BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Hồ Trọng Minh
MỸ THUẬT TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1946 – 2006
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Hồ Trọng Minh
MỸ THUẬT TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1946 – 2006
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 62 21 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Dũng
PGS.TS. Đoàn Thị Mỹ Hƣơng
Hà Nội – 2017
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam giai
đoạn 1946-2006 là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những vấn đề nghiên cứu
trong bản luận án là trung thực và chƣa công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày / / 2017
Tác giả luận án
Hồ Trọng Minh
2
MỤC LỤC
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. 3
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 5
Chƣơng 1CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ
CÓ LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN ............................................................................ 17
1.1. Cơ sở lý luận để nghiên cứu luận án .................................................................. 17
1.2. Khái niệm thuật ngữ ........................................................................................... 26
1.3. Tiền giấy ở Việt Nam ......................................................................................... 33
Tiểu kết ...................................................................................................................... 52
Chƣơng 2 NHẬN DIỆN YẾU TỐ MỸ THUẬT TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM . 54
2.1. Hoa văn họa tiết trên tiền giấy Việt Nam ........................................................... 54
2.2. Hình ảnh chủ đề trong tiền giấy Việt Nam ......................................................... 76
2.3. Chân dung trong tiền giấy Việt Nam .................................................................. 87
Tiểu kết ...................................................................................................................... 95
Chƣơng 3 ĐẶC TRƢNG NGHỆ THUẬT VÀ SỰ BIẾN ĐỔI PHONG CÁCH MỸ
THUẬT TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM ................................................................ 97
3.1. Đặc điểm nghệ thuật trang trí trên tiền giấy Việt Nam ...................................... 97
3.2. Đặc điểm nghệ thuật đồ họa trên tiền giấy Việt Nam ...................................... 110
3.3. Chuyển biến về các yếu tố mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam .......................... 127
3.4. Đóng góp của mỹ thuật trên tiền giấy vào lịch sử mỹ thuật Việt Nam ............ 140
Tiểu kết .................................................................................................................... 152
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 154
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .......... 158
LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................... 158
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 159
3
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- cb : Chủ biên
- CHXHCN : Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
- DCCH : Dân chủ Cộng hòa
- đ : Đồng
- GS : Giáo sƣ
- NCS : Nghiên cứu sinh
- NHNN : Ngân hàng Nhà nƣớc
- Nxb : Nhà xuất bản
- PGS : Phó giáo sƣ
- TP : Thành phố
- tr : Trang
- TS : Tiến sĩ
- UBTƢ MTDTGPMNVN : Ủy ban Trung ƣơng Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam
- VNCH : Việt Nam Cộng hòa
4
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Bảng 1.1: Các đợt phát hành tiền giấy tại Việt Nam ………………………... 40
Bảng 3.1: Các chi tiết mang tính biểu tƣợng trong tiền giấy Việt Nam ……. 100
Bảng 3.2: So sánh các công đoạn sáng tạo tác phẩm đồ họa và tiền giấy…… 150
Hình 3.1: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống tiền Tài chính………………… 107
Hình 3.2: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống tiền giấy phát hành 1951…….. 107
Hình 3.3: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống tiền giấy phát hành 1959…….. 108
Hình 3.4: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống tiền giấy phát hành 1978…….. 108
Hình 3.5: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống tiền giấy phát hành 1985……. 109
Hình 3.6: Sơ đồ bố cục và trang trí bộ tiền polymer ……………………….. 109
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống thƣờng nhật, mọi ngƣời có xu hƣớng sử dụng đồng tiền với
giá trị tiêu dùng chứ ít ngƣời quan tâm xem đồng tiền ấy thể hiện gì, hình ảnh trên
nó có ý nghĩa gì, hình ảnh mỹ thuật thế nào.
Trên thế giới hiện nay có gần 200 loại tiền giấy của các quốc gia và vùng
lãnh thổ đƣợc lƣu hành. Tại Việt Nam, hệ thống tiền giấy của do nƣớc CHXHCN
Việt Nam (trƣớc đây là Việt Nam DCCH) đƣợc hình thành, phát triển từ năm 1945
tới nay và là hệ thống tiền duy nhất đƣợc phép lƣu hành trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong quá trình tìm hiểu về mỹ thuật trên tiền giấy, NCS nhận thấy các công trình
nghiên cứu về văn hóa, mỹ thuật của tiền giấy Việt Nam đƣợc xuất bản chƣa nhiều.
Một số tác phẩm viết về tiền giấy chủ yếu là các hồi ký về lịch sử ra đời của tiền
giấy chứ không bàn luận về giá trị mỹ thuật của tiền giấy Việt Nam.
Liệu tiền giấy có giá trị nghệ thuật hay không? Các hoa văn in trên tiền giấy
có phải là những thành tố tạo nên mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam và có vị thế gì
trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam?
Nếu trong các chuyên ngành đồ họa khác nhƣ khắc gỗ, đồ họa tem bƣu
chính, thiết kế bao bì, logo…ngƣời ta có thể dễ dàng tìm đƣợc tài liệu nghiên cứu
và các sách tham khảo,thì mỹ thuật trên tiền giấy vẫn còn thiếu vắng những nghiên
cứu về văn hóa và thẩm mỹ tiền giấy. Tại đây, cần tách biệt việc nghiên cứu văn
hóa mỹ thuật trên tiền giấy ra khỏi việc bảo mật công nghệ và chống giả. Giữ bí mật
về công nghệ và bảo an trong tiền giấy là cần thiết nhƣng nghiên cứu để làm rõ và
quảng bá các giá trị mỹ thuật của tiền giấy là việc cũng phải tiến hành.
Do không tồn tại nhiều các công trình nghiên cứu về mỹ thuật trên tiền giấy
dẫn tới đòi hỏi về lý thuyết và thực tiễn. Về mặt lý luận, giới nghiên cứu khó khăn
khi xác định giá trị mỹ thuật của tiền giấy và những đóng góp của nó trong nền mỹ
thuật Việt Nam. Về mặt thực tiễn, sự hiếm hoi các tài liệu nghiên cứu về mỹ thuật
trên tiền giấy khiến cho ngƣời dân không hiểu hết đƣợc cái đẹp và giá trị văn hóa -
nghệ thuật của tiền giấy Việt Nam, nhà quản lý khó khăn khi xây dựng tiêu chí
6
thẩm mỹ cho thiết kế tiền giấy của quốc gia... Mặt khác, việc thiếu các tài liệu
nghiên cứu mỹ thuật trên tiền giấy cũng khiến cho các nhà nghiên cứu, sƣu tầm và
ngƣời dân cũng khó lý giải đƣợc một số hiện tƣợng, bản chất cũng của mỹ thuật
thuật tiền giấy, cũng nhƣ phƣơng pháp xác định tiền thật tiền giả.
Dƣới góc độ nghiên cứu, có một số vấn đề đƣợc đặt ra:
- Mỹ thuật trên tiền giấy có thuộc về ngành đồ họa hay không? Làm thế nào
để xác định đƣợc chuyên ngành của mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam hay nó thuộc
chuyên ngành mới?
- Đặc trƣng thẩm mỹ của mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam là gì?
- Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam đóng góp gì cho lịch sử mỹ thuật Việt Nam ?
NHNN Việt Nam có bộ phận thiết kế mẫu tiền, các họa sĩ tham gia thiết kế
hệ thống tiền giấy trƣớc đây và hệ thống polymer hiện hành đã về hƣu hoặc chuyển
công tác khác. Việc đặt vấn đề nghiên cứu mỹ thuật trên tiền giấy càng có ý nghĩa
thực tiễn trong xây dựng tiêu chuẩn thẩm mỹ, công nghệ cho các hệ thống tiền
tƣơng lai của nƣớc ta. Đối với giới sƣu tầm trên thế giới, tiền giấy Việt Nam đƣợc
quan tâm và đánh giá cao nhƣ hiện vật văn hóa đại diện của quốc gia. Các nhóm
sƣu tầm tiền cổ đƣợc hình thành, thực hiện nhiều cuộc giao lƣu trao đổi kiến thức,
trƣng bày tiền cổ thu hút nhân dân tới xem trong đó có nhiều sinh viên. Vì vậy
những kết quả nghiên cứu về tiền giấy Việt Nam sẽ là công cụ rất quan trọng để
nâng cao nhận thức về mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam.
Với suy nghĩ đó, là ngƣời sƣu tầm tiền giấy, đã từng làm việc hơn 10 năm tại
Phòng Thiết kế mẫu tiền-Ngân hàng Trung ƣơng và trực tiếp thiết kế nhiều mẫu
trong hệ thống tiền polymer, NCS thực hiện đề tài nghiên cứu “Mỹ thuật trên tiền
giấy Việt Nam giai đoạn 1946 đến 2006”.
Mốc thời gian 1946 đƣợc xác lập trên cơ sở thời điểm phát hành tiền giấy lần
đầu tiên theo sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 31/1/1946 về việc phát hành
Tiền Tài chính do Bộ tài chính ấn loát và năm 2006 là năm phát hành đồng tiền
polymer cuối cùng trong hệ thống tiền hiện hành.
7
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu các tài liệu về tiền giấy Việt Nam, NCS thấy có
thể chia ra làm 2 nhóm chính. Nhóm thứ nhất là các tài liệu nghiên cứu tiếp cận
dƣới góc độ lịch sử, kinh tế và xã hội. Nhóm này gồm các sách, báo hoặc hồi ký,
tham luận hội thảo do NHNN tổ chức. Nhóm thứ hai, là các tài liệu nghiên cứu tiền
giấy Việt Nam dƣới góc độ kỹ thuật, mỹ thuật và thiết kế in ấn. Nhóm này gồm các
tài liệu do các công ty tƣ vấn, thiết bị vật tƣ ngành in tiền của nƣớc ngoài và hai
luận văn thạc sĩ về tiền giấy.
2.1. Nhóm các tài liệu nghiên cứu tiếp cận tiền giấy Việt Nam dưới góc độ
lịch sử, kinh tế và xã hội
Nhóm này đƣợc hệ thống bởi các tài liệu trong nƣớc và ngoài nƣớc có đối
tƣợng nghiên cứu chủ yếu là tiền giấy Việt Nam trên phƣơng diện lịch sử và các
thông tin liên quan. Các tài liệu dƣới tồn tại ở dạng sách, bài báo, các hồi ký, tham
luận hội thảo.
Về các tài liệu nƣớc ngoài, năm 1996, cuốn sách tiếng Pháp Les Billets de la
Banque de l’Indochine (Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dƣơng) do Maurice Kolsky
và Maurice Muszynsky. Sách dành một phần dung lƣợng lớn viết về tiền giấy do
Ngân hàng Đông Dƣơng phát hành tại Việt Nam, với các khảo sát kỹ lƣỡng về kích
thƣớc, hình vẽ, tên họa sĩ sáng tác, tên nhà in [151].
Về các tài liệu trong nƣớc, có một số cuốn viết về lịch sử tiền giấy Việt
Nam dƣới dạng tài liệu hoặc hồi ký. Năm 1945 có cuốn sách Tiền bạc (Khảo cứu về
vấn đề tiền tệ)của Phan Văn Hùm, lƣợc khảo về vấn đề tiền tệ. Sách viết về tình
hình kinh tế tiền tệ nƣớc ta giai đoạn trƣớc 1945 [42]. Năm 1960, cuốn sách Lưu
thông tiền tệ ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đƣợc viết bởi Trần Dƣơng và
Phạm Thọ, đề cập sơ bộ tới lịch sử tiền tệ tại Việt Nam từ thời thuộc Pháp cho đến
hết năm 1959 [27].
Năm 1982, cuốn hồi ký Những năm,tháng thử thách trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp 1945-1954 của tập thể các tác giả viết về các hoạt động từ tiếp
quản Ngân hàng Đông Dƣơng (thuộc Pháp) tới việc in ấn, xây dựng kho tàng, điều
8
chuyển tiền tệ từ chiến khu Việt Bắc tới các miền vùng khác trong cả nƣớc trong
ngày đầu kháng chiến chống Pháp [74].
Năm 1991, cuốn sách Tiền Việt Nam đƣợc NHNNViệt Nam phát hành, nhân
dịp kỷ niệm 40 năm thành lập. Đây là cuốn sách đầu tiên tập hợp các tƣ liệu, hình
ảnh về một số mẫu tiền tiêu biểu của nƣớc ta đƣợc sắp xếp theo các giai đoạn lịch
sử phát hành. Cuốn sách này giới thiệu khái quát tƣ liệu chứ không có các nghiên
cứu sâu về mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam [75]. Sách 40 mùa sen nở là tập hồi ký
về con ngƣời và sự nghiệp 40 năm Ngân hàng do NHNN Việt Nam phát hành tháng
5 năm 1991, tập hợp 117 bài viết công phu và các tài liệu quan trọng liên quan tới
lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Việt Nam nói chung và đồng tiền
Việt Nam [73]. Năm 1994, cuốn sách 100 năm tiền giấy Việt Nam đƣợc Hội tem
TP. Hồ Chí Minh và Nxb. Trẻ phát hành, tập hợp sơ bộ hình ảnh và tƣ liệu về các
đồng tiền giấy tiêu biểu của Việt Nam qua các thời kỳ [40].
Năm 1995, sách Một thời không quên, là cuốn hồi ký 2 tập của nhiều tác giả
về Sở ấn loát Tài chính Trung Bộ in và phát hành giấy bạc Cụ Hồ (giấy bạc do Bộ
tài chính phát hành trong thời đầu của kháng chiến chống Pháp từ năm 1946-1952
[86, 87]. Năm 1998, tài liệu Hội thảo Tiền tệ 300 năm Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh,
bao gồm 20 bài tham luận của giới chức ngành Ngân hàng, các nhà nghiên cứu lịch
sử và các nhà sƣu tầm tiền cổ. Năm 2006, cuốn sách Tiền Việt Nam – Xưa và nay,
tài liệu do Trƣờng đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh biên soạn, giới thiệu “sƣu
tầm và biên tập dƣới dạng sử ký nhằm cung cấp kiến thức phổ thông để mọi ngƣời
trong các tầng lớp xã hội khác nhau ai cũng đọc đƣợc, hiểu đƣợc” [114].
Năm 2006, tài liệu kỷ yếu hội thảo Tiền Việt Nam - Các giá trị lịch sử kinh tế
và xã hội. Hội thảo do NHNN Việt Nam tổ chức ngày 22 tháng 4 năm 2006 tại Hà
Nội. Năm 2009, có cuốn Sưu tập tiền giấy tiêu biểu Việt Nam và Quốc tế, do tác giả
Thiên Kim. Nội dung của sách chủ yếu giới thiệu hình ảnh của một số đồng tiền của
102 nƣớc trên thế giới. Trong cuốn này, tác giả có dành một số trang giới thiệu hình
ảnh tiền giấy Việt Nam [58]. Năm 2009, cuốn sách Tiền cổ Việt Nam do Lục Đức
Thuận và Võ Quốc Ky viết về lịch sử tiền cổ Việt Nam trải qua các triều đại phong
9
kiến đến hết thế kỷ XIX [106]. Năm 2010, cuốn sách 1000 năm tiền tệ Thăng Long
do tác giả Nguyễn Thanh Châu và Ngô Hƣớng viết giới thiệu tiền tệ nói chung và
tiền giấy nói riêng.
Cuốn sách đáng chú ý Tiền Việt Namđƣợc nhóm tác giả Lê Việt Cƣờng, TS.
Đào Minh Tú, ThS. Ngô Quang Lƣơng, Nguyễn Mạnh Tùng đƣợc xuất bản 2011.
Cuốn sách đã liệt kê các đồng tiền Việt Nam trong các triều đại phong kiến cũng
nhƣ các hệ thống tiền của nƣớc ta từ 1945 trở lại đây và đề cập sơ lƣợc tới tình hình
kinh tế xã hội có liên quan tới các hệ thống [24]. Cùng năm này, cuốn tài liệu 60
năm Ngân hàng Việt Nam – Tư liệu và Hình ảnh do Ban biên soạn của NHNN Việt
Nam với Chủ biên là Nguyễn Đồng Tiến (Phó Thống đốc NHNN Việt Nam). Sách
có nhiều ảnh minh họa và các nội dung liên quan tới các mốc quan trọng trong lịch
sử 60 năm xây dựng và trƣởng thành của NHNN Việt Nam [70].
Một số bài báo tiêu biểu viết về tiền tệ nhƣ các bài báo của tác giả Nguyễn
Thanh Châu nhƣ “Sự hóa thân của đồng tiền”,“Vài nét về tiền tệ 300 năm Sài Gòn-
Thành phố Hồ Chí Minh”, “Năm mƣơi năm giấy bạc Ngân hàng ra đời và phát triển”.
Năm 2012, bài báo “Hiện tƣợng độc đáo trong lịch sử tiền tệ Việt Nam: Hàng chục
loại tiền cùng lƣu hành” của nhà nghiên cứu sƣu tầm tiền Nguyễn Anh Huy.
2.2. Nhóm tài liệu nghiên cứu tiền giấy Việt Nam dưới góc độ kỹ thuật,
mỹ thuật và thiết kế in ấn
Năm 2000, cuốn sách The Art of Money:The history and design of paper
currency from around the world (Nghệ thuật tiền giấy: Lịch sử và thiết kế tiền giấy
trên toàn thế giới) do David Standish viết. Trong cuốn sách này, có 2 mẫu tiền giấy
Việt Nam đƣợc nhắc tới là mẫu 200 đ hiện hành (vẽ máy cày) và mẫu 500 đ của
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do chế độ chính quyền Việt Nam Cộng hòa phát
hành (vẽ hình con hổ) [134].
Năm 2001, tài liệu nghiệp vụ Thuyết trình cho Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam của hãng sản xuất mực in và các yếu tố chống giả, có nội dung phân tích và
xây dựng tiêu chuẩn cho thiết kế chống giả với từng cấp độ... Năm 2002, tài liệu
nghiệp vụ Nghiên cứu kỹ thuật về các tờ bạc Việt Nam đƣợc hãng Sicpa thực hiện
10
nghiên cứu về hiện trạng hệ thống tiền giấy cotton (năm 1987-2010) đƣa ra các cấp
độ nhận biết chống giả.
Năm 2002, tài liệu nghiệp vụ Sản xuất tiền Polymer đƣợc viết bởi Danny
Reid và Neil Burnham là 2 kỹ sƣ và thiết kế chính của hãng PolyTeQ Service – Úc
và đƣợc giảng dạy cho các họa sĩ thiết kế mẫu tiền liên quan tới đề án thiết kế tiền
Polymer của NHNN Việt Nam vào tháng 1 năm 2002.
Năm 2008, có cuốn sách Kỹ thuật nhận biết tiền thật tiền giả do TS. Phan
Văn Tính (chủ biên). Nội dung của sách chỉ đề cập thuần túy tới vấn đề kỹ thuật sản
xuất tiền giấy, hoàn toàn không bàn tới vấn đề mỹ thuật, văn hóa của tiền giấy.
Năm 2013, Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Tố Uyên, tiêu đề“Nghệ thuật
thiết kế mẫu tiền giấy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” chuyên ngành Lý luận và
Lịch sử mỹ thuật ứng dụng, bảo vệ tháng 12 năm 2013 tại Trƣờng Đại học Mỹ thuật
công nghiệp Hà Nội. Luận văn đƣợc trình bày với 104 trang, trong đó toàn bộ phần
nội dung có liên quan tới đề tài chủ yếu nằm trong chƣơng 2. Ở chƣơng này,
Nguyễn Thị Tố Uyên đã khái quát vấn đề lý thuyết của thiết kế tiền giấy nhƣ bố
cục, màu sắc, kỹ thuật trong 17 trang của phần đầu chƣơng này. Trong 25 trang của
phần sau, Nguyễn Thị Tố Uyên giới thiệu sơ bộ lịch sử ra đời của tiền giấy Việt
Nam từ năm 1945 tới nay với 8 hệ thống tiền khác nhau. Nhƣ vậy, nội dung mỗi bộ
tiền chỉ đƣợc đề cập từ lịch sử, phân loại tiền giấy Việt Nam và phần phân tích đặc
điểm trong khoảng 2,5 trang. NCS cho rằng dung lƣợng nhƣ vậy là ít và sơ lƣợc.
NCS nhận thấy, các nội dung đƣợc đề cập trong phần 2 đều đã đƣợc đề cập tới trong
các sách hoặc tài liệu ngành Ngân hàng xuất bản trƣớc đó và/hoặc xuất hiện trên các
trang thông tin điện tử. Luận văn chƣa đi vào phân tích sâu về mỹ thuật của bất kỳ
một đồng tiền nào để làm nổi bật lên vẻ đẹp văn hóa và giá trị nghệ thuật của nó.
Năm 2014, Luận văn thạc sỹ Mỹ thuật của Trần Tuấn Nam, chuyên ngành
Mỹ thuật tạo hình đƣợc bảo vệ tại Trƣờng Đại học mỹ thuật Việt Nam. Luận văn có
tên là Bố cục theo chủ đề trong trang trí tiền giấy Việt Nam từ 1946 đến 2006. Luận
văn có độ dài 66 trang, bao gồm 3 chƣơng. Nội dung chủ yếu của luận văn này là bố
cục và chủ đề của các đồng tiền giấy Việt Nam. Luận văn có đƣa ra một số vấn đề
11
về bố cục tiền giấy theo các chủ đề, tuy nhiên còn rất sơ lƣợc. Khảo sát các nội
dung đƣợc đề cập tới trong luận văn, NCS nhận thấy Trần Tuấn Nam đã ở liệt kê
mốt số dạng bố cục thƣờng thấy ở tiền giấy và mô tả các hình ảnh xuất hiện trong
các bộ tiền Việt Nam, không phân tích nguyên nhân, diễn biến tình hình kinh tế
chính trị, văn hóa mỹ thuật và công nghệ để dẫn tới cách thiết kế và bố cục đó. NCS
nhận thấy còn nhiều điểm sai sót về mặt thông tin chung, các phần phân tích bình
luận về bố cục, chủ đề đều thiếu các phân tích chính xác, cụ thể về mặt thiết kế, mỹ
thuật và chƣa nêu đƣợc tính đặc sắc về mỹ thuật của các dạng bố cục chủ đề.
2.3. Đánh giá chung kết quả nghiên cứu các công trình
Đánh giá chung các công trình liên quan tới đề tài, NCS nhận thấy các công
trình trên có những điểm chung nhƣ sau:
- Về đối tượng nghiên cứu: Ngoài các tài liệu kỹ thuật in ấn tiền giấy, các
công trình trên thƣờng có đối tƣợng chủ yếu là tiền xu hoặc cổ tiền gắn liền lịch sử
hình thành hoặc các sự kiện có liên quan tới các hệ thống tiền xu hoặc tiền giấy
(theo dạng hồi ký về sự kiện) chứ không đề cập tới giá trị nghệ thuật thiết kế của
tiền giấy Việt Nam. Một số tài liệu viết về tiền giấy (bao gồm cả hai luận văn thạc sĩ
đã kể ở trên) vẫn mang tính liệt kê sơ bộ về phƣơng pháp in ấn hoặc bố cục mà có ít
sự phân tích liên hệ tới nghệ thuật.
- Hướng tiếp cận nghiên cứu: Các bài viết thƣờng sử dụng phƣơng pháp tiếp
cận lịch sử. Các tài liệu hƣớng dẫn chuyên ngành thiết kế tiền giấy thì thuần túy
dùng phƣơng pháp tiếp cận của các ngành khoa học kỹ thuật. Các luận văn viết về
thiết kế tiền giấy của Nguyễn Thị Tố Uyên và Trần Tuấn Nam ít sử dụng phƣơng
pháp luận thiết kế hoặc lấy tiêu chí mỹ thuật để nghiên cứu. Nhƣ vậy hƣớng nghiên
cứu tiền giấy Việt Nam dƣới góc độ mỹ thuật chƣa đủ dung lƣợng cần thiết, thiếu
các phân tích bình luận về trang trí và mỹ thuật để làm rõ giá trị mỹ thuật của tiền
giấy Việt Nam. Đây chính là phần mà NCS sẽ thực hiện trong luận án này.
- Phần nội dung: Các công trình trên cho biết nhiều thông tin hữu ích liên
quan chủ yếu tới các vấn đề tiền cổ (tiền xu Việt Nam qua các triều đại) và một
phần về lịch sử phát hành tiền giấy ở Việt Nam. NCS cũng nhận thấy có thể học hỏi
12
nhiều từ các công trình nghiên cứu, nhà sƣu tầm về kiến thức tiền tệ và nghiên cứu
lịch sử thông qua tiền tệ.
NCS cũng kế thừa ở các chuyên gia thiết kế, các tài liệu kỹ thuật về thiết kế
tiền giấy những thông tin về cách trang trí, phƣơng pháp thiết kế tiền giấy trên thế
giới và coi đó nhƣ các luận cứ quan trọng trong đề tài của mình.
NCS nhận thấy trong lịch sử nghiên cứu các vấn đề liên quan tới mỹ thuật
trên tiền giấy Việt Nam, chƣa có tài liệu nào nêu đƣợc đặc trƣng của thẩm mỹ tiền
giấy Việt Nam, phân tích các hình thức trang trí trên tiền giấy Việt Nam cũng nhƣ
giá trị của mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Đây
chính là khoảng trống nghiên cứu.
NCS thực hiện hƣớng tìm riêng của mình là nghiên cứu về mỹ thuật trên tiền
giấy với các yếu tố nhƣ hình thức trang trí, để qua đó thấy đƣợc yếu tố văn hóa và
thẩm mỹ thời đại cũng nhƣ những đóng góp của mỹ thuật trên tiền giấy vào nền
nghệ thuật của nƣớc ta.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Mục đích tổng quát
Đề tài làm xác định đồ họa tiền giấy Việt Nam nhƣ một phần của lịch sử mỹ
thuật Việt Nam, làm sáng rõ nhận thức về giá trị mỹ thuật trên tiền giấy cũng nhƣ
các đóng góp của mỹ thuật trên tiền giấy vào nền mỹ thuật Việt Nam.
3.2. Mục đích cụ thể
- Làm rõ mỹ thuật trên tiền giấy nhƣ một dạng đồ họa độc đáo.
- Làm rõ yếu tố mỹ thuật của tiền giấy, nghiên cứu sự tồn tại của mỹ thuật
trên tiền giấy. Trong đó nhấn mạnh tới nghệ thuật trang trí cũng nhƣ việc sử dụng,
kế thừa mỹ thuật truyền thống trong thiết kế tiền giấy và nghiên cứu đặc trƣng đồ
họa độc đáo của tiền giấy là tạo bản mẫu bằng nét vẽ.
- Làm rõ những đặc điểm về mỹ thuật và hiệu quả thẩm mỹ bởi phƣơng pháp in
ấn độc đáo của tiền giấy Việt Nam.
13
- Nghiên cứu sự liên hệ giữa mỹ thuật trên tiền giấy và mỹ thuật Việt Nam,
sự chuyển biến trong phong cách mỹ thuật trên tiền giấy theo tiến trình lịch sử, bao
gồm các yếu tố nhƣ sử dụng hình tƣợng nghệ thuật, phong cách trang trí, đồ họa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tƣợng nghiên cứu là đặc trƣng của mỹ thuật trên tiền giấy Việt
Nam. Trong đó có các yếu tố nhƣ nghệ thuật sử dụng nét, nghệ thuật trang trí và
ứng dụng mỹ thuật truyền thống trong mỹ thuật tiền giấy Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi đƣợc giới hạn trong các hệ thống tiền giấy do nhà nƣớc Việt Nam
DCCH, nay là CHXHCN Việt Nam phát hành từ năm 1946 đến năm 2006 trên lãnh
thổ nƣớc Việt Nam.
Tuy nhiên, để làm rõ các vấn đề của đối tƣợng nghiên cứu, đề tài có liên hệ
tới các hệ thống tiền giấy đã từng phát hành tại Việt Nam nhƣ:
- Bộ tiền giấy lƣu thông tại Nam bộ (đƣợc gọi là Tiền Nam Bộ) và tín phiếu
Trung Bộ (liên khu V)…đƣợc phát hànhtrong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và
2 bộ tiền do UBTƢMTDTGP MNVN phát hành ở miền Nam trong giai đoạn kháng
chiến chống Mỹ và bộ tiền phát hành vào miền Nam sau ngày thống nhất 30/4/1975
(để thay thế tiền Ngân hàng Quốc gia do VNCH).
- Hệ thống tiền giấy của Ngân hàng Đông Dƣơng, hệ thống tiền do Ngân
hàng Quốc gia thuộc chính quyền VNCH phát hành tại Miền Nam trƣớc 30/4/1975.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Tiền giấy ra đời trong các bối cảnh xã
hội cụ thể, nhƣ tình hình kinh tế chính trị và sự ảnh hƣởng của văn hóa dân tộc. Vì
thế, việc nghiên cứu mỹ thuật trên tiền giấy cần phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
lịch sử, chính trị, văn hóa và mỹ thuật.
- Phương pháp khảo sát, đo đạc ghi chép: các tƣ liệu là hiện vật nhƣ tiền
giấy, bản in tiền bằng kẽm…Phƣơng pháp này cho phép NCS có đƣợc các số liệu
cần thiết đƣợc ghi chép đo đạc thực tế mà không nhất thiết phải dựa vào các nguồn
14
trích dẫn khác. Ngoài ra với kinh nghiệm và kiến thức trong nghề thiết kế tiền giấy,
NCS có thể phát hiện, phân tích và trình bày giá trị nghệ thuật của từng mẫu tiền,
từng phƣơng pháp in ấn cũng nhƣ giá trị thiết kế của cả hệ thống.
- Phương pháp so sánh: Luôn cần sử dụng phƣơng pháp so sánh để làm rõ
các giá trị nghệ thuật của tiền giấy Việt Nam cũng nhƣ nêu đƣợc sự biến chuyển của
mỹ thuật trên tiền giấy trong tiến trình lịch sử.
- Phương pháp khảo sát tham dự: NCS có hơn 10 năm làm việc tại Tổ họa,
sau đổi tên thành Phòng Thiết kế mẫu tiền, NHNN Việt Nam, trực tiếp tham gia
thiết kế nhiều mẫu ngân phiếu thanh toán và một số mệnh giá tiền polymer cũng
nhƣ tiền xu nên. Điều này cho phép NCS có điều kiện tiếp xúc với các cán bộ thiết
kế, công nhân xƣởng in cũng nhƣ các chuyên gia nƣớc ngoài, đồng thời có những
kiến thức cần thiết trong nghề thiết kế tiền giấy.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phƣơng pháp phỏng vấn sâu, phi cấu trúc hay
bán cấu trúc thƣờng đƣợc xem là phƣơng pháp định tính. Ở đề tài này, phƣơng pháp
phỏng vấn đƣợc NCS thực hiện đối với các nhà thiết kế tiền giấy, các nhà sƣu tầm
và một số cá nhân khác nhằm làm rõ các giá trị của tiền giấy Việt Nam nhƣ tính
nhận biết, vẻ đẹp và các giá trị văn hóa khác…
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Đối với ngành nghệ thuật nói chung
và mỹ thuật nói riêng, ngƣời ta thông qua việc phân tích một vài trƣờng hợp cụ thể
điển hình rồi hệ thống hóa, so sánh với các trƣờng hợp khác để tìm ra các nét tƣơng
đồng và khái quát hóa thành các bản chất chung của hiện tƣợng. Trong đề tài nghiên
cứu này, việc sử dụng nghiên cứu trƣờng hợp là hợp lý khi mà số lƣợng mẫu khảo
sát có tới hàng trăm mẫu.
6. Đóng góp của luận án
6.1. Những đóng góp về mặt khoa học
- Đề tài đóng góp vào hiểu biết chung của ngành lý luận lịch sử mỹ thuật về
một đối tƣợng nghiên cứu mới.
15
- Kết quả của đề tài sẽ xác định vị trí của mỹ thuật trên tiền giấy vào loại
nghệ thuật đồ họa đặc biệt. Đây là vấn đề hiện nay chƣa có tài liệu nào chứng minh
hoặc xác nhận mẫu tiền giấy là tác phẩm nghệ thuật.
- Kết quả của đề tài sẽ làm rõ ngôn ngữ mỹ thuật trên tiền giấy và giá trị của
nó trong nền mỹ thuật Việt Nam.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Việc làm rõ các giá trị mỹ thuật của tiền giấy Việt Nam góp phần vào nhận
thức chung của xã hội về sản phẩm quen thuộc với công chúng là tiền giấy.
- Qua việc nghiên cứu tính thẩm mỹ - văn hóa - dân tộc của tiền giấy, đƣa tiền
giấy thành một công cụ quảng bá hình ảnh quốc gia, làm cho ngƣời Việt Nam cũng
nhƣ ngƣời nƣớc ngoài quan tâm và trân trọng tiền giấy Việt Nam.
- Góp phần nâng cao nhận thức về mỹ thuật truyền thống và vai trò của hoa
văn dân tộc trong thiết kế tiền giấy.
7. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
7.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam là loại thể nào? Tiền giấy Việt Nam có
giá trị nghệ thuật hay không?
- Đặc trƣng của mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam nhƣ thế nào? Phong cách
mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam có sự thay đổi nhƣ thế nào?
- Ngôn ngữ mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam là gì, đóng góp gì trong lịch sử
mỹ thuật Việt Nam?
7.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Mỹ thuật trang trí trên tiền giấy Việt Nam có giá trị nghệ thuật đặc sắc, là
dạng đồ họa đặc biệt, thuộc loại hình mỹ thuật ứng dụng.
- Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam là sản phẩm kết hợp giá trị văn hóa, mỹ
thuật, trang trí truyền thống cùng với các yếu tố đặc trƣng cho ngôn ngữ đồ họa của
tiền giấy. Hoa văn dân tộc kết hợp hoa văn lƣới, hình ảnh chủ đề và chân dung Chủ
tịch Hồ Chí Minh là các thành tố chủ yếu tạo nên diện mạo của tiền giấy Việt Nam.
16
- Cùng dòng chảy lịch sử mỹ thuật Việt Nam, mỹ thuật trên tiền giấy cũng có
nhƣng biến đổi phong cách qua các giai đoạn lịch sử.
- Với ngôn ngữ đồ họa nét và cách trang trí độc đáo, mỹ thuật trên tiền giấy
Việt Nam có vị trí nhất định trong tiến trình phát triển của mỹ thuật Việt Nam.
8. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu (9 trang), kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo (10
trang), phụ lục (75 trang), nội dung của đề tài đƣợc chia thành 3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và tổng quan các vấn đề có liên quan tới luận án (37 trang)
- Chƣơng 2: Nhận diện yếu tố mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam (43 trang)
- Chƣơng 3: Đặc trƣng nghệ thuật và sự biến đổi của phong cách mỹ thuật trên
tiền giấy Việt Nam (57 trang)
17
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ
CÓ LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN
1.1. Cơ sở lý luận để nghiên cứu luận án
1.1.1. Cơ sở lý thuyết
Trên thế giới đã tồn tại thuật ngữ The Art of Money (Nghệ thuật tiền giấy),
trong đó đề cập tới các chủ đề trong tiền giấy cũng nhƣ cách in ấn. Tuy nhiên,
những tài liệu coi tiền giấy nhƣ một thực thể mỹ thuật thì chƣa nhiều. Cuốn sách
đáng chú ý nhất hiện nay là cuốn The Art of Money của David Standish viết năm
2000 cũng chƣa đi vào nghiên cứu lý luận tiền giấy và chƣa thực sự phân tích tiền
giấy nhƣ thực thể mỹ thuật mà chỉ dừng lại ở việc giới thiệu lịch sử tiền giấy và các
chủ đề cơ bản cũng nhƣ một số hình ảnh tiền giấy tiêu biểu trên thế giới [134].
Đề cập đến chức năng của tiền tệ nói chung và tiền giấy nói riêng, hầu hết
chúng ta đều thống nhất với nhau ở 3 chức năng cơ bản là: Phƣơng tiện trao đổi,
thƣớc đo giá trị và cất trữ giá trị [38, tr.9]. Tuy nhiên, tiền giấy còn là sản phẩm do
con ngƣời tạo ra và ghi dấu các giá trị về văn hóa và thẩm mỹ trên đó. Nhƣ vậy, tiền
giấy có thể đƣợc xem xét dƣới góc độ là sản phẩm của nghệ thuật tạo hình. Việc
này tạo cơ sở để đề tài nghiên cứu đi đúng hƣớng và điều kiện tiên quyết để các
điểm mới khác đƣợc tồn tại. Việc biện luận cho quan điểm này đƣợc thực hiện trên
cả cơ sở lý thuyết và thực tiễn.
Theo quan điểm về phân loại các loại hình nghệ thuật của M. Cagan đƣợc
trình bày trong cuốn Hình thái học của nghệ thuật, nghệ thuật có thể chia thành
nghệ thuật hai chức năng (nghệ thuật và vụ lợi) và nghệ thuật một chức năng (nghệ
thuật thuần túy) [67, tr.431]. Ông cho rằng: “Trong quá trình phát triển lịch sử của
nghệ thuật, do ảnh hƣởng của những nhân tố khác nhau, đan chéo nhau, đã bắt đầu
diễn ra ngày càng tích cực hơn “phản ứng phân rã” của những phức thể nghệ thuật
tổng hợp cổ xƣa nhất là nghệ thuật văn nghệ và nghệ thuật kỹ thuật” [67, tr.431].
Theo sơ đồ phân loại nghệ thuật tại bảng số 25 của cuốn sách, ta có thể khái quát
vấn đề nhƣ sau: Khởi đầu từ nghệ thuật nguyên thủy, phân loại thành nghệ thuật có
18
xu hƣớng “kỹ thuật phức tạp” và “văn nghệ phức tạp”, từ nghệ thuật có xu hƣớng
kỹ thuật phức tạp, theo nhánh phân hóa “sản xuất nghệ thuật” mà trở thành có 2 loại
là “Sáng tạo theo kiến trúc” và “sáng tạo theo miêu tả”, từ nhóm sáng tạo theo kiến
trúc cùng với môi trƣờng tồn tại và sự phát triển của khoa học mà tạo thành các thể
nghệ thuật có tính kiến trúc, trong đó có “nghệ thuật ứng dụng”[67, tr.324]. Nhƣ
vậy, ta có thể rút ra quan điểm là thiết kế đồ họa in ấn là chuyên ngành của mỹ
thuật, thiết kế tiền giấy cũng sử dụng các phƣơng pháp của thiết kế đồ họa in ấn
nhƣng ở tầm mức cao hơn với việc thiết kế cho nhiều phƣơng pháp in ấn khác nhau.
Tờ tiền lƣu lại các hình ảnh, hoa văn họa tiết và ngôn ngữ của mỹ thuật nên bản
thân nó là sản phẩm mỹ thuật.
Nhà nghiên cứu tiền giấy nổi tiếng thế giới Hans de Heij không chỉ cho là
Thiết kế tiền giấy là chuyên ngành của Thiết kế đồ họa in ấn, mà ông còn coi đó là
“is a specific of graphic design” (dạng đặc biệt của Thiết kế đồ họa) [137, tr.9].
Theo ông, nhà thiết kế tiền cần thông thạo 37 yếu tố cấu thành của tiền giấy [137,
tr.62] cùng với sự hiểu biết về đặc tính kỹ thuật của giấy in tiền, của các yếu tố
chống giả, kỹ thuật của nhiều phƣơng pháp in ấn khác nhau. Nhƣ vậy, nhà thiết kế
mẫu tiền hoàn toàn khác biệt so với nhà thiết kế đồ họa in ấn thông thƣờng, hoạt
động thiết kế tiền cũng hoàn toàn khác biệt so với hoạt động thiết kế đồ họa in ấn.
Sự khác biệt này thể hiện ở tính tầm mức, trình độ của hoạt động thiết kế. Nếu việc
thiết kế đồ họa in ấn chỉ thiết kế cho 1 phƣơng pháp in thì thiết kế mẫu tiền tích hợp
trong đó nhiều công nghệ in ấn khác nhau. Ngƣợc lại, nếu đồ họa in ấn có muôn
hình cách thể hiện thì tiền giấy chỉ có cấu trúc hình thức khá cố định với 3 yếu tố
chính là (1) hoa văn họa tiết trang trí, (2) nội dung hình ảnh chủ đề và (3) chân dung
cách nhân vật lịch sử. Với đối tƣợng sử dụng lớn, số lƣợng bản in cực lớn và thời
gian sử dụng lâu dài, tiền giấy là sản phẩm đồ họa đặc biệt mà theo M. Cagan, việc
phát triển của nghệ thuật ứng dụng luôn song hành cùng sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật [67, tr.324].
Ngày 12 tháng 2 năm 1996, Viện nghiên cứu Tiền tệ Châu Âu đã đƣa ra các
tiêu chí cho việc thiết kế đồng tiền châu Âu trong Phụ lục phần 1 trong văn bản
19
“Chỉ dẫn thiết kế cho hệ thống tiền giấy Châu Âu” (Annex, Part 1, Design brief for
the design of a series of Euro Banknotes). Với cơ sở này, Viện nghiên cứu tiền tệ
châu Âu đã tổ chức cuộc thi thiết kế tiền giấy cho châu Âu vào năm 1995 và tổ chức
lựa chọn mẫu thiết kế vào năm 1996. Văn bản này có các nội dung chính nhƣ sau:
- Về tiêu chí chính cho thiết kế tiền giấy, đƣợc đề cập ngay ở phần đầu của
tài liệu này. Nội dung của các tiêu chí đánh giá cho tiền giấy là: “Viện tiền tệ Châu
Âu mong muốn tổ chức cuộc thi thiết kế bộ tiền giấy thể hiện di sản văn hóa Châu
Âu [135, tr.1]. Việc thiết kế hệ thống tiền giấy mới sẽ là sự liên hệ, hợp thành giữa
yếu tố bảo an và tính nghệ thuật. Các tiêu chí đƣợc đặt ra là: Dễ dàng nhận biết; khả
năng bảo an chống làm giả; có thẩm mỹ hấp dẫn.
- Về tính thẩm mỹ và văn hóa của tiền giấy, có yêu cầu đối với mẫu thiết kế:
“Mẫu thiết kế tiền giấy cần rõ ràng và đặc trƣng của Châu Âu cũng nhƣ nên thể hiện
rõ ràng văn hóa và các thông điệp chính trị đƣợc công dân Châu Âu chấp nhận”
đồng thời xác định “để có thể đạt đƣợc sự cân bằng giữa yêu cầu kỹ thuật và thẩm
mỹ, bản chỉ dẫn thiết kế này nhắm tới việc mô tả các yếu tố cần thiết của thiết kế
trong khi vẫn bảo đảm cho nhà thiết kế sự tự do tối đa” [135, tr.1].
- Về chân dung trên tiền giấy: Các chân dung nên xuất hiện ở mặt trƣớc
(mặt A) của tờ tiền và đƣợc in lõm, “cả hai mắt cần đƣợc nhìn thấy trên chân dung”.
- Về các yếu tố chống giả: Sự quan hệ giữa vị trí và kích thƣớc các yếu tố
chống giả cần thống nhất trong tất cả các mệnh giá. Yếu tố chống giả cho nhận biết
của công chúng không nên tập trung ở một vùng duy nhất mà nên bố trí phân tán
trên toàn bộ bề mặt tờ tiền. Nó nên là một bộ phận của thiết kế chung và nên dễ
dàng nhận biết. Vị trí và kích thƣớc của bóng chìm cũng nhƣ foil chống giả đƣợc
chỉ dẫn trên bản thiết kế.
- Về màu sắc chủ đạo của tiền giấy: Trong phụ lục 3, Viện Nghiên cứu tiền
tệ châu Âu đã đƣa ra những quy định về màu sắc nhƣ sau: “Để dễ dàng phân biệt
tiền giấy châu Âu cho mỗi mệnh giá cần có màu sắc chủ đạo riêng biệt”[135, tr.7].
Màu sắc của các mệnh giá khác nhau đƣợc gợi ý sử dụng nhằm phân biệt đƣợc tốt
nhất. Vì thế, mỗi một mệnh giá của tiền giấy Euro đều đƣợc nhận biết trên cơ sở của
20
một màu sắc chủ đạo của cả hai mặt tờ tiền, “màu của phần in lõm không nên quá
sáng hoặc quá nhạt”. Sự lựa chọn màu sắc đặc trƣng cho các mệnh giá khác nhau
thể hiện sự cần thiết trong quan điểm về bảo an.
- Về các hình tượng nghệ thuật: Tiền giấy Euro sử dụng hình tƣợng Cổng ở
mặt trƣớc mà hình tƣợng Cầu ở mặt sau. Các công trình kiến trúc này phải mang
phong cách đặc trƣng cho kiến trúc châu Âu ở mỗi thời kỳ. Các hình tƣợng trên có
ý nghĩa biểu tƣợng và văn hóa đặc trƣng của châu Âu. Cái cổng là sự chào đón và
hình tƣợng Cái cầu là sự liên hệ giao lƣu giữa các nƣớc, các nền văn hóa để mở ra
thời đại mới. So sánh thực tế hình tƣợng trong hệ thống tiền giấy châu Âu với bộ
tiêu chí thiết kế đƣa ra ban đầu, ta thấy rằng nhà thiết kế và hội đồng chấm chọn đã
tuân thủ nghiêm ngặt các quy định.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Tuy chƣa có những nghiên cứu về mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam nhƣng
tiền giấy Việt Nam đã đƣợc xuất hiện trong dạng tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và đã
đƣợc một số nhà nghiên cứu nhắc tới.
Năm 2002, trong Kỷ yếu hội thảo Đồ họa ứng dụng, ông Vũ Đình Nhâm,
trong đề cƣơng Hội thảo đồ họa ứng dụng Việt Nam đã đề cập tới Giấy bạc nhƣ một
đối tƣợng nghiên cứu của đồ họa ứng dụng [85, tr.8]. Cũng trong hội thảo này, họa
sĩ Lê Huy Tiếp trong bài “Một số khái niệm về các thể loại của nghệ thuật đồ họa”
đã nhắc tới tiền giấy nhƣ một sản phẩm của đồ họa ứng dụng: “Ngày nay nếu chúng
ta ngoảnh lại xem tất cả đồ dùng hàng ngày từ bao diêm, tem thƣ, giấy bạc, đến
sách vở, báo chí, biển giao thông, nhãn máy vv…Ta đều thấy chúng là sản phẩm
nghệ thuật đồ họa” [85, tr.79].
Nhà nghiên cứu Lê Thị Hoài Linh trong bài Đồ họa ứng dụng trước thiên
niên kỷ mới – Một cơ hội phát triển mới đã nhắc tới việc “Năm 1396, Hồ Quý Ly
cho in tiền giấy vẽ tứ linh (rồng, phƣợng, lân, rùa), mây sóng. Để có đƣợc lƣợng
tiền lớn, có thể phải dùng ván khắc in theo kỹ thuật đồ họa” [85, tr.81]. Tiếp đó, tác
giả có đề cập tới vẽ tiền nhƣ “một thể loại thuộc lĩnh vực đồ họa ứng dụng” và đƣợc
xếp ngang hàng với vẽ tranh cổ động, tranh truyện thiếu nhi, vẽ tem… Dù chƣa
21
chứng minh đƣợc sự tồn tại của tiền giấy nhƣ một thể loại của thiết kế đồ họa in ấn
nhƣng Lê Thị Hoài Linh đã có xu hƣớng liên hệ giữa tiền giấy và đồ họa in ấn.
Cùng quan điểm này, tác giả Hoàng Minh Phúc trong cuốn Đồ họa in khắc gỗ hiện
đại Việt Nam cho rằng tiền giấy thời nhà Hồ cũng là sản phẩm của đồ họa in ấn, và
giai đoạn này nghề in khắc đã phổ biến, có nhiều ngƣời có khả năng khắc những
hoa văn chi tiết và tinh xảo trên tiền giấy [92, tr.29, 30]. Luận văn thạc sỹ mỹ thuật
ứng dụng của Nguyễn Thị Tố Uyên tại trƣờng Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà
Nội [115] và luận văn thạc sỹ mỹ thuật của Trần Tuấn Nam tại Trƣờng Đại học Mỹ
thuật Việt Nam [69] đều có đối tƣợng nghiên cứu liên quan tới tiền giấy.
Nhƣ vậy dù ít hay nhiều các họa sỹ, nhà nghiên cứu mỹ thuật đều coi tiền
giấy là sản phẩm đồ họa in ấn. Trong lĩnh vực thiết kế tiền giấy, giấy bạc đƣợc tạo
ra theo một quy trình với các công đoạn có sự giúp đỡ của máy tính và máy in màu
nhằm tạo ra một mẫu thiết kế (dạng ma-ket). Sau đó qua một tiến trình chế bản
phức tạp và khâu cuối cùng để tạo ra hàng loạt các sản phẩm là công nghệ in ấn. So
với quan điểm của nhà nghiên cứu mỹ thuật E.V.Cher-me-vit “tạo ra một bản mẫu
rồi dùng công nghệ nhân lên hàng loạt bằng bất kỳ phƣơng tiện truyền thông”, hoạt
động sản xuất tiền giấy gắn liền với công nghệ in ấn, vì vậy ta có thể xếp việc thiết
kế tiền giấy là thiết kế đồ họa in ấn.
Tại Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc lần thứ hai (2009) tại Hà Nội,
họa sĩ Lê Hoàng Từ (họa sĩ thiết kế mẫu tiền, NHNN Việt Nam hiện ở tại 17 phố
Hàng Ngang- Hà Nội) có trƣng bày bức vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng
nét, phỏng theo bức chân dung Bác trên tờ 10.000 đ tiền giấy phát hành năm 1990.
Tại Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng Toàn quốc lần thứ ba (2014) diễn ra tại
Hà Nội, bản thân NCS đã trƣng bày hai tác phẩm là bản thiết kế mẫu tiền đƣợc
phóng to đi kèm các chú thích về thiết kế và ý tƣởng trên khuôn khổ 60 x 90cm.
Đó là bản in mặt sau của tiền polymer mệnh giá 500.000đ và cả hai mặt của tiền
polymer mệnh giá 10.000đ. Để có thể đƣợc tham gia trƣng bày, theo yêu cầu của
Ban tổ chức về bản quyền tác giả, NCS đã phải cung cấp cho đơn vị tổ chức bản
xác nhận các tác giả thiết kế mẫu tiền do Cục Phát hành Kho quỹ- NHNN Việt
22
Nam cấp. Việc gửi các mẫu tiền tham gia triển lãm mỹ thuật vừa là việc làm khẳng
định các thành tựu mỹ thuật trên tiền giấy, vừa góp phần vào làm phong phú các
hoạt động mỹ thuật của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử mỹ thuật Việt
Nam, tiền giấy đã đƣợc trƣng bày trân trọng trong Triển lãm quốc gia.
Với hình thức là sản phẩm mỹ thuật đƣợc thực hiện bằng in ấn, dựa trên cơ
sở của lý thuyết Hình thái học nghệ thuật của M.Cagan cũng nhƣ các quan điểm lý
luận của các nhà nghiên cứu khác và cơ sở thực tiễn, tiền giấy Việt Nam là sản
phẩm đồ họa đặc biệt của mỹ thuật Việt Nam. Mặt khác, những lý thuyết cơ bản của
Viện nghiên cứu Tiền tệ châu Âu đƣa ra nhằm thiết kế đồng Euro nhƣ tính thẩm mỹ
và văn hóa, màu sắc, chân dung hoặc các yếu tố kỹ thuật trên tiền giấy là phù hợp
với nghiên cứu mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam.
1.1.3. Sơ lược lịch sử tiền giấy
Tiền tệ ra đời và phát triển cùng với nền kinh tế và gắn chặt với kinh tế hàng
hóa. Nhiều quan điểm đồng ý rằng “tiền tệ là phạm trù kinh tế, đồng thời cũng là
phạm trù lịch sử” [114, tr.8], bên cạnh bản chất kinh tế, tiền tệ có có bản chất lịch
sử và văn hóa. Tính đến đầu thập kỷ này thì trên thế giới có khoảng 170 loại tiền
của khoảng hơn 180 nƣớc và vùng lãnh thổ khác nhau. Trong khu vực đồng tiền
chung Châu Âu, có 18 nƣớc đã sử dụng chung đồng tiền EURO. Đồng Đô-la Mỹ là
đồng tiền có khả năng chuyển đổi lớn nhất trên thế giới và có hình thức ổn định,
tính nhận biết cao. Một số tên gọi của đồng tiền các nƣớc sử dụng chung nhƣ đô-la
(dollar) và gắn với tên nƣớc phát hành đƣợc nhiều nƣớc sử dụng, ví dụ nhƣ Đô-la
Mỹ, Đô-la Singapore, Đô-la Hồng Kông, Đô-la Úc…Tên gọi Pê-sô đƣợc sử dụng
nhiều ở Tây Ban Nha, cùng các nƣớc khu vực Mỹ La tinh (là thuộc địa trƣớc đây
của Tây Ban Nha), tên gọi Phơ-răng (Franc) đƣợc dùng ở Thụy sĩ, Pháp (trƣớc khi
châu Âu sử dụng đồng tiền chung EURO)…
Trên thế giới tồn tại các dạng chính là tiền kim loại, tiền giấy và thẻ thanh
toán. Dạng tiền nhựa chƣa trở thành phƣơng tiện thanh toán phổ thông nên thực tế
chất liệu đƣợc sử dụng là kim loại và giấy. Trong tiền kim loại hiện nay có các chất
liệu nhƣ đồng, sắt mạ ni-ken, nhôm…còn tiền giấy chủ yếu có hai chất liệu chính là
23
giấy cotton và giấy polymer. Việt Nam là nƣớc sử dụng cả hai chất liệu kim loại và
giấy, tuy nhiên tiền kim loại đƣợc phát hành từ 2003 nhƣng không đƣợc hƣởng ứng
trong tiêu dùng nên NHNN Việt Nam đã dừng phát hành thêm.
Thời sơ sử, các dạng tiền tệ đã từng xuất hiện cổ nhất là dạng vật chất hiếm
có sự tạo tác, gia công của con ngƣời nhƣ vỏ ốc, tảng đá, chuỗi hạt…Ở một số hòn
đảo tại Thái Bình Dƣơng, ngƣời ta đã phát hiện ra dạng tiền tệ với hình dáng đặc
biệt là những đĩa đá hay cuộn lông dài tới hàng chục mét dùng để thanh toán và giải
quyết các tranh chấp xã hội. Đĩa lớn nhất có đƣờng kính tới 4mét [52, tr.8, 10]. Joe
Cribb, nhà sáng lập nên phòng Tiền kim loại Keeper ở Bảo tàng Anh (2003-2010)
và chủ tịch Hội tiền cổ Hoàng gia (2004-2009) là tác giả của rất nhiều sách về lịch
sử tiền tệ thế giới cùng với Catherine Eagleton và Jonathan Williams cũng nhƣ
nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tiền tệ khác đã cho rằng một dạng tiền cổ xƣa nhất
bằng kim loại đã xuất hiện ở Mesopotamia (nằm ở khu vực Lƣỡng Hà, Trung Đông)
và Ai Cập khoảng 3000 năm trƣớc công nguyên [52, tr.4,5], [132, tr.16]. Các văn
bia này ghi lại việc ngƣời ta thanh toán với nhau bằng bạc, ngƣời ta đã dùng đến cân
để xác định lƣợng bạc. Có lẽ chính vì thế, để thuận tiện hơn, ngƣời ta đã tạo ra các
đồng xu bằng kim loại mà giá trị của nó đƣợc xác định bởi trọng lƣợng của khối
kim loại ấy. Trong cuốn The Arts of Money, tác giả David Standish đã đề cập tới
nghiên cứu dài 800 trang của Glyn Davies tại cuốn Lịch sử tiền tệ về các dạng trao
đổi có yếu tố tiền tệ của thời cổ xƣa nhƣ chiếu, hổ phách, ngọc, trứng, cái cồng, ngà
voi, cái cuốc, thạch anh, vòng đồng, rƣợu vodka, da thú, cuộn sợi, bơ và trứng cá
[134, tr.13], [PL-MH 1.1]. Joe Cribb cũng cho rằng những đồng tiền kim loại đầu
tiên đƣợc tìm thấy ở Vƣơng quốc Lidia (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) vào thế kỷ VII
trƣớc công nguyên với hình dạng là đồng kim loại đƣợc đóng dấu [52, tr.12].
Tại Trung Quốc, lịch sử tiền tệ đƣợc ghi chép khá cụ thể dƣới dạng văn khố
và trải qua thời kỳ lịch sử rất dài. Từ thời nhà Hạ có dạng tiền vỏ ốc, thời nhà Chu,
chiến quốc có dạng hình lƣỡi đao (còn gọi là Đao Tiền), hay bố tiền (hình lƣỡi
thuổng), hoàn tiền (hình tròn, lỗ tròn)… Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy
24
Hoàng cấm dùng các đồng tiền thời trƣớc và đƣa ra đồng tiền Bán lạng (hình tròn,
lỗ vuông) tƣợng trƣng cho Trời và Đất [24, tr.14].
Ở Việt Nam, dạng đƣợc cho là có bản chất tiền tệ đầu tiên đƣợc phát hiện
trong Văn hóa Phùng Nguyên, là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ
đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm. Các nhà
nghiên cứu của NHNN Việt Nam đã cho rằng, tiền tệ ở thời kỳ này xuất hiện nhƣ
dạng chuỗi ốc biển, chuỗi hạt bằng đá [75, tr.6]. Đến đầu thiên niên kỷ thứ nhất, các
dạng tiền tệ bằng kim loại đã xuất hiện ở Việt Nam. Đồng tiền xu đƣợc xác định là
đồng tiền đầu tiên của Việt Nam xuất hiện ở thời nhà Đinh là đồng Thái Bình Hƣng
Bảo, đƣợc Đinh Tiên Hoàng cho đúc khoảng năm 970 [24, tr.15], [PL-MH 1.2].
Các đồng tiền kim loại ở Việt Nam đƣợc phát hành trong suốt thời kỳ phong
kiến. Các triều đình phong kiến Việt Nam thƣờng tạo dấu ấn lịch sử và kinh tế qua
việc phát hành tiền nên xuất hiện nhiều loại tiền xu trong một triều đại. Dƣới thời
nhà Hồ (1400-1407), ngoài việc phát hành tiền giấy Thông Bảo Hội Sao, Hồ Quý
Ly còn phát hành đồng Thánh Nguyên Thông Bảo, thời Hồ Hán Thƣơng phát hành
đồng Thiệu Thành (1401-1402) và Khai Đại (1403 – 1407) [89, tr.63,65]. Ngoài
việc triều đình phát hành tiền đồng, ở nƣớc ta còn xuất hiện các tiền xu của các nhà
buôn lớn nhƣ đồng tiền Vạn Lịch hoặc tiền của Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ đúc ở thời
nhà Lê ở Hà Tiên (lúc này Chúa Nguyễn trị vì ở đàng trong). Về tiền của Mạc Cửu và
Mạc Thiên Tứ, sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn còn chép rằng “Họ Mạc đúc tiền
gián nhỏ, có hai chữ Thái Bình, An Pháp…” [24, tr.36]. Ngoài ra còn có dạng tiền
thƣởng cho các ngƣời có công [PL-MH 1.3].
Ngày nay các đồng tiền này trở thành hiện vật vô cùng quý hiếm, đƣợc các nhà
sƣu tầm và bảo tàng trân trọng bởi giá trị lịch sử và vẻ đẹp của nghệ thuật chế tác.
Ngƣời ta cho rằng dạng tiền giấy xuất hiện đầu tiên tại Trung Quốc. Từ thế
kỷ X, triều đình nhà Bắc Tống đã phát hành các đồng xu bằng sắt khá nặng nhƣng
lại không có giá trị tiêu dùng cao. Vì thế các cửa tiệm đã để lại tiền kim loại và trao
đổi với nhau bằng các văn tự viết tay có thể đổi ra tiền. Đầu thế kỷ XI, triều đình
nhận thấy cần thâu tóm các văn tự này nên đã cho khắc in các văn tự có thể đƣợc sử
25
dụng chính thức. Tiếp đến, các văn tự này đƣợc ghi rõ mệnh giá để dễ dàng quy đổi
sang hàng hóa hoặc tiền kim loại. Hiện nay không còn các bản gốc về loại văn tự
này nên không thể suy xét về tính chất tiền giấy của nó.
Đồng tiền giấy đầu tiên trên thế giới đƣợc phát hiện ở Trung Quốc, thời nhà
Minh khoảng năm 1380. Đây là tờ giấy rộng 222mm, dài 333 cm, đƣợc khắc gỗ in
nổi văn tự ghi giá trị tiền tƣơng đƣơng 1000 đồng xu, trên đó có hình 8 quan tiền
đồng [152, tr.9]. Tuy nhiên, những tờ văn tự này có tính chất giống tờ ngân phiếu
hơn là tiền mặt vì giá trị của nó quá lớn. Một tờ có trị giá tƣơng đƣơng với 1000 đ,
tính quy đổi sang lƣợng tiền kim loại nặng khoảng 3,5kg [52, tr.17], [PL-MH 1.4].
Tại châu Âu, năm 1661, xuất hiện đồng tiền giấy đầu tiên do Ngân hàng
Thụy Điển phát hành với mệnh giá 100 Daler. Vào cuối thế kỷ XVII, tiền giấy đƣợc
phát hành tại Anh. Ngƣời ta còn lƣu lại đồng tiền ghi năm phát hành là 1723, có
mệnh giá tính theo tiền của Scotland (12 bảng Scotland tƣơng đƣơng 1 bảng Anh).
Tại Pháp, nhà tài chính nổi tiếng ngƣời Scotland là John Law đã đƣợc vua Pháp cho
phát hành tại Paris những đồng tiền giấy từ năm 1718. Về phía Giáo hội Thiên Chúa
giáo, ngân hàng Holy Spirit đƣợc Giáo Hoàng Paul V thành lập ở Roma năm 1605.
Đây là ngân hàng đầu tiên của Châu Âu. Đến năm 1786, ngân hàng này phát hành
tiền giấy dƣới thời trị vì của Giáo hoàng Pius VI [PL-MH 1.5]. Đồng tiền của Nga
hoàng phát hành đầu thế kỷ XX có kích thƣớc rất lớn, trang trí, in ấn công phu [PL-
MH 1.6]. Anh là quốc gia có đồng tiền đƣợc ra đời khá sớm ở châu Âu và có giá trị
ổn định cao. Đồng tiền 1 bảng có thiết kế rất cầu kỳ và trang nhã, tạo đƣợc các
chuẩn mực của tiền giấy [PL-MH 1.7].
Tại Mỹ, khi nƣớc Anh không đủ tiềm lực để vận chuyển bằng đƣờng biển
sang Mỹ những đồng tiền kim loại, dựa trên kinh nghiệm đã thực hiện ở châu Âu về
phát hành tiền giấy, chính phủ Anh đã cho phát hành ở thuộc địa của mình tại Bắc
Mỹ tiền giấy (bill) [52, tr.18, 19].
Tại Việt Nam, lịch sử đã ghi lại việc phát hành tiền giấy thời nhà Hồ với tiền
giấy Thông Bảo Hội Sao. Theo sử sách ghi lại, những đồng tiền giấy này đƣợc phát
hành năm 1396, dƣới thời nhà Trần do Nhập nội hành khiển tả ty Vƣơng Nhữ Chu
26
thực hiện dƣới chỉ đạo của Hồ Quý Ly lúc đó đang giữ chức Nhập nội phụ chính,
Thái sƣ, Bình chƣơng quân quốc trọng sự, Tuyên trung vệ quốc Đại vƣơng [46,
tr.215]. Sau đó gần 500 năm, dƣới sự xâm chiếm của Pháp, Ngân hàng Đông
Dƣơng phát hành những đồng tiền giấy trên lãnh thổ Việt Nam, mở đầu cho một
giai đoạn tiền giấy của nhiều thể chế trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, tiền giấy
Việt Nam có 2 loại chính là tiền giấy cotton (các mệnh giá 100đ, 200đ, 500đ,
1000đ, 2000đ, 5.000đ) và tiền polymer (mệnh giá 10.000đ, 20.000đ, 50.000đ,
100.000đ, 200.000đ, 500.000đ). Đồng tiền mệnh giá 500.000đ đang là đồng có giá
trị lớn nhất trong hệ thống tiền tệ Việt Nam do họa sĩ Trần Tiến thiết kế mặt trƣớc,
Hồ Trọng Minh (tác giả luận án) thiết kế mặt sau.
1.2. Khái niệm thuật ngữ
1.2.1. Nhóm khái niệm thuật ngữ liên quan tới tiền giấy
- Tiền giấy: Theo Luật NHNN Việt Nam đƣợc Quốc hội nƣớc CHXHCN
Việt Nam thông qua, quy định tại điều 4 mục 8 về “Nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân
hàng Nhà nƣớc”, thì NHNN Việt Nam có nhiệm vụ “Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận
chuyển tiền giấy, tiền kim loại; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và
tiêu huỷ tiền giấy, tiền kim loại”. Tiền giấy và tiền kim loại do NHNN Việt Nam
phát hành là đồng tiền pháp định, đƣợc dùng làm phƣơng tiện thanh toán không hạn
chế trên lãnh thổ Việt Nam” [98]. Hiến pháp nƣớc CHXHCN Việt Nam quy định tại
mục 4, điều 55: “Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nƣớc bảo đảm ổn
định giá trị đồng tiền quốc gia” [99].
Nhƣ vậy, khái niệm tiền giấy Việt Nam đƣợc xác định là giấy bạc đƣợc in
trên các chất liệu giấy (nhằm phân biệt với tiền kim loại) do Chính phủ nƣớc
CHXHCN Việt Nam (trƣớc đây là Việt Nam DCCH) phát hành và đƣợc sử dụng
trên lãnh thổ Việt Nam.
Vì đối tƣợng của luật là NHNN Việt Nam, phạm vi điều chỉnh là tiền giấy do
đại diện của chính phủ Việt Nam (NHNN) phát hành nên khái niệm tiền giấy Việt
Nam không bao gồm những đồng tiền giấy đã đƣợc phát hành trên lãnh thổ Việt
Nam nhƣ giấy bạc do Ngân hàng Đông Dƣơng phát hành; tiền giấy do chính phủ
27
Việt Nam Cộng hòa (VNCH) phát hành phía Nam vĩ tuyến 17 (từ năm 1955 đến
1975) và các hệ thống tiền giấy do quân đội các nƣớc khác sử dụng khi có mặt ở
nƣớc ta trong giai đoạn trƣớc 1975. Tuy nhiên trong luận án có liên hệ và phân tích
một số loại tiền trên để làm sáng tỏ thêm các luận điểm.
- Tiền cổ/ cổ tiền: Các cuốn sách viết về tiền cổ Việt Nam nhƣ cuốn Tiền cổ
Việt Nam của Đỗ Văn Ninh, Lịch sử tiền tệ Việt Nam của Nguyễn Anh Huy và các
nghiên cứu khác đều đề cập tới tiền kim loại đƣợc phát hành bởi các triều đại phong
kiến nƣớc ta cho, từ thời Đinh tới thời Nguyễn mà không hề có tiền giấy hoặc tiền
kim loại của chính phủ Việt Nam DCCH phát hành từ sau 1945. Thuật ngữ này mang
tính chuyên môn của giới nghiên cứu sƣu tầm tiền cổ, chứ không hoàn toàn nằm
trong khung khái niệm về cổ vật nhƣ trong mục 6 điều 4 của Luật Di sản văn hóa.
- Hệ thống tiền: Là nhiều mẫu tiền đƣợc phát hành của một chủ thể nhất
định, thành 1 hoặc nhiều đợt, với quy định về giá trị, mệnh giá và các quy định
nghiệp vụ phát hành tiền. Trong hệ thống tiền có thể có 1 hoặc nhiều bộ tiền, vó thể
bao gồm cả tiền giấy và tiền kim loại. Ví dụ: Trong hệ thống tiền 1985 có bộ tiền
xu, bộ tiền giấy, bộ tiền polymer …
- Bộ tiền: Là 1 bộ phận trong hệ thống tiền, đƣợc nhận biết với chất liệu hoặc
mốc thời gian xác định cụ thể; các mẫu trong bộ tiền có nhiều điểm chung về nội
dung và hình thức cũng nhƣ có các tiêu chuẩn kỹ thuật. Với cách tiếp cận nghệ
thuật, khái niệm “Bộ tiền” đƣợc sử dụng khi muốn nhấn mạnh tính tổng thể, coi đó
nhƣ một bộ tranh, nhóm tƣợng, bộ sƣu tập…Các tờ tiền trong bộ tiền là các tác
phẩm riêng lẻ, độc lập. Tại luận án này, thuật ngữ bộ tiền nhằm để chỉ bộ tiền in
trên giấy và polymer.
- Thiết kế tiền giấy: Mẫu thiết kế đồng tiền là bản vẽ mẫu tiền, gồm: Mẫu
nghiên cứu, mẫu dự phòng và mẫu tiền mới để phát hành vào lƣu thông [79].
Do sản phẩm đầu ra của công đoạn thiết kế tiền giấy mang nhiều yếu tố mỹ
thuật và đƣợc tạo mẫu bởi họa sĩ với công cụ là bút lông, bút chì và màu nên ngƣời
ta còn gọi là vẽ tiền. Việc thiết kế mẫu tiền chính là hoạt động sáng tạo của một
ngƣời/một nhóm ngƣời nhằm tạo ra bản vẽ mẫu tiền dùng để sản xuất với số lƣợng
28
lớn. Cũng giống nhƣ hoạt động của nghệ thuật tạo hình, ngƣời họa sĩ khi thiết kế
tiền giấy cũng cần quan tâm tới các vấn đề: Hình ảnh chủ đề - ý tƣởng; Hình tƣợng
nghệ thuật; Nghệ thuật bố cục và mảng hình; Nghệ thuật trang trí; Nghệ thuật sử
dụng màu sắc, mẫu đồ họa đặc trƣng tiền giấy.
- Mẫu thiết kế đồng tiền là bản vẽ mẫu tiền, gồm mẫu nghiên cứu, mẫu dự
phòng và mẫu tiền mới để phát hành vào lƣu thông [79]. Dƣới góc độ mỹ thuật, các
mẫu này đóng vai trò là phác thảo. Mẫu thiết kế chính thức là mẫu thiết kế đồng tiền
mới đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt. Dƣới góc độ mỹ thuật, mẫu thiết kế
chính thức đóng vai trò là phác thảo chính thứcđể chế bản và sản xuất tiền giấy hoặc
tiền kim loại [79].
- Giấy bạc/tờ bạc: Là cách gọi theo lối cũ để chỉ tiền giấy nhằm phân biệt với
tiền kim loại (tiền xu) và thẻ thanh toán.
- Mẫu in, đúc chuẩn là mẫu in, đúc thử đơn hình hoặc mẫu in thử đa hình đã
đƣợc cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định [79]. Bản in gốc, khuôn đúc gốc
là bản in, khuôn đúc của mẫu in, đúc chuẩn đơn hình đã đƣợc Thống đốc Ngân hàng
Nhà nƣớc (gọi tắt là Thống đốc) phê duyệt và nghiệm thu [79].
(Tổng hợp thuật ngữ kỹ thuật của tiền giấy Việt Nam xem phụ lục 1.1)
1.2.2. Nhóm khái niệm thuật ngữ liên quan tới nghệ thuật
- Nghệ thuật: Từ điển Triết học [84, tr. 380] mục từ “Nghệ thuật” đƣợc viết
là: “Nghệ thuật – hình thái đặc thù của ý thức xã hội và của hoạt động con ngƣời;
phản ánh hiện thực dƣới những hình tƣợng nghệ thuật; là một trong những phƣơng
pháp quan trọng nhất để nắm bắt thế giới bằng thẩm mỹ”. Theo Từ điển thuật ngữ
mỹ thuật phổ thông khái niệm “nghệ thuật” đƣợc xác định là các “phƣơng pháp tiến
hành để làm ra các sản phẩm chứng tỏ tài khéo léo, suy nghĩ, trí tƣởng tƣợng, cảm
xúc và sự sáng tạo của con ngƣời” [72, tr.110]. Mỹ thuật là “sự sáng tạo của con
ngƣời thông qua cảm xúc nghệ thuật, sự quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo”,
“ngày nay, nhờ những công nghệ mới, nhất là kỹ thuật máy tính, ngƣời ta đã tạo nên
nhiều hình thức mỹ thuật mới trong nhiếp ảnh, điện ảnh, mỹ thuật và ấn loát” [72,
29
tr.110]. Nhƣ vậy, một thực thể mỹ thuật đƣợc tạo thành nhờ 3 yếu tố là cảm xúc,
quan sát và khả năng thực hiện.
- Tác phẩm nghệ thuật: Hê-ghen cho rằng các quan niệm chung về tác phẩm
nghệ thuật, gồm 3 loại (1) Tác phẩm nghệ thuật do con ngƣời tạo ra, (2) nó đƣợc tạo
ra vì con ngƣời và hƣớng về tình cảm, (3) nó có mục đích nào đó ở bản thân [34,
tr.89]. Với cuốn Mỹ học cơ bản nâng cao, tác giả Ốp-Xi-An-Nhi-Cốp cho rằng tác
phẩm nghệ thuật cần có 3 yếu tố là (1) sản phẩm do con ngƣời tạo ra, (2) là hoạt
động đặc thù của lao động nghệ thuật, (3) có khả năng tác động tới thẩm mỹ của
công chúng. Tùy từng loại hình nghệ thuật mà ngôn ngữ nghệ thuật để tạo ra tác
phẩm khác nhau. Tại tác phẩm Nghệ thuật học, TSKH Đỗ Văn Khang cho rằng
nghệ thuật tồn tại dƣới dạng một tác phẩm cụ thể. Tác phẩm chính là đơn vị của
nghệ thuật. Ông cho rằng, tác phẩm nghệ thuật có cấu trúc gồm 4 lớp, xung quanh
hạt nhân là hình tƣợng [56 tr.226]. Trong thiết kế in ấn tiền giấy, các công đoạn kéo
dài với sự tham gia của nhiều ngƣời, nhiều bộ phận. Tiền giấy với tính chất là tác
phẩm đồ họa chỉ có thể là những đồng tiền sau khi đã in và đƣợc đóng dấu “tiền
mẫu” hoặc “specimen”. Những đồng tiền tiêu dùng hàng ngày, giữ vai trò là những
phiên bản. Mẫu tiền do họa sĩ vẽ ban đầu chính là bản phác thảo.
- Tác giả của mẫu tiền giấy: Cũng giống nhƣ tác giả của bức tranh là ngƣời
trực tiếp thực hiện, tác giả của mẫu tiền cũng là ngƣời trực tiếp vẽ hình thức của tờ
tiền. Trong việc thiết kế in ấn tiền giấy Việt Nam, tác giả đƣợc gọi là họa sĩ thiết kế
mẫu tiền, là ngƣời quyết định hình thức, giải pháp kỹ thuật cho tờ tiền. Ở Việt Nam,
họa sĩ trực tiếp thực hiện bản vẽ mẫu phác thảo, (sau khi đƣợc phê duyệt) tác giả
tiếp tục theo dõi, tham gia các công đoạn chế bản, in ấn để đảm bảo sản phẩm cuối
cùng đạt chất lƣợng nhƣ ý đồ của phác thảo. Khi có công nghệ thông tin hỗ trợ, các
họa sĩ thƣờng đƣợc các họa viên đồ họa máy tính hỗ trợ thể hiện nhƣng các họa sĩ là
ngƣời quyết định và chịu trách nhiệm về hình thức của tờ bạc.
- Nghệ thuật trang trí: Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông định nghĩa
“trang trí là nghệ thuật làm đẹp, phục vụ cho đời sống vật chất tinh thần của con
ngƣời. Nhờ những yếu tố trang trí, vật dụng vừa có giá trị thẩm mỹ vừa nâng cao giá
30
trị sử dụng.” [72, tr.134]. Trong cuốn Mỹ học cơ bản nâng cao, tác giả Ốp-Xi-An-
Nhi-Cốp cho rằng “trong hàng ngũ nghệ thuật, thì nghệ thuật trang trí chiếm vị trí
chính giữa kiến trúc và nghệ thuật tạo hình”. Nghệ thuật trang trí có thể chuyển các
vật có công năng thành các tác phẩm trang trí và có thể tác động qua lại với không
gian xung quanh. Có ba dạng trang trí chính là (1) trang trí gắn với kiến trúc, (2)
trang trí ứng dụng để tạo ra tác phẩm hàng loạt hoặc đơn lẻ, (3) trang trí trƣng bày
để trang hoàng, sử dụng trong các hoạt động sự kiện văn hóa-xã hội, thể thao...
So sánh với các dạng này thì nghệ thuật trang trí trong tiền giấy thuộc về
dạng thứ hai. Trong đó, trang trí tiền giấy không phải là thêm thắt các chi tiết mà là
biểu hiện của tính quy luật và là phƣơng tiện cơ bản để xây dựng hình thức nghệ
thuật trên cơ sở sắp xếp hoa văn hình vẽ và các yếu tố đặc trƣng khác thành tác
phẩm riêng biệt là tiền giấy.
- Hình ảnh chủ đề: Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông giải thích khái
niệm “hình tƣợng” với từ tƣơng đƣơng tiếng Anh là “Image”. Đó là “hình ảnh các
sự vật, trọng tâm là ngƣời, vật và phong cảnh thông qua sự ghi chép thực tế hoặc trí
nhớ của hoạ sĩ” và “từ hình tƣợng có ý nghĩa sâu sắc và đặc trƣng gạn lọc từ các
hình ảnh dễ thấy” [72]. Nhƣ vậy từ hình tƣợng ở đây có nghĩa tƣơng đối gần với từ
hình ảnh. Trong tiền giấy, các hình ảnh xuất hiện ngoài hoa văn, chữ, chân dung còn
có mảng hình vẽ lớn thể hiện phong cảnh thiên nhiên, con ngƣời và các công trình
kiến trúc xây dựng. Mảng hình vẽ này thƣờng đƣợc thể hiện với phong cách tả thực.
Trong phòng thiết kế mẫu tiền, các họa sĩ thƣờng gọi mảng này là “phong
cảnh nội dung” nhƣng NCS cho rằng nhƣ vậy không bao hàm hết hình ảnh ngoài
phong cảnh trên tiền giấy. Tại đây, nhằm thuận lợi cho nghiên cứu, NCS gọi các
hình ảnh với nội dung trên thể hiện trên tờ tiền giấy là hình ảnh chủ đề.
- Thiết kế: Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông định nghĩa Thiết kế (tiếng
Anh và tiếng Pháp đều là Design) “là sự sáng tạo ra mẫu theo ý tƣởng của các nhà
mĩ học bằng bản vẽ, phác họa, mô hình nhằm đạt tới mức hoàn thiện để có thể áp
dụng vào sản xuất công nghiệp” [72]. Trong cuốn Thiết kế, John Heskett cho rằng
thuật ngữ “thiết kế” (tiếng Anh là Design) cũng đang đƣợc hiểu với nhiều khía cạnh
31
và góc độ hoàn toàn khác nhau. Có thể nói “thiết kế” là khái niệm nghề nghiệp khá
rộng rãi và rất lỏng lẻo để xếp nó vào một chuyên ngành cụ thể. Từ “thiết kế” có
quá nhiều tầng ý nghĩa khiến cho tự thân nó đã là một điều dễ gây nhầm lẫn” Ông
đƣa ra một khái niệm về Thiết kế: “Design is to design a design to produce a
design” (Thiết kế là thiết kế một thiết kế để sản xuất ra một thiết kế) [53, tr.11].
Theo tác giả Lê Huy Văn – Trần Văn Bình, “danh từ Design có gốc La- tinh là
Disegno, có từ thời Phục Hƣng, có nghĩa là phác thảo, thuật vẽ (drawing), thiết kế,
bản vẽ, là cơ sở của mọi nghệ thuật thị giác, công việc của sáng tạo” [120, tr.8].
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, diễn đàn design tại Áo đã tổ chức nhiều cuộc
bàn luận nhằm xác định giới hạn của design với mỹ thuật, nghệ thuật thủ công. Do
không tìm đƣợc mẫu số chung, các khái niệm trên vẫn thƣờng bị lẫn với nhau.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Dũng đề cập tới khái niệm “design” với quan điểm
để nguyên phiên âm và cách viết của tiếng Anh/tiếng Pháp trong ngôn ngữ mà
không phiên âm hoặc chuyển hóa thành tiếng Việt. Theo ông từ “design” có thể
ghép với các ngành khác với nghĩa là “để lên kế hoạch tiến hành công việc” hoặc
với nghĩa là “hình vẽ, bản vẽ, bản lƣợc đồ phác thảo” [26, tr.13]. Tác giả khẳng
định “Song, design vẫn là ngành nghệ thuật, cũng nhƣ bất kỳ ngành nghệ thuật nào,
nó biểu hiện chân lý, bằng cách cung cấp hình thể cho bản chất sự vật và nhờ sự
cung cấp này hình thành” [26, tr.13].
Nhƣ vậy, tại đây ta có khái niệm thiết kế/design là hoạt động tạo ra các phác
thảo, bản vẽ, là bƣớc đầu tiên để lập trình thực hiện một công việc, một sản phẩm
nào đó. Khi nó gắn với hoạt động ngành nghề nào thì trở thành tính định hƣớng của
ngành nghề đó. Tại đây, hoạt động vẽ mẫu tiền để in ấn cũng có bản chất nhƣ là
thiết kế tiền giấy đều là cách thức để tạo nên tác phẩm.
- Đồ họa và thiết kế đồ họa: Tác giả Nguyễn Trân trong Các thể loại và loại
hình Mỹ thuật, có quan điểm cho rằng “nhờ tiếng nói giản dị mà tinh tế, thiết thực
của đồ họa, nhờ khả năng tiện lợi có thể sản xuất ra hàng loạt, nên đồ họa đƣợc áp
dụng nhiều trong các ngành thông tin, tuyên truyền” [109, tr.86]. Tiếp đó, Nguyễn
Trân còn nêu “đặc trƣng của đồ họa là dựa vào đƣờng nét, chấm, vạch, mảng bẹt,
32
đen - trắng để dựng nên các hình tƣợng” [109, tr.86]. Từ điển thuật ngữ mỹ thuật
phổ thông giải thích: “Đồ họa (tiếng Anh: Graphic Art, tiếng Pháp: Art graphique).
Một ngành vẽ, trong đó ngƣời ta sử dụng kỹ thuật in ấn để thể hiện tác phẩm, sản
xuất hàng loạt bản để có thể phổ biến rộng rãi”. Mặt khác, do đƣợc in với số lƣợng
lớn nên” đồ họa có nhiều bản gốc”. Từ điển giải thích thêm “Đồ họa có nhiều loại,
kể cả loại vẽ trên máy tính. Ở Việt Nam, việc dùng thuật ngữ đồ họa là tƣơng đối,
bởi việc đặt tên các thuật ngữ là dựa trên ý nghĩa sử dụng của nó” [72, tr.67].
Nhƣ vậy cùng với việc giải thích từ thiết kế ở phần trên, ta có thể xác định
khái niệm thiết kế đồ họa là chỉ hoạt động sử dụng công nghệ máy tính hoặc thủ
công nhằm tạo nên bản mẫu (sau khi đã nghiên cứu các vấn đề liên quan nhƣ công
năng, thói quen sử dụng, thị hiếu thẩm mỹ, vật liệu và công nghệ in ấn…) với mục
đích nhân bản và phát hành rộng rãi bằng phƣơng pháp in ấn.
1.2.3. Khái niệm mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam
- Cái đẹp
Kant quan niệm về cái đẹp rằng cái đẹp là cái ta cho là đẹp, trong đó khả
năng để đánh giá dựa trên thú vui cảm giác thƣờng đƣợc gọi là sở thích. “Nó không
phụ thuộc vào một quan niệm nào hết (vì phán đoán thẩm mỹ không cho ta một tri
thức nhƣng cho ta một cảm tƣởng)”. [31, tr.319]. Cái đẹp của Kant có 4 phƣơng
diện, với ý chủ đạo: cái đẹp là cái làm ta thích thú (mà không vị lợi) với mọi giác
quan khi nhìn thấy/nghe thấy…đó là thứ làm ta vui thỏa mà không cần khái niệm
[31, tr.321]. Cái đẹp mà Hê-ghen nói tới là “cái đẹp bên ngoài có hình thức trừu
tƣợng” với 3 tiêu chí là tính đều đặn, tính phù hợp quy luật, tính hài hòa [34, tr.
246-257]. Bên cạnh đó “cái đẹp cần đƣợc quan niệm nhƣ một sự thống nhất trừu
tƣợng của chất liệu cảm quan”, nghĩa là các chất liệu để cảm quan (trong mỹ thuật
là màu sắc, đƣờng nét, hình dáng…) cần phối hợp để tạo thành tổng thể thống nhất.
Từ điển triết học định nghĩa cái đẹp phản ánh hiện thực và đem lại cho con
ngƣời khoái cảm thẩm mỹ, “biểu hiện dƣới hình thức cảm tính”, “cái đẹp là hình
thức nắm bắt thực tế một cách tích cực cơ bản về mặt thẩm mỹ. Trong đó lý tƣởng
thẩm mỹ thể hiện một cách trực tiếp” [84, tr.170]. Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ
33
thông định nghĩa cái đẹp là cái có khả năng thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con
ngƣời. Cái đẹp trƣớc tiên đập vào mắt ngƣời xem do hình thức, nhƣng nếu hình
thức đó bao hàm một tình cảm tế nhị, một ý tƣởng sâu sắc làm xúc động lòng ngƣời
thì cái đẹp đó càng có giá trị [72, tr.62].
- Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam
Từ các quan điểm về tiền giấy, nghệ thuật, đồ họa và trang trí, NCS đƣa ra
khái niệm về mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam: Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam là
tổng hòa của nghệ thuật trang trí, in ấn đồ họa, ứng dụng trên chất liệu giấy, điểm
nhấn là sự kết hợp hoa văn dân tộc với hoa văn đặc trƣng của tiền giấy với các yếu
tố tạo hình khác, nằm trong loại hình mỹ thuật. Ngôn ngữ đặc thù của mỹ thuật trên
tiền giấy Việt Nam là nét (nét vẽ hoặc nét khắc), đƣợc thực hiện với phƣơng pháp in
ấn cao cấp, mang dấu ấn của quốc gia và phổ biến trong toàn quốc.
Nhƣ vậy, cái đẹp của mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam chính là vẻ đẹp của
nghệ thuật trang trí đƣợc đánh giá trên tiêu chí hình thức các yếu tố đồ họa (hoa
văn, đƣờng nét, màu sắc, hình ảnh, kỹ thuật in ấn…), phù hợp với nội dung hình
ảnh, trong tổng thể của mẫu tiền, của bộ tiền mà quốc gia đó phát hành. Cần nhấn
mạnh rằng, cái đẹp của “hình thức trừu tƣợng” này cần đạt tới độ thống nhất, hài
hòa với với vẻ đẹp tinh thần của quốc gia mà tờ tiền đó đại diện (một đồng tiền làm
giả không đƣợc coi là đồng tiền đẹp vì nó thiếu đi cái đẹp tinh thần mà nó đại diện).
1.3. Tiền giấy ở Việt Nam
1.3.1. Tiền giấy thời nhà Hồ
1.3.1.1. Bối cảnh lịch sử
Giới sƣu tầm và công chúng thƣờng cho rằng những đồng tiền giấy đầu tiên
của nƣớc ta đƣợc in ấn, phát hành dƣới triều Hồ (1400-1407). Theo Đại Việt sử ký
toàn thư, Nhập nội hành khiển tả ty Vƣơng Nhữ Chu đề ra ý tƣởng dùng tiền giấy
thay cho tiền đồng, trình vào năm 1396 và Hồ Quý Ly (Lê Quý Ly) đang giữ chức
Nhập nội phụ chính, Thái sƣ, Bình chƣơng quân quốc trọng sự, Tuyên trung vệ quốc
Đại vƣơng chấp thuận và cho khắc in rồi phát hành. Tiếc rằng hiện nay không còn
hiện vật mẫu.
34
1.3.1.2. Các đồng tiền phát hành
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng
“Mùa hạ, tháng 4, bắt đầu phát hành đồng tiền giấy “Thông bảo hội sao”. In
xong, ra lệnh cho ngƣời đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền
giấy. Thể thức: tờ 10 đồng vẽ rong, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2
tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phƣợng, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm
tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản tịch thu. Cấm tuyệt tiền đồng, không
đƣợc chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị
sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội nhƣ làm tiền giả” [46, tr.217].
Nhƣ vậy là đồng tiền giấy đầu tiên của nƣớc ta đƣợc phát hành vào tháng 4,
năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái thứ 9 (1396) đời Trần Thuận Tông. Thông bảo
Hội sao đƣợc lƣu hành và sử dụng ít nhất cũng đƣợc 11 năm, tính từ khi đƣợc phát
hành cho đến tháng 6 năm Đinh Hợi (1407) sau khi giặc Minh xâm lƣợc bắt đƣợc
Thái thƣợng hoàng Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thƣơng.
Xét hoàn cảnh lịch sử về sự ra đời của tiền giấy Thông Bảo Hội Sao cũng
nhƣ quá trình tồn tại của nó thấy có rất nhiều thăng trầm, có lúc có giá trị lớn, bị từ
chối sử dụng, có lúc bị làm giả, triều đại nhà Lê thì coi đó nhƣ biểu hiện của sự giả
dối. Khi nói về những đồng tiền giấy đầu tiên, chúng ta cũng cần nhắc đến “ông tổ”
làm tiền giả. Sách Đại Việt sử ký toàn thƣ viết: “Kỷ Mão, Kiến Tân năm thứ 2
(1399)…, tháng 8, tên cƣớp Nguyễn Nhữ Cái trốn vào núi Thiết Sơn làm giả tiền
giấy tiêu dùng” [46, tr.217].
1.3.1.3. Đặc điểm
Tiền giấy thời nhà Hồ đƣợc cho là in bằng phƣơng pháp in khắc gỗ một mặt
trên giấy bản khổ lớn nhƣ cách in kinh Phật rất thịnh hành thế kỷ XIII-XIV. Việc
xuất hiện những tiền giấy với hình thức và chất liệu giấy hoàn toàn mới là một việc
tất yếu nhằm đáp ứng tình trạng thiếu tiền mặt lúc bấy giờ, nhƣng lại quá lạ lẫm đối
với quan niệm về thẩm mỹ và giá trị của nhân dân thời đó. Nếu nhìn vào hệ thống
hình tƣợng của tiền giấy thời nhà Hồ (từ mệnh giá nhỏ tới mệnh giá lớn) là Rong,
Sóng, Mây, Rùa, Lân, Phƣợng, Rồng thì ngoài bộ Tứ linh thƣờng xuất hiện nhƣ các
35
biểu tƣợng quyền lực và linh thiêng thì hình tƣợng Rong, Sóng, Mây thể hiện rõ văn
hóa của cƣ dân lúa nƣớc. Xem xét thời điểm phát hành Thông Bảo Hội Sao là năm
1396, những năm của thời Trần thì hình ảnh Rong, Sóng, Mây thể hiện rõ gốc tích
từ vùng biển của nhà Trần, từ đó NCS cho rằng các nghệ nhân “vẽ tiền” có ngầm ý
khẳng định những đồng tiền này đƣợc làm ở triều Trần (chứ không phải thời Hồ),
hoặc chăng gửi gắm ở đó tƣ tƣởng về nguồn gốc triều Trần đi từ vùng biển, với thân
phận bình dân nhƣ ngọn cỏ Rong (in trên tờ tiền mệnh giá nhỏ nhất) qua nhiều sóng
gió thăng trầm để biến thành Rồng (bậc Đế Vƣơng). Đặc biệt hình ảnh Long,
Phƣợng, Lân, Quy là tứ linh, tƣợng trƣng cho sự trƣờng tồn chắc cũng là tâm tƣ
mong mỏi của Vƣơng Nhữ Chu, ngƣời ăn lộc nhà Trần nhƣng đang chứng kiến
cảnh nhà Trần suy vong.
1.3.2. Tiền giấy Ngân hàng Đông Dương
1.3.2.1. Bối cảnh lịch sử
Giữa thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đã thúc đẩy các nƣớc tƣ
bản phƣơng Tây tìm kiếm và giành giật thuộc địa. Các quốc gia phƣơng Đông nói
chung, Việt Nam nói riêng đã trở thành nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh đó.
Ngày 31/8/1858, Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng mở đầu cho
cuộc chiếm đóng của Pháp ở Việt Nam.
Ngày 24/6/1863, Quốc hội Pháp ban hành luật về phát triển Ngân hàng tại
các xứ sở thuộc địa [24, tr.42]. Ngày 21/1/1875 ban hành sắc lệnh về thành lập
Ngân hàng Đông Dƣơng (Banque de L’Indochine) đƣợc ký bởi Tổng thống Pháp là
Maréchal de Mac – Mahon. Điều lệ ghi Ngân hàng Đông Dƣơng có hoạt động với
thời hạn ban đầu là 20 năm và có 2 chi nhánh chính tại Sài Gòn và Pondichéry
nhƣng có thể lập các văn phòng tại tất cả các điểm trên toàn vùng viễn đông thuộc
Pháp [151, tr.10, 11].
Với nhiều chi nhánh và việc phát hành tiền giấy trong liên tục hơn 80 năm, vị
trí Ngân hàng Đông Dƣơng trở thành một thế lực tài chính lớn. Năm 1875 ngân
hàng đƣợc thành lập với số vốn 8 triệu France, năm 1900 tăng gấp 3 lần, 1910 tăng
gấp 6 lần, năm 1945 tăng gấp 100 lần, năm 1954 tăng gấp 250 lần.
36
Ngân hàng Đông Dƣơng đã đầu tƣ và kiểm soát nhièu ngành công nghiệp
trong các Quốc gia thuộc địa [27, tr.25].
1.3.2.2. Các mẫu tiền giấy được phát hành
Trong hơn 90 tồn tại của mình, Ngân hàng Đông Dƣơng đã thực hiện nhiều
đợt phát hành tiền giấy trên lãnh thổ các nƣớc Đông Dƣơng cũng nhƣ một số vùng
lãnh thổ khác. Từ lần phát hành lần đầu tới những năm trƣớc Chiến tranh Thế giới
lần thứ 2, tiền giấy đƣợc in ấn tại Nhà in Viễn Đông (IDEO) tại Hà Nội, sau đó
đƣợc in ở Nhật Bản trong thời nhật tạm chiếm nƣớc ta (1941-1945). Tiền giấy Đông
Dƣơng cũng đƣợc đặt hàng từ Mỹ và Anh nhƣng chỉ đƣợc phát hành sau Chiến
tranh Thế giới thứ 2. [151, tr.17, 93].
1.3.2.3. Đặc điểm
Trong hầu hết các tờ tiền giấy mặt trƣớc luôn có biểu tƣợng nƣớc Pháp và
hình ảnh của địa phƣơng . Toàn bộ hình tƣợng chính trong hệ thống tiền giấy Đông
Dƣơng phát hành trƣớc 1945 chủ yếu là các biểu tƣợng của nƣớc Pháp (nhƣ
Marianne) còn các hình ảnh, con ngƣời, phong cảnh và hoa văn trang trí truyền
thống là nét chủ đạo xuyên suốt trong nghệ thuật trang trí tiền giấy thời kỳ này. Mặt
sau là biểu tƣợng Rồng và hoa văn trang trí kèm chữ Trung Quốc.
Về hình tƣợng tƣợng trƣng cho sự thống trị của Pháp tại Việt Nam, hình
tƣợng Marianne cầm giáo tƣợng trƣng cho chiến đấu, Marianne đội mũ sắt kiểu La
mã, Marianne đội mũ vòng Nguyệt quế tƣợng trƣng cho chiến thắng, Marianne và
cậu bé đội vòng nguyệt quế, Marianne cầm trái táo và cành ô-liu (thể hiện tinh thần
bác ái), Marianne và phụ nữ Việt Nam (thể hiện tinh thần bình đẳng)…Trên mẫu 1
piastre, thể hiện hình tƣợng Marianne (biểu tƣợng nƣớc Pháp) dang tay che cho
ngƣời đàn ông Việt mặc áo gấm, mang thẻ bài tri huyện, ngồi tựa vào đầu gối của
Marianne và ngƣớc mắt nhìn lên.
Về hình ảnh của xứ thuộc địa, hình tƣợng chủ đạo là rồng và hoa văn rồng
kèm theo các dòng chữ Trung Quốc. Đôi khi ta bắt gặp hình ảnh của Việt Nam,
Lào, Campuchia trên mặt trƣớc của tờ tiền nhƣng ở vị trí sát mép dƣới hoặc có diện
tích nhỏ. Hoặc ta có thể thấy các biểu tƣợng quyền lực của Việt Nam đƣợc đặt ở vị
37
trí thấp, lẫn cùng các họa tiết trang trí chứ không đƣợc đặt tại các vị trí trang trọng
tại mặt trƣớc. Kể từ đầu thế kỷ XX, xuất hiện các đồng tiền mà mặt sau có in hình
ảnh công trình kiến trúc, di tích văn hóa cổ của ngƣời bản xứ nhƣ hình cổng chào
của kinh thành Huế, hình tƣợng thần 4 mặt ở tháp Bayon của Ăng-co…
Phong cách trang trí của tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng mang đậm cách
trang trí Tân Cổ điển của châu Âu nhƣng có sử dụng các họa tiết bản xứ. Các hoa
văn của Việt Nam, Campuchia thƣờng đƣợc ƣa chuộng sử dụng. Các hình tƣợng
trang trí của triều đình Huế nhƣ rồng, lƣ đỉnh (đồng 5 Piastre đƣợc gọi là đồng Độc
lƣ), tứ linh cũng đƣợc ứng dụng nhiều trong trang trí, trong đó Phụng đƣợc chuyển
hóa thành Công (mẫu 5 piastre). Các hoa văn chữ triện, hoa văn vẩy cá, hoa văn hoa
lá đƣợc xuất hiện nhiều. Đƣờng nét thể hiện rất sắc nét nhƣng trang nhã, hài hòa và
sử dụng nhiều các hoa văn trang trí truyền thống.Các mảng trang trí theo hình học
rõ ràng, thƣờng đƣợc chọn là hình chữ nhật hoặc hình tròn.
Mỹ thuật trên tiền giấy của bộ tiền này đã đạt tới giá trị thẩm mỹ đặc sắc
trong việc sử dụng màu sắc, hình vẽ và đặc biệt là cách thể hiện các nhân vật.
Phong cách trang trí và sử dụng hoa văn trong tiền giấy do Ngân hàng Đông Dƣơng
phát hành thời kỳ này đƣợc coi là có thẩm mỹ rất cao. Về kỹ thuật in ấn, các mẫu
tiền giấy này đều có sự pha trộn phong cách thiết kế của Pháp và văn hóa bản địa tạo
thành nét độc đáo riêng biệt, đƣợc in với công nghệ in litho (in phẳng) chứ không
phải công nghệ intaglio (in lõm) nhƣ tiền giấy của Mỹ cùng thời. [PL-MH 1.9, 1.10]
1.3.3. Tiền giấy của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa
1.3.3.1. Bối cảnh lịch sử xã hội
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954) nƣớc ta tạm thời bị chia cắt thành 2 miền.
Tại phía nam vĩ tuyến 17, Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống, công bố Hiến pháp
mới tại Dinh Độc Lập, thành lập chính phủ VNCH. Chính phủ này có chủ trƣơng
tách Việt Nam thành 2 quốc gia riêng và thực hiện phá hoại Hiệp định, lấy vĩ tuyến
17 làm giới tuyến ngăn cách. Ngày 01/01/1955, theo thỏa thuận với Pháp, Ngân
hàng Trung ƣơng Việt- Miên- Lào tách làm 3 Ngân hàng Quốc gia Trung ƣơng của
Việt Nam, Lào và Campuchia. Cùng ngày, Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm đã
38
ký sắc lệnh thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do ông Dƣơng Tấn Tài làm
Thống đốc. Song song với các hành động về chính trị, quân sự, xã hội, tuyên truyền,
chính quyền VNCH đã tổ chức phát hành tiền giấy với sự giúp đỡ và in ấn tại Mỹ.
Việc phát hành này đã đánh dấu chấm hết cho Tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng
lúc này đang phát hành với tên gọi Viện Phát hành.
1.3.3.2. Các mẫu tiền phát hành
Sau khi Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (của VNCH) đƣợc hình thành và phát
hành tiền giấy (từ năm 1955-1975), tiền giấy VNCH đƣợc phát hành theo 2 giai
đoạn chính, tƣơng đƣơng với 2 thể chế chính trị là Đệ nhất cộng hòa do Ngô Đình
Diệm làm Tổng Thống (1955-1963) và Đệ nhị cộng hòa do Nguyễn Văn Thiệu
cùng một số ngƣời tiếp theo làm Tổng thống (1964-1975). Về biểu tƣợng nhà nƣớc,
các mẫu tiền đều không có Quốc huy, Quốc hiệu mà chỉ có dòng chữ tiêu đề “Ngân-
hàng Quốc-gia Việt-Nam”. Tiền giấy VNCH không sử dụng chân dung các nhân vật
đƣơng thời trong in ấn mà sử dụng chân dung nhân vật lịch sử nổi tiếng của Việt Nam
nhƣ Trần Hƣng Đạo, Quang Trung, Lê Văn Duyệt. Các hình ảnh thƣờng xuất hiện là
phong cảnh, công trình kiến trúc, thú vật… [PL-MH 1.11]
1.3.3.3. Đặc điểm
Tiền giấy VNCH có đặc điểm là mặt trƣớc và mặt sau của tờ bạc đều có tiêu
đề “Ngân- hàng Quốc- gia Việt- Nam”, không có in Quốc hiệu, Quốc huy, chân
dung nhân vật đƣơng thời. Hình tƣợng chủ yếu trên tiền giấy VNCH là phong cảnh,
con ngƣời miền Nam Việt Nam (có 1 mẫu dùng hình tƣợng anh lính VNCH) và có
3 mẫu cuối cùng có hình tƣợng nhân vật lịch sử là Trần Hƣng Đạo, Nguyễn Huệ, Lê
Văn Duyệt. Ngoài ra, ở đợt phát hành cuối cùng, mặt sau của tiền giấy VNCH còn
có bộ tiền sử dụng các hình ảnh động vật quý nhƣ con ngựa, nai, trâu, bò tót (con
min), báo gấm, hổ, voi. Đây thực sự là bộ tiền rất đẹp trong tổng thể tiền giấy của
VNCH. Về kỹ thuật in ấn, các bộ tiền này đƣợc in ấn với công nghệ cao của thời
đó: in lõm kết hợp với in in ốp-xét có sử dụng cách sắc ở giữa của tờ bạc. Giấy in
của toàn bộ tiền giấy VNCH có chất lƣợng rất tốt, dai và thấm mực. Đây là loại giấy
bảo an (không phát quang dƣới ánh sáng cực tím).
39
Các hình ảnh, hình tƣợng nội dung chính thƣờng là phong cảnh và con ngƣời
miền Nam lao động, không có các hình ảnh chính trị thời sự (chỉ có 1 mẫu dùng
hình ảnh ngƣời lính VNCH khoác súng). Về bố cục, các đồng tiền giấy của VNCH
tạo có phong cách thiết kế hiện đại, đồng bộ trong toàn bộ hệ thống. Giai đoạn đầu
thƣờng có bố cục với khung trang trí hoa văn dân tộc, về sau không sử dụng các
khung trang trí xung quanh với hoa văn dày đặc mà thay bằng các mảng hoa văn
lƣới. Bố cục thƣờng dùng là dạng bố cục lệch 1/3. Trong trang trí, cách sử dụng
nhiều hoa văn lƣới và cách tạo hoa văn phù điêu trên nền là điểm khác biệt đáng
chú ý của tiền VNCH so với tiền của miền Bắc.
Nhìn chung, phong cách thiết kế, trang trí và in ấn chống giả của tiền giấy
VNCH có xu hƣớng gần với phong cách tiền giấy của Mỹ và các nƣớc công nghiệp
phƣơng Tây. Ƣu điểm chính là việc ứng dụng công nghệ và ngôn ngữ thiết kế hiện
đại, phần yếu điểm là thiếu đi bản sắc riêng, của văn hóa Á Đông, làm ngƣời ta khó
nhận ra tiền giấy của VNCH trong tổng thể các nƣớc khác.
1.3.4. Tiền giấy do Chính phủ Việt Nam phát hành
1.3.4.1. Bối cảnh lịch sử xã hội
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra
nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là CHXHCN Việt Nam). Để đảm bảo hoạt
động cho nhà nƣớc non trẻ, Chính phủ Hồ Chí Minh đã có chủ trƣơng kiểm soát
hoạt động của Ngân hàng Đông Dƣơng và đảm bảo tài chính. Mục tiêu hành động
lúc đó là vừa đảm bảo hoạt động của các nhà kinh doanh, vừa “lấy thật nhiều tiền và
lấy đƣợc thật nhanh cho Chính phủ” [39, tr.131].
Lúc này ta đã kiểm soát về mặt chính trị nhƣng vẫn không làm chủ đƣợc tình
hình tiền tệ và phải sử dụng đồng tiền phát hành bởi Ngân hàng Đông Dƣơng. Các ý
kiến về việc thành lập Ngân hàng Việt Nam cũng đã đƣợc tính đến, nhƣng đều xác
định là chƣa đủ điều kiện, “vì lẽ ta không có vàng để bảo đảm” [39, tr.133]. Để có
thể tạo ra đồng tiền riêng của mình, vừa bảo đảm tiền tệ, vừa thể hiện chủ quyền của
nƣớc Việt Nam DCCH, “Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính gấp gáp chuẩn bị phát
hành tiền Việt Nam” [39, tr.133]. Tháng 10/1945, ông Phạm Văn Đồng đã chỉ đạo
40
ông Phạm Quang Chúc tổ chức thực hiện việc thiết kế/vẽ những đồng tiền giấy đầu
tiên cho nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại số 10 phố Lê Lai, Hà Nội.
Cùng với những diễn biến của lịch sử, tiền giấy Việt Nam cũng có nhiều
chuyển biến về hình thức và kỹ thuật. Kể từ 1945 tới nay, nhà nƣớc ta đã phát hành
11 bộ tiền ra đời trên lãnh thổ Việt Nam.
1.3.4.2. Các mẫu tiền phát hành
Toàn bộ hệ thống tiền giấy đƣợc phát hành từ năm 1945 đến nay bao gồm
các đợt nhƣ sau:
STT Hệ thống tiền Số mẫu phát hành
Giai đoạn lịch sử
Kháng chiến chống Pháp. 1. Hệ thống tiền Tài
chính
2. Tín phiếu Liên
Phát hành ở Miền Trung trong kháng chiến chống Pháp. khu V
Đợt 1: 5mẫu, Đợt 2: 10 mẫu 7 mệnh giá, nhiều (phát hành mẫu theo tỉnh) 12 mẫu/5 mệnh giá Phát hành ở Miền Nam trong 3. Hệ thống tiền
kháng chiến chống Pháp. giấy Nam bộ
8 mẫu/8 mệnh giá Thành lập Ngân hàng Việt Nam 4. Hệ
11 mẫu/7 mệnh giá Phát hành ở Miền Bắc trong tiền thống Ngân hàng (1951) thống tiền 5. Hệ
kháng chiến chống Mỹ. 1959
8 mẫu/8 mệnh giá Phát hành vào phía nam vĩ tuyến
17, trong vùng kháng chiến.
8 mẫu/ 8 mệnh giá Sau Giải phóng Miền Nam, 6. Bộ tiền UBTƢ MTDTGP MNVN 7. Bộ tiền 1975
nhằm thu đổi tiền của VNCH.
8. Hệ thống tiền 10 mẫu/9 mệnh giá Thống nhất tiền tệ trong cả nƣớc
11 mẫu/10 mệnh giá Cải cách tiền tệ (Giá- Lƣơng-Tiền)
tiền 1978
9. Hệ thống tiền
1985
13 mẫu/10 mệnh giá Thời kỳ lạm phát1987
10. Bộ tiền 1987
11. Bộ tiền Polymer 6 mẫu/ 6 mệnh giá Bổ sung khả năng bảo an cho hệ
thống hiện hành.
(2003)
41
1.3.4.3. Đặc điểm
- Hệ thống tiền Tài chính
(Bảng tổng hợp hình ảnh và bố cục trang trí của tiền Tài chính phát hành
1946, xem phụ lục 1.2, 1.3.)
Đây là bộ tiền đầu tiên của nƣớc ta sau ngày lập nƣớc là bộ tiền rất phong
phú về chủng loại, có giá trị nghệ thuật về hình vẽ, đƣợc giới chuyên môn, sƣu tầm
trong và ngoài nƣớc đánh giá rất cao. Các mẫu đƣợc thiết kế tại Sở ngân khố Quốc
gia, số 10 phố Lê Lai, Hà Nội. Những họa sĩ tham gia đầu tiên là Nguyễn Huyến (vẽ
mẫu 100đ hình con trâu xanh), Mai Văn Hiến (vẽ mẫu 5đ hình công nhân quai búa)
và Nguyễn Đỗ Cung (vẽ mẫu 10 đ) [24, tr.51; 35, tr.142]. Ngoài ra có sự tham gia
thể hiện các họa tiết và trang trí của các họa sĩ tại Sở bản đồ ở Đà Lạt [35, tr.143].
Giai đoạn đầu tiên tiền giấy Việt Nam đƣợc in tại nhà in Viễn Đông – IDÉO
(Imprimerie d’Extreme Oriental), nhà in Ngô Tử Hạ (phố Nhà Thờ, Hà Nội), nhà in
Taupin và xƣởng in ở ngoại thành Hà Nội. Công việc in Tiền Tài chính do cơ quan ấn
loát thuộc Bộ Tài chính chỉ đạo [24, tr.51].
Chủ đề nổi bật trong hệ thống này làca ngợi lòng tự hào, tự tôn dân tộc với
hình tƣợng nổi bật là chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn xuất hiện trang trọng
trên mặt trƣớc với góc nhìn chính diện. Có một số đồng tiền đƣợc thiết kế chân
dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khung hoa văn hình chữ nhật hoặc trong khung
trang trí hình ô-van với hình tƣợng bông lúa trĩu hạt. Vì chƣa có quốc huy nên các
họa sĩ thƣờng sử dụng thêm hình ảnh bản đồ hoặc ngôi sao 5 cánh nhƣ biểu tƣợng
cho nƣớc Việt Nam. Một hình tƣợng khác cũng thƣờng đƣợc xuất hiện trên tiền
giấy giai đoạn 1946 là anh bộ đội. Hình tƣợng này có thể xuất hiện ở mặt trƣớc với
vai trò là nền cho hình tƣợng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh hoặc xuất hiện ở
mặt sau với vai trò là trang trí chính của chủ đề. Hình ảnh anh bộ đội thƣờng đƣợc
thể hiện nhƣ hai ngƣời đứng cầm súng, bộ đội đứng cùng nông dân, công nhân.Các
hình ảnh xuất hiện trên hệ thống này là biểu hiện cụ thể của chủ trƣơng cần tuyên
truyền nhƣ “Ngƣời cày có ruộng”, “Dựng nƣớc giữ nƣớc”, Tình đoàn kết “Công-
Nông-Binh-Trí”, Đoàn kết nông thôn và thành thị, miền núi và miền xuôi. Chủ
42
trƣơng tăng cƣờng lao động sản xuất (nhằm khắc phục hậu quả của nạn đói năm
1945) đã trở thành hình ảnh thƣờng thấy trên tiền giấy thời kỳ này (tiền giấy mệnh
giá 50 đ, mệnh giá 100 đ, mệnh giá 100 đ ). Nhìn chung, các mẫu tiền liên quan tới
hoạt động sản xuất, bảo vệ độc lập dân tộc [PL-MH 1.14].
- Hệ thống tiền Nam Bộ
(Bảng tổng hợp hình ảnh và bố cục trang trí của tiền Nam Bộ, phụ lục 1.4,1.5.)
Nhằm ổn định và phát triển kinh tế, độc lập về tài chính trong vùng tự do,
ngày 1/11/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 102 SL, cho phép Nam Bộ phát
hành tín phiếu riêng. Ngày 2/3/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 147/SL cho
phép Nam Bộ phát hành giấy bạc Việt Nam [24, tr.55]. Ngày 30/4/1948 Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra sắc lệnh 180/SL loại bỏ tất cả các loại giấy bạc và tiền đồng của
ngân hàng Đông Dƣơng trong vùng kháng chiến [24, tr.52]. Cuối năm 1948, việc
vận chuyển tiền giấy vào miền Nam khó khăn nên Chính phủ Trung Ƣơng đã ủy
nhiệm cho Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ ấn loát tại chỗ giấy bạc Việt
Nam và phát hành toàn Nam Bộ [24, tr.55].
Tiền giấy Nam Bộ đƣợc phát hành chủ yếu tại vùng tự do ở miền Nam Việt
Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tiền đƣợc vẽ và in ấn với công nghệ
thủ công, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn gian khổ, vừa bị giặc Pháp càn quét
bắn phá, vừa thiếu thốn vật tƣ vật dụng sản xuất. Tất cả các tờ bạc của tiền Nam Bộ
đều có chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và hình tƣợng cờ đỏ sao vàng. Điều này
thể hiện rõ tình cảm kính yêu của ngƣời miền Nam với Bác và chính uy tín của Bác
là sự bảo đảm hơn vàng cho việc phát hành tiền giấy. Tiền giấy Nam Bộ đƣợc
ngƣời dân tin dùng và gìn giữ với tình cảm đặc biệt dành cho Bác “còn một sợi râu
của Cụ Hồ là còn tiêu đƣợc” [33, tr.286].
Phong cách nghệ thuật của tiền giấy Nam Bộ có nhiều điểm dễ nhận biết,
thông qua cách thể hiện chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu so sánh với Tiền Tài
chính của miền Bắc thì chân dung Bác ở tiền Nam Bộ đƣợc vẽ với những nét dài
hơn, mềm hơn. Có lẽ vì không có ảnh gốc về Bác mà chỉ vẽ lại, nên sự thể hiện của
họa sĩ miền Nam có phần sáng tạo hơn chứ không đi vào khắc họa các đặc điểm cụ
43
thể của Bác. Với thần thái ung dung, trang trọng , vui tƣơi, trong mắt Bác nhƣ có
ánh cƣời. Hình tƣợng chủ đề trên tờ bạc chính là công cụ tuyên truyền cách mạng
với các chủ đề nhƣ “Toàn quốc kháng chiến”, “Vệ quốc quân”, “Công nông”, “Tấn
công đồn địch”, hoặc Công - Nông - Binh - Trí đoàn kết. Đặc biệt hình tƣợng anh
vệ quốc quân, anh tự vệ và du kích quân cùng nhân dân lao động luôn đƣợc khắc
họa trong tƣ thế hào hùng đậm chất Nam Bộ [PL-MH 1.15].
- Hệ thống Tín phiếu Liên khu V
(Bảng tổng hợp hình ảnh và bố cục trang trí của Tín phiếu liên khu V, xem
phụ lục 1.6,1.7).
Ngày 18/7/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 231/SL cho phép phát
hành Tín phiếu Liên khu V [24, tr.54]. Trong những năm từ 1947 đến hết 1954, Cơ
quan ấn loát tài chính Trung Bộ đã cho in ấn và phát hành nhiều mẫu Tín phiếu
mang mệnh giá 1đ, 5đ, 20đ, 50đ, 100đ, 500đ, 1000đ. Giai đoạn đầu, số lƣợng Tín
phiếu in ra chƣa nhiều nên còn sử dụng song song với Tiền Tài chính. Đến cuối
năm 1951, Tiền Tài chính ở đây bị Pháp in giả nên mất giá. Năm 1952, Trung Ƣơng
chỉ thị cho Liên khu V thu hồi Tiền Tài chính và chỉ phát hành duy nhất Tín phiếu
làm công cụ tài chính và đƣợc quản lý nhƣ tiền giấy [24, tr.54].
Các Tín phiếu Liên khu V đều có chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, các hình
ảnh chủ đề thƣờng là nông dân lao động, khối đoàn kết công nông, phong cảnh
nông thôn, cảnh thuyền đánh cá… Có những tờ có khẩu hiệu nhƣ tờ 1000đ có dòng
chữ: Tích cực chuẩn bị tổng phản công trong khung hình chữ nhật. Về ngôn ngữ,
Tín phiếu Liên khu V sử dụng tiếng Việt, tiếng Trung. Các hoa văn dân tộc đƣợc
thể hiện dạng đơn giản, chủ yếu là hoa văn Huế [Phụ lục 1.8].
Về kỹ thuật in ấn, tín phiếu Liên khu V đƣợc in ấn khá thô sơ. Các khuôn in
đƣợc thực hiện bằng gỗ, giấy in vẫn là giấy phổ thông hoặc giấy viết, mực in đôi khi
dùng bằng bột màu nghiền với dầu rái. Đối với các mẫu mệnh giá lớn đƣợc in nhiều
màu phải in đến 4, 5 lƣợt nên độ khớp hình của bản in rất kém. Hiện nay không có tài
liệu ghi chép chính thức về tác giả các tờ Tín phiếu này, nhƣng có nhiều ý kiến trong
giới sƣu tầm tiền cho rằng đó là tác phẩm của họa sĩ Hoàng Kiệt [PL-MH 1.19].
44
- Hệ thống tiền năm 1951
(Thống kê chi tiết hình ảnh và bố cục trang trí của hệ thống tiền phát hành
1951, xem phụ lục 1.8, 1.9)
Một tuần sau khi thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, ngày 12/05/1951,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 19/SL cho phép Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam phát hành 2 loại giấy bạc là 20 đồng và 50 đồng, tỷ lệ quy đổi 1 đồng tiền
ngân hàng đổi 10 đồng tiền Tài chính. Để ổn định kinh tế xã hội, các đồng Tiền Tài
chính vẫn đƣợc lƣu hành song song với tiền Ngân hàng. Tiếp đến ngày 1/6/1951,
phát hành tiếp các loại giấy bạc ngân hàng mệnh giá 20đ, 100đ, 500đ, 1.000đ [70,
tr.37]. Đợt 2, năm 1953, phát hành mệnh giá 5.000đ. Hệ thống tiền giấy năm 1951
là bộ tiền đầu tiên đƣợc Ngân hàng Việt Nam phát hành.
Trong tất cả các mệnh giá, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc thể hiện
giống nhau cả kích thƣớc và đƣờng nét. Điều đó chứng tỏ các mẫu đều dùng duy
nhất một mẫu chân dung. Riêng mệnh giá 5.000đ phát hành năm 1953, chân dung
Bác đƣợc khắc lại, tuy nhiên vẫn giữ nguyên tƣ thế nhìn thẳng, chính diện. Các
chân dung này do họa sĩ Trung Quốc thể hiện và khắc trực tiếp trên bản đồng. Việc
các mẫu tiền này sử dụng 1 mẫu chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh với công nghệ
khắc lõm chứng tỏ tất cả các mẫu trên đƣợc chế bản và in ấn tại một nơi, cùng thời
điểm. Về hình ảnh và phong cách thiết kế của bộ tiền 1951 này, “có không ít ý kiến
cho rằng loại giấy bạc mới này trông giống giấy bạc Trung Quốc, hình vẽ ngƣời
mình trên tờ giấy bạc cũng giống ngƣời Trung Quốc, ngƣời nào cũng mặc áo bông”
[91, tr.148]. Các họa sĩ và nhà nghiên cứu không đánh giá cao giá trị nghệ thuật của
bộ tiền này nhƣng bộ tiền vẫn đƣợc giới sƣu tầmtìm kiếm chủ yếu vì giá trị sƣu tập.
Có lẽ phong cách nghệ thuật của bộ tiền này quá khác với thẩm mỹ của
ngƣời Việt nên các bộ tiền tiếp theo không theo phong cách của bộ tiền 1951, nhất
là ở cách lạm dụng hoa văn lƣới làm khung trang trí mà hoàn toàn thiếu đi sự họa
tiết bay bổng của hoa văn dân tộc. Về ngôn ngữ, bộ tiền 1951 là bộ cuối cùng trong
hệ thống tiền giấy Việt Nam sử dụng hai ngôn ngữ. Sau này tiếng Trung không còn
xuất hiện trên tiền giấy Việt Nam cho đến tận ngày nay [PL-MH 1.20].
45
- Hệ thống tiền 1959
(Thống kê chi tiết hình ảnh và bố cục trang trí của Hệ thống tiền phát hành
1959, xem phụ lục 1.10,1.11)
Ngày 27/02/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 15/SL cho phép “Ngân
hàng nhà nƣớc Việt Nam phát hành tiền mới”. Định giá quy đổi 1 đồng tiền mới
bằng 1000 đồng tiền cũ [70, tr.47]. Các mệnh giá đƣợc phát hành vào đợt này là 1
hào, 2 hào, 5 hào, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng. Hai mẫu đƣợc phát hành vào
đợt sau là 1 hào (1972) và 5 hào (1975).
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử tiền tệ Việt Nam xuất hiện Quốc huy và
ngôn ngữ đƣợc ghi trên đồng tiền duy nhất là tiếng Việt. Xét tới toàn bộ lịch sử tiền
giấy nƣớc ta từ năm 1875 do ngân hàng Đông Dƣơng phát hành với các ngôn ngữ
nhƣ Pháp, Anh, Trung Quốc, Việt, Lào, Campuchia rồi dần dần tới bộ tiền Tiền Tài
chính phát hành năm 1946 với ngôn ngữ tiếng Việt, Trung, Lào, Miên (nhƣng tiếng
Việt đã chiếm phần chủ đạo). Sang đến bộ tiền Ngân hàng năm 1951, chỉ còn hai
ngôn ngữ là tiếng Việt, tiếng Trung Quốc và bộ tiền 1959 chỉ còn ngôn ngữ tiếng
Việt. Đó là một quá trình tranh đấu lâu dài gần 100 năm để bảo vệ đƣợc sự độc lập
của ngôn ngữ, biểu tƣợng của văn hóa dân tộc.
Về kích thƣớc tiền giấy, đây là bộ tiền có những đồng tiền nhỏ nhất trong
lịch sử 600 năm tiền giấy Việt Nam từ thời nhà Hồ tới nay. Đó là đồng mệnh giá 2
xu, phát hành năm 1959 có kích thƣớc là 83x 43mm và mệnh giá 5 xu phát hành
năm 1975 có kích thƣớc là 88 x42 mm. Về nghệ thuật tạo hình, hệ thống tiền 1959
đƣợc đánh giá có giá trị nghệ thuật cao nhất trong các hệ thống tiền Việt Nam. Các
đồng tiền đều có mảng cấu trúc rõ ràng, bố cục chắc chắn và hình vẽ chuẩn mực.
Đặc điểm nhận biết của bộ này là đƣờng trang trí phía trên thƣờng có hình
vòng cung (nhƣ các trán bia hoặc cửa võng). Nội dung phong cảnh chủ đề thƣờng là
sản xuất, nông nghiệp, xây dựng với cơ giới hóa (chỉ có 1 mẫu thể hiện phong cảnh
Vịnh Hạ Long). Điều này thể hiện rõ tinh thần thời đại, khi mà miền Bắc đang tiến
hành xây dựng CNXH với cơ khí hóa và điện khí hóa, đồng thời trở thành hậu
phƣơng lớn cho cách mạng miền Nam. Có thể nói đây là bộ tiền đạt tới đỉnh cao
46
trong nghệ thuật tạo các hoa văn trang trí tiền giấy của Việt Nam. Các hoa văn đƣợc
sử dụng chủ yếu mang phong cách Bắc Bộ. Các mảng trang trí đƣợc liên kết với
nhau hệt nhƣ các mảng chạm khắc đình làng với hoa văn hoa lá kết hợp với các
đƣờng nét đồ họa. Phần nền (màu nhạt) đƣợc thể hiện nhẹ nhàng, thƣờng mang tông
màu vàng hoặc hồng nhẹ. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ xuất hiện trên 2
mệnh giá lớn nhất của bộ tiền nhƣng đã trở thành chuẩn mực cho thể hiện chân
dung tiền giấy Việt Nam với 1 mẫu thể hiện góc nhìn thẳng, 1 mẫu thể hiện góc
nhìn bán diện. Tất cả các nét khắc chân dung đều rất tinh xảo, cách thể hiện khối
chuẩn mực mà mềm mại (điều mà các hệ thống sau này không đạt đƣợc). Nhìn tổng
thể, hệ thống tiền giấy 1959 đã đạt đƣợc độ chuẩn mực của mỹ thuật trên tiền giấy
Việt Nam, trở thành điểm sáng và là tiêu chuẩn cho ngôn ngữ đồ họa tiền giấy của
tiền giấy Việt Nam trong thế kỷ XX. [PL-MH 1.18]
- Hệ thống tiền của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
Nam Việt Nam
(Bảng tổng hợp hình ảnh và bố cục trang trí của UBTƯ MTDTGPMNVN,
xem phụ lục 1.12,1.13)
Tháng 1-1959, dƣới sự lãnh đạo của Bác, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15, đã xác định con đƣờng phát triển của cách mạng
Miền Nam, vạch rõ mục tiêu và phƣơng pháp cách mạng ở Miền Nam [70, tr.52].
Trong đó việc tự chủ về kinh tế, tài chính là điều kiện quan trọng đối với kháng
chiến và đồng bào miền Nam.
Các tờ tiền không có hình ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc huy,
có dòng chữ tiêu đề là UBTƢ MTDTGPMNVN, mặt sau không có tiêu đề gì khác.
Hình tƣợng mặt trƣớc mà mặt sau luôn là các hình ảnh về kháng chiến và kiến quốc.
Lúc này các tờ bạc đã trở thành công cụ tuyên truyền đấu tranh cách mạng. Mặt
trƣớc và mặt sau đều có dạng khung trang trí màu đậm đƣợc bố trí xung quanh và
hình ảnh chủ đề ở bên trong.
Về trang trí, mặt trƣớc sử dụng trang trí đƣờng diềm đối xứng qua trục trung
tâm ở trên và dƣới của tờ bạc. Các hoa văn trang trí hoa lá, hoa sen kết hợp với các
47
hình chữ triện. Các cụm số đƣợc phóng to, kết hợp cùng hoa văn lƣới ở dạng âm
bản, dƣơng bản để tạo thành các mảng trang trí có tính chất điểm nhấn chính của
mặt trƣớc tờ bạc.
Mặt sau tờ bạc sử dụng khung trang trí xung quanh (là phong cách phổ biến
của mẫu tiền giấy hệ thống 1959). Các họa tiết đan xen nhau nhƣ trong điêu khắc
đình làng bắc bộ thế kỷ XVII-XVIII. Các mảng trang trí này đƣợc tạo bởi cách nhân
đôi, đối xứng các cặp họa tiết, hình vẽ, đƣờng nét. Các họa tiết hoa lá thƣờng đƣợc
thể hiện dƣơng bản kết hợp âm bản để vừa phong phú, vừa tạo mảng đậm chắc cho
khung trang trí. [PL-MH 1.19]
- Hệ thống tiền phát hành năm 1975
(Bảng tổng hợp hình ảnh và bố cục trang trí của hệ thống tiền tiền giấy
1975, xem phụ lục 1.14,1.15)
Đƣợc ra đời nhằm thu đổi tiền của chính quyền Sài Gòn,trên đó in năm sản
xuất là 1966, có nhiều yếu tố giống tiền UBTƢMTDTGP MNVN nhƣ không có
Quốc huy và không sử dụng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dòng chữ tiêu đề ở
mặt trƣớc “Ngân hàng Việt Nam”, ở mặt sau là “Giấy bạc Ngân hàng Việt Nam”.
Bộ tiền này sử dụng chủ yếu các hình ảnh thể hiện tình quân dân, đời sống
ngƣời dân Nam bộ và đoàn kết Bắc – Trung - Nam. Hình ảnh chủ đề ở cả mặt trƣớc
và mặt sau chiếm diện tích lớn, đƣợc thể hiện nhƣ tranh thuốc nƣớc hoặc chì màu.
Về nghệ thuật bố cục, toàn bộ hệ thống tiền này sử dụng khung trang trí xung quanh
đối xứng qua trục trung tâm, hình ảnh ở trong khung trang trí. Các độ đậm chính
của tờ bạc đƣợc chuyển ra ngoại biên chứ không tập trung ở trung tâm tờ bạc.
Về nghệ thuật trang trí, kế thừa phong cách nghệ thuật trang trí đỉnh cao của
bộ tiền 1959, kết hợp hoa văn dân tộc và hoa văn lƣới, trong đó hoa văn dân tộc là
chính. Bố cục trang trí có khung trang trí xung quanh, hoa văn dầy đặc. Mặt trƣớc
thƣờng có khung trang trí trên dƣới, mặt sau có khung trang trí xung quanh là phong
cách chủ đạo của bộ tiền này. Các cụm trang trí chính đƣợc kết hợp tốt giữa số
mệnh giá làm trung tâm, hoa văn lƣới xung quanh tạo thành mảng hình lớn có độ
đậm tốt để làm điểm nhấn cho bố cục tờ bạc. Thủ pháp tạo hình trang trí là đối xứng
48
qua tâm hoặc đối xứng qua trục, thủ pháp nhân hình, thủ pháp tạo hình liên kết các
hoa văn, thủ pháp xen kẽ hoa văn thực vật với hoa văn chữ triện để tạo thành mảng
trang trí. [PL-MH 1.20]
- Hệ thống tiền giấy 1978
(Thống kê chi tiết hình ảnh và bố cục trang trí của hệ thống tiền 1978, xem
phụ lục 1.16,1.17)
Ngày 01/04/1978 Bộ chính trị ra nghị quyết 08/NQ-TW về việc thu hồi tiền
cũ, phát hành tiền mới, thống nhất tiền tệ trong cả nƣớc. Ngày 25/4/1978, Quốc hội
và Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam ra quyết định về thống nhất tiền tệ trong cả
nƣớc. Ngày 2/5/1978, tiến hành thu đổi tiền cũ, phát hành tiền mới. Nhƣ vậy đây là
lần đầu tiên, tiền Việt Nam đƣợc phát hành và tiêu dùng trong toàn lãnh thổ Việt
Nam với đơn vị là “đồng”.
Các tờ tiền (phát hành đợt 1 năm 1978) có Quốc hiệu và tiêu đề “Ngân hàng
Nhà nƣớc Việt Nam”, riêng các tờ phát hành trong đợt 2 (năm 1981) có thêm Quốc
hiệu “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Sở dĩ việc các đồng tiền phát hành đợt
1 chƣa có quốc hiệu là do việc chuẩn bị thiết kế và in ấn tiền giấy thƣờng diễn ra
trƣớc khiđổi tên nƣớc là “Cộng hòa XHCN Việt Nam” (ngày 02/07/1976, tại tại kỳ
họp thứ nhất của Quốc hội khóa VI). Nhƣ vậy các tờ tiền giấy phát hành lần đầu (có
đề năm sản xuất là 1976) đã đƣợc thiết kế trong giai đoạn trƣớc 7/1976, và lúc đó
chƣa quyết định đổi tên nƣớc thành CHXHCN Việt Nam.
Về hình tƣợng trên tiền giấy, không còn xuất hiện cảnh chiến đấu trong bộ tiền
này, cả hai đợt phát hành đều đƣa ra các hình ảnh phong cảnh đất nƣớc, cảnh nhà máy
xây dựng, công trình công nghiệp. Điều đó thể hiện quan điểm kiên quyết chuyển mình
sang giai đoạn mới là hàn gắn vết thƣơng chiến tranh, xây dựng đất nƣớc.Các mẫu
mệnh giá thấp không có chân dung Bác, các mẫu còn lại đều đặt vị trí chân dung ở
bên phải của mặt trƣớc tờ bạc. Trong đó, mẫu 20 đ là mẫu duy nhất có chân dung
khắc nghiêng bán diện là khá đạt, còn lại các mẫu có chân dung chính diện đều
không đƣợc thể hiện tốt về cấu trúc và thần thái Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu trong
các bộ tiền trƣớc, phần hình ảnh nội dung đƣợc thể hiện khá nhỏ, có xu hƣớng co
49
cụm vào trung tâm và vờn nhẹ ở phía ngoài, thì ở bộ tiền này hình ảnh mặt sau đã
đƣợc mở rộng, đôi chỗ còn tiếp giáp với khung trang trí.
Đặc điểm dễ nhận biết của bộ tiền này là việc sử dụng hoa văn dân tộc dày
đặc, có diện tích lề lớn, khung trang trí xung quanh nhƣ bộ tiền năm 1959 nhƣng
khung đã mảnh hơn, phần lề giấy xung quanh không đƣợc in nền và lề nhỏ hơn so
với các bộ tiền trƣớc đó. Đây chính là bƣớc chuyển về phong cách trang trí giữa các
sử dụng hoa văn truyền thống dày đặc và chuyển sang ít dần nhƣ ở mệnh giá 2
đồng, hoặc không có hoa văn nhƣ mệnh giá 100đ. Về bố cục, bộ tiền này cũng có
biểu hiện ban đầu của xu hƣớng tháo bỏ hai bên của khung trang trí nhƣ ở mặt trƣớc
tờ 5hào, 1đ, 5đ, 10đ, 20 đ, 50 đ. [PL-MH 1.21]
- Hệ thống tiền năm 1985
(Bảng tổng hợp hình ảnh và bố cục trang trí của tiền giấy phát hành 1985,
xem phụ lục 1.18,1.19,1.20,1.21)
Tháng 8/1985, Nghị quyết Trung Ƣơng 8 về cải cách Giá – Lƣơng - Tiền ra
đời. Tháng 9/1985, Nhà nƣớc tổ chức thu đổi tiền tệ với tỷ lệ 10 đ cũ lấy 1 đ mới và
phát hành vào lƣu thông các đồng tiền giấy mới.Đánh giá sự kiện này, Bộ Chính trị
đã nhận định:“Việc giải quyết vấn đề giá, lƣơng, tiền đã phạm sai lầm” [24, tr.74].
Chính điều này đã ảnh hƣởng tới việc phát hành tiền giấy khá lộn xộn trong giai
đoạn 1985-1987 và tiếp tục kéo dài tới những năm cuối thế kỷ XX.
Hệ thống tiền này có 2 đợt phát hành chính: (1) đợt đầu phát hành năm 1985,
(2) đợt sau phát hành từ năm 1987 kéo dài trong nhiều lƣợt với nhiều mệnh giá khác
nhau tới tận năm 2000 mới chấm dứt. Đây là giai đoạn phát hành tiền có mật độ dày
đặc nhất trong lịch sử tiền tệ Việt Nam, trong khoảng hơn 10 năm đã phát hành tới
24 mệnh giá, đặc biệt có những đồng tiền giấy chỉ tồn tại hơn 1 năm nhƣ trƣờng hợp
mệnh giá 1000đ và 2000đ phát hành đầu năm 1987 và thu đổi vào cuối năm 1988,
đồng thời phát hành loại khác cùng mệnh giá. [Phụ lục 1.18, 1.20]. Bộ tiền phát
hành năm 1985 phản ánh rõ bối cảnh nền kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh Việt
Nam giai đoạn này.
50
Về phần hình tƣợng, các chủ đề thƣờng là phong cảnh, các công trình trọng
điểm quốc gia thời đó, hoặc cảnh lao động trong nhà máy…tƣợng trƣng cho công
nghiệp hóa đất nƣớc. Có điểm đặc biệt về hình tƣợng trong bộ tiền này, liên tiếp 5
mệnh giá từ 5 hào, 1 đ, 2 đ, 5 đ, 10 đ đều có hình ảnh Cột cờ Hà Nội ở mặt trƣớc. Xét
hoàn cảnh nƣớc ta đang bị chiến tranh biên giới phía Bắc, việc các họa sĩ sử dụng
hình tƣợng Cột cờ Hà Nội phần nào nói lên tinh thần dân tộc của Việt Nam luôn
mạnh mẽ trong các hoàn cảnh có ngoại xâm.
Đặc điểm trang trí của bộ tiền này là không còn khung trang trí xung quanh.
Mặt trƣớc có diềm trang trí trên và dƣới bằng hoa văn lƣới và hoa văn dân tộc nhƣ
hoa sen, hoa lá… ở đầu mỗi dải trang trí. Mặt sau các diềm trang trí này nhẹ đi và
hòa vào hình ảnh nội dung ở giữa tờ bạc. Các cụm mệnh giá đƣợc phối hợp cùng
hoa văn lƣới để tạo thành họa tiết trang trí. Phần nền mặt trƣớc đƣợc trang trí khá
đơn giản với cụm họa tiết in chừa khe trắng ở trung tâm, toàn bộ phần màu nền
đƣợc trải đều, không in vào khu vực bóng chìm.
Lạm phát thời kỳ này khiến cho bộ tiền có nhiều điểm không logic, có những
đồng tiền mệnh giá lớn hơn nhƣng lại đƣợc đầu tƣ thiết kế in ấn sơ sài (trƣờng hợp
mẫu 200đ máy cày phát hành năm 1987, in in ốp-xét, có kích thƣớc nhỏ bé, trong
khi đó mẫu 100đ phát hành năm 1985 có kích thƣớc to hơn nhiều và đƣợc in lõm).
Về phong cách thiết kế tiền giấy, bộ tiền này có rất nhiều phong cách khác nhau, thể
hiện rõ sự lúng túng trong hoạch định chiến lƣợc thiết kế và việc triển khai thiết kế
đƣợc thực hiện quá gấp rút.Nếu các đồng mệnh giá nhỏ có xu hƣớng đơn giản, hiện
đại thì những đồng 100đ, 500đ phát hành năm 1985 lại sử dụng nhiều hoa văn, có
cảm giác hoài cổ. Đến đồng 100.000đ phát hành năm 2000 thì lại trở lại với phong
cách dày đặc hoa văn cả phần màu đậm lẫn màu nền nhƣ bộ tiền năm 1978. Có một
số ý kiến cho rằng tờ bạc 100.000đ là mẫu có đầu tƣ thiết kế và in ấn nhiều nhất,
nhƣng NCS cho rằng mẫu thiết kế này không thành công vì đã đi ngƣợc lại xu thế
thiết kế tiền giấy của thời đại. Trong hệ thống tiền giấy đang lƣu hành, còn 6 mẫu tiền
của bộ tiền 1985 là 100đ, 200 đ, 500 đ, 1000đ, 2000đ, 5000đ, trong đó đồng 5000 đ
đƣợc đánh giá cao nhất.
51
- Bộ tiền polymer
(Bảng tổng hợp hình ảnh, bố cục trang trí của tiền polymer, phụ lục 1.22,1.23)
Đƣợc ra đời trong giai đoạn hòa bình, đất nƣớc bƣớc vào quá trình hội nhập
quốc tế. Sự ra đời của tiền giấy polymer vừa là giải pháp chống lại nạn làm giả đang
diễn ra với mức độ tinh vi, quy mô ngày càng lớn, vừa là giải pháp làm sạch, đẹp và
nâng cao tuổi thọ của đồng tiền trong lƣu thông hiện đại (tuổi thọ của tiền giấy
cotton là 1,5 - 3 năm, tuổi thọ của tiền polymer ƣớc tính gấp 3-4 lần) [71, tr.108].
Về biểu tƣợng cho nhà nƣớc, bộ tiền polymer sử dụng các yếu tố biểu tƣợng chuẩn
nhƣ Quốc hiệu, Quốc huy và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, mặt sau có tiêu đề
“Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam”. Toàn bộ 6 mệnh giá tiền polymer đều sử dụng
một mẫu chân dung, nhìn thẳng và đƣợc thực hiện in lõm.
Về hình ảnh nội dung ở mặt sau, tất cả đều là phong cảnh, mang tính tƣợng
trƣng cho miền Bắc, Trung, Nam vừa tƣợng trƣng cho thiên nhiên, nguồn cội và
hiện đại hóa đất nƣớc.: Khai thác dầu khí ở ngoài khơi (10.000đ), Cầu Chùa - Hội
An (20.000đ), Phu Văn Lâu, sông Hƣơng-Huế (50.000đ), Khuê Văn Các
(100.000đ), vịnh Hạ Long (200.000đ) và làng Sen quê Bác (500.000đ). Đây là bộ
tiền mà cả 6 mệnh giá đều sử dụng hình ảnh phong cảnh, chỉ có duy nhất đồng
100.000đ vẽ Khuê văn các là có điểm thêm nhân vật.
Về bố cục, bộ tiền giấy polymer là bộ tiền đầu tiên ở nƣớc ta đƣợc xây dựng
trên nền tảng bố cục tổng thể về vị trí cửa sổ, bóng chìm, chân dung, các cụm mệnh
giá…cho tất cả các loại mệnh giá. Điều này thể hiện tính ổn định và hệ thống hóa
cao, tạo điều kiện để hình thành tính nhận biết tốt cho bộ tiền. Trang trí của bộ tiền
polymer khác với các bộ tiền trƣớc đó, các mẫu không có xu hƣớng sử dụng khung
trang trí và nhiều họa tiết, hoa văn dân tộc. Phần nền của tiền polymer đƣợc in tràn
nền, chứ không chừa lại lề trắng nhƣ một số bộ tiền trƣớc đó.
Do không sử dụng khung trang trí xung quanh nên các mảng hoa văn dân tộc
đều đƣợc đƣa vào phần màu nền (màu in ốp-xét). Thủ pháp thƣờng gặp trong cách
dùng họa tiết này là tạo các mảng hình vuông để dễ dàng ghép lại theo kiểu chắp
mảnh. Ƣu điểm của cách trang trí này là dễ tạo màu sắc, có chất cảm bề mặt, dễ sử
52
dụng các yếu tố chống giả và cho cảm nhận phong cách thiết kế hiện đại.Nền giấy
polymer có màu trắng đục đã ảnh hƣởng tới màu sắc và tính nhận biết của tiền
polymer. Rõ ràng là tính tƣơng phản và độ tƣơi của màu sắc trên tiền polymer
không thể nhƣ tiền giấy cotton. Ngoài nguyên nhân do chất giấy nền làm phản xạ
ánh sáng kém hơn nhƣng cũng còn do các nét của tiền polymer đƣợc chế bản đan
xen nhiều dạng nét hơn. [PL-MH 1.23]
Tiểu kết
Bên cạnh chức năng chính là tham gia vào xã hội nhƣ yếu tố quan trọng, tiền
giấy còn mang đậm hình thức mỹ thuật và là sản phẩm do ngành in ấn tạo ra. Trên
thế giới đã có ý kiến đặt vấn đề nghiên cứu về mỹ thuật trên tiền giấy ở thế giới,
xem tiền giấy nhƣ sản phẩm nghệ thuật đồ họa nhƣng ở Việt Nam thì chƣa xuất
hiện các công trình nghiên cứu mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam.
Chƣơng 1 có mục tiêu xác định sự tồn tại của mỹ thuật trên tiền giấy, coi tiền
giấy nhƣ thực thể mỹ thuật để đánh giá, xác định tiền giấy là sản phẩm của nghệ
thuật đồ họa.
Phần đầu của chƣơng đề cập tới các cơ sở lý luận của luận án cũng nhƣ các
khái niệm cơ bản về tiền giấy và nghệ thuật, trong đó có các khái niệm liên quan tới
đồ họa và mỹ thuật trên tiền giấy. Đây cũng là giới thuyết cần xác định của luận án,
giải quyết các vấn đề mang tính tổng quan liên quan tới nội dung của luận án, trả lời
câu hỏi về sự tồn tại của mỹ thuật trên tiền giấy. Căn cứ trên các khái niệm, cơ sở lý
luận và thực tiễn, NCS cho rằng dƣới góc độ nghệ thuật, tiền giấy cần đƣợc xem
nhƣ thực thể mỹ thuật. Tiền giấy Việt Nam là sản phẩm của đồ họa đặc biệt, trong
đó sự tồn tại của mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam.
Phần cuối của chƣơng, trên hƣớng tiếp cận về lịch sử và nghệ thuật, NCS
khái lƣợc các hệ thống tiền giấy đã đƣợc phát hành tại Việt Nam từ tiền giấy thời
nhà Hồ, tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng, tiền giấy chính quyền Sài Gòn VNCH và
các hệ thống tiền tiền giấy của Nhà nƣớc Việt Nam phát hành. Việc hệ thống hóa
này đƣợc xem xét từ bối cảnh xã hội dẫn tới việc phát hành tiền giấy, tới khái quát
đặc điểm mỹ thuật của các mẫu tiền trong bộ tiền đó.
53
Đồ họa tiền giấy có điểm khác so với đồ họa thông thƣờng về mức độ đầu tƣ
thiết kế và in ấn, tiền giấy là sản phẩm đồ họa in ấn có số lƣợng lớn nhất, đầu tƣ
thiết kế và in với công nghệ cao cấp nhất, vật tƣ tốt nhất. Đồng thời tiền giấy là sản
phẩm tồn tại rộng nhất, công chúng lớn nhất và thời gian tồn tại lâu nhất. Nghiên
cứu về mỹ thuật trên tiền giấy chính là nghiên cứu về cái đẹp thông qua các đối
tƣợng, hình ảnh nhƣ hoa văn họa tiết, hình ảnh nội dung chủ đề và chân dung Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng nhƣ phong cách trang trí của tiền giấy.
54
Chƣơng 2
NHẬN DIỆN YẾU TỐ MỸ THUẬT TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM
Cũng nhƣ tiền giấy trên thế giới, tiền giấy Việt Nam có hình chữ nhật, gồm
mặt trƣớc và mặt sau. Mặt trƣớc đƣợc coi là mặt chính của tờ tiền, thƣờng đƣợc
trang trí chi tiết và trang trọng. Trên đó có các biểu tƣợng Quốc gia nhƣ quốc hiệu,
quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và mệnh giá của tờ tiền. Mặt sau
thƣờng là hình ảnh chủ đề, mệnh giá với trang trí đơn giản hơn và ghi đơn vị phát
hành. Hình thức tiền giấy Việt Nam đƣợc hình thành với 3 mảng chính là hoa văn
trang trí, hình ảnh chủ đề và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó mảng hoa
văn, họa tiết đóng vai trò chính trong tạo dựng hình thức trang trí của tờ tiền.
2.1. Hoa văn họa tiết trên tiền giấy Việt Nam
Từ điển mỹ thuật phổ thông không có mục từ “hoa văn”, mục “họa tiết trang
trí” đƣợc giải thích là “hình vẽ trong trang trí”. Tuy nhiên các họa sĩ thƣờng sử dụng
thuật ngữ “hoa văn” nhằm chỉ các họa tiết có hình tƣợng trọn vẹn, mang tính phổ
biến và đặc trƣng. Về nghiên cứu hoa văn dân tộc, PGS.TS. Trần Lâm Biền cho
rằng “Việc nghiên cứu về “hoa văn Việt Nam” cũng là tìm về mạch nguồn bản sắc
văn hóa Việt Nam, qua đó phản ánh đƣợc tính chất xuyên suốt, đa dạng trong thống
nhất của lịch sử và văn hóa Việt Nam” [8, tr.5]. Nhƣ vậy nghiên cứu về hoa văn
trong tiền giấy chẳng những thấy đƣợc đặc trƣng mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam
mà còn thấy đƣợc dòng chảy văn hóa dân tộc trong sản phẩm đồ họa đặc sắc này.
2.1.1. Hoa văn đề tài Tứ linh
Hoa văn trang trí hình các con vật nhất là ở đề tài tứ linh (long, ly, quy,
phƣợng) là nhóm đƣợc ƣa thích ứng dụng trong trang trí mỹ thuật cổ Việt Nam.
Nhà nghiên cứu L.Cadière đã từng viết: “Trong các con thú đi vào nghệ thuật hoa
văn trang trí Việt Nam, “tứ linh” (bốn con thú có quyền năng”chiếm hàng đầu” [59,
tr.110]. Nguyên do là các hình tƣợng tứ linh mang đậm tính tôn giáo, đã đi vào tiềm
thức của ngƣời Việt, biểu hiện các quyền lực huyền bí. Mặt khác tứ linh đã hình
thành các đức tính quý giá tiêu biểu cho từng loài, cũng là tƣợng trƣng cho từng loại
sức mạnh ở đời thực.
55
- Hoa văn hình rồng
Trong các hoa văn tứ linh trên tiền giấy Việt Nam, hình tƣợng rồng luôn
chiếm vị trí ƣu tiên trong trang trí. Nếu ở phƣơng Tây, rồng tƣợng trƣng cho sức
mạnh và thƣờng đƣợc vẽ với cánh dơi, đuôi sƣ tử thì châu Á quan niệm rồng là biểu
tƣợng của linh thiêng, quyền lực, đẹp đẽ và thịnh vƣợng. Rồng đứng đầu trong bộ tứ
linh, mang quyền năng thống trị. Đối với cƣ dân lúa nƣớc nhƣ Việt Nam, rồng là vật
tổ của cƣ dân lúa nƣớc, mang lại ƣớc mơ sinh sôi, mƣa thuận gió hòa, mùa màng tốt
tƣơi, ấm no hạnh phúc [17, tr.114].
Chính với ý nghĩa thống trị, quyền lực và trƣờng tồn, rồng là hình tƣợng
đƣợc sử dụng rất nhiều trong trang trí tiền giấy ở Việt Nam. Trong tiền nhà Hồ, theo
Đại Việt sử ký toàn thƣ, rồng là hình tƣợng đƣợc vẽ trong tờ 1 quan (đồng tiền lớn
nhất). Tuy không còn hiện vật mẫu, tuy nhiên ta có thể phỏng đoán rằng hoa văn
rồng trên tờ tiền nhà Hồ mang phong cách rồng thời Trần.
Gần 500 năm sau, tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng luôn xuất hiện hình
tƣợng rồng. Trong đó đồ án Song long, Rồng mây đại hội, Lưỡng long chầu nguyệt,
Cá chép hóa rồng với phong cách rồng thời Nguyễn với đuôi xoáy là chủ đạo.
Trong giai đoạn đầu phát hành, hình tƣợng rồng có mặt hầu hết các mặt sau của tờ
tiền. Tại mặt trƣớc, hình tƣợng rồng đƣợc thể hiện với dạng đầu rồng, hoặc đồ án
rồng cuốn trên cột (thƣờng thấy trong kiến trúc cung đình Huế, thời Nguyễn). Đặc
biệt nhất là đồng 500 piastres (năm trăm đồng vàng), phát hành giai đoạn 1942-
1945 với hình tƣợng rồng mây chiếm toàn bộ mặt sau của tờ tiền [PL-MH 2.25].
Trong các tờ tiền giấy do chính quyền VNCH phát hành ở miền Nam, hình
tƣợng rồng xuất hiện lần đầu ở mặt sau tờ 5 đ (đồ án rồng phƣợng), 50đ (phát hành
năm 1955, đồ án rồng chầu), mặt trƣớc và mặt sau tờ 500đ (phát hành 1962), đồ án
cá hóa long trong mặt trƣớc tờ 20 đ (phát hành năm 1965). Hình tƣợng cá chép hóa
rồng còn đƣợc thể hiện rất đẹp trên mặt sau tờ 20 đ (phát hành 1965), tờ 1000 đ
nhƣng không đƣợc phát hành. Ngoài ra hình tƣợng rồng còn xuất hiện dƣới dạng
bóng chìm đƣợc xeo trong giấy in dƣới hình ảnh đầu rồng trong rất nhiều tờ tiền.
56
Hình tƣợng rồng trong trang trí tiền giấy của VNCH mang phong cách rồng nhà
Nguyễn với các đồ án trang trí của triều đình Huế thƣờng dùng [PL-MH 2.25].
Tại tiền giấy Việt Nam, ngay từ Tiền Tài chính hình tƣợng rồng đã đƣợc xuất
hiện trên tờ 100 đ Con trâu xanh. Khác với cách sử dụng hoa văn rồng của tiền giấy
ngân hàng Đông Dƣơng, đồ án rồng ở đây chỉ dùng làm nền với thủ pháp trang trí
nhân hình kiểu vải hoa hoặc đƣờng diềm. Đến đồng 50 đ (phát hành lần 2, in ở
chiến khu thì lại xuất hiện đồ án rồng chầu với hình 2 con rồng đứng đối xứng hai
bên tờ tiền theo đề tài Lưỡng long triều nguyệt. Phong cách rồng trong những mẫu
này mang những dạng thức và phong cách tiêu biểu của hoa văn rồng thời Nguyễn
[59, tr.115]. Kể từ bộ tiền 1951 tới sau này không thấy xuất hiện hoa văn hình rồng
nữa [PL-MH 2.26]. Điều này cũng cho NCS sự phỏng đoán là hình tƣợng rồng
không còn phù hợp với các đề tài trên tiền giấy Việt Nam giai đoạn sau 1959.
- Hoa văn hình Phượng
Chim phƣợng hay còn gọi là Phƣợng hoàng, chim phụng là biểu tƣợng của
điềm lành, là linh thú trong bộ Tứ linh mà tiền giấy Việt Nam thƣờng sử dụng.
Phƣợng xuất hiện là báo điềm lành, xã hội thái bình, thịnh vƣợng. Phƣợng đƣợc mô
tả với hình dạng đầu trĩ, đuôi công, mào khuôn theo hình mây, lông ánh rực lửa [17,
tr.132].
Tiền nhà Hồ, hình tƣợng chim phƣợng đã đƣợc thể hiện trên tờ tiền 5 tiền
(mệnh giá lớn thứ hai trong hệ thống). Ở tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng, hình
tƣợng phƣợng ít đƣợc sử dụng hơn so với hình tƣợng rồng. Thay thế vào đó là hình
tƣợng chim công trên tờ 5 piastres phát hành năm 1923. Tiền giấy do chính quyền
Sài Gòn có sử dụng hình tƣợng chim phƣợng trên mặt trƣớc tờ 5 đ (phát hành 1955)
với đồ án Rồng-Phƣợng; đồng 100 đồng phát hành giai đoạn 1956-1960 có hình
tƣợng phƣợng múa.
Đối với tiền giấy Việt Nam do Việt Nam DCCH (nay là CHXHCN Việt
Nam) phát hành, hình tƣợng phƣợng có vẻ ƣa đƣợc sử dụng hơn. Ngay từ Tiền Tài
chính, hình tƣợng phƣợng đã xuất hiện ở tờ 20 đ (mảng hoa văn phƣợng), tờ tiền 50
đồng (phát hành lần 1) có hai mảng hoa văn chim phƣợng đối xứng hai bên theo
57
phong cách Nguyễn đƣợc thể hiện rất chi tiết, tinh tế với đề tài Song phụng triều
dƣơng [59, tr.9]. Đến đồng 50 đ (phát hành lần 2 tại chiến khu), hình tƣợng phƣợng
vẫn còn nhƣng cách thể hiện khá thô sơ và đƣờng nét thô, to (nguyên nhân do sử
dụng phƣơng pháp in nét nổi). Trong các bộ tiền Nam bộ, Tín phiếu Liên khu V
không xuất hiện hoa văn chim phƣợng. Bộ tiền phát hành 1951, hoa văn chim
phƣợng đƣợc xuất hiện ở mẫu 500 đ bằng phƣơng pháp in lõm với màu đậm. Bộ
tiền Ủy ban, bộ tiền 1975 và 1978 đều không thấy xuất hiện hoa văn hình chim
phƣợng. Đến bộ tiền 1985, hoa văn chim phƣợng mới xuất hiện trở lại trên mặt sau
tờ 2 đ. Cũng trong bộ tiền 1985, hình tƣợng chim phƣợng đƣợc thể hiện in lõm, trau
chuốt trên màu đậm tại mặt sau tờ 100.000đ (tờ tiền có mệnh giá cao nhất của hệ
thống 1985). Hình chim phƣợng trên tờ này đƣợc lấy nguyên mẫu từ hình chim
phƣợng trong bản rập ở chùa Ngọc Khám, Bắc Ninh mang phong cách chạm khắc
cuối thời Lê, đầu Nguyễn, sau đó cách điệu lại phần đuôi để tạo mảng [17, tr.139].
Đến bộ tiền polymer, hoa văn hình chim phƣợng đƣợc xuất hiện 3 lần trên
tổng số 7 mẫu với màu nền của mặt sau tờ tiền 10.000 đ,tờ 50.000 đ, với màu mực
đổi màu OVI của tờ 500.000đ.
Nhìn chung các đồ án chim phƣợng trên tiền giấy Việt Nam mang phong
cách hoa văn trang trí thời Nguyễn, riêng đồng 50.000 có sử dụng hình chim
phƣợng cách điệu nhƣng không rõ nét. Chi tiết chim phƣợng trên tờ 500.000đ đƣợc
in ở mặt trƣớc là hình chim phƣợng thời Lý mà đã thấy nhiều trong cuộc khảo cổ
Hoàng thành Thăng Long, trong di vật đất nung ở Chùa Hang hoặc hiện vật tại bảo
tàng Nam Định [17, tr.139], [PL-MH 2.27, 3.58 ].
Việc các bộ tiền gần đây xuất hiện ngày càng nhiều hoa văn chim phƣợng
dẫn tới suy nghĩ về sự thay đổi trong tâm lý họa sĩ thiết kế thích hoa văn nhẹ nhàng
vừa truyền thống vừa có nét thời đại.
- Hoa văn hình Kỳ lân
Kỳ lân/Ly là đứng hàng thứ ba trong bộ tứ linh, có hình dạng đầu rồng, mình
và chân nhƣ hƣơu, bờm và đuôi nhƣ sƣ tử. Kỳ lân có thể có 1 hoặc 2 sừng, trên
58
mình có lông lửa ở vai và kheo chân. Kỳ lân đại diện cho quân tử, công minh và đạo
đức, kỳ lân xuất hiện báo điềm lành [17, tr.143].
Trong tiền giấy thời nhà Hồ, hình tƣợng kỳ lân đƣợc thể hiện trên tờ 3 tiền
(mệnh giá lớn thứ ba). Ở tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng, hình tƣợng kỳ lân đƣợc
thay thế bằng hình con báo, thể hiện với phong cách tả thực.Tiền giấy của Việt Nam
Cộng hòa phát hành có hình tƣợng hai kỳ lân chầu ngọc ở mặt sau tờ 500đ (phát
hành 1964) đƣợc thể hiện với phong cách hoa văn trang trí thời Nguyễn. Về sau
này, hình tƣợng kỳ lân đƣợc thể hiện dƣới dạng con báo hoặc con hổ và phong cách
tả thật bằng kỹ thuật in ấn hoặc làm bóng chìm giấy. Tiền giấy Việt Nam phát hành
không thấy xuất hiện hoa văn hình kỳ lân.
- Hoa văn hình Rùa
Đối với hình tƣợng Rùa, chỉ xuất hiện duy nhất trên tiền giấy thời nhà Hồ ở tờ
2 tiền. Tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng, tiền giấy Việt Nam Cộng hòa và tiền giấy
Việt Nam không xuất hiện hình tƣợng rùa theo phong cách trang trí hoặc tả thực.Tuy
nhiên trong phiếu tiếp tế (một dạng giấy tờ có giá) phát hành trong kháng chiến
chống Pháp và đƣợc lƣu hàng riêng tại tỉnh Hà Tiên có hình hai con rùa bơi trong
sóng nƣớc với cách thể hiện dạng khắc gỗ đơn giản.
Việc ứng dụng hoa văn trang trí với đề tài tứ linh trong mỹ thuật Việt Nam
giai đoạn này, ngoài tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống có hình tƣợng tứ linh,
ngoài ra không thấy xuất hiện trong các tác phẩm đồ họa khác. Về sau, các hoa văn
trang trí đề tài tứ linh cũng chỉ xuất hiện trong các công trình mang tính tín ngƣỡng,
tôn giáo chứ ít xuất hiện trong trang trí thƣờng nhật hoặc tranh đồ họa in ấn.
2.1.2. Hoa văn thực vật
- Hoa văn hình hoa sen
Nhà nghiên cứu mỹ thuật, PGS.TS. Trần Lâm Biền cho rằng “Cây cỏ là đề
tài hằng xuyên trong nghệ thuật tạo hình của ngƣời Việt” [9, tr.246]. Trong các loài
thảo mộc, hoa sen mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp và là một trong các hình tƣợng thực
vật đƣợc hay đƣợc sử dụng trong trang trí truyền thống. Trong trang trí tiền giấy
cũng vậy, hoa văn hoa sen là chi tiết rất hay gặp trong các đồng tiền giấy Việt Nam.
59
Nó có thể xuất hiện ở dạng bóng chìm trong giấy, in chìm trong nền, làm chi tiết
trang trí chính của màu đậm và đƣợc sử dụng với nhiều thủ pháp trang trí nhƣ nhân
bản, lật hình,ghép thành hoa dây, ghép cùng hoa lá khác…
Tiền giấy thời nhà Hồ, tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng, tiền giấy của chính
quyền Việt Nam cộng hòa không thấy xuất hiện hoa văn trang trí hoa sen.
Ở tiền giấy Việt Nam, giai đoạn Tiền Tài chính (phát hành 1946) hoa văn
hoa sen xuất hiện tại màu nhạt của tờ 5 đ và 20đ. Ở mẫu 5 đ, hoa văn hoa sen đƣợc
thể hiện âm bản, bố trí thêm một số cánh hoa và hình mây tạo thành mảng trang trí
nền phong phú. Trong bộ tiền Nam Bộ, hình hoa sen đã xuất hiện tại đồng tiền
mệnh giá 50 đồng (đồng Vệ quốc quân, phát hành 1950). Hoa sen trên tờ này đƣợc
tạo thành mảng nền cho chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhƣ có ý nghĩa so sánh,
tôn vinh nhƣ câu ca: “Tháp Mười đẹp nhất hoa sen, Việt Nam đẹp nhất có tên Bác
Hồ”. Cách thể hiện của mảng trang trí hoa sen này có phong cách thiên về đi nét tả
thực, các đƣờng gân lá lộ rõ nhìn từ trên xuống và đƣợc in âm bản.
Tại hệ thống Tín phiếu Liên khu V, hoa văn hoa sen đƣợc dùng làm nền cho
mệnh giá tại tờ 5đ phát hành 1947. Bộ tiền năm 1951 không có hoa văn hoa sen.
Bộ tiền 1959, hoa văn hoa sen xuất hiện rất nhiều, đồng loạt trên nhiều loại
mệnh giá, thậm chí có nhiều họa tiết hoa sen trên một mặt của tờ tiền. Hoa văn này
đƣợc thể hiện khá phong phú, có thể thấy ở màu nền, màu đậm với nhiều hình thức
đa dạng. Hoa sen đƣợc kết thành dây, tạo cùng hoa văn lƣới, tạo cùng hoa văn lá đề
hoặc các loại hoa lá khác, đứng độc lập… Phong cách thể hiện hoa văn hoa sen theo
cách trang trí, giống nhƣ các mảng chạm khắc đình làng. Có một số hình hoa sen
cách điệu, phần cánh thì nhìn theo góc nghiêng, phần đài thì nhìn thẳng từ trên
xuống. Đặc điểm chung làhình vẽ khá cầu kỳ, nhiều cánh tầng lớp, mỗi cánh lại có
các đƣờng cong ở rìa cánh và nhọn ở đầu. Đôi khi xuất hiện hoa văn hoa sen đặt
theo góc nghiêng. Mặt sau mẫu 10đ là có nhiều hình hoa văn hoa sen nhất, hoa sen
vừa đƣợc thể hiện theo góc thẳng đứng và mặt bên vừa đƣợc thể hiện trong phần
màu đậm và nền. Trong phần nền, hoa văn hoa sen giống nhƣ các bức chạm gỗ ở
đình chùa, đƣợc bố trí theo dạng vải hoa, khá dày đặc [PL-MH 2.28 ].
60
Sau bộ tiền 1959, hoa văn hoa sen xuất hiện nhiều trong tiền giấy Ủy ban
TƢMTDTGPMNVN cũng nhƣ bộ tiền năm 1975, 1978. Tại bộ tiền 1978, phong
cách trang trí đã trở nên dày đặc, hoa văn hoa sen cũng đƣợc cách điệu theo xu
hƣớng thêm cánh, thêm tầng. Thể hiện rõ nhất của phong cách này ở mẫu 10 đ (hình
ảnh voi kéo gỗ) và mẫu 100 đ (vịnh Hạ Long). Cách thể hiện hoa văn hoa sen rƣờm
ra này chỉ kết thúc vào bộ tiền 1985, khi các hoạ sĩ thể hiện mong muốn có sự cách
tân nào đó trong phong cách mỹ thuật trên tiền giấy.
Trong bộ tiền 1985 ta có thể thấy hoa văn hoa sen trong tờ tiền mệnh giá 5
hào, 1 đ (2 mặt), 2 đ (mặt trƣớc), 10 đ (mặt sau), 30đ (mặt sau), 50 đ (mặt sau),
500đ (2 mặt), 1000đ (mặt trƣớc), 2.000đ (mặt trƣớc), 5.000đ (mặt trƣớc), 10.000đ
(mặt trƣớc), 20.000đ(mặt sau), 50.000đ (mặt trƣớc), 100.000đ (2 mặt). Trong bộ
1985, hoa văn hoa sen đƣợc thể hiện theo phong cách trang trí truyền thống với
cách dùng nét bao xung quanh và hình đối xứng qua trục trung tâm của hoa sen.Tuy
hoa văn hoa sen đƣợc dùng trong bộ tiền 1985 rất nhiều nhƣng trên từng mẫu vẽ,
hoa văn này thƣờng đƣợc thể hiện khá đơn giản hoặc đôi khi cách điệu thái quá, xa
rời cách thể hiện truyền thống, thậm chí có nhiều mẫu thể hiện hoa sen rất thiếu
thẩm mỹ nhƣ ở mặt trƣớc mẫu 1 đ, mặt trƣớc mẫu 2000đ...Nguyên nhân của sự
chuyển đổi phong cách theo hƣớng này là bộ tiền 1985 đƣợc thiết kế khá gấp gáp,
các hoạ sĩ có tƣ tƣởng muốn cách tân, thoát ly khỏi thẩm mỹ tiền giấy đã đƣợc xây
dựng từ bộ tiền 1959 bởi các họa sĩ lão thành [PL-MH 2.29].
Tại bộ tiền polymer, hình tƣợng hoa sen xuất hiện với các phong cách đồ họa
khác nhau, ở mặt trƣớc tờ 10.000 đ là hoa văn hoa sen trong khung trang trí bên
dƣới, ở tờ 20.000đ là cánh sen xếp thành vòng cung, ở tờ 50.000đ là hoa sen cách
điệu tự do ở mặt trƣớc và theo phong cách trang trí truyền thống ở mặt sau; tờ
100.000đ hoa văn hoa sen xuất hiện 2 chi tiết ở mặt trƣớc; tờ 200.000đ hoa văn hoa
sen có cả ở mặt trƣớc và mặt sau với thủ pháp in định vị hai mặt. Tờ bạc 500.000đ
do vẽ với chủ đề làng Sen quê Bác nên đƣợc tập trung thể hiện hình tƣợng hoa sen
một cách toàn diện với các chi tiết nhƣ cửa sổ, hoa văn độc lập ở mặt trƣớc và dải
hoa văn ở mặt sau [PL-MH 2.30].
61
Tại bộ tiền này, cách thể hiện hoa văn hoa sen cũng khá đa dạng. Nó không
chỉ thực hiện bằng phƣơng pháp in ấn thông thƣờng mà còn đƣợc in bằng mực
không màu, đƣợc thực hiện dƣới dạng cửa sổ hoặc bóng chìm trên giấy nền, thậm
chí còn đƣợc thể hiện bằng phƣơng pháp khắc laser đặc biệt trên cửa sổ nhỏ của
đồng 500.000đ. Mẫu hoa sen trên tiền giấy đƣợc thể hiện rất phong phú, lấy nguyên
mẫu từ hoa văn trang trí của nhiều thời từ Lý đến Nguyễn và đƣợc cách điệu khá
nhiều phong cách.
- Hoa văn hình dải hoa
Dải hoa dây là đồ án hoa văn thƣờng đƣợc sử dụng nhất trong tiền giấy Việt
Nam và gây cảm nhận trực tiếp nhất về hoa văn trang trí dân tộc. Trong dải hoa văn
này thƣờng thấy cấu trúc trung tâm là hoa cúc, hoa sen, với cuộng/sống là dây leo,
tạo thành các cung hình sin nối tiếp nhau, hai bên là hai hàng lá cúc và tay mƣớp.
Các dải hoa này đƣợc kết cấu theo dạng đối xứng và đƣờng diềm chạy thành khung
trang trí của tờ tiền. Đồ án này có ƣu điểm vừa phối hợp đƣợc nhiều loại hoa lá với
hoa văn lƣới và hoa văn chữ triện tạo thành mảng trang trí lớn giữ vị trí quan trọng
trong bố cục tiền giấy.
Ở tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng, không xuất hiện khung trang trí với dải
hoa văn dân tộc mà thay vào đó là khung trang trí chữ triện kết hợp hoa lá, hoặc hoa
văn lƣới. Ở giai đoạn phát hành sau 1945, tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng mới
xuất hiện hoa văn trang trí hoa dây, tuy nhiên vẫn khá đơn giản. Trong tiền giấy do
chính quyền Việt Nam Cộng hòa phát hành, không thấy xuất hiện dạng hoa văn dải
hoa . Thay vào đó là các khung trang trí hoa văn lƣới hoặc một cụm hoa văn trang
trí. Đặc biệt trên tờ 50 đồng phát hành 1966, xuất hiện cả mảng hoa văn trang trí lớn
chiếm toàn bộ bề mặt của tờ tiền.
Trong tiền giấy Việt Nam, tiền Tài chính và tiền ngân hàng phát hành năm
1951chƣa xuất hiện dạng hoa văn dải hoa. Thay vào vị trí dải hoa là khung trang trí
hoa văn lƣới hoặc hình chữ triện chạy theo đƣờng diềm.
Bộ tiền phát hành 1959 là sự thăng hoa đột biến trong phong cách trang trí
dùng hoa văn hoa dây. Tất cả các mẫu từ mệnh giá lớn tới nhỏ đều có khung trang
62
trí dày đặc với đồ án hoa dây. Các đồng tiền tiêu biểu cho phong cách trang trí dải
hoa này là 1hào, 2 hào, 5 hào, 1 đ, 2 đ, 5 đ. Riêng đồng 10đ (là đồng có mệnh giá
lớn nhất trong hệ thống) lại không có hoa văn dải hoa dây mà sử dụng khung trang
trí hoa văn lƣới. Đồ án dải hoa dây có 2 ƣu điểm, vừa phong phú trong hình thể và
hoa văn vừa chặt chẽ trong bố cục. Sự xuất hiện đầu tiên các mảng đồ án hoa dây có
lẽ ở bộ tiền 1959, ở bộ này với khung trang trí dày đặc hoa văn xung quanh. Các
họa tiết hoa văn mang phong cách truyền thống mà ta hay gặp trong chạm khắc ở
cửa võng, đầu hồi của đình làng chùa triền. Các dải hoa văn này đƣợc thể hiện thật
tài tình, mảng hình gắn kết cùng nhau, tại các góc thƣờng đƣợc bố trí các hoa văn
chữ triện theo phong cách thời Nguyễn để tạo thế vững chắc. Nhằm tăng cƣờng
thêm sự phong phú, mảng hoa văn này đƣợc đặt kèm các họa tiết hoa văn lƣới ở
dạng dƣơng bản và âm bản [PL-MH 2.31].
Bộ tiền UBTƢ MTDTGPMNVN có phong cách sử dụng hoa văn trang trí
hoa dây giống bộ tiền 1958, các hoa văn khá trang nhã mang phong cách trang trí
truyền thống ở đình chùa miền Bắc. Bộ tiền 1975 và 1978 vẫn ƣa chuộng các sử
dụng hoa văn hoa dây. Trong bộ tiền 1978, phong cách trang trí hoa văn hoa dây nổi
trội tại các tờ tiền 10 đ, 20 đ, 50 đ. Riêng tờ 30 đồng của bộ tiền này không có hoa
văn hoa dây.
Tại bộ tiền 1985, phát hành trong giai đoạn cải cách tiền tệ “giá-lƣơng-tiền”
và lạm phát cao độ, nên các mẫu thƣờng đƣợc thiết kế nhanh chóng. Có lẽ vì thế
không xuất hiện hoa văn trang trí dải hoa dây cầu kì. Thay vào đó là các khung
trang trí hoa văn lƣới và các cụm hoa văn dân tộc đƣợc thể hiện khá thô sơ, đặt ở
các góc hoặc ở khu vực chân dung và cụm mệnh giá. Sang đến bộ tiền polymer, hoa
văn dải hoa cùng phong cách trang trí kiểu “hoành phi câu đối” hoàn toàn biến mất.
Có lẽ xu hƣớng thẩm mỹ hiện đại châu Âu và tiền polymer của Úc đã ảnh hƣởng tới
xu thế thiết kế của bộ tiền này.
- Họa tiết trang trí hình bông lúa
Đồ án trang trí họa tiết hình bông lúa là dạng khá đặc biệt, đây là dạng hình
ảnh bông lúa đƣợc vẽ lại rồi đơn giản hóa và cách điệu đôi chút. Trong các nghiên
63
cứu về hoa văn cổ của Việt Nam, chƣa thấy đề cập tới hoa văn hình bông lúa. Trong
tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng, hình tƣợng bó lúa có đƣợc sử dụng theo phong
cách hiện thực tại mặt trƣớc tờ 1 piastres phát hành trong giai đoạn đầu. Tiền giấy do
VNCH phát hành cũng không xuất hiện đồ án họa tiếthình bônglúa.
Trong tiền giấy Việt Nam, hình tƣợng lúa đƣợc xuất hiện khá nhiều trong
hình ảnh chủ đề hoặc hoa văn trang trí. Tại Tiền Tài chính, tờ 100 đồng (con trâu
xanh), chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khung trang trí hình bông lúa tết lại
thành dạng vành khăn và mặt sau có hoa văn tạo thành bởi các bắp ngô. Hoa văn lúa
và ngô ở tờ tiền này đƣợc thể hiện theo phong cách tả thực. Trong tiền giấy Nam
Bộ, hoa văn bông lúa đƣợc xuất hiện nhiều trên tờ 5 đ (mặt trƣớc), 10 đ(mặt trƣớc),
50 đ (2 mặt), 100 đ (2 mặt). Đặc biệt trong tờ 5 đồng (phát hành ở Mỹ Tho), họa tiết
bông lúa trở thành đồ án trang trí chủ đạo chiếm toàn bộ mặt trƣớc tờ tiền. Trong
Tín phiếu Liên khu V, cũng xuất hiện rất nhiều hoa văn bông lúa với đồ án bông lúa
kết lại thành vòng tròn quanh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bộ tiền 1951 do Trung Quốc giúp ta in ấn cũng xuất hiện hoa văn hình tƣợng
lúa kết thành vòng, theo phong cách tả thực đặt tại khu vực chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại tờ 20đ, 50 đ và đặt tại cụm mệnh giá ở tờ 5000 đ. Các bộ tiền 1959 và
các bộ tiếp theo không còn xuất hiện họa tiết bông lúa nhƣng hình tƣợng lúa (cánh
đồng lúa, gặt lúa) vẫn tồn tại trong hình ảnh chủ đề. Về phong cách tạo hình, các
cụm họa tiết hình bông lúa thƣờng đƣợc tết thành 2 bó, đặt chéo nhau nhƣ hình bó
lúa trong Quốc huy, hoặc đƣợc tách thành từng hạt để sắp xếp bố cục thành mảng
trang trí nền [PL-MH 2.32].
2.1.3. Hoa văn hình học
Đây là dạng hoa văn xuất hiện sớm và tồn tại trong tất cả các bộ tiền giấy
Việt Nam. Trong mỹ thuật truyền thống, hoa văn hình học là dạng hoa văn xuất
hiện sớm nhất. Ngƣời ta phát hiện các viên sỏi, xƣơng trên đó có các đƣờng thẳng
song song, hình vuông, hình tròn khá tinh tế tại di chỉ Hòa Bình- Bắc Sơn [17,
tr.11]. Đến nền văn minh Đông Sơn, các hoa văn hình học đã trở nên phong phú với
tạo hình rất nhuần nhuyễn và có nhịp điệu. Nhà nghiên cứu Nguyễn Du Chi đã
64
thống kê tới 20 kiểu hoa văn kỷ hà trong nền mỹ thuật cổ Việt Nam. Đáng chú ý có
loại hoa văn hình tam giác, hình ngôi sao, mặt trời, hình rẻ quạt, hình chữ S biến
thể, hình chữ V lồng, hoa văn đƣờng gập khúc…[17, tr.29-56]. Các hoa văn này khá
đẹp và có cấu trúc phức tạp. Các hoa văn kỷ hà xƣa kia đã phát triển trong suốt quá
trình lịch sử đƣợc ứng dụng trong trang trí các sản phẩm từ dân dụng tới trang trí
công trình tôn giáo, lăng tẩm đã đƣợc ứng dụng nhiều trong trang trí tiền giấy Việt
Nam. Cạnh đó, các hoạ sĩ vẽ tiền cũng vừa tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc,
vừa phát huy sáng tạo ra các kiểu hoa văn trang trí mang tính thời đại.
Căn cứ theo các dạng hoa văn hình học đƣợc tác giả Nguyễn Du Chi đề cập
trong cuốn Hoa văn Việt Nam [17], NCS áp dụng xếp loại các dạng hoa văn hình
học trên tiền giấy thành các dạng nhƣ sau:
- Hoa văn hình ngôi sao 5 cánh
Hoa văn hình ngôi sao 5 cánh là dạng hoa văn hình học, không tồn tại trong
mỹ thuật truyền thống. Hoa văn ngôi sao 5 cánh không xuất hiện trong tiền giấy
ngân hàng Đông Dƣơng phát hành. Trong tiền giấy Việt Nam, hoa văn hình ngôi
sao năm cánh xuất hiện rất nhiều với ý nghĩa là biểu tƣợng cho nƣớc Việt Nam
DCCH. Trong bộ Tiền Tài chính, Tín phiếu Liên khu V, tiền Nam Bộ, bộ tiền 1951,
bộ tiền 1959, bộ tiền UBTƢMTDTGP MNVN, bộ tiền 1985 dƣới nhiều cách thể
hiện nhƣ in màu nền, hình bóng chìm trên giấy (tại giấy in tiền Tài chính và bộ tiền
1959). Tại bộ tiền Ủy ban, vì không sử dụng quốc huy nên rất nhiều mẫu trong bộ
này đều có hoa văn ngôi sao 5 cánh. Đến những bộ tiền gần đây, hoa văn ngôi sao ít
xuất hiện hơn. Tại bộ tiền 1978 (thống nhất tiền tệ trong cả nƣớc), hoa văn ngôi sao
5 cánh chỉ còn xuất hiện ít dƣới dạng in chìm của tờ 50 đ. Bộ tiền 1985 cũng chỉ
còn ở đồng 500 đ.
Có thể việc xuất hiện ít dần của hoa văn ngôi sao 5 cánh do hình tƣợng này
đã xuất hiện trên quốc huy và hình ảnh chủ đề.Bộ tiền polymer, ngôi sao 5 cánh
không còn xuất hiện nữa, thay vào đó là các họa tiết mang hình hoa sen cách điệu
theo phong cách hoa văn hình học, với số cánh hoa lẻ và tỏa cân đối 2 bên.
65
- Hoa văn dạng dạng que, chấm, các nét song song và đồng tâm
Đây cũng là loại hoa văn cổ xƣa của mỹ thuật truyền thống. Hoa văn dạng
que, chấm, đoạn thẳng song song hoặc đƣờng tròn đồng tâm là những họa tiết hình
học cơ bản để biến thể thành các dạng hoa văn có cấu trúc phức tạp hơn.Với hình
thức đơn giản và khả năng thích ứng trong trang trí cao, hoa văn dạng này có thể tồn
tại trong nhiều kiểu thức trang trí. Tuy nhiên, có lẽ vì sự đơn giản trong hình thức
của nó nên bộ tiền Tài chính và tiền Ngân hàng 1951 không sử dụng. Trong tiền
giấy Việt Nam, bộ tiền polymer có sự phối với các hoa văn dạng này phong phú và
đẹp nhất bởi đƣợc thiết kế bằng máy tính với kỹ thuật in ốp-xét khô simultal (có thể
thực hiện đƣợc thủ pháp nối nét nối màu) mà các kỹ thuật in ốp-xét nƣớc trƣớc đó
không thể đạt đƣợc do thiếu sự chính xác. Những mảng hình này đƣợc phối hợp với
hoa văn hoặc đồ họa chữ tạo thành nền đa màu sắc và có khả năng chống làm giả rất
cao, tiêu biểu là mặt trƣớc tờ 10.000đ, 100.000 đ, 200.000 đ, tờ 500.000 đ.
- Hoa văn hình lục giác, tam giác, quả trám
Dạng hoa văn này mang tính trang trí cơ bản nhất, xuất hiện trên rất nhiều
mẫu tiền giấy từ tiền giấy của Việt Nam. Ở một số bộ tiền trƣớc đây, hoa văn dạng
này thể hiện trong màu đậm, đến những mẫu tiền phát hành năm 1987, hoa văn này
xuất hiện dƣới dạng giả in ốp-xét simultal với các ô màu có chừa nét trắng ở giữa.
Đến bộ tiền polymer thì hoa văn dạng này xuất hiện rất nhiều trong màu nền
với chức năng vừa trang trí vừa tăng cƣờng chống in giả. Do có cấu trúc hình học,
dễ lắp ghép tạo thành các mô-đun nên dạng hoa văn này thƣờng đƣợc thể hiện với
phƣơng pháp màu đơn, ghép màu (nối nét), đan màu, chứ không dùng phƣơng pháp
chồng màu đè lên nhau.
Đặc biệt hoa văn này thƣờng kết hợp cùng các hoa văn chấm vạch thể tạo
thành tổ hợp trang trí màu nền. Tại bộ tiền polymer, tờ bạc mệnh giá 50000 đ có
phong cách trang trí nền với ứng dụng nhiều hoa văn vạch, kẻ, kết hợp với hoa văn
quả trám đƣợc in xen kẽ. Tuy nhiên cách biểu hiện của dạng trang trí tại mẫu này
còn khá đơn giản và thô, ngƣời xem có thể quan sát dễ dàng bằng mắt thƣờng dẫn
tới cảm nhận thiếu tinh tế của thẩm mỹ tiền giấy.
66
- Hoa văn hình chữ triện, chữ S biến thể
Hoa văn chữ triện thực tế là hoa văn hình học với hình cơ bản là hình chữ
nhật, hình tam giác nhƣng có nét chạy liên tục, hình này phối hợp với hình khác tạo
thành tổ hợp đƣờng diềm hoặc hình tròn. Một dạng khác của hoa văn chữ triện
thƣờng xuất hiện phối hợp với hoa văn hoa lá và hoa văn lƣới tạo thành khung trang
trí của tiền giấy. Phong cách trang trí này thấy xuất hiện nhiều nhất trong bộ tiền
1959, sau đó kéo dài tới đầu những năm 1980 của thế kỷ trƣớc.
Trong tiền giấy Việt Nam, hoa văn chữ triện có 2 phong cách chủ yếu là
phong cách đƣờng nét kỷ hà và phong cách đƣờng nét dạng hoa văn dân tộc (giống
các hình chạm khắc trên tƣờng, đồ gỗ của kinh thành Huế thời Nguyễn). Dạng hoa
văn chữ triện xuất hiện nhiều trong tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng, tiền giấy
VNCH và các bộ tiền giấy Việt Nam. Trong đó, sự thành công nhất trong ứng dụng
hoa văn chữ triện là bộ tiền 1959, khi phối hợp hoa văn hoa lá, hoa văn lƣới và hoa
văn chữ triện rất hài hòa, vừa chắc chắn vừa phong phú về tạo hình. Bộ tiền Ủy ban
và bộ tiền 1975, 1978 vẫn còn xuất hiện hoa văn chữ triện, nhƣng đến bộ 1985 và
tiền polymer thì không thấy sự xuất hiện của hoa văn chữ triện nữa. Có lẽ các họa sĩ
thiết kế cho rằng phong cách hoài cổ của dạng hoa văn chữ triện không còn phù hợp
với xu thế thiết kế hiện đại trên các mẫu tiền mới [PL-MH 2.33].
- Hoa văn hình sóng nước, rẻ quạt, đám mây
Đây là dạng hoa văn vừa có cảm nhận dân tộc, vừa có cảm nhận hình học mà
lại bay bổng đậm chất nghệ thuật và triết học Á Đông. Có lẽ tiền giấy thời nhà Hồ
đã sử dụng hoa văn sóng nƣớc trên tờ 30 đồng tiền giấy. Cũng cần biết thêm rằng,
trong mỹ thuật truyền thống, hoa văn dạng này xuất hiện từ văn hóa Phùng Nguyên
và phát triển liên tục trong dòng chảy lịch sử. Đến thời Trần, hoa văn sóng (dạng
hình học) biến đổi đƣờng nét uyển chuyển hơn, cho tới ngày nay, các trang trí mỹ
thuật vẫn sử dụng hoa văn dạng này. Tiền giấy Việt Nam sử dụng khá nhiều hoa
văn dạng sóng nƣớc, rẻ quạt. Dạng hoa văn rẻ quạt đƣợc thể hiện đơn giản nhƣ các
tia hƣớng tâm còn dạng sóng nƣớc thì đƣợc thể hiện dƣới dạng hoa văn lƣới thô sơ
trong các diềm trang trí.
67
Có một dạng tồn tại khác với hoa văn hiện thực, dạng hoa văn này không mô
tả hình nan quạt hay sóng nƣớc mà sử dụng đƣờng viền bên ngoài có hình nhƣ nan
quạt hoặc đám mây, bao mảng trang trí bên trong bằng hoa văn lƣới hoặc các ô màu
hình quả trám. Ngƣời ta cũng có thể phối hợp thêm hoa văn dân tộc có cấu trúc tỏa
đều nhƣ hoa sen ở bên trong. Các tổ hợp trang trí này tạo thành cụm hoa văn,
thƣờng xuất hiện ở trung tâm của tờ bạc nhằm trang trí cho phần nền của mệnh giá.
Dạng hoa văn hình học này xuất hiện trong rất nhiều bộ tiền và đƣợc sử dụng nhiều
nhất ở bộ tiền polymer là hoa văn dải, hoa văn chấm vạch, hoa văn tam giác, hoa
văn hình thoi, hoa văn hình sao mặt trời... làm trang trí nền.
Ngoài ra, hoa văn dạng nét và chữ cực nhỏ song song là một dạng hoa văn
mới xuất hiện. Trong tất cả các mẫu tiền polymer đều có dạng hoa văn này. Hoa văn
dạng này nằm ở vị trí trung tâm của mặt trƣớc của các mệnh giá 10000 đ, 20000 đ,
100000 đ và nền của chân dung trên mẫu 50000 đ hoặc tồn tại nhiều ở mặt sau các
tờ tiền. Ngoài ra còn thấy ở mẫu 20000 đ, 100000 đ (chất liệu giấy cotton) của hệ
thống 1985.
2.1.4. Hoa văn lưới đặc trưng của tiền giấy
- Hoa văn lưới
Hoa văn lƣới là dạng hoa văn đặc trƣng cho tiền giấy nói chung cũng nhƣ
tiền giấy Việt Nam, (tiếng Anh là: guilloche hoặc fine-line security patterns) là họa
tiết bao gồm 2 hoặc nhiều đƣờng mảnh đan vào nhau theo dạng lƣới hoặc sóng để
tạo thành tổ hợp họa tiết nhằm trang trí và chống giả. Vì có cấu trúc là các nét đan
với nhau giống nhƣ lƣới đánh cá nên đƣợc giới thiết kế tiền gọi là hoa văn lƣới.
Dạng này còn đƣợc gọi là hoa văn máy do thời sơ khởi của hoa văn này đƣợc làm
bằng máy khắc, sau này họa tiết đƣợc thực hiện bằng máy tính với phần mềm đồ
họa đặc biệt. Hoa văn có 3 dạng chủ yếu: (1) dạng nền gồm các đƣờng hình sin
song song hoặc đan nhau tạo thành mảng trang trí nền cho tiền giấy, (2) dạng cụm
gồm các cụm hoa văn lƣới mang hình dạng xoáy tạo thành các cụm nhƣ bông hoa
hoặc vòng xoáy, dùng để tạo cụm trang trí ở màu nền hoặc màu đậm; (3) dạng
đƣờng diềm là hoa văn lƣới chạy theo khung chữ nhật dài, thƣờng dùng trong màu
68
đậm của tiền giấy. Đặc biệt trong dạng hoa văn nền có hoa văn dạng “phù điêu” khi
các nét uốn cùng nhau tạo thành 1 hình. Hoa văn lƣới là hoa văn đặc trƣng của tiền
giấy, cũng đƣợc sử dụng trong in ấn các giấy tờ có giá, ngoài ra không sử dụng
trong các ấn phẩm thông thƣờng.
Tiền giấy thời nhà Hồ không có kỹ thuật để thể hiện nên NCS phán đoán
rằng không tồn tại hoa văn lƣới. Trong tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng, hoa văn
lƣới chỉ xuất hiện ở giai đoạn phát hành sau 1945. Tiền giấy do Việt Nam Cộng hòa
phát hành luôn dày đặc hoa văn lƣới, xuất hiện tất cả các dạng và rất phong phú khi
kết hợp khéo léo cùng hoa văn dân tộc. Chất lƣợng in ấn hoa văn lƣới của tiền giấy
do VNCH phát hành rất cao.
Trong tiền giấy Việt Nam, tiền Tài chính giai đoạn phát hành đầu tiên (1946)
chƣa có hoa văn lƣới. Đến giai đoạn phát hành năm 1948, hoa văn lƣới xuất hiện trên
tờ mặt sau 5 đ, 20 đ (2mặt), 50 đồng (2mặt), 100 đ (2mặt). Tuy nhiên cách thể hiện
hoa văn lƣới trên Tiền Tài chính rất thô sơ, các nét thô phình to ra khi in lên giấy.
Hoa văn lƣới ít xuất hiện trên tiền giấy Nam Bộ, hiện nay chỉ thấy xuất hiện trên tờ
10 đồng (phát hành 1952). Tín phiếu Liên khu V không xuất hiện hoa văn lƣới.
Bộ tiền ngân hàng phát hành 1951, hoa văn lƣới xuất hiện đồng loạt rất
nhiều trên tất cả các mẫu tiền, ở hai dạng chính là cụm hoa văn và hoa văn đƣờng
diềm, chƣa xuất hiện hoa văn nền hoặc hoa văn dạng phù điêu. Các mẫu hoa văn
đƣợc thể hiện dƣơng bản và âm bản với sự chuẩn hóa, trau chuốt của đƣờng nét.Tuy
nhiên, việc hoa văn lƣới xuất hiện quá nhiều trong khi thiếu vắng các hoa văn trang
trí dân tộc khiến cho bộ tiền có hình thức hoàn toàn khác so với bộ Tiền Tài chính
và khá lạ lẫm đối với thẩm mỹ tiền giấy thời đó. Tại bộ tiền phát hành 1959, các hoa
văn lƣới đã đƣợc kết hợp nhuần nhuyễn cùng hoa văn dân tộc. Hoa văn lƣới thƣờng
đƣợc xen trong khoảng trống của các hoa văn hoa lá hoặc chạy thành đƣờng diềm
nhẹ, làm mềm đi các mảng họa tiết hoa lá, để tạo thành các mảng trang trí đẹp mắt,
vừa mang phong cách tiền giấy vừa đậm chất tạo hình. Tại bộ tiền này, hoa văn lƣới
dạng nền đƣợc in 1 màu, có cách sắc ở giữa đã đƣợc sử dụng trong tất cả các mẫu
đã tạo đƣợc hiệu ứng màu sắc khá thú vị. Điểm hạn chế trong hoa văn lƣới của bộ
69
này là chƣa có hoa văn dạng phù điêu cũng nhƣ các cụm hoa văn lƣới còn khá đơn
giản, phần hoa văn nền chƣa phong phú.
Các hệ thống tiền sau đó nhƣ tiền UBTƢMTDTGP MNVN, bộ tiền phát
hành 1975, 1978 đều có cùng phong cách sử dụng hoa văn lƣới nhƣ bộ tiền năm
1959. Tại bộ tiền 1978 lần đầu tiên xuất hiện của hoa văn phù điêu, hoa văn hình
lƣới dạng tia, hoa văn lƣới dạng ô màu chừa khe trắng (dạng in trang trí mang
phong cách mới). Riêng đồng phát hành cuối cùng của bộ tiền 1978 (mệnh giá 30 đ
và 100đ, phát hành năm 1981) thì có phong cách sử dụng hoa văn lƣới dày đặc
giống tiền giấy năm 1951.
Tại bộ tiền 1985, hoa văn lƣới có sự cách tân trong màu sắc và cách thể hiện,
cũng nhƣ cấu tạo đƣờng nét. Nếu trƣớc đây hoa văn lƣới đƣợc thực hiện bằng máy
khi chế bản thì trong những mẫu của bộ này có nhiều chi tiết hoa văn lƣới đƣợc
thực hiện bằng phƣơng pháp vẽ tay thủ công. Điều này dẫn đến việc hoa văn lƣới
thiếu đi sự tinh tế và cảm nhận tinh vi, thay vào đó là các nét vẽ khá thô và cấu trúc
đơn giản (biểu hiện rõ nhất trên các mẫu tiền 10 đ vẽ đền Ngọc Sơn, 20đ vẽ chùa
Một cột, 50đ vẽ cầu Thăng Long, 1000đ vẽ voi kéo gỗ, 2000đ vẽ công nhân nhà
máy dệt). Sự thô sơ trong thể hiện hoa văn lƣới dẫn tới cảm nhận các đồng tiền này
khá vụng, xấu và kém giá trị. Về sau những năm 1991, các tờ bạc có hình thức tốt
hơn do đƣợc chế bản tại Thụy Sĩ nên hoa văn lƣới đƣợc thể hiện trau chuốt, màu sắc
trên đó cũng tƣơi tắn và phong phú hơn. Sự thành công của hoa văn lƣới có lẽ cần
kể đến các mẫu 5000 đ phát hành 1991, 20000 đ phát hành 1991.
Tại bộ tiền polymer, hoa văn lƣới lại có xu hƣớng ít xuất hiện trong màu đậm
mà chuyển sang dạng hoa văn hình học kết hợp chữ cực nhỏ trong trang trí nền. Các
dạng hoa văn lƣới trong bộ tiền polymer đều đƣợc vẽ bằng máy tính, nhƣng không
sử dụng các phần chuyên tạo lƣới nên có thể thấy rõ cấu trúc của các nét.
Điểm hạn chế trong sử dụng hoa văn lƣới của tiền giấy Việt Nam là xuất
hiện hoa văn lƣới khá muộn so với tiền giấy của VNCH hoặc các nƣớc khác và
chƣa có mẫu tiền nào có sử dụng hoa văn phù điêu một cách thành công. Mặt khác,
(tính đến thời điểm này) các họa sĩ thiết kế của Việt Nam cũng chƣa đƣợc đào tạo
70
bài bản về thiết kế tiền trên phần mềm chuyên dụng nên việc sáng tạo ra các nền với
hoa văn lƣới là phần còn xa lạ với tƣ duy thiết kế của Việt Nam [PL-MH 2.34].
- Hoa văn bóng chìm
Bóng chìm là loại hoa văn đặc trƣng của tiền giấy và giấy tờ có giá. Nó đƣợc
tạo hình bằng cách tạo nên độ dày mỏng của tờ giấy, khi soi trƣớc nguồn sáng, phần
giấy dày hơn sẽ cản sáng làm thảnh mảng tối, phần giấy mỏng hơn sẽ cho ánh sáng
đi qua, tạo thành mảng sáng. Nguyên tắc này giống với cách tạo hình trên giấy trúc
chỉ của Huế. Để thấy hình bóng chìm rõ ràng hơn khi nhìn trƣớc nguồn sáng, ngƣời
ta thƣờng không in màu hoặc hình khác lên trên phần giấy có bóng chìm. Vì thế,
bóng chìm là yếu tố ảnh hƣởng nhiều tới bố cục của tiền giấy. Trong tiền giấy phát
hành ở nƣớc ta, tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng và tiền giấy do VNCH phát hành
đều có hoa văn chìm.
Tại tiền giấy Việt Nam, hoa văn bóng chìm xuất hiện khá sớm. Ngay từ Tiền
Tài chính (1946), tuy đƣợc sản xuất trong điều kiện khó khăn với vật liệu thấp cấp,
hoa văn chìm đã xuất hiện với hình ảnh ngôi sao 5 cánh, ở giữa có chữ Việt Nam
hoặc có vòng tròn với chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” hoặc dải chữ
“VNDCCH” theo lối viết tay. Hình bóng chìm không xuất hiện trong bộ tiền phát
hành 1951, đến bộ tiền 1959 hình tƣợng ngôi sao 5 cánh lại xuất hiện trong hình
chìm trên tất cả các mệnh giá. Ở hệ thống tiền Ủy ban, hình tƣợng bóng chìm không
tồn tại và chỉ xuất hiện trở lại trong bộ tiền phát hành cho miền Nam 1975 với hình
ảnh ngôi sao năm cánh và chữ VN. Bộ tiền phát hành năm 1978 nhằm thống nhất
tiền tệ trong cả nƣớc không có hình bóng chìm, chỉ đến đợt phát hành lần 2 của bộ
tiền 1985, xuất hiện nhiều mẫu hoa văn chìm hình ngôi sao, hình học, hoa văn dân
tộc…tại các mệnh giá nhỏ. Những mệnh giá lớn của bộ tiền phát hành 1985 xuất
hiện bóng chìm chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hoa văn chìm trong tiền polymer không đƣợc thực hiện bằng phƣơng pháp
xeo trên giấy mà ngƣời ta in trực tiếp mực nền lên mặt màng polymer trong quá
trình sản xuất giấy nền. Vì thế các hình bóng chìm trong tiền giấy polymer rất đa
dạng, sắc nét và có thể có nhiều tầng thứ cản sáng khác nhau. Chỉ có mẫu 10000đ
71
có hoa văn chìm là hình chùa Một cột, các mệnh giá khác của tiền polymer đều có
hoa văn chìm là chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thẳng. Ngoài bóng chìm
chính ra, tiền polymer còn có dây bảo hiểm là họa tiết đƣợc thực hiện nhƣ phƣơng
pháp in bóng chìm nằm trong giấy, trên đó in dòng chữ “NHNNVN”.
Có ý kiến cho rằng hoa văn bóng chìm không ảnh hƣởng tới tính mỹ thuật
của tờ tiền vì thƣờng không nhìn thấy. Tuy nhiên, NCS không đồng tình với quan
điểm đó mà cho rằng hoa văn bóng chìm là một yếu tố trong tổng thể trang trí tiền
giấy. Ngoài việc ảnh hƣởng tới bố cục của trang trí tờ tiền, bóng chìm còn tạo cảm
nhận thú vị hơn cho ngƣời xem với góc độ quan sát khác, trong điều kiện ngƣợc
chiều ánh sáng. Đó là một dạng họa tiết trang trí đƣợc thể hiện với phƣơng pháp
khác, ngoài in ấn. Các hoạ tiết thƣờng đƣợc sử dụng là hình ngôi sao, chữ VN, chân
dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoa sen, ngoài ra có 1 lần sử dụng hình ảnh công trình
kiến trúc là hình ảnh chùa Một cột trên tờ 10000 đ chất liệu polymer.
So sánh nghệ thuật thể hiện hoa văn bóng chìm trên tiền giấy do VNCH phát
hành (với hình tƣợng cây tre, đầu hổ, đầu rồng, chân dung Trần Hƣng Đạo, chân
dung Nguyễn Huệ, chân dung phụ nữ Việt Nam), thì bóng chìm trên tiền giấy Việt
Nam chƣa phong phú về hình thức, thiếu độ tinh xảo về nét và chuyển đậm nhạt,
còn thô sơ về cách thể hiện đồng thời cho cảm nhận nghèo về hình tƣợng nghệ thuật
[PL-MH 2.35].
2.1.5. Đồ họa chữ trong tiền giấy Việt Nam
Trong nghệ thuật đồ họa, chữ thƣờng đƣợc hiểu với khái niệm đồ họa chữ,
là thành phần gần nhƣ không thể thiếu trong các thiết kế đồ họa in ấn. Chữ vừa
mang thông tin nội dung vừa mang thông tin thị giác (là hình), việc sử dụng một
hay nhiều ngôn ngữ trong tiền giấy đều ảnh hƣởng tới giá trị thẩm mỹ chung của tờ
tiền. Đồ họa chữ tồn tại ở tiền giấy với 2 hình thức là chữ chính (mang nội dung
nhƣ quốc hiệu, tên đơn vị phát hành, mệnh giá…) và chữ cực nhỏ (mang giá trị
trang trí và bảo an), chữ chính đƣợc đầu tƣ thiết kế nhất là cụm số và chữ mệnh giá.
- Chữ chính
72
Tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng đƣợc phát hành ở nƣớc ta với các ngôn
ngữ là Anh, Pháp, Trung Quốc, Lào, Campuchia, tiếng Việt chỉ xuất hiện trong
những đợt phát hành giai đoạn sau thế chiến 1, trong đó chủ yếu nhất là tiếng Pháp
và Trung Quốc. Trong hệ thống tiền Tài chính, ngôn ngữ đƣợc sử dụng chính là
tiếng Việt, Trung Quốc, Lào, Campuchia, ngoài ra còn thấy ký hiệu tiếng Anh trên
tờ 1 đồng. Đến bộ tiền 1951, ngôn ngữ sử dụng chỉ còn tiếng Việt và tiếng Trung
Quốc, nhƣng tỷ lệ hai ngôn ngữ khá cân đối, tiếng Trung đƣợc dùng có kích thƣớc
khá lớn. Từ bộ tiền phát hành 1959 về sau này, chỉ còn sử dụng tiếng Việt.
Trong tiền giấy Việt Nam, chữ tồn tại chủ yếu ở mảng chữ chữ tiêu đề và
mệnh giá. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chữ trên tiền giấy còn dùng để
chuyển tải các khẩu hiệu đấu tranh nhƣ mẫu 100đ phát hành 1949 có ghi khẩu hiệu
“Tích cực chuẩn bị tổng phản công”…Tuy vai trò đồ họa chữ không đƣợc đặt nặng
nhƣ phong cảnh hay phần nền nhƣng chữ (bao gồm cả số) mệnh giá đƣợc đề cao và
đầu tƣ thiết kế để tăng thẩm mỹ. Các kiểu chữ thƣờng gặp là chữ có chân (serif), nét
thanh đậm, chữ không chân (sans serif), kiểu avant hoặc helvetica mang phong cách
trang trọng và dễ đọc. Ngƣời ta không thấy xuất hiện trong tiền giấy dạng chữ đầu
tròn (nhƣ kiểu arial round), chữ kiểu viết tay (hand writting) hoặc các kiểu chữ có
sự cách tân về hình thể dẫn tới khó đọc và gây cảm nhận thiếu trang trọng. Tất cả
các chữ trong tiền giấy đều đƣợc thể hiện ở dạng in hoa, đôi khi xuất hiện cách nhấn
mạnh chữ ở đầu cụm chữ hoặc đầu tiên của từ bằng cách phóng to kích thƣớc hoặc
bổ sung yếu tố trang trí nhƣ lƣới âm bản hoặc chữ cực nhỏ. Thậm chí ngƣời ta còn
thay đổi kiểu chữ của chữ đầu tiên, nhằm đạt tới cảm nhận trang trọng cần thiết.
Về kích thƣớc, số mệnh giá có kích thƣớc lớn nhất, tiếp đến là chữ mệnh giá,
rồi đến các chữ tiêu đề. Các chữ này thƣờng đƣợc đặt nổi bật trên nền hoặc trong
cụm hoa văn trang trí nhằm làm tăng sự nhận biết đối với mệnh giá. Bố cục chữ
trong tiền giấy Việt Nam thƣờng khá đơn giản sử dụng cách canh chỉnh cân đối
chính giữa, không có nhiều bố cục và kiểu thiết kế chữ lạ mắt. Chữ tiêu đề ở trên
cùng, xuống dƣới chữ và số mệnh giá sẽ ở giữa hoặc ở đƣờng diềm bên dƣới, hai
yếu tố này có thể đảo vị trí cho nhau. Đôi khi xuất hiện thủ pháp tạo bóng đổ cho
73
chữ và số mệnh giá nhằm tăng cảm nhận 3 chiều. Thông thƣờng, chữ trong tiền giấy
đƣợc in với màu đậm bằng phƣơng pháp in lõm nên các nét mực nổi cao trên nền
giấy, tạo hiệu quả thẩm mỹ khá đặc biệt so với in ốp-xét (nét mực phẳng với nền
giấy). Lợi dụng phƣơng pháp in này, các họa sĩ còn đƣa chữ cực nhỏ (cả âm bản và
dƣơng bản) vào lõi của số mệnh giá nhằm tăng tính phong phú trong cách thể hiện
nhƣ trƣờng hợp tiền polymer.
Để tăng tính nhận biết mệnh giá, ngƣời ta còn dùng thủ pháp biến số mệnh
giá thành chi tiết trang trí nền và nhân lên thành các mảng nền màu nhạt (nhƣ
trƣờng hợp đồng 5000 đ phát hành năm 1987). Tuy nhiên dù sử dụng chữ nhƣ thế
nào thì cần đảm bảo nguyên tắc khi thiết kế chữ cho tiền giấy là số mệnh giá cần đặt
ở 2 phía chéo nhau của tờ tiền (trong đó có 1 cụm chính và 1 cụm phụ, hoặc để 1 số
theo phƣơng nằm ngang 1 số theo phƣơng thẳng đứng) để ngƣời ta vẫn nhận ra
mệnh giá cho dù gấp đôi tờ tiền.
Xem xét phong cách đồ họa chữ, từ Tiền Tài chính tới bộ tiền polymer, thấy
có sự thay đổi trong việc sử dụng kiểu chữ, tạo bóng đổ và hiệu ứng trong thân chữ.
Trong Tiền Tài chính, cách đặt chữ khá thoải mái mang nhiều tính tạo hình và dấu
ấn cá nhân của từng tác giả trên mỗi mẫu tiền. Nghiên cứu các mẫu phát hành lần 1
(năm 1946), nếu các số mệnh giá của mẫu 20đ, 50đ có kiểu chữ cổ điển với các
đƣờng cong lƣợn mềm mại và thân chữ thanh đậm thay đổi thì mẫu 100đ có cấu tạo
chữ bởi các nét thẳng, cắt góc chéo còn mẫu 5 đồng thì có kiểu chữ tạo hình khá lạ
với các đƣờng cung tròn cắt nhau. Thậm chí mẫu 50 đồng (phát hành đợt 2 năm
1948) còn sử dụng 2 kiểu chữ khác nhau cho một số mệnh giá hoặc mẫu 200 đồng
phát hành năm 1950 với chủ đề “Bảo vệ mùa màng” còn có các cỡ chữ to nhỏ khác
nhau trong 1 cụm mệnh giá. Tình trạng sử dụng đồ họa chữ khá tùy tiện cũng xuất
hiện trong tiền giấy Nam Bộ và Tín phiếu thời kỳ này tuy nhiên khả năng đồ họa
chữ trong tiền giấy Nam Bộ tốt hơn, có quy chuẩn và đồng bộ hơn so với Tiền Tài
chính ở Bắc Bộ. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tƣợng này là các mẫu tiền không
đƣợc thiết kế với một bộ chữ mà từng mẫu thực hiện theo kiểu chữ nào đó, sau đó
74
họa sĩ biến đổi/thêm chi tiết để tạo thành kiểu riêng. Vì thế số “0” thƣờng rất ít thay
đổi, các số nhƣ “1”, “2”, “5” thƣờng đƣợc biến đổi nhiều hơn.
Các bộ tiền phát hành sau này có cải thiện hơn nhƣng chỉ có bộ tiền phát
hành 1951 là thống nhất về kiểu chữ trong tất cả các mẫu.Bộ tiền polymer có cách
sử dụng chữ ở mức ổn định, không đặc biệt về kiểu dáng nhƣng có sự thành công
trong tạo đƣợc hiệu ứng ở thân chữ thể hiện các chữ cực nhỏ, âm bản bên trong.
Bộ tiền có cách sử dụng đồ họa chữ thiếu tính nghệ thuật nhất là bộ tiền phát
hành năm 1985, các kiểu chữ rất lộn xộn và không mang chất thẩm mỹ tiền giấy.
Tiêu biểu là các mẫu 5 hào, 5 đ và 20 đ (phát hành đợt 1, 1985), mẫu 50 đ (phát
hành đợt 2, 1985), 1000 đ và 2000 đ (phát hành đợt 2, năm 1988). Hai đồng tiền
1000 đ và 2000 đ hiện nay vẫn lƣu hành.
- Chữ cực nhỏ
Lúc đầu việc sử dụng chữ cực nhỏ trong tiền giấy với ý nghĩa tăng thêm khả
năng chống giả cho tờ tiền. Vì thế chữ cực nhỏ có 2 xu hƣớng sử dụng: thứ nhất,
chữ cần nhỏ hơn khả năng sao chụp và in lại; thứ hai, chữ tạo thành yếu tố trang trí
và có khả năng chống giả cao. Các bộ tiền Ngân hàng Đông Dƣơng chƣa sử dụng
chữ cực nhỏ. Tại tiền giấy do chính quyền VNCH phát hành có sử dụng chữ cực
nhỏ nhƣng với mục đích bảo an.
Tại tiền giấy Việt Nam, tại bộ Tiền Tài chính chữ cực nhỏ đã đƣợc sử dụng
nhƣ yếu tố vừa trang trí vừa bảo an. Các mẫu nhƣ 5 đ (có bố cục dọc, vẽ hình thôn
nữ ôm bó lúa và khoác vai em bé, phát hành 1949), mẫu 10 đ (vẽ hình công nông,
phát hành 1949), mẫu 50 đ (vẽ hình công nông, phát hành 1949)…Nội dung các chữ
này thƣờng là số “50” hoặc chữ “VN”, riêng mẫu 10đ thì có dòng chữ “giấy bạc
Việt Nam” viết in hoa và có thiết kế thành từng tia hƣớng tâm, mỗi tia này lại hình
sin và có cấu trúc chữ bên trong nhỏ, chữ phía ngoài to nên khá kiểu cách và lạ mắt.
Bộ tiền Nam Bộ cũng sử dụng các mảng chữ cực nhỏ để tăng cƣờng khả năng
chống giả và tạo thành mảng trang trí cho nền giấy. Tại bộ tiền 1951, chữ cực nhỏ ít
xuất hiện dần, nó chỉ còn duy nhất một mảng trên mặt trƣớc đồng 50 đồng. Các chữ
này mang nội dung “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” theo kiểu in hoa, đƣợc thiết kế
75
thành hình vòng cung, kết hợp cùng các nét, xếp lên nhau nhƣ ngƣời ta lợp ngói
trong khá đẹp mắt. Ngoài ra trong bộ tiền này, ngƣời ta thƣờng cài các dấu hiệu mật
dƣới dạng chữ cái vào các vị trí bí mật để xác định thật giả.
Bộ tiền 1959, không xuất hiện chữ cực nhỏ với mục đích trang trí nữa, thay
vào đó là các mảng hoa văn dân tộc và hoa văn lƣới. Các bộ tiền sau đó nhƣ tiền Ủy
ban, bộ tiền 1975, 1978, 1985 đều có xu hƣớng ít sử dụng các mảng trang trí bằng
chữ cực nhỏ. Nguyên nhân chính là các bộ tiền sau đang chịu sự ảnh hƣởng mạnh
về phong cách, thẩm mỹ và khả năng ứng dụng hoa văn dân tộc trên tiền giấy của
bộ tiền 1959. Đến giai đoạn cuối của bộ tiền 1985, chữ cực nhỏ mới xuất hiện trở
lại với vai trò làm hoạ tiết trang trí, đƣợc in nối nét, nối màu trên mẫu 50.000 đồng
(vẽ hình Bến cảng Nhà Rồng).
Chỉ đến bộ tiền polymer, chữ cực nhỏ mới phát huy hết vai trò vừa làm họa
tiết trang trí, vừa tham gia vào chống giả. Ở bộ tiền này, chữ cực nhỏ đƣợc thể hiện
vô cùng phong phú. Khi đƣợc dùng làm họa tiết cho màu đậm, chữ cực nhỏ đƣợc
thể hiện rất tinh tế, với nhiều tầng thứ đậm nhạt và kích thƣớc khác nhau tạo thành
các mảng trang trí khá độc đáo mà không có dạng đồ họa nào có thể đạt đƣợc. Nó
xuất hiện ở khu vực số mệnh giá nằm ở mặt trƣớc tờ bạc. Điển hình nhất cho phong
cách sử dụng họa tiết dạng này là mẫu 200.000 đ. Ở mảng trang trí này, chữ cực
nhỏ đƣợc thể hiện thay đổi cả độ đậm nhạt lẫn màu sắc một cách vô cùng tinh tế.
Trong khi đó, dòng chữ nhỏ nhất trong toàn bộ hệ thống tiền giấy Việt Nam thuộc
về mặt sau đồng 500.000 đ (có độ cao bằng 1 nét màu nền, tƣơng đƣơng 0,1mm).
Khi thể hiện bằng màu nhạt, nó tạo thành các mảng trang trí nền, phong phú về màu
sắc và đƣờng nét. Mẫu 200.000 đ, 500.000 đ là các mẫu thành công nhất trong việc
dùng chữ cực nhỏ làm họa tiết trang trí. Phần nền đƣợc kết hợp nét thẳng, nét cong,
chấm, vạch và chữ cực nhỏ vừa phong phú về đƣờng nét, chất liệu vừa rực rỡ về
màu sắc đồng thời có giá trị bảo an tiền giấy rất cao.
Cách sử dụng chữ cực nhỏ này là phù hợp với phong cách thiết kế tiền giấy
hiện đại, khi mà các chi tiết màu nền đƣợc thể hiện vô cùng phong phú, tạo thành
các chất cảm khác biệt chứ không dùng hoa văn lƣới làm nền nhƣ các bộ tiền trƣớc
76
đây. So với cách sử dụng chữ trên tiền giấy ở các nƣớc khác, nghệ thuật chữ trên
tiền giấy Việt Nam vẫn khá đơn giản về kiểu chữ và có phần thiếu cảm nhận chắc
chắn của bố cục. Về phần chữ cực nhỏ, tiền giấy polymer có nhiều điểm phong phú
hơn, nếu tiền giấy Mỹ hoặc châu Âu chỉ sử dụng chữ cực nhỏ cho in lõm thì tại tiền
giấy Việt Nam, chữ cực nhỏ xuất hiện trên cả in lõm lẫn in ốp-xét, với nhiều thủ
pháp đồ họa khác nhau. Nguyên nhân của sự cách tân này là do trƣớc khi thiết kế bộ
tiền polymer, các họa sĩ thiết kế đã trải qua mấy năm chuyên thiết kế Ngân phiếu
thanh toán. Với công nghệ in ốp-xét nƣớc, các họa sĩ đã tạo ra hàng chục mẫu có
phần nền trang trí khác nhau trong đó nghiên cứu phát triển cách sử dụng chữ cực
nhỏ làm trang trí. Trong đồ họa in ấn, ngƣời ta còn có bộ môn thiết kế đồ họa chữ
và coi đó nhƣ sản phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên trong tất cả các dạng đồ họa chữ tại
Việt Nam, không sản phẩm nào có cách sử dụng chữ cực nhỏ nhƣ tiền giấy Việt
Nam trong giai đoạn 1946-2006, đặc biệt là bộ tiền polymer [PL-MH 2.36].
2.2. Hình ảnh chủ đề trong tiền giấy Việt Nam
2.2.1. Đề tài phong cảnh, thiên nhiên Việt Nam
- Danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử
Danh lam thắng cảnh nổi tiếng và di tích lịch sử là một chủ đề thƣờng đƣợc
thể hiện trên tiền giấy Việt Nam. Trên tiền giấy, các danh lam thắng cảnh đƣợc lựa
chọn thể hiện làm đại diện cho các vùng miền của Việt Nam từ bắc vào nam. Các
địa danh tiêu biểu nhƣ Vịnh Hạ Long, cố đô Huế, phố cổ Hội An, Hà Nội, Sài Gòn
cho tới các vùng biển ở Cà Mau.
+ Vịnh Hạ Long: Đây là thắng cảnh đƣợc nhiều mẫu tiền giấy Việt Nam thể
hiện. Đồng tiền đầu tiên xuất hiện phong cảnh vịnh Hạ Long là đồng tiền 2 đồng
trong bộ tiền 1959. Ở mẫu này, phong cảnh vịnh Hạ Long đƣợc thể hiện mang tính
toàn cảnh, tầm nhìn từ trên cao xuống với những dãy núi xa nhấp nhô. Trên mặt
biển, những chiếc thuyền buồm nhỏ với cột buồm gợi ta nhớ tới bức sơn mài Vịnh
Hạ Long của cố họa sĩ Văn Bình sáng tác năm 1955. Sự khác nhau về bố cục giữa
tác phẩm sơn mài và phong cảnh trong tiền giấy là mặt biển trong tranh lớn hơn và
đƣợc hỗ trợ bởi chi tiết cận cảnh mỏm đá và nhành cây. So sánh với hai đồng tiền
77
có thể hiện phong cảnh vịnh Hạ Long ở tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng (tờ giấy
bạc một đồng vàng phát hành 1942, một trăm đồng phát hành năm 1949-1951) và
tiền giấy của VNCH (tờ 1.000đ thƣờng gọi là tờ “ông bà già”, in 1955, không phát
hành) thì rõ ràng hình ảnh vịnh Hạ Long trên tiền giấy Việt Nam thể hiện ra chất
vịnh Hạ Long hơn, các tờ tiền kia chỉ thể hiện con thuyền giống ở Hạ long chứ
phong cảnh và đảo thì hoàn toàn không phải của vịnh Hạ Long.
Chủ đề vịnh Hạ Long còn tiếp tục đƣợc thể hiện trên nhiều mẫu tiền của các
bộ tiền sau này. Có thể kể đến tờ 100 đ (bộ tiền 1978, phát hành 1981), tờ 10.000đ
(bộ tiền 1985, phát hành 1992), mặt sau tờ 200.000 đ (bộ polymer).
Trong các mẫu thể hiện sau này thì mẫu 100 đ (bộ tiền 1978, phát hành
1981) có cách thể hiện vừa rõ nét vịnh Hạ Long vừa ra chất tiền giấy. Đồng 10.000đ
(bộ tiền 1985, phát hành 1992) có mắc các lỗi giống tờ 1000 đ (do VNCH thiết kế
nhƣng không phát hành), trong đó hình thuyền đƣợc thể hiện rõ nét nhƣng hình đảo
thì không đúng. Đến tờ 200.000 đ của bộ polymer, phong cảnh vịnh Hạ Long không
còn đƣợc thể hiện tổng thể nữa mà chỉ khắc họa vào Hòn Đỉnh Hƣơng, phía sau mới
là dãy núi trên vịnh và các thuyền buồm nhỏ.Chất lƣợng nghệ thuật của phong cảnh
có bị suy giảm do khi chế bản, các dãy núi phía sau thể hiện quá đậm nét, dẫn tới
cảm nhận không gian phong cảnh vịnh Hạ Long không tốt và hình cánh buồm trên
thuyền không đƣợc khắc họa đúng [PL-MH 2.37].
+Cố đô Huế: Bên cạnh việc sử dụng hoa văn trang trí nhà Nguyễn thì cố đô
Huế là danh thắng đƣợc thể hiện nhiều trong tiền giấy ở Việt Nam.Trên tiền giấy
ngân hàng Đông Dƣơng chủ đề này đã đƣợc xuất hiệnvới hình ảnh cổng Nam
Phƣợng môn ở Điện Thái Hòa trên đồng 100 piastres (đồng Độc lƣ, phát hành
1923);điện Minh Lâu trên tờ 1 piastres (phát hành 1923); tƣờng thành ở gần Cột cờ
Huế trên tờ Hai chục đồng vàng (phát hành 1942). Trong tiền giấy VNCH phát
hành, hình ảnh Huế đƣợc khắc họa với các công trình kiến trúc, lăng tẩm đền đài.
Tại tiền giấy Việt Nam, phong cảnh Huế đƣợc thể hiện sinh động hơn nhƣng luôn
gắn liền với sông Hƣơng. Đó là hình ảnh sông Hƣơng và cầu Tràng Tiền trên tờ 2 đ
phát hành năm 1981 (bộ tiền 1978); hình ảnh thuyền trên sông Hƣơng và cầu Tràng
78
Tiền tên tờ 5 đ (bộ tiền 1985); hình ảnh Phú Văn Lâu, sông Hƣơng và núi Ngự trên
tờ 50.000 đ của bộ tiền polymer. Các hình ảnh này đƣợc thể hiện theo phong cảnh tả
thực, dùng nét để tả khối và không gian.
Việc thể hiện phong cảnh Huế trên tiền giấy Việt Nam do Ngân hàng Nhà
nƣớc Việt Nam phát hành chƣa thể hiện ra đƣợc tinh thần của Huế. Về cách thể
hiện, hình ảnh Huế trên tiền giấy Việt Nam thƣờng thể hiện khá thô, nét vẽ thiếu
tinh tế và in ốp-xét, trong khi đó hình ảnh Huế trên tiền do VNCH phát hành có chất
lƣợng tốt, cách tả không gian, chất liệu và kỹ thuật khắc rất hoàn hảo còn tiền giấy
ngân hàng Đông Dƣơng thì rất phong phú về cảnh và khá đặc sắc [PL-MH 2.38].
+ Thủ đô Hà Nội: Hà Nội là địa danh đƣợc thể hiện trong tiền giấy Việt Nam
với nhiều hình ảnh phong cảnh và di tích. Có thể kể đến Cột cờ Hà Nội, Chùa Một
cột, Đền Ngọc Sơn, Khuê Văn Các - Văn Miếu. Trong đó Cột cờ Hà Nội là trƣờng
hợp khá đặc biệt, đƣợc ƣa chuộng và sử dụng trong 6 mẫu tiền giấy của Việt Nam.
Ở hình ảnh Cột cờ Hà Nội trên tờ bạc 1 đ của bộ tiền 1959, hình ảnh Cột cờ Hà Nội
đƣợc đƣa vào nhƣ một biểu tƣợng cho tinh thần độc lập, tự cƣờng dân tộc và niềm
tự hào dân tộc. Cột cờ Hà Nội đƣợc đạt ở vị trí trang trọng nhất của mặt trƣớc, bố
cục đối xứng với đƣờng trung tâm là thân của cột cờ chia đôi bề mặt ra làm 2
phần.Trên các tờ tiền giấy trong hệ thống tiền 1985, có hiện tƣợng đặc biệt là việc
xuất hiện liên tiếp hình tƣợng Cột cờ Hà Nội ở 5 mệnh giá (5 hào, 1 đ, 2 đ, 5đ, 10
đ). So với hình ảnh kỳ đài Huế (đƣợc thể hiện trên tiền giấy ngân hàng Đông
Dƣơng), thì Cột cờ Hà Nội đƣợc trang trọng hơn, với phong cách thể hiện trang trí
có tả không gian ƣớc lệ mang đậm yếu tố biểu tƣợng.
Ngoài hình tƣợng Cột cờ Hà Nội mang tính biểu tƣợng, các di tích khác của
Hà Nội nhƣ Khuê Văn các, cầu Thê Húc, chùa Một cột đều có phong cách thể hiện
tả thực nhƣng nét vẽ chƣa tinh tế, còn khá đơn giản thô phác. Cũng cần nói thêm,
các phong cảnh của Hà Nội không xuất hiện trong tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng
và tiền giấy do VNCH phát hành [PL-MH 2.39].
- Các di tích liên quan tới Chủ tịch Hồ Chí Minh: Các địa danh và di tích
lịch sử cũng là đề tài đƣợc thể hiện trên tiền giấy Việt Nam trong đó các di tích gắn
79
với Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng đƣợc sử dụng trong nhiều mẫu tiền. Đó là phong
cảnh làng sen quê Bác (trên tờ 500.000đ, bộ tiền polymer); phong cảnh bến cảng
Nhà Rồng nơi Bác ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc (trên tờ 30 đ phát hành năm 1981 và tờ
50.000đ phát hành năm 1994); phong cảnh nhà sàn Bác Hồ ở Hà Nội (tờ 100.000 đ
phát hành năm 2000). So với một số phong cảnh trên tiền giấy Việt Nam thì phong
cảnh liên quan tới Chủ tịch Hồ Chí Minh có số lƣợng xuất hiện tƣơng đƣơng với
phong cảnh vịnh Hạ Long.
Các hình ảnh kèm với công trình kiến trúc nhƣ nhà sàn của Bác, hoặc căn
nhà ở Làng Sen có tỷ lệ kiến trúc và thiên nhiên hài hòa, các ngôi nhà thƣờng chiếm
tỷ lệ vừa phải, không bị nặng về tả kiến trúc nên phảng phất tâm hồn làng quê Bắc
bộ và phong cách ký họa kỹ hoặc tranh phong cảnh một màu [PL-MH 2.40].
- Phong cảnh miền Nam: Đây là hình ảnh chỉ xuất hiện trong tiền giấy giai
đoạn từ sau 1959. Trƣớc đó ta không thấy xuất hiện phong cảnh Nam Bộ trên Tiền
Tài chính, tiền ngân hàng phát hành 1951 và 1959. Ngay cả trên tiền giấy Nam Bộ,
hình ảnh phong cảnh Nam Bộ luôn chỉ là nền để thể hiện không gian cho hoạt động
chiến đấu của ngƣời dân Nam Bộ.
Hình ảnh phong cảnh Nam Bộ đầu tiên xuất hiện ở đồng 2 đồng (bộ tiền
UBTƢ MTDTTNMNVN) với cảnh ngƣời quăng lƣới trên sông. Tiếp đó các hình
ảnh nhƣ thuyền vận chuyển lúa trên sông (mệnh giá 1đ), phong cảnh nhà nổi trên
sông (mệnh giá 2 đ) của bộ tiền phát hành 1975. Tại bộ tiền 1978, có đồng 5 hào vẽ
phong cảnh kênh rạch Nam Bộ. Phong cảnh hòn Phụ tử trên biển Hà Tiên đƣợc thể
hiện trên tờ bạc mệnh giá 1 đ, bộ tiền 1985, phong cảnh chợ Bến Thành (mệnh giá
30 đ, phát hành 1985).
Nhìn chung, phong cảnh miền Nam thể hiện trên tiền giấy mới chỉ xuất hiện
phong cảnh thiên nhiên và hoạt động con ngƣời, chƣa thấy xuất hiện các công trình
kiến trúc nổi tiếng của miền Nam. Các hình ảnh phong cảnh này đƣợc thể hiện chƣa
thực sự trau chuốt, bố cục mang tính quá hiện thực có vẻ nhƣ chép từ bức ảnh chụp,
thiếu đi sự sáng tạo về không gian và hình tƣợng. Điều này làm các phong cảnh có
vẻ khá cứng nhắc và khá khô khan [PL-MH 2.41].
80
- Phong cảnh liên quan tới công trình công nghiệp, hiện đại
Trong bộ tiền 1959, đây là giai đoạn xây dựng CNXH ở miền Bắc nên có
nhiều phong cảnh về đề tài công nghiệp. Tờ bạc đầu tiên với chủ đề này là tờ 1 hào
của bộ tiền 1959 với hình ảnh đoàn tàu hỏa lao vút ngang tờ bạc. Tại tờ này, tác giả
đã cƣờng điệu không gian để tăng tính động lực cho đoàn tàu và phá đi nét ngang
nhàm chán giữa tờ bạc. Cũng trong bộ tiền này, tờ 5đ đã thể hiện khung cảnh khai
thác than, trọng tâm là hình máy xúc và xe ben. Cách thể hiện đã đạt tới độ hài hòa
từ tổng thể tới chi tiết. Khi xem kỹ vào từng hình ngƣời (có chiều cao chỉ khoảng
4mm), vẫn thấy đầy đủ các chi tiết quần áo, nét mặt. Đây là điều chƣa từng xuất
hiện trong tranh khắc kim loại hoặc khắc gỗ của Việt Nam, trong đồ họa in ấn cũng
chƣa có chi tiết nào đƣợc thể hiện nhƣ vậy.
Từ những hình ảnh đoàn tàu hỏa đang lao vút (tờ 1 hào), chăn trâu bên đập
thủy lợi (tờ 2 hào), cảnh máy cày trên đồng ruộng ở mặt trƣớc và khai thác than ở
mặt sau, phong cảnh nhà máy gang thép Thái Nguyên (10 đ) của bộ tiền 1959, trong
bộ tiền 1978, đề tài công nghiệp đƣợc khai thác nhiều.
Hình ảnh liên quan tới công nghiệp hóa là Phong cảnh nhà máy gang thép
Thái Nguyên (tờ 1 đ), Công trƣờng thủy điện Sông Đà (tờ 50 đ). Ở bộ tiền phát hành
1985, có các hình ảnh nhƣ đập thủy điện Hòa Bình (50đ, phát hành 1985), cầu Thăng
Long (50đ, phát hành 1985), Nhà máy gang thép Thái Nguyên (mệnh giá 500 đ, phát
hành 1985), Máy cày trên đồng ruộng (200 đ), tàu cập cảng Hải Phòng (500đ), Máy
xúc khai thác than (tờ 1000 đ, phát hành 1987), Nhà máy xi măng ( tờ 2000đ, phát
hành 1987)Giàn khoan dầu khí (5000đ, phát hành 1988), Thủy điện (5000đ, phát
hành 1991) và giàn khoan mỏ Bạch Hổ (10.000đ polymer, phát hành 2006).
Nhƣ vậy so với tất cả các loại phong cảnh trên tiền giấy Việt Nam, các hình
ảnh liên quan tới xây dựng, công nghiệp hóa đất nƣớc chiếm tỷ lệ lớn nhất.Đề tài
này xuất hiện nhiều nhất trong bộ tiền phát hành 1985.Trong các hình ảnh phong
cảnh này, trong không gian rộng và hùng vĩ nhƣ mỏ than, cánh đồng bát ngát, núi
cao…hình tƣợng tập trung có thể là công trình công nghiệp hoặc ô tô, máy móc cơ
khí lớn và đƣợc thể hiện với phong cách tả thực rất kỹ với góc nhìn hiện đại và bố
81
cục khá lạ. Các họa sĩ cố gắng tả sự tƣơng phản giữa chất kim loại, hiện đại của
máy móc trong thiên nhiên hùng vĩ của Việt Nam [PL-MH 2.42].
Trong bộ tiền 1985, có tờ 200đ (phát hành 1987) vẽ hình máy cày trên đồng
ruộng cũng đƣợc đánh giá cao và đƣợc lấy làm ví dụ cho tiền giấy Việt Nam trong
sách The art of money của David Standish [134, tr.61]. Hình ảnh đƣợc thể hiện cận
cảnh là cái máy cày, phía sau là các luống đất nâu đƣợc cày bật tung lên, phía xa là
nhóm ngƣời đang gặt lúa, tận cuối bờ ruộng là 1 ngƣời đang gánh lúa về. Ngoài ý
nghĩa công nghiệp hóa nông thôn thì khung cảnh này tạo cho ngƣời xem cảm nhận
ấm no, dù không nhìn thấy từng bông lúa.
Cũng trong bộ tiền này, có tờ 1000đ và 2000đ đều có chủ đề công nghiệp
khá đẹp, nhƣng chỉ tồn tại trong 2 năm. Tờ 1000đ vẽ cảnh máy xúc đang khai thác
than, tờ 2000đ vẽ phong cảnh nhà máy xi măng với ống khói vƣơn cao.
Trong bộ tiền polymer, mẫu 10000đ vẽ phong cảnh giàn khoan dầu khí trên
biển Đông (đề tài này đã đƣợc thể hiện trong tờ 5000đ phát hành lần 1 của hệ thống
tiền 1985). Ở lớp cận cảnh, hình ảnh giàn khoan đƣợc thể hiện với góc nhìn từ trên
cao, sóng biển Đông đƣợc cƣờng điệu tạo thành các lớp sóng mạnh đập vào chân
giàn khoan.
Phía xa, mặt trời mọc lên phía sau đƣờng chân trời cong, ôm lấy mặt biển,
vừa để tạo cảm nhận xa rộng, vừa phá đi thế song song của đƣờng chân trời với
chữ. Trên đó, một giàn khoan nữa đang đƣợc lắp đặt, ý muốn nói tầm nhìn và quyết
tâm vƣơn xa của công nghiệp Việt Nam. Ở đây, phong cảnh không tồn tại độc lập
mà nó kết hợp cùng khung trang trí để tạo thành tổng thể chủ đề.
Khung trang trí màu đậm phía dƣới là hình ảnh cách điệu từ con tàu đang rẽ
sóng ra khơi.Về cách thể hiện màu sắc, nếu trƣớc kia tất cả phần hình ảnh chủ đề
đƣợc thể hiện bằng 1 màu đậm, có cách vẽ nhƣ tranh khắc kim loại 1 màu hoặc các
ký họa phong cảnh kỹ bằng bút sắt, thì ở mẫu này hình ảnh biển và giàn khoan đƣợc
thể hiện bởi 2 màu đậm khác nhau kết hợp cùng nhiều màu nhạt làm nền để tạo
thành khung cảnh chung [PL-MH 2.43].
82
2.2.2. Đề tài con người Việt Nam trong chiến đấu và lao động
Hình ảnh ngƣời Việt Nam là đối tƣợng ƣa thích đƣợc thể hiện trong tiền giấy
phát hành tại Việt Nam từ thời Ngân hàng Đông Dƣơng. Các tờ bạc thể hiện hình ảnh
nhƣ thiếu nữ, ngƣời nông dân đang cày, ông bà già…đều mang tính nghệ thuật cao.
Tiền giấy do chính quyền VNCH phát hành cũng có hình ảnh về con ngƣời Việt Nam
nhƣ nam nữ nông dân tay ôm bó lúa trĩu hạt hoặc anh lính đứng bên cây dừa…
Tại tiền giấy Việt Nam, hình ảnh ngƣời Việt Nam trong lao động và chiến
đấu đƣợc thể hiện rất rõ nét. Ngay từ bộ tiền đầu tiên, các hình tƣợng nhƣ anh vệ
quốc, nông dân, công nhân, tri thức đều đƣợc thể hiện trong các mẫu tiền giấy. Các
hình tƣợng ngƣời Việt Nam đều đƣợc thể hiện trong khung cảnh lao động chiến đấu
và gắn chặt cùng khối đoàn kết công - nông - binh - trí. Ngoài ra, hình ảnh trẻ em
nông thôn cũng đƣợc thể hiện trong các tờ tiền, nó thƣờng đi kèm với hình ảnh
ngƣời nông dân. Điều này thể hiện sự coi trọng vấn đề con ngƣời và tính đại
diệnxuất hiện trong tiền giấy Việt Nam. Hình ảnh ngƣời Việt Nam đƣợc thể hiện
dƣới các hình tƣợng chính là ngƣời chiến sĩ, nông dân, công nhân,trí thức. Các hình
tƣợng này xuất hiện theo chủ đề của từng tờ tiền, lúc đứng độc lập, lúc đứng cùng
nhau thành từng cặp nhƣ công - nông, binh sĩ - nông dân, sĩ – nông - công - thƣơng,
công – nông – binh - trí.
- Hình tượng người chiến sĩ
Hình ảnh ngƣời chiến sĩ luôn là trọng tâm trong hình ảnh chủ đề của tiền giấy
Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954).Trong
Tiền Tài chính, hình tƣợng chiến sĩ đƣợc thể hiện với hình ảnh anh vệ quốc đoàn
mặc áo trấn thủ, tay cầm súng trên nền cờ và bản đồ tổ quốc, bên cạnh là anh nông
dân vác cuốc tay cầm quả bí to và nhóm phụ nữ đang dạy học cho nhau (tờ 100 đ
đỏ, vệ quốc đoàn, phát hành 1947); hình ảnh chiến sĩ và công nhân (mẫu 10 đ, phát
hành 1949); hình ảnh chiến sĩ và anh nông dân trên nền đồng ruộng (mẫu 2 hào,
phát hành 1949) hoặc hình ảnh chiến sĩ đầu đội mũ ca-lô, quần xắn cao, tay cầm
súng, lƣng đeo lựu đạn đứng bảo vệ bên cạnh các chị em gánh lúa về làng (mẫu
83
200đ- “bảo vệ mùa màng”), hoặc bộ đội bắn chìm tàu Pháp trên sông Lô và reo hò
chiến thắng (mẫu 500 đ- “chiến thắng Sông Lô”) [PL-MH 2.44].
Có thể nói, trong Tiền Tài chính hình ảnh anh bộ đội là hình tƣợng đƣợc
khắc họa đẹp nhất, rõ ràng hình ảnh anh nông dân mặc áo lính. Họa sĩ Nguyễn Sáng
là một trong những tác giả tham gia thiết kế Tiền Tài chính. So sánh phong cách tạo
hình ngƣời chiến sĩ ở các mẫu tiền Tài chính mà Nguyễn Sáng thiết kế và các tác
phẩm hội họa của ông, xuất hiện nhiều điểm tƣơng đồng về phong cách và cảm
nhận chất lính của ông. Việc xây dựng hình tƣợng ngƣời chiến sĩ áo vải này đã tác
động tới tâm tƣ tình cảm và phong cách tạo hình, giúp Nguyễn Sáng thực hiện thêm
các tác phẩm hội họa xuất sắc nhƣ Giặc đốt làng tôi (sơn dầu, 1954) hoặc Kết nạp
Đảng ở Điện Biên Phủ (sơn mài, 1963).
Trong tiền giấy Nam Bộ, hình ảnh ngƣời chiến sĩ đƣợc thể hiện khá đặc sắc,
khác biệt với hình ảnh chiến sĩ trong Tiền Tài chính.Đó là hình ảnh du kích quân
cởi trần, tay cầm súng chuẩn bị lao lên khỏi công sự (mẫu 5đ); hình ảnh các chị dân
quân đầy đội mũ ca-lô trang phục chỉnh tề đứng trong hàng ngũ (mẫu 1đ); cảnh bộ
đội xung trận (mẫu 20đ). Cạnh đó, hình ảnh ngƣời chiến sĩ nhân dân cũng đƣợc tiền
giấy Nam Bộ khắc họa với cảnh chiến sĩ trong khối lực lƣợng toàn dân (mẫu 50đ,
100đ), hình ảnh quân và dân trên nền cờ sao (mẫu 100đ)…Tuy nhiên, hình ảnh
chiến sĩ đƣợc khắc họa nổi bật nhất trong bộ tiền Nam Bộ là hình ảnh anh vệ quốc
đoàn trẻ măng, đầu đội mũ ca-lô, cởi trần vạm vỡ, lƣng đeo lựu đạn, tay cầm súng,
tay nâng cao lá cờ tổ quốc (đƣợc thể hiện trên mẫu 50đ, phát hành 1947).Hình
tƣợng thật đặc trƣng, cách tạo hình với hình thể lớn, đƣờng nét, mảng khối mạnh
mẽ, ánh sáng chuyển từ ngôi sao xuống mặt và thân hình. Tại bộ tiền này, hình
tƣợng ngƣời chiến sĩ đƣợc thể hiện thật hào sảng với các tƣ thế xông lên, đứng hiên
ngang, ngực trần vạm vỡ đậm chất Nam Bộ [PL-MH 2.45].
So sánh với hình tƣợng ngƣời chiến sĩ mà họa sĩ Tô Ngọc Vân thể hiện trong
bức kí họa Hai chiến sĩ (vẽ năm 1949, hình ảnh hai chiến sĩ khoác vai nhau, đầu đội
mũ ca-lô, lƣng có thắt lƣng quân đội, một anh mặc quân phục và áo trấn thủ, một
anh vẫn mặc bộ quần áo nông dân với cổ tròn nhƣng cả hai anh chân đều đi đất), thì
84
hình ảnh ngƣời chiến sĩ trong tiền giấy có những nét tƣơng đồng. Đó là sự chất phác
trong gƣơng mặt, trang phục và cử chỉ. Rõ ràng hình tƣợng ngƣời chiến sĩ thời kỳ
này là anh nông dân mặc áo lính.
Tại bộ tiền 1951, hình tƣợng ngƣời chiến sĩ vẫn đƣợc tập trung khắc họa với
cảnh tập luyện trên thao trƣờng (mẫu 200đ), bộ đội kéo pháo lên đồi (mẫu 500đ), bộ
đội xung phong đánh chiếm đồn giặc và khối công - nông - binh (mẫu 1000đ), bộ
đội pháo cao xạ (mẫu 5000đ). Ở bộ tiền này, hình ảnh ngƣời chiến sĩ không mang
dáng vẻ của anh nông dân mặc áo lính, chất phác mà hào hùng nữa, thay vào đó là
hình tƣợng ngƣời chiến sĩ trong đội ngũ. Tuy nhiên cách thể hiện ngƣời chiến sĩ hơi
yếu ớt chứ không mạnh mẽ nhƣ trong Tiền Tài chính và tiền Nam Bộ.
Bộ tiền 1959, hình ảnh ngƣời chiến sĩ đƣợc đặt cùng trong khối đoàn kết
Công – Nông – Binh - Trí trên mặt trƣớc tờ 2 đồng. Ở bộ tiền Ủy ban và bộ tiền
phát hành 1975, hình tƣợng ngƣời chiến sĩ thể hiện trong cảnh du kích Miền Nam
tập kích đồn giặc, chiến thắng Ấp Bắc, quân dân mừng chiến thắng, ngƣời chiến sĩ
tay liềm tay súng…Tại bộ tiền này, hình chiến sĩ đƣợc thể hiện trong từng nhóm
ngƣời, không khắc họa hình tƣợng cá nhân nhƣ ở tiền Nam Bộ hoặc Tiền Tài chính.
Kể từ bộ tiền 1978 đến bộ tiền polymer, không xuất hiện hình tƣợng ngƣời chiến sĩ
trên tiền giấy Việt Nam nữa [PL-MH 2.46].
Việc hình tƣợng ngƣời chiến sĩ trên tiền giấy Việt Nam đƣợc khắc họa nhƣ
biểu tƣợng của tinh thần kháng chiến dân tộc Việt Nam trong Tiền Tài chính và tiền
Nam Bộ đến hình tƣợng ngƣời chiến sĩ rèn luyện, chiến đấu trong đội ngũ (tiền phát
hành 1951), khối Công – Nông – Binh – Trí (bộ tiền 1959) và hình tƣợng ngƣời
chiến sĩ trong tình quân dân chia sẻ chiến thắng…đã thể hiện rõ nhận thức, tâm tƣ
tình cảm của họa sĩ thiết kế tiền giấy trong những bƣớc chuyển lịch sử của dân tộc.
- Hình tượng người nông dân
Cùng với hình ảnh chiến sĩ, hình ảnh ngƣời nông dân đƣợc thể hiện ngay trên
các tờ tiền đầu tiên của nƣớc Việt Nam DCCH. Có thể nhắc tới hình ảnh hai phụ nữ
cấy lúa (mẫu 1đ, phát hành 1949), chị phụ nữ ôm bó lúa (mẫu 5 đ, phát hành 1947),
hai vợ chồng nông dân (mẫu 50 đ, phát hành 1949). Cạnh đó, hình ảnh ngƣời nông
85
dân đƣợc thể hiện trong khối đoàn kết toàn dân khi cùng xuất hiện với công nhân
trong tờ 50 đ, phát hành 1946 vẽ nông dân vác bừa, dắt trâu ra đồng (mẫu 50 đ, vẽ
hình anh công nhân đứng cùng gia đình nông dân), xuất hiện cùng bộ đội (mẫu 200
đ, vẽ hình các chị em vui vẻ quảy lúa về làng bên cạnh có anh tự vệ đứng
gác)….Đồng tiền tiêu biểu nhất luôn làm mọi ngƣời nhớ tới là đồng 100 đ (Con trâu
xanh) do họa sĩ Nguyễn Huyến vẽ phần nội dung, Lƣơng Văn Tuất và Đào Văn
Trung vẽ phần trang trí và chữ số. Trong các mẫu này, hình tƣợng ngƣời nông dân
Việt Nam thời kỳ đầu kháng chiến đƣợc tả với tính cách hiền hậu và chăm chỉ, gia
đình nông dân hạnh phúc với hình ảnh em bé bụ bẫm và bó lúa tƣợng trƣng cho ấm
no. Ngoài ra, tờ bạc 100 đ còn thể hiện hình ảnh các anh nông dân với các tƣ thế
mạnh mẽ của lao động nặng và cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Về tạo hình, dáng dấp
ngƣời nông dân trong tiền giấy có nhiều nét giống nhƣ trong các tác phẩm hội họa
Việt Nam đã từng xuất hiện trong Tát nước đồng chiêm của họa sĩ Trần Văn Cẩn
(sơn mài, 1958), bức Bữa cơm ngày mùa thắng lợi của Nguyễn Phan Chánh (lụa,
1960), nó gần gụi thân quen [PL-MH 2.47 ].
Trong tiền giấy Việt Nam, hình ảnh ngƣời nông dân Việt Nam luôn đƣợc thể
hiện gắn liền với đồng ruộng với cuốc cày và thóc lúa đồng thời, hình ảnh con trâu
cũng thƣờng xuất hiện cùng nông dân Bắc bộ và đƣợc thể hiện rất đẹp trên tờ 50 đ
và 100 đ (phát hành đợt đầu tiên, 1946) hoặc trên các tờ Tín phiếu Liên khu V (tờ 1
đ, tờ 100 đ), trên tiền giấy Nam Bộ (tờ 5 đ, 20 đ). Nhìn hình tƣợng con trâu trên tiền
giấy Việt Nam, ta liên tƣởng đến các tác phẩm “Ra đồng” của Nguyễn Phan Chánh
(lụa, 1937), “Con trâu quả thực” của Tô Ngọc Vân (lụa, 1954), “Một buổi cày” của
Lƣu Công Nhân (sơn dầu, 1960).
Trong bộ tiền 1959, 1975, hình tƣợng ngƣời nông dân vẫn xuất hiện trên tiền
giấy Việt Nam. Đó là hình ảnh chị nông dân nghiêm trang đứng trong khối công-
nông-binh-trí (tờ 2 đ), đi phun thuốc sâu (2 hào) và nổi tiếng nhất là hình ảnh chị
nông dân cho lợn ăn (1hào) của bộ tiền 1959. Ở tờ này, hình ảnh đƣợc thể hiện với
góc độ chân thực, giản dị, các chú lợn béo tròn quây quanh chiếc máng gỗ. Với
phong cách thể hiện giản dị, các đƣờng nét giống khắc gỗ và chất liệu in ấn trên
86
giấy thô sơ, ngƣời nông dân đƣợc thể hiện tinh thần hồ hởi, chăm chỉ lao động
hƣớng tới cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đồng thời, ngƣời nông dân Việt Nam đƣợc
thể hiện trong mối quan hệ khăng khít với công nhân và bộ đội.
- Hình tượng người công nhân
Anh công nhân là hình tƣợng đƣợc thể hiện trong bộ tiền đầu tiên của nƣớc
Việt Nam DCCH ở tờ bạc 5 đ phát hành 1946 do họa sĩ Mai Văn Hiến vẽ. Tiếp đó,
hình tƣợng này xuất hiện khá nhiều trong tiền Tài chính nhƣ 10 đ, 20 đ, 100đ (mẫu
có dòng chữ: Tích cực chuẩn bị tổng phản công)…đồng thời cũng lác đác xuất hiện
trong tiền giấy Nam Bộ.
Bộ tiền phát hành 1951, hình tƣợng các anh công nhân trong nhà máy tiện
chế tạo vũ khí (trong mẫu 100 đ), có anh công nhân mặc trang phục bảo hộ lao
động, có anh vẫn đang mặc áo kiểu nông dân (vạt buông) nhƣng đèu chăm chú trên
máy tiện của mình nhƣ muốn nói về nguồn xuất thân từ nông dân của ngƣời công
nhân Việt Nam.
Hình tƣợng công nhân tiếp tục đƣợc thể hiện trong tiền giấy ngân hàng phát
hành năm 1959 trong hình ảnh anh công nhân tay cầm cờ đại diện cho khối công –
nông - binh - t rí trên mẫu 2 đ. Hệ thống tiền UBTƢ MTDTGPMNVN, không xuất
hiện hình tƣợng ngƣời công nhân. Hình tƣợng nữ công nhân nhà máy dệt Nam Định
xuất hiện lần đầu trong mẫy tiền 5 đồng, tiếp đến là cảnh công nhân nhà máy tiện (bộ
tiền phát hành vào miền Nam năm 1975). Đến hệ thống tiền 1985, hình tƣợng ngƣời
công nhân xuất hiện trở lại với hình ảnh nữ công nhân trong nhà máy dệt Nam Định
(mẫu 2000đ, phát hành 1988), nữ công nhân nhà máy đóng hộp (mẫu 20.000đ, phát
hành 1991).
Trong hội họa Việt Nam, hình tƣợng ngƣời công nhân đƣợc đánh dấu với tác
phẩm Học hỏi lẫn nhau (sơn dầu 1960), Công nhân cơ khí (sơn dầu, 1962), Tan ca,
mời chị em đi họp để thi thợ giỏi (sơn dầu 1976) của Nguyễn Đỗ Cung. So sánh với
hình tƣợng công nhân trong hội họa Việt Nam, hình tƣợng công nhân trong tiền
giấy xuất hiện sớm hơn hàng chục năm và mang tính biểu tƣợng cao hơn. Nhƣ vậy
hình tƣợng công nhân đã đƣợc thể hiện trên hầu hết các bộ tiền của Việt Nam từ
87
năm 1945 tới nay. Nếu trong hội họa, ngƣời công nhân thƣờng đƣợc đặt trong
khung cảnh sản xuất công nghiệp thì hình tƣợng công nhân trong tiền giấy Việt
Nam giai đoạn 1945-1959 thƣờng đƣợc thể hiện nhân vật và mang tính biểu tƣợng
cao. Trong tiền Tài chính, hình tƣợng ngƣời công nhân đƣợc thể hiện là nam công
nhân tay cầm búa thì giai đoạn hiện nay đã đƣợc thay bằng hình tƣợng nữ công
nhân trong các nhà máy xí nghiệp hiện đại [PL-MH 2.48 ].
- Hình tượng người trí thức
Hình tƣợng của ngƣời trí thức xuất hiện khá sớm trong tiền giấy Việt Nam.
Tại Tiền Tài chính, đó là hình ảnh ngƣời phụ nữ thành thị dạy chữ cho ngƣời nông
thôn trong mẫu 100 đ Tiền, ngƣời tri thức trong khối công-nông-binh-trí ở tờ 50 đ.
Trong bộ tiền năm 1951 không xuất hiện hình tƣợng ngƣời trí thức. Tại bộ tiền phát
hành 1959, hình tƣợng ngƣời trí thức đƣợc xuất hiện trong tờ có mệnh giá 2 đ, đƣợc
thể hiện là nam giới mặc complet và thắt cà vạt đứng ngay sát chị nông dân trong
khối công-nông-binh-trí.Hình tƣợng tri thức hầu nhƣ không xuất hiện trong các bộ
tiền phát hành tiếp sau. Cũng cần nói tới nguyên nhân việc thiếu vắng này, có lẽ
xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của nƣớc ta giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, khi
miền Bắc xây dựng XHCN và chi viện cho miền Nam chiến đấu, hình tƣợng ngƣời
trí thức đã hòa vào với hình ảnh công nghiệp hóa đất nƣớc, với các phong cảnh có
đề tài liên quan tới công nghiệp [PL-MH 2.49].
2.3. Chân dung trong tiền giấy Việt Nam
Trong hội họa, ngƣời ta phân định ra nhiều loại tranh nhƣ tranh phong cảnh,
tranh sinh hoạt, tranh chân dung. Từ điển mỹ thuật phổ thông mô tả tranh chân dung
là: “vẽ từ đỉnh đầu đến giữa ngực nhƣng vẽ mặt ngƣời là chính” [72, tr.38]. Khác
với tranh phong cảnh vẽ về thiên nhiên, tranh sinh hoạt vẽ về hoạt động của con
ngƣời hàng ngày (thuật ngữ tranh sinh hoạt ở Việt Nam còn dùng để phân biệt với
tranh sản xuất, tranh chiến đấu [72, tr.146]) thì tranh chân dung là “hình ảnh nhân
vật đƣợc diễn tả nổi bật với đặc điểm riêng, nhất là qua gƣơng mặt” [72, tr.38].
Chân dung trên tờ tiền là một trong các yếu tố quan trọng của mỹ thuật trên
tiền giấy, nó vừa tham gia cùng hoa văn họa tiết và hình ảnh chủ đề để tạo nên tổng
88
thể hình thức của tờ bạc, chân dung vừa mang tính biểu tƣợng của quốc gia. Trong
tiền giấy Việt Nam, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh là chân dung duy nhất đƣợc
sử dụng trong tất cả các bộ tiền.
Trong các yếu tố cấu thành hình thức của tiền giấy, cùng với hoa văn họa tiết
trang trí và hình ảnh chủ đề, chân dung các danh nhân lịch sử đƣợc in trên mặt trƣớc
của tờ tiền tạo thành đặc trƣng thẩm mỹ tiền giấy. Chân dung chiếm vị trí quan
trọng trong việc tạo nên giá trị thẩm mỹ cũng nhƣ mang trong đó giá trị nghệ thuật
khắc kim loại tinh xảo của đồ họa in ấn và khả năng bảo an cao. Trong cuốn The Art
of money, Davis Standis cho rằng: “tiền giấy có tính quảng bá rộng rãi nên nhiều
lãnh đạo các nƣớc (đƣơng nhiệm hoặc trong lịch sử) đã đƣợc in trên tờ tiền” [134,
tr.28]. Đầu thế kỷ XX, ngƣời ta bắt đầu sử dụng phổ biến chân dung trên tiền giấy
nhƣng chỉ đến sau chiến tranh thế giới thứ 2, chân dung mới đƣợc phóng to kích
thƣớc và trở thành yếu tố đảm bảo cho tiền giấy vì ngƣời tiêu dùng nghĩ rằng chân
dung ngƣời đáng tin cậy.
Có những tờ tiền nhƣ tờ 1 dollar của Mỹ hoặc một số tờ tiền của Thụy sỹ
không có hình ảnh chủ đề nhƣng vẫn có chân dung hoặc đồng tiền của Úc sử dụng 2
chân dung của 2 nhân vật khác nhau trên hai mặt của tờ tiền polymer hiện hành.
Thông thƣờng, chân dung chiếm khoảng ¼ diện tích của mặt trƣớc tờ bạc.
Dần dần, chân dung trở thành yếu tố không thể thiếu trên tiền giấy. Hình
tƣợng chân dung nhân vật không chỉ mang ý nghĩa của chi tiết trang trí mỹ thuật mà
hội tụ giá trị biểu tƣợng.Thông thƣờng, chân dung trên tiền giấy là các lãnh tụ nhân
dân, danh nhân văn hóa, chính trị, khoa học, nghệ thuật…những ngƣời có ảnh
hƣởng lớn tới công chúng, đƣợc trân trọng và tôn vinh.
Ở miền Bắc Việt Nam, kể từ bộ tiền đầu tiên (1946) cho tới bộ tiền hiện nay,
chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xuất hiện trên tiền giấy Việt Nam. Hai hệ
thống tiền phát hành vào phía nam vĩ tuyến 17 không có chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Minh là hệ thống tiền của UBTƢ MTDTGPMNVN và hệ thống tiền phát hành sau
30/4/1975 để thu đổi tiền của chính quyền Sài gòn (VNCH) . Có thể nói, chân dung
89
Bác là sự bảo đảm lớn nhất cho giá trị của đồng tiền pháp định những ngày đầu lập
nƣớc khi ta không có vàng để bảo đảm nhƣ trƣờng hợp Tiền Tài chính.
2.3.1. Chân dung trong tiền Tài chính
(Bảng tổng hợp chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền Tài chính, phụ lục 2.23)
+ Về bố cục và góc nhìn: Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc thiết kế và
in ấn trang trọng, chiếm vị trí trung tâm của mặt trƣớc tờ tiền. Ở giai đoạn Tiền Tài
chính, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng đƣợc thể hiện trong khung hoa văn
hình chữ nhật hoặc trong khung trang trí hình ô-van với hình tƣợng bông lúa trĩu
hạt nhƣ muốn nói tới lãnh tụ nhân dân, đem lại cơm no áo ấm cho đồng bào. Lúc
này Việt Nam chƣa có quốc huy nên các họa sĩ thiết kế thƣờng sử dụng thêm hình
ảnh bản đồ hoặc lá cờ Việt Nam nhƣ biểu tƣợng cho nƣớc Việt Nam.
Thời kỳ đầu, các chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc in chính giữa, góc
chính diện nhƣ xuất hiện trên đồng mệnh giá 1 đồng, 5 đồng, 50 đ, mệnh giá 100 đ.
Ở đợt phát hành tiền giấy lần 2 (trên chiến khu Việt Bắc) chân dung Bác đƣợc vẽ ở
góc nhìn nghiêng 3/4 và đƣợc bố cục sang một phía. Về nguồn gốc của chân dung
Chủ tịch Hồ Chí Minh, các mẫu thể hiện đều có nét đặc điểm và góc độ thể hiện
giống nhau. Có nhiều ý kiến cho rằng mẫu này do Nguyễn Sáng vẽ. Khi so sánh các
chân dung thể hiện trên tiền giấy với các bức ảnh chân dung Bác, thấy rằng các tác
giả Lê Phả, Nguyễn Huyến, Nguyễn Sáng đã thể hiện chân dung Bác từ nguyên mẫu
ảnh do nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An chụp năm 1945.
+ Về cách tạo khối và đường nét: Chân dung Bác đƣợc để trong khung
hình oval, hình vuông hoặc trên nền hoa sen, thậm chí có khung đƣợc kết bằng
các bó lúa. Các trang trí này nhằm tạo mảng hình trung tâm có dáng tròn làm
điểm nhấn chính và phù hợp với khung trang trí hình có hình chữ nhật ở xung
quanh. Nếu nhìn nhận cách thể hiện khung ô val xung quanh chân dung Chủ
tịch Hồ Chí Minh dƣới con mắt của nhà nghiên cứu văn hóa và mỹ thuật truyền
thống thì ta có sự liên tƣởng tới cách thể hiện vầng hào quang bằng ngàn cánh
tay của tƣợng Quán Thế Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay chùa Bút Tháp.
90
+ Về thần thái: Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc thể hiện trong Tiền Tài chính với
dáng vẻ lãnh tụ tinh thần của dân tộc, gƣơng mặt gày với chòm râu nhƣ nhân sĩ xƣa,
vầng trán cao và đôi mắt sáng. Đặc điểm này đƣợc khắc họa một cách sâu sắc trong
toàn bộ hệ thống Tiền Tài chính, tiền Nam Bộ và Tín phiếu Trung bộ. Dù chân dung
đƣợc thể hiện kỹ hay chỉ đơn sơ vài nét (nhƣ trong tín phiếu Trung Bộ), tình cảm
kính yêu đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thể hiện rõ trong từng tờ tiền.
2.3.2. Chân dung trong hệ thống tiền 1951
(Bảng tổng hợp chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền phát hành 1951,
xem phụ lục 2.26)
+ Về bố cục và góc nhìn: Những mẫu tiền giấy có chân dung Bác là các
mệnh giá 10 đ, 20 đ, 50 đ, 100 đ, 200 đ, 500 đ, 1000 đ, 5000 đ. Khác với phong
cách bố cục tiền giấy thời kỳ trƣớc, tiền giấy phát hành năm 1951 có “bố cục lệch”
với phần chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc đẩy ra giới hạn ngoài cùng bên
tay trái. Phần trung tâm của tờ tiền thƣờng đƣợc bố trí cụm mệnh giá hoặc các hình
tƣợng chủ đề công-nông-binh. Tất cả các mẫu đều sử dụng một chân dung và bố
cục chung và không dùng các hoa văn dân tộc nên phong cách và hình thức của bộ
tiền này khá nhàm chán. Chân dung đƣợc thể hiện với góc độ và mắt nhìn thẳng.
+ Về cách tạo khối và đường nét: Đƣờng nét khá tinh tế với các biến đổi
của nét. Cảm nhận ánh sáng đƣợc mô tả chiếu khá mạnh từ phía trên trái, hơi chếch
từ trên xuống nên tạo thành mảng tối ở phía phải của chân dung nên cách thể hiện
khối của chân dung thƣờng mạnh, có phong cách tả thực với hình ảnh vị Chủ tịch
có dáng vẻ khá bình dân. Tuy nhiên chính phong cách tả thực này đã khiến cho
chân dung thiếu đi tính trang trọng và cảm nhận về tầm vóc của vị lãnh tụ.
Phần nền xung quanh, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc đặt trong nền
đậm có khung hình oval, có mẫu đƣợc trang trí hình bông lúa, có mẫu chỉ thể hiện
đƣờng viền. Riêng mẫu 5.000 đ, phát hành năm 1953 có thể hiện chân dung Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhìn thẳng nhƣng không có nền.
+ Về thần thái: Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc thể hiện với 2
phong thái khác nhau. Những mệnh giá 10 đ, 20 đ, 50 đ, 100 đ, 200 đ, 500 đ và
91
1000 đ thể hiện chân dung Bác với thần thái của một nhân sĩ yêu nƣớc. Gƣơng mặt
khá hốc hác với đôi mắt sâu nhìn thẳng, mái tóc và chòm râu đƣợc thể hiện theo
cách tả thực, tuy nhiên gây cảm nhận hơi thô, xơ xác và thiếu thần khí. Điều này
khiến các mẫu chân dung này không tạo đƣợc cảm nhận về lãnh tụ nhân dân.
Ngƣợc lại với phong thái trên, mẫu 5000đ tả chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhƣ một nhà tri thức với ánh nhìn thắng, mặt gày thanh tú, mái tóc và chòm
râu đƣợc chải mƣợt mà. Tuy nhiên do cách tạo khối mềm mại và cách thể hiện quá
mƣợt mà đã đƣa tới cảm nhận là nhân vật này xuất phát từ đại gia đình quyền quý,
chỉ quen với chữ nghĩa và xa rời quần chúng lao động. Vì những mẫu trong hệ
thống này đƣợc thể hiện bởi các họa sĩ Trung Quốc nên phần nào hình ảnh Chủ
tịch Hồ Chí Minh không thực sự giống nhƣ trong tâm tƣởng của ngƣời Việt. Thực
tế, giới sƣu tầm cũng nhƣ họa sĩ thiết kế không đánh giá cao vẻ đẹp nghệ thuật của
chân dung này.
2.3.3. Chân dung trong hệ thống tiền giấy 1959
(Thống kê chi tiết chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền phát hành
1958, xem phụ lục 2.27)
Hệ thống tiền giấy 1959 đƣợc đánh giá là một trong những hệ thống có tính
chuẩn mực cao trong cách thể hiện. Đây là hệ thống tiền đầu tiên sử dụng Quốc
huy Việt Nam ở mặt trƣớc. Trong 7 mệnh giá đƣợc phát hành thì chỉ có đồng mệnh
giá 5 đ và 10đ là có sử dụng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo ông Trần
Tiến (nguyên Trƣởng phòng thiết kế mẫu tiền – NHNN Việt Nam) thì tác giả của
mặt trƣớc đồng 5đ là họa sĩ Lê Phả, ở mặt sau phần khung trang trí do họa sĩ Bùi
Trang Trƣớc vẽ, phong cảnh khai thác than do họa sĩ Mai Văn Hiến vẽ. Cũng theo
họa sĩ Trần Tiến, tác giả thực hiện cả hai mặt của đồng 10 đ là họa sĩ Huỳnh Văn
Thuận. Hai chân dung này đƣợc thể hiện trang trọng ở phía bên tay phải theo tỷ lệ
bố cục 1/4.
+ Về bố cục và góc nhìn: Hai chân dung trên 2 tờ này đƣơc thể hiện với hai
góc khác nhau. Trên thực tế, tuy hai đồng tiền này có cùng hệ thống phát hành
nhƣng phong cách thiết kế và thể hiện chân dung hoàn toàn khác nhau. Nếu tờ 5 đ
92
có chân dung ở hƣớng nhìn thẳng trực diện thì tờ 10 đ lại cho góc nhìn bán diện.
Trong khi góc nhìn trực diện đƣa lại cảm nhận trang trọng, truyền thống kiểu
phƣơng Đông thì góc nhìn bán diện cho cảm nhận khá hiện đại, tích cực kiểu
phƣơng Tây (trông khá giống đồng Rúp của Liên Xô giai đoạn này). Tờ bạc 10 đ
này đƣợc nhân dân gọi vui là đồng “Cụ mƣợt” vì cách chải đƣờng nét và thể hiện
tóc rất mƣợt mà.
+ Về cách tạo khối và đường nét: Cả hai chân dung đều có cách tạo khối
mềm mại, trau chuốt và giảm bớt các khối thô phác. Các nét khắc dài, đều đƣợc
chuyển từ đậm đến nhạt, từ nông tới sâu, từ chi tiết nhƣ con ngƣơi hay sợi tóc đều
đƣợc thực hiện cẩn trọng. Các biểu hiện này đƣa đến cảm nhận các họa sĩ và thợ
khắc đã thực hiện với tấm lòng kính yêu sâu sắc Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cả hai
chân dung đều diễn tả đƣợc “chất lãnh tụ” cũng nhƣ cảm nhận về danh nhân văn
hóa. Các chân dung đƣợc thể hiện nổi bật trên nền giấy, các họa sĩ không sử dụng
cách vờn nền đậm hoặc tạo khung hình oval nhƣ các hệ thống trƣớc. Đây chính là
điểm khác biệt và đột phá trong cách thể hiện mà các chân dung này đã mở ra. Các
hệ thống tiền giấy sau này, với cách bỏ khung viền xung quanh, chân dung ngày
càng đƣợc thực hiện lớn hơn.
+ Về thần thái: Với hai góc nhìn khác nhau ( bán diện và chính diện), cả hai
mẫu đều thể hiện đƣợc tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó có dáng vẻ của
“cha già dân tộc”, đau đáu vì nƣớc nhà, vừa minh triết vừa giản dị gần gũi. Tuy đã
đƣợc thực hiện cách đây ngót nửa thế kỷ nhƣng hai mẫu tiền này cùng với chân
dung Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đƣợc đánh giá cao nhất, tiêu biểu nhất cho cách
tạo hình chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy Việt Nam.
2.3.4. Chân dung trong hệ thống tiền giấy sau 1978
(Bảng tổng hợp chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy phát hành sau
1978, xem phụ lục 2.28, 2.30, 2.32)
Kể từ 1978, tiền giấy Việt Nam mới đƣợc thống nhất phát hành và lƣu thông
trong toàn lãnh thổ Việt Nam. Đây là dấu mốc quan trọng trong lịch sử tiền giấy
Việt Nam. Về mỹ thuật, thời điểm này đánh dấu sự thay đổi trong phong cách tạo
93
hình chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các mẫu tiền mang nhiều phong cách thể
hiện chân dung khác nhau với góc nhìn chủ yếu chính diện.
+ Về bố cục và góc nhìn: Trong ngót 30 mẫu đƣợc phát hành thì chỉ có duy
nhất một mẫu tiền sử dụng chân dung với góc độ nghiêng bán phần là mẫu mệnh
giá 20 đ phát hành năm 1978 và nghiêng ¾ tại mẫu mệnh giá 10.000 đ phát hành
năm 1990. Tất cả các mẫu đều đƣợc thể hiện với góc nhìn thẳng, vị trí bố cục lệch
1/3 hoặc ¼ cho ta cảm nhận các mẫu này đều hƣớng tới tiêu chuẩn thể hiện nhƣ
đồng 5 đồng của hệ thống 1958.
+ Về cách tạo khối và đường nét: Tất cả các mẫu chân dung trong đều đƣợc
thể hiện khối mềm mại theo phong cách thể hiện cổ điển, ánh sáng không đƣợc
diễn tả mạnh mẽ nhƣ các chân dung hệ thống tiền Tài chính. Do các hệ thống đƣợc
thực hiện dƣới sự giúp đỡ của các nƣớc khác nhau nên các chân dung này có nhiều
phong cách thể hiện khác nhau (cho dù cùng thể hiện khắc lõm với một mẫu ảnh
duy nhất). Ở hệ thống này, chân dung nhìn nghiêng do họa sĩ Huỳnh Văn Thuận vẽ
trên mẫu 20 đ chính là chân dung đã sử dụng trên đồng 10 đ của hệ thống 1958.
Với sự giúp đỡ về tài liệu của họa sĩ Trần Tiến, NCS đã xác định đƣợc tác
giả cho các mặt trƣớc tiền giấy của giai đoạn:
Các tác giả thể hiện mặt trước, hệ thống tiền giấy năm 1978 [Phụ lục 2.29 ]
Các tác giả thể hiện mặt trước, hệ thống tiền giấy năm 1985 [Phụ lục 2.31]
Các tác giả thiết kế mặt trước, của hệ thống tiền Polymer [Phụ lục 2.33]
Việc xác định các tác giả thể hiện mặt trƣớc tờ tiền có liên quan tới việc thể
hiện chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này biểu hiện rõ nét về phong cách
tạo hình chân dung và cách tả khối, ánh sáng…Tuy các chân dung đều thực hiện
trên 1 ảnh mẫu, nhƣng chân dung trên các tờ tiền lại rất khác nhau. Trong các mẫu
của bộ tiền 1985, chỉ có duy nhất chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thẳng trên
các mệnh giá 30đ, 50đ, 100đ, 500đ, 1000đ, 2000đ đƣợc in lõm là có tính đồng nhất
và có chất lƣợng in ấn tốt. Các mẫu chân dung khác đƣợc thể hiện cho in ốp-xét
thƣờng có nét thô, yếu về khối và đậm nhạt.
94
Ở hệ thống 1985 có 1 mẫu chân dung mệnh giá 10.000đ đƣợc thể hiện với
góc ¾ do họa sĩ Sơn Hải thể hiện. Mẫu này đƣợc chế bản khắc 2 lần, lần đầu do
chuyên gia Liên Xô khắc, lần 2 đƣợc làm ở Thụy Sỹ. Các mẫu còn lại, chân dung
đƣợc thể hiện với tƣ thế nhìn thẳng. Đối với các mẫu thực hiện bằng in lõm, có 2
dạng chân dung trong hệ thống này, một dạng có cấu trúc khối khá chắc do Liên
Xô chế bản, một dạng có khối mỏng hơn do Thụy Sỹ chế bản. Còn các mẫu đƣợc
thực hiện với công nghệ in ốp-xét thì chế bản tại Việt Nam trong điều kiện lạm
phát cao nền chƣa thể hiện rõ tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở phần trang trí
xung quanh, chân dung thƣờng đƣợc thực hiện cùng hoa văn dân tộc.
Hệ thống tiền với chất liệu Polymer chỉ sử dụng một mẫu chân dung nhìn
thẳng. Mẫu này do họa sĩ Nguyễn Xuân Tăng thể hiện bản nét, khi chế bản, họa sĩ
Trần Tiến có chỉnh sửa lại một số chỗ tại mẫu 200.000đ và 500.000 đ. Các mẫu
chân dung bằng nét vẽ đen trắng sẽ đƣợc thực hiện chế bản in lõm bằng công
nghệ Photo Polymer (trên bản polymer chứ không phải trên bản kim loại nhƣ các
mẫu đƣợc dùng cho in lõm ở hệ thống trƣớc). Cách tạo khối của chân dung khá
mềm mại, cũng vì do công nghệ Photo Polymer nên các khối không đƣợc thể hiện
khỏe chắc mà thƣờng mềm, với nét chải dài và không có sự thay đổi đậm nhạt
mạnh mẽ. Nếu nhìn lại toàn bộ hệ thống tiền giấy đã phát hành tại Việt Nam thì
những chân dung này có xu hƣớng đầy đặn nhƣng mềm mại nhất, gần với phong
cách/tƣ duy tạo tác tƣợng Phật Giáo. Về phần trang trí, các mẫu 20.000đ, 50.000đ,
100.000đ có sử dụng phần nền với các tia hoa văn có xu hƣớng tỏa ra xung quanh
+ Về thần thái: Các chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc thực hiện ở bộ
tiền phát hành 1978 cho đến sau này đều đƣa lại các cảm nhận khác nhau về nhân
vật. Có thể khái quát thành 3 dạng chủ yếu. Thứ nhất, các mẫu có cách tả khối và
chi tiết sai (mẫu 50 đ phát hành 1976, mẫu 100 đ phát hành 1980, mẫu 100000 đ
phát hành 1994…), dẫn tới các cảm nhận khác thƣờng. Thứ hai, các mẫu thể hiện
chân dung quá gầy (mẫu 20 đ, 50 đ phát hành 1985, mẫu 500 đ, 1000đ, 2000 đ
phát hành 1988), dẫn tới cảm nhận yếu và thiếu thần khí. Thứ ba, các mẫu thể
hiện chân dung quá đầy đặn, tả khối quá mạnh (mẫu 30 đ, 50 đ, 100 đ, phát hành
95
đợt 1 năm 1985 và các chân dung trong bộ tiền polymer), dẫn tới cảm nhận hơi dễ
dãi, thiếu đi thần thái của lãnh tụ.
Tiểu kết
Nếu cái đẹp ở hội họa tồn tại ở màu sắc đƣờng nét, hình khối …thì mỹ thuật
trên tiền giấy Việt Nam, cái đẹp tồn tại trong ngôn ngữ của nghệ thuật đồ họa, nghệ
thuật trang trí và sử dụng hình tƣợng. Đó là sử dụng hoa văn và họa tiết trong trang
trí, trong đó điểm mạnh nhất là ứng dụng hoa văn dân tộc trong tiền giấy Việt Nam
với các đề tài tứ linh, hoa văn thực vật, đặc biệt là hoa sen và mô típ giải hoa dây.
Các hoa văn này đƣợc ứng dụng từ các mẫu chạm khắc ở đình chùa, hoặc các hiện
vật cổ đƣợc khai quật đã trở thành quen thuộc với giới mỹ thuật và công chúng.
Bên cạnh việc dùng hoa văn dân tộc, tiền giấy còn sử dụng nhiều hoa văn
hình học (hoa văn kỷ hà) nhƣ hình ngôi sao, hình chữ triện, hình sóng… Một dạng
hoa văn đặc trƣng cho trang trí tiền giấy là hoa văn lƣới, với các nét đƣợc tạo bởi
các máy khắc hoặc phần mềm chuyên dụng, trong đó có hoa văn phù điêu là dạng
hoa văn mà không có đồ họa giá vẽ hoặc in ấn thông thƣờng nào sử dụng. Trong
nghề làm giấy, giấy Trúc chỉ có khả năng tạo hình trên nền giấy, trong đồ họa tiền
giấy có hoa văn bóng chìm, cũng đƣợc tạo hình trên giấy in tiền, là dạng hoa văn
đặc biệt chỉ có ở tiền giấy và các giấy tờ bảo an cao cấp. Tham gia vào giá trị của đồ
họa tiền giấy, nghệ thuật thiết kế chữ cũng có những đóng góp đáng kể. Đó là chữ
chính với các cụm tiêu đề đƣợc thiết kế trang trọng và chữ/số mệnh giá đƣợc tạo
kiểu khá công phu, với nhiều hiệu ứng đồ họa phong phú. Ngoài ra, những chữ cực
nhỏ xuất hiện trong tiền giấy đem lại một cảm nhận rất đặc biệt, các chữ này tồn tại
không phải để truyền tải thông tin nội dung mà mang trong đó giá trị về nghệ thuật
trang trí đặc trƣng của tiền giấy đồng thời tăng cƣờng khả năng chống làm giả. Đồ
họa tiền giấy sử dụng chữ với các cách thức khác mà đồ họa giá vẽ và đồ họa truyền
thông thị giác khác không sử dụng. Cách ứng dụng đó đem lại điểm khác biệt đặc
trƣng cho nghệ thuật đồ họa chữ trên tiền giấy Việt Nam.
Cùng với các yếu tố trang trí nhƣ hoa văn và đồ họa chữ, hình ảnh chủ đề là
phần quan trọng tạo nên diện mạo cho tiền giấy Việt Nam. Những hình ảnh này
96
luôn gắn liền với tính thời sự, là công cụ phục vụ công tác chính trị tuyên truyền về
thiên nhiên, con ngƣời Việt Nam trong lao động và chiến đấu. Bên cạnh thể hiện
các phong cảnh, công trình kiến trúc và công nghiệp, hình tƣợng ngƣời chiến sĩ,
công nhân, nông dân và trí thức đƣợc thể hiện trong tiền giấy Việt Nam với nhiều
góc độ sinh động nhƣng luôn nằm trong đề tài về khối đoàn kết công-nông-binh-trí
hoặc khối thống nhất Trung- Nam- Bắc. Các đề tài này cũng thƣờng gặp trong hội
họa hoặc tranh cổ động nhƣng cách thể hiện với ngôn ngữ nét của tiền giấy đã tạo
thành các tác phẩm in lõm thú vị.
Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh là chân dung duy nhất, là một trong những
hình ảnh luôn xuất hiện cùng lịch sử tiền giấy Việt Nam. Nếu tiền giấy các nƣớc
khác có thể sử dụng nhiều nhân vật lịch sử thì ở tiền giấy Việt Nam chỉ sử dụng 1
chân dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Về tạo hình, chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Minh thƣờng hay đƣợc thể hiện với góc nhìn thẳng chính diện, chứ ít khi đƣợc thể
hiện với góc ¾ hoặc ½ nhƣ ở tiền giấy các nƣớc khác. Trong mọi mẫu tiền giấy,
chân dung Bác luôn đƣợc thể hiện với thần thái ung dung, trang trọng của vị lãnh tụ.
Chƣơng 2 tập trung nghiên cứu các yếu tố cấu thành hình thức tờ tiền giấy
Việt Nam: họa tiết hoa văn (gồm hoa văn dân tộc, hoa văn lƣới, nghệ thuật đồ họa
chữ), hình ảnh phong cảnh chủ đề, hình ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.
97
Chƣơng 3
ĐẶC TRƢNG NGHỆ THUẬT VÀ SỰ BIẾN ĐỔI PHONG CÁCH
MỸ THUẬT TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM
Dƣới góc nhìn mỹ thuật, tiền giấy là sản phẩm mỹ thuật mang đậm tính trang
trí. Ở tiền giấy Việt Nam, đặc trƣng mỹ thuật thể hiện ở nghệ thuật trang trí với việc
sử dụng hoa văn mỹ thuật truyền thống vừa mang tính trang trí, vừa mang tính biểu
tƣợng; ngôn ngữ nghệ thuật đồ họa với nghệ thuật dùng nét, màu sắc và nghệ thuật
thể hiện chân dung là các điểm chính nổi bật.
3.1. Đặc điểm nghệ thuật trang trí trên tiền giấy Việt Nam
3.1.1. Tính biểu tượng trong trang trí tiền giấy Việt Nam
Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông định nghĩa “trang trí là nghệ thuật làm
đẹp, phục vụ cho đời sống vật chất tinh thần của con ngƣời. Nhờ những yếu tố trang
trí, vật dụng vừa có giá trị thẩm mỹ vừa nâng cao giá trị sử dụng” [72, tr.134]. Nghệ
thuật trang trí đƣợc sử dụng rộng rãi và nằm lẫn trong nhiều loại hình nghệ thuật và
trong nhiều ngành khác nhau. Ngƣời ta có thể thấy trang trí trong kiến trúc, trong
điêu khắc, hội họa, sân khấu… Ngôn ngữ của trang trí là dùng màu sắc, họa tiết,
đƣờng nét rõ ràng, dễ nhận biết và gây cảm giác dễ chịu. Mỗi dân tộc lại có phong
cách thẩm mỹ, hệ thống hoa văn, biểu tƣợng riêng nên nghệ thuật trang trí càng
phong phú.
Khi xem tác phẩm trang trí, ngƣời ta thƣờng để ý tới tính thẩm mỹ, biểu
trƣng và dân tộc để thấy sự thú vị mà nghệ thuật trang trí mang lại. Tính thẩm mỹ
thể hiện tầng bề mặt của chức năng trang trí, tính biểu trƣng thể hiện tầng sâu trong
chức năng của trang trí và tính dân tộc thể hiện gốc tích của trang trí với cả cách
tiếp cận mỹ thuật lẫn văn hóa. Trong nghệ thuật truyền thống Việt Nam, khái niệm
trang trí còn đƣợc tiếp cận không chỉ bởi tính biểu hiện (tác giả Trần Lâm Biền gọi
là “Cái Hiển”) mà còn đƣợc đề cập tới với tính tƣợng trƣng (tác giả Trần Lâm Biền
gọi là “Cái Mật”). Trong cách tiếp cận văn hóa học, trang trí đƣợc gắn kèm cùng
khái niệm ứng dụng với chức năng là “tô điểm” nhƣng hoa văn học cũng nhấn
mạnh rằng trong trang trí “tính biểu trƣng đóng vai trò rất mạnh”. Mặc dù ngôn ngữ
98
trang trí rất ƣớc lệ và mang tính biểu tƣợng, nhƣng nó vẫn mang dấu ấn độc đáo của
tính dân tộc” [100, tr.526].
Có thể nói ngƣời Việt Nam là dân tộc ƣa thích trang trí, dùng trang trí để
truyền tải ý tƣởng nội dung. Đối với ngƣời Việt, những vật đƣợc tập trung mức độ
trang trí thì quý giá, độ tinh xảo cũng đƣợc tập trung dần vào khu trung tâm. Trong
mỹ thuật truyền thống, những vật càng quan trọng, linh thiêng thì càng đƣợc tập
trung trang trí với kiểu thức cầu kỳ, hoa văn đặc trƣng, vật liệu trang trí quý hiếm và
mật độ trang trí dày đặc. Những công trình, vật dụng tập trung nhiều hình thức trang
trí nhất thuộc về lĩnh vực tôn giáo hoặc quyền lực vua chúa. Trong các ngôi chùa,
ngoài sân, nghi môn, nhà tiền đƣờng thƣờng có trang trí đơn giản hơn phần thƣợng
điện và tập trung nhất ở các cửa võng, khám thờ, bàn thờ. Ngƣời ta có thể thấy các
sản phẩm trang trí trong đình, chùa thời Lê - Mạc ở miền Bắc, trong các lăng tẩm
cung điện nhà Nguyễn ở Huế, và ngay cả trong công trình tôn giáo phƣơng Tây nhƣ
nhà thờ Phát Diệm cũng mang đậm quan điểm trang trí thuần Việt đó. Tinh thần
trang trí này cũng đƣợc áp dụng trong mỹ thuật trên tiền giấy do ngƣời Việt thiết kế.
Những đồng tiền có mệnh giá càng lớn thì càng đƣợc tập trung trang trí kỹ càng từ
mô típ tới cách dùng màu sắc đƣờng nét. Ngay cả trong một tờ tiền, hình thức trang
trí cũng tập trung chủ yếu ở mặt trƣớc, trong đó nhấn mạnh khu vực trung tâm tờ
bạc, các khu vực xung quanh đƣợc giảm dần.
Bất cứ quốc gia nào khi phát hành tiền giấy đều mong muốn thể hiện các giá
trị của mình trên sản phẩm đại diện đó. Khi nghiên cứu để phát hành đồng tiền
chung cho châu Âu, Viện Nghiên cứu tiền tệ đã đƣa ra cuộc thi thiết kế tiền giấy với
nội dung: “Viện tiền tệ châu Âu mong muốn tổ chức cuộc thi thiết kế bộ tiền giấy
thể hiện di sản văn hóa châu Âu”, “Mẫu thiết kế tiền giấy cần rõ ràng và đặc trƣng
của châu Âu cũng nhƣ nên thể hiện rõ ràng văn hóa và các thông điệp chính trị đƣợc
công dân châu Âu chấp nhận” [137, tr.1].
Tiền giấy Việt Nam là sản phẩm đồ họa độc quyền của nhà nƣớc, tham gia
vào hệ thống biểu tƣợng văn hóa và quyền lực của quốc gia bởi các lý do sau:
99
- Tiền tệ của quốc gia là gƣơng mặt chính trị, kinh tế của quốc gia đó trong
cộng đồng quốc tế. Quyền phát hành tiền giấy là chủ quyền quan trọng của quốc
gia, nhà nƣớc luôn độc quyền trong phát hành tiền.
- Tiền là sản phẩm đƣợc sử dụng trong toàn quốc, đƣợc toàn dân sử dụng.
Một số đồng tiền có khả năng chuyển đổi trên bình diện quốc tế. Đồng tiền càng có
khả năng chuyển đổi chứng tỏ vị thế quốc gia đó càng lớn.
- Tiền giấy là sản phẩm in ấn đƣợc phát hành nhiều nhất, tích hợp toàn bộ
công nghệ hiện đại nhất của quốc gia đó có trong lĩnh vực in ấn và giấy tờ bảo an.
Mỗi quốc gia phải đầu tƣ cao nhất vào việc sản xuất tiền giấy, vừa để đảm bảo kinh
tế, quảng bá văn hóa đồng thời phải đảm bảo khả năng chống làm giả.
Các nhà biểu tƣợng học có nhiều cách phân loại biểu tƣợng khác nhau.
Radugin cũng đề cập tới nguồn gốc của biểu tƣợng nhƣ khả năng đầu tiên của con
ngƣời trong lịch sử nhận thức thế giới… Theo đó, “biểu tƣợng là một loại ký hiệu
đặc biệt, thể hiện nội dung thực tế của một điều gì đó. Biểu tƣợng văn hóa khác ký
hiệu thông thƣờng ở chỗ nó chứa đựng mối liên hệ tâm lý với tồn tại mà nó biểu
trƣng” [100, tr.50]. Nhóm tác giả Jean Chevalier và Alain Gheebran, trong tác phẩm
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới đã dựa vào hình thức biểu hiện để chia biểu
tƣợng thành tám loại: (1) huyền thoại, (2) chiêm mộng, (3) phong tục, (4) cử chỉ, (5)
dạng thể, (6) các hình, (7) màu sắc, (8) con số [51]. Ở tiền giấy Việt Nam, các yếu
tố nhƣ các hình (6), màu sắc (7), con số (8) vừa mang tính mỹ thuật, vừa đƣợc khai
thác dƣới góc độ của tính biểu tƣợng.
Vì “hình tƣợng đƣợc thể hiện sự tiếp nhận thế giới bằng mắt” [100, tr.436]
nên hình tƣợng cần có tính biểu tƣợng cao để đánh thức tâm trí ngƣời xem. Bản
thân tiền giấy (nhƣ trên đã phân tích) cũng là một biểu tƣợng của quốc gia, nên hình
tƣợng nghệ thuật trong tiền giấy là hình tƣợng mang tính biểu tƣợng, mọi hình
tƣợng đều đƣợc cân nhắc về ý nghĩa tƣợng trƣng đồng thời gắn chặt với chính thể
và mang đậm tinh thần thời đại. Dƣới góc nhìn của mỹ thuật, các chi tiết nhƣ hoa
văn, màu sắc, phong cảnh, quốc huy, chữ… đều là các họa tiết trang trí quan trọng
cần đƣợc bố trí sắp đặt hợp lý trên tờ tiền đồng thời cũng mang tính biểu tƣợng.
100
Hình tƣợng trong tiền giấy là biểu tƣợng cho quốc gia đó về chính trị, kinh
tế, văn hóa và vẻ đẹp đất nƣớc. Trƣờng hợp tiền giấy Việt Nam, các hình tƣợng, họa
tiết đều biểu đạt cho một ý niệm theo bảng sau:
Cái biểu đạt Cái đƣợc biểu đạt
Quốc huy, quốc hiệu, tiêu đề, ngôn ngữ Thể chế chính trị, Chủ quyền quốc gia
Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh Lãnh tụ tinh thần, danh nhân văn hóa
tiêu biểu của quốc gia
Hoa văn trang trí dân tộc Giá trị văn hóa truyền thống với các ý
niệm của ngƣời Việt
Phong cảnh chủ đề Vẻ đẹp của đất nƣớc Việt Nam
Chủ đề công trình kiến trúc Vẻ đẹp của di sản văn hóa
Chủ đề về con ngƣời Vẻ đẹp, giá trị con ngƣời
Chủ đề lao động sản xuất, bộ đội chiến Vẻ đẹp con ngƣời Việt Nam trong thời
đấu, các công trình công nghiệp đại mới
Bảng 3.1: Các chi tiết mang tính biểu tượng trong tiền giấy Việt Nam
So với hình tƣợng trong tác phẩm hội họa hoặc đồ họa, hình tƣợng trong tiền
giấy có tính đại diện/biểu tƣợng cao hơn rất nhiều. Bên cạnh giá trị là họa tiết trang
trí, các hình vẽ này còn mang đậm giá trị tƣợng trƣng. Vì tính biểu tƣợng nên tiền
giấy Việt Nam thƣờng có nhiều sự xuất hiện độc nhất, trong đó biểu tƣợng quốc gia
nhƣ quốc huy, quốc hiệu, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu trƣờng hợp đồng tiền mệnh giá 500000 đ (mệnh giá lớn nhất
trong tiền giấy Việt Nam) để thấy rõ tính tƣợng trƣng trong sử dụng hình tƣợng ở
mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam. Mặt trƣớc tờ tiền mang các biểu tƣợng nhà nƣớc
nhƣ quốc hiệu “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Quốc huy và chân dung Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Mặt sau là hình ảnh Làng sen quê Bác. Khi nhận nhiệm vụ thiết
kế mặt sau về chủ đề phong cảnh “Làng Sen Quê Bác”, bản thân NCS đã giành
nhiều thời gian đọc về thân thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhƣ lịch sử văn hóa
Việt Nam, đồng thời đi thực tế tại khu vực Làng Sen. Với ý tƣởng hoa sen là loài
hoa cao quý của ngƣời Việt, cần lấy ý tƣởng Làng Sen để khái quát và tƣợng trƣng
101
cho các quê hƣơng Việt Nam, trong đó gia đình là hạt nhân xã hội, khi nói tới quê
hƣơng, ai cũng nhớ tới một gia đình.
Dựa trên phong cảnh thực tại Làng Sen để tƣợng trƣng cho quê hƣơng Việt
Nam. Có 7 hình ảnh đƣợc sử dụng là: ngôi nhà, lũy tre, hàng cau, cái võng, ngọn
đèn dầu, khung cửi dệt vải và hoa sen. Tất cả đều liên quan tới tuổi thơ của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Trung tâm của không gian là ngôi nhà tại quê nội Chủ tịch Hồ Chí
Minh ở Làng Sen, đây cũng là hình ảnh tƣợng trƣng cho gia đình, quê hƣơng Việt
Nam. Hình tƣợng lũy tre mạnh mẽ dạt dào phía sau tƣợng trƣng cho ngƣời Cha,
hình tƣợng hàng cau (có rất nhiều ở vƣờn quê Ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
tƣợng trƣng cho ngƣời Mẹ, gày gò, tần tảo sớm hôm; Hình tƣợng các vòng tròn
đồng tâm ở đầu hồi nhà tƣợng trƣng cho ánh sáng từ ngọn đèn (hình thành trí tuệ
con ngƣời Việt); Hình tƣợng cái võng đƣợc thể hiện bởi các ô màu hình quả trám
(tƣợng trƣng cho việc hình thành tâm hồn con ngƣời). Hình tƣợng khung cửi dệt vải
mà mẹ Bác hàng đêm cặm cụi vừa dệt vải vừa ru con đƣợc thể hiện bằng các hoa
văn chìm (nhƣ trên nền vải thể hiện nền tảng văn hóa dân tộc). Hình tƣợng hoa sen
đƣợc thể hiện ở chi tiết bảo an nhƣ cửa sổ hình hoa sen, hoa văn trang trí hoa sen, in
chìm hoa sen…
Nếu so sánh với ảnh chụp tại thực địa thì có nhiều chỗ không chính xác,
nhƣng cách thể hiện này vừa mang đƣợc tinh thần của chủ đề, vừa có tính biểu
tƣợng cao đồng thời phù hợp với cách thể hiện đồ họa của mỹ thuật trên tiền giấy.
Mặt khác, việc thiết kế với các hình ảnh mang nội dung văn hóa truyền thống hài
hòa cùng vẻ đẹp trang trí sẽ chiếm lĩnh tình cảm của công chúng.
NCS đã thực hiện khoảng 20 mẫu thiết kế với các ý tƣởng và hình thức bố
cục khác nhau với cùng kích thƣớc bằng mẫu thật, rồi đã rút gọn còn 3 bố cục cơ
bản với sự thay đổi vị trí của hình tƣợng hàng cau và chiếc võng cũng nhƣ hình thức
của cửa sổ tờ tiền. Cuối cùng, trao đổi cùng lãnh đạo Phòng Thiết kế mẫu là họa sĩ
Trần Tiến và lựa chọn 1 phƣơng án để hoàn thiện bộ mẫu thiết kế. Bộ mẫu này đã
đƣợc thông qua và đi chế bản, in ấn và phát hành thành đồng tiền polymer mệnh giá
500.000 hiện nay [PL –MH 3].
102
3.1.2. Các kiểu thức cơ bản của nghệ thuật trang trí tiền giấy
Nghiên cứu các đồ án trang trí trên tiền giấy Việt Nam, có thể phân ra các
dạng thức trang trí nhƣ sau:
- Trang trí hình vuông: Thƣờng sử dụng phƣơng pháp đối xứng/đăng đối qua
tâm hoặc qua trục trung tâm. Có thể kết hợp trang trí đƣờng diềm. Tuy tiền giấy
không có hình dạng vuông nhƣng ta có thể thấy dạng trang trí này trong một số
mảng chính của nền. Khác với tiền giấy Euro hoặc USD, tiền giấy Việt Nam vẫn sử
dụng các cách thức trang trí vuông ở góc hoặc mảng trang trí chính.
- Trang trí hình chữ nhật: Với dạng hình chữ nhật nằm ngang, thƣờng sử
dụng phƣơng pháp đối xứng/đăng đối qua tâm hoặc qua trục trung tâm. Có thể kết
hợp trang trí đƣờng diềm. Đây là cách trang trí phổ biến trong tiền giấy nói chung
và tiền giấy Việt Nam nói riêng. Hầu hết các tờ tiền Việt Nam đều có cấu trúc (tính
từ ngoài vào tâm) là lề trắng của giấy, đƣờng diềm trên dƣới hoặc xung quanh là
màu đậm, ở góc có các cụm hoa văn kết hợp với cụm số. Ở giữa tờ bạc là cụm trang
trí trung tâm gồm phần nền nhiều màu và cụm số hoặc quốc huy, bên cạnh là chân
dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên nền trang trí màu. Điều dễ nhận thấy trong cấu trúc
trang trí hình chữ nhật ở tiền giấy là có 4 cạnh, 4 góc và 1 khu trung tâm. Kiểu thức
này tồn tại trong hầu hết các mẫu tiền giấy Việt Nam, chỉ đến bộ tiền tiền polymer
thì kiểu thức trang trí hình chữ nhật mới thay đổi sang trang trí tự do.
- Trang trí hình tròn: Thƣờng sử dụng phƣơng pháp trang trí đối xứng/đăng
đối tuyệt đối. Trong trang trí tiền giấy, ngƣời ta sử dụng trang trí hình tròn để tạo
nên cụm trang trí trung tâm. Dạng trang trí hình tròn còn đƣợc kết hợp trang trí
đƣờng diềm để tạo thành các cụm số. Với phƣơng pháp tạo hình đặc trƣng của tiền
giấy là nét liền, mảnh và đặt song song cùng nhau hoặc hƣớng tâm để tạo thành cụm
trang trí có tính chống giả cao, motip trang trí hình tròn với hoa văn lƣới là một
trong các dạng đƣợc sử dụng nhiều nhất trong nghệ thuật trang trí tiền giấy. Cách
trang trí này tạo cảm nhận về sự tập trung và giá trị. Cách trang trí này cũng thƣờng
xuất hiện trên tiền giấy một số nƣớc trên thế giới.
103
- Trang trí đường diềm: Trong tiền giấy Việt Nam, dạng trang trí đƣờng
diềm rất đƣợc ƣa chuộng để thiết kế khung trang trí xung quanh với màu đậm để tạo
thế cân bằng chắc chắn cho bố cục. Ngoại trừ bộ tiền năm 1951 (chỉ dùng hoa văn
lƣới trong trang trí đƣờng diềm), các bộ tiền khác đều có đƣờng diềm đƣợc tạo bởi
hoa văn dân tộc kết hợp với hoa văn lƣới, đôi khi còn bố trí xem kẽ các chữ cực nhỏ
tạo nhên tổ hợp trang trí phong phú về hình thức và có giá trị trong chống làm giả.
Ngƣời ta còn sử dụng công nghệ in lõm tạo độ nổi của nét mực, khiến cho có cảm
nhận gợn tay khi sờ lên trên các đƣờng diềm của tiền giấy. Cách trang trí đƣờng
diềm tạo nên cảm nhận ổn định, đều đặn (nhƣ quan niệm về cái đẹp của Hê-ghen).
- Trang trí vải hoa: Đây là hình thức trang trí nhân bản một chi tiết mà không
giới hạn về 4 hƣớng, với các mô đun để thực hiện. Dạng trang trí này thƣờng xuất
hiện trong phần nền của tiền giấy với hoa văn phù điêu. Ở các hệ thống tiền trƣớc
năm 1978, các phần nền đƣợc thiết kế bởi các nét màu thẳng/sóng tạo thành phần
nền phẳng. Từ hình tƣợng 1978 về sau, ngƣời ta càng chú tâm vào thiết kế phần nền
với các thủ pháp tạo hoa văn, tạo mảng trang trí chống giả. Với chức năng làm nền,
phần màu này có diện tích lớn nhất và thƣờng là màu nhạt. Ở hệ thống tiền giấy
polymer, phần màu nền với các họa tiết đƣợc sắp xếp theo phƣơng pháp trang trí vải
hoa đƣợc phủ kín toàn bộ bề mặt tờ tiền. Cách trang trí này cho ngƣời xem cảm
nhận ổn định, tinh tế và nhẹ nhàng.
3.1.3. Sử dụng hoa văn dân tộc trong trang trí
Trong mỹ thuật Việt Nam, có lẽ tiền giấy là sản phẩm trang trí sử dụng nhiều
hoa văn dân tộc nhất, đồng thời biến đổi tạo thành các cụm trang trí kết hợp hoa văn
dân tộc và hoa văn lƣới.
Tiền giấy là sản phẩm đồ họa mang tính biểu tƣợng của quốc gia nên hội tụ
các giá trị tiêu biểu nhất về tính tƣợng trƣng cho truyền thống và văn hóa dân tộc
trong đó có nghệ thuật trang trí. Trang trí trong tiền giấy có các yếu tố tƣơng đồng
với trang trí cơ bản, các yếu tố kế thừa từ truyền thống chính là hoa văn dân tộc và
họa tiết trang trí. Trong mỹ thuật trên tiền giấy (nhƣ chƣơng 2 đã phân tích), ngƣời
104
ta thƣờng sử dụng các hoa văn dân tộc nhằm thể hiện rõ tính biểu tƣợng của văn hóa
dân tộc và hoa văn lƣới nhằm thể hiện rõ đặc trƣng ngôn ngữ đồ họa của tiền giấy.
Đối với hoa văn dân tộc, các hoa văn trang trí đƣợc sử dụng nhiều nhất từ các
họa tiết trang trí của các đời Trần, Lê, Nguyễn. Các hoa văn hoa lá, hoa dây, chữ
triện và bộ tứ linh (Rồng, Phƣợng, Lân, Rùa) thƣờng lấy từ đời Lê, Nguyễn. Đặc
biệt mẫu polymer 500.000 đ hình chim phƣợng có xuất hiện từ thời Lý trên các hiện
vật khảo cổ của Hoàng thành Thăng Long. Hoa văn hoa sen có từ rất nhiều thời kỳ
khác nhau, từ hoa văn hoa sen thời Lý, Trần đến cuối thời Nguyễn đều đƣợc ứng
dụng trên tiền giấy Việt Nam [PL-MH 2.28, 2.29, 2.30].
Các hoa văn trang trí truyền thống của Bắc Bộ và Huế thƣờng đƣợc sử dụng
nhất, tiếp đến là các hoa văn kỷ hà, hoa văn ít xuất hiện nhất các hoa văn trang trí
của ngƣời Chăm, Khơ me hoặc các dân tộc ở Tây Nguyên. Các họa tiết, hoa văn
trang trí đƣợc họa sĩ kết hợp với nhau theo các ý tƣởng riêng biệt nhằm tạo thành
một đơn vị lớn hơn là tổ hợp trang trí. Trong thiết kế tiền giấy Việt Nam, ngƣời ta
thƣờng sử dụng các họa tiết/hoa văn có sẵn trong mỹ thuật truyền thống kết hợp
với các hoa văn lƣới, các cụm trang trí mang tính chống giả để tạo thành mô-tip
trang trí đặc trƣng cho tiền giấy Việt Nam.
Cách sử dụng hoa văn dân tộc trong trang trí tiền giấy cũng có sự phát triển,
thay đổi theo từng thời kỳ. Ở hệ thống tiền giấy 1946, các hoa văn chủ yếu của nhà
Nguyễn, đƣợc lấy nguyên mẫu từ các chi tiết trang trí của triều đình Huế, thƣờng là
mẫu Song long hoặc Song long chầu nguyệt, Rồng mây đại hội, Phượng chầu, chữ
triện [PL-MH 2.26]. Hệ thống tiền giấy 1951, do đƣợc in tại Trung Quốc, nên ít sử
dụng các hoa văn dân tộc mà tập trung vào các hoa văn lƣới. Hệ thống tiền giấy
1959 là bộ tiền ứng dụng nhiều hoa văn dân tộc với nhiều kiểu thức phong phú, hài
hòa giữa hoa văn hoa lá và hoa văn lƣới. Trong hệ thống tiền giấy này, hoa văn dân
tộc đƣợc ứng dụng thể hiện rất sáng tạo và đẹp đẽ, từng mảng hoa văn dày đặc đƣợc
thể hiện nhƣ các mảng chạm khắc đình làng châu thổ Bắc Bộ. Điểm đặc trƣng nhất
trong trang trí của bộ tiền 1959 là tạo ra các cung tròn ở khu vực trung tâm. Ngoại
trừ mẫu 1 hào và 5 hào có khung trang trí xung quanh hình chữ nhật, các mệnh giá
105
còn lại nhƣ 2 hào, 1 đ, 2 đ, 5 đ, 10 đ đều có cung trang trí vòm tròn, gợi cảm nhận
nhƣ cửa võng trong các đình chùa truyền thống. Bộ tiền 1959 này đƣợc coi là thành
công nhất trong việc sử dụng hoa văn dân tộc trong tiền giấy Việt Nam.
Nếu hệ thống tiền giấy 1959 có sự hài hòa trong việc sử dụng hoa văn dân
tộc làm trang trí thì hệ thống tiền giấy 1978, các hoa văn trở nên to hơn, các mảng
hoa văn thƣờng gắn kết với nhau khá phức tạp, quá dày đặc. Các mảng nối khá to và
gây cảm giác nặng nề, uốn lƣợn quá mức. Những mệnh giá 1 đ, 5 đ, 10 đ, 20 đ, 50 đ
đều có các mảng trang trí hoa văn dân tộc dày rịt, nặng nề và tƣơng đối rối mắt. Tại
bộ tiền này có sự chuyển đối trong tƣ duy trang trí truyền thống sang lối trang trí
hiện đại, tuy nhiên còn chƣa định hình.
Hệ thống tiền giấy 1985 đƣợc coi là bộ tiền nhiều mệnh giá nhất, có nhiều
mẫu đƣợc thiết kế rất nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu cung tiền tệ trong giai đoạn
lạm phát cao. Các mô típ trang trí rất đơn giản, thƣờng chỉ sử dụng một họa tiết nhƣ
hoa sen hoặc hoa cúc, hoặc dây hoa lá, sau đó chuyển vào mảng bố cục hoặc đặt ở
các góc để tạo thành cụm trang trí. Các họa tiết đƣợc lấy ngay từ các mẫu hoa văn
đƣợc rập về và đƣợc gia tăng thêm các độ đậm nhạt để có cảm nhận khối,hoặc lấy
đƣờng viền của hoa văn để lồng các chi tiết trang trí vào bên trong. Trong khi tất cả
các mẫu đều thể hiện hoa văn hoa lá thì mẫu 2 đ lại sử dụng hoa văn chim phƣợng,
đƣợc lấy nguyên mẫu từ hình chim phƣợng trong chạm khắc ở Đình Bảng (Bắc
Ninh). Việc sử dụng hình tƣợng chim phƣợng cùng với các hoa văn hoa lá không rõ
phong cách đã khiến tờ tiền bị lẻ loi, lạc điệu. Tuy ở giai đoạn này đã có sự hỗ trợ
của các mẫu hoa văn lƣới hiện đại, nhƣng việc thiết kế quá nhanh cũng đã dẫn tới
các biểu hiện sơ sài về mặt ý tƣởng và cách thể hiện trang trí trong hệ thống tiền
giấy 1985. Đến cuối bộ tiền 1985, các mẫu thiết kế với mệnh giá lớn có phần trau
chuốt hơn nhƣng vẫn giữ phong cách thiết kế với mô-tip hoa văn đơn giản, đồng
thời có sự cách điệu và cải biên các hoa văn dân tộc trong trang trí. Xu hƣớng cải
biên hoa văn dân tộc đƣợc thể hiện nhiều nhất trong mẫu 1000đ, 2000đ, 5000đ,
50000đ đƣợc phát hành sau 1988.
106
Bộ tiền polymer là bộ có sự biến đổi nhiều nhất trong cách dùng hoa văn dân
tộc khi không còn xuất hiện những mảng hoa văn lớn đƣợc thiết kế cho màu khung
nhƣ các hình tƣợng tiền giấy trƣớc đó. Các hoa văn dân tộc chỉ đƣợc tồn tại trong
các diện tích khá nhỏ (nhƣ mệnh giá 200.000đ và 500.000đ), lẫn vào nền màu nhạt
(mẫu 10.000đ, 500.000đ). Xu hƣớng cải biên hoa văn dân tộc đƣợc diễn ra mạnh
mẽở hầu hết các mẫu. Mẫu 50.000đ là mẫu có sự cải biên hoa văn nhiều nhất và có
phần kém thành công trong việc thể hiện hoa sen ở mặt trƣớc và hình chim phƣợng
ở mặt sau.
Sở dĩ có sự cách tân, cải biên hoa văn dân tộc đôi khi tới độ thái quá nhƣ vậy
là do xu thế ứng dụng máy tính rất phổ cập trong thiết kế của giai đoạn này. Ngƣời
họa sĩ có thể trích ra 1 chi tiết mà mình thích, sau đó dùng máy tính tạo thành các tổ
hợp trang trí tùy biến nhƣ xếp vòng tròn, lật, nhân bản, ghép với hình khác…một
cách rất dễ dàng. Việc ứng dụng hoa văn dân tộc một cách nghiêm cẩn chỉ còn lại ở
một số chi tiết. Tại mẫu 500.000đ, hình ảnh đầu chim phƣợng thời Lý đƣợc ứng
dụng trong chi tiết in mực biến màu OVI ở mặt trƣớc; chi tiết chạm gỗ ở chùa Thái
Lạc đƣợc ứng dụng làm diềm trang trí màu nhạt của mặt sau [PL-MH 3.54, 3.55,
3.56, 3.68, 3.58].
3.1.4. Các cấu trúc đồ án trang trí trên tiền giấy Việt Nam
Về đồ án trang trí, suy cho cùng thì thiết kế hình thức tờ tiền giấy là trang trí
một hình chữ nhật. Ngoài việc ứng dụng hoa văn dân tộc trong trang trí tiền giấy,
họa sĩ thiết kế tiền giấy cần phối phợp các yếu tố cơ bản trong nghệ thuật trang trí
truyền thống nhƣ dùng hoa văn, họa tiết với họa tiết hoa văn đặc trƣng của ngôn
ngữ mỹ thuật trên tiền giấy để tạo nên tổng thể trang trí cho từng mặt cho tới toàn
bộ hệ thống tiền giấy.
Tổng thể trang trí tờ tiền có cấu trúc nhƣ trang trí hình chữ nhật với các dạng
tạo hình cơ bản của trang trí trong tiền giấy là: cấu trúc đƣờng diềm; cấu trúc mảng,
cấu trúc đăng đối/đối xứng qua trục trung tâm. Dƣới đây là sơ đồ bố cục/cấu trúc
trang trí trên các hệ thống tiền giấy Việt Nam.
107
+ Hệ thống tiền Tài chính
Hình 3.1: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống Tiền Tài chính
Đặc điểm mỹ thuật của bộ tiền Tài chính là có hình ảnh chủ đề lớn, có xuất
hiện cả ở hai mặt, cách vẽ nhƣ tranh hội họa. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
thƣờng có hoa văn trang trí xung quanh. Chƣa hình thành khung trang trí bằng màu
đậm. Các nét khắc giống với chất khắc gỗ, thô mộc và giản dị chứ không tinh xảo
nhƣ phong cách in lõm tiền giấy.
+Hệ thống tiền Ngân hàng 1951
Hình 3.2: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống Tiền giấy 1951
Đặc điểm mỹ thuật của bộ tiền 1951 là luôn có khung viền bằng hoa văn
lƣới (không dùng hoa văn dân tộc). Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc đặt lệch
hẳn về một bên, phía còn lại là cụm số và mệnh giá. Sử dụng chữ tiếng Việt và tiếng
Trung. Mặt sau có cụm số đặt lệch về 1 bên.
108
+ Hệ thống tiền Ngân hàng 1959
Hình 3.3: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống Tiền giấy 1959
Đặc điểm mỹ thuật của bộ tiền 1959 là luôn có khung viền bằng hoa văn dân
tộc đƣợc thiết kế rất chi tiết và đẹp. Đƣờng diềm phía trên có dạng cong nhƣ các
trán bia. Các hoa văn dân tộc kết hợp với hoa văn lƣới và hoa văn hình chữ triện tạo
thành các đồ án trang trí đẹp mắt. Lần đầu tiên xuất hiện quốc huy trên tiền giấy
Việt Nam. Chân dung kích thƣớc nhỏ và đƣợc đặt ở bên phải mặt trƣớc tờ bạc với 2
mẫu nhìn thẳng và nhìn nghiêng.
+ Hệ thống tiền Ngân hàng 1978
Hình 3.4: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống Tiền giấy 1978
Đặc điểm mỹ thuậtcủa bộ tiền 1978 là có diềm trang trí bằng hoa văn dân tộc
phía trên và dƣới (không xuất hiện khung trang trí xung quanh). Ở mặt trƣớc, cụm
trang trí hai bên đƣợc tách khỏi đƣờng diềm phía trên và dƣới. Để lề giấy trắng khá
rộng. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh có kích thƣớc nhỏ và thƣờng đƣợc để phía
bên phải của mặt trƣớc
109
+ Hệ thống tiền Ngân hàng 1985
Hình 3.5: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống Tiền giấy 1985
Đặc điểm mỹ thuật của bộ tiền 1985 là không xuất hiện khung trang trí xung
quanh nặng nề, chỉ còn diềm trang trí nhẹ bằng hoa văn dân tộc phía trên và dƣới. Ở
mặt trƣớc, cụm trang trí hai bên đƣợc tách khỏi đƣờng diềm và chuyển sang in màu
nhạt. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh có kích thƣớc nhỏ. Có 5 mệnh giá sử dụng
hình tƣợng Cột cờ Hà Nội. Ở hệ thống này có nhiều mẫu in ốp-xét màu. Đến nay
vẫn lƣu thông các mẫu 100đ, 200đ, 500đ, 1000đ, 2000đ với công nghệ in ốp-xét.
+ Hệ thống tiền Polymer
Hình 3.6: Sơ đồ bố cục và trang trí hệ thống Tiền Polymer
Đặc điểm mỹ thuật của bộ tiền polymer là in tràn lề (không còn lề trắng),
không có diềm trang trí bằng hoa văn dân tộc phía trên và dƣới, các cụm chữ và số
đặt rời, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh có kích thƣớc lớn. Đây là hệ thống duy nhất
có xác định (cố định trong tất cả các mẫu) vị trí cửa sổ, chữ số mệnh giá, chân dung
110
và hình ảnh chủ đề. Nguyên tắc bố cục theo tỷ lệ 1/3 đƣợc duy trì trong toàn bộ các
mẫu tiền polymer.
3.2. Đặc điểm nghệ thuật đồ họa trên tiền giấy Việt Nam
Nét và màu là hai yếu tố đặc biệt của đồ họa nói chung và tiền giấy nói riêng.
Trong đồ họa in ấn thì nét chính là phần tử in, màu chính là mực in. Hai yếu tố này
tạo nên hình ảnh trên bản in là giấy. Trong tiền giấy Việt Nam, nét là yếu tố tạo hình
cơ bản tạo nên diện mạo mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam.
3.2.1. Nét trong tiền giấy Việt Nam
3.2.1.1. Các dạng tồn tại của nét trong tiền giấy Việt Nam
Đồng tiền giấy sớm nhất đƣợc phát hiện tại châu Âu đƣợc Ngân hàng
Stockhoms phát hành năm 1661 với phƣơng pháp khắc axit trên kim loại. Đây là
phƣơng pháp in thông dụng với cách thể hiện bằng nét (với bút khắc trên kim loại
hoặc ăn mòn axít) và kỹ thuật in lõm của châu Âu thế kỷ XVI - XVII. Phƣơng pháp
này đã tạo đà cho cách thể hiện bằng nét trên tiền giấy. Nghệ thuật thể hiện bằng nét
đã duy trì trên tiền giấy từ những đồng tiền đầu tiên, cho tới tận ngày nay. Hiện nay,
không chỉ những họa tiết in lõm mới thể hiện nét, những mảng trang trí in ốp-xét
hiện nay cũng đều đƣợc diễn tả nét, thậm chí còn gia tăng các thủ pháp, biến nét
trong tiền giấy thành điểm trội trong trang trí và trở thành ngôn ngữ nghệ thuật đặc
sắc của đồ họa tiền giấy.
Cách thể hiện đặc trƣng nhất của đồ họa tiền giấy là sử dụng nét. Nếu trong
các sản phẩm đồ họa khác nhƣ khắc gỗ, khắc kim loại, ngƣời ta có thể tìm thấy cách
thể hiện mảng miếng cùng các phƣơng pháp giải quyết chất cảm bề mặt thì trong
tiền giấy chỉ có 1 phƣơng pháp thể hiện là nét. Các nét trong tiền giấy thƣờng mảnh
và rất trau chuốt chứ không hề thô ráp biến đổi nhƣ trong khắc gỗ, cao su. Nét là
ngôn ngữ tạo hình của tiền giấy với các mục đích chính sau:
+ Nét dùng để định hình hoa văn, họa tiết, chân dung: Khác với nét trong sơn
mài, sơn khắc hoặc tranh khắc đồ họa khi nét đƣợc thể hiện tự do, có thể buông một
vài chi tiết để tạo khối, nhƣng trong tiền giấy Việt Nam, nét luôn là đƣờng chu vi
khép kín của một hình hoặc hoa văn họa tiết trang trí. Ngay trong bộ tiền Tài chính,
111
nhìn tổng thể tờ tiền, tất cả các hình, mảng đều đƣợc định vị bởi các nét viền. Về
sau này nét tiếp tục có nhiều biến đổi trong việc định hình, đến bộ tiền polymer thì
vai trò định hình của nét đã giảm đi nhƣng chính cách thể hiện này khiến tiền giấy
mang hình thức mỹ thuật khác so với các dòng tranh đồ họa giá vẽ.
+ Nét dùng để tạo mảng: Trong đồ họa tranh khắc (khắc gỗ, cao su, kim
loại…) để tạo độ đậm nhạt, ngƣời ta có thể sử dụng nét xen lẫn mảng đặc, đôi khi
các mảng đặc lại tạo nên cảm giác chắc khỏe cho bố cục của bức tranh. Xem bức
khắc gỗ Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc ở Bắc Bộ Phủ do họa sĩ Tô Ngọc Vân thực
hiện năm 1946, các mảng đậm trong tranh đƣợc để phẳng, kín ở khu vực tƣờng, bàn
và vạt áo có giá trị làm nền chắc, tạo tƣơng phản cho những mảng sáng ở trán, vai
và trang giấy. Nhƣng trong đồ họa tiền giấy thì không thể sử dụng các mảng đậm
phẳng nhƣ vậy. Vì thế, để tạo các mảng đậm, ngƣời ta sử dụng các nét to, khắc sâu,
đan chéo hai lƣợt (nét chính đậm, nét phụ mảnh) hoặc ngƣời ta sử dụng những
mảng khắc âm bản (nét là phần để trắng, không in). Chính cách dùng nét tạo mảng
này đã tạo nên đặc điểm thẩm mỹ riêng của nghệ thuật nét trong tiền giấy.
+ Nét dùng để tả đậm nhạt: Trong đồ họa in ấn, khi sử dụng máy in công
nghiệp nhƣ in ốp-xét hoặc in lƣới, ngƣời ta cần tạo đậm nhạt bằng độ phân giải của
các hạt tờ-ram. Hạt tờ-ram mỏng thì màu nhạt và ngƣợc lại, tờ ram dày đặc thì màu
đậm. Trong đồ họa tranh khắc gỗ, ngƣời ta dùng nét ro nét nhỏ để tạo đậm nhạt, nét
to thì đậm, nét nhỏ thì nhạt. Trong mỹ thuật trên tiền giấy, sử dụng nét để tạo các
tầng thứ đậm nhạt là lợi thế lớn nhất. Các nét trong tiền giấy vừa tinh vi (nhỏ) vừa
tinh tế (biến đổi đậm nhạt), nên trong chân dung, những mảng sáng nhất cũng đƣợc
phủ bởi nét nhỏ hoặc nét đứt chứ không để nền giấy trắng. Thủ pháp này vừa mang
tính chống làm giả nhƣng vừa tạo cảm nhận thẩm mỹ tinh tế trong độ chuyển ánh
sáng trên bề mặt tờ tiền.
+ Ngoài các mục tiêu về nghệ thuật thì cách dùng nét (nét liền, nét đứt, nét
mảnh, nét chéo, nét uốn hình sin, nối nét, hoa văn lƣới…) trong tiền giấy là một yếu
tố rất khó thực hiện, khiến tờ tiền vừa thú vị khi quan sát, vừa khó làm giả.
112
Tất cả mọi chi tiết trên tiền giấy đều đƣợc cấu tạo bởi nét nhƣ phần nền, hoa
văn lƣới, hoa văn dân tộc, hình ảnh chủ đề, Quốc huy, chân dung…Ngay cả các
điểm, chấm nhỏ trên chân dung, khi phóng đại lên đều nhận ra đó là các nét đứt.
Những mảng lớn ở hoa văn hay chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đều đƣợc thể hiện
bằng nét dài uyển chuyển, đều đặn. Đối với công nghệ in lõm (intaglio) thì ngoài
hai yếu tố màu mực và độ to của nét, độ đậm nhạt còn phụ thuộc vào độ nông sâu
của nét khắc. Ví dụ, con ngƣơi của mắt trong chân dung thƣờng đƣợc khắc bởi các
nét mảnh và sâu nên in ra thƣờng rất đậm [PL-MH 3.59].
3.2.1.2. Đặc điểm của nét trong tiền giấy Việt Nam
Về hình thức, nét trong tiền giấy Việt Nam thƣờng có độ dài vừa phải, không
bay bƣớm uốn lƣợn mà mang tính chạy đều đặn là đƣờng chu vi cho các hình trang
trí hoặc mang tính gợi khối cho chân dung và phong cảnh. Các nét này ít có sự thay
đổi về hƣớng mà thƣờng có độ tỏa đều chuyển nhẹ, không có sự biến thiên về độ
thanh đậm mà thƣờng đậm ở gốc, thanh ở ngọn.
Nét trong tiền giấy đƣợc thể hiện cho hai phần chính là khung trang trí và nội
dung hình ảnh (màu đậm), nền trang trí và hoa văn lƣới nền (màu nhạt). Tác giả
Vƣơng Hoằng Lực cho rằng “đƣờng nét là sản phẩm của tƣ duy trừu tƣợng kết hợp
với tƣ duy hình tƣợng” [64, tr.66], nét trong tiền giấy có dạng “thiết tuyến miêu”,
vừa mảnh vừa căng [64, tr.78]. Nét vừa mang giá trị định hình vừa gợi cảm nhận về
không gian và trạng thái của hình tƣợng. Với chân dung, nét dùng tả khối, tả chất và
thể hiện thần thái của chân dung. Nếu dùng quá nhiều nét cong theo bề mặt khối để
tả sức căng của khối thì cảm nhận của chân dung bị căng cứng, nếu dùng nét thẳng
để tả mảng đậm thì chân dung thiếu thần khí. Trƣờng hợp chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh, nếu cùng quá nhiều nét tả cho tóc, râu thì cảm nhận khối sẽ tốt, nhƣng lại
không mang đặc điểm râu tóc của Bác. Dùng nhiều đƣờng cong để tả khối (trƣờng
hợp tiền polymer), các chân dung có vẻ bị căng cứng, các khối phồng lên, nhƣng
nếu dùng các đƣờng thẳng nhƣ chân dung trên tờ 200 đ, 500 đ, 1000đ, 2000 đ (in
ốp-xét) thì hình ảnh lại thiếu đi về cảm nhận nghệ thuật.
113
Nét trong tiền giấy đòi hỏi tinh vi, nhỏ và có độ mịn cao nhất trong các loại
đồ họa in ấn vì mục đích thẩm mỹ lẫn bảo an chống sao chụp. Khảo sát trên các bản
in bằng kính lúp có thƣớc đo, tiền giấy Việt Nam có nét lớn nhất có độ lớn của thân
nét là 0,4-0,6mm, cỡ nét trung bình cho màu nhạt là 0,12-0,25 mm, cỡ nét nhỏ nhất
có thể đạt đƣợc là 0,07mm. So với nét trên tiền giấy các nƣớc khác, các cỡ nét này
cũng đạt tiêu chuẩn thông thƣờng, nhƣng vì phong cách sử dụng nét ngắn và ít thay
đổi nên nét trên tiền giấy Việt Nam thƣờng có vẻ thô, đơn giản. Mặt khác, nếu tiền
xu hƣớng dùng nét của tiền giấy châu Âu, Mỹ, Nhật và đặc biệt là đồng bảng Anh
thƣờng đan chồng chéo, xoắn, vặn, uốn lƣợn, dày sít thì các hình vẽ, mô típ trang trí
nền trong tiền giấy Việt Nam khá đơn giản và có thể nhận thấy cấu trúc rõ ràng.
Điều này cũng phần nào thể hiện cái hồn của hoạ sĩ Việt Nam, còn phảng phất nét
thô mộc của cƣ dân nông nghiệp Bắc bộ.
Việc sử dụng nét trong công việc vẽ tiền hàng ngày cũng khiến các họa sĩ có
phong cách nét khá đặc trƣng khi chuyển sang sáng tác các thể loại tranh khác.
Trƣờng hợp họa sĩ Huỳnh Văn Thuận, ngƣời thực hiện mẫu 10 đ (hệ thống tiền
1959) và nhiều mẫu tiền của nghệ thuật sau đó, đồng thời cũng có các tác phẩm nổi
tiếng nhƣ Thôn Vĩnh Mốc (sơn khắc, 1958, Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam) hoặc Ngày
mùa ở Vĩnh Kim (sơn khắc, 1960-1997), Định canh, định cư (sơn khắc, Bảo tàng
Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh). Nét trong tranh của họa sĩ Huỳnh Văn Thuận khá
mƣợt mà, thong thả, tự nhiên mà chắc chắn.
Nét trong Tiền Tài chính có cảm nhận nhƣ nét trong tranh Đông Hồ, bộ tiền
phát hành 1951 đã có thành công ở nghệ thuật dùng nét trong chân dung và hình
ảnh chủ đề làm thay đổi thẩm mỹ nét trong tiền giấy Việt Nam. Trong bộ tiền phát
hành 1959, có nhiều mẫu thể hiện nét khá đẹp nhƣ 2 đ, 10 đ. Tiếp đến bộ tiền 1978
cũng có chất lƣợng nét khá tốt. Nét trong bộ tiền phát hành 1985 rất thô, thiếu tinh
tế, thậm chí mất đi tính thẩm mỹ của tiền giấy. Mẫu có chất lƣợng nét kém nhất cần
kể đến là mẫu 50 đ (phát hành 1985), mẫu 1000 đ và 2000 đ (phát hành 1988, hiện
vẫn lƣu hành). Bộ tiền polymer có cách dùng nét khác so với các bộ tiền trƣớc, đó là
nét thẳng, ngắn, vòng cung song song nhƣng đƣợc đan với nhau thành các hoa văn
114
trang trí hình học với các màu sắc biến đổi, gây cảm nhận chất liệu trong trang trí
nền. Cùng với nét các hoa văn lƣới và các phần nét trong phù điêu nền, phần trang
trí hình học bằng nét này làm cho nền tờ bạc trở nên phong phú hơn, nhƣng cũng rất
dễ rơi vào tình trạng cộm vì quá dày nét. Trong bộ tiền này, các nét liền còn đƣợc
phối hợp cùng nét đứt (in khác màu) để tạo thành phần nền có hòa sắc lạ, khi nhìn
thì chỉ thấy 1 màu nhƣng khi chụp và in lại có thể biến thành màu khác.
Nét đƣợc thực hiện với 2 phƣơng pháp chủ yếu là vẽ tay hoặc khắc (cho phần
màu đậm), còn phần nền đƣợc thực hiện với các bản phim có sẵn, nên họa sĩ Việt
Nam không chủ động tạo ra nét. Khi đƣợc hỗ trợ bởi công nghệ tin học hiện đại, có
thể tạo ra các phần nền, thì nét vẽ trong tiền giấy Việt Nam (bộ tiền polymer) vẫn
mang cảm nhận nặng nề, ít biến đổi về hƣớng và độ to nhỏ, sử dụng nét hơi thô (tờ
50000đ) hoặc nổi cộm (tờ 10000đ) [PL-MH 3.60, 3.61].
So với tiền giấy các nƣớc tiên tiến trên thế giới, cách sử dụng nét trong trang
trí tiền giấy Việt Nam chƣa tinh tế mà mang đậm phong cách kiểu tranh khắc. Các
nét trong phần nền dùng hoa văn lƣới thƣờng khá đơn giản, các họa sĩ chƣa tạo
đƣợc nhiều họa tiết độc đáo từ nét. Nguyên nhân chính có lẽ do các họa sĩ thiết kế
tiền giấy nƣớc ta không đƣợc đào tạo đầy đủ về phần mềm thiết kế tiền giấy chuyên
nghiệp, nên không có xu hƣớng sử dụng thế mạnh của công nghệ khi thiết kế và chế
bản. Thêm nữa, các họa sĩvẫn áp dụng thẩm mỹ củanghệ thuật trang trí vào nét
trong tiền giấy, khiến cho nét trong tiền giấy Việt Nam thƣờng to, rõ chứ không thật
tinh vi, nuột nét [PL-MH3.62].
3.2.2. Màu sắc trong tiền giấy Việt Nam
3.2.2.1. Nguyên tắc dùng màu sắc trong tiền giấy Việt Nam
Màu sắc ảnh hƣởng cả về tâm lý và vật lý tới con ngƣời [148, tr.7]. Ngƣời ta
chia màu sắc thành 2 dạng chính. Dạng tồn tại màu sắc ánh sáng, việc phối hợp màu
sắc này gọi là màu sắc theo phƣơng pháp cộng (càng gia tăng cƣờng độ thì càng rực
màu, pha đủ 3 màu thì thành trắng sáng), với các thành phần chính là Đỏ - Lục - Lơ
(ký hiệu là R-G-B). Màu sắc này thƣờng thấy ở ánh sáng của các màn hình TV, máy
tính, điện thoại di động…Dạng màu sắc thứ hai thƣờng xuất hiện trong tranh, ảnh,
115
đồ vật hoặc các sản phẩm in ấn với 4 màu chủ yếu là xanh da trời - đỏ magenta -
vàng - đen (ký hiệu là C-M-Y-K). Phƣơng pháp phối hợp màu sắc này gọi là phối
màu theo phƣơng pháp trừ (càng tăng nhiều màu càng sẫm, pha đủ 4 màu thì thành
màu đen, xỉn). Màu sắc trong tiền giấy đƣợc hình thành bởi công nghệ in ấn với
mực in nên khi phối hợp sẽ theo phƣơng pháp này. Cũng giống nhƣ các sản phẩm in
ấn đồ họa khác, màu sắc trong tiền giấy đƣợc tạo bởi mực in trên giấy. Tuy nhiên,
do cách tạo bản in khác nhau, các phần tử in trên đồ họa in ấn độc bản là mảng,
trong đồ họa in ấn bằng máy ốp-xét là các tờ-ram, còn trên tiền giấy là nét nên dẫn
tới nhiều cách xử lý kỹ thuật và hiệu quả hình ảnh khác nhau. Đó chính là sự khác
biệt của màu sắc trong tiền giấy.
Về độ rực/bão hòa của màu, màu sắc trong tiền giấy không đạt đƣợc độ rực,
nhƣ đồ họa in ấn hoặc tranh vẽ với các chất liệu nhƣ sơn dầu hoặc arcrylic. Nếu các
sản phẩm in ấn khác có thể tạo thành các mảng màu sắc, tiền giấy chỉ có thể tạo
thành các nét màu sắc, không tồn tại các mảng màu. Bù lại việc thiếu rực rỡ này,
màu sắc tiền giấy lại thể hiện sự đằm thắm mà không sản phẩm đồ họa nào có đƣợc
do đƣợc in lõm chất lƣợng cao trên giấy cotton mịn. Với kỹ thuật in lõm và sự đan
xen của các màu nền hỗ trợ, từng nét khắc tinh vi nhất cũng đƣợc tái hiện sắc nét
trên giấy khiến cho càng nhìn thì màu sắc càng trở nên thắm và có duyên chứ không
bị kệch nhƣ các sản phẩm khác.
So với in ấn thông thƣờng hoặc tranh in đồ họa, việc sử dụng màu sắc trong
thiết kế tiền giấy là phức tạp hơn nhiều và hoàn toàn khác biệt về nguyên tắc dùng
màu. Việc sử dụng nét để tạo hình cũng dẫn tới đặc sắc trong việc tạo màu sắc trang
trí. Với phƣơng pháp thiết kế và in ấn tiền giấy, các bản thiết kế đƣợc thực hiện
bằng nét, vạch và đƣợc in với cách pha màu Pantone và dùng nhiều màu trên một lô
in (in cách sắc). Nếu các màu in thông thƣờng đƣợc đƣợc pha màu theo tỷ lệ phần
trăm hạt tờ-ram trên phần tử in (ví dụ: màu cam đƣợc tạo bởi màu vàng và magenta,
công thức màu cam trong in ấn là Orange = C: 0, Y:100, M:50, K:0), thì trong in tiền
giấy, màu cam đó đƣợc in bằng màu/mực pha sẵn theo tỷ lệ của bảng màu Pantone,
116
hoặc đƣợc tạo bởi tổ hợp các nét màu vàng và nét màu magenta đƣợc đặt song song
hoặc đan chéo nhau, trong đó nét màu vàng to gấp đôi nét màu magenta.
So sánh giữa phƣơng pháp in tách màu thành hạt tờ-ram (Tram) cho in ốp-
xét thông thƣờng và phƣơng pháp tách màu Pantone cho in tiền giấy thì phƣơng
pháp in màu của tiền giấy phức tạp hơn nhiều so với cách in thông thƣờng. Nếu in
ốp-xét nhà thiết kế chỉ cần quan tâm tới 4 màu chính là Xanh Côban – Đỏ Magenta
- Vàng - Đen thì trong in ấn tiền giấy nhà thiết kế cần quan tâm tới tối thiểu 12 màu
(trên một mặt tờ tiền có 10 màu in, 1 mực không màu, 1 mực kim loại), cùng với
phƣơng pháp in Simuntal (in đồng thời 2 mặt trƣớc và sau) thì số màu in ốp-xét cần
quản lý là 24 màu. Nếu mẫu thiết kế đó sử dụng in lõm 2 màu cho 2 mặt thì tổng số
màu cần quản lý là 28 màu.
Việc quản lý màu sắc của thiết kế mẫu tiền giấy là rất phức tạp, đòi hỏi họa sĩ
phải có kinh nghiệm và kiến thức về màu sắc chất liệu mực in cũng nhƣ kỹ thuật in
ấn. Việc quản lý màu sắc tốt vừa giúp cho tờ tiền đƣợc đẹp hơn, hấp dẫn hơn đồng
thời làm tăng khả năng nhận biết cũng nhƣ độ tƣơi, bền màu trong quá trình lƣu
thông. Mặt khác, việc bố trí màu sắc hợp lý giúp cho việc in ấn đƣợc thực hiện bài
bản, đảm bảo sản xuất ổn định trong thời gian dài. Cách thể hiện bằng nét và cách
phối màu này không chỉ tạo nên vẻ đẹp riêng biệt của tiền giấy mà còn đóng vai trò là
chi tiết chống làm giả quan trọng.
Cách sử dụng màu sắc trong tiền giấy đòi hỏi tính nhận biết màu sắc cao để
ngƣời dùng dễ dàng tiêu dùng. Nếu trong hội họa hoặc đồ họa giá vẽ, các tác
phẩm/bức vẽ (trong 1 bộ tranh hoặc trong truyện tranh) đƣợc chấp nhận những tông
màu gần nhau, miễn sao hòa sắc trong tác phẩm đạt đƣợc sự hài hòa thì trong tiền
giấy không chấp nhận sự tồn tại của các mẫu tiền có màu sắc tƣơng tự nhau trong 1
bộ tiền. Đây thực sự là điểm yếu kém về khả năng dùng màu và thiết kế nhận biết
của tiền giấy Việt Nam [PL-MH 3.63, 3.64]. Tiền giấy Mỹ chỉ sử dụng màu xanh,
đen; Bảng Anh có hòa sắc theo tổ hợp màu (tông màu) trầm, đồng tiền châu Âu
dùng màu với cảm nhận nhã nhặn…, Việt Nam có xu hƣớng sử dụng nhiều màu
trên mặt và có độ rực cao và nhiều màu tƣơng phản về sắc cũng nhƣ đậm nhạt.
117
3.2.2.2. Sự biến đổi của màu sắc trong tiền giấy Việt Nam
(Bảng mô tả chuyển biến về màu sắc và trang trí trên tiền giấy Việt Nam qua
các thời kỳ, xem phụ lục 3.34)
Cùng với các yếu tố tạo hình khác, màu sắc có sự biến đổi khá nhiều trong
suốt tiến trình lịch sử tồn tại từ 1945 đến nay ở tiền giấy Việt Nam. Cụ thể là:
- Tiền Tài chính: Màu sắc của Tiền Tài chính đƣợc chia làm 2 phong cách
khác nhau. Giai đoạn phát hành lần đầu, tiền giấy có màu nền là vàng, đỏ, nâu; màu
đậm ở khung trang trí là lam Huế, nâu đỏ và xanh lục. Các màu này phối hợp với
nhau khá hài hòa và tạo nên cảm nhận hòa sắc của bức tranh trang trí hoặc phong
cảnh. Giai đoạn phát hành lần hai (trong chiến khu), màu nền bị giản lƣợc hoặc bỏ
bớt, chỉ còn màu khung là xanh lục, nâu đậm trên nền giấy nứa màu ngà vàng. Các
dùng màu này tạo thành hòa sắc khá đẹp nhƣ tranh đồ họa giá vẽ, đậm tính nghệ
thuật. Có điều thú vị về màu sắc trong tiền Tài chính, các đồng có cùng mệnh giá
nhƣng đôi khi có màu khác nhau, đồng thì mang màu lơ đồng mang màu lục.
Nguyên nhân của hiện tƣợng này là do vật tƣ công nghệ in ấn thời kháng chiến
thiếu thốn, các đợt mực in không đƣợc đồng nhất, ngƣời thợ in phải pha chế thêm
thủ công để đạt đƣợc hiệu quả in. Tuy nhiên cùng với thời gian, hóa chất trong
thành phần mực biến đổi khiến cho mực bạc màu thành đậm nhạt hoặc đổi màu.
- Bộ tiền phát hành 1951: Trong 7 mệnh giá phát hành thì có 4 mẫu có màu
xanh lơ hoặc xanh lục, chỉ có 2 mẫu màu nâu đỏ và 1 mẫu vàng đất sậm. Các màu
này đƣợc thực hiện in lõm 1 màu trên giấy, không có màu phụ trợ nên khá nhận biết
và rất bền màu. Có hai mẫu (cùng mệnh giá 100 đ) sử dụng chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh với màu đen (khác với màu của khung trang trí). Đây là hai trƣờng hợp
duy nhất trong mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam dùng màu đen cho chân dung Chủ
tịch Hồ Chí Minh, về sau này không có mẫu nào có cách thể hiện nhƣ vậy nữa.
- Bộ tiền phát hành 1959: Những màu xanh đậm, đen của bộ tiền trƣớc gần
nhƣ không xuất hiện trong bộ tiền 1959, thay vào đó là các màu tƣơi tắn, rực rỡ
hơn. Ba mẫu có mầu đỏ tƣơi và nâu trên nền vàng sáng là mẫu 1 hào, 1 đ và 10 đ;
mẫu 2 hào có màu lá cây tƣơi trên nền xanh nhạt, mẫu 2 đ có màu xanh lam trên
118
nền xanh nõn chuối; chỉ có 2 mẫu còn lại là có tông màu tím trên nền hồng là 5 xu
và 5hào. Trong bộ tiền này, hòa sắc nóng chiếm ƣu thế trong tổng thể các mẫu. Tuy
nhiên dù ở hòa sắc nào thì các mẫu của bộ tiền phát hành 1959 đều có màu sắc tƣơi
tắn và sáng màu. Phần nền của bộ tiền có điểm đặc biệt, đây là lần đầu tiên tiền giấy
Việt Nam in nền cách sắc (ví dụ, hai bên lề màu xanh nhƣ khu vực trung tâm có
màu vàng).
- Bộ tiền Ủy ban TƯMTDTGPMNVN và bộ tiền 1975: Hai bộ tiền này có xu
hƣớng dùng màu giống nhau, trong đó tông màu nâu, xanh lá cây hoặc xanh lam
vẫn mang tính chủ đạo. Một số mẫu đƣợc thể hiện với tông hồng tím nhƣng khá yếu
và nhợt nhạt.
- Bộ tiền phát hành 1978: Bộ tiền này có sự chuyển biến về thẩm mỹ màu
sắc. các màu xanh lá cây không còn xuất hiện nhiều nữa mà thay vào đó là các tông
màu hồng, tím hoặc lơ tím. Chỉ có duy nhất mẫu 50 đ mang màu đỏ và mẫu 20 đ
mang màu lam còn lại các mẫu khác đều có sự hiện diện của tông hồng hoặc tím.
Đây là bộ tiền có sự tham dự khá nhiều của màu hồng, đôi khi màu này còn đƣợc sử
dụng khá phô và rợ nhƣ trên mặt trƣớc mẫu 10 đ (vẽ nhà sàn Bác Hồ).
- Bộ tiền phát hành 1985: Điều dễ nhận thấy về màu sắc trong bộ tiền này là
sự ảnh hƣởng cách hòa sắc của bộ tiền 1978 với tông màu hồng tím và lơ tím tham
gia khá nhiều và sự giảm mạnh của màu xanh lá cây. Chỉ còn 1 mẫu 5 đ (vẽ cầu
Tràng Tiền) là có màu xanh, còn lại các mẫu mệnh giá nhỏ đều có tông tím hồng.
(những mẫu 2 đ, 10 đ, 20 đ có tông tím hồng gần nhƣ giống nhau). Mẫu 100 đ, 1000
đ và 2000 đ đều có tông tím khá nhạt nhẽo và rất mau cũ, khó phân biệt màu sắc.
Mẫu 5000 đ và mẫu 20000đ tuy đƣợc thiết kế sau năm 1990 nhƣng có 2 màu xanh
lam hoàn toàn giống nhau. Đây là điểm yếu khó giải thích về thẩm mỹ màu sắc và
thiết kế nhận biết kém cho các mẫu tiền của bộ tiền này.
- Bộ tiền polymer: Bộ tiền polymer có cấu trúc màu sắc hợp lý hơn trong việc
thiết kế nhận biết. Mệnh giá 10000 đ có màu nâu vàng, 20000 đ xanh lam, 50000 đ
màu hồng tím, 100000 đ màu xanh lá cây, 200000 đ màu nâu đỏ, 500000 đ màu lam
đậm. Tuy nhiên lỗi trong việc dùng màu sắc của bộ tiền polymer vẫn tiếp diễn khi
119
mẫu 20000 đ và 500000 đ cùng có tông màu xanh lam. Nhƣ vậy, kể cả mẫu 5000 đ
in trên giấy cotton, trong bộ tiền này có 3 mẫu có màu xanh lam.
Trong tiền giấy, màu sắc cần phải mang tính nhận biết, phải bền màu và đảm
bảo độ đậm chắc khi in ấn và sử dụng. Nhƣng về tâm lí màu sắc, ngƣời Việt rất
thích các màu có độ rực cao nhƣ đỏ, tía, vàng hoặc các màu cơ bản. Vì vậy các tờ
bạc có màu sắc đỏ, nâu đỏ, đỏ tía thƣờng đƣợc ngƣời dân thích thú, đôi khi coi đó
mang tính biểu tƣợng của may mắn nên thƣờng tặng nhau trong dịp đầu năm mới
nhƣ trƣờng hợp đồng 10đ (bộ tiền 1959), 100đ, 10000đ (bộ tiền 1985) hoặc tờ bạc
200000đ tiền polymer. Sau các màu tông đỏ này, ngƣời ta ƣa màu có độ tƣơng phản
mạnh nhƣ màu lam đậm, xanh lá cây đậm. Các màu nâu xỉn hoặc vàng đất, không
tạo nên sự nhận biết tốt và thƣờng bị bẩn trong quá trình lƣu thông tiền tệ.
Trong lịch sử hơn 60 năm tiền giấy của Nhà nƣớc Việt Nam, sự thay đổi màu
sắc của từng bộ tiền cũng thể hiện thị hiếu thẩm mỹ màu sắc của từng giai đoạn lịch
sử. Nếu ở tiền Tài chính và tiền phát triển 1951, các màu chủ yếu là nâu, vàng rơm
và xanh lục, lam thì đã xuất hiện thêm màu đỏ tƣơi ở mẫu 10đ của bộ tiền 1959.
Tiếp sau đó, tiền giấy Việt Nam đƣợc bổ sung thêm màu tím, hồng, cam và trở nên
nhiều màu sắc. Đến bộ tiền polymer, tƣởng nhƣ hệ thống màu sắc trong tiền giấy
Việt Nam đi vào ổn định thì hai mẫu 20000 đ và 500000 đ có cùng màu lam đậm.
Nó vừa là nhƣợc điểm trong việc thiết kế nhận biết màu sắc nhƣng đồng thời cũng
là một biểu hiện để phán đoán màu lam đậm trở thành màu sắc ƣa thích của tiền
giấy thời hiện đại khi xuất hiện nhiều và ở mệnh giá cao nhất.
So sánh với cách dùng màu trên tiền giấy các nƣớc khác, tiền giấy Việt Nam
hiện nay dùng màu theo phong cách hòa sắc đa sắc, tƣơng phản. Nếu các nƣớc nhƣ
Mỹ thƣờng sử dụng tông màu xanh và đen cho tất cả các loại mệnh giá, đồng bảng
Anh dùng màu tƣơng đồng, tiền các nƣớc châu Phi hoặc khu vực các nƣớc nam
Thái Bình Dƣơng có tổ hợp màu rực rỡ hoặc Nhật Bản, Trung Quốc thƣờng dùng
màu chắc, thì tiền giấy polymer Việt Nam hiện nay dùng màu rực ở nền và màu
đậm chắc ở phần in lõm. Cách tăng cƣờng màu sắc cho trang trí nền cũng đã tạo
thêm đƣợc chất cảm cho bề mặt giảm đƣợc cảm nhận nhựa của giấy nền polymer và
120
tăng cƣờng khả năng chống giả. Tuy nhiên vì in trên nền polymer là chất liệu mới
nên một số tờ nhƣ mặt trƣớc và sau mệnh giá 50.000đ, mặt sau mệnh giá 100.000 đ
có cảm nhận chƣa hài hòa và màu hơi rợ.
3.2.3. Nghệ thuật thể hiện chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
3.2.3.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là chân dung duy nhất trên tiền giấy
Nếu đồ họa nét và in lõm đƣợc coi là đặc điểm đáng nhớ nhất của tiền giấy
thì chân dung chính trên tiền giấy là nơi hội tụ đỉnh cao của 2 yếu tố này. Tiền giấy
của Mỹ sử dụng chân dung của các Tổng thống có ảnh hƣởng lớn tới sự hình thành
và phát triển trong lịch sử nƣớc Mỹ. Đồng tiền Euro hiện nay không sử dụng chân
dung của các nhân vật lịch sử nhƣng trƣớc đây, tại các nƣớc trong khối châu Âu
nhƣ Pháp, Đức, Ý…mỗi nƣớc đều có các hình chân dung trên tiền giấy. Tiền giấy
của Vƣơng Quốc Anh sử dụng toàn bộ chân dung Nữ Hoàng Anh. Ngày 13/9/2016
chính phủ Anh phát hành đồng 5 bảng mới, in trên giấy polymer. Đồng tiền này có
chân dung Nữ hoàng ở mặt trƣớc và chân dung cố Thủ tƣởng Winston Churchill.
Tiền giấy Trung Quốc sử dụng chủ yếu chân dung của Mao Trạch Đông, còn
có tờ dùng chân dung của ngƣời nông dân, công nhân trên đồng 10 tệ phát hành
năm 1980 hoặc hình ảnh cả 4 vị lãnh tụ chính trị trong đồng 100 tệ, phát hành năm
1990. Tiền giấy Nhật Bản và Hàn Quốc sử dụng nhiều chân dung nhân vật lịch sử
khác nhau. Vƣơng Quốc Thái Lan và Campuchia sử dụng chủ yếu hình tƣợng Nhà
Vua của nƣớc mình.
Tại Việt Nam, tiền của chính quyền VNCH không có chân dung lãnh đạo
đƣơng thời mà chỉ có các hình ảnh ngƣời dân Việt Nam thể hiện dƣới dạng chân
dung nhân vật. Sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính, các chính quyền sau đó (đệ
nhị cộng hòa) phát hành tiền với chân dung của Trần Hƣng Đạo, Quang Trung, Tả
tƣớng quân Lê Văn Duyệt, Trƣơng Công Định và chân dung của thiếu nữ nam bộ
nhƣng mặc áo dài. Việc các đồng tiền do Mỹ thiết kế và in ấn thiếu vắng các nhân
vật chính trị của đƣơng thời trong tiền giấy do VNCH phát hành phần nào thể hiện
sự bất ổn định trong tƣ tƣởng của xã hội và sự thiếu tự tin vào sự trƣờng tồn của
chính quyền Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu…
121
Khác với cách lựa chọn và thể hiện chân dung của các đồng tiền giấy trên thế
giới, tiền giấy Việt Nam chỉ sử dụng duy nhất chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên
tất cả mọi hệ thống tiền tiền giấy chính thức. Sự đặc sắc này còn đƣợc biểu hiện với
các hình thức, góc độ, thẩm mỹ khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử suốt quá trình
hình thành và phát triển của tiền giấy Việt Nam [Xem phụ lục 3.36, 3.37].
3.2.3.2. Cách thức thể hiện và hình thức mỹ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông này, cái đẹp của đồ họa “ngoài
yêu cầu về chủ đề, bố cục và hình, còn cần phải chú ý tới yêu cầu về kỹ thuật khắc
và kỹ thuật in ấn” [72, tr.67]. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy đƣợc
thể hiện bằng nét, không có mảng và không dùng chế bản tờ-ram để vờn đậm nhạt
hay tả khối. Phƣơng pháp in ấn chủ yếu là in typo, ốp-xét và in lõm. Giai đoạn trƣớc
1954, hệ thống Tiền Tài chính ở miền Bắc và miền Trung, Tín phiếu liên khu V,
tiền giấy Nam Bộ đƣợc thực hiện với công nghệ in ti-pô nét nổi bằng bản kẽm và in
ốp-xét. Chỉ đến giai đoạn tiền Ngân hàng 1951 trở về sau này, chân dung Bác mới
bắt đầu đƣợc thể hiện với công nghệ in lõm. Nghệ thuật in lõm chân dung Chủ tịch
Hồ Chí Minh là thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật in lõm trên tiền giấy Việt Nam.
Việc khắc chân dung đƣợc thực hiện trên bản đồng với chuyên gia lành nghề và
đƣợc đào tạo rất công phu. Ngoại trừ trƣờng hợp tiền polymer (thực hiện bằng ăn
mòn), các công đoạn thực hiện một bản khắc chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
tiền giấy Việt Nam nhƣ sau:
- Thể hiện bản vẽ chì: Họa sĩ truyền tải hình ảnh từ bức ảnh chân dung Bác
thành một bản vẽ với ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình và đảm bảo cho in ấn. Thƣờng
bản chì đƣợc vẽ trên khổ giấy A4 (210x297mm), kích thƣớc hình vẽ gấp 5 lần mẫu in
thật. Nếu trong bức ảnh, các mảng sáng tối, đƣờng nét mờ tỏ theo không gian ảnh thì
khi chuyển sang bản vẽ chì, các chi tiết, đƣờng nét đều cụ thể hóa. Phần khó nhất
trong thể hiện bút chì là phần râu của Bác, dài và bạc trắng nhƣ cƣớc.
- Thể hiện bản nét (chải nét): Căn cứ trên bản chì đã thành công, họa sĩ can
hình, định vị chi tiết và mảng đậm nhạt lên một tờ giấy mới. Trên đó, họa sĩ dùng
bút chì, rồi bút kim, mực can để chuyển thể đƣờng nét, chi tiết, khối, đậm nhạt sang
122
dạng đồ họa nét. Các nét này đảm bảo độ to, độ thƣa, độ lƣợn, góc độ đan chéo theo
những quy tắc rất nghiêm chuẩn để đảm bảo khi thu nhỏ lại nét không bị thô, không
bị bết (líp nét), không tạo đọng mực. Chân dung Bác khác thƣờng thể hiện thẳng,
các nét khắc không dài nên chỉ cần đậm nhạt thay đổi hai bên khối má hoặc trán
một chút thì khi thu lại cũng tạo nên tình trạng méo về khối. Bản thể hiện nét chính
là cơ sở để thực hiện bản khắc. Tất cả các đƣờng nét mỹ thuật cơ bản của chân dung
đều đƣợc tạo hình ở công đoạn này.
- Định vị hình trên bản đồng: Sau khi hoàn thiện bản nét, chân dung Bác
đƣợc sao chụp lại và thu nhỏ rồi in ra phim theo đúng kích thƣớc. Lúc này, thợ khắc
sẽ kiểm tra lại tính mỹ thuật và kỹ thuật của bản vẽ nét, trƣớc khi định hình trên
đồng. Nếu có vấn đề cần sửa chữa, họa sĩ cần quay lại sửa trên bản chải nét. Nếu
bản thu nhỏ đạt chất lƣợng, thợ khắc sẽ cho định vị hình trên bản đồng bằng phƣơng
pháp ăn mòn với axít nhẹ.
- Khắc đồng: Với bản chải nét đúng kích thƣớc đã đƣợc định hình trên đồng,
ngƣời thợ khắc bắt đầu thực hiện khắc các nét định hình rồi dần dần toàn bộ chân
dung. Nguyên tắc khắc chân dung là khắc mảng đậm trƣớc (khu vực mắt, mũi,
miệng), khắc dần từ nông tới sâu. Các chỗ nhạt, nét nhỏ hoặc chấm đƣợc khắc sau
cùng. Trong chân dung Bác vầng trán, đôi mắt và chòm râu đƣợc thể hiện rất cẩn
trọng. Các chi tiết thể hiện chất liệu nhƣ tóc, râu, vải thƣờng đƣợc ƣu tiên thể hiện
bằng các nét dài, đều đặn. Khối má, cằm đƣợc khắc với nét lƣợn mềm, gợi khối.
Chi tiết khó khắc nhất trong chân dung là con ngƣơi của mắt, trong đó có phần đậm
nhất ở chính giữa, phần thể hiện khối cầu bằng các đƣờng tròn đồng tâm, rất sát
nhau. Ở kỹ thuật thể hiện này vừa tạo đƣợc độ đậm trong cho mắt, vừa là yếu tố
chống giả tốt. Ở tiền giấy Việt Nam, các bản khắc năm 1959 và mẫu 20đ (bộ tiền
1978) là có chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc khắc tốt nhất. Việc khắc này
thƣờng kéo dài từ 3-6 tháng. Kể từ bộ tiền 1951, các họa sĩ Việt Nam chƣa thực
hiện đƣợc bản khắc chân dung sử dụng chính thức trên tiền giấy Việt Nam.
- In thử: Sau khi bản khắc đã tạm ổn định, ngƣời thợ khắc sẽ in thử 1 hình
chân dung và kiểm tra các nét và chỉnh sửa cho tới khi hoàn thiện, mạ crôm và dùng
123
làm bản gốc để chế bản. Các chân dung đƣợc khắc lõm thƣờng rất sắc sảo, các độ
đậm nhạt rất trong trẻo.
Cho đến nay, các họa sĩ Việt Nam mới chỉ có thể thực hiện các công đoạn
đến bản chải nét của chân dung, chƣa có một chuyên gia nào có khả năng thực hiện
bản khắc đƣợc chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng cho tiền giấy Việt Nam.
Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bộ tiền polymer cũng đƣợc in lõm nhƣng
với công nghệ ăn mòn polymer (photo polymer). Vì vậy, các nét in lõm theo công
nghệ này thƣờng bị to (sụ nét) và đọng mực khi in. Đặc biệt, khu vực mắt đƣợc thể
hiện không tốt, các nét to đều và lấp kín các khoảng trống khiến cho bết mực,
nhƣng lại không đủ sâu để tạo độ đậm cần thiết.
3.2.3.3. Tạo hình của chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Thống kê góc độ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thẳng, phụ lục 3.36)
(Thống kê mẫu có vị trí chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh ở giữa, phụ lục 3.37)
Góc nhìn của chân dung trên tiền giấy Việt Nam thƣờng là nhìn chính diện.
Giai đoạn đầu của bộ tiền Tài chính và tiền Nam Bộ các mẫu tiền có xu hƣớng nhìn
nghiêng ¾. Đến giai đoạn năm 1959 và 1978, xuất hiện 2 mẫu tiền 10đ và 20đ của
họa sĩ Huỳnh Văn Thuận có góc nghiêng ½ [PL-MH 3.65]. Bộ tiền năm 1985, mẫu
10.000đ của họa sĩ Lê Sơn Hải có góc nghiêng ¾. Còn lại, tất cả các mẫu tiền Việt
Nam đều có góc nhìn chân dung chính diện. So sánh góc nhìn của chân dung trên
tiền giấy Việt Nam với chân dung trên tiền giấy của một số nƣớc khác nổi tiếng về
nghề thiết kế và sản xuất tiền giấy nhƣ Mỹ, của Anh, của Đức, thấy có sự khác biệt
rất lớn trong cách thể hiện chân dung. Chân dung trên tiền giấy các nƣớc phƣơng
Tây chịu sự ảnh hƣởng mạnh của quan niệm thẩm mỹ cổ điển châu Âu với góc nhìn
chuẩn mực ¾ , sao cho “ánh mắt của chân dung trên tiền giấy bắt gặp ánh mắt của
ngƣời tiêu dùng” [137, tr.42].
Ngay cả những nƣớc châu Á nhƣ Ấn Độ, Trung Quốc là những nƣớc chịu sự
ảnh hƣởng của Phật Giáo mạnh mẽ cũng có cách sử dụng chân dung với góc nhìn ¾.
Tiền giấy các nƣớc nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc, hay cùng khối Asean với nƣớc ta nhƣ
Thái Lan, Campuchia, Singapore đều sử dụng chân dung với góc nghiêng ¾. Nhƣ
124
vậy có thể nói rằng, cách thể hiện chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh với góc chính
diện trên tiền giấy Việt Nam mang phong cách riêng, đặc trƣng của văn hóa Việt
Nam [PL-MH 3.66].
Theo NCS, sự khác biệt này không chỉ thuần túy dƣới góc độ tạo hình mà
còn là sự khác biệt về quan niệm thẩm mỹ và biểu tƣợng. Nhƣ một số nhà nghiên
cứu mỹ thuật và văn hóa thƣờng đề cập tới các yếu tố văn hóa, tâm lý và tâm linh
luôn hiện hữu trong từng hoạt động sáng tạo của ngƣời Việt. Nếu nhƣ góc nhìn
nghiêng ½ cho cảm nhận thanh nhã về dáng vẻ, góc nghiêng ¾ cho cảm nhận vừa tự
nhiên vừa trang trọng thì góc nhìn chính diện cho cảm nhận nghiêm trang, thành
kính. Điều này đã đi sâu vào tâm thức về tính thiêng liêng của ngƣời Việt (tƣợng
Chùa, các chân dung thờ đều ở tƣ thế chính diện).
-Về cách tạo khối: Chân dung trên tiền giấy của các nƣớc khác (đã đề cập
phía trên) có cách tạo khối và ánh sáng mang tính kinh điển, với một nguồn sáng
chủ đạo phía trƣớc, chiếu vào chân dung với góc độ ¾, theo góc 135 độ theo
phƣơng thẳng đứng, từ phía trên. Đây là cách tạo ánh sáng cơ bản từ thời Phục hƣng
và đƣợc các họa sĩ cổ điển ƣa chuộng. Nguyên tắc này đã trở thành tiêu chuẩn cho
ánh sáng trong tranh chân dung của các họa sĩ theo các trƣờng phái tả thực của châu
Âu trong đó các diện thẳng, diện nghiêng đƣợc phân biệt rõ ràng, cơ bản. Các diện
phía trƣớc mặt là diện hứng ánh sáng và có tƣơng phản sáng tối mạnh mẽ, đặc biệt
là khu vực mắt, mũi, cằm. Họa sĩ rất quan tâm tới bóng đổ của khối, và khai thác
bóng đổ nhƣ yếu tố tạo hình và tạo độ đậm cho chân dung. Các diện bên cạnh của
chân dung là diện không có ánh sáng nên tạo thành mảng tối. Các mảng tối đƣợc thể
hiện với các nét dài, sâu vừa tạo độ đậm chắc cho chân dung vừa khoe đƣợc kỹ
thuật khắc lõm cũng nhƣ tăng cƣờng yếu tố nghệ thuật. Trong mảng tối, các phần
phản quang đƣợc quan tâm tới nhiều với nét mảnh hơn, vừa tạo cho mảng tối trở
nên trong trẻo hơn, vừa tạo các điểm cân bằng sáng tối với tổng thể. Tuy nhiên,
trong kỹ thuật in lõm, việc này giúp cho bản in lõm tạo đội nông sâu uyển chuyển,
không tạo hằn, gẫy trên tờ giấy. Với cách tạo ánh sáng nhƣ vậy, khối của chân dung
thƣờng đƣợc thể hiện rất rõ ràng, mang tính kinh điển.
125
Trong tiền giấy Việt Nam, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng đƣợc thể
hiện với tƣ thế nhìn thẳng. Điều này vừa phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của ngƣời
Việt về tính cân đối, chính thống, trang trọng đồng thời cũng phù hợp với cách thể
hiện khối của chân dung. Nếu các họa sĩ phƣơng Tây thích lựa chọn các góc độ vừa
có ánh sáng tốt, thể hiện khối mạnh mẽ đồng thời biểu hiện tính cách của nhân vật
sống động thì chân dung tiền giấy Việt Nam có xu hƣớng giống chân dung biểu
tƣợng (nhƣ trƣờng hợp các tƣợng hậu trong di tích tôn giáo ở Việt Nam). Chính
quan điểm về chân dung này đã dẫn tới cách tạo khối và ánh sáng trong cách tạo
hình chân dung Bác. Ngoại trừ một số chân dung ở tiền giấy Nam Bộ có góc nhìn
nghiêng ¾ và các tạo tƣơng phản khá mạnh, hầu hết các chân dung khác đều có
cách tạo khối vừa phải, mang tính “gợi” nhiều hơn là tính “tả”. Các khối lớn trên
khuôn mặt từ trán, gò má, cằm, mắt đều có xu hƣớng mềm đi, giảm dần các góc
cạnh và tƣơng phản ánh sáng. Ngay cả phần cổ áo, vai áo cũng đƣợc các họa sĩ thể
hiện mang tính gợi, chứ không thể hiện rõ nhƣ ở tiền giấy của Mỹ, Úc, Anh…
Để có đƣợc cách thể hiện này, phần diễn tả nét khắc đƣợc điều chuyển đậm
nhạt theo nguyên tắc, thƣờng các khu vực đậm nhất là mắt, má, cằm đƣợc khắc bởi
2 nét chồng nhau, nét chính có độ sâu khoảng 70-80 milicron, nét phụ khắc chéo 60
độ, có độ sâu khoảng 30 milicron. Vì chân dung Bác hay đƣợc thể hiện với tƣ thế
nhìn thẳng nên ánh sáng có phần trải đều, các độ đậm có xu hƣớng cân đối hai bên,
vờn đậm từ viền ngoài vào bên trong. Chính cách thể hiện này dẫn tới nhiều chân
dung với tƣ thế nhìn thẳng không có đƣợc đậm nhạt hợp lý nên bị méo hình. Tiêu
biểu cho các chân dung bị méo hình là chân dung trên mệnh giá 50 đ, mệnh giá
100đ (bộ tiền 1978).
Phần tóc và râu của Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng đƣợc khắc bởi các nét
đơn, song song với nhau, gợi thành khối nhẹ. Cách thể hiện râu của Bác trên đồng
10.000 đ (hệ thống 1985) với chân dung nghiêng ¾ là không hợp lý. Các khối râu
của đồng tiền này thể hiện quá dày, đặc, vừa bị bết không trong trẻo, vừa không
diễn tả đƣợc cái đẹp của nét khắc. Thông thƣờng, khối mắt và con ngƣơi đƣợc khắc
theo các đƣờng tròn đồng tâm. Cách thể hiện mắt của chân dung Bác trong tiền giấy
126
polymer không đạt đƣợc hiệu quả tốt, các hƣớng nét quá đơn điệu và thô, các nét in
bị bết, to sụ ra và đọng mực khi in.
Tóm lại, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các bộ tiền Việt Nam có đặc
điểm chính là:
- Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong các biểu tƣợng của chính thể
Việt Nam trên tiền giấy Việt Nam. Đây là chân dung duy nhất đƣợc sử dụng trong
tất cả các bộ tiền chính thức tại Việt Nam từ ngày lập nƣớc tới nay.
- Chân dung đƣợc thể hiện bằng nét, đƣợc các thợ khắc giỏi nhất thực hiện,
thể hiện trang trọng với các công nghệ, kỹ thuật tốt nhất của giai đoạn đó. Chân
dung đƣợc thể hiện với thái độ cẩn trọng, thể hiện lòng tôn kính của ngƣời tạo tác
đối với nguyên mẫu.
- Hầu hết các chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở trên tiền giấy Việt
Nam đều có tƣ thế nhìn thẳng, bố cục ít khi đặt ở chính giữa mà thiên về hai bên.
Xu hƣớng này càng thể hiện rõ trong các bộ tiền gần đây.
- Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính biểu tƣợng nhiều hơn tính tả
thực, tạo cảm nhận văn hóa là chủ đạo. Cách thể hiện ánh sáng, hình khối và đƣờng
nét thiên về gợi nhiều hơn là tả. Cảm nhận chung là tính trang trọng, đàng hoàng và
tĩnh tại, điềm tĩnh mà vui tƣơi của chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này cho
ta cảm nhận về tinh thần, phong cách thể hiện chân dung mang nhiều tính biểu
tƣợng của văn hóa phƣơng Đông.
- Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc tập trung chế bản, in ấn, đây là chi
tiết chống giả quan trọng trong tiền giấy Việt Nam.
Về vị trí trên tờ tiền, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng đƣợc đặt ở vị
trí bên cạnh. Ngoại trừ một số mẫu phát hành trong giai đoạn đầu ở Tiền Tài chính
và Tín phiếu Liên khu V, các mẫu sau này đều có chân dung ở bên phải hoặc bên
trái của tờ bạc. Đặc biệt trong các giai đoạn tiền giấy từ 1951 trở về sau, các đồng
tiền do NHNN Việt Nam phát hành không xuất hiện chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Minh ở vị trí chính giữa tờ bạc nữa mà đặt lệch sang hai bên. Vị trí chân dung trên
127
bộ tiền polymer lệch phải với nguyên tắc bố cục chia ba. Cách đặt này cũng nhằm
tránh việc nếp gấp đôi của tờ bạc vào chính giữa chân dung.
3.3. Chuyển biến về các yếu tố mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam
Họa sĩ nổi tiếng Kandinsky cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng là con
đẻ của thời đại ấy, và trong nhiều trƣờng hợp, nó là ngƣời mẹ sinh ra cảm xúc của
chúng ta. Vậy nên, thời kỳ văn hóa nào cũng có một nền nghệ thuật riêng không thể
lặp lại” [54, tr.25]. Trong sáng tạo nghệ thuật, mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo (ở
đây là họa sĩ thiết kế mẫu tiền giấy) và khách thể tiếp nhận (ở đây là nhân dân trong
toàn quốc) luôn là sự gắn kết. Tác giả Nguyễn Chí Bền cho rằng trong điều kiện ở
Việt Nam, “khi xem xét sự phát triển văn hóa từ hai phƣơng diện: chủ thể sáng tạo
và khách thể tiếp nhận, không thể không đặt trong quan hệ với ý chí chính trị của
Đảng, Nhà nƣớc về xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc” [7, tr.29]. Trƣờng
hợp tiền giấy Việt Nam, sự ảnh hƣởng của thời đại dẫn tới chuyển biến mỹ thuật
đƣợc thể hiện rõ nhất trong sự thay đổi hình thức và phƣơng pháp sáng tạo, trong đó
có sự thay đổi của hình thức trang trí (hoa văn, cấu trúc đồ án trang trí) và thay đổi
hình ảnh chủ đề.
3.3.1. Chuyển biến về hình thức
3.3.1.1. Hình thức trang trí
Theo từng giai đoạn lịch sử, hình thức trang trí trên tiền giấy Việt Nam có sự
thay đổi mạnh từ hoa văn họa tiết tới kiểu thức và màu sắc trang trí.
- Hoa văn họa tiết: Hoa văn trên tiền giấy Việt Nam có sự thay đổi mạnh
mẽ trong cách lựa chọn và ứng dụng trang trí. Nếu tiền Tài chính trong giai đoạn
đầu phát hành (1946) có sử dụng nhiều hoa văn trang trí dân tộc nhƣ hoa văn thời
Nguyễn (tứ linh, hoa văn chữ triện), thỉnh thoảng cũng có mẫu dùng hoa văn miền
bắc thì đến giai đoạn phát hành lần 2 (trong chiến khu) đã xuất hiện các hoa văn
lƣới của tiền giấy, tuy rằng ở hình thức rất đơn giản và phong cách nét gợi tranh
khắc gỗ dân gian Đông Hồ. Tiền giấy phát hành 1951 sử dụng hoa văn lƣới, ít hoa
văn dân tộc. Đến bộ tiền 1959, tất cả các hoa văn dân tộc đều là hoa văn trang trí
truyền thống miền Bắc, có phong cách nhƣ trang trí đình chùa (không còn hoa văn
128
mang phong cách Huế). Các bộ tiền 1978 và 1985 đều sử dụng nhiều hoa văn trang
trí mang phong cách miền Bắc trong đó hoa văn hoa sen đƣợc sử dụng nhiều. Tuy
nhiên điểm nhận dạng về phong cách hoa văn của các mẫu trong bộ tiền 1985 là hoa
văn thƣờng khá to, thô đặt thành cụm ở góc và không có đồ án dải hoa dây.
- Cấu trúc đồ án trang trí: Tiền giấy Việt Nam có ba dạng đồ án trang trí
chính: (1) sử dụng khung trang trí xung quanh với bố cục đăng đối; (2) dạng bố cục
trang trí có sử dụng thanh trang trí phía trên, phía dƣới ; (3) dạng trang trí tự do với
mảng chính mảng phụ.
Hầu hết các mẫu tiền trong bộ Tài chính, tiền giấy ngân hàng phát hành
1951, 1959, 1978, và các mẫu tiền Ủy ban TƢMTDTGPMNVN, tiền giấy phát
hành vào miền Nam năm 1975 đều có cấu trúc khung trang trí xung quanh. Dấu
hiệu của việc phá bỏ khung trang trí xung quanh xuất hiện tại mặt sau mẫu 10 đ của
bộ tiền phát hành 1959. Tới bộ tiền 1978, bắt đầu có một số mẫu sử dụng thanh
trang trí trên và dƣới, nhƣng vẫn giữ cấu trúc đăng đối giả. Điển hình cho phong
cách này là mẫu 50 đ với thành trang trí trên dƣới và trục đối xứng qua tâm, nếu bên
phải của mặt trƣớc có chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh thì bên trái có cụm quốc
huy và hoa văn với kích thƣớc tƣơng đƣơng. Đến những mẫu phát hành 1985, dạng
thanh trang trí trên dƣới bắt đầu xuất hiện nhiều và đa dạng hơn, không còn dùng
nguyên tắc đăng đối giả nữa. Những mẫu có mệnh giá lớn nhƣ 5000đ, 10000đ,
20000đ, 50000đ, 100000đ đều có thanh trang trí trên dƣới nhƣng sự biến đổi của
các mảng trang trí nền chƣa mạnh.
Bộ tiền polymer đƣợc thực hiện với phong cách trang trí tự do nhƣng theo
nguyên tắc “một phần ba”. Toàn bộ mặt trƣớc đƣợc chia 3 phần, 1/3 bên phải là chân
dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1/3 bên trái là trục của Quốc huy mệnh giá và chữ tiêu đề.
Ở mặt sau, 1/3 bên trái là hình bóng chìm, 1/3 bên phải là cửa sổ, khoảng 1/3 ở trung
tâm là hình ảnh phong cảnh trong đó tạo nên các khoảng trống và hình thay đổi.
Nhƣ vậy, phong cách trang trí trên tiền giấy Việt Nam đã biến đổi từ việc
ứng dụng nhiều hoa văn dân tộc (ở Huế, thời Nguyễn) tới sử dụng hoa văn lƣới, rồi
lại quay trở lại với hoa văn dân tộc ở miền Bắc, trải qua giai đoạn cách điệu hoa văn
129
không thành công, đến bộ polymer trở lại với ứng dụng hoa văn trong các chi tiết
nhỏ. Cạnh đó, trang trí tiền giấy không chỉ thay đổi về cấu trúc/bố cục của đồ án
trang trí, mà còn có sự thay đổi trong sử dụng hình tƣợng và màu sắc trong từng hệ
thống tiền. Ngay cả cách tạo kích thƣớc cho tờ tiền cũng đã khác [PL-MH 3.67]
3.3.1.2. Chủ đề hình ảnh
(Thống kê hình ảnh trên tiền giấy Việt Nam qua các thời kỳ, xem phụ lục 3.39)
(Thống kê tỷ lệ xuất hiện của hình tượng người và phong cảnh trong các bộ
tiền Việt Nam, xem phụ lục 3.40)
Lịch sử tiền giấy Việt Nam gắn liền với lịch sử và tiến trình phát triển kinh tế
Việt Nam, đồng tiền giấy chính là minh chứng cho một giai đoạn phát triển của xã
hội. Trên tất cả các bộ tiền giấy, ngƣời ta đều tìm các hình tƣợng thể hiện tính văn
hóa và vẻ đẹp đất nƣớc, con ngƣời.
Sau ngày lập nƣớc (9/1945), Tiền Tài chính ghi lại đầy đủ niềm tự hào của
ngƣời dân nƣớc Việt độc lập, cũng nhƣ đấu tranh giữ độc lập, chiến thắng “giặc đói,
giặc dốt và giặc ngoại xâm” nên tiền giấy luôn gắn với hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí
Minh, anh bộ đội, anh vệ quốc, hình ảnh ngƣời nông dân, công nhân, trí thức trong
khối đoàn kết toàn dân. Những hình ảnh về các chiến công, các trận đánh lớn cũng
đƣợc khắc họa nhƣ muốn nhấn mạnh lịch sử của dân tộc trong giai đoạn hào hùng.
Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc xây dựng CNXH, chi viện cho
tiền tuyến miền Nam, các hình ảnh trên tiền giấy là hình ảnh xây dựng, công nghiệp
hóa. Đối với các bộ tiền phát hành cho miền Nam, hình ảnh chủ yếu là đoàn kết
Trung-Nam-Bắc, hình ảnh chiến đấu và chiến thắng của bộ đội và nhân dân Nam
Bộ. Sau ngày thống nhất, đất nƣớc bƣớc vào giai đoạn xây dựng, hàn gắn vết
thƣơng chiến tranh, bộ tiền nhằm thống nhất tiền tệ toàn quốc lần đầu tiên phát hành
1978 với các hình ảnh xây dựng và công trình công nghiệp, nhà máy... Tại bộ tiền
này, không còn các hình ảnh chiến đấu, bộ đội hoặc sản xuất vũ khí. Giai đoạn
1985, đất nƣớc đi vào tình thế khó khăn về định hƣớng phát triển, thiếu nguồn lực
hỗ trợ từ các nƣớc bạn, mặt khác toàn quốc phải gồng mình thực hiện cuộc chiến
tranh biên giới phía Bắc.
130
Cuộc đổi tiền năm 1985 và phát hành tiền giấy mới vào lƣu thông sau đó
đƣợc diễn ra theo chƣơng trình giá - lƣơng - tiền và rơi vào lạm phát trầm trọng.
Điều này đã ảnh hƣởng tới việc phát hành tiền giấy khá lộn xộn trong giai đoạn
1985-1987 và tiếp tục kéo dài tới những năm cuối thế kỷ XX. Các mẫu tiền thiếu
chủ đề, có 5 mẫu sử dụng Cột cờ Hà Nội làm hình ảnh chính, các công trình công
nghiệp đƣợc thể hiện rất èo uột, thiếu sức sống. Đến cuối giai đoạn lạm phát, mệnh
giá các đồng tiền đã gấp hàng trăm lần, đồng nhỏ nhất là 100 đ và đồng lớn nhất là
100000đ. Lúc này việc in tiền giấy chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế nên hình ảnh
chủ đề không đƣợc ƣu tiên thể hiện nên thiếu đặc sắc về hình tƣợng.
Bộ tiền polymer là biểu hiện rõ nét cho việc chuyển đổi hình ảnh trên tiền
giấy, nếu các mẫu tiền giai đoạn trƣớc đó còn xuất hiện hình ảnh con ngƣời trong
lao động thì bộ tiền polymer hoàn toàn không có hình tƣợng con ngƣời (mẫu
100000 vẽ Khuê Văn Các chỉ gợi nhẹ hình ảnh 2 ngƣời). Tại tiền giấy Việt Nam,
hình ảnh chủ đề với các hình tƣợng nghệ thuật tiêu biểu luôn thể hiện rõ các vấn đề
thời đại mà bộ tiền đó phát hành.
Hình ảnh về con ngƣời chiếm vị trí quan trọng trong tiền giấy Việt Nam thời
kỳ đầu và giảm dần về diện tích và mật độ xuất hiện. Nếu ở Tiền Tài chính, mẫu
tiền nào cũng có hình tƣợng con ngƣời Việt Nam thì đến bộ tiền Polymer không còn
xuất hiện hình ảnh con ngƣời Việt Nam với tƣ cách là hình tƣợng chính. Điều này
thể hiện rõ tinh thần thời đại, đồng thời thể hiện sự chuyển đổi trong quan niệm về
thẩm mỹ hình ảnh chủ đề trong tiền giấy. Nhƣ vậy, hình ảnh trên tiền giấy Việt
Nam đã trải qua 3 giai đoạn chính với 3 chủ đề trọng tâm là bảo vệ đất nƣớc, xây
dựng đất nƣớc và vẻ đẹp của quê hƣơng.
3.3.2. Chuyển biến trong thẩm mỹ tiền giấy
- Hệ thống tiền Tài chính
Có thể nói hệ thống tiền giấy năm 1946 là hệ thống tiền giấy có giá trị lịch sử
và nghệ thuật cao, giàu tính hội họa và sinh động nhất trong tổng thể các hệ thống
đã lƣu hành tại Việt Nam. Nội dung chủ đề chính của bộ tiền này là tinh thần độc
lập dân tộc, tin tƣởng tuyệt đối vào Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhƣ đoàn kết dân
131
tộc, lao động sản xuất…Nhìn tổng thể nghệ thuật thiết kế và trang trí các mẫu tiền
của hệ thống tiền năm 1946, nổi lên sự đặc sắc về cách tạo hình mang tính dân tộc
cũng nhƣ đậm chất thời đại, tiêu biểu là mẫu 100 đ Con trâu xanh, một trăm đồng
đỏ, mẫu 5 đồng công nhân quai búa.
Đánh giá về tính nghệ thuật của tiền giấy đầu tiên của nƣớc ta, họa sĩ Trần
Duy nói: “Chúng tôi đều nghĩ rằng, đồng tiền Việt Nam có một thứ không làm giả
đƣợc, vì nó đƣợc làm bằng thứ giấy chỉ có ở vùng kháng chiến mới sản xuất ra, lại
in bằng thứ mực thô sơ mà kỹ thuật của Pháp không “học tập” đƣợc. Chúng tôi
thấy, không cần phải vẽ cầu kỳ để chống làm giả. Với tâm hồn kháng chiến, chúng
tôi muốn vẽ hình ảnh của những ngƣời Việt Nam kháng chiến. Chẳng hạn nhƣ tờ
100 đ do Nguyễn Sáng vẽ. Ngƣời ta có thể quên đi tờ bạc 100 đ mà ghi lại ấn tƣợng
của một bức tranh hoành tráng về toàn bộ cuộc sống kháng chiến, về những con
ngƣời kháng chiến trên đó. Phải thừa nhận rằng, thời đó, cảnh và tâm hồn kháng
chiến đẹp nhƣ tranh” [24, tr.51].
Có thể tóm tắt vẻ đẹp của Tiền Tài chính bằng nhận xét của nhà nghiên cứu
Jacques Despuech nói “Giấy bạc của Việt Minh in bằng thứ kỹ thuật thô sơ. Nó có
nghệ thuật hội họa hơn là tiền tệ” [24, tr.52].
- Hệ thống tiền phát hành 1951
Là bộ tiền do Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam phát hành đƣợc in tại Trung
Quốc, có nhiều hình ảnh phong cảnh và con ngƣời giống nhƣ của Trung Quốc. Bộ
tiền này không đƣợc đánh giá cao về trang trí (không ứng dụng các hoa văn dân
tộc), nhƣng xét dƣới góc độ chất lƣợng kỹ thuật của chế bản và ngôn ngữ tiền giấy
thì bộ tiền này vẫn mang giá trị đáng kể trong đồ họa tiền giấy. Trong đó, việc dùng
hoa văn lƣới và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đạt chất lƣợng về nét khắc và độ
đậm nhạt rất tốt. Các chân dung này do họa sĩ Trung Quốc thể hiện và khắc trực tiếp
trên bản đồng. Đánh giá về chân dung Bác thời kỳ này, họa sĩ Lại Đăng Bạch
(nguyên họa sĩ Tổ Họa - tiền thân của phòng thiết kế mẫu tiền, NHNN Việt Nam)
có nói: “những nghệ nhân nƣớc ngoài rất trân trọng việc tạo hình chân dung Bác,
nhƣng chƣa có những xúc cảm sâu sắc nhƣ những họa sĩ Việt Nam nên bị hạn chế,
132
chƣa lột tả đƣợc thần thái của Bác” [5, tr.35]. Về phong cách thiết kế của bộ tiền 1951
này, “có không ít ý kiến cho rằng loại giấy bạc mới này trông giống giấy bạc Trung
Quốc, hình vẽ ngƣời mình trên tờ giấy bạc cũng giống ngƣời Trung Quốc, ngƣời nào
cũng mặc áo bông” [91, tr.148]. Vì thế, các họa sĩ và nhà nghiên cứu không đánh giá
cao giá trị nghệ thuật của bộ tiền này. Có lẽ phong cách nghệ thuật của bộ tiền này
quá khác với thẩm mỹ của ngƣời Việt nên các bộ tiền tiếp theo không theo phong
cách của bộ tiền 1951, nhất là ở cách lạm dụng hoa văn lƣới làm khung trang trí mà
thiếu đi sự họa tiết bay bổng của hoa văn dân tộc [Phụ lục 1.10, 1.11].
Tuy không thành công trong việc ứng dụng hoa văn dân tộc trên tiền giấy,
nhƣng bộ tiền 1951 đã đƣa lại một hình thức hoàn toàn mới về tiền giấy Việt Nam,
cập nhật cùng thế giới hơn, các tờ bạc có cảm nhận thẩm mỹ tiền tệ hơn là tranh hội
họa hoặc tranh cổ động nhƣ của Tiền Tài chính.
- Hệ thống tiền phát hành 1959
Đây là hệ thống tiền giấy đầu tiên của nƣớc ta có hình quốc huy, đƣợc coi là
bộ tiền có giá trị thẩm mỹ tiền giấy cao nhất, với việc ứng dụng hài hòa phong cách
trang trí truyền thống, hoa văn dân tộc kết hợp hoa văn lƣới đặc trƣng của tiền giấy.
Các đồng tiền đều có mảng cấu trúc rõ ràng, bố cục chắc chắn và hình vẽ chuẩn
mực. Đặc điểm nhận biết của bộ này là đƣờng trang trí phía trên thƣờng có hình
vòng cung (nhƣ các trán bia hoặc cửa võng). Về nghệ thuật dùng hình ảnh, tất cả
các mẫu trong hệ thống này đều có hình ảnh đƣợc thể hiện trau chuốt với chủ đề sản
xuất, nông nghiệp, xây dựng với cơ giới hóa.
Nếu bộ tiền 1951 đƣợc trang trí bởi hoa văn lƣới thì bộ tiền 1959 là bộ tiền
đạt tới đỉnh cao trong nghệ thuật sáng tạo các hoa văn trang trí tiền giấy của Việt
Nam. Các hoa văn đƣợc sử dụng chủ yếu mang phong cách Bắc Bộ. Các mảng
trang trí đƣợc liên kết với nhau hệt nhƣ các mảng chạm khắc đình làng với hoa văn
hoa lá kết hợp với các đƣờng nét đồ họa. Việc thể hiện trang trí rất chi tiết và cầu kì.
Đối ngƣợc với sự chi tiết ở hoa văn trang trí và hình ảnh chủ đề, phần nền (màu
nhạt) đƣợc thể hiện đơn giản, thƣờng mang tông màu vàng hoặc hồng nhẹ.
133
Không nhƣ bộ tiền 1951 (chân dung có trong tất cả các mệnh giá), tại bộ tiền
này chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ xuất hiện trên 2 mệnh giá lớn nhất, nhƣng
đã trở thành chuẩn mực cho thể hiện chân dung tiền giấy Việt Nam, với 1 mẫu thể
hiện góc nhìn thẳng, 1 mẫu thể hiện góc nhìn bán diện. Tất cả các nét khắc chân
dung đều rất tinh xảo, cách thể hiện khối chuẩn mực mà mềm mại (điều mà các hệ
thống sau này không đạt đƣợc).
Nhìn tổng thể, hệ thống tiền giấy 1959 đã đạt đƣợc độ chuẩn mực của mỹ
thuật trên tiền giấy Việt Nam, trở thành điểm sáng, là tiêu chuẩn cho ngôn ngữ đồ
họa tiền giấy của tiền giấy Việt Nam trong thế kỷ XX và ảnh hƣởng tới thẩm mỹ
thiết kế của nhiều bộ tiền sau đó.
- Hệ thống tiền phát hành 1975
Bộ tiền phát hành 1975 vào miền Nam để thay thế tiền giấy của chính quyền
Sài Gòn sau ngày đất nƣớc thống nhất. Bộ tiền đƣợc thiết kế và in trƣớc đó nhiều
năm, có những mẫu đề 1966 và do các họa sĩ Ngân hàng Quốc gia Việt Nam thực
hiện. Bộ tiền này có phong cách giống bộ tiền 1959 và bộ tiền của UBTƢMTDTGP
MNVN về việc sử dụng hoa văn dân tộc và hình ảnh chủ đề.
Do không có chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc huy, đồng thời chỉ
dùng phƣơng pháp in ốp-xét nên tổng thể cảm nhận về tờ bạc có phần hơi đều, thiếu
các điểm nhất quan trọng. Hình ảnh chủ đề đƣợc thể hiện ở cả hai mặt của tờ bạc,
nên nhìn vào tờ tiền, ta có cảm nhận nhƣ nhìn vào bức tranh vẽ bút chì hoặc thuốc
nƣớc lồng trong khung hoa văn về lao động và chiến đấu của đồng bào miền Nam.
Ƣu điểm của bộ tiền của UBTƢMTDTGP MNVN là các hình ảnh chủ đề
đƣợc thể hiện rất sinh động, giàu ý tƣởng, độ đậm nhạt, bố cục và diễn tả chất liệu
rất tỉ mỉ và đẹp. Phần trang trí sử dụng nhiều hoa văn trang trí dạng dây leo, hoa lá
với cấu trúc đồ án trang trí dạng đóng khung, sau này chuyển sang dạng mở khung
hai bên. Đây là bộ tiền in ốp-xét có hình ảnh thể hiện trau truốt nhất, sinh động nhất
về con ngƣời và phong cảnh Việt Nam trong thời KCCM. Các bộ tiền sau này nhƣ
phát hành 1985, polymer đều không có cách diễn tả đậm nhạt uyển chuyển nhƣ bộ
tiền này.
134
- Hệ thống tiền phát hành 1978
Đây là bộ tiền bắt đầu có sự phân hóa trong phong cách thiết kế. Những mẫu
phát hành đợt đầu nhƣ 10 đ, 20 đ, 50 đ mang đậm phong cách tiền giấy 1959 nhƣng
bộ tiền này có cảm nhận hiện đại hơn và tƣơi hơn với sự tham gia của màu hồng và
tím. Các mẫu tiền phát hành đợt hai mang phong cách hiện đại hơn, có khung trang
trí đơn giản và lề nhỏ hơn.
Bộ tiền phát hành 1978 chịu sự ảnh hƣởng mạnh của phong cách trang trí của
hệ thống 1959 với cách tạo mảng hoa văn dân tộc, các hoa văn hoa dây, hoa sen,
mây lửa đan xen vào nhau khiến ta có cảm nhận nhƣ điêu khắc đình làng nhƣng quá
dày đặc. Cả 2 mặt của tờ bạc, diềm phía dƣới đƣợc thể hiện kỹ, nhiều hoa văn và
lớn hơn diềm phía trên làm cho mảng trang trí có phần thêm chắc chắn. Nếu hoa
văn trang trí của hệ thống 1959 đƣợc thể hiện với 2 sắc độ cơ bản thì ở mẫu này
phần hoa văn đƣợc diễn tả rất mềm mại, có nhiều độ chuyển đậm nhạt, hoa văn
dƣơng bản kết hợp với âm bản tạo độ đậm hài hòa. Đặc biệt ở bộ tiền xuất hiện
phong cách in cách sắc, đổi màu trong màu khung, làm cho khung trang trí trở nên
nhẹ nhàng và mềm mại hơn.
Đặc điểm dễ nhận biết của bộ tiền này là sử dụng khung trang trí xung quanh
nhƣ bộ tiền năm 1959 nhƣng khung đã mảnh hơn, phần lề giấy xung quanh không
đƣợc in nền và lề nhỏ hơn so với các bộ tiền trƣớc đó. Đây chính là bƣớc chuyển về
phong cách trang trí giữa các sử dụng hoa văn truyền thống dày đặc và chuyển sang
ít dần nhƣ ở mệnh giá 2 đồng, hoặc không có hoa văn nhƣ mệnh giá 100đ. Về bố
cục, bộ tiền này cũng có biểu hiện ban đầu của xu hƣớng tháo bỏ hai bên của khung
trang trí nhƣ ở mặt trƣớc đồng 5hào, 1đ, 5đ, 10đ, 20 đ, 50 đ.
- Hệ thống tiền phát hành 1985
Về phong cách thiết kế tiền giấy, bộ tiền này có rất nhiều phong cách khác
nhau nhƣng đều đƣa tới cảm nhận vội vàng và lộn xộn. Lạm phát thời kỳ này khiến
cho nghệ thuật thể hiện của bộ tiền có nhiều điểm không logic, đôi khi những đồng
tiền có mệnh giá lớn hơn nhƣng lại đƣợc đầu tƣ thiết kế in ấn sơ sài hơn (trƣờng
hợp đồng 200đ máy cày phát hành năm 1987, in in ốp-xét, có kích thƣớc nhỏ bé,
135
trong khi đó đồng 100đ phát hành năm 1985 có kích thƣớc to hơn nhiều và đƣợc in
lõm). Điều đó thể hiện sự đầu tƣ vội vàng, lúng túng trong định hƣớng cũng nhƣ
trong triển khai thiết kế và in ấn của bộ tiền 1985. Có hai phong cách chủ yếu, nếu
các đồng mệnh giá nhỏ có xu hƣớng đơn giản, hiện đại thì những đồng 100đ, 500đ
phát hành năm 1985 lại sử dụng nhiều hoa văn, có cảm giác hoài cổ. Đến đồng
100.000đ phát hành năm 2000 thì lại trở lại với phong cách dày đặc hoa văn cả phần
màu đậm lẫn màu nền nhƣ bộ tiền năm 1978. Có một số mẫu có giá trị nghệ thuật
cao nhƣ mẫu 1000 đ, 2000 đ in lõm (hai mẫu này chỉ tồn tại hơn 1 năm và đã bị
thay thế bởi 2 mẫu cùng mệnh giá, in ốp-xét hiện nay đang dùng). Ngoài ra mẫu
5000 đ phát hành năm 1991 và 100000 đ phát hành 1994 cũng có những giá trị về
trang trí và kỹ thuật chế bản, chất lƣợng bản in.
Đánh giá chung về phong cách mỹ thuật trên tiền giấy của bộ tiền 1985, có thể
thấy đấy là sự lộn xộn, bế tắc trong thiết kế và ý tƣởng hình tƣợng trong nhiều mẫu
tiền, các hoa văn trang trí quá thô, một số mẫu không đạt đƣợc thẩm mỹ tiền giấy.
- Bộ tiền polymer
Bộ tiền giấy polymer mang phong cách tiền giấy hiện đại, tiện dụng, là bộ
tiền đầu tiên ở nƣớc ta đƣợc xây dựng trên nền tảng bố cục tổng thể về vị trí cửa sổ,
bóng chìm, chân dung, các cụm mệnh giá…cho tất cả các loại mệnh giá. Bố cục bộ
tiền Polymer theo nguyên tắc 1/3, phần nền của tiền polymer đƣợc in tràn nền, chứ
không chừa lại lề trắng nhƣ một số bộ tiền trƣớc đó. Về trang trí, bộ tiền polymer sử
dụng phong cách trang trí tự do, không sử dụng khung trang trí xung quanh, các
mảng hoa văn dân tộc đều đƣợc đƣa vào phần màu nền (màu in ốp-xét). Hình ảnh
phong cảnh chiếm toàn bộ các mẫu thiết kế cũng tạo ra cảm nhận nhẹ nhõm trong
chủ đề của bộ tiền.
Nền giấy polymer có màu trắng đục đã ảnh hƣởng tới màu sắc và tính nhận
biết của tiền polymer. Tính tƣơng phản và độ tƣơi của màu sắc trên tiền polymer
không thể nhƣ tiền giấy cotton nên các nét của tiền polymer đƣợc chế bản nhỏ hơn,
mịn hơn và đan xen nhiều dạng nét hơn.
136
Về chất cảm chất liệu, nhiều ý kiến cho rằng cảm nhận xúc giác đối với chất
liệu polymer không sang trọng, không gây cảm nhận giá trị vì nó quá trơn nhẵn, trái
ngƣợc với tính nhận biết sẵn có về tiền giấy (thông qua tiền cotton trƣớc đây, hoặc
các đồng tiền có giá trị nhƣ đô-la Mỹ hoặc Euro). NCS đồng tình với quan điểm
này. Nhìn một cách tổng quát, bộ tiền polymer đƣợc ra đời với mục tiêu nhằm giải
quyết vấn nạn tiền giả, làm sạch và cải thiện hình ảnh về tiền giấy Việt Nam, cũng
nhƣ cập nhật hệ thống thanh toán hiện đại. Nhƣợc điểm của tiền polymer là chất
liệu không tạo đƣợc cảm nhận trân trọng, giá trị của tiền giấy.
Hiện nay, bộ tiền giấy đang lƣu hành là một phần của hệ thống tiền giấy đã
phát hành lần đầu vào năm 1985-1987, nên chịu nhiều sự ảnh hƣởng của lịch sử tiền
tệ Việt Nam giai đoạn này. Bộ tiền giấy đang lƣu hành gồm 6 mệnh giá 100đ, 200
đ, 500 đ, 1000 đ, 2000 đ, 5000đ đƣợc in trên giấy cotton và 6 mệnh giá là 10000 đ,
20000 đ, 50000 đ, 100000 đ, 200000 đ, 500000 đ đƣợc in trên giấy polymer. Phong
cách tiền polymer đã chuẩn hóa nhƣng các mẫu tiền cotton thì mỗi mẫu có phong
cách riêng, và không phù hợp với hình ảnh bộ tiền Việt Nam trong thế kỷ XXI.
3.3.3. Chuyển biến về kỹ thuật in ấn
- Cách tạo mẫu thay đổi theo từng thời kỳ
Cùng với sự tiến bộ của công nghệ, việc phác thảo tiền giấy đã có nhiều thay
đổi. Tại bộ Tiền Tài chính, quy trình vẽ mẫu đƣợc thực hiện là: vẽ phác thảo, trình
duyệt rồi mới vẽ chính thức, mỗi màu là một bản, to gấp 3 lần mẫu in thật [50,
tr.139,140]. Nhìn vào lịch sử thiết kế tiền giấy Việt Nam, trong hệ thống đầu tiên
của tiền giấy Việt Nam là Tiền Tài chính, “mẫu giấy bạc phải vẽ to ít nhất bằng 4
lần tờ bạc thật thì khi chụp thu nhỏ bằng cỡ thật, nét vẽ mới tinh vi” [161, tr.142] và
đem làm bản in, ngƣời ta có thể xếp loại thiết kế tiền giấy ngay vào chuyên ngành
thiết kế đồ họa in ấn. Nhƣ vậy thiết kế mẫu cũng gần nhƣ là thực hiện chế bản mẫu.
Các hệ thống tiền phát hành 1951, 1959 hiện không còn tài liệu lƣu về phƣơng pháp
tạo mẫu. Trong giới sƣu tầm, có xuất hiện một mẫu tiền (cùng bộ 1959, nhƣng
không phát hành) đƣợc thiết kế với kích thƣớc thật, thể hiện bằng màu nƣớc trên
giấy và thực hiện riêng từng mặt. Nhƣ vậy có thể phán đoán việc thiết kế tiền giấy
137
giai đoạn này thực hiện vẽ thủ công bằng màu nƣớc trên giấy, theo từng mặt riêng
biệt với tỷ lệ đúng nhƣ bản thực. Sau khi mẫu đƣợc duyệt mới chuyển mẫu tới các
cơ sở in ấn chuyên ngành để chế bản và in mẫu.
Bắt đầu từ sau 1990, các chuyên gia chế bản đƣợc tiếp xúc với máy tính
trong thiết kế đồ họa. Năm 1995, NCS là lứa họa sĩ đầu tiên đƣợc cử sang Pháp học
về thiết kế hoa văn lƣới cho phần nền trang trí của tiền giấy. Sau đó các mẫu Ngân
phiếu thanh toán bắt đầu đƣợc thiết kế với hỗ trợ bởi máy tính với phần mềm đồ họa
thông thƣờng nhƣ photoshop, illutrator, corel draw và đƣợc thể hiện với máy in màu
lazer. Trong trƣờng hợp chƣa đạt đƣợc màu sắc nhƣ mong muốn, ngƣời họa sĩ có
thể dùng màu nƣớc và bút lông để điều chỉnh, tô điểm.
Bộ tiền polymer hoàn toàn đƣợc thiết kế cùng phƣơng pháp này. Trong đó,
họa sĩ làm phác thảo bằng tay, đồng thời thể hiện các chi tiết quan trọng nhƣ phong
cảnh, hoa văn dân tộc và phác họa hoa văn lƣới. Máy tính hỗ trợ thể hiện hoa văn
lƣới, nền, ghép các chi tiết và tạo màu cho bản vẽ. Lúc này, mẫu phác thảo đƣợc thể
hiện bằng mảng màu, có gợi các nét để mô phỏng kỹ thuật.
- Sự chuyển biến trong kỹ thuật in
Về kỹ thuật in ấn tiền Tài chính có đặc điểm dễ nhận thấy là thƣờng in một
màu trên giấy nứa có màu nâu. Mực in đƣợc pha chế và sản xuất trong môi trƣờng
thiếu thốn nên không đảm bảo sự đồng nhất về chất lƣợng và màu sắc. Mặt khác,
trong điều kiện chiến tranh, các máy in này chỉ hoạt động đƣợc cầm chừng do thiếu
điện, nên phần nhiều các tờ tiền đều đƣợc in bằng phƣơng pháp thủ công (in nổi
trên kẽm typo). Chính cách in thủ công và thực hiện trong điều kiện thiếu thốn đã
tạo thành phong cách và đặc điểm nghệ thuật rất đặc sắc và phong phú cũng nhƣ
khả năng chống làm giả của hệ thống tiền giấy này. Chính quyền Pháp đã nhiều lần
cố gắng in giả tiền Tài chính nhƣng đều thất bại do bản in thƣờng sắc nét và in trên
giấy đẹp còn các tờ tiền Cụ Hồ thì in không sắc nét và in trên giấy nứa. “Khi ngâm
vào nƣớc, vài giờ sau vớt ra, tờ giấy bạc giả vẫn còn cứng nguyên; còn tờ giấy bạc
thật vớt lên, lấy tay bóc nhẹ là có thể tách làm đôi đƣợc” [91, tr.147].
138
Phần nền của bộ tiền 1959, kỹ thuật in phẳng đƣợc thực hiện trên máy in ốp-
xét nên các nét khá mƣợt mà và xuất hiện lần đầu phƣơng pháp in cách sắc. Những
bộ tiền phát hành sau này nhƣ bộ tiền 1978, 1985 đều thực hiện với kỹ thuật in ốp-
xét nƣớc kết hợp in lõm, số lƣợng màu trong bản in đƣợc tăng dần. Bộ tiền polymer
đƣợc thực hiện vớiphƣơng pháp in phẳng có công nghệ cao nhất từ trƣớc tới nay.
Trong đó mỗi mặt đƣợc in với khoảng 10 màu và in đồng thời 2 mặt. Đây là kỹ
thuật in in ốp-xét simuntal (còn gọi là in ốp-xét khô, các màu in lên lô trung gian
trƣớc khi in vào mặt giấy). Ƣu điểm của phƣơng pháp này là có thể nối nhiều màu
trên 1 nét vẽ. Đặc điểm hình thức của kỹ thuật này là các nét in trên tờ tiền không
thật mƣợt mà, soi trên kính lúp thấy có cảm nhận lợn cợn, nét có xu hƣớng to hơn
nét in in ốp-xét nƣớc, các màu đậm không thắm.
Có sự khác biệt lớn trong chất lƣợng nét in của 2 phƣơng pháp in này trong
mẫu tiền 200 đ phát hành 1987 (vẽ máy cày) hiện đang dùng. Những lần phát hành
đầu, mẫu này đƣợc in bằng kỹ thuật in ốp-xét nƣớc (tại Nhà in Ngân hàng, phố
Chùa Bộc, Hà Nội), sau đó, mẫu này đƣợc chuyển lên in tại Nhà máy in tiền Quốc
gia (còn gọi là K 84, trên đƣờng Phạm Văn Đồng) với kỹ thuật in ốp-xét simuntal
(in ốp-xét khô). Lúc này, các chi tiết trên chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh không
thể tái hiện tốt, các chấm nhỏ bị tô sụ lên, các nét cắt bị vỡ nét khiến hình thức chân
dung bị thay đổi hoàn toàn, màu sắc bị tƣơi rực lên không giống mẫu specimen, so
sánh 2 bản in, thì bản in in ốp-xét vẫn đẹp và duyên hơn.
Về phƣơng pháp in lõm, là phƣơng pháp in đặc trƣng của kỹ thuật tiền giấy
mà các sản phẩm đồ họa khác không thể làm tốt và đẹp bằng. Kỹ thuật in lõm chỉ
xuất hiện trên tiền giấy Việt Nam từ bộ tiền 1951 và đƣợc hỗ trợ kỹ thuật của Trung
Quốc. Các tờ tiền đƣợc in với kỹ thuật khá hoàn hảo, các bản nét chế bản, bản khắc
chân dung và bản in đều đƣợc thực hiện với chất lƣợng rất cao. Biểu hiện của chất
lƣợng in ấn là hình thức mỹ thuật của các tờ bạc đến nay (sau hơn 60 năm) còn rất
đẹp, bản in sắc nét, mực in không có biểu hiện mờ do thẩm thấu sâu vào giấy. Kỹ
thuật in lõm của bộ tiền này là in lõm 1 màu trên 1 bản, với màu khung và màu chân
dung đƣợc thực hiện 2 màu ở hai bản khắc khác nhau. Giấy bạc phát hành năm
139
1959 cũng có chất lƣợng in lõm cao tƣơng tự, tuy nhiên vì ở bộ này sử dụng thêm
màu in ốp-xét nên có những mẫu bị thay đổi do màu in ốp-xét bị nhạt, đậm khác
nhau khi in ấn. Kỹ thuật in lõm của bộ tiền 1959 cũng là in 1 màu trên 1 bản nhƣ bộ
tiền 1951.
Bộ tiền 1978 cũng có chất lƣợng in lõm tốt, các nét rất trau chuốt, sắc sảo.
Đây là bộ tiền có kỹ thuật in lõm cách sắc đầu tiên ở Việt Nam, tiêu biểu nhất là
đồng 20 đ (nền màu khung đổi sang xanh lơ ở khu vực giữa). Đến bộ tiền phát hành
1985, các mẫu tiền phát hành đợt đầu đƣợc thực hiện chế bản và in lõm tại Liên Xô
nên chất lƣợng tƣơng đối tốt.
Sau năm 1990, Việt Nam bắt đầu nhập kỹ thuật in lõm. Một số mẫu nhƣ
5000 đ, 10000 đ, 20000 đ, 50000 đ và 100000 đ đƣợc chế bản tại nƣớc ngoài nhƣng
đƣợc in lõm tại Nhà máy in tiền Quốc gia Việt Nam. Trong đó, mẫu 5000 đ đƣợc
đánh giá có chất lƣợng kỹ thuật in lõm tốt nhất. Các nét in nổi gờ trên nền giấy,
phần hoa văn phù điêu nền cũng đƣợc in lõm rất sắc nét và đều màu. Những tờ bạc
đƣợc in lõm ở Việt Nam gần đây sử dụng công nghệ Orlop intaglio simuntal, cho
phép họa sĩ thiết kế nhiều màu in lõm và in đồng thời nhiều màu trên 1 bản. Kỹ
thuật này đƣợc thực hiện nhiều trong bộ tiền polymer với thuật ngữ “nối nét” hoặc
“nối màu”. Biểu hiện rõ nhất của kỹ thuật in này trên mẫu 200000 đ tiền polymer
với các mảng nối màu in lõm rất rõ nét trên hình ảnh phong cảnh (hòn Đỉnh Hƣơng,
Hạ Long) ở mặt sau.
- Công nghệ chế bản lõm
Đối với cách chế bản truyền thống, mỗi bản gốc là 1 bản kim loại gồm đầy
đủ các phần tử in lõm. Trong đó phần trang trí đƣợc thực hiện bằng phƣơng pháp ăn
mòn axít (còn gọi là ăn mòn quang hóa), phần chân dung đƣợc thực hiện bằng
phƣơng pháp khắc tay trực tiếp trên bản đồng. Hai phần này sẽ đƣợc thực hiện ghép
bản cùng nhau với nhóm thợ ghép bản, tạo ra 1 bản gốc. Sau đó ngƣời ta nhân bản
với số lƣợng để đảm bảo đủ số hình in cho 1 tờ lớn rồi ghép các bản đơn lẻ thành 1
bản lớn (công đoạn này thƣờng sử dụng bằng vật liệu nhựa cứng). Sau đó đem mạ
lại để tạo thành bản in chính thức. Lúc này bản in mới là bản kim loại hợp kim có
140
độ cứng để chịu áp lực in lõm. Việc này đòi hỏi rất chính xác, tiền giấy Việt Nam
sử dụng kỹ thuật in lõm trƣớc năm 2000 đều thực hiện theo công nghệ này.
Đối với công nghệ chế bản Photo polymer, bản gốc là 1 file ra phim đơn hình
trên đó có tất cả mọi chi tiết của phần in lõm, sẽ ra 1 bản phim cho 1 tờ in gồm
nhiều hình. Tấm phim này là cơ sở để làm màng bắt hình và ăn mòn trên bản
polymer. Khi bản polymer với tất cả các hình in lõm đƣợc kiểm tra đạt chất lƣợng,
ngƣời ta đem mạ crôm để tạo thành bản in chính thức (bản kim loại). Từ bản in
bằng kim loại này, ngƣời ta mới sử dụng để in lõm.
Nhƣ vậy, kỹ thuật làm bản đã có quá trình thay đổi, từ tạo 1 bản với kỹ thuật
cơ khí chuyển sang tạo bản với công nghệ tin học, nhanh hơn, thuận tiện hơn. Tuy
nhiên, việc chuyển đổi kỹ thuật tạo bản này cũng khiến nghệ thuật chịu ảnh hƣởng.
Các hình ảnh trên bản photo polymer thƣờng chỉ đều đều, thiếu đi độ sắc nét đặc
trƣng của khắc tay, không có nhiều tầng thứ đậm nhạt và tinh tế nhƣ công nghệ tạo
bản truyền thống.
3.4. Đóng góp của mỹ thuật trên tiền giấy vào lịch sử mỹ thuật Việt Nam
Cùng chung dòng chảy với lịch sử Việt Nam, mỹ thuật trên tiền giấy chia sẻ
với nền mỹ thuật chung của Việt Nam ở các đề tài sáng tác và đóng góp vào mỹ
thuật Việt Nam với phong cách trang trí đặc sắc, phối hợp trang trí mỹ thuật truyền
thống với ngôn ngữ tạo hình, cũng nhƣ đƣa vào ngành đồ họa Việt Nam các phƣơng
pháp tạo mẫu, in ấn mới.
3.4.1. Cùng chung đề tài sáng tác với mỹ thuật Việt Nam
Các họa sĩ sáng tác mẫu tiền tiêu biểu nhƣ Nguyễn Đỗ Cung, Mai Văn Hiến,
Nguyễn Sáng, Lê Phả, Huỳnh Văn Thuận, Bùi Trang Chƣớc, Lê Sơn Hải, Trần
Tiến… cũng đồng thời sáng tác các tác phẩm mỹ thuật. Cùng trong tiến trình lịch
sử, tiền giấy Việt Nam có chung nhiều đề tài với hội họa, tranh khắc, tranh cổ động
Việt Nam. Tuy nhiên, ở tiền giấy Việt Nam, các hình ảnh không chỉ đƣợc thể hiện
nhƣ một tác phẩm mỹ thuật độc lập mà còn phối hợp với hoa văn và các họa tiết
khác để tạo nên tổng thể trang trí cho tờ bạc.
141
Kể từ khi mỹ thuật Việt Nam đƣợc định hình với việc thành lập trƣờng Cao
đẳng Mỹ thuật Đông Dƣơng (1925), lịch sử mỹ thuật Việt Nam luôn gắn liền với
lịch sử dân tộc, trong đó có giai đoạn 30 năm chiến tranh giành độc lập và thống
nhất đất nƣớc, rồi giai đoạn đổi mới và hiện nay là giai đoạn hội nhập quốc tế.
Những đề tài của mỹ thuật thƣờng gắn liền với cuộc sống, đó là các đề tài về lãnh tụ
nhân dân, chiến tranh cách mạng, lao động, sinh hoạt, phong cảnh quê hƣơng đất
nƣớc. Ở tranh cổ động, các đề tài này thƣờng đƣợc ƣu tiên thể hiện bởi hình vẽ cụ
thể và khẩu hiệu đi kèm rất rõ ràng.
Về chủ đề lãnh tụ, mỹ thuật Việt Nam có các tác phẩm nhƣ Bác Hồ làm việc
ở Bắc bộ phủ (khắc gỗ của Tô Ngọc Vân), Nắm đất quê hương (sơn dầu của Phạm
Công Thành), Ông Ké cách mạng (sơn mài của Nguyễn Thế Vỵ), Nghe lời Bác
dạy”, (sơn dầu của Vƣơng Trình), Bác Hồ nói chuyện với bộ đội ở Đền Hùng (khắc
gỗ Nguyễn Trọng Hợp) và Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân (của Nguyễn Thụ
và Huy Oánh), Bác Hồ thăm lớp vỡ lòng sơn dầu của Đỗ Hữu Huề.…Cùng chung
đề tài với giới tạo hình, ở tiền giấy Việt Nam hình tƣợng Bác Hồ thƣờng xuyên xuất
hiện trong tất cả các đồng tiền Việt Nam, ngay trong những tờ tiền đầu tiên (1946).
Một số hình ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy Việt Nam còn
đƣợc ứng dụng để in trong tem bƣu chính (nhất là trong giai đoạn trƣớc 1954).
Về đề tài chiến tranh cách mạng, nếu trong mỹ thuật Việt Nam có các tác
phẩm Kết nạp Đảng trên trận địa (sơn mài), Giặc đốt làng tôi (sơn dầu) của
Nguyễn Sáng, bức bột màu Trận Tầm Vu của Nguyễn Hiêm (1946) hay Du kích La
Hai (còn đƣợc gọi là Du kích tập bắn) của Nguyễn Đỗ Cung (1947) thì hình ảnh
anh du kích và anh vệ quốc đoàn cũng là hình tƣợng rất quen thuộc của tiền giấy
Việt Nam nhƣ tờ 500 đ (tiền Tài chính) có tiêu đề chiến thắng Sông Lô, tờ 50đ (tiền
Nam Bộ) với tiêu đề Vệ quốc đoàn, 20 đ (tiền Nam Bộ) với hình ảnh du kích xông
lên đánh chiếm đồn giặc, bộ đội tập luyện trên thao trƣờng…Xem xét về tỷ lệ số
lƣợng tác phẩm và thời điểm xuất hiện các tác phẩm có thể thấy tiền giấy Việt Nam
đã đi trƣớc một bƣớc so với hội họa và tranh khắc gỗ, và chỉ chậm hơn đôi chút so
với tranh cổ động.
142
Chủ đề “tình đoàn kết quân dân” trong mỹ thuật Việt Nam nổi tiếng với tác
phẩm sơn mài Cái bát của Sĩ Ngọc thì đề tài này cũng thƣờng đƣợc thể hiện nhiều
trong tiền Tài chính, tiêu biểu nhƣ trên tờ 200 đ có chủ đề “bảo vệ mùa màng”, với
hình anh vệ quốc cầm súng đứng gác để nông dân gánh lúa về làng, hoặc các hình
tƣợng chiến sĩ trong khối đoàn kết công - nông - binh - trí.
Về đề tài nông nghiệp, mỹ thuật tạo hình có các tác phẩm tiêu biểu nhƣ Tát
nước đồng chiêm của Trần Văn Cẩn, Một buổi cày của Lƣu Công Nhân… thì hình
ảnh ngƣời nông dân là hình ảnh rất quen thuộc trên tiền giấy Việt Nam kể từ bộ tiền
đầu tiên nhƣ hình ảnh trên tờ 100 đ (Con trâu xanh) của nguyễn Huyến hay cảnh dắt
trâu đi cày ở mặt sau tờ 50 đ (tiền Tài chính). Hình tƣợng ngƣời nông dân đƣợc
khắc họa ở bức Bình minh trên nông trang của Nguyễn Đức Nùng cũng có dáng vẻ
tự hào về thành quả lao động nhƣ hình ảnh ngƣời nông dân vài vác cuốc tay cầm
quả bí ngô trên mặt trƣớc tờ tiền 100đ (tiền Tài chính). Đôi khi có những sự giống
nhau về hình thức, nhƣ bức tranh lụa Ra đồng của Nguyễn Phan Chánh, mô tả
ngƣời nông dân vác cày, dắt trâu ra đồng với góc nhìn nghiêng giống nhƣ hình ảnh
ở mặt sau tờ mệnh giá 20 đồng tiền Tài chính.
Cùng chung đề tài về xây dựng đất nƣớc với tranh cổ động, tranh đồ họa giá
vẽ hoặc các tác phẩm hội họa, tiền giấy Việt Nam có hàng loạt mẫu về hình ảnh các
công trình công nghiệp giai đoạn sau 1954. Nếu hội họa có nhiều tranh về đề tài xây
dựng đất nƣớc, nổi tiếng nhƣ bức Tan ca mời chị em đi họp để thi thợ giỏi của
Nguyễn Đỗ Cung hay Tổ thêu của Trần Đông Lƣơng thì trong tiền giấy có các mẫu
về công nhân nhà máy dệt, nhà máy đóng hộp... Cùng với đề tài công nghiệp hóa
đất nƣớc, trên tiền giấy Việt Nam còn xuất hiện nhiều mẫu có hình ảnh khai thác
mỏ than, Cầu Thăng Long, thủy điện Thác Bà, khai thác dầu khí…
Đối với hình tƣợng anh công nhân, mỹ thuật Việt Nam có nhiều tác phẩm hội
họa và tranh cổ động về hình tƣợng này. Trong đó tiêu biểu là là tác phẩm Công
nhân cơ khí mỏ của Nguyễn Đỗ Cung (1962) với hình ảnh anh công nhân quai búa,
thì trong tiền giấy hình tƣợng anh công nhân quai búa đƣợc thể hiện ngay ở tờ tiền
đầu tiên mệnh giá 5 đ do Mai Văn Hiến vẽ (1947).
143
Về tinh thần đoàn kết dân tộc, mỹ thuật Việt Nam nổi tiếng với bức Vườn
xuân Trung-Nam -Bắc của danh họa Nguyễn Gia Trí thì trong tiền giấy Việt Nam
có đồng 10đ (bộ tiền phát hành 1975), có hình ảnh phụ nữ Bắc- Trung- Nam đang
cầm tay nhau trên nền đoàn tàu thống nhất chạy qua các vùng quê tƣợng trƣng cho
miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Đề tài tranh phong cảnh là một trong những đề tài chung nhất của mỹ thuật
Việt Nam ở tranh hội họa, tranh khắc gỗ, tranh cổ động hay tiền giấy. Những hình
ảnh nhƣ vịnh Hạ Long, nhà sàn Bác Hồ, Văn Miếu- Quốc Tử Giám, cố đô Huế, cầu
chùa Hội An đều là các đề tài quen thuộc của các thể loại này. Tuy cách thể hiện và
kỹ thuật khác nhau nhƣng cách cắt cảnh và phong cách tả thực vẫn là điểm chung
đồng nhất của các họa sĩ sơn dầu, sơn mài, khắc gỗ hay vẽ tiền.
3.4.2. Phối hợp ngôn ngữ trang trí và tạo hình
Dƣới góc độ mỹ thuật, tiền giấy có dáng vẻ là sản phẩm của nghệ thuật trang
trí đặc biệt mang nét riêng và ứng dụng hoa văn dân tộc rất phong phú, thành công.
Kế thừa từ bộ tiền ngân hàng Đông Dƣơng, những tờ bạc đầu tiên của bộ tiền Tài
chính đã thể hiện phong cách trang trí vừa mang đậm nét bố cục và hoa văn dân tộc,
vừa có cảm nhận sinh động nhƣ bức tranh đầy màu sắc. Phong cách này tiếp tục trở
thành điểm chung của các bộ tiền giấy Việt Nam.
Nếu ở thể loại chân dung, việc thể hiện một chân dung nhân vật là thành 1
tác phẩm; trong hội họa, thể hiện một phong cảnh hoặc đề tài là thành 1 tác phẩm
độc lập; nghệ thuật trang trí, chỉ cần sử dụng các họa tiết trang trí để hình thành tác
phẩm, thì trong tiền giấy, việc phối hợp ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình (trong thể
hiện chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình ảnh chủ đề) và ngôn ngữ của nghệ
thuật trang trí (bố cục, màu sắc và họa tiết) đã tạo cho tiền giấy Việt Nam một
phong cách trang trí hoàn toàn khác biệt so với các sản phẩm mỹ thuật khác. Các
ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau này không phải đƣợc sắp xếp đặt cạnh nhau một
cách độc lập mà chúng phải phối hợp để làm thành tổng thể của tác phẩm mới. Đây
là ngôn ngữ trang trí hoàn toàn mới, so với các sản phẩm mang đậm nét trang trí
đƣợc in ấn nhƣ sắc phong, tranh dân gian hay bằng khen, huân chƣơng. So với các
144
sản phẩm tiền giấy nƣớc ngoài cùng thời, tiền giấy Việt Nam vẫn có bản sắc riêng
với các hoa văn họa tiết và cách dùng màu sắc đặc trƣng.
Có thể nói, trong mỹ thuật Việt Nam, từ tranh dân gian, tác phẩm hội họa, đồ
họa tranh khắc cho đến sản phẩm trang trí cho đến tranh cổ động, tem…không có
tác phẩm đồ họa nào của Việt Nam có ứng dụng nhiều hoa văn dân tộc nhƣ trong
tiền giấy. Nhƣ phần trên đã phân tích, hoa văn trong tiền giấy Việt Nam là sự tổng
hợp các hoa văn dân tộc từ đề tài tứ linh cho đến hoa văn hình học, hoa lá…đều
đƣợc thể hiện khá chuẩn mực. Hiện nay, nhiều sản phẩm đồ họa nhƣ chứng chỉ,
bằng khen đều sử dụng mẫu hoa văn trích từ tiền giấy Việt Nam.
Một đặc điểm cần nhắc tới của nghệ thuật trang trí tiền giấy là các hình vẽ,
họa tiết, phong cảnh, chân dung đều đƣợc thể hiện bằng nét. Việc sử dụng nét theo
phong cách tiền giấy cũng là gợi ý cho các họa sĩ Việt Nam sáng tác tác phẩm. Họa
sĩ Lê Hoàng Từ đã có tác phẩm chân dung Bác thể hiện nét, với tƣ thế nghiêng 3/4
lấy ý tƣởng, gợi ý từ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tờ bạc 10.000đ, hệ thống
tiền 1985. Tại triển lãm mỹ thuật Tìm thấy nhau (Finding each other-2015) của họa
sĩ ngƣời Slovakia Peter Polag đƣợc tổ chức tại Trƣờng Đại học Mỹ thuật Việt Nam,
đã trƣng bày các tác phẩm đồ họa in màu trong đó các nét đƣợc thể hiện mềm mại
nhƣ nét khắc lõm của tiền giấy. Trong triển lãm Đồ họa Asean 2016 tại Bảo tàng
mỹ thuật Việt Nam, họa sĩ ngƣời Thái Lan Pinit Phantaprawat đã làm bức Công
chúa duyên dáng, chất liệu đồ họa in kỹ thuật số trên toan, kích thƣớc 118x92cm.
Trong đó chân dung công chúa đƣợc thể hiện theo nghệ thuật nét khắc của tiền giấy
rất tinh xảo và đẹp. Gần đây còn có nhiều đơn vị sử dụng hình tiền giấy Việt Nam
để làm chất liệu thiết kế lịch tờ cho năm mới, lịch để bàn. Việc sử dụng nét trong
trang trí tiền giấy còn là gợi ý để thể hiện ở đồ họa tem bƣu chính Việt Nam và một
số ấn chỉ nhƣ chứng minh thƣ nhân dân, bằng lái xe, sổ tiết kiệm của ngân hàng,
hóa đơn tài chính…
3.4.3. Ứng dụng kỹ thuật in đồ họa tiên tiến trong thể hiện
Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông trong mục đồ họa có viết: “Một tranh
đồ họa đẹp, ngoài yêu cầu về chủ đề, bố cục và hình còn phải chú ý tới những yêu
145
cầu về kỹ thuật khắc và kỹ thuật in ấn. Mỗi chất liệu làm tranh đồ họa đều có những
kỹ thuật khác nhau” [72, tr.67]. Nhƣ vậy, yếu tố kỹ thuật là điều cần bàn tới khi nói
về nghệ thuật đồ họa. Muốn hiểu về thẩm mỹ tiền giấy thì cũng cần nghiên cứu về
kỹ thuật in ấn tiền giấy cũng nhƣ tiến trình sáng tạo bản mẫu và chế bản.
Trong sáng tác đồ họa in ấn, kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Đây chính là công đoạn mà hình thức của tác
phẩm đƣợc hình thành. Căn cứ vào cách chế bản và bề mặt của bản in, phần tử in,
ngƣời ta chia việc in ấn thành 4 phƣơng pháp chính. Đó là in bản nổi (in nổi, phần
tử in nổi cao hơn bản), in bản lõm (in lõm, phần tử in chìm thấp hơn bản), in bản
phẳng (in phẳng, phần tử in cao ngang bằng bản), in xuyên bản (in xuyên, phần tử
in không đƣợc bản che, mực in thẩm thấu qua lớp màng).
Với lợi thế về kỹ thuật in ấn, tiền giấy Việt Nam đã góp phần làm phong phú
thêm kỹ thuật thể hiện của nghệ thuật đồ họa Việt Nam ở kỹ thuật in lõm và in litho
nhiều màu, trong đó có kỹ thuật cách sắc độc đáo.
Nghề in khắc gỗ đƣợc cho vào Việt Nam từ đầu thiên niên kỉ thứ hai, đến
cuối thế kỷ XIX, ngƣời Pháp du nhập kỹ thuật in typo bản chì [92, tr.21]. Trong lịch
sử đồ họa in ấn Việt Nam, những tác phẩm khắc gỗ thƣờng chiếm ƣu thế do kế thừa
đƣợc nghề khắc tranh Phật giáo và tranh dân gian với các dòng tranh nổi tiếng nhƣ
tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh Hàng Trống (Hà Nội), tranh Kim Hoàng (Hà Nội),
tranh làng Sình (Huế). Những bộ tranh khắc đầu tiên của thế kỷ XX nhƣ bộ Kỹ
thuật của ngƣời An Nam do Henri Oger cho khắc in (1909), bộ tranh minh họa sách
Lục Vân Tiên do Nguyễn Đình Chi thực hiện (1927).
Chỉ đến bức tranh khắc nổi tiếng Thuyền trên bến sông Hồng của An Sơn -
Đỗ Đức Thuận và bức Chị hàng rươi của Nguyễn Gia Trí (1931) thì khắc gỗ Việt
Nam mới chuyển mình thành một phƣơng thức để sáng tạo tác phẩm mỹ thuật. Sau
đó, các hoạ sĩ Việt Nam đã sử dụng tranh khắc gỗ để thực hiện các minh họa và phụ
bản báo màu. Vào năm 1943, ra đời các tác phẩm khắc gỗ màu của Trần Văn Cẩn
(bức Gội đầu), Nguyễn Văn Tỵ (bức Hai cô gái Mường) cùng với đợt giao lƣu sáng
tác tại Nhật Bản của Nguyễn Nam Sơn, Lƣơng Xuân Nhị, Nguyễn Văn Tỵ. Kể từ
146
bức Thuyền trên bến sông Hồng của An Sơn - Đỗ Đức Thuận (1931), rất nhiều tác
phẩm khắc gỗ màu của các tác giả nhƣ Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tƣờng Lân, Tô
Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Lƣu Văn Sìn, Phạm Hậu, Nguyễn Đỗ Cung, Tôn Thất
Đào, Phạm văn Đôn, Phạm Tăng, Lê Văn Đệ, Nguyễn Văn Tỵ, Trần Phúc Duyên,
Nguyễn Thuận đã tạo thành những họa sĩ tên tuổi đầu tiên cho đồ họa tranh khắc gỗ
Việt Nam. Chất liệu khắc gỗ trở thành phƣơng thức yêu thích của nhiều lớp họa sĩ
tiếp theo với nhiều cải biên về kỹ thuật. Trong đó cần nói đến phƣơng pháp in thủ
ấn họa của Tú Duyên với tác phẩm Thà làm quỷ nước Nam và Đánh ghen cũng nhƣ
nhiều tác phẩm của ông giai đoạn sau (1952) [92, tr.284].
Bên cạnh các tranh khắc gỗ màu, đồ họa in ấn Việt Nam còn đƣợc góp phần
bởi tranh in đá của tranh cổ động với các Bộ tranh tuyên truyền kháng chiến của các
tác giả khi còn là sinh viên trƣờng mỹ thuật nhƣ Minh Châu, Mai Long, Dƣ Tạ,
Công Nhân, Trịnh Phòng (1947). Chất liệu in đá đã trở thành chất liệu in ấn chính,
đồng hành cùng tranh cổ động Việt Nam từ 1945 đến những năn 1954. Sau đó nhiều
tranh cổ động khổ lớn đã đƣợc thực hiện bởi phƣơng pháp in lƣới.
Có thể nói, trƣớc 1954, đồ họa in ấn Việt Nam gắn liền với kỹ thuật khắc gỗ,
in đá để sáng tạo tác phẩm, không xuất hiện các tác giả nổi tiếng với kỹ thuật khắc
lõm, in kim loại hoặc in litho. Các kỹ thuật in typo bản kim loại chỉ thực hiện trong
các nhà in với máy in công nghiệp. Trong khi đó, ngay từ bộ tiền Tài chính, các tờ
tiền đã đƣợc thiết kế và in với bản kim loại bằng phƣơng pháp in litho bản đá và
bản kim loại, từ 1951 về sau này xuất hiện thêm phƣơng pháp in lõm. Những kỹ
thuật in ấn đƣợc bổ sung cho nền đồ họa Việt Nam cần kể đến là:
- In lõm với bản kim loại
Chƣa thấy các tài liệu nào nói về in khắc kim loại ở Việt Nam tồn tại trƣớc
1951 và cũng không tồn tại các tác phẩm khắc kim loại tồn tại trƣớc bộ tiền giấy
1951. In lõm là phƣơng pháp in mới, đƣợc ứng dụng lần đầu trong mỹ thuật Việt
Nam ở bộ tiền giấy 1951. Phƣơng pháp này hiện đƣợc các họa sĩ đồ họa sử dụng
với 2 kỹ thuật cơ bản là khắc nóng (ăn mòn a-xít) hoặc khắc nguội (dùng dao khắc
trực tiếp trên bản kim loại). Sau này các họa sĩ nhƣ Lê Huy Tiếp, Ngô Anh Cơ,
147
Nguyễn Nghĩa Phƣơng cũng thƣờng xuyên sử dụng phƣơng pháp này trong sáng tạo
tác phẩm. So với cách chế bản in lõm của tiền giấy, kỹ thuật in lõm đang đƣợc các
họa sĩ sử dụng rất đơn giản, các nét vẽ còn thô sơ, chƣa thể hiện đƣợc lợi thế kỹ
thuật của in lõm về nét và các tầng thứ đậm nhạt.
In lõm đƣợc coi là kỹ thuật đặc trƣng nhất trong nghệ thuật thể hiện tiền
giấy. Những đồng tiền giấy quan trọng trên thế giới đều sử dụng phƣơng pháp in
lõm, trong đó bản in đƣợc làm chủ yếu bằng kim loại. Khi in, các phần tử in (lõm
xuống so với bản) sẽ chứa mực, sau đó chúng đƣợc truyền trực tiếp lên giấy bởi một
lô nén rất mạnh khiến cho từng nét khắc nhỏ cũng đƣợc thể hiện trên giấy.
Trong tiền giấy Việt Nam, những hệ thống tiền giấy có phƣơng pháp in lõm
là bộ tiền 1951, bộ tiền 1959, bộ tiền 1978, bộ tiền 1985, bộ tiền polymer. Một
trong những mẫu tiền đƣợc thể hiện với phƣơng pháp in lõm đƣợc cho là thành
công nhất là tờ 2đồng, 5 đồng, 10 đ (bộ tiền phát hành 1959), 5000 đ (phát hành
1990), 200000 đ polymer. Do giá thành cho kỹ thuật in lõm khá đắt nên chỉ các tờ
có mệnh giá lớn mới đƣợc ƣu tiên sử dụng in lõm.
Dấu hiệu của in lõm trên tiền giấy khi nhìn từ phía trƣớc sẽ thấy nét mực nổi
trên nền giấy, khi nhìn phía sau sẽ thấy giấy bị hằn sâu vào trong. Nhận dạng đƣờng
nét của in lõm khi nhìn bằng kính lúp, các nét thƣờng có ria (nhƣ chân rết) bám ra
hai bên, nét có độ mềm và chuyển sắc độ ngay trong 1 nét, thƣờng thì chỗ nét to sẽ
đậm hơn chỗ nét nhỏ. Sờ trên bề mặt nét in lõm thƣờng có cảm nhận gờ nổi. Ngƣời
ta có thể tạo đƣợc độ rất đậm với những chi tiết nhỏ nhƣ con ngƣơi của mắt trong
chân dung in trên tiền giấy.
Cảm nhận về hình thức của in lõm rất khác biệt, các tờ tiền in lõm thƣờng
thƣờng khá sắc nét, độ đậm nhạt và tƣơng phản rõ ràng, tờ tiền cứng cáp cho cảm
giác “giá trị” và rất bền màu. Một hình ảnh đƣợc thực hiện với phƣơng pháp in lõm
và in ốp-xét cũng đƣa lại hiệu quả thẩm mỹ hoàn toàn khác nhau, trong đó bản in
lõm bao giờ cũng sắc nét, độ đậm nhạt trong trẻo và đẹp hơn.
Các họa tiết hoa văn đƣợc chế bản cho phƣơng pháp in lõm thƣờng phải cẩn
trọng hơn rất nhiều so với in ốp-xét. Nếu trong phƣơng pháp in ốp-xét, các nét có
148
thể đan qua nhau nhiều lần thì trong in lõm, ngƣời ta rất hạn chế việc nét đè lên
nhau quá nhiều vì tại điểm các nét đè lên nhau bản kim loại thƣờng bị ăn mòn phá
nét, tạo thành điểm lỗi trên giấy in.
- In ốp-xét cách sắc, in nối nét nối màu
In ốp-xét hoặc lithography là phƣơng pháp in phẳng, thông dụng nhất hiện
nay, trong đó phần tử in không nổi lên hay lõm hẳn xuống so với mặt bản. Những tờ
tiền do ngân hàng Đông Dƣơng phát hành tại Việt Nam đƣợc in với phƣơng pháp
này. Ở tiền giấy Việt Nam, những mẫu tiền đầu tiên sau ngày lập nƣớc đƣợc thực
hiện bằng phƣơng pháp in ốp-xét trên các máy in hiện đại thời đó. Giai đoạn đầu
tiên tiền giấy Việt Nam đƣợc in tại nhà in Viễn Đông (còn gọi là IDÉO –Imprimerie
d’Extreme Oriental), nhà in Ngô Tử Hạ (phố Nhà Thờ, Hà Nội), nhà in Taupin. Sau
ngày toàn quốc kháng chiến, tháng 2/1947 địa điểm di chuyển nhà in lên Bản Thi –
Đầm Hồng, thuộc tỉnh Tuyên Quang.
Có 2 công nghệ chủ yếu là in ốp-xét nƣớc (làm ẩm lô bằng dung dịch, in
từng màu lên giấy) và in ốp-xét simuntal (còn gọi là in ốp-xét khô – khi in đồng thời
tất cả các màu lên 1 lô rồi mới áp vào giấy). Đặc điểm nhận biết của nét in ốp-xét là
nét mang màu nhẹ, viền nép trơn tru, không có sự biến đổi đậm nhạt trong nét. Khi
sờ trên mặt tờ bạc in ốp-xét không thấy có độ nhám nhƣ in lõm. Độ đậm của màu
sắc phụ thuộc vào độ to nhỏ của nét và đậm nhạt của mực. Ngƣời ta không thể tạo
đƣợc các chi tiết có độ đậm cao nhƣ ở in lõm. Tiền giấy Việt Nam, ngoài một số
mệnh giá sử dụng hoàn toàn phƣơng pháp in ốp-xét, thông thƣờng ngƣời ta dùng in
ốp-xét vào in nền trang tríđể tạo tông màu nền cho tờ bạc đồng thời thể hiện các hoa
văn họa tiết màu nhạt.
Trong in ốp-xét ở tiền giấy Việt Nam, các kỹ thuật chủ yếu là in cách sắc
(nhiều màu trên 1 lô mực) và in nối nét (1 nét có nhiều màu). Các kỹ thuật đã đƣợc
nhiều họa sĩ Việt Nam nhƣ Trần Việt Sơn, Lê Huy Tiếp, Đinh Lực, Nguyễn Nghĩa
Phƣơng, Ngô Anh Cơ… ứng dụng khi thực hiện tranh khắc kim loại cũng nhƣ khắc
gỗ hoặc in litho bằng cách lăn nhiều màu mực trên 1 bản.
149
- In typo bản kim loại
Đồng tiền đầu tiên của Trung Quốc cũng nhƣ tiền giấy thời nhà Hồ của nƣớc
ta đƣợc in bởi phƣơng pháp in typo bản gỗ. Trong đồ họa in ấn Việt Nam, phƣơng
pháp này đƣợc thực hiện với chất liệu chủ yếu khắc gỗ, sau này là thạch cao, cao su
và thủ ấn họa. Ở phƣơng pháp in này, bản in đƣợc làm bằng gỗ hoặc kim loại, các
phần tử in nổi lên trên bản in, sẽ bắt mực trong quá trình in và truyền lại trên vật in.
Trong hệ thống tiền Nam Bộ, có nhiều khả năng tiền giấy đƣợc in bằng
phƣơng pháp in này với bản hợp kim chì dày khoảng 5mm. Ngoài ra, Tín phiếu
trung bộ và Phiếu đổi chác sử dụng ở Nam Bộ cũng đƣợc in nổi với bản gỗ. Trong
tiền giấy hiện đại, ngƣời ta sử dụng in typo vào in số seri với công nghệ in số nhảy.
Đặc điểm nhận diện của phƣơng pháp in typo (in nổi) là phần hình trên mặt
giấy hơi lõm xuống. Các nét in typo có đặc điểm viền các nét đậm hơn bên trong
(do mực tràn ra ngoài không thể thoát đƣợc) nên hơi “xù” nét (nét bị to hơn chế bản
do mực thừa). Vì kỹ thuật in này hoàn toàn giống với in khắc gỗ trong đồ họa giá
vẽ nên tính biểu cảm của các đồng tiền thể hiện bằng phƣơng pháp in nổi mang đậm
chất nghệ thuật. Nếu so sánh về độ tinh xảo của kỹ thuật giữa những tác phẩm khắc
gỗ và các tờ bạc giai đoạn tiền Tài chính thì thấy rõ khả năng sử dụng nét, màu và
độ tinh vi của tiền giấy là phong phú hơn. So sánh phương pháp in trong các loại đồ
họa chủ yếu ở Việt Nam [Phụ lục 3.38 ].
Tiền giấy Việt Nam không chỉ đóng góp cho mỹ thuật Việt Nam bởi các kỹ
thuật in ấn hàng đầu mà nó còn thể hiện sự phối hợp hài hòa nhiều phƣơng pháp in
trên 1 tác phẩm. Nếu đồ họa in ấn thông thƣờng chỉ sử dụng 1 phƣơng pháp in hoặc
là ốp-xét (in phẳng) hoặc in lƣới (in xuyên), đồ họa giá vẽ là chỉ thể hiện một số ít
bản với một vài phƣơng pháp in nhất định (hoặc in kim loại, hoặc khắc gỗ, hoặc in
đá…) thì kỹ thuật in ấn tiền giấy là sự phối hợp của nhiều phƣơng pháp in, trong đó
mỗi phƣơng pháp đem lại một vẻ đẹp khác nhau và in ra hàng vạn bản giống nhau.
Trong tờ tiền giấy thƣờng có tối thiểu 3 phƣơng pháp in ấn là in ốp-xét (in phẳng)
cho phần màu nền và mực không màu; intaglio (in lõm) cho phần màu đậm (mệnh
giá, khung trang trí) và mực biến màu; in typo (in nổi) cho phần số seri. Chính cách
150
phối hợp nhiều phƣơng pháp in này đã tạo ra sản phẩm đồ họa tiền giấy có chất
lƣợng kỹ thuật, mỹ thuật và cảm nhận nghệ thuật rất khác biệt.
3.4.4. Quy trình sáng tạo tác phẩm công phu
Bản chất của quy trình thiết kế và in ấn tiền giấy là quy trình sáng tạo tác
phẩm. Trong sáng tác mỹ thuật, ngƣời họa sĩ cần trải qua các giai đoạn nhƣ tri giác,
tƣởng tƣợng và thực hành sáng tạo thì trong tiền giấy, việc thiết kế in ấn đƣợc thực
hiện với 4 giai đoạn chính: (1) Giai đoạn xây dựng đề án;(2) Giai đoạn thiết kế mẫu;
(3) Giai đoạn chế bản; (4) Giai đoạn in ấn sản xuất. Trong đó, vai trò ngƣời họa sĩ
có trong tất cả các giai đoạn nhƣng quan trọng nhất là giai đoạn thiết kế mẫu. Bằng
ngôn ngữ hình tƣợng, họa sĩ thiết kế có thể lồng vào đó các suy nghĩ, tình cảm của
riêng mình. Chính hình tƣợng nghệ thuật đã khiến cho các mẫu tiền mang đậm vẻ
đẹp của nghệ thuật và trở thành sản phẩm mỹ thuật đúng nghĩa.
Trong sáng tạo tác phẩm, giai đoạn tạo mẫu trong tác phẩm đồ họa đóng vai
trò cơ bản, xác lập nên hình thức của tác phẩm. Nếu trong đồ họa độc lập nhƣ tranh
khắc gỗ, in đá ngƣời họa sĩ đồng thời là ngƣời trực tiếp chế bản và in ấn tạo nên tác
phẩm đồ họa thì trong sáng tạo tiền giấy ngƣời họa sĩ tham gia trực tiếp khâu vẽ
trên giấy (nhằm tạo bản mẫu), chế bản và in ấn do 1 nhóm khác thực hiện.
STT
Công đoạn sáng tạo
1 Phác thảo
2 Chế bản nét
3 Chế bản in
4 Bản in
5 In bản mẫu
Đồ họa độc lập/giá vẽ Họa sĩ. Kích thƣớc phác thảo bằng bản in Họa sĩ. Kích thƣớc phác thảo bằng bản in Họa sĩ. Khắc trực tiếp hoặc ăn mòn trên bản. Sản phẩm là bản in cho 1 phƣơng pháp in Họa sĩ thực hiện trực tiếp in với thiết bị in đơn giản.
Đồ họa tiền giấy Họa sĩ. Kích thƣớc phác thảo to hơn hoặc bằng bản in Họa sĩ. Bản chế bản đƣợc phóng to nhiều lần Họa sĩ phối hợp với nhóm làm việc nhiều ngƣời. Qua nhiều công đoạn kỹ thuật. Sản phẩm là nhiều bản in cho nhiều phƣơng pháp in Công nhân in bằng thiết bị hiện đại, nhiều phƣơng pháp in ấn khác nhau. Họa sĩ giám sát đúng với phác thảo.
Bảng 3.2: So sánh các công đoạn sáng tạo tác phẩm đồ họa và tiền giấy
151
Họa sĩ Mai Văn Hiến, ngƣời từng tham gia vẽ hệ thống tiền năm 1946 viết
lại trong cuốn “40 mùa sen nở” nhƣ sau: “Vẽ giấy bạc, hồi ấy tất cả mọi ngƣời đều
phải làm bằng tay với dụng cụ thô sơ nhƣ cái bút chì, hòn tẩy, bút sắt, bút lông, mực
nho, cái thƣớc kẻ, cái com-pa…Mẫu giấy bạc phải vẽ to ít nhất bằng 4 lần tờ bạc
thật thì khi chụp thu nhỏ bằng cỡ thật, nét vẽ mới tinh vi” [35, tr.142]. Căn cứ vào
các bản in và nội dung của hồi ký mà họa sĩ Mai Văn Hiến, phân tích về chất lƣợng
bản in, so sánh với một số thông tin về phƣơng pháp in, cơ sở in thời đó và sản
phẩm in ấn cuối cùng, ta có thể tạm kết luận hệ thống tiền năm 1946 đƣợc thiết kế
chủ yếu bằng các công cụ thô sơ và đƣợc vẽ to hơn mẫu thật với phƣơng pháp in
ốp-xét [35, tr.145] hoặc in litho [22,tr.151], hoặc bằng bản chì đúc (in ti pô).
Trong công đoạn chế bản này, từng chi tiết sẽ đƣợc chỉnh lý, trau chuốt lại
theo tinh thần “tối ƣu hóa” nhƣ lý thuyết thiết kế. Những đƣờng nét, chi tiết ở phác
thảo chỉ mang tính gợi thì ở công đoạn này sẽ đƣợc thiết kế đúng theo tiêu chuẩn
của thiết kế tiền giấy, đảm bảo tính chống giả và phù hợp với từng công nghệ in ấn
chế tạo. Các chi tiết đƣợc phóng lên tới 9 lần (mỗi cạnh nhân 3 lần) và chỉnh lý từng
đƣờng nét bằng thủ công, sau đó lại đƣợc quét (scan) độ phân giải cao rồi tiếp tục
chỉnh lý trên máy tính với phần mềm đồ họa chuyên dụng. Đối với các bản in dành
cho in ốp-xét, công nghệ chế bản mới cho phép công đoạn này tạo ra film âm bản
với nhiều hình (mỗi hình là một tờ tiền) với độ trùng khớp, chính xác cao giữa các
bản in. Đối với các bản in dành cho phƣơng pháp in lõm (intaglio), công nghệ ăn
mòn polymer cho phép tạo thành từng bản lớn (mang nhiều hình trên 1 bản).
Cũng nhƣ trong đồ họa làm tranh khắc, công đoạn chế bản là một trong
những công đoạn quan trọng hàng đầu để tạo thành một mẫu chuẩn có chất lƣợng
cao. Ở công đoạn này, hầu hết các giải pháp kỹ thuật chuẩn bị cho khâu in ấn đều
đƣợc thực hiện. Lúc này các bản in đã sẵn sàng cho việc in thử trên thiết bị đặc biệt
để kiểm tra chất lƣợng chế bản và tạo thành bản mẫu (Cromalin). Sau khi mẫu in
thử đơn hình cromalin (in thử đơn hình theo mẫu thiết kế chuẩn cho những mẫu tiền
giấy) đƣợc cấp có thẩm quyền phê duyệt, ngƣời ta mới thực hiện in thử đa hình (có
thể sử dụng cùng phƣơng pháp in này hoặc lắp các bản offets lên máy in offset
152
(Super Offset simultal) và bản in lõm lên máy in lõm (Super Orlop intaglio) để thực
hiện in thử với giấy thật, kích thƣớc đúng nhƣ sản xuất số lƣợng lớn.
Kết quả cuối cùng của công đoạn này là tạo đƣợc mẫu chuẩn, với đầy đủ các
yếu tố chống giả và kỹ thuật in nhƣ sản xuất đại trà. Nhƣ vậy, so sánh với Quy chế
về tổ chức quản lý in đúc tiền Việt Nam đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc ban hành thì
công việc này tƣơng đƣơng với quy định trong điều 7,8,9 Mục 2 Chế bản bản in,
khuôn đúc của Qui chế này [79, tr.4]. Vai trò của họa sĩ ở đây là tối ƣu hóa về mặt
kỹ thuật (chế bản, in ấn) để tạo đƣợc tính thẩm mỹ cao nhất cho tờ bạc. Xét ở khía
cạnh sáng tác tác phẩm, giai đoạn chế bản có nhiều điểm giống nhƣ họa sĩ vẽ sơn
mài, ngồi vẽ từng nét bằng sơn ta, có độ nổi lớn (còn gọi là đi nét cao), rồi phủ màu
đi để chuẩn bị cho công đoạn cuối là mài.
Tiểu kết
Ở góc nhìn của nghệ thuật, tiền giấy Việt Nam có bản chất là nghệ thuật
trang trí với việc sử dụng nhuần nhuyễn hoa văn dân tộc kết hợp hoa văn lƣới, hình
tƣợng con ngƣời cùng phong cảnh thiên nhiên. Ngoài yếu tố làm đẹp, nghệ thuật
trang trí trên tiền giấy còn mang tính tƣợng trƣng cao. Bằng ngôn ngữ đồ họa nét và
cách sử dụng màu sắc đặc trƣng với sự xuất hiện của các biểu tƣợng quốc gia, tiền
giấy Việt Nam đã tạo nên dáng vẻ đặc sắc mà không sản phẩm đồ họa khác nào có
đƣợc. Khác với các nƣớc khác, thƣờng dùng chân dung của nhiều nhân vật và chân
dung đƣợc thể hiện với góc ¾, tiền giấy Việt Nam chỉ sử dụng duy nhất Chân dung
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tất cả các bộ tiền từ 1946 tới nay và thƣờng đƣợc sử
dụng dƣới góc độ nhìn chính diện. Các thể hiện nét cho in lõm chân dung Chủ tịch
Hồ Chí Minh là điểm nhấn cho kỹ thuật in lõm của tiền giấy Việt Nam. Nó vừa
mang tính nghệ thuật, vừa mang tính kỹ thuật và bảo an cao cấp.
Quá trình tạo nên bản mẫu của tiền giấy cũng là quá trình sáng tạo tác phẩm
đồ họa, cùng với các yếu tố mỹ thuật, nghệ thuật khắc và in ấn của tiền giấy cũng
rất đặc biệt với sự tham gia của nhiều phƣơng pháp in, chế bản in lõm phối hợp vẽ
tay thủ công và công nghệ hiện đại nhất. Cùng với biến chuyển của thời đại, tiền
giấy Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến về hình thức, thẩm mỹ và phƣơng pháp
153
sáng tác cũng nhƣ kỹ thuật in ấn. Dƣới góc nhìn mỹ thuật, bản thân tờ tiền là sản
phẩm của nghệ thuật đồ họa in ấn với chất lƣợng cao và số lƣợng lớn. Mỗi tờ tiền
giấy là một tác phẩm mỹ thuật với hình tƣợng nghệ thuật và thủ pháp của nghệ thuật
trang trí cùng với các yếu tố nhƣ bố cục, mảng miếng, màu sắc, đậm nhạt, đƣờng
nét, nhịp điệu…
Tiền giấy Việt Nam có mối liên hệ chung với mỹ thuật Việt Nam, các họa sĩ
thiết kế mẫu tiền cũng đồng thời là họa sĩ sáng tác mỹ thuật. Tiền giấy có chung đề
tài với mỹ thuật Việt Nam. Đƣợc phối hợp ngôn ngữ trang trí và ngôn ngữ tạo hình
(ở hình ảnh chủ đề), tiền giấy Việt Nam có phong cách trang trí đặc sắc. Cùng với
việc ứng dụng kỹ thuật in hiện đại và cách tạo mẫu bài bản, mỹ thuật trên tiền giấy
đóng góp vào sự phong phú, đa dạng của mỹ thuật Việt Nam.
Chƣơng 3 giải quyết các vấn đề về đặc trƣng nghệ thuật đồ họa tiền giấy Việt
Nam, phƣơng thức sáng tạo và sự chuyển biến trong phong cách, kỹ thuật sáng tác
đồ họa tiền giấy Việt Nam.
154
KẾT LUẬN
1. Trong điều kiện còn thiếu vắng các nghiên cứu liên quan tới giá trị thẩm
mỹ của tiền giấy Việt Nam, đề tài Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam giai đoạn 1946
- 2006, đƣợc tiến hành nghiên cứu từ các giả thuyết:
- Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam là dạng đồ họa đặc biệt. Tiền giấy Việt
Nam có giá trị mỹ thuật thuật đặc sắc.
- Mỹ thuật trên giấy Việt Nam có giá trị nghệ thuật đặc sắc, nó là sản phẩm
kết hợp giá trị văn hóa, mỹ thuật, trang trí truyền thống cùng với công nghệ hiện đại
và các yếu tố đặc trƣng cho ngôn ngữ thiết kế tiền giấy.
- Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam đóng góp phần đặc sắc vào tổng thể lịch
sử mỹ thuật Việt Nam, bởi nghệ thuật trang trí, nghệ thuật sử dụng đồ họa nét và kỹ
thuật in ấn thể hiện.
Để giải quyết các vấn đề đƣợc đặt ra, luận án có 3 chƣơng. Chƣơng 1, tổng
quan các vấn đề liên quan tới đề tài và cách tiếp cận tiền giấy nhƣ thực thể mỹ
thuật; chƣơng 2 nghiên cứu tiền giấy với các yếu tố mỹ thuật cấu thành nên mỹ
thuật trên tiền giấy; chƣơng 3 nghiên cứu bản chất nghệ thuật trang trí và ngôn ngữ
dùng nét cũng nhƣ những biến đổi trong phong cách và đóng góp của mỹ thuật trên
tiền giấy vào lịch sử mỹ thuật Việt Nam.
Cơ sở để nghiên cứu tiền giấy với góc độ nghệ thuật, NCS sử dụng các quan
điểm về loại hình nghệ thuật, các quan điểm về đặc thù của nghệ thuật đồ họa và cách
thể hiện in ấn cũng nhƣ quan điểm về nghệ thuật thiết kế tiền giấy của để chứng minh
rằng tiền giấy là sản phẩm của ngành đồ họa. Đối chiếu thực tiễn với các quan điểm
lý thuyết, NCS xác định mỹ thuật trên tiền giấy là nghệ thuật đồ họa đặc biệt, kết hợp
hài hòa yếu tố thẩm mỹ, bản sắc văn hóa và kỹ thuật in ấn, chống giả.
2. Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam đƣợc tạo thành bởi 3 yếu tố chính là hoa
văn họa tiết trang trí, hình ảnh chủ đề và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong
hoa văn họa tiết trang trí, các hoa văn dân tộc đƣợc ứng dụng hài hòa cùng hoa văn
lƣới đặc trƣng và đồ họa thiết kế chữ và các biểu tƣợng quốc gia tạo thành tổng thể
các họa tiết cơ bản của tiền giấy Việt Nam. Những chủ đề hình ảnh trên tiền giấy
155
luôn bám sát vào thực tiễn cuộc sống nhằm ca ngợi vẻ đẹp của phong cảnh và con
ngƣời Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Cách thể hiện hình ảnh và chân
dung trên tiền giấy Việt Nam mang đậm phong cách đồ họa. Trong nghệ thuật sử
dụng hoa văn trang trí, bộ tiền phát hành 1959 đƣợc đánh giá là bộ tiền đẹp nhất, tạo
đƣợc nhiều đồ án hoa văn phong phú, phối hợp nhuần nhuyễn hoa văn dân tộc và
hoa văn lƣới và trở thành tiêu chuẩn thẩm mỹ tiền giấy cho nhiều bộ tiền sau này.
Cách thể hiện chân dung trong tiền giấy Việt Nam mang nhiều sự khác biệt
so với tiền giấy của các nƣớc khác trên thế giới. Nếu trên tiền giấy thế giới sử dụng
hình ảnh của nhiều nhân vật lịch sử thì tiền giấy Việt Nam chỉ sử dụng chân dung
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu chân dung trong tiền giấy thế giới thƣờng ở góc nhìn ¾
thì chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh rất hay sử dụng góc độ chính diện. Bộ tiền
polymer hiện nay có tất cả các mẫu sử dụng chân dung với góc nhìn chính diện. Với
cách tạo hình bằng nét và đƣợc đan, chuyển để tạo khối, ánh sáng hay đậm nhạt,
chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tiền giấy mang hình thức hoàn toàn đặc biệt
trong ngôn ngữ tạo hình so với các tranh khắc, đồ họa in ấn khác.
3. Đặc trƣng ngôn ngữ đồ họa của mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam là nét.
Khác với các đồ họa in ấn và đồ họa giá vẽ ở Việt Nam (có dùng nét và mảng hoặc
chuyển tờ- ram), mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam có ngôn ngữ là nét, thể hiện bằng
in lõm hoặc in ốp-xét. Nét dùng để định hình, tả không gian, tả chất tả khối nhƣ hội
họa, đồng thời nét thể hiện hoa văn trang trí, dùng làm hoa văn lƣới trang trí nền với
cách dùng màu độc đáo. Màu sắc tiền giấy không thực hiện theo phƣơng pháp in tờ-
ram phối 4 màu mà dùng phƣơng pháp in đơn màu và dùng nhiều màu in cho 1 bản.
Trong kỹ thuật in ấn tiền giấy Việt Nam, ngƣời ta sử dụng song song 3
phƣơng pháp in là in lõm, in phẳng và in nổi. Trong đó, in lõm đƣợc coi là phƣơng
pháp in điển hình, đặc trƣng nhất của mỹ thuật trên tiền giấy. Về mặt phát hành, tiền
giấy là loại đồ họa có số lƣợng bản in nhiều nhất, đƣợc sử dụng trên toàn lãnh thổ
Việt Nam, đƣợc nhiều ngƣời sử dụng với mục đích tiêu dùng hoặc cất giữ. Khi hết
thời hạn sử dụng, tiền giấy còn đƣợc lƣu trữ nhƣ hiện vật lịch sử hoặc tác phẩm
nghệ thuật với kỹ thuật in ấn mang dấu tích về công nghệ của một thời kỳ lịch sử.
156
Hiện nay, các mẫu tiền ở Việt Nam đều do các họa sĩ (chứ không phải kỹ sƣ
hoặc kỹ thuật viên) thực hiện. Bản mẫu của tiền giấy là kết quả của sự phối hợp
giữa sự khéo léo của họa sĩ và công nghệ in ấn chế bản hiện đại. Các hoạ sĩ thiết kế
tiền giấy là ngƣời đƣợc đào tạo cơ bản về mỹ thuật tại các trƣờng mỹ thuật trong
nƣớc và học thêm ở nƣớc ngoài. Cùng với việc thiết kế tiền giấy, các họa sĩ sáng tác
nhiều tác phẩm hội họa, tranh khắc, đồ họa in ấn hoặc thiết kế đồ họa.
4. Về sự biến chuyển của thẩm mỹ tiền giấy Việt Nam qua các thời kỳ, nếu
hệ thống tiền Tài chính mang vẻ đẹp nhƣ tranh thì bộ tiền phát hành 1951 mang
dáng dấp của bộ tiền nƣớc ngoài với dày đặc hoa văn lƣới. Chỉ đến bộ tiền 1959
nghệ thuật trang trí tiền giấy đạt đỉnh cao của thẩm mỹ tiền giấy với phong cách
ứng dụng hoa văn dân tộc độc đáo và in lõm chuẩn mực. Bộ tiền 1978 bắt đầu có sự
phân hóa về phong cách, xu hƣớng cách tân trong sử dụng hoa văn và bố cục,
nhƣng đến bộ tiền 1985 thì phong cách tiền giấy trở nên quá đa dạng do lạm phát
thời kỳ này.
Sự bất ổn trong mỹ thuật trên tiền giấy kéo dài tới đầu thế kỷ XXI, khi bộ
tiền polymer ra đời. Về nghệ thuật trang trí, tiền polymer là bộ có cách sử dụng màu
sắc trang trí nền phong phú nhất, đƣợc bố cục ổn định theo nguyên tắc 1/3, nhƣng
vì in trên giấy polymer (là vật liệu lạ so với thẩm mỹ tiền giấy hiện có) nên cảm
nhận tiền polymer có nhiều nét thô, không tinh tế và thiếu sự sắc nét.
5. Cùng chung bối cảnh lịch sử với nền mỹ thuật Việt Nam, tiền giấy có
chung các đề tài sáng tác với mỹ thuật của cả nƣớc. Việc phối hợp ngôn ngữ nghệ
thuật trang trí bởi hoa văn họa tiết dân tộc với ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình ở
hình ảnh chủ đề và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo cho tiền giấy Việt Nam
một vẻ đẹp riêng mà không có dạng đồ họa nào ở Việt Nam có đƣợc. Cùng với việc
sử dụng phƣơng pháp in ấn tiên tiến, đƣa vào các kỹ thuật in mới và phƣơng thức
tạo mẫu đặc biệt, mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam đóng góp vào sự đa dạng, phong
phú vào nền đồ họa Việt Nam nói riêng và tổng thể nền mỹ thuật Việt Nam.
Việc nghiên cứu về mỹ thuật trên tiền giấy chính là xem xét tiền giấy với
chiều cạnh nghệ thuật. Tiền giấy là sản phẩm của nghệ thuật đồ họa đại diện cho
157
quốc gia, vừa là tác phẩm nghệ thuật đặc thù mang dấu ấn phong cách của họa sĩ và
thời đại. Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam chính là nghệ thuật kết hợp giữa nghệ
thuật trang trí mang đậm bản sắc dân tộc, nó thể hiện rõ bản sắc văn hóa của ngƣời
Việt và ngôn ngữ đồ họa của tiền giấy.
158
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hồ Trọng Minh (2016), “Nghệ thuật trang trí trên tiền giấy Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu Mỹ thuật, số 10, tr. 47-56.
2. Hồ Trọng Minh (2016), “Đặc điểm văn hóa nghệ thuật của tiền giấy Việt Nam ”,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 389, tr. 25-31.
3. Hồ Trọng Minh (2016), “Quan điểm nghiên cứu tiền giấy Việt Nam nhƣ một thực
thể mỹ thuật ”, Tạp chí Văn hóa học, Số 5 (27), tr. 79-87.
159
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Thái Dịch An (2003), Tổng hợp hoa văn rồng phượng, Giang Linh dịch, Nxb. Văn an
hóa thông tin, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Thế giới, Hà Nội. Anh
3. Nguyễn Âu (1991), “Những ngày in tiền Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp”, Âu
40 mùa sen nở, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội, tr. 157-162.
4. Trần Huy Bá (1991), “Dập tiền nhôm đầu tiên dƣới hầm nhà bát giác”, 40 mùa sen Bá
nở, Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội. tr.135-137.
5. Lại Đăng Bạch (2006), “Chủ đề các đồng tiền của nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Bạch
Cộng hòa”, Kỷ yếu hội thảo Tiền Việt Nam - Các giá trị Lịch Sử Kinh tế
và Xã hội, Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội.
6. Lê Quốc Bảo (2007), “Ranh giới về thể loại”, Tạp chí Mỹ thuật, số 9 (177), Hội Mỹ Bảo
thuật Việt Nam, Hà Nội, tr.11.
7. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam, mấy vấn đề về lý luận và thực tiễn, Nxb. Bền
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
8. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong Mỹ thuật truyền thống của người Việt, Nxb. Biền
Mỹ thuật, Hà Nội.
9. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Biền
10. Trần Lâm Biền (2003), Đồ thờ trong di tích của Người Việt, Nxb. Văn hóa thông Biền
tin, Hà Nội.
11. Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ (1975), Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam Biền
(qua các bản rập), Viện Nghệ thuật, Hà Nội. –chu
12. Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh (2011), Thế giới biểu tượng trong di sản văn hóa Biền
-t Thăng Long – Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
13. Bộ Văn hóa - Thông tin, Cục Văn hóa cơ sở (2006), 60 năm tranh cổ động Việt Nam Bộ
1945-2005, Hà Nội.
14. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014), Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc Bộ
lần thứ II (2009-2014), Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
160
15. Bruce A. Hardwick (2006), Số liệu thống kê về bạc giả trên thế giới, Bản dịch, Bruc
Hội thảo tại NHNN Việt Nam tháng 7 năm 2006, Hà Nội. e
16. Đào Cánh (1991), “Tôi yên tâm với công tác Ngân hàng”, 40 mùa sen nở, Ngân Cán
hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội, tr. 295-301. h
17. Nguyễn Du Chi (2003), Hoa văn Việt Nam, Viện Mỹ thuật, Trƣờng Đại học Mỹ Chi-
Chi-tr
thuật Việt Nam, Hà Nội. H
18. Nguyễn Du Chi (2001), Trên đường tìm về cái đẹp cha ông, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
19. Chris Barker (2011), Nghiên cứu văn hóa- lý thuyết và thực hành, Bản dịch, Chri
Nxb.Văn hóa thông tin, Hà Nội. s
20. Bùi Trang Chƣớc (1991), “Vinh dự và trách nhiệm”, 40 mùa sen nở, Ngân hàng Chư
Nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội. tr. 174-176. ớc
21. Trần Khánh Chƣơng (2012), “Họa sĩ Huỳnh Văn Thuận”, Tạp chí Mỹ thuật và Chư
nhiếp ảnh, số 6-7, tr. 19-22. ơng
22. Nguyễn Khắc Cƣ (1991), “Tổ chức in giấy bạc đầu tiên của chính quyền Cách Cư
mạng”, 40 mùa sen nở, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội, tr. 150-153.
23. Cục Phát hành và Kho quỹ (2006), “Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam và việc sử Cục
dụng công nghệ tiền Polymer”, Tiền Việt Nam – Các giá trị lịch sử và
kinh tế, Hội thảo Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, tr. 104-111.
Cường – Đ
24. Lê Việt Cƣờng, Đào Minh Tú, Ngô Quang Lƣơng, Nguyễn Mạnh Tùng (2010),
D1
Tiền Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Dũng
25. Nguyễn Ngọc Dũng (1982), “Suy nghĩ về ngôn ngữ của đồ họa hiện đại”, Tạp chí
Mỹ thuật số 4(7)1981-1(8) 1982, tr. 28-31.
26. Nguyễn Ngọc Dũng (2012), “Bàn về thuật ngữ Design”, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ D2
thuật – số 3+4 (43+44), 12/2012, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tr. 12- Dũn
D3
15. g
Dương –
Thọ
27. Trần Dƣơng, Phạm Thọ (1960), Lưu thông tiền tệ ở nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
28. Danny Reid và Neil Burnham (2002), “Sản xuất tiền Polymer” Tài liệu nghiệp vụ, Dan
Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam dịch, PolyTeQ Service, Australia. ny
161
29. Denis Huisman (1999), Mỹ học, dịch: Huyền Giang, Tái bản lần thứ 2, Nxb. Thế Deni
giới, Hà Nội. s
30. Lê Đức (1991), “Chung tấm lòng son”, 40 mùa sen nở, Ngân hàng nhà nƣớc Dz
Dzi nh
Việt Nam, Hà Nội, tr. 96-111. Đức
31. Trần Thái Đỉnh (2014), Triết học Kant, tái bản lần thứ 4, Nxb. Văn học, Hà Nội.
32. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng - Một số hướng tiếp cận lý thuyết, Hải
Nxb. Thế giới, Hà Nội.
33. Trần Ngọc Hải (1991), “Đồng tiền Nam Bộ kháng chiến”, 40 mùa sen nở, Ngân Hải
hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội, tr. 238-294.
34. Hêghen (1999), Mỹ học Hê-ghen, Phan Ngọc giới thiệu và dịch, tập 1, Nxb. Văn Hê
học, Hà Nội.
35. Mai Văn Hiến (1991), “Nhớ lại thời kỳ vẽ tờ giấy bạc đầu tiên”, 40 mùa sen nở, Hiến
Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội, tr.142-144.
36. Huỳnh Minh Hiệp (2006), “Tiền “đắp nền” của Nam Bộ trong kháng chiến Hiệp
chống Pháp”, Tiền Việt Nam – Các giá trị lịch sử và kinh tế, Hội thảo
Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, tr. 100-104.
37. Dƣơng Phú Hiệp (chủ biên), (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên Hiệp
cứu văn hóa và con người Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Trần Viết Hoàng (Chủ biên), Cung Trần Việt (2012), Tiền tệ Ngân hàng và thị Hoà
trường tài chính, tái bản lần 2, Nxb. Lao động, Hà Nội. ng
39. Đặng Đình Hòe (1991), “Kiểm soát nhà băng Đông Dƣơng và bàn việc thành lập Hòe
Ngân hàng Việt Nam”, 40 mùa sen nở, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam,
tr. 130-134.
40. Hội sƣu tầm tem TP. Hồ Chí Minh (1997), Một trăm năm tiền giấy Việt Nam, Hội
Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
41. Nguyễn Bích Huệ (1968), Đồng bạc Việt Nam và các vấn đề liên hệ, Tủ sách tiến Huệ
bộ, Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, Sài Gòn.
42. Phan Văn Hùm (1945), Tiền bạc (Khảo cứu về vấn đề tiền tệ), Tủ sách xã hội Tân Hùm
Việt, Sài Gòn.
162
43. Nguyễn Quốc Hùng, (2006), Một số sưu tập tiền cổ bằng kim loại có niên hiệu Hùn
Việt Nam và Trung Quốc được phát hiện ở Việt Nam, Đề tài cấp Bộ lĩnh g
vực Di sản văn hóa, mã số BO200528,Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch.
44. Nguyễn Quốc Hùng, Hoàng Văn Khoán (chủ biên), (2010), Sổ tay tiền cổ kim loại HÙn
Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp lưu hành ở Việt Nam từ đầu công g
nguyên tới 1975, Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
45. Đoàn Thị Mỹ Hƣơng (2014), Trí tuệ tạo hình người Việt từ hình tượng Quan Âm Hươ
nghìn mắt nghìn tay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. ng
46. Lê Văn Hƣu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên (1272-1697), Đại Việt Sử ký toàn thư, Hƣu
Viện Khoa học xã hội Việt Nam dịch, Tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr.217.
47. Nguyễn Hoàng Huy, (sƣu tầm và biên dịch) (2013), Mỹ học và phê bình nghệ thuật, Huy
Huy đ
Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
48. Đỗ Huy (1996), Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Anh Huy (2010), Lịch sử tiền tệ Việt Nam, Sơ truy và lược khảo, Nxb. Văn Huy
hóa Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh. n
50. Nguyễn Huyến (1991), “Vẽ mẫu giấy bạc 100 đ con trâu xanh”, 40 mùa sen nở, Huyế
Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội, tr. 138-141. n
51. Jean Chevalier, Alain Gheerbran chủ biên (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế Jean
giới, dịch: Lƣu Huy Khánh – Ninh Viết Giao – Phạm Vinh Cƣ, Nxb. Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
52. Joe Cribb (1991), Tiền – Từ vỏ ốc tới tấm thẻ, Thu Hiền, Việt Hoa dịch, Tập 1, Nxb. Joe
Kim Đồng, Hà Nội.
53. John Heskett (2011), Thiết kế, Vũ Loan, Nguyễn Thanh Việt dịch, Nxb. Tri John
thức, Hà Nội.
54. Kandinxki (2014), Về cái tinh thần trong nghệ thuật và đặc biệt trong hội họa, Kan
Bản dịch, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
55. Katherine Ball, Những mô típ trang trí trong nền nghệ thuật Đông Phương, tƣ Kath
163
Khang
liệu dịch của Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
56. Đỗ Văn Khang (2011), Nghệ thuật học, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
57. Đan Khánh (1982), “An- Brêch Đuy- Rơ (1471-1528) – Nhà đồ họa vĩ đại”, Tạp chí Khá
nh Mỹ thuật, số 4 (7)1981-1(8), tr. 51-55.
58. Thiên Kim (2009), Sưu tập tiền giấy tiêu biểu Việt Nam và Quốc tế, Nxb. Từ điển Kim
Bách khoa, Hà Nội.
59. L.Cadière (2011), Hoa văn Cung đình Huế, Ƣng Tiếu-Công tằng tôn nữ Lan L.Ca
Hƣơng biên dịch, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. dière
60. Trần Tiểu Lâm, Phạm Thị Chỉnh (2008), Giáo trình Mỹ thuật học, Nxb. Đại học Lâm
sƣ phạm, Hà Nội.
61. Nguyễn Duy Lẫm (1982), “Đồ họa- Những đặc trƣng về ngôn ngữ tạo hình”, Tạp Lẫm
chí Mỹ thuật số 4 (7)1981-1(8), tr. 32-35.
62. Lê Hoài Linh (2002), “Đồ họa ứng dụng trƣớc thiên niên kỷ mới – Một cơ hội Linh
phát triển mới”, Kỷ yếu hội thảo Đồ họa ứng dụng, Viện Mỹ thuật,
Trƣờng Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội, tr. 115 – 125.
63. Lê Thanh Lộc (1998), Từ điển Mỹ thuật, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. Lộc
64. Vƣơng Hoằng Lực (2002), Nguyên lý hội họa đen trắng, Võ Mai Lý biên dịch, Lực
Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
65. Mạc Chấn Lƣơng (2009), Tạc tượng Phật và kiến trúc chùa, Kim Dân biên dịch, Lươ
Luyện
Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. ng
66. Đàm Luyện (2008), Giáo trình Bố cục, Tập 1, Nxb. Đại học sƣ phạm, Hà Nội.
M.Cag Michael
67. M. Cagan (2004), Hình thái của Nghệ thuật, Phan Ngọc dịch, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.
68. Michael Levey (2007), Lịch sử nghệ thuật Phương Tây, bản dịch, Nxb. Mỹ
thuật, Hà Nội.
69. Trần Tuấn Nam (2014), Bố cục theo chủ đề trong trang trí tiền giấy Việt Nam từ Nam
1946 đến 2006, Luận văn thạc sỹ Mỹ thuật, chuyên ngành Mỹ thuật tạo
hình, Trƣờng Đại học mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
70. Ngân hàng Nhà Nƣớc Việt Nam (2011), 60 năm Ngân hàng Việt Nam (tư liệu và Ngâ
hình ảnh), Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội. n
164
71. Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam (2006), Kỷ yếu hội thảo Tiền Việt Nam - Các giá trị Ngâ
Lịch sử, Kinh tế và Xã hội, Hà Nội. n
72. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, Nxb. Ngâ
Ngân
Giáo dục, Hà Nội. n
73. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (1991), 40 mùa sen nở, Hồi ký về công tác Ngân
hàng, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội.
74. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam – Viện Nghiên cứu kinh tế tiền tệ tín dụng và ngân Ngâ
hàng (1982), Những năm tháng thử thách trong thời kỳ kháng chiến chống n
Pháp 1945- 1954, Hồi ký về công tác Ngân hàng.
75. Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam, Cục Phát hành và kho quỹ (1990), Tiền Việt Ngâ
Nam, Hà Nội. n
76. Ngân hàng Nhà Nƣớc Việt Nam (2006), Thông báo Về một số thông tin liên quan Ngâ
tới tiền Polymer- số 8684/TB-NHNN, Hà Nội. n
77. Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam – Cục Phát hành Kho Quỹ (2010), Tiền Việt Nam Ngâ
và cách nhận biết (Poster phục vụ thông tin đại chúng), Ngân hàng Nhà n
nƣớc Việt Nam, Hà Nội.
78. Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam (2014), Tiền Việt Nam và cách nhận biết, Ngân Ngâ
hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội. n
79. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2014), Thông tư số 37/2014/TỜ BẠC- NHNN, Ngâ
Quy định việc thiết kế mẫu tiền, chế bản và quản lý in, đúc tiền Việt Nam. n
80. Trần Văn Nghinh (1991), “Tổ chức in giấy bạc ở Việt Bắc”, 40 mùa sen nở, Ngân Nghi
hàng Nhà nƣớc Việt Nam, tr. 154-156. nh
81. Huỳnh Trà Ngộ (2003), Đại cương về Kỹ thuật in, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, TP. Ngộ
Ngọc b
Hồ Chí Minh.
82. Nguyễn Bách Ngọc (2000), Écgônômi trong thiết kế và sản xuất, Nxb. Giáo
Ngọc p
dục, Hà Nội.
Nhà
83. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.
84. Nhà xuất bản Tiến Bộ Maxcơva (1986), Từ điển Triết học, Nxb. Tiến Bộ và Sự
thật dịch, Liên Xô.
165
85. Vũ Đình Nhâm (2002), “Đề cƣơng hội thảo Đồ họa ứng dụng Việt Nam”, Kỷ yếu Nhâ
hội thảo Đồ họa ứng dụng, Viện Mỹ thuật, Trƣờng Đại học Mỹ thuật Việt m
Nam, Hà Nội, tr. 8-9.
86. Nhiều tác giả (1998), Một thời không quên, tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế. Nhiề
87. Nhiều tác giả (1998), Một thời không quên, tập 2, Nxb. Thuận Hóa, Huế. Nhiề
88. Nhiều tác giả (1973), Về tính dân tộc trong nghệ thuật tạo hình, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. Nhiề
89. Đỗ Văn Ninh (1992), Tiền cổ Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Ninh
90. Ốp-Xi-An-Nhi- Cốp, M.F. (2001), Mỹ học cơ bản và nâng cao, Nxb. Văn hóa thông Ốp
tin, Hà Nội.
91. Lê Phả (1991), “Con đƣờng dẫn tôi đến vẽ giấy bạc ở chiến khu Việt Bắc”, 40 mùa Phả
sen nở, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Hà Nội. tr.145-149
92. Hoàng Minh Phúc, (2015) Đồ họa in khắc gỗ hiện đại Việt Nam, Nxb. Thế giới, Phúc
Hà Nội.
93. Nguyễn Nghĩa Phƣơng (2013), “Albrecht Durer ngƣời đƣa tranh khắc lên đỉnh cao Phư
nghệ thuật”, Đặc san Nghiên cứu Mỹ thuật, số 2 (42). ơng
94. Nguyễn Nghĩa Phƣơng (2013), “Họa sĩ Hans Baldung Grien, hiện tƣợng độc đáo Phư
trong nghệ thuật tranh in Đức thế kỷ XVI”, Đặc san Nghiên cứu Mỹ thuật, ơng
Quân
số 3 (47).
95. Nguyễn Quân (1986), Tiếng nói của Hình và Sắc, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
96. Nguyễn Quân (2004) “Con mắt nhìn cái đẹp”, Tạp chí Mỹ thuật và nhiếp ảnh số Quâ
1+2/2013, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và triển lãm, Bộ Văn hóa thể thao và du n
lịch, Hà Nội, tr. 61-66.
97. Nguyễn Quân , Phan Cẩm Thƣợng (1989), Mỹ thuật của người Việt, Nxb. Mỹ thuật, Quâ
Quốc
Hà Nội. n
Quốc
98. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2013), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
99. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.
100. Radugin, A.A, (2002), Từ điển bách khoa Văn hóa học, Vũ Đình Phòng dịch, Viện Radu
nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội. gin
101. Sicpa Company Ltd.(2002), Nghiên cứu kỹ thuật về các tờ bạc Việt Nam, tài liệu Sicp
166
nghiệp vụ đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam dịch, Hội thảo năm 2002. a
102. Thng Tien Tat (2015), Lịch sử tiền giấy Việt Nam: Những câu chuyện chưa kể, Tat
Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, Hà Nội.
103. Bùi Quang Thắng (chủ biên), (2008), 30 thuật ngữ văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ Thắn
thuật Việt Nam, Hà Nội. g
104. Lê Bá Thảo (1991), “Ba lần đổi tiền”, 40 mùa sen nở, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Thảo
Nam, Hà Nội. tr.508-513.
105. Hồ Văn Thế (1991), “Giấy bạc tài chính từ Việt Bắc tới Cà Mau”, 40 mùa sen nở, Thế
Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, tr. 163-173.
106. Lục Đức Thuận và Võ Quốc Ky (2009), Tiền cổ Việt Nam,Nxb. Giáo dục, Hà Nội. Thuận
107. Lê Huy Tiếp (2002), “Một số khái niệm về các thể loại của nghệ thuật đồ họa”, Tiếp
Kỷ yếu hội thảo Đồ họa ứng dụng, Viện Mỹ thuật, Trƣờng Đại học Mỹ thuật
Việt Nam, Hà Nội, tr. 79-82.
108. Phan Văn Tính (Chủ biên), Lê Xuân Nghĩa, Nguyễn Anh Thƣ, Nguyễn Chí Tính
Thành, Đào Tâm Chi (2008), Kĩ thuật nhận biết tiền thật tiền giả, Nxb. Tài
Chính, Hà Nội.
109. Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình Mỹ thuật, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. Trân
110. Thế Trừng (1991), “Những kiện tiền đầu tiên ở trạm tiền phƣơng biên giới ”, 40 Trừn
mùa sen nở, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, tr. 199-202. g
111. Trƣờng Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1992), Giáo trình bố cục, Tài liệu dùng trong Trƣờ
Trƣờng Đại học Mỹ thuật. ng
112. Trƣờng Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1982), Một số vấn đề Mỹ thuật, Nxb. Văn Trườ
hóa, Hà Nội. ng
113. Trƣờng Đại học Mỹ thuật Việt Nam (2002), Kỷ yếu hội thảo Đồ họa ứng dụng, Trườ
Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. ng
114. Trƣờng Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Tiền Việt Nam – xưa Trườ
và nay, Nxb. Thống kê, Hà Nội. ng n
115. Nguyễn Thị Tố Uyên (2013), Nghệ thuật thiết kế mẫu tiền giấy Ngân hàng Nhà Uyên
nước Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Mỹ thuật, chuyên ngành Lý luận và Lịch
167
sử mỹ thuật ứng dụng, Trƣờng Đại học Mỹ thuật công nghiệp, Hà Nội.
116. Phạm Phú Uynh (2002), “Mối quan hệ giữa đồ họa, tạo dáng và design công Uyn
nghiệp”, Kỷ yếu hội thảo Đồ họa ứng dụng, Viện Mỹ thuật, Trƣờng Đại học h
Mỹ thuật Việt Nam, tr. 97 – 106.
117. Phạm Phú Uynh (1982), “Nên quan niệm nhƣ thế nào về đồ họa”, Tạp chí Mỹ Uyn
thuật số 4(7)1981-1(8) 1982, Hội mỹ thuật Việt Nam, tr. 39-42. h
118. Lê Huy Văn (2012), Cơ sở phương pháp luận Design, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. Văn
119. Lê Huy Văn (2012), “Nguyên lý thị giác- Những chủ định trong đào tạo thiết Văn
kế đồ họa và design”, Nội san Mỹ thuật công nghiệp, Trƣờng Đại học Mỹ
thuật công nghiệp Hà nội, tr. 46-47.
120. Lê Huy Văn, Trần Văn Bình (2003), Lịch sử Design, Nxb. Xây dựng, Hà Nội. Văn
121. Viện Mỹ thuật (1986), Mỹ thuật ứng dụng, Kỷ yếu Hội nghị khoa học lần thứ Viện
nhất, Hà Nội.
122. Viện Mỹ thuật (1978), Mỹ thuật đời Lê Sơ, Tài liệu của Viện Mỹ thuật, Hà Nội. Viện
123. Viện Mỹ thuật (1973), Mỹ thuật đời Lý, Tài liệu của Viện Mỹ thuật, Hà Nội. Viện
124. Viện Mỹ thuật (1977), Mỹ thuật đời Trần, Tài liệu của Viện Mỹ thuật, Hà Nội. Viện
125. Viện Mỹ thuật (1993), Mỹ thuật đời Mạc, Tài liệu của Viện Mỹ thuật, Hà Nội. Viện
126. Viện Văn hóa – Thông tin (2007), Văn hóa học- Những phương pháp nghiên Viện
cứu, Hà Nội.
127. I.X.Vƣgôtxki (1995), Tâm lý học nghệ thuật, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Vư
128. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, tái bản lần thứ 14, Vượ
Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. ng
Tiếng Anh
129. Alan and Isabella Livingston (2012), Dictionary of Graphic Design and Designer,
(Từ điển thiết kế đồ họa và các nhà thiết kế), Third Edition, Themes and
Hudson world of art, London, United Kingdom.
130. Alan M.Stahl (2011), Money on Paper - Bank note and related graphic art, (Tiền
giấy ngân hàng và nghệ thuật đồ họa), Princeton University Library, USA.
131. Ann D’Arcy Hughes and Hebe Vernon – Morris (2008), The Printmaking Bible,
168
(Cẩm nang đồ họa in ấn), Chronicle Books, San Francisco, USA.
132. Catherine Eagleton anh Jonathan Williams (2007), Money – a history, (Tiền – lịch
sử), Second Edition, Firefly Books, London, United Kingdom.
133. David L.Cayton, Eleven Edition (2009), Art Fundamental Theory and Practice,
(Nguyên lý nghệ thuật- Lý thuyết và thực hành), Mc Grow Hill, USA.
134. David Standish (2000), The Art of Money - The History and Design of Paper
currency from around the world,(Nghệ thuật tiền giấy- Lịch sử và thiết kế
tiền giấy toàn thế giới), Chronicle Books, San Francisco, California, USA.
135. European Monetary Institute (1996), Annex Part 1, Design brief for the design of
a series of Euro Banknotes, (Tiêu chí thiết kế cho hệ thống tiền Euro).
136. Geoge Cuhaj (2013), Standard catalogue of World Paper Money,19th edition,
Modern Issues 1961- present, (Hệ thống tiền giấy trên thế giới, phát hành lần
thứ 19, từ 1961- nay), Krause Publications, USA.
137. Hans de Heij (2012), Designing Banknote Identity – DNB Occasional
Studies,(Nhận diện thiết kế tiền giấy – Nghiên cứu của DNB) Vol 10 (3)
2012, De Netherland Bank.
138. Joe Cribb (2000), Money- Discover the fascinating story of money – from silver
ingots to modern credit card, (Khám phá những câu chuyện thú vị về tiền
tệ - Từ thỏi bạc tới thẻ thanh toán điện tử hiện đại), Dorling Kindersley
and Eyewithness Books, British Kingdom.
139. Jonathan Raimes (2011), Restro graphic design essentials, (Yếu tố cơ bản của
thiết kế đồ họa), The Ilex Press Limited, United Kingdom.
140. Kirham – Weber (2013), History of Design- Decorative arts and material
culture, 1400-2000, (Lịch sử thiết kế - Nghệ thuật trang trí và văn hóa vật
chất, 1400-2000), Editors The Bard Graduate Centre, New York, USA.
Nxb. The Bard Graduate Centre, New York, Hoa Kỳ.
141. Monetary Reasearch Institute (2005), RMI Banker’ Guide to Foreign Currency, (Chỉ dẫn tiền tệ nước ngoài – Ngân hàng RMI) 50th Edition, 1/2004,
Houston, USA.
169
142. OrellFussli Security Printing Ltd. (2006),“Uniqueness by Security
Technologies and Design”, (Sự độc đáo nhờ kỹ thuật bảo an và thiết kế)
Orell Fussli Security Printing Ltd, Suisse.
143. Page One (2008), Color in graphics, (Màu sắc trong đồ họa), Page One,
Singapore.
144. Philip B.Meggs (1998), A History of Graphic Design, (Lịch sử thiết kế đồ họa)
John Willey and Sons, Inc, New York, USA.
145. Richard D. Warner and Richard M. Adams II (2005), Introduction to security
printing, (Giới thiệu về in ấn bảo an), PIA/GAT Press, Pittsburgh, USA.
146. Rob Carter (2002), Digital Color and Type, (Màu sắc và kiểu chữ kỹ thuật số),
Roto Vision SA, United Kingdom.
147. Stephen Bayley and Terence Conran (2007), The A-Z of design, (Thiết kế từ A
đến Z), Conran Octopus Ltd.
148. Tina Sutton and Bride M.Whelan (2003), The complete color harmony,(Tổng tập
về phối hợp màu sắc), Page One, Singapore.
Tiếng Pháp
149. Banque de France (2000), L’art du billet - Billets de la Banque de France 1800-
2000, (Nghệ thuật tiền giấy Ngân hàng Pháp 1800-2000), Dossier de presse,
Musée Carnavalet - Histoire de Paris, Paris, France.
150. Duc (1994), L’art de la composition et du cadrage peinture, photographie, band
dessinné et publicité,(Nghệ thuật bố cục và khuôn hình trong hội họa, nhiếp
ảnh, hoạt hình và quảng cáo), Fleurus Idees, France.
151. Maurice Kolsky, Maurice Muszynsky (1996), Les billets de la Banque de
L’Indochine ( Tiền giấy Ngân hàng Đông Dương ), Édition Victor Gadoury,
Monaco.
152. Michel Daspre (1990), Trois Siecles de Billets Francais, (Ba thế kỷ tiền giấy
Pháp), Édition Hervas, Paris, France.
170
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
MỸ THUẬT TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1946 - 2006
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội - 2017
171
MỤC LỤC
176 Bảng danh mục phụ lục chƣơng 1
1.1. Tổng hợp thuật ngữ chuyên ngành tiền giấy Việt Nam………………… 176
1.2. Bảng tổng hợp hình ảnh trên Tiền Tài chính (1945-1951)……………… 179
1.3. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên Tiền Tài chính (1945-1951)……. 180
1.4. Bảng tổng hợp hình ảnh trên Tiền Nam Bộ (1945-1951)……………….. 182
1.5. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên Tiền Nam Bộ (1945-1951)…….. 183
1.6. Bảng tổng hợp hình ảnh trên Tín phiếu liên khu V……………………… 185
1.7. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên Tín phiếu liên khu V…………… 186
1.8. Bảng tổng hợp hình ảnh trên trên tiền giấy Việt Nam (1951-1958)…….. 187
1.9. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên tiền giấy Việt Nam (1951-1958)….. 188
1.10. Bảng tổng hợp hình ảnh trên tiền giấy Việt Nam (1959-1975)………. 189
1.11. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên tiền giấy Việt Nam (1959-1975)… 190
1.12. Bảng tổng hợp hình ảnh trên tiền giấy UB TƢMTDTGP MNVN……. 191
1.13. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên tiền giấy UB TƢMTDTGP
MNVN…………………………………………………………………… 192
1.14. Bảng tổng hợp hình ảnh trên tiền giấy phát hành vào miền Nam (1975) 193
1.15. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên tiền giấy phát hành vào miền
Nam (1975)……………………………………………………………. 194
1.16. Bảng tổng hợp hình ảnh trên tiền giấy Việt Nam (1978 – 1985)……… 195
1.17. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên tiền giấy Việt Nam (1978 -1985)..… 196
1.18. Bảng tổng hợp hình ảnh trên tiền giấy Việt Nam (1985 – 1987)……… 198
1.19. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên tiền giấy Việt Nam (1985 – 1987)… 199
1.20. Bảng tổng hợp hình ảnh trên tiền giấy Việt Nam sau 1987…………… 200
1.21. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên tiền giấy Việt Nam sau năm 1987... 202
1.22. Bảng tổng hợp hình ảnh trên tiền polymer Việt Nam…………………. 204
1.23. Bảng tổng hợp bố cục và trang trí trên tiền polymer Việt Nam………. 205
172
206 Bảng danh mục phụ lục chƣơng 2
2.23. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy Tài chính (1946-1951)…… 206
2.24. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy Nam Bộ………………... 207
2.25. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên Tín phiếu Trung Bộ……………... 208
209 2.26. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy 1951-1958……………..
209 2.27. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy 1959-1978……………..
210 2.28. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy 1978 – 1985…………..
210 2.29. Các tác giả thiết kế mặt trƣớc bộ tiền 1978……………………………..
211 2.30. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy 1985-2003…………….
212 2.31. Các tác giả thiết kế mặt trƣớc bộ tiền 1985……………………………..
213 2.32. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền chất liệu Polymer………….
213 2.33. Các tác giả thiết kế mặt trƣớc bộ tiền polymer………………………….
Bảng danh mục phụ lục chƣơng 3
3.34. Bảng tổng hợp biến đổi trang trí trên tiền giấy Việt Nam qua các thời kỳ…. 214
3.35. Chuyển biến màu sắc trên tiền giấy Việt Nam qua các thời kỳ…………... 204
3.36. Thống kê số mẫu và góc độ của chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh……… 205
3.37. Thống kê số mẫu có chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh ở giữa…………… 205
3.38. So sánh phƣơng pháp in các loại đồ họa chủ yếu ở Việt Nam…………… 217
3.39. Biến đổi hình ảnh trên tiền giấy Việt Nam qua các thời kỳ………………. 218
3.40. Hình tƣợng ngƣời và phong cảnh trong các bộ tiền Việt Nam…………… 218
173
PHỤ LỤC MINH HỌA tr.
219 Minh họa chƣơng 1
MH 1.1. Vòng ốc Cipearea. Dạng tiền tệ cổ đại……………………………… 219
MH 1.2. Đồng tiền đầu tiên của Việt Nam. Tiền nhà Đinh..…………………. 219
MH 1.3. Tiền thƣởng và Tiền cúng.…………………………………………. 219
MH 1.4. Tiền giấy thời Minh, Trung Quốc (1380). Đƣợc coi là tiền giấy đầu
tiên trên thế giới…………………………………………………….… 220
MH 1.5. Dạng tiền giấy Monoye, mệnh giá 50 livrers, phát hành 1790……… 220
MH 1.6. Đồng tiền giấy đầu thế kỷ XX của Nga Hoàng………………………. 220
MH 1.7. Đồng tiền 1 bảng Anh……………………………………………...…. 221
MH 1.8. Các yếu tố đặc trƣng trong tiền giấy Việt Nam………………………. 221
MH 1.9. Hình ảnh liên quan tới biểu tƣợng Pháp và bản xứ trên tiền giấy
Ngân hàng Đông Dƣơng……………………………………………. .. 222
MH 1.10. Một số hình ảnh dân bản xứ trên tiền giấy Ngân hàng Đông Dƣơng...... 222
MH 1.11. Một số hoa văn và hình ảnh trên tiền giấy VNCH…………………… 223
MH 1.12. Một số hình ảnh chân dung trên tiền giấy VNCH…………………... 223
MH 1.13. Một số hình ảnh thú vật và phong cảnh trên tiền giấy VNCH……… 223
MH 1.14. Một số hình ảnh về tiền Tài chính……………………………..……. 224
MH 1.15. Một số hình ảnh về tiền Nam Bộ……………………………..……... 225
MH 1.16. Một số hình ảnh về Tín phiếu Trung Bộ……………………..……... 226
MH 1.17. Một số hình ảnh về bộ tiền phát hành 1951…………………...…….. 227
MH 1.18. Một số hình ảnh về bộ tiền phát hành 1959………..……………….. 228
MH 1.19. Một số hình ảnh về bộ tiền UBTƢMTDTGP MNVN..…………….. 229
MH 1.20. Một số hình ảnh bộ tiền giấy phát hành vào Miền Nam sau
30/4/1975……………………………………………………………. 229
MH 1.21. Một số hình ảnh về bộ tiền phát hành 1978…………………………. 230
MH 1.22. Một số hình ảnh về bộ tiền phát hành 1985…………………………. 231
MH 1.23. Một số hình ảnh về bộ tiền polymer…………………..…………….. 232
174
Minh họa chƣơng 2 233
MH 2.24. Hoa văn rồng trên tiền giấy ngân hàng Đông Dƣơng………………. . 233
MH 2.25. Hoa văn rồng trên tiền giấy VNCH…………………………………... 233
MH 2.26. Hoa văn rồng trên tiền Tài chính…………………………………… . 233
MH 2.27. Hoa văn chim phƣợng trên tiền giấy Việt Nam…………………… 234
MH 2.28. Hoa văn hoa sen trên tiền giấy phát hành 1959, 1978……………... 235
MH 2.29. Hoa văn hoa sen trên tiền giấy phát hành 1985……………………. 235
MH 2.30. Hoa văn hoa sen trên tiền polymer. ………………………………. 236
MH 2.31. Hoa văn dải hoa dây trên tiền giấy phát hành 1959, 1978………… 236
MH 2.32. Hoa văn bông lúa trên tiền giấy Việt Nam……………………….... 237
MH 2.33. Một số hoa văn hình học trên tiền giấy Việt Nam………………… 237
MH 2.34. Một số hoa văn lƣới trên tiền giấy Việt Nam……………………… 238
MH 2.35. Một số hoa văn bóng chìm trên tiền giấy Việt Nam………………. 238
MH 2.36. Một số hình ảnh về thiết kế chữ trên tiền giấy Việt Nam…………. 238
MH 2.37. Hình ảnh vịnh Hạ Long trên tiền giấy Việt Nam………………….. 239
MH 2.38. Hình ảnh Huế trên tiền giấy Việt Nam……………………………. 239
MH 2.39. Hình ảnh Thủ đô Hà Nội trên tiền giấy Việt Nam………………… 240
MH 2.40. Hình ảnh di tích liên quan tới Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy…... 240
MH 2.41. Hình ảnh Nam Bộ trên tiền giấy Việt Nam……………………….. 241
MH 2.42. Hình ảnh công trình công nghiệp trên bộ tiền 1959, 1978………… 241
MH 2.43. Hình ảnh công trình công nghiệp trên bộ tiền 1985………………. 242
MH 2.44. Hình ảnh anh vệ quốc trong tiền Tài chính………………………... 242
MH 2.45. Hình ảnh anh du kích trong tiền Nam Bộ………………………….. 242
MH 2.46. Hình ảnh ngƣời chiến sĩ trong tiền giấy 1951, 1959………………. 243
MH 2.47. Hình ảnh ngƣời nông dân trong tiền giấy Việt Nam………………. 243
MH 2.48. Hình ảnh ngƣời công nhân trong tiền giấy Việt Nam…………….. 244
MH 2.49. Hình ảnh ngƣời trí thức trong tiền giấy Việt Nam………………… 244
MH 2.50. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền Tài chính…………….. 245
MH 2.51. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên bộ tiền 1951, 1959,1978…. 245
175
MH 2.52. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy bộ 1985, polymer … 246
247 Minh họa chƣơng 3
MH 3.53. Mặt sau tờ tiền polymer 500.000 đ và khung cảnh thực tế………... 247
MH 3.54. Hoa văn đồ gỗ thời Nguyễn ở Huế………………………………… 248
MH 3.55. Hoa văn Song phụng triều dƣơng ở Huế và hoa văn trên tiền giấy 248
Việt Nam………………………………………………………….
248 MH 3.56. Hoa văn chạm gỗ Chùa Thái Lạc…………………………………..
MH 3.57. Ứng dụng hoa văn chạm gỗ Chùa Thái Lạc trên mặt sau đồng tiền
Polymer 500.000đ………………………………………………. 248
MH 3.58. Đầu chim phƣợng, đất nung thời Lý ở khu vực Thăng Long và ứng
249 dụng trong chi tiết OVI của tiền Polymer, mệnh giá 500.000đ….
MH 3.59. Nét trong cách thể hiện đôi mắt trong chân dung……………………. 249
MH 3.60. Nét màu đậm để chế bản trong tiền giấy Việt Nam……………….. 250
MH 3.61. Nét màu nền của tiền polymer…………………………………….. 250
MH 3.62. So sánh nét trên tiền giấy Việt Nam và Anh………………………. 250
MH 3.63. Phƣơng pháp dùng màu sắc trong tiền giấy Việt Nam……………. 251
MH 3.64. So sánh yếu tố nhận biết về màu sắc của tiền Polymer và tiền Euro.. 251
MH 3.65. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tƣ thế nghiêng trên tiền giấy
Việt Nam…………………………………………………………. 252
MH 3.66. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tƣ thế thẳng trên tiền giấy
Việt Nam…………………………………………………………. 253
MH 3.67. So sánh yếu tố nhận biết về kích thƣớc của tiền polymer và tiền
Euro…………………………………………………….…………. 254
176
PHỤ LỤC 1.1
TỔNG HỢP CÁC THUẬT NGỮ LIÊN QUAN TỚI MỸ THUẬT
TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM
1. Nhóm liên quan tới giấy in
- Giấy bảo an (security paper): Là loại giấy dùng để in bạc không phát quang
dƣới đèn UV (các giấy khác phản quang màu tím), có bóng chìm và các yếu tố
chống làm giả khác [145, tr.24].
- Giấy cotton: Là một loại giấy dùng để in tiền với tỷ lệ bông khá cao trong
thành phần bột giấy.
- Giấy polymer: Là chất liệu cao phân tử, trong suốt (nhƣ phim nhựa) có
nguồn gốc từ dầu mỏ, dùng để tạo giấy in tiền. Từ năm 1967, Ngân hàng Dự trữ
Australia bắt đầu nghiên cứu, ứng dụng chất liệu polymer vào in tiền. Năm 1988, in
thử nghiệm đồng tiền lƣu niệm, năm 1992, Australia chính thức phát hành đồng tiền
polymer đầu tiên trên thế giới.
- Bóng chìm (water mark): Là hình ảnh trên giấy, đƣợc nhìn thấy khi soi
ngƣợc nguồn ánh sáng, đƣợc tạo bởi độ xốp hoặc độ dày mỏng của giấy cotton, sinh
ra trong quá trình sản xuất giấy. Trong giấy nền polymer, bóng chìm đƣợc tạo bởi in
ấn mực làm nền.
- Cửa sổ: Là mảng hình trong suốt có thể nhìn xuyên sang bên kia, chỉ có
trong công nghệ sản xuất tiền với chất liệu polymer.
- Dây bảo hiểm: Là dây có độ rộng khoảng 0,3mm, lồng trong giấy in tiền cotton
trong quá trình xeo giấy, trên sợi dây có dãy số/chữ đặc biệt. Đây là yếu tố chống giả.
- Sợi kim loại (security threads and fibers): Là các sợi giấy hoặc kim loại đặc
biệt, có độ dài khoảng 2-3 mm, đƣợc đƣa vào giấy cotton trong quá trình xeo giấy.
Yếu tố này phát quang dƣới đèn cực tím và là yếu tố bảo an [145, tr.41].
2. Nhóm liên quan tới kỹ thuật in và mực
- In lõm (intaglio printing): Là công nghệ in ấn cao cấp, có lịch sử lâu đời từ
châu Âu, trong đó bản in đƣợc khắc/ăn mòn thành các chi tiết lõm. Các phần tử in
lõm xuống so với bản in, là nơi chứa mực in. Khi in, mực sẽ nổi lên trên mặt giấy
177
và tạo thành đƣờng hằn lõm ở phía mặt sau. Đây là công nghệ bảo an có khả năng
tạo nên giá trị nghệ thuật cao nhất của tiền giấy.
- In ti-pô (typo printing): Là công nghệ in có lịch sử lâu đời nhất, có xuất xứ từ
Trung quốc với bản in khắc gỗ. In ti-pô có đặc điểm là phần tử in nổi cao so với nền
bản và chuyền mực lên giấy. Trong giấy bạc, in ti-pô đƣợc dùng để in số sêri, nó sẽ tạo
thành đƣờng hằn lõm trên mặt in và nổi lồi ra ở phía sau.
- In ốp-xét (offset lithography): Là công nghệ in phẳng, có xuất xứ châu Âu.
Trong đó, các phần tử in nằm phẳng trên bản in. Do nguyên tắc nƣớc đẩy mực mà bắt
mực trên bản rồi đƣợc in lên giấy. Ngƣời ta dùng công nghệ in này để tạo mầu nền
trang trí chống giả hoặc in các loại tiền có mệnh giá thấp. Tại Việt Nam hiện nay, in
ốp-xét đƣợc dùng in mầu chính cho mệnh giá 100 đ, 200 đ, 500 đ, 1000 đ, 2000đ.
- In Simultan: chỉ công nghệ in đồng thời cả hai mặt. Công nghệ này đƣợc thực
hiện trên các máy in chuyên dụng Simultan offset printing nhằm tạo ra các hình trùng
khít hai mặt khi nhìn tờ bạc trƣớc nguồn sáng. Đây là công nghệ in bảo an.
- In cách sắc: Là cách in sử dụng trong in ốp-xét và in lõm, bằng cách lắp
thêm bộ phận chặn mực trên khay đổ mực của máy in, làm thay đổi màu in ngay
trên lô lấy mực, tạo hiệu ứng màu sắc thay đổi phong phú trên tờ bạc.
- Mực không màu phát quang: là lọai mực không màu, không nhận biết đƣợc
dƣới ánh sáng thƣờng, mà chỉ phát quang dƣới một số loại ánh sáng đặc biệt nhƣ tia
cực tím. Đây là một yếu tố bảo an, ngƣời ta in chồng mực này lên giấy nền.
- Mực phát quang hồng ngoại: là loại mực có màu dùng để in số seri cho tờ
tiền và phát quang dƣới ánh sáng hồng ngoại. Đây là một yếu tố bảo an.
- Mực đổi màu/biến màu (Optic Variable Ink, viết tắt là OVI): Là loại mực
đổi màu khi đƣợc nhìn dƣới các góc độ khác nhau.
3. Nhóm liên quan tới màu sắc, hình vẽ tiền giấy
- Màu khung: Là màu đậm nhất thƣờng dùng in các yếu tố chính nhƣ Quốc
huy, chân dung và khung trang trí xung quanh. Màu khung thƣờng là màu chủ đạo
nhận biết trong tiền giấy. Màu khung thƣờng chỉ có 1 đến 3 màu.
178
- Màu nền: là màu nhạt, thƣờng để in nền trang trí bên trong. Màu nền đóng
vai trò là màu bổ trợ cho màu khung trong tạo hình, trang trí mỹ thuật và chống giả.
Màu nền thƣờng đƣợc in nhiều màu, nhiều lƣợt.
- Hoa văn lưới (guilloche or fine-line security patterns):là họa tiết bao gồm từ
2 hoặc nhiều đƣờng mảnh đan vào nhau theo dạng lƣới hoặc sóng để tạo thành tổ hợp
họa tiết. Họa tiết này đƣợc thực hiện bằng máy tính với phần mềm đồ họa đặc biệt. Đây
là chi tiết chống giả và trang trí tạo nên đặc thù thẩm mỹ tiền giấy [145, tr.10].
- Số sê-ri: Là dãy số có kèm chữ cái đứng đầu, mang ký hiệu phát hành tiền
giấy, do Ngân hàng quy định. Mỗi loại tiền, năm sản xuất, lô sản xuất đều có ký
hiệu rõ ràng trong số seri. Nhằm gia tăng tính chống giả, số seri đƣợc tạo hình đặc
biệt và đƣợc in tipô với mực phát quang hồng ngoại.
- Chữ cực nhỏ (micro text): là một yếu tố bảo an, đƣợc thực hiện bằng cách
sử dụng các dãy số/chữ có kích thƣớc khoảng 30-90 microns, chỉ nhìn thấy bằng
kính lúp, nhằm chống lại in giả tiền giấy [145, tr.13].
- Hình định vị: Là hình ảnh đƣợc in tại 2 mặt của tờ bạc, bằng công nghệ in
ốp-xét simultal, khi nhìn trƣớc nguồn sáng thì trùng khít nhau.
- Hình ẩn (image latent): Là hình ảnh mới đƣợc hình thành khi nhìn nghiêng
cụm in nổi trên tờ bạc.
- Yếu tố IRIODIN: là dải kim loại lấp lánh đƣợc in trên tiền polymer hiện hành.
Ngoại trừ mẫu 50.000 đ, các mệnh giá còn lại đều xuất hiện tại mặt sau của tờ bạc.
- Yếu tố hình ẩn (DOE): Cách gọi này đƣợc NHNN Việt Nam sử dụng khi
nói tới hiệu ứng quang học tạo hình ảnh khi nhìn qua cửa sổ của tờ bạc trƣớc ngọn
đèn ánh sáng đỏ [108, tr.31]. Đây là yếu tố bảo an cao cấp chỉ có trong tiền giấy
polymer mệnh giá cao nhƣ 100.000 đ, 200.000đ, 500.000đ. Cách gọi Việt hóa này
dễ gây nhầm lẫn với yếu tố hình ẩn (image latent).
- Yếu tố bảo an (security feature): Các chi tiết, thiết kế, chất liệu dùng chống
lại các hoạt động làm giả tiền giấy. Trên một tờ tiền giấy có nhiều yếu tố bảo an
khác nhau, phù hợp với từng cấp độ chống giả từ phổ thông tới chuyên gia.
179
PHỤ LỤC 1.2
BẢNG TỔNG HỢP HÌNH ẢNH TRÊN TIỀN TÀI CHÍNH (1945-1951)
Stt Mệnh
Hình tƣợng mặt trƣớc
Hình tƣợng mặt sau
giá
1. 2hào Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình bản đồ Việt Nam
Chân dung bộ đội và nông dân nhìn nghiêng
2. 5 hào Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh Vợ chồng nông dân
3. 1 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh Hai phụ nữ cấy lúa
4. 5 đ
Anh công nhân quai búa trên nền hình ảnh nhà máy.
Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh,lồng trong khung hoa văn chữ nhật.
5. 5 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh Bà mẹ ôm bó lúa quàng vai em
7. 20 đ
6. 10 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khung trang trí và 2 anh bộ đội cầm súng. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh (nhỏ,trái),
8. 20 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
9. 50 đ đợt 1 10. 50 đ
bé Chữ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Độc lập – tự do – hạnh phúc ôm quanh số 10 Nông dân dắt trâu, công nhân đập búa, học sinh, ngƣời gánh hàng ra chợ, cầu đƣờng, nhà máy Phụ nữ ngồi nghỉ bên bó lúa, công nhân quai búa Nông dân vác bừa, dắt trâu, gánh lúa và công nhân đứng máy. Công nhân vác búa và gia đình nông dân đầm ấm.
ở bên trái Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh ở chính giữa. chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và trang trí hai bên bằng hoa văn phƣợng
11. 100 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
12. 100 đ Con trâu xanh
Gia đình nông dân lao động, gia đình tri thức bên trái có em bé cầm cờ. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gia đình nông dân lao động bên phải, gia đình tri thức bên trái có em bé cầm cờ.
13. 100 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
(bên phải)
14. 200 đ chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Minh,hình nền là tự vệ tập bắn
15. 500 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
Anh bộ đội cầm súng trên nền lá cờ và bản đồ Việt Nam, nông dân vác cuốc cầm bí ngô to, 2 ngƣời phụ nữ Bắc- Nam. Con trâu xanh, nông dân lao động chăm chỉ trên đồng ruộng, con trâu gặm cỏ. Bộ đội khoác súng, nông dân cầm cuốc Tự vệ cầm súng, nông dân gánh lúa. Chủ đề: “Bảo vệ mùa màng” Bộ đội bắn chìm tàu chiến Pháp ở Sông Lô
(bên phải), nam công nhân, nữ nông dân vẫy chào chiến thắng
180
PHỤ LỤC 1.3 BẢNG TỔNG HỢP BỐ CỤC VÀ TRANG TRÍ TRÊN TIỀN TÀI CHÍNH (1945-1951)
Stt Mệnh
Trang trí mặt trƣớc
Trang trí mặt sau
Màu sắc
giá
Màu sắc
1. 2hào Khung trang trí xung
mặt trƣớc Nâu đỏ Nâu đỏ
quanh. Hình tƣợng chính ở giữa
2. 5 hào Khung trang trí xung quanh.
3.
Khung trang trí xung quanh.Hình tƣợng chính ở giữa
Xanh navy đậm Xanh lục đậm
Xanh navy đậm Xanh lục đậm
4.
Nâu, xanh xám
Nâu, xanh xám
5.
1 đồng (đợt 1) 5 đồng 5 đồng
Khung trang trí xung quanh.Các góc trang trí Khung trang trí xung quanh. Hình tƣợng chính ở giữa
Khung trang trí xung quanh. Hình tƣợng chính ở giữa Khung trang trí xung quanh.Hình tƣợng chính ở giữa Khung trang trí xung quanh.Hình tƣợng chính cân đối bên trong Khung trang trí xung quanh.Các góc trang trí Khung trang trí xung quanh. Hình tƣợng chính cân đối bên trong
6. 10 đ Khung trang trí xung
Nâu đậm Lục đậm Nâu
7. 20 đ
Nâu đậm Lục đậm Xanh navy đậm Nâu đỏ Nâu đỏ
quanh. Hình tƣợng chính cân đối bên trong Trang trí đƣờng diềm, trang trí góc
Nâu
Xanh navy đậm
9. 50 đ ( đợt 1)
Xanh dƣơng đậm
Xanh dƣơng đậm
8. 20 đ Khung trang trí xung quanh. Hình tƣợng chính cân đối bên trong Khung trang trí xung quanh Hình tƣợng chính cân đối ở giữa
Xanh lục đậm
Xanh lục đậm
10. 50 đ Khung trang trí xung quanh. Hình tƣợng chính cân đối bên trong
Nâu đỏ Nâu đỏ
11. 100 đ Khung trang trí xung quanh.Họa tiết song
Khung trang trí xung quanh.Hình tƣợng chính ở giữa Trang trí đƣờng diềm, trang trí góc Khung trang trí xung quanh. Hình tƣợng chính cân đối bên trong Khung trang trí xung quanh Hình tƣợng chính cân đối bên trong Khung trang trí xung quanh. Hình tƣợng chính cân đối bên trong Khung trang trí xung quanh.
181
Hình tƣợng chính cân đối bên trong Khung trang trí xung quanh. Hình tƣợng chính cân đối bên trong
Xanh dƣơng đậm, nâu
Xanh dƣơng đậm, nâu
12. 100 đ Con trâu xanh
long đăng đối Hình tƣợng chính cân đối ở giữa Khung trang trí xung quanh.Họa tiết song long đăng đối Hình tƣợng chính cân đối ở giữa
13. 100 đ Trang trí mảng đặc,
Nâu
Trang trí mảng đặc, hình tƣợng chính nằm trong mảng
Xanh dƣơng đậm
hình tƣợng chính nằm trong mảng
14. 200 đ Trang trí mảng đặc,
Xanh xám
Trang trí mảng đặc, hình tƣợng chính nằm trong mảng
Xanh xám, nâu
hình tƣợng chính nằm trong mảng
Xanh xám, nâu
Xanh xám, nâu
15. 500 đ Khung trang trí xung quanh liền hình tƣợng chính
Khung trang trí xung quanh liền hình tƣợng chính
182
PHỤ LỤC 1.4
TỔNG HỢP HÌNH ẢNH TRÊN TIỀN GIẤY NAM BỘ
Stt Mệnh Hình tƣợng mặt sau Hình tƣợng mặt trƣớc
giá 1 đ 1. Hình ảnh 4 nữ du kích
2. 5 đ
3. 20 đ Bộ đội Cảnh nông dân trên đồng ruộng Hình tƣợng sản xuất và chiến đấu
Nông dân làm việc, em bé chăn trâu đọc sách
Nông dân làm việc đồng áng 4. 20 đ Nông dân 5. 20 đ Bộ đội
6. 50 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nông dân cấy lúa Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nền: Du kích xung trận Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nền: Bộ đội và du kích xung phong Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vòng tròn. Chim hòa bình trên địa cầu Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nghiêng. Bộ đội xung trận. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.Nông dân làm ruộng Nông dân, công nhân trí thức đoàn kết thành một khối
Đại đoàn kết 7. 50 đ Anh vệ quốc, cởi trần trên nền cờ sao 5 cánh
Công nhân và nông dân.
Tăng gia sản xuất
Vệ quốc quân 8. 50 đ Công nông 9. 100 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khung chữ nhật, trang trí hoa văn dân tộc. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nghiêng trong khung vòm bó lúa Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thẳng Nông dân lao động trên cánh đồng
Nông dân cấy lúa, thợ se sợi
Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên nền toàn dân khởi nghĩa
10. 100 đ Toàn quốc kháng chiến 11. 100 đ Hai anh du kích trên nền ngôi sao 5 cánh Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên nền ngôi sao 5 cánh và cảnh toàn dân khởi nghĩa
Toàn quốc chống xâm lăng 12. 100 đ Công nông
Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vòng ô van Nông dân và công nhân. Bó lúa và biểu tƣợng bánh răng công nghiệp
183
PHỤ LỤC 1.5
BẢNG TỔNG HỢP BỐ CỤC VÀ TRANG TRÍ TIỀN GIẤY NAM BỘ
Stt Mệnh
Màu sắc
Trang trí mặt trƣớc
Trang trí mặt sau
giá
mặt trƣớc
mặt sau
1. 1 đ
Xanh đen
Trang trí mảng đặc, hình tƣợng chính nằm trong mảng
Nâu đỏ đậm
2. 5 đ
Xanh đen
Ghi nâu đậm
Trang trí đƣờng diềm trên và dƣới. Hình tƣợng chính gắn cùng khung trang trí Trang trí đƣờng diềm bên dƣới. Trang trí mảng đặc, hình tƣợng chính nằm trong mảng
Nâu đậm
Tím đậm
3. 20 đ (Bộ đội)
Khung trang trí xung quanh. Trang trí mảng đặc, hình tƣợng chính nằm trong mảng.
Nâu đỏ
Nâu đỏ
4. 20 đ Nông dân 5. 20 đ Bộ đội
Nâu vàng
Nâu tím
Trang trí mảng đặc, hình tƣợng chính nằm trong mảng Khung trang trí xung quanh, hình tƣợng chính liền khung trang trí
Xanh đen
Khung trang trí xung quanh.Mảng trang trí chính ở giữa
Khung trang trí xung quanh. Trang trí mảng đặc, hình tƣợng chính nằm trong mảng Khung trang trí xung quanh. Trang trí mảng đặc, hình tƣợng chính nằm trong mảng. Trang trí mảng đặc, hình tƣợng chính nằm trong mảng Khung trang trí xung quanh, hình tƣợng chính gắn khung trang trí Khung trang trí xung quanh, hình tƣợng chính gắn liền khung trang trí
Xanh đen
Khung trang trí xung quanh Mảng trang trí chính ở giữa
Khung trang trí xung quanh. Mảng trang trí chính ở giữa
Xanh đen, nâu đỏ Xanh đen, nâu đỏ Nâu , vàng
Khung trang trí nhỏ hơn nền
Đen, xanh
6. 50 đ Đại đoàn kết 7. 50 đ Vệ quốc quân 8. 50 đ Công nông
Khung trang trí xung quanh. Mảng trang trí chính ở giữa
184
Nâu đỏ
Nâu đỏ
Bố cục cân đối chính giữa Không có Khung trang trí xung quanh
Nâu, đen
Bố cục cân đối chính giữa Không có Khung trang trí xung quanh
Xanh đen, vàng
Khung trang trí xung quanh Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí Khung trang trí xung quanh Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí
Nâu, đen
Nâu, đen
Khung trang trí xung quanh Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí
Khung trang trí xung quanh Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí
9. 100 đ Tăng gia sản xuất 10. 100 đ Toàn quốc kháng chiến 11. 100 đ Toàn quốc chống xâm lăng
Nâu, đen
12. 100 đ Công nông
Bố cục cân đối chính giữa Không có khung trang trí xung quanh
Xanh đen, vàng
Khung trang trí xung quanh. Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí
185
PHỤ LỤC 1.6 BẢNG TỔNG HỢP HÌNH ẢNH TRÊN TÍN PHIẾU LIÊN KHU V (TRUNG BỘ)
Stt Mệnh Hình tƣợng mặt trƣớc Hình tƣợng mặt sau
giá 1. 1 đ
2. 5 đ Nông dân cày ruộng bằng 2 trâu Số 5 trong vòng tròn hoa văn
Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khuôn tròn. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khuôn tròn hình bông lúa
3. 20 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khuôn tròn hình bông lúa.
4. 50 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Dòng chữ “Tín phiếu hai mƣơi đồng” trong khung hình chữ nhật Con thuyền lƣớt sóng, cờ sao 5 cánh
Minh trong khuôn tròn, bố cục hạ thấp
5. 50 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Hình ảnh Công – Nông - binh
6. 100 đ
Biểu tƣợng chiến sĩ trên nền ngôi sao
7. 100 đ Chiến sĩ, công nhân, nông dân .
8. 500 đ Phong cảnh miền Trung
9. 1000 đ Dân công tải đạn
10. 1000 đ
Minh bên mép phải Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khuôn tròn bông lúa bên rìa phải.Cảnh nông dân dắt trâu đi làm ruộng Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khuôn tròn bông lúa bên rìa trái. Chân dung công nông. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khuôn tròn bông lúa bên rìa phải. Hình ảnh công nông đang làm việc Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nền lƣợn, rìa bên phải. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hình tròn, ở chính giữa.
Công – Nông – Binh và dòng chữ “Tích cực chuẩn bị tổng phản công” trong khung hình chữ nhật
186
PHỤ LỤC 1.7 BẢNG TỔNG HỢP BỐ CỤC VÀ TRANG TRÍ TRÊN TÍN PHIẾU LIÊN KHU V (TRUNG BỘ)
Stt Mệnh
Màu sắc
Trang trí mặt trƣớc
Trang trí mặt sau
giá
1. 1 đ
trang
mặt trƣớc Tím đậm
mặt sau Tím đậm
Khung trang trí xung quanh đơn giản, hoa văn hoa mây.
2. 5 đ
trí xung
Nâu
Nâu
Khung trang trí xung quanh hoa văn hoa lá
3. 20 đ Khung
Khung trí xung quanh đơn giản, hoa văn lƣới. Trang trí góc trang Khung quanh hoa văn hoa lá trang
Nâu
Nâu
Khung trang trí xung quanh, hoa văn hoa lá
4. 50 đ Khung
trí xung quanh bằng hoạt cảnh ngƣời lao động sản xuất trang
Nâu đỏ Xanh dƣơng
trí xung
trang
thành
Khung trang trí xung quanh bằng hoa văn hoa lá. Trang trí góc Trang tạo trí mảng lớn
Xanh đen
Xanh đen
5. 50 đ Công Nông Binh 6. 100 đ
trang
Nâu, xanh
Nâu, xanh
xung
quanh
Nâu đỏ Xanh dƣơng
trí xung quanh bằng hoạt cảnh hành quân Khung quanh. Mảng trang trí lớn, tƣơng phản nền Khung trí xung quanh bằng hoa văn dân tộc Khung xung quanh bằng nét kẻ. Mảng trang trí bên trong
trang
trí bên
trí xung
Xanh lục đậm
Lá cây
7. 100 đ Công – Nông - Binh 8. 500 đ Công - Nông
9. 1000 đ
Nâu đỏ Nâu
đỏ
10. 1000 đ
trí xung
Tím
Tím
trang Khung quanh dày đặc hoa văn. Mảng trang trí lớn, kín nền Không có Khung trang trí xung quanh Trang trí thành cụm lớn Khung trang quanh bằng nét. Hình trang trí đơn giản, sơ lƣợc
Khung trang trí xung quanh bằng hoa văn rồng phƣợng Khung bằng nét kẻ. Mảng trong Khung trang trí xung quanh. Mảng trang trí kín nền, phong cách vẽ tranh phong cảnh Trang trí đƣờng diềm. Nội dung đƣợc thể hiện kín nền Khung trang trí xung quanh bằng nét. Hình trang trí đơn giản, sơ lƣợc.
187
PHỤ LỤC 1.8
BẢNG TỔNG HỢP HÌNH ẢNH TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM 1951
Stt Mệnh
Hình tƣợng
Hình tƣợng
giá
mặt trƣớc
mặt sau
1. 10 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Hình ảnh nông dân cày bừa bằng
trâu bò trên ruộng nƣớc
Minh
2. 20 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Bến thuyền chở thóc làm nghĩa vụ
Minh
3. 50 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Bộ đội giúp dân gặt lúa
Minh trong vòng tròn hoa văn
lƣới và hình bông lúa mì
4. 100 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Công binh xƣởng và các trái đạn
Minh
5. 200 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Gánh gạo về làng
Minh nhìn nghiêng. Bộ đội tập
luyện thành hàng ngũ
6. 500 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Cảnh khai hoang làm nông nghiệp
Minh. Bộ đội kéo pháo lên đồi
7. 1000 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Công – Nông – binh trên nền cờ
Minh
sao
Bộ đội hành quân trên đồi
8. 5000 đ Chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Trận địa pháo cao xạ
Minh.
Hình ảnh hai bó lúa kết hợp với
hoa văn
188
PHỤ LỤC1.9
BẢNG TỔNG HỢP BỐ CỤC VÀ TRANG TRÍ TIỀN VIỆT NAM 1951
Stt Mệnh
Màu sắc
Trang trí mặt trƣớc
Trang trí mặt sau
giá
1. 10 đ Khung trang trí xung
Trang trí đƣờng diềm
mặt mặt sau trƣớc Nâu đỏ Nâu
quanh
2. 20 đ Khung trang trí xung
quanh
Tím sẫm
đỏ TÍm sẫm
trong
Xanh lục đậm
lục đậm nâu
3. 50 đ Trang trí đƣờng diềm ở phía dƣới. Mảng chính phần trang trí
trang
trí
Khung trang trí xung quanh. Hình tƣợng chính liền với khung trang trí Khung trang trí xung tƣợng quanh. Hình chính liền với khung trang trí Các mảng thành cụm
trang
trí
Xanh lục đậm
Xanh lục đậm
4. 100 đ Trang trí đƣờng diềm ở phía dƣới Các mảng thành cụm 5. 200 đ Khung trang trí xung
trang
trí xung
Nâu đỏ Nâu
đỏ
trong
quanh. chính Mảng phần trang trí
trí xung
trang
Xanh lục đậm
Xanh lục nhạt
Khung quanh Mảng chính trong phần trang trí Khung quanh Mảng chính trong phần trang trí
6. 500 đ Trang trí đƣờng diềm bên dƣới. Các mảng khác bố trí thành cụm 7. 1000 đ Khung trang trí xung
Nâu đỏ Nâu
đỏ
tƣợng
chính
quanh Hình thành mảng lớn
8. 5000 đ Khung trang trí xung
Xanh lục
tƣợng
chính
Xanh lục đậm
quanh Hình thành mảng lớn
Khung trang trí xung quanh Hình tƣợng chính thành mảng lớn Khung trang trí xung quanh Hình tƣợng chính thành mảng lớn
189
PHỤ LỤC 1.10 BẢNG TỔNG HỢP HÌNH ẢNH TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM 1959 - 1978
St t Mệnh giá Hình tƣợng mặt trƣớc Hình tƣợng mặt sau
1. 1 hào Quốc huy
2. 2 hào Quốc huy và hoa văn Đoàn tàu hỏa lao nhanh trên đƣờng sắt Trẻ em chăn trâu bên đập nƣớc
3. 5 hào Quốc huy và hoa văn
4.
5. Nhà máy dệt sợi Nông dân làm đồng Khung hình bông lúa Vịnh Hạ Long
1 đồng 2 đồng
Quốc huy và cột cờ Hà Nội Quốc huy và khối đoàn kết Công – Nông – Binh – Trí
6. 5 đ Quốc huy và Chân dung Chủ
Cảnh khai thác than bằng máy và xe cơ giới
tịch Hồ Chí Minh nhìn thẳng. Máy cày đang làm trên đồng.
7. 10 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch thép Thái
Hồ Chí Minh nhìn nghiêng Hoa văn lƣới
8. 2 xu Quốc huy Nhà máy gang Nguyên. Hoa sen Hoa văn dân tộc, mô típ hoa lá.
9. 5 xu Quốc huy và hoa văn
10. 1 hào Quốc huy và hoa văn
11. 2 hào Quốc huy và hoa văn Hoa văn dân tộc, mô típ Rồng trầu nhật nguyệt. Nữ nông dân cho 4 con lợn to ăn. Phun thuốc trừ sâu cho lúa
190
PHỤ LỤC 1.11
BỐ CỤC VÀ TRANG TRÍ TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM 1959 - 1978
Stt Mệnh
Màu sắc
Trang trí mặt trƣớc
Trang trí mặt sau
giá
mặt sau
1. 1 hào Khung
trí xung
trang
trí xung
mặt trƣớc Đỏ vàng
Đỏ vàng
trang quanh dầy đặc. Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm.
2. 2 hào Khung
trang
trí xung
trí xung
trang
quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục
Khung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm. Khung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục
Lá cây đậm, cam
3. 5 hào Khung
trang
trí xung
trang
Nâu tím
Lá cây đậm. Nâu tím
trang
4. 1
trang
đồng
Nâu đỏ
5. 2
đồng
quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục Khung trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục Khung trang trí dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm. 6. 5 đ Khung trang trí dầy đặc. Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
Khung trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục Khung trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục Khung trang trí dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm. Khung trang trí dầy đặc. Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
7. 10 đ Khung trang trí trên dƣới
trí xung
Xanh dƣơn g đậm Nâu xanh, nền vàng Đỏ
Khung trang quanh dày đặc
dày đặc. Bỏ trống hai bên cạnh. trang
trí xung
8. 2 xu Khung
Tím, nền hồng
quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm. 9. 5 xu Trang trí đƣờng diềm. các
cụm hoa văn làm nền
Nâu đỏ, nền vàng Xanh dƣơng đậm Nâu xanh, nền vàng Đỏ, nền vàng Nâu tím, nền hồng Tím Tím lơ, ngả lơ, hồng hồng Nâu đỏ Nâu
đỏ
10. 1 hào Khung trang trí dầy đặc. Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
11. 2 hào Khung trang trí dầy đặc,
bỏ trống hai bên. Bố cục đối xứng qua trục
Trang trí thành 1 mảng lớn Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Trang trí thành 1 mảng lớn Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí dầy đặc. Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí dầy đặc, bỏ trống hai bên. Bố cục đối xứng qua trục
Xanh lục đậm
Xanh lục đậm
191
PHỤ LỤC 1.12
BẢNG TỔNG HỢP HÌNH ẢNH TRÊN TIỀN GIẤY
ỦY BAN TRUNG ƢƠNG MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM VIỆT NAM
Stt Mệnh Hình tƣợng mặt trƣớc Hình tƣợng mặt sau
giá
1. 10 xu Ngôi sao to màu đỏ và hoa văn
Ngôi sao nhỏ và hoa văn dân tộc.
dân tộc.
2. 20 xu Ngôi sao to màu đỏ và hoa văn
Ngôi sao nhỏ và hoa văn dân tộc.
dân tộc.
3. 50 xu Ngôi sao to màu đỏ và hoa văn
dân tộc.
4. 1 đồng Thu hoạch lúa trên cánh đồng.
Ngôi sao nhỏ và hoa văn dân tộc. Hoa sen Lớp học. Hoa văn dân tộc, hoa lá.
Hoa văn dân tộc, hoa lá.
5. 2 đồng Đồng bào Tây Nguyên đi rẫy.
Hoa văn dân tộc, hoa lá
6. 5 đồng Thu hoạch chè, vai đeo súng.
Hoa văn dân tộc, hoa lá.
7. 10 đ Thu hoạch mía , vai đeo súng.
Hoa văn dân tộc, hoa lá.
Quăng chài bắt cá trên sông. Hoa văn dân tộc, hoa lá Nữ du kích miền Nam Hoa văn dân tộc, hoa lá. Tấn công đồn địch, giặc đầu hàng. Hoa văn dân tộc, hoa lá Chiến thắng Ấp Bắc Hoa văn dân tộc, hoa lá
8. 50 đ Vận chuyển bằng cơ giới trên đƣờng Trƣờng Sơn. Hoa văn dân tộc, hoa lá
192
PHỤ LỤC 1.13
ỦY BAN TRUNG ƢƠNG MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM VIỆT NAM
Stt Mệnh
Màu sắc
Trang trí mặt trƣớc
Trang trí mặt sau
giá
1. 10 xu Khung trang trí trên dƣới
mặt trƣớc Tím
mặt sau Tím
dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
2. 20 xu Khung trang trí trên dƣới
Nâu đỏ
Nâu đỏ
dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
3. 50 xu Khung trang trí trên dƣới
Xanh lục
Xanh lục, đỏ
4. 1
Nâu tím
Nâu tím
đồng
5. 2
Xanh lục
Xanh lục
đồng
dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí trên dƣới dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí trên dƣới dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
6. 5
Tím hồng
Tím hồng
đồng
Khung trang trí trên dƣới dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
7. 10 đ Khung trang trí trên dƣới
Xanh lục đậm
Xanh lục đậm
dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
8. 50 đ Khung trang trí trên dƣới
Nâu vàng
Nâu vàng
dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
Khung trang trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng giả qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng giả qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
193
PHỤ LỤC 1.14
HÌNH ẢNH TRÊN TIỀN GIẤY NGÂN HÀNG CHO MIỀN NAM
( DÙNG ĐỂ ĐỔI TIỀN CỦA CHẾ ĐỘ CŨ SAU NGÀY 30/4/1975)
Stt Mệnh Hình tƣợng mặt trƣớc Hình tƣợng mặt sau
giá
Chợ trên sông Cửu Long Hoa văn dân tộc, hoa lá
1. 10 xu Nông dân canh tác trên ruộng lúa Hoa văn dân tộc, hoa lá
2. 20 xu Thu hoạch mủ cao su bằng cơ giới Hoa văn dân tộc, hoa lá
3. 50 xu Nông dân thu hoạch mía vận
Nông dân Nam Bộ chào đón bộ đội về làng. Hoa văn dân tộc, hoa lá Nông dân đan chiếu cói. Hoa văn dân tộc, hoa lá
4. 1
đồng
5. 2
chuyển bằng xe tải. Hoa văn dân tộc, hoa lá. Vận chuyển bằng ghe trên sông rạch Nam Bộ. Hoa văn dân tộc, hoa lá. Nhà nổi trên sông rạch Nam Bộ. Hoa văn dân tộc, hoa lá. đồng
6. 5
đồng Nhà máy dệt vải. Hoa văn dân tộc, hoa lá.
Thu hoạch lúa trên cánh đồng Nam Bộ. Hoa văn dân tộc, hoa lá Dân, quân mừng chiến thắng Hoa văn dân tộc, hoa lá Dân, quân mừng chiến thắng Hoa văn dân tộc. Dân, quân mừng chiến thắng Hoa văn dân tộc.
7. 10 đ Phụ nữ Bắc – Trung – Nam và đoàn tàu thống nhất chạy suốt 3 miền. Hoa văn dân tộc, hoa lá.
8. 50 đ Trong công binh xƣởng, chia sẻ kinh nghiệm. Hoa văn dân tộc, hoa lá. Máy gặt công nghiệp trên cánh đồng mẫu lớn. Hoa văn dân tộc, hoa lá
194
PHỤ LỤC 1.15
BỐ CỤC VÀ TRANG TRÍ TIỀN GIẤY NGÂN HÀNG CHO MIỀN NAM
( DÙNG ĐỂ ĐỔI TIỀN CỦA CHẾ ĐỘ CŨ SAU NGÀY 30/4/1975)
Stt Mệnh Màu sắc Trang trí mặt trƣớc Trang trí mặt sau
giá
1. 10 xu Khung trang trí trên dƣới mặt trƣớc Nâu mặt sau Nâu vàng
dầy đặc, Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm
Xanh dƣơng 2. 20 xu Khung trang trí trên dƣới Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Xanh dƣơn g
3. 50 xu Khung trang Nâu đậm Nâu đậm trí xung quanh, trên dƣới cân đối qua tâm
4. 1 đồng Đỏ cam Đỏ cam Khung trang trí xung quanh dày đặc.Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh dày đặc.Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh dày đặc.Bố cục đối xứng qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh đăng đối giả qua trục trung tâm
5. 2 đồng Khung trang trí xung quanh , tập trung nhiều phía trên và dƣới. Cân đối qua trục ở trung tâm Khung trang trí trên dƣới Bố cục đối xứng giả qua trục trung tâm Xanh lục, tím Xanh lục, tím
6. 5 đồng Xanh lá cây
Khung trang trí trên dƣới Bố cục đối xứng giả qua trục trung tâm 7. 10 đ Khung trang
Xanh lục đậm Xanh lục, tím Xanh lục, tím
trí xung quanh , tập trung nhiều phía trên và dƣới. Cân đối qua trục ở trung tâm 8. 50 đ Khung trang
trí xung quanh , tập trung nhiều phía trên và dƣới. xanh lục đậm. xanh lá cây xanh lục đậm. xanh lá cây Khung trang trí xung quanh dày đặc. bố cục đối xứng qua trục trung tâm. Hình tƣợng chính gắn liền khung trang trí Khung trang trí xung quanh đăng đối giả qua trục trung tâm Khung trang trí xung quanh dày đặc. bố cục đối xứng qua trục trung tâm. Hình tƣợng chính gắn liền khung trang trí Khung trang trí xung quanh , tập trung nhiều phía trên và dƣới.Cân đối qua trục ở trung tâm
195
PHỤ LỤC 1.16
BẢNG TỔNG HỢP HÌNH ẢNH TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM 1978 – 1985
(THỐNG NHẤT TIỀN TỆ TRONG TOÀN QUỐC)
Stt Mệnh
giá Hình tƣợng mặt trƣớc
1. 5 hào Quốc huy, Hoa văn dân tộc,
hoa lá
2. 1 đồng Quốc huy, Hoa văn dân tộc, thép Thái
hoa lá
3. 2 đồng Quốc huy, Hoa văn dân tộc,
hoa lá
4. 5 đồng Quốc huy, Hoa văn dân tộc,
hoa lá
5. 10 đ Quốc huy, Hoa văn dân tộc,
hoa lá
6. 10 đ Quốc huy, Hoa sen, Hoa văn
dân tộc, hoa lá
Hình tƣợng mặt sau Phong cảnh kênh rạch miền Nam Nhà máy gang Nguyên Phong cảnh Sông Hƣơng – Huế. Hoa văn lƣới Cảng cá Hạ Long, tàu đánh cá hiện đại Voi kéo gỗ. Hoa văn dân tộc, hoa lá Phong cảnh Nhà sàn Bác Hồ ở Chủ tịch phủ. Hoa văn lƣới Máy cày bên đập nƣớc. Hoa văn dân tộc, hoa lá.
7. 20 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn bán diện. Hoa văn dân tộc, hoa lá
8. 30 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhìn thẳng. Hoa văn lƣới
9. 50 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thẳng ở rìa phải. Hoa văn dân tộc, hoa lá
Phong cảnh bến cảng Nhà Rồng và các con tàu lớn. Hoa văn lƣới Quang cảnh Công trƣờng thủy điện Sông Đà. Hoa văn dân tộc Phong cảnh Vịnh Hạ Long Hoa văn lƣới
10. 100 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoa văn trống đồng, hoa văn lƣới
196
PHỤ LỤC 1.17
BẢNG TỔNG HỢP BỐ CỤC VÀ TRANG TRÍ TRÊN
TIỀN GIẤY VIỆT NAM 1978 – 1985
(THỐNG NHẤT TIỀN TỆ TRONG TOÀN QUỐC)
Stt Mệnh
Màu sắc
Trang trí mặt trƣớc
Trang trí mặt sau
giá
trang
mặt trƣớc Xanh lục đậm
mặt sau Xanh lục đậm
1 đồng
Nâu, cam
Nâu, cam
2.
Xanh
Xanh
2 đồng
dƣơng đậm
dƣơng đậm
3.
1. 1 5 hào Khung trang trí xung quanh, tập trung nhiều phía trên và dƣới. Cân đối qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh, tập trung nhiều phía trên và dƣới. Cân đối qua trục ở trung tâm Khung trang trí xung quanh, dạng trang trí đƣờng diềm, có các góc trang trí. Cân đối qua trục ở trung tâm
trang
5 đồng
Xanh lục xám
Khung trang trí xung quanh, tập trung trên và dƣới.Cân đối qua trục ở trung tâm
Xanh lục, nâu vàng
trang
Tím, nền nâu
Tím, nền nâu
4.
Khung trí xung quanh dày đặc. bố cục đối xứng qua trục trung tâm. Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí Khung trí xung trang quanh dày đặc. bố cục đối xứng qua trục trung tâm. Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí Khung trí xung trang quanh dày đặc. bố cục đối xứng qua trục trung tâm. Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí Khung trí xung quanh dày đặc. bố cục đối xứng qua trục trung tâm. Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí Khung trí xung quanh dày đặc. bố cục đối xứng qua trục trung tâm Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí
5. 10 đ Khung trang trí xung quanh, tập trung trên và dƣới.Cân đối giả qua trục ở trung tâm
197
trang
Xanh lục xám
Xanh lục xám
Xanh
Xanh
dƣơng thẫm
dƣơng thẫm
6. 10 đ Khung trang trí xung quanh, tập trung trên và dƣới. Cân đối giả qua trục ở trung tâm
trí xung
trang
Nâu đỏ, hồng
Nâu đỏ, hồng
Khung trí xung quanh. bố cục đối xứng qua trục trung tâm. Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí Khung trí xung trang quanh. bố cục đối xứng giả, qua trục trung tâm Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí Khung trang quanh hoa văn lƣới. Cân đối qua trục ở trung tâm Khung trí xung quanh dày đặc. bố cục đối xứng qua trục trung tâm. Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí
quanh hoa văn lƣới. Cân đối giả qua trục ở trung tâm 9. 50 đ Khung trang trí xung quanh, tập trung trên và dƣới. Cân đối giả qua trục ở trung tâm
trang
Tím và nâu sẫm
Tím và nâu sẫm
7. 20 đ Khung trang trí xung quanh, tập trung trên và dƣới. Cân đối giả qua trục ở trung tâm 8. 30 đ Khung trang trí xung
trí xung Khung quanh, tập trung trên và dƣới. Cân đối giả qua trục ở trung tâm Hình tƣợng chính nằm trong khung trang trí
10. 100 đ Khung trang trí xung quanh, tập trung trên và dƣới. Cân đối giả qua trục ở trung tâm
198
PHỤ LỤC 1.18
BẢNG TỔNG HỢP HÌNH ẢNH TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM
1985 – 1987
Stt Mệnh
Hình tƣợng mặt trƣớc Hình tƣợng mặt sau
giá
1. 5 hào Quốc huy, Cột cờ Hà Nội. Hoa văn lƣới. Hoa sen
2. 1
đồng
3. 2
đồng
4. 5
đồng Hoa văn dân tộc, hoa lá. Quốc huy, Cột cờ Hà Nội. Hoa sen Quốc huy, Cột cờ Hà Nội, Hoa sen Quốc huy, Cột cờ Hà Nội. Hoa văn dân tộcvà hoa văn lƣới
5. 10 đ Quốc huy, Cột cờ Hà Nội. Hoa
văn dân tộc, và hoa văn lƣới
6. 20 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hoa văn dân tộc, và hoa văn lƣới
7. 30 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Hoa văn dân tộc và hoa văn lƣới
Hòn Phụ tử - Hà Tiên Hoa văn lƣới Phong cảnh bến thuyền. Chim phƣợng thuyền Sông Hƣơng, cầu Trƣờng Tiền. Hoa văn lƣới, dân tộc. Cầu Thê Húc.Họa tiết Hoa sen và hoa văn lƣới Phong cảnh Chùa Một cột. Hoa văn dân tộc, hoa lávà hoa văn lƣới Phong cảnh Chợ Bến Thành – Sài Gòn Hoa văn dân tộc, hoa lávà hoa văn lƣới Phong cảnh Cầu Thăng Long. Hoa văn dân tộc, hoa lávà hoa văn lƣới
8. 50 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hoa sen. Hoa văn dân tộc, hoa lávà hoa văn lƣới
9. 50 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hoa văn dân tộc và hoa văn lƣới
Phong cảnh đập thủy điện Hòa Bình. Hoa văn dân tộc, hoa lávà hoa văn lƣới. Cảnh phụ nữ cấy lúa trên đồng ruộng, có đoàn tàu hỏa phía sau.
10. 100 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hoa văn dân tộc, hoa văn lƣới
11. 500 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sen. Hoa văn dân tộc, hoa văn lƣới Phong cảnh nhà máy gang thép Thái Nguyên. Hoa văn dân tộc và hoa văn lƣới
199
PHỤ LỤC 1.19
BẢNG TỔNG HỢPBỐ CỤC VÀ TRANG TRÍ TIỀN GIẤY VIỆT NAM
1985 – 1987
Màu sắc
Trang trí mặt trƣớc
Trang trí mặt sau
mặt sau
1.
Stt Mện h giá 5 hào
Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa văn.
mặt trƣớc Đỏ, tím
Đỏ, tím
2. 1 đ Phần nền trang trí tràn
Xanh lục Xanh lục
rộng. Cụm trang trí
3. 2 đ Trang trí đƣờng diềm trên
dƣới. các cụm hoa văn.
4.
Tím than, hồng lá cây, lơ Tím than, hồng Xanh lá cây
5.
Nâu tím Nâu tím
5 đ Trang trí đƣờng diềm dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí tràn rộng. 10 đ Trang trí đƣờng diềm dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí tràn rộng.
6. 20 đ Trang trí đƣờng diềm dƣới.
Hồng tím Hồng tím
các cụm hoa văn. Phần nền trang trí tràn rộng.
7.
Xanh dƣơng Xanh dƣơng
8. 30 đ Trang trí đƣờng diềm dƣới. các cụm hoa văn.Phần nền trang trí tràn rộng. 50 đ Khung trang trí trên dƣới.
các cụm hoa văn Nâu, lục
9. 50 đ Trang trí đƣờng diềm dƣới.
Nâu, xanh lục Xanh xám, lơ Xanh xám, lơ
các cụm hoa văn. Phần nền trang trí tràn rộng.
Khung trang trí xung quanh đối xứng qua tâm. Khung trang trí trên dƣới, có các cum trang trí Khung trang trí xung quanh đối xứng giả qua trục trung tâm Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa văn. Trang trí đƣờng diềm trên và dƣới. các cụm hoa văn.Phần nền trang trí tràn rộng. Trang trí đƣờng diềm trên và dƣới. các cụm hoa văn.Phần nền trang trí tràn rộng. Khung trang trí xung quanh và các cụm trang trí. Khung trang trí xung quanh và các cụm trang trí Trang trí đƣờng diềm dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí tràn rộng.
200
10.
100 đ
Nâu, xanh lá cây Nâu, xanh lá cây
Trang trí đƣờng diềm dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí tràn rộng.
Nâu đỏ Nâu đỏ
11. 500 đ
Trang trí đƣờng diềm dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí giới hạn trong khung trang trí
Trang trí đƣờng diềm dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí tràn rộng. Trang trí đƣờng diềm dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trong khung
PHỤ LỤC 1.20
BẢNG TỔNG HỢP HÌNH ẢNH TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM
1987 – 2003
Stt Mệnh
Hình tƣợng
Hình tƣợng
giá
mặt trƣớc
mặt sau
Phong cảnh Tháp Phổ Minh
1. 100 đ Quốc huy,
Hoa văn dân tộc, hoa lá, hoa văn
Hoa văn lƣới
lƣới
Phong cảnh nông dân gặt lúa,
2. 200 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh.Hoa văn dân tộc, hoa
máy cày. Hoa văn dân tộc, hoa lá
văn lƣới. Hoa sen
Cảng Hải Phòng, tàu thủy lớn dỡ
3. 500 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Hoa sen.
hàng. Hoa văn dân tộc và hoa
Hoa văn dân tộc, hoa lávà hoa văn
văn lƣới, hoa sen
lƣới
Cảnh máy xúc lớn khai thác than
4. 1000 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Hoa sen thời Trần.
Hoa văn dân tộc, hoa văn lƣới
Hoa văn dân tộc, hoa lávà hoa văn
lƣới
201
Cảnh voi kéo gỗ, khai thác gỗ
5. 1000 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Hoa sen. Hoa văn dân
Hoa văn dân tộc, hoa văn lƣới
tộc và hoa văn lƣới
Phong cảnh nhà máy xi măng
6. 2000 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Hoa văn dân tộc, hoa lá
và hoa văn lƣới
Cảnh dệt vải trong nhà máy dệt
7. 2000 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Hoa sen, Hoa văn dân
Hoa văn dân tộc, hoa lá
tộc và hoa văn lƣới
Phong cảnh dàn khoan dầu trên
8. 5000 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Hoa sen , mây lửa, hoa
biển
lá
Hoa văn dân tộc, hoa lá
Nhà máy thủy điện
9. 5000 đ Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Hoa văn lƣới. Hoa sen
Hoa văn dân tộc, hoa lá
Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Thuyền buồm
trên Vịnh Hạ
10. 10.000
đ
Chí Minh. Hoa sen , Hoa văn dân
Long.
tộc, hoa lá
Hoa văn dân tộc,
Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Nhà máy đóng hộp
thực
11. 20.000
đ
Chí Minh. Hoa văn dân tộc, hoa lá
phẩm.Hoa văn dân tộc, hoa sen,
hoa văn lƣới
Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
Phong cảnh Bến Nhà Rồng.
12. 50.000
đ
Chí Minh. Hoa sen,
Hoa văn dân tộc, hoa văn lƣới
Hoa văn dân tộc, hoa lá, hoa văn
lƣới
Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ
13. 100.00
0 đ
Chí Minh. Hoa sen. Hoa văn dân
tộc, hoa văn lƣới
Nhà sàn Bác Hồ ở Phủ Chủ tịch. Chim phƣợng Hoa văn dân tộc, hoa văn lƣới
202
PHỤ LỤC 1.21
BẢNG TỔNG HỢP BỐ CỤC VÀ TRANG TRÍ TRÊN TIỀN GIẤY
VIỆT NAM 1987 – 2003
Stt Mệnh
Màu sắc
giá
Trang trí mặt trƣớc
Trang trí mặt sau
1. 100 đ Trang trí đƣờng diềm trên/
trí đƣờng diềm
mặt trƣớc Lục, Nâu nhạt
mặt sau Lục, Nâu nhạt
dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng.
2. 200 đ Trang trí đƣờng diềm trên
Nâu hồng
Nâu hồng
dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng.
3. 500 đ Trang trí đƣờng diềm trên
Hồng sen
Hồng sen
dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng.
4. 1000
đ
Nâu đen
Nâu đen
Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng.
5. 1000
đ
Nâu đen
Nâu đen
Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng.
6. 2000
đ
Nâu tím
Nâu tím
Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng.
7. 2000
đ
Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa văn.
Trang dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng. Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng. Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng. trí đƣờng diềm Trang trên dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng. Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng. Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng. Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. các cụm hoa
Nâu tím
Nâu tím
203
8. 5000
đ
Xanh dƣơng
Xanh dƣơng
Phần nền trang trí không tràn rộng. Trang trí diềm dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng
9. 5000
đ
Xanh dƣơng
Xanh dƣơng
Đỏ
10. 10.00 0 đ
Đỏ cam
Trang trí diềm dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng Trang trí đƣờng diềm trên dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng
11. 20.00 0 đ
Xanh dƣơng đậm
Xanh dƣơng đậm
Trang trí đƣờng diềm trên dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng
12. 50.00 0 đ
Xanh lục đậm
Xanh lục đậm
Trang trí đƣờng diềm trên dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng
Nâu
Nâu
13. 100.0 00 đ
Trang trí đƣờng diềm trên dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng
văn.Phần nền trang trí không tràn rộng. Trang trí đƣờng diềm trên dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng Trang trí diềm dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng trí đƣờng diềm Trang trên dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng Trang trí đƣờng diềm trên dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng Trang trí đƣờng diềm trên dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng trí đƣờng diềm Trang trên dƣới các cụm hoa văn. Phần nền trang trí không tràn rộng
204
PHỤ LỤC 1.22
BẢNG TỔNG HỢP HÌNH ẢNH TRÊN TIỀN GIẤY POLYMER
( HỆ THỐNG TIỀN GIẤY HIỆN HÀNH)
Stt Mệnh
Hình tƣợng
Hình tƣợng
giá
mặt trƣớc
mặt sau
Quốc huy, chân dung Chủ tịch
Phong cảnh dàn khoan dầu trên
1. 10.000
đ
Hồ Chí Minh. Hoa văn dân tộc,
biển
hoa văn lƣới
Hoa văn dân tộc, hoa văn lƣới
Quốc huy, chân dung Chủ tịch
Phong cảnh Chùa Cầu – Hội An.
2. 20.000
đ
Hồ Chí Minh. Hoa văn dân tộc,
Hoa văn dân tộc, hoa văn lƣới
hoa văn lƣới
Quốc huy, chân dung Chủ tịch
Phong cảnh Huế.
3. 50.000
đ
Hồ Chí Minh. Hoa văn dân tộc,
Hoa văn dân tộc (chim Phƣợng),
hoa văn lƣới
hoa văn lƣới
Quốc huy, chân dung Chủ tịch
Phong cảnh Văn Miếu – Hà Nội
4. 100.000
đ
Hồ Chí Minh. Hoa văn dân tộc,
Hoa văn lƣới
hoa văn lƣới
Quốc huy, chân dung Chủ tịch
Phong cảnh Vịnh Hạ Long.
5. 200.000
đ
Hồ Chí Minh. Hoa văn dân tộc
Hoa văn lƣới
và hoa văn lƣới
Quốc huy, chân dung Chủ tịch
Phong cảnh nhà Bác ở làng Kim
6. 500.000
đ
Hồ Chí Minh. Hoa sen. Hoa văn
Liên.
dân tộc và hoa văn lƣới
Hoa sen, hoa văn dân tộc, hoa văn
lƣới
205
PHỤ LỤC 1.23
BẢNG TỔNG HỢP BỐ CỤC VÀ TRANG TRÍ TIỀN GIẤY POLYMER
( HỆ THỐNG TIỀN GIẤY HIỆN HÀNH)
Stt Mệnh
Màu sắc
Trang trí mặt trƣớc
Trang trí mặt sau
giá (đ)
mặt trƣớc Nâu đậm, nền vàng In lõm Xanh dƣơng đậm In lõm
1. 10.000 Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm. Không có lề, nền tràn tờ tiền, cửa sổ không in 2. 20.000 Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm.Không có lề, nền tràn tờ tiền. Cửa sổ không in
Hồng tím In lõm
mặt sau Nâu đậm, nền vàng Xanh dƣơng đậm. in ốp- xét Hồng tím In ốp- xét
4. 100.00
0
Xanh lá cây đậm In lõm
Xanh lá c ây đậm In lõm
5. 200.00
0
Nâutí m In lõm
Nâu tím In lõm
6. 500.00
0
Xanh lơ tím đậm In lõm
Xanh lơ tím đậm In lõm
3. 50.000 Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm.Không có lề, nền tràn tờ tiền. Cửa sổ không in Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm.Không có lề, nền tràn tờ tiền. Cửa sổ không in Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm.Không có lề, nền tràn tờ tiền.Phần cửa sổ có in Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm. Không có lề, phần nền tràn tờ tiền.Phần cửa sổ không in
Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm. Không có lề, nền tràn tờ tiền, cửa sổ không in Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm. Không có lề, nền tràn tờ tiền.Cửa sổ không in Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm. Không có lề, nền tràn tờ tiền. Cửa sổ không in Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm. Không có lề, nền tràn tờ tiền. Cửa sổ không in Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm. Không có lề, phần nền tràn tờ tiền. Cửa sổ có in Mảng trang trí lớn tập trung ở giữa, tràn nền. Trang trí theo từng cụm. Không có lề, phần nền tràn tờ tiền.Phần cửa sổ không in
206
PHỤ LỤC 2.23
BỐ CỤC VÀ GÓC NHÌN CỦA CHÂN DUNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRÊN TIỀN TÀI CHÍNH
TT
Hệ
Mệnh
Phát hành
Góc nhìn
Bố cục
giá
thống
1 đ
1946
chính diện
giữa
1.
5 đ
1946
chính diện
lệch trái
2.
Phát
3.
hành
20 đ
1946
chính diện
lệch trái
đợt 1.
50 đ
1947
chính diện
giữa
4.
100 đ
1946
chính diện
giữa
5.
20 xu
1948
nghiêng
giữa
6.
50 xu
1948
nghiêng
lệch phải
7.
Phát
8.
5 đ
1948
chính diện
giữa
hành
9.
lần 2
10 đ
1948
nghiêng
lệch phải
50 đ
1948-1949
nghiêng
lệch trái
10.
100 đ
1948
nghiêng
giữa
11.
( đỏ)
100 đ
1949
nghiêng
lệch phải
12.
200 đ
1950
nghiêng
lệch phải
13.
500 đ
1949
nghiêng
lệch phải
14.
207
PHỤ LỤC 2.24
BỐ CỤC VÀ GÓC NHÌN CHÂN DUNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRÊN TIỀN NAM BỘ
STT Mệnh giá Phát Góc nhìn Bố cục
hành
1. 1 đ chính diện Lệch phải
2. 5 đ nghiêng Lệch trái
3. 1948 1948 1949 nghiêng Lệch phải
4. 1952 nghiêng Lệch trái
5. 1949 nghiêng Lệch trái
6. 1950 chính diện giữa
7. 1951 nghiêng giữa
8. 1949 chính diện lệch trái
9. chính diện giữa 1947- 1949
10. 1952 nghiêng Lệch trái
20 đ Bộ đội 20 đ Nông dân 50 đ Đại đoàn kết 50 đ Vệ quốc quân 50 đ Công nông 100 đ Tăng gia sản xuất 100 đ Toàn quốc chống xâm lăng 100 đ Công nông
208
PHỤ LỤC 2.25
BỐ CỤC VÀ GÓC NHÌN CHÂN DUNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TÍN PHIẾU LIÊN KHU V ( TRUNG BỘ )
STT
Mệnh giá
Phát hành
Góc nhìn
Bố cục
1. 1 đ 1947 -1955 nghiêng giữa
Nông dân cày
ruộng
1947 -1955 chính diện giữa 5 đ 2.
1947 1955 chính diện giữa 20 đ 3.
1951 chính diện giữa 50 đ 4.
1951 nghiêng lệch phải 5. 50 đ Công –
Nông - Binh
6. 100 đ 1951 chính diện lệch phải
Chiến sĩ trên
hình ngôi sao
7. 100 đ 1951 nghiêng lệch trái
Công – Nông -
Binh
8. 500 đ 1951 nghiêng lệch phải
Công - Nông
9. 1000 đ 1951 nghiêng lệch phải
Dân công tải
đạn
10. 1000 đ 1953 nghiêng giữa
Tích cực chuẩn
bị tổng phản
công
209
PHỤ LỤC 2.26
BỐ CỤC VÀ GÓC NHÌN CHÂN DUNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TIỀN NGÂN HÀNG (1951-1958)
STT
Mệnh giá 10 đ Phát hành 1951 Góc nhìn chính diện Bố cục lệch trái 1.
chính diện lệch trái 20 đ 2. 1951
chính diện lệch phải 50 đ 3. 1951
chính diện lệch phải 100đ 4. 1951
chính diện lệch trái 200 đ 5. 1951
chính diện lệch trái 500 đ 6. 1951
chính diện lệch trái 7. 1000 đ 1951
chính diện lệch trái 8. 5000 đ 1953
PHỤ LỤC2.27
BỐ CỤC VÀ GÓC NHÌN CHÂN DUNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TIỀN NGÂN HÀNG (1959-1978)
STT Góc nhìn Bố cục
Mệnh giá 1 hào Phát hành 1959 1.
2. 2 hào 1959
Không có chân dung 3. 5 hào 1959
4. 1 đ 1959
5. 2 đ 1959
6. 5 đ 1959 chính diện lệch phải
7. 10 đ 1959 bán diện lệch phải
210
PHỤ LỤC 2.28
BỐ CỤC VÀ GÓC NHÌN CHÂN DUNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TIỀN NGÂN HÀNG (1978 - 1985)
STT Mệnh giá Góc nhìn Bố cục
1. 5 hào Phát hành 1978-1981
2. 1 đ 1978-1981
Không có chân dung 3. 2 đ 1981
4. 5 đ 1981
5. 10 đ 1981
6. 20 đ 1978-1981 Bán diện lệch phải
7. 30 đ 1981 Chính diện lệch phải
8. 50 đ 1978-1981 Chính diện lệch phải
9. 100 đ 1981 Chính diện lệch phải
PHỤ LỤC 2.29
CÁC TÁC GIẢ THIẾT KẾ MẶT TRƢỚC BỘ TIỀN PHÁT HÀNH 1978
(Chỉ tính mẫu có chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Họa sỹ Công nghệ STT
Huỳnh Văn Thuận Mặt trƣớc Mẫu 20 đ Năm phát hành 1978 In lõm 1
Phạm Văn Quế 30 đ 1981 In lõm 2
Bùi Trang Trƣớc 50 đ 1978 In lõm 3
Nguyễn Xuân Tăng 100 đ 1981 In lõm 4
211
PHỤ LỤC 2.30 BỐ CỤC VÀ GÓC NHÌN CHÂN DUNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TIỀN VIỆT NAM (1985 - 2003)
STT Mệnh giá Phát hành Góc nhìn Bố cục
1985-1987 5 hào 1.
1985-1987 1 đồng 2.
Không có chân dung 1985 2 đồng 3.
1985 5 đồng 4.
1985 10 đ 5.
1985 Chính diện lệch phải 20 đ 6.
1985 Chính diện lệch phải 30 đ 7.
1985 Chính diện lệch phải 50 đ 8.
1985 Chính diện lệch phải 50 đ 9.
1985 Chính diện lệch phải 100 10.
1985 Chính diện lệch phải 500 đ 11.
1992 Không có chân dung 100 đ 12.
1987 Chính diện lệch phải 200 đ 13.
1989 Chính diện lệch phải 500 đ 14.
1987 Chính diện lệch phải 1000 đ 15.
1988 Chính diện lệch phải 1000 đ 16.
1987 Chính diện lệch phải 2000 đ 17.
1989 Chính diện lệch phải 2000 đ 18.
1988 Chính diện lệch phải 5000 đ 19.
1991 Chính diện lệch phải 5000 đ 20.
lệch phải 10.000 đ 21. 1992-1993 Chính diện
lệch phải 20.000 đ 22. 1993 Chính diện
lệch phải 50.000 đ 23. 1993-1994 Chính diện
lệch phải 24. 100.000 đ 2000 Chính diện
212
PHỤ LỤC 2.31
CÁC TÁC GIẢ THIẾT KẾ MẶT TRƢỚC
BỘ TIỀN PHÁT HÀNH 1985
STT Họa sỹ Mẫu Phát hành Công nghệ
1. Nguyễn Thanh 20 đ 1985 In lõm
2. Phạm Văn Quế 30 đ 1985 In lõm
3. Nguyễn Thanh 50 đ 1985 In ốp-xét
4. Sơn Hải 500 đ 1985 In lõm
5. Nguyễn Xuân Tăng 200 1987 In ốp-xét
6. Nguyễn Xuân Tăng 1.000 1987 In lõm
7. Nguyễn Thanh 1.000 1988 In ốp-xét
8. Lại Đăng Bạch 2.000 1987 In lõm
In lõm (LB Nga)
9. Sơn Hải 2.000 1988 In ốp-xét
In lõm (Thụy
10. Sơn Hải 5.000 1988
Sỹ)
11. Lê Hoàng Từ 5.000 1991
12. Sơn Hải 10.000 1990 In lõm
In lõm (Thụy
(LBNga)
Sỹ)
In lõm (Thụy
13. Lại Đăng Bạch 20.000 1991
Sỹ)
In lõm (Thụy
14. Sơn Hải 50.000 1994
Sỹ)
15. Nguyễn Xuân Tăng 100.000 2000
213
PHỤ LỤC 2.32
BỐ CỤC VÀ GÓC NHÌN CHÂN DUNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TIỀN POLYMER PHÁT HÀNH 2003
Phát hành 2006 STT Mệnh giá 1. 10.000 đ Góc nhìn Chính diện Bố cục lệch phải
2006 2. 20.000 đ Chính diện lệch phải
2003 3. 50.000 đ Chính diện lệch phải
2004 4. 100.000 đ Chính diện lệch phải
2006 5. 200.000 đ Chính diện lệch phải
2003 6. 500.000 đ Chính diện lệch phải
PHỤ LỤC 2.33
CÁC TÁC GIẢ THIẾT KẾ MẶT TRƢỚC BỘ TIỀN POLYMER
STT Họa sỹ Công nghệ
1. Hồ Trọng Minh Mẫu/mệnh giá 10.000 Năm phát hành 2006 In lõm
2. Nguyễn Xuân Tăng 20.000 2006 In lõm
3. Nguyễn Xuân Tăng 50.000 2003 In lõm
4. Nguyễn Xuân Tăng 100.000 2004 In lõm
5. Trần Tiến 200.000 2006 In lõm
6. Trần Tiến 500.000 2003 In lõm
214
PHỤ LỤC 3.34
BẢNG TỔNG HỢP BIẾN ĐỔI VỀ TRANG TRÍ TIỀN GIẤY VIỆT NAM
QUA CÁC THỜI KỲ
STT
Họa tiết
Đặc điểm trang trí
Bộ tiền 1. Tiền Tài chính
Có khung trang trí xung quanh. Hình vẽ mang phong cách hội họa, sinh động
2. Tiền giấy Nam Bộ
3. Tín phiếu
Liên khu V tiền
4. Bộ
Sử dụng một số hoa văn thời Nguyễn nhƣ rồng, phƣợng. Trang trí bằng hình ảnh chủ đề kháng chiến, Ít hoa văn trang trí Trang trí bằng hình ảnh , chủ đề kháng chiến Ít hoa văn trang trí. Trang trí bằng hình ảnh kháng chiến. Khung trang trí hoa văn lƣới. Không có hoa văn dân tộc.
1951
5. Bộtiền 1959
Hình vẽ phong phú, các mảng hình mạnh , nét vẽ dài và uốn lƣợn. Phong cách đơn sơ, nét vẽ thô mộc Nét khắc tinh tế.Hình vẽ không ra đặc điểm ngƣời Việt. Cấu trúc trang trính vòm nhƣ cuốn thƣ cửa võng, phong cách trang trí đình làng.
6. Tiền Ủy ban 7. Bộ
tiền
Khung trang trí xung quanh . Hoa văn dân tộc dày đặc (phong cách bắc bộ thế kỷ XVII-XVIII), phối hợp hoa văn lƣới. Hoa văn dân tộc dày đặc, phong cách hoa văn miền Bắc Hoa văn dân tộc dày đặc nhƣ phong cách trang trí đình làng.
Mặt trƣớc khung trang trí trên và dƣới. Mặt sau: khung trang trí xung quanh, để lề rộng. Mặt trƣớc khung trang trí trên và dƣới. Mặt sau, khung trang trí xung quanh, để lề rộng.
1975 Phát hành vào miền Nam
8. Bộ
tiền
Hoa văn dân tộc dày đặc và rất uốn lƣợn.
1978 9. Bộ
tiền
1985
10. Bộ tiền
polymer
Các hoa văndân tộc và kỷ hà khá to và có cảm giác thể hiện vội vàng Hoa văn dân tộc ít, chỉ sử dùng từng cụm nhỏ. Có cách điệu
Bắt đầu có biển đổi phong cách trang trí, từ đóng khung sang dùng đƣờng diềm Trang trí đƣờng diềm trên dƣới. Sử dụng hoa văn dân tộc có cách điệu và hoa văn lƣới. Phong cách trang trí tự do theo mảng. Trang trí đƣờng
215
hoa văn
diềm nhỏ bên dƣới mặt trƣớc.
PHỤ LỤC 3.35
BIẾN ĐỔI CỦA MÀU SẮC TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM
QUA CÁC THỜI KỲ
STT
Bộ tiền
Cách dùng
Màu chủ đạo
1. Tiền Tài chính Giai đoạn đầu: nhiều màu.
Giai đoạn sau: Nâu đậm, xanh đậm.
Nâu đậm , lá cây đậm
Nâu
2. Tiền giấy Nam Bộ 3. Tín phiếu
Nâu, xanh
Liên khu V 4. Bộ tiền 1951
tiền
5. Bộ Bộ 1959
6. Tiền Ủy ban
Nâu, Màu đỏxuất hiện lần đầu tiên Nâu, xanh lá cây
Giai đoạn đầu khoảng 4 màu phối hợp. Giai đoạn sau từ 1-2 màu/mặt in đơn sắc. Từ 1-2 màu/mặt. in màu đơn sắc, in chuyển. Thƣờng in 1 màu/mặt. Màu đơn sắc, in lõm là chủ đạo. In nền màu nhẹ, để lề trắng Màu đơn sắc, in lõm là chủ đạo. In nền màu nhẹ.In nền tràn, để lề rộng. In phối hợp các màu,
7. Bộ tiền 1975
Nhiều màu. Tông màu nâu, xanh
Màu chủ đạo 1 màu, và nền nhiều màu. In 1 màu chủ đạo có cách sắc. Các màu nền phối hợp
Phát hành vào miền Nam 8. Bộ tiền 1978 nhất (Thống tiền tệ trong cả nước)
Nhiều màu. Tông màu xanh, nâu, Xuất hiện các màu nền hồng, tím, vàng tƣơi
10. Bộ tiền
Giai đoạn đầu in lõm Giai đoạn sau ốp sét Giai đoạn cuối in lõm In lõm màu đậm. Nền in nhiều màu
9. Bộ tiền 1985 Nâu, nâu đen, xanh lam, lá cây. Duy nhất 1 mẫu màu đỏ Nâu, Hồng, Xanh lam, Lá cây. Hồng, vàng đƣợc sử dụng nhiều trong nền
polymer (phát hành 2003-2006)
216
PHỤ LỤC 3.36
THỐNG KÊ SỐ MẪU VÀ GÓC ĐỘCHÂN DUNG
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
STT Bộ tiền Số mẫu có Số mẫu có chân Tỷ lệ
chân dung dung chính diện
1 Tiền Tài chính 14 6 43%
2 Tiền giấy Nam Bộ 10 4 40%
3 Tín phiếu Liên khu V 10 4 40%
4 Bộ tiền 1951 8 8 100%
5 Bộ tiền 1959 2 1 50%
6 Bộ tiền 1978 4 3 75%
7 Bộ tiền 1985 17 16 94%
8 Bộ tiền polymer 6 6 100%
PHỤ LỤC 3.37
THỐNG KÊ MẪU CÓ CHÂN DUNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Ở CHÍNH GIỮA
STT Bộ tiền Số mẫu có Mẫu có chân Tỷ lệ
chân dung Bác dung ở giữa
1 Tiền Tài chính 14 6 43%
2 Tiền giấy Nam Bộ 10 3 33%
3 Tín phiếu Liên khu V 10 5 50%
4 Bộ tiền 1951 8 0 0%
5 Bộ tiền 1959 2 0 0%
6 Bộ tiền 1978 4 0 0%
7 Bộ tiền 1985 17 0 0%
8 Bộ tiền polymer 6 0 0%
217
PHỤ LỤC 3.38
BẢNG SO SÁNH PHƢƠNG PHÁP IN CÁC DẠNG ĐỒ HỌA CHỦ YẾU
Ở VIỆT NAM
Số
Stt Dạng Phƣơng Giấy Màu Yếu tố Chế bản
bản
1-2
đồ họa pháp in bổ sung
1. Tranh Thƣờng Thông Pha Vẽ tay Thủ công
đồ họa dùng 1 thƣờng màu trực tiếp
giá vẽ phƣơng thủ hoặc
3
pháp in công dán
2. Xuất In ốp-xét Thông 4 Không Ra phim /
bản thƣờng bản bằng kỹ
4 4
phẩm thuật số
5
3. Đồ họa In ốp-xét Thông 4 Không Ra phim /
quảng Hoặc in thƣờng bản bằng kỹ
4
cáo phun thuật số
4. Tem In ốp-xét 4 Không Ra phim /
bản bằng kỹ
Nhiều
thuật số
bản
5. Tiền Dùng đồng Đặc 10-20 Nhiều Khắc tay,
giấy thời 3 biệt, có yếu tố: ăn mòn,
phƣơng bóng Dập nổi, khắc máy.
pháp in là chìm, sợi kim Ra phim /
in lõm loại, cửa bản bằng kỹ phát
nhiều màu, sổ, khắc thuật số quang,
in ốp-xét dây an lazer,
simuntal toàn Mực đổi
và typo số màu…
nhảy
218
PHỤ LỤC 3.39
BIẾN ĐỔI HÌNH ẢNH SỬ DỤNG TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM
QUA CÁC THỜI KỲ
STT Bộ tiền Hình ảnh
1. Tiền Tài chính Chiến đấu, Nông dân, Vệ quốc, Lao động, Khối
Công- Nông- Binh-Trí
2. Bộ tiền 1951 Lao động, chiến đấu, Khối Công-Nông-Binh
(không xuất hiện hình ảnh trí thức)
3. Bộ tiền 1959 Lao động, sản xuất công nghiệp, công trƣờng
lớn, khối đoàn kết Công-Nông-Binh-Trí.
4. Bộ tiền 1978 Lao động, sản xuất công nghiệp, nhà máy công
trƣờng, danh lam thắng cảnh
5. Bộ tiền 1985 Phong cảnh, cảnh các công trình công nghiệp,
6. Bộ tiền polymer Phong cảnh quê hƣơng đất nƣớc
PHỤ LỤC 3.40
TỶ LỆ HÌNH TƢỢNG NGƢỜI VÀ PHONG CẢNH
TRONG CÁC BỘ TIỀN VIỆT NAM
STT Bộ tiền Tỷ lệ mẫu ngƣời/phong cảnh Mẫu phát hành Số mẫu phong cảnh
Số mẫu dùng hình tƣợng ngƣời 1. Tiền Tài chính 15 0 Ngƣời: 100% 15
2. Bộ tiền 1951 8 8 0 Ngƣời: 100%
3. Bộ tiền 1959 11 8 3 Ngƣời: 75%
4. Bộ tiền 1978 10 2 8 Phong cảnh: 80%
5. Bộ tiền 1985 24 4 20 Phong cảnh: 80%
6. Bộ tiền polymer 6 0 6 Phong cảnh: 100%