháng 6/2013 7.00 5.00 523
  18. Lãi suất tái Lãi suất tái Lãi suất STT Tháng cấp vốn chiết khấu cơ bản 121 tháng 7/2013 7.00 5.00 122 tháng 8/2013 7.00 5.00 123 tháng 9/2013 7.00 5.00 124 tháng 10/2013 7.00 5.00 125 tháng 11/2013 7.00 5.00 126 tháng 12/2013 7.00 5.00 127 tháng 1/2014 7.00 5.00 128 tháng 2/2014 7.00 5.00 129 tháng 3/2014 7.00 5.00 130 tháng 4/2014 7.00 5.00 131 tháng 5/2014 7.00 5.00 132 tháng 6/2014 7.00 5.00 133 tháng 7/2014 7.00 5.00 134 tháng 8/2014 7.00 5.00 135 tháng 9/2014 7.00 5.00 136 tháng 10/2014 7.00 5.00 137 tháng 11/2014 7.00 5.00 138 tháng 12/2014 7.00 5.00 Nguồn: NHNN 524
  19. Bảng 2. Các lãi suất do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố giai đoạn năm 2004-2014 (Dữ liệu đã được tác giả xử lý)20 Đơn vị: %/năm Lãi suất tái Lãi suất tái Lãi suất STT Tháng cấp vốn chiết khấu cơ bản 1 tháng 1/2004 5.00 3.00 7.50 2 tháng 2/2004 5.00 3.00 7.50 3 tháng 3/2004 5.00 3.00 7.50 4 tháng 4/2004 5.00 3.00 7.50 5 tháng 5/2004 5.00 3.00 7.50 6 tháng 6/2004 5.00 3.00 7.50 7 tháng 7/2004 5.00 3.00 7.50 8 tháng 8/2004 5.00 3.00 7.50 9 tháng 9/2004 5.00 3.00 7.50 10 tháng 10/2004 5.00 3.00 7.50 11 tháng 11/2004 5.00 3.00 7.50 12 tháng 12/2004 5.00 3.00 7.50 13 tháng 1/2005 5.00 3.00 7.50 14 tháng 2/2005 5.50 3.50 7.80 15 tháng 3/2005 5.50 3.50 7.80 16 tháng 4/2005 5.50 3.50 7.80 17 tháng 5/2005 5.50 3.50 7.80 18 tháng 6/2005 6.00 4.00 7.80 19 tháng 7/2005 6.00 4.00 7.80 20 tháng 8/2005 6.00 4.00 7.80 21 tháng 9/2005 6.00 4.00 7.80 22 tháng 10/2005 6.00 4.00 7.80 23 tháng 11/2005 6.00 4.00 7.80 24 tháng 12/2005 6.50 4.50 8.25 25 tháng 1/2006 6.50 4.50 8.25 26 tháng 2/2006 6.50 4.50 8.25 27 tháng 3/2006 6.50 4.50 8.25 28 tháng 4/2006 6.50 4.50 8.25 20 Xử lý dữ liệu, chuyển từ lãi suất/năm do NHNN công bố theo tháng như sau: B1. Năm 2008 và 2010, NHNN điều chỉnh lãi suất trong các tháng => tác giả lấy lãi suất trung bình của tháng. B2. Tính lãi suất trung bình năm theo tháng 525
  20. Lãi suất tái Lãi suất tái Lãi suất STT Tháng cấp vốn chiết khấu cơ bản 29 tháng 5/2006 6.50 4.50 8.25 30 tháng 6/2006 6.50 4.50 8.25 31 tháng 7/2006 6.50 4.50 8.25 32 tháng 8/2006 6.50 4.50 8.25 33 tháng 9/2006 6.50 4.50 8.25 34 tháng 10/2006 6.50 4.50 8.25 35 tháng 11/2006 6.50 4.50 8.25 36 tháng 12/2006 6.50 4.50 8.25 37 tháng 1/2007 6.50 4.50 8.25 38 tháng 2/2007 6.50 4.50 8.25 39 tháng 3/2007 6.50 4.50 8.25 40 tháng 4/2007 6.50 4.50 8.25 41 tháng 5/2007 6.50 4.50 8.25 42 tháng 6/2007 6.50 4.50 8.25 43 tháng 7/2007 6.50 4.50 8.25 44 tháng 8/2007 6.50 4.50 8.25 45 tháng 9/2007 6.50 4.50 8.25 46 tháng 10/2007 6.50 4.50 8.25 47 tháng 11/2007 6.50 4.50 8.25 48 tháng 12/2007 6.50 4.50 8.25 49 tháng 1/2008 6.50 4.50 8.25 50 tháng 2/2008 7.50 6.00 8.75 51 tháng 3/2008 7.50 6.00 8.75 52 tháng 4/2008 7.50 6.00 8.75 53 tháng 5/2008 10.25 8.50 10.38 54 tháng 6/2008 14.00 12.00 13.00 55 tháng 7/2008 15.00 13.00 14.00 56 tháng 8/2008 15.00 13.00 14.00 57 tháng 9/2008 15.00 13.00 14.00 58 tháng 10/2008 14.50 12.50 13.50 59 tháng 11/2008 13.00 11.00 12.00 60 tháng 12/2008 10.83 8.83 9.83 61 tháng 1/2009 9.50 7.50 8.50 62 tháng 2/2009 8.00 6.00 7.00 63 tháng 3/2009 8.00 6.00 7.00 64 tháng 4/2009 7.50 5.50 7.00 65 tháng 5/2009 7.00 5.00 7.00 526
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2