BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

LÊ HUY ĐOÀN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG

NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI-2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

LÊ HUY ĐOÀN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG

NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Chuyên ngành : Kinh tế phát triển

Mã số : 9310105

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn

HÀ NỘI-2018

i

LỜI CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận án là trung thực và nội dung này chưa từng được ai công

bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Lê Huy Đoàn

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ tôi, đến gia đình của tôi đã

yêu thương và ủng hộ tôi vô điều kiện trong suốt những năm qua.

Đặc biệt cảm ơn PGS-TS. Nguyễn Ngọc Sơn đã tận tình hướng dẫn, góp

ý, hỗ trợ cả về mặt lý luận và thực tiễn trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn

thiện luận án.

Xin cảm ơn chân thành đối với Viện Chiến lược Phát triển, đặc biệt là

PGS. TS. Bùi Tất Thắng, TS. Đặng Quốc Tuấn và các nhà khoa học đã có những

gợi ý ban đầu đối với đề tài nghiên cứu này và những ý kiến đóng góp quý báu

để hoàn thiện luận án, đã tạo điều kiện về thời gian, tinh thần và những hỗ trợ

khác cho tác giả trong quá trình học tập và thực hiện luận án.

Xin chân thành cảm ơn Học viện Chính sách và Phát triển và các đồng

nghiệp, đặc biệt là PGS-TS. Đào Văn Hùng, ở những mức độ khác nhau, đã có

những hỗ trợ, ủng hộ quý giá và là một phần không thể thiếu trong luận án của

tôi.

Tác giả

Lê Huy Đoàn

iii

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của Đề tài ................................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 4

2.1. Mục tiêu chung .............................................................................................. 4

a) Về mặt lý luận ................................................................................................... 4

b) Về mặt thực tiễn ................................................................................................ 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5

3.2 Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 5

4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6

4.1. Phương pháp tiếp cận .................................................................................... 6

4.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6

5. Những đóng góp mới của luận án ..................................................................... 7

6. Kết cấu của luận án ........................................................................................... 7

CHƯƠNG 1 .......................................................................................................... 9 TỔ NG QUAN CÁ C CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨ U LIÊN QUAN TỚ I ĐỀ TÀI

............................................................................................................................... 9

1.1. Các công trình trong nướ c ............................................................................. 9 1.2.Các công trình nghiên cứu ngoài nước có liên quan .................................... 19

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ..................................................................................... 31

CHƯƠNG 2 ........................................................................................................ 33 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤ T LƯỢNG TĂNG

TRƯỞ NG CÔNG NGHIỆP ............................................................................... 33

2.1. Cơ sở lý luận về chất lươ ̣ng tăng trưở ng ngành công nghiê ̣p ...................... 33

2.1.1. Khái niệm chất lượng tăng trưởng ............................................................ 33

2.1.1.1 Tăng trưởng kinh tế về mặt lượng .......................................................... 33

2.1.1.2. Quan niệm về chất lượng tăng trưởng ................................................... 35

iv

2.1.2. Chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp ...................................... 39

2.1.2.1. Khái niệm ............................................................................................... 39

2.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng công nghiệp ................... 42

2.2. Kinh nghiê ̣m các nướ c trong phát triển công nghiê ̣p và nâng cao chất lươ ̣ng công nghiê ̣p ......................................................................................................... 50

2.2.1. Thái Lan .................................................................................................... 50

2.2.2. Trung Quốc ............................................................................................... 52

2.2.3 Kinh nghiệm quốc tế trong định hướng phát triển công nghiệp ............... 53

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ..................................................................................... 60

CHƯƠNG 3 ........................................................................................................ 61 THỰC TRẠNG CHẤ T LƯỢNG TĂNG TRƯỞ NG CÔNG NGHIỆP VIỆT

NAM THỜ I KỲ 2001-2015 VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU NÂNG CAO CHẤT

LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ...................... 61

3.1. Vị trí của ngành công nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam .......................... 61

3.2. Thực tra ̣ng chất lươ ̣ng tăng trưởng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam ........................ 63

3.2.1. Đánh giá cấu trúc của tăng trưởng ............................................................ 63

3.2.2. Hiệu quả của việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng ...................................... 71

3.2.3. Đánh giá tác động lan tỏa của tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh tế .. 78

3.3. Các nhân tố tác đô ̣ng tớ i chất lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam từ

nay đến năm 2025 và tầm nhìn 2030 .................................................................. 92

3.3.1. Quan điểm phát triển các ngành công nghiệp .......................................... 92

3.3.2. Xu hướng công nghiệp thế giới ................................................................ 96

3.3.2.1. Hội nhập kinh tế thế giới của kinh tế Việt Nam .................................... 96

3.3.2.2. Xu thế phát triển công nghiệp của thế giới theo hướng bền vững ........ 99

3.3.3. Công nghiệp phụ trợ ............................................................................... 102

3.3.4. Hiệu quả sử dụng nguồn lực ................................................................... 105

3. 3.5. Chất lượng nguồn nhân lực ................................................................... 110

3.3.6. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp ................................................... 111

v

3.4. Đánh giá chung về chất lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam ......... 113

3.4.1. Những kết quả đạt được .......................................................................... 113

3.4.2. Những hạn chế tồn tại trong tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam 114

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................... 118

CHƯƠNG 4 ...................................................................................................... 119

CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG

NGÀNH CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM .................................................. 119

4.1. Đi ̣nh hướ ng phát triển các ngành công nghiê ̣p Viê ̣t Nam đến 2025 và tầm nhìn 2030 .......................................................................................................... 119

4.2. Phướ ng hướ ng nâng cao chất lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam đến

2025 và tầm nhìn 2030 ..................................................................................... 122

4.3. Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t

Nam đến 2025 và tầm nhìn 2030 ...................................................................... 124

4.3.1. Nâng cao chất lượng chiến lược và Xây dựng Chiến lược công nghiệp 4.0

........................................................................................................................... 124

4.3.2. Nâng cao hiệu quả đầu tư ....................................................................... 126

4.3.2.1. Đối với nguồn vốn đầu tư nhà nước .................................................... 126

4.3.2.2. Đối với nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước ........................... 127

4.3.2.3. Đối với nguồn vốn ngoài khu vực nhà nước ....................................... 128

4.3.3. Khuyến khích ứng dụng khoa học-công nghệ ........................................ 128

Thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của các

doanh nghiệp: .................................................................................................... 128

Hình thành thị trường các sản phẩm khoa học công nghệ và hỗ trợ thị trường này

phát triển: .......................................................................................................... 129

4.3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ..................................................... 130

4.3.5. Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường ....................................... 132

4.3.6. Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam ... 133

4.3.7. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước .............. 138

vi

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 140

DANH MỤC BIỂU, HÌNH VẼ

Hình 1. Chuỗi giá trị ........................................................................................... 12

Hình 2. Nguồn gốc cơ bản của tăng trưởng kinh tế ............................................ 21

Nguồn: [69] ......................................................................................................... 21

Hình 3. Chỉ số chất lượng tăng trưởng ............................................................... 25

Hình 4. Những khung nghị sự chất lượng tăng trưởng khác nhau ..................... 27

Hình 5. Khung chất lượng tăng trưởng ............................................................... 27

Hình 6. Khung quan niệm: thay đổi công nghệ cho sự chuyển đổi cơ cấu toàn

diện ...................................................................................................................... 40

Hình 7. Mô hình sản xuất được hướng tới trong tương lai ................................. 41

Hình 8. Khung phân tích chất lượng tăng trưởng công nghiệp .......................... 44

Hình 9. Vi điện tử và các ngành công nghiệp bao quanh của Singapore ........... 58

Hình 3.1: Chuyển di ̣ch cơ cấu VA công nghiệp ................................................. 64

Hình 3.2: Tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp .......................... 75

Hình 3.3: GO và VA của ngành công nghiệp (tỷ đồ ng) ..................................... 76

Hình 3.4: Đóng góp của các khu vực cho tăng trưởng của nền kinh tế ............. 79

Hình 3.5: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng ................................... 82

Hình 3.6: Mức phát thải CO2/ một đồng VA công nghiệp của Việt Nam và các

nước trên thế giới (kg/1 USD PPP VA công nghiệp) ......................................... 89

Hình 3.7: Thiệt hại của nền kinh tế từ ô nhiễm của Việt Nam so với các nước

trong khu vực và thế giới. ................................................................................... 90

vii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Biểu

Trang

56

đầu tư trọng điểm cho ngành công nghiệp bán dẫn ở một số nước

62

Biểu 3.1: Cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam giai đoạn 2000-2015 Biểu 3.2: Đóng góp cho tăng trưởng của GTSX công nghiệp

66

66

Biểu 3.3: Tỷ lê ̣ đóng góp cho tăng trưởng GTSX công nghiệp từ các ngành Biểu 3.4: Tăng trưởng GDP công nghiệp và tỷ lê ̣ đó ng gó p củ a các phân

67

ngành

73

Biểu 3.5: GDP, lao động, năng suất lao động bình quân của cả nước và của ngành công nghiệp Biểu 3.6: Hệ số ICOR của nền kinh tế và của ngành công nghiệp

74

80

81

88

Biểu 3.7: Đóng góp của các ngành vào tăng trưởng của nền kinh tế giai đoạn 2005-2015 Biểu 3.8: Đóng góp của các ngành công nghiệp cho tăng trưởng của nền kinh tế giai đoạn 1996-2015 Biểu 3.9: Mức phát thải CO2 của ngành công nghiệp Việt Nam so với một số quốc gia trong khu vực Biểu 3.10: Sử dụng nước ở một số ngành công nghiệp Việt Nam

92

Biểu 2.1: Thành công và thất bại trong việc can thiệp của chính phủ khi

viii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

MÔ TẢ Chữ viết tắt

ADB Ngân hàng phát triển Châu á

CN- XD Khối ngành Công nghiệp và Xây dựng

GNP Tổng sản phẩm quốc dân

GO Giá trị sản xuất

IC Chi phí trung gian

NI Thu nhập quốc dân

N-L-N Khối ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp

NSLĐ Năng suất lao động

UNDP Chương trình phát triển Liên hiệp quốc

VA Giá trị gia tăng

WB Ngân hàng thế giới

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài

Đối với hầu hết các nền kinh tế, trong một số giai đoạn nhất định, ngành

công nghiệp có vai trò hết sức to lớn. Khác với nông nghiệp, ngành công nghiệp

có lợi thế hơn hẳn về tốc độ tăng trưởng, trình độ mở rộng quy mô. Sự phát triển

của công nghiệp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo

nhu cầu tư liệu sinh hoạt cho nhân dân, tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy quá

trình hiện đại hóa đất nước. Trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc

tế, công nghiệp càng có vị trí quyết định, bởi suy cho cùng, cạnh tranh trên thị

trường quốc tế chủ yếu vẫn là cạnh tranh giữa các sản phẩm do ngành công

nghiệp chế tạo ra. Công nghiệp tăng trưởng cao, ổn định và có chất lượng sẽ tạo

ra tiền đề vật chất đảm bảo nâng cao nhịp độ phát triển đất nước, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa; thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, mở rộng thị trường cho các khu vực khác trong nền kinh tế. Tuy

nhiên, tốc độ tăng trưởng cao của ngành công nghiệp phải gắn liền với việc cải

thiện chất lượng tăng trưởng mới đảm bảo hiệu quả kinh tế cao, duy trì tốc độ

tăng trưởng ổn định và phát triển công nghiệp một cách bền vững, làm động lực

thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển, mang đến tiến bộ chung cho

nền kinh tế và xã hội.

Góp phần cho thành quả tăng trưởng cao bình quân hàng năm của cả nước

trong nhiều thập kỷ qua, đặc biệt là trong giai đoạn hơn 30 năm kể từ khi Việt

Nam tiến hành công cuộc “đổi mới” cơ chế quản lý đối với nền kinh tế, khối

ngành công nghiệp luôn đạt được tốc độ tăng trưởng vượt bậc so với các khối

ngành khác của nền kinh tế; tốc độ tăng trưởng được duy trì ổn định ở mức cao,

liên tục trong nhiều năm. Giai đoạn gần đây (2001-2015) GDP khối ngành công

nghiệp đạt nhịp tăng trưởng bình quân hàng năm 9,6%, cao gấp 1,1 lần so với

tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế trong cùng thời kỳ. Công nghiệp tăng

trưởng cao và liên tục, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

2

công nghiệp hóa, thúc đẩy xuất nhập khẩu, gián tiếp thúc đẩy tăng trưởng dịch

vụ phục vụ sản xuất, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động,

thúc đẩy tiêu dùng, gián tiếp thúc đẩy tăng trưởng của khu vực dịch vụ phục vụ

đời sống, v.v. Bên cạnh đó, thực tế tăng trưởng cao của công nghiệp trong thời

gian dài của Việt Nam trong thời gian qua cũng bộc lộ những yếu kém nhất

định, gây ra những bất hợp lý trong cơ cấu kinh tế, khai thác tài nguyên kém

hiệu quả, năng lực cạnh tranh kém, và để lại những hậu quả về mặt môi trường.

Đánh giá một số khía cạnh liên quan đến tăng trưởng của ngành công nghiệp

Việt Nam trong thời gian gần đây, rõ ràng có thể nhận thấy tốc độ tăng trưởng

của khối ngành có xu hướng chậm lại từ 16,0%/năm trong giai đoạn 2001-2005,

giảm xuống còn 13,2%/năm trong giai đoạn 2006-2010 và chỉ còn duy trì ở mức

thấp hơn nhiều, 8,4%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Trong đó, đáng lưu ý, tốc

độ tăng trưởng bình quân của giá trị gia tăng (VA) của phân ngành công nghiệp

chế biến, phân ngành được cho là phản ánh trình độ phát triển của khối ngành

công nghiệp, trong cùng thời kỳ có xu hướng giảm sút một cách tương ứng đáng

lo ngại ở mức từ 17,7%/năm xuống 13,8%/năm và 8,9%/năm; VA công nghiệp

khai thác có tốc độ tăng được ghi nhận ở mức thấp hơn nhiều 6,0%/năm,

0,1%/năm và 2,6%/năm trong cùng giai đoạn nghiên cứu. Bên cạnh đó, tỷ lệ chi

phí trung gian của sản xuất công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2001-2015 có

xu hướng tăng liên tục, từ 60% giá trị sản xuất công nghiệp (GO) năm 2001 lên

mức 75% GO năm 2015 (bình quân mỗi năm, chi phí tăng lên 1% trong GO

trong suốt 15 năm nghiên cứu). Nói cách khác, VA của sản xuất công nghiệp

ngày càng có xu hướng giảm sút, từ 40% của GO năm 2001, xuống còn 25%

GO năm 2015; hay, việc đạt được thêm một đơn vị VA, ngành công nghiệp Việt

Nam ngày càng tốn nhiều chi phí nguồn lực về vốn, công nghệ, nhân lực và tài

nguyên hơn.

Việc tìm ra nguyên nhân của sự giảm sút cả về tốc độ tăng trưởng lẫn tính

hiệu quả của sản xuất công nghiệp đã và đang là câu hỏi nghiên cứu lớn đối với

3

các học giả, đặc biệt là về chất lượng của quá trình tăng trưởng của khối ngành

này. Một số nghiên cứu trong thời gian vừa qua cho rằng, nguyên nhân chính

của sự giảm sút nêu trên nằm ở cơ cấu nội tại của ngành công nghiệp, biểu hiện

ở việc ngành công nghiệp phụ thuộc vào những phân ngành lắp ráp, gia công có

chi phí cao và giá trị gia tăng thấp hơn là phát triển vững chắc dựa vào các

ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu đầu vào trung gian như cơ khí, luyện

kim, sợi, nhuộm, thuộc gia, hoá chất, linh kiện điện tử,… Ý kiến khác lại lập

luận, quy mô, trình độ và hiệu quả huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào như

vốn, lao động, công nghệ và tài nguyên vào sản xuất công nghiệp là chưa như

mong đợi của các nhà quản lý, khiến tăng trưởng giảm sút. Việc tăng trưởng của

khối ngành công nghiệp chủ yếu dựa vào khả năng mở rộng quy mô các yếu tố

đầu vào vật chất như vốn, lao động, tài nguyên mà thiếu những cải tiến hữu hiệu

trong công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý, trình độ người lao động khiến hiệu

suất vốn, năng suất lao động có xu hướng tới hạn, là nguyên nhân chính của tình

trạng sa sút nhịp tăng trưởng của khối ngành này.

Vấn đề đặt ra đối với ngành công nghiệp Việt Nam hiện nay là nếu không

được định hướng phù hợp, nếu những nguyên nhân dẫn tới sự sa sút trong nhịp

tăng trưởng không được khắc phục, nếu chất lượng và hiệu quả của quá trình

tăng trưởng của ngành không được cải thiện, việc duy trì một nhịp tăng trưởng

cao của ngành, của toàn nền kinh tế sẽ khó có thể đạt được. Mặc dù nhiều nghị

quyết và cơ chế chính sách liên tục được ban hành, hoàn thiện trong các kỳ đại

hội Đảng từ kỳ Đại hội khoá VI-XI, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội Đảng lần XII

nhấn mạnh: “Cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô

hình tăng trưởng; Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông

thôn mới.”; nghị quyết 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (khóa XII) nêu rõ: “Xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp

quốc gia, tạo khuôn khổ chính sách đồng bộ, trọng tâm, đột phá hướng vào tăng

4

năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Trên tinh thần đó, Chính phủ

ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa

nhằm thúc đẩy khu vực công nghiệp phát triển nhanh, ổn định và bền vững, thúc

đẩy tăng trưởng của cả nền kinh tế trong bối cảnh thế giới đang tiến vào cách

mạng công nghiệp lần thứ 4. Tuy vậy, năm 2016 và đầu năm 2017 vẫn ghi nhận

nhịp độ tăng trưởng thấp hơn nữa của khối ngành công nghiệp (7,5% năm 2016

và 4,3% hai quý đầu năm 2017).

Trên cơ sở đó, đề tài “Nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành

công nghiệp Việt Nam” được chọn làm đề tài luận án tiến sỹ kinh tế.

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu chung

a) Về mặt lý luận

Luận án được nghiên cứu với mục tiêu hệ thống hóa những vấn đề cơ sở

lý luận về chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp.

b) Về mặt thực tiễn

Vận dụng những vấn đề lý luận, hệ thống chỉ tiêu đề xuất, trên cơ sở phân

tích mối quan hệ giữa tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của ngành công

nghiệp và những tác nhân ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng của ngành

công nghiệp, tìm ra một số giải pháp chủ yếu mong muốn nâng cao chất lượng

tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm tới với mục tiêu

cuối cùng là duy trì tốc độ tăng trưởng cao, ổn định trong thời gian dài của nền

kinh tế Việt Nam.

2.2. Mục tiêu cụ thể

(1) Tổng quan các vấn đề lý luận liên quan đến chất lượng tăng trưởng;

(2) Phân tích, đánh giá thông qua một số chỉ tiêu phù hợp nhằm nêu bật

được chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian

qua;

5

(3) Gợi ý, giúp các nhà hoạch định chính sách có thêm cơ sở đưa ra các

giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của công nghiệp Việt Nam

trong giai đoạn từ nay đến 2025 và tầm nhìn 2030.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Với mục tiêu nghiên cứu như trên, luận án lấy ngành công nghiệp của

Việt Nam là đối tượng nghiên cứu là các vấn đề thuộc chất lượng tăng trưởng

của hệ thống công nghiệp như các tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá, các nhân tố ảnh

hưởng đến chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

+ Về không gian: Ngành công nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam;

+ Về thời gian: giai đoạn 2001-2015 là chủ yếu. Ngoài ra để thấy xu thế phát triển của hiện tươ ̣ng có thể sử du ̣ng các số liê ̣u củ a những năm trướ c từ 1990 trở la ̣i, đặc biê ̣t là từ 1995. Trên cơ sở những phân tích của luận án, đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng công

nghiệp Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn 2030.

Ngành công nghiệp Việt Nam là rộng, mỗi phân ngành có các đặc thù

riêng về sản phẩm, về quy trình công nghệ, v.v. Do đó, luận án sẽ tập trung phân

tích những dấu hiệu có tính phổ biến này nhằm nhận dạng chất lượng tăng

trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở đó, gợi ý một số giải pháp

chủ yếu nhằm cải thiện hơn nữa chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp

Việt Nam trong thời gian tới, góp phần duy trì một nhịp tăng trưởng cao, bền

vững của nền kinh tế Việt Nam.

+ Về mặt khoa học: nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn về tăng trưởng và

chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của một nước đang phát triển chuyển

đổi có thu nhập trung bình thấp như Việt Nam thông qua hệ thống chỉ tiêu đánh

giá chất lượng tăng trưởng ngành; từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp

6

chính sách nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt

Nam giai đoạn từ nay đến 2025 và tầm nhìn 2030.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp tiếp cận

Tác giả tiếp cận đối tượng nghiên cứu đi từ việc làm rõ các vấn đề lý

thuyết đến nhận dạng đối tượng nghiên cứu trên cơ sở các khung lý thuyết về

chất lượng tăng trưởng công nghiệp, thể hiện ở cấu trúc bên trong để đạt được

tăng trưởng ở hai khía cạnh đóng góp của các yếu tố đầu vào, đóng góp của các

phân ngành, hiệu quả của quá trình tăng trưởng và tác động lan toả của kết quả

tăng trưởng tới các khối ngành kinh tế và nền kinh tế. Xây dựng bộ tiêu chí đánh

giá chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp; đánh giá chất lượng tăng trưởng

của ngành công nghiệp Việt Nam. Từ đó, sử dụng lý thuyết hệ thống để tìm ra

các gợi ý chính sách thúc đẩy nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành trong

thời gian tới.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu đề ra, ngoài những phương pháp nghiên cứu truyền

thống, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu kinh tế chủ yếu

sau:

4.2.1. Phương pháp nghiên cứu tại bàn

 Nhằm nghiên cứu, tìm ra các vấn đề có tính quy luật trong quá trình

phát triển của ngành công nghiệp, tăng trưởng ngành và chất lượng

của tăng trưởng ngành.

7

 Đánh giá tình hình phát triển của nền kinh tế, của khối ngành công

nghiệp và cấu trúc bên trong của quá trình tăng trưởng ở cả khía cạnh

đầu vào và đầu ra của ngành công nghiệp.

 So sánh, đánh giá các tiêu chí phản ánh chất lượng tăng trưởng của

khối ngành công nghiệp, đánh giá mặt được và mặt chưa được.

4.2.2. Phương pháp mô hình hoá

Sử dụng mô hình cân đối liên ngành vào – ra (I-O) để đánh giá tác động

lan toả của tăng trưởng ngành công nghiệp tới các khối ngành kinh tế

khác trong nền kinh tế.

5. Những đóng góp mới của luận án

+ Về măt lý luận: luận án hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan đến

chất lượng tăng trưởng ngành; đề xuất hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá chất

lượng tăng trưởng ngành nói chung và ngành công nghiệp nói riêng trong bối

cảnh nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội

nhập kinh tế quốc tế.

+ Về mặt thực tiễn: luận án kết luận chất lượng tăng trưởng của ngành

công nghiệp Việt Nam là chưa cao thông qua tỷ lệ giá trị gia tăng thấp, phụ

thuộc vào nguồn nguyên liệu bên ngoài, năng suất lao động thấp và khả năng

thúc đẩy lan toả các ngành khác trong nền kinh tế phát triển theo là chưa cao; chỉ

ra nguyên nhân của việc chất lượng tăng trưởng của ngành đang tồn tại nhiều

điểm hạn chế; đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành

công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới; đồng thời đưa ra những kiến nghị đối

với Nhà nước nhằm tạo nền tảng tốt cho thúc đẩy nâng cao tăng trưởng và chất

lượng tăng trưởng của ngành trong những năm tới.

6. Kết cấu của luận án

Với mục tiêu, phạm vi, phương pháp nghiên cứu như trên, ngoài phần mở

đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận án gồm bốn chương:

Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứ u liên quan tớ i đề tài.

8

Chương 2: Cơ sở lý luận về chất lượng tăng trưởng công nghiệp.

Chương 3: Thực trạng chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Việt

Nam thời kỳ 2001-2015

Chương 4: Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành

công nghiệp Việt Nam

Phần Kết luận và các hàm ý chính sách.

9

CHƯƠNG 1

TỔ NG QUAN CÁ C CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨ U LIÊN QUAN

TỚ I ĐỀ TÀI

1.1. Cá c công trình trong nướ c Nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp cũng như của toàn nền kinh

tế là mục tiêu của mỗi quốc gia, mỗi địa phương, đặc biệt khi Việt Nam đang

từng bước xây dựng nền tảng của một nước công nghiệp hóa. Trong nhiều năm

qua, nhịp tăng trưởng nhanh của công nghiệp Việt Nam luôn được duy trì,

nhưng vấn đề chất lượng tăng trưởng của ngành đang là được đánh giá là chưa

cao trong giai đoạn hiện nay.

Theo Ngô Doãn Vịnh (2006), Hướng tới sự phát triển của đất nước-Một

số vấn đề lý thuyết và ứng dụng [19], nâng cao chất lượng tăng trưởng được

quan niệm là nâng cao tính chất bền vững và hiệu quả kinh tế-xã hội, môi trường

của quá trình thực hiện các chỉ tiêu tăng trưởng. Quá trình nâng cao chất lượng

tăng trưởng gắn liền với việc cải thiện các tiêu chí phản ánh chất lượng tăng

trưởng. Biểu hiện cụ thể của quá trình nâng cao chất lượng tăng trưởng: Một là,

quá trình sử dụng ngày càng hợp lý các yếu tố nguồn lực để tạo sản phẩm hàng

hóa, đáp ứng ngày càng cao các nhu cầu đời sống kinh tế và xã hội. Tăng trưởng

sẽ trở nên có hiệu quả cao hơn khi tỷ trọng đóng góp vào quá trình này là những

yếu tố nguồn lực có lợi thế nhất của đất nước và việc sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực. Tính hiệu quả của tăng trưởng sẽ trở nên bền vững hơn khi có sự

chuyển đổi hợp lý, từ việc sử dụng chủ yếu các yếu tố nguồn lực vật chất, thể

hiện tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, quyết định bởi

cơ chế sử dụng các yếu tố phi vật chất là công nghệ và vốn nhân lực. Hai là,

Nguyễn Thành Độ (2005), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập

quốc tế và khu vực, [41] với khả năng nguồn lực giới hạn, các chỉ tiêu nằm trong

tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện. Trong số các

tiêu chí đưa ra ở trên, đặc biệt nhấn mạnh các tiêu chí phản ánh tác động lan tỏa

10

của tăng trưởng kinh tế đến các đối tượng chịu ảnh hưởng, kể cả kinh tế, xã hội

và môi trường. Đinh Văn Ân (2008), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế-

xã hội tốc độ nhanh, bền vững, chất lượng cao ở Việt Nam [2], việc nâng cao

dần các tiêu chí về kinh tế, xã hội vừa là kết quả của tăng trưởng kinh tế, nhưng

đồng thời nó chính là môi trường hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng nhanh hơn

trong dài hạn.

Nguyễn Thị Kim Dung và các cộng sự (2006), Các giải pháp chủ yếu

nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam [18], các tiêu chí để đánh giá

chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp có thể là phân thành ba nhóm:

(1) Các tiêu chí đánh giá hiệu quả đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng;

(2) Các tiêu chí đánh giá cấu trúc của tăng trưởng; và

(3) Các tiêu chí đánh giá tác động lan toả của tăng trưởng tới nền kinh tế.

Phù hợp với ba nội dung trên, có ba nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng

tăng trưởng kinh tế như sau:

Thứ nhất, các tiêu chí liên quan đến hiệu quả của việc đạt được chỉ tiêu

tăng trưởng;

Hiệu quả sản xuất của một nền kinh tế được thể hiện dưới góc độ: năng

suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tỷ lệ chi phí trung gian trong sản

xuất và hiệu quả sử dụng năng lượng trong quá trình sản xuất.

- Năng suất lao động: Để tính năng suất lao động cho toàn bộ nền kinh tế,

hoặc cho ngành, có thể lấy GDP theo giá có định chia cho số lao động đang làm

việc trong nền kinh tế, hoặc cho ngành trong năm. Nếu GDP tạo ra trên một lao

động càng cao, năng xuất lao động càng lớn.

Dưới góc độ ngành hay doanh nghiệp, GDP có thể được thay thế bằng các

chỉ số khác có sẵn như giá trị sản xuất hoặc chỉ số giá thành lao động trên một

đồng giá trị sản phẩm.

- Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư: Có nhiều cách xác định hiệu quả sử dụng

vốn đầu tư. Ở giác độ vĩ mô, người ta thường nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn

11

đầu tư thông qua Hệ số gia tăng vốn-sản lượng (ICOR), cho biết để tăng thêm

một đơn vị GDP, cần phải tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư thực hiện. Vì

vậy, ở một khía cạnh nào đó, hệ số này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư

dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Với nội dung đó, hệ số ICOR được coi là một trong

những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế của cả nền

kinh tế hoặc của ngành.

Theo các nhà kinh tế này, ở những nền kinh tế phát triển theo chiều rộng

(tăng trưởng kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào sự đóng góp của các yếu tố đầu vào

như vốn và lao động, đóng góp của yếu tố TFP cho tăng trưởng còn thấp) hệ số

ICOR thấp, chứng tỏ đầu tư có hiệu quả cao. Tuy nhiên, theo quy luật lợi tức

biên giảm dần, khi nền kinh tế tăng trưởng thì hệ số ICOR sẽ tăng lên, tức là để

duy trì một tốc độ tăng trưởng, cần một tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP cao hơn.

ICOR được xác định qua hai phương pháp, (1) ICOR = I1/ Y1-Y0 trong đó

I1 và Y1 là vốn đầu tư và GDP của năm nghiên cứu, Yo là GDP của năm trước

đó (lưu ý rằng các chỉ tiêu này được tính cùng một loại giá); và (2) ICOR = I/Y

chia cho gY, trong đó I/Y là tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP, gY là tốc độ tăng GDP.

Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: để tăng thêm 1% GDP đòi hỏi

phải tăng thêm bao nhiêu phần trăm tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP.

- Vị trí của công nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu: “Chuỗi giá

trị là quá trình biến một sản phẩm, dịch vụ phát triển từ ý tưởng qua nghiên cứu

thử nghiệm đến sản xuất rồi đến tay người tiêu dùng và cuối cùng là dịch bán

hàng và sau bán hàng (Hình 1). Mỗi một công đoạn trên tùy từng tính chất của

mỗi hàng hóa và dịch vụ mà có một hệ thống các hoạt động bao gồm hàng loạt

các hãng khác nhau đảm trách, tạo thành một mạng lưới sản xuất, lắp ráp, dịch

vụ nằm rải rác trên khắp thế giới tạo ra chuỗi giá trị toàn cầu.

12

Hình 1. Chuỗi giá trị

Nguồn: [24]

Theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Sơn (2012), Việt Nam trong chuỗi giá

trị toàn cầu ngành dệt may [42], vị trí của công nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá

trị toàn cầu là nhân tố quan trọng về mặt cơ cấu, ảnh hưởng đến chất lượng tăng

trưởng của khối ngành. Chuỗi giá trị là quá trình biến một sản phẩm, dịch vụ

phát triển từ ý tưởng qua nghiên cứu thử nghiệm đến sản xuất rồi đến tay người

tiêu dùng và cuối cùng là dịch bán hàng và sau bán hàng. Mỗi một công đoạn

trên tùy từng tính chất của mỗi hàng hóa và dịch vụ mà có một hệ thống các hoạt

động bao gồm hàng loạt các hãng khác nhau đảm trách, tạo thành một mạng lưới

sản xuất, lắp ráp, dịch vụ nằm rải rác trên khắp thế giới tạo ra chuỗi giá trị toàn

cầu.

Chuỗi giá trị toàn cầu có hai dạng liên kết kinh tế quốc tế. Đó là hệ thống

chuỗi giá trị toàn cầu do nhà sản xuất chi phối (global value chain driven by

producer) và hệ thống chuỗi giá trị toàn cầu do thị trường hay người mua chi

phối (global value chain driven by marketer). Trong chuỗi giá trị toàn cầu do

nhà sản xuất chi phối, các doanh nghiệp sản xuất lớn đóng vai trò chủ đạo trong

hệ thống sản xuất (bao gồm cả các liên kết ngược chiều và xuôi chiều). Đây

chính là các ngành thâm dụng vốn và công nghệ cao như ô tô, máy bay, máy vi

tính, chất bán dẫn và chế tạo máy. Vai trò chủ đạo trong chuỗi giá trị này thuộc

về các công ty đa quốc gia và lợi nhuận sẽ phụ thuộc chủ yếu vào quy mô, số

lượng và sự vượt trội về công nghệ.

13

Chuỗi giá trị toàn cầu do thị trường hoặc người mua chi phối bao gồm các

nhà bán lẻ lớn, các nhà marketing, các nhà sản xuất có thương hiệu mạnh có vai

trò then chốt trong việc hình thành mạng lưới sản xuất tập trung ở các nước xuất

khẩu khác nhau trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.

Mô hình này là đặc trưng chung của các ngành thâm dụng lao động, sản xuất

hàng tiêu dùng như dệt may, da giầy, đồ chơi và điện dân dụng. Trong hệ thống

này các nhà thầu của thế giới thứ ba chịu trách nhiệm sản xuất sản phẩm cuối

cùng cho người tiêu dùng nước ngoài. Các nhà bán lẻ lớn hay các nhà bán buôn

đặt hàng cung cấp các sản phẩm với các đặc tính rõ ràng. Chuỗi giá trị toàn cầu

do người mua chi phối trái ngược với chuỗi giá trị toàn cầu do nhà sản xuất chi

phối là do chuỗi giá trị này được đặc trưng bởi cạnh tranh mạnh và hệ thống các

nhà máy sản xuất tập trung toàn cầu với rào cản nhập ngành thấp. Các công ty

có thương hiệu nổi tiếng kiểm soát hệ thống sản xuất trên phạm vi toàn cầu, hơn

nữa họ còn tác động đến lợi nhuận là bao nhiêu trong mỗi giai đoạn trong chuỗi

giá trị. Trong chuỗi giá trị toàn cầu do người mua chi phối lợi nhuận lại phụ

thuộc chủ yếu vào vào giá trị gia tăng cao trong R&D, thiết kế, marketing và

chiến lược kết nối các nhà sản xuất trên phạm vi toàn cầu và bán các sản phẩm ở

các thị trường tiêu dùng chính;

- Tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp: Giá trị gia tăng chỉ

bao gồm phần giá trị mới tăng thêm (mới sáng tạo ra) trong nền kinh tế. Chi phí

trung gian là toàn bộ chi phí vật chất và chi phí dịch vụ đã chi ra cho quá trình

sản xuất để tạo ra giá trị gia tăng đó. Chi phí trung gian không làm tăng thêm

của cải cho xã hội mà chỉ là tiêu dùng của cải vật chất và dịch vụ của quá trình

sản xuất. Mối quan hệ giữa giá trị sản xuất, giá trị gia tăng và chi phí trung gian

được thể hiện như sau:

GO = VA – IC hay VA = GO – IC

Khi nói đến tăng trưởng kinh tế, người ta thường chỉ quan tâm đến sự gia

tăng của phần giá trị mới sáng tạo ra VA theo giác độ ngành kinh tế. Theo công

14

thức trên, VA tỷ lệ thuận với GO và nghịch với IC. Do đó, tỷ lệ chi phí trung

gian là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất của xã hội và của

các ngành, tỷ lệ này càng thấp thể hiện sản xuất càng có hiệu quả cao. Nhưng

cũng lưu ý rằng sự đánh giá này phải dưới góc độ ngành cụ thể và xem xét sự

biến động theo thời gian, bởi không thể so sánh tỷ lệ chi phí trung gian giữa các

ngành.

- Tiêu hao năng lượng của sản xuất công nghiệp.

Thứ hai, Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt (2006), Tốc độ và chất

lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam [9] đề xuất các tiêu chí liên quan đến cấu

trúc của tăng trưởng liên quan đến cơ cấu của khối ngành. Cơ cấu nội bộ ngành

công nghiệp thể hiện cấu trúc bên trong của ngành, nó biểu hiện qua tỷ trọng của

các phần tử tạo nên cơ cấu và qua các quan hệ chặt chẽ hay lỏng lẻo giữa các

phần tử hợp thành. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp quyết định sự phát triển

hài hòa, nhịp nhàng, phù hợp với tiềm năng sẵn có của từng phân ngành và cuối

cùng đem lại kết quả tăng trưởng chung cho toàn bộ khối ngành. Có nhiều chỉ

tiêu nghiên cứu để phân tích cơ cấu ngành kinh tế, trong khuôn khổ đề tài này,

tác giả, trên cơ sở phân tích cơ cấu giá trị gia tăng của sản xuất công nghiệp

(VA) và cơ cấu giá trị sản xuất (GO) nội bộ ngành công nghiệp, cơ cấu lao động,

cơ cấu vốn đầu tư của ngành để đánh giá về cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nội bộ

ngành công nghiệp.

Mặt khác, cấu trúc tăng trưởng theo ngành công nghiệp: xem xét cấu trúc

tăng trưởng công nghiệp theo ngành nhằm nhận dạng vai trò của các phân ngành

công nghiệp đối với tăng trưởng của công nghiệp, kết hợp với trình độ phát triển

của các ngành, độ phù hợp của việc phát triển của các phân ngành với tiềm năng

và lợi thế so sánh vốn có của nó, qua đó có thể đánh giá trình độ phát triển của

ngành công nghiệp.

Cấu trúc tăng trưởng theo mức đóng góp của các yếu tố nguồn lực cho

tăng trưởng công nghiệp: đóng góp của vốn, lao động, TFP cho tăng trưởng

15

công nghiệp: Mặc dù hai chỉ tiêu năng suất lao động xã hội và hiệu quả sử dụng

vốn thường được sử dụng nhiều trong phân tích hiệu quả kinh tế, nhưng trên

thực tế, trong sản xuất có ba yếu tố chính làm tăng GDP: lao động, vốn sản xuất

có ba yếu tố chính làm tăng GDP: Lao động, vốn sản xuất và TFP. Nếu chỉ chia

GDP cho lao động hay lấy vốn đầu tư chia cho mức gia tăng GDP, thì những chỉ

số này không thể phản ánh đóng góp riêng của yếu tố năng suất. Năng suất chỉ là

phần tăng GDP sau khi trừ đi vai trò của việc tăng số lượng lao động và số

lượng tài sản cố định trong sản xuất. Phần thặng dư này phản ánh việc tăng chất

lượng tổ chức lao động, chất lượng máy móc, vai trò của quản lý và tổ chức sản

xuất, và được gọi chung là năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Nói một cách

khác, TFP là chỉ số phụ thuộc vào hai yếu tố: (1) tiến bộ công nghệ kỹ thuật và

(b) hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào.

TFP tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao trong đóng góp vào tăng trưởng

kinh tế sẽ bảo đảm duy trì được tốc độ tăng trưởng dài hạn và tránh được những

biến động kinh tế từ bên ngoài. Có thể thấy, tốc độ tăng TFP và đóng góp TFP

vào tăng trưởng kinh tế là chỉ tiêu phản ánh đích thực và khái quát nhất hiệu quả

sử dụng nguồn lực sản xuất, làm căn cứ quan trọng để đánh giá tính chất phát

triển bền vững của kinh tế, là cơ sở để phân tích hiệu quả sản xuất xã hội, đánh

giá tiến bộ khoa học công nghệ, đánh giá trình độ tổ chức, quản lý sản xuất,…

của mỗi ngành, mỗi địa phương hay mỗi quốc gia.

Tốc độ tăng TFP được tính theo công thức GTFP = gY – (α.gK + βgL)

Trong đó, gY là tốc độ tăng GDP, gK là tốc độ tăng vốn hoặc tài sản cố

định, gL là tốc độ tăng lao động làm việc, α và β lần lượt là hệ số đóng góp của

vốn và lao động (α + β =1), thường được xác định bằng phương pháp hạch toán

tăng trưởng hoặc dựa trên hàm sản xuất Cobb-Douglas.

Thứ ba, Trần Thọ Đạt (2007), Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế

Việt Nam [9] cho rằng, đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành cũng cần

đánh giá mức độ tác động lan toả của tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh tế.

16

Trong đó, xem xét ảnh hưởng của tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh tế nhằm

tìm ra những đóng góp của tăng trưởng ngành công nghiệp tới nền kinh tế. Đóng

góp của tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh tế càng cao cho thấy chất lượng

tăng trưởng cao của ngành. Việc xem xét ảnh hưởng của tăng trưởng công

nghiệp tới nền kinh tế có thể được xem xét dưới các khía cạnh sau:

- Đóng góp của tăng trưởng công nghiệp trong tăng trưởng chung của nền

kinh tế;

- Tăng trưởng công nghiệp và giải quyết việc làm cho nền kinh tế;

- Tăng trưởng công nghiệp và tăng trưởng xuất khẩu: co giãn tăng trưởng

công nghiệp và tăng trưởng xuất khẩu hoặc tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm

công nghiệp;

- Ô nhiễm môi trường của sản xuất công nghiệp: Tăng trưởng kinh tế cùng

với việc tổ chức sản xuất của con người luôn gắn liền với việc khai thác các

nguồn tài nguyên và môi trường thiên nhiên để sản xuất. Tăng trưởng kinh tế và

sử dụng tài nguyên môi trường có mối quan hệ với nhau và được xem xét qua rất

nhiều chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chính sau đây: Nhịp tăng trưởng của GDP

và giá trị gia tăng của các ngành trong tương quan so sánh với mức độ cạn kiệt

tài nguyên và tình hình ô nhiễm môi trường.

Thêm vào đó, Hồ Tuấn (2009), Giải pháp nâng cao chất lượng tăng

trưởng công nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (nghiên

cứu điển hình ngành dệt may) [104] đã hệ thống hoá lý luận và thực tiễn tăng

trưởng và chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Dệt may và đề xuất các

giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành dệt may của Việt Nam trong

thời kỳ hội nhập. Tác giả cũng đã đưa ra một số tiêu chí đặc thù đánh giá một

cách cá biệt chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp dệt may Việt Nam.

Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu

ngành của nền kinh tế tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam [101] cũng đã chỉ ra

cơ sở lý luận của chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam tác động tới khả năng

17

tăng trưởng của các ngành và cả nền kinh tế, từ đó đưa ra các giải pháp thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phát triển dài hạn của nền kinh tế. Tác giả chỉ tập

trung nghiên cứu mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tăng trưởng

của cả nền kinh tế mà không tập trung nghiên cứu bản chất bên trong của quá

trình tăng trưởng của từng ngành.

Hồ Hữu Nghĩa (2011), Chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp điện

tử Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế [102] nghiên cứu các quan

điểm, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành công

nghiệp điện tử trong điều kiện Việt Nam, đánh giá chất lượng tăng trưởng của

ngành này, phân tích các yếu tố tác động tới chất lượng tăng trưởng của ngành

công nghiệp đặc thù điện tử nhằm nâng cao khả năng đóng góp của ngành cho

tăng trưởng công nghiệp. Nghiên cứu không đánh giá chất lượng tăng trưởng

của toàn ngành công nghiệp và vai trò của nó trong tăng trưởng chung của toàn

nền kinh tế.

Phạm Đình Thuý (2014), Phát triển ngành cơ khí theo hướng bền vững

[103] làm rõ tư duy phát triển bền vững của các ngành công nghiệp, cụ thể là

ngành cơ khí và đưa ra hệ thống chỉ tiêu đánh giá phát triển ngành cơ khí bền

vững của Việt nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển các chuỗi giá trị

công nghiệp toàn cầu. Tác giả cho rằng, để phát triển ngành công nghiệp theo

hướng bền vững, cần xây dựng đề án phát triển trên cơ sở các căn cứ khoa học

và có tầm nhìn dài hạn, có xem xét phát triển công nghiệp trong bối cảnh toàn

cầu hóa và cạnh tranh quốc tế. Trong thời đại công nghiệp 4.0, khung khổ pháp

lý cho phát triển công nghiệp cần được hoàn thiện nhằm tạo điều kiện nền tảng

phù hợp cho phát triển ngành công nghiệp nói chung và công nghiệp cơ khí nói

riêng. Các chính sách ưu đãi về tài chính và các giải pháp theo dõi đánh giá chất

lượng phát triển của ngành công nghiệp cũng cần được chú trọng.

Cuối cùng, Tổng cục thống kê, Bùi Trinh và các cộng sự trong nhiều

18

nghiên cứu, đặc biệt là trong Bùi Trinh và các cộng sự (2007), Phân tích cơ cấu

kinh tế của Việt Nam: ứng dụng bảng cân đối liên ngành (I-O) 1989, 1996, 2000

[32] và Bùi Trinh và các cộng sự (2012), Cơ cấu kinh tế mới của Việt Nam

hướng tới tăng trưởng bền vững đến năm 2020 [30] đã xây dựng, hoàn thiện

phương pháp đánh giá phân tích cơ cấu kinh tế, phân tích mối liên kết và tác

động lan toả, độ nhạy giữa các ngành trong nền kinh tế thông qua sử dụng bảng

cân đối liên ngành vào – ra (bảng I-O). Phương pháp này có thể được sử dụng để

phân tích, đánh giá cơ cấu kinh tế, vai trò “động lực” của các phân ngành trong

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng chung của toàn ngành

và của nền kinh tế. Từ đó, có thể xây dựng cơ sở khoa học cho các nhà hoạch

định chính sách trong việc định hướng phát triển các phân ngành kinh tế, nhằm

nâng cao chất lượng tăng trưởng.

Qua nghiên cứu các công trình nói trên tác giả rút ra những nhận xét sau:

+ Một số tác giả đã nêu cơ sở lý luận về lý luận tăng trưởng kinh tế.

Những lý luận này được một số nghiên cứu xem xét ở góc độ vĩ mô của nền

kinh tế.

+ Chất lượng tăng trưởng của các ngành cụ thể chủ yếu được đánh giá qua

một vài tiêu chí liên quan trực tiếp đến ngành cấp ba như tốc độ tăng trưởng, giải

quyết việc làm, năng suất lao động,…

Tuy nhiên, theo tác giả những công trình nghiên cứu trên vẫn có những hạn

chế như sau:

+ Không có hoặc rất ít tổng quan về các đề tài có liên quan để người đọc có

thể thấy khả năng mở rộng và nghiên cứu của người thực hiện đề tài.

+ Một số công trình có phần lý luận đề cập đến các tiêu chí đánh giá chất

lượng tăng trưởng ngành cấp ba nhưng trong đánh giá thực trạng các tiêu chí

đánh giá đối với sự lan toả khả năng tăng trưởng và kết quả tăng trưởng đối với

xã hội; mối liên kết giữa các ngành trong nền kinh tế không được làm rõ;

+ Có nhiều công trình nghiên cứu về tổng thể ngành công nghiệp, tuy vậy,

19

các công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng tăng trưởng của một khối

ngành thì còn khiêm tốn.

+ Thời gian nghiên cứu cách đây nhiều năm nên một số tiêu chí đánh giá

hiệu quả, chất lượng, giải pháp đã không còn phù hợp trong bối cảnh Việt Nam

hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới như hiện nay với việc tham

gia vào các hiệp định TPP và các hiệp định song phương khác nhau. Các chính

sách phát triển kinh tế, đặc biệt đối với lĩnh vực công nghiệp, đầu tư, vai trò của

nhà nước trong nền kinh tế của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi trong thời gian

gần đây khiến các giải pháp gợi ý của các nghiên cứu trở nên thiếu hợp lý.

1.2.Các công trình nghiên cứu ngoài nước có liên quan

(1) Về chất lượng tăng trưởng và vai trò của các yếu tố nguồn lực với

tăng trưởng

Về mặt lý thuyết mang tính kinh điển, các trường phái kinh tế (từ cổ điển

đến hiện đại) đều cho rằng mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt

quan điểm cơ bản về sự tăng trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối

quan hệ giữa chúng. Mỗi mô hình tăng trưởng đều nhấn mạnh đến yếu tố đầu

vào mang tính quyết định đến tăng trưởng khác nhau. Harrod-Domar [8] cho

rằng vốn đầu tư luôn đóng vai trò quyết định, trong khi đó Robert Solow [8, 86]

lại quả quyết rằng vốn đầu tư chỉ đóng vai trò quyết định đến tăng trưởng trong

ngắn hạn, còn trong dài hạn thì phải là công nghệ và mong muốn thúc đẩy công

nghệ của quốc gia. Các mô hình tăng trưởng hiện đại thì quy trở về nhân tố vốn

đóng vai trò quyết định những không phải là vốn vật chất, mà là vốn con người

và khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải tiến công nghệ, biểu thị ở yếu tố

năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).

Những nghiên cứu thực nghiệm cuối thế kỷ 20 như của Barro (1991),

Economic Growth in a Cross-section of Countries [42] hay Temple (1999), The

Third Generation of Economic Growth, Lindauer (2002) [69] đã nhấn mạnh cụ

20

thể hơn đến vai trò quan trọng của yếu tố trình độ học vấn, chất lượng nguồn

nhân lực hay cơ chế chính sách, hệ thống chính trị.

Việc xác định yếu tố đóng vai trò động lực cho tăng trưởng ngành và của

nền kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia, thể hiện ở

các xu hướng biến đổi của lợi thế nguồn lực nảy sinh trong từng giai đoạn phát

triển khác nhau. Kết luận này thể hiện qua nhiều nghiên cứu thực tiễn: Krugman,

P. và Obstfeld, M (1991), International Economics – Theory and Policy [66], và

Mô hình đàn nhạn bay của Akamashu (trích trong Lê Du Phong và Nguyễn

Thành Độ (1999) [25] đã đồng nhất quan điểm: các quốc gia càng phát triển hơn

thì lợi thế vốn và công nghệ càng thể hiện rõ nét hơn, trong khi các quốc gia

đang phát triển lại thể hiện lợi thế về lao động và tài nguyên. Điều đó cho thấy:

việc chuyển đối cơ cấu kinh tế, cơ cấu nội bộ từng ngành kinh tế nhằm thúc đẩy

tăng trưởng và duy trì tính bền vững của tăng trưởng là vấn đề cần thiết khách

quan.

Vai trò của chính sách nhà nước đối với việc thúc đẩy quá trình chuyển

dịch cơ cấu nội bộ ngành kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng và duy trì tính bền

vững của quá trình tăng trưởng cũng được thể hiện rõ ở các nghiên cứu của

Samuelson (2001), Economics [84], Begg (2008) [43]; Gillis và các cộng sự

(2001), Economics of Development [58]; Torado (1985), Economic

Development in the Third World [94]; Killick (1993), The Adaptive Economy:

Adjustment Policies in Small, Low-Income Countries [64].

Lindauer, D [69] đã tổng quan nguồn gốc cơ bản của tăng trưởng kinh tế

từ các lý thuyết khác nhau: nội sinh, bán ngoại sinh và ngoại sinh như hình dưới

đây.

Trong đó: Y, K, L, N lần lượt là quy mô, vốn, lao động và tài nguyên của

nền kinh tế; A là tổng năng suất các yếu tố (TFP); S là vốn xã hội và t là thời

gian. Nhiều học giả học giả kinh tế, đặc biệt là Krugman và Wells [66]; và

21

Serven, L. và Solmano, A. [85], đã sử dụng hàm sản xuất của nền kinh tế được

viết dưới dạng của hàm Cobb-Douglas biến đổi:

GDP = Yt

Y = f (K, L) hoặc Y = A f(K,L)

Yếu tố sản xuất = Kt + Nt + Lt

Năng suất = At

Hội nhập kinh tế quốc tế

Thể chế = St

Nội sinh

Biến ngoại sinh

Ngoại sinh

Nguồn lực tự nhiên + khí hậu + địa hình + sinh thái

Hình 2. Nguồn gốc cơ bản của tăng trưởng kinh tế

Nguồn: [69]

Theo Temple, J. [91], TFP thể hiện sự cải tiến về trình độ công nghệ sản

xuất tạo điều kiện cho vốn và lao động được sử dụng hiệu quả hơn. Còn theo

Solow, R. M. [86], TFP cho biết năng suất của vốn và lao động trong một nền

kinh tế như thế nào. Hay nói cách khác, nó cho chúng ta biết nền kinh tế có thể

tạo ra sản lượng là bao nhiêu từ một đơn vị vốn và một đơn vị lao động.

Từ hàm sản xuất như vậy, tăng trưởng kinh tế có thể được chia thành 2

dạng: (i) tăng trưởng theo chiều rộng (tức là dựa vào sự mở rộng của vốn và lao

động) và (ii) tăng trưởng theo chiều sâu (tức là dựa vào năng suất) [85]. Tăng

trưởng theo chiều sâu có nghĩa là sử dụng cùng một lượng vốn và lao động hiệu

quả hơn. Nếu tăng trưởng có được dựa trên sự tăng thêm của lao động thì nó khó

có thể làm tăng được mức thu nhập bình quân đầu người. Do đó, các quốc gia

đều mong muốn có được một sự tăng trưởng theo chiều sâu và lúc đó các quốc

gia sẽ hướng đến sự phát triển kinh tế.

22

Về xu hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp,

các nghiên cứu đều nêu bật tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tăng

trưởng ngành công nghiệp là ưu tiên hàng đầu trong thúc đẩy chất lượng tăng

trưởng chung của nền kinh tế, nhất là đối với những nền kinh tế đang phát triển.

Theo quan điểm của Lindauer, D. (2002), The Third Generation of Economic

Growth [69], chất lượng tăng tưởng thể hiện trên hai khía cạnh: tốc độ tăng

trưởng cao cần được duy trì trong thời gian dài hạn và tăng trưởng cần phải đóng

góp cải thiện một cách bền vững vào xoá đói giảm nghèo. Lucas (1993),

Government Spending and Economic Growth [68], Serven, L. and Solimano, A.

(1993), Striving for Growth After Adjustment: The Role of Capital Formation

[85], và Stinglitz (2000), Economics of Public Sector [88] lại cho rằng, chất

lượng tăng trưởng biểu hiện tập trung ở các tiêu chuẩn chính sau: (1) TFP cao,

đảm bảo việc duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn và tránh được những biến động

từ bên ngoài; (2) tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng

cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; (3) tăng trưởng đi kèm với phát triển

môi trường bền vững; (4) tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới,

đến lượt nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở tỷ lệ cao hơn; và (5) tăng trưởng phải

đạt mục tiêu cải thiện phúc lợi và xoá đói giảm nghèo. Đây cũng là những kết

luận có giá trị khi bàn đến việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt nam

thời gian tới.

(2) Về mối quan hệ giữa tăng trưởng, chất lượng tăng trưởng với nguồn

lực tài chính

Ngoài các nghiên cứu mang tính chất kinh điển như Smith (trong Của cải

các dân tộc (1776), Kenyes (1936), hay trong mô hình tăng trưởng Harrod –

Domar (1940) [8], những nghiên cứu thực nghiệm gần đây đã khẳng định vai trò

của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế.

Một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (1993) và nghiên cứu gần đây

hơn của Stiglitz, J. (2005), Economics of Public Sector [87] và Stiglitz, J. và

23

Yusuf, S. (2002), Rethinking the East Asia Miracle [88] và Kanchana

Wanichkorn (2013), Investment, Innovation and Technology for Development:

Thailand’s Experiences [62] về vai trò của tiết tiệm đầu tư với tăng trưởng kinh

tế cho thấy nguyên nhân tạo ra thần kỳ Đông Á là tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao.

Do duy trì được tỷ lệ đầu tư vốn cao (khoảng 30-50% GDP) để thực hiện công

nghiệp hóa, dẫn đến tăng trưởng kinh tế cao mà không rơi vào thâm hụt tài

khoản vãng lai lớn, giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mô.

Lucas, O. (1993), Government Spending and Economic Growth [68] cũng

đã khẳng định vai trò của đầu tư đối với quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam

thời gian qua, tăng tốc độ huy động vốn đã đóng góp tích cực vào việc đáp ứng

nhu cầu đầu vào cho tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, Perkins (2007), Economics of Development [79] cho rằng: sẽ

là sai lầm nếu coi tốc độ huy động vốn là yếu tố dẫn dắt tăng trưởng chung như

mô hình tăng trưởng kiểu “tỷ trọng vốn – sản lượng”, mô hình giả định tăng tốc

huy động vốn sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng; ở vào thời điểm quyết định thúc

đẩy tăng trưởng, các nhân tố thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn đóng vai trò quan

trọng với nâng cao chất lượng tăng trưởng hơn là quy mô huy động vốn. Các

nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện hiệu quả sử dụng các

nguồn lực cho tăng trưởng, đặc biệt là nguồn lực tài chính và khoa học công

nghệ tới tăng trưởng có chất lượng cao.

Về mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng, các nghiên cứu gần đây nhấn

mạnh đến yêu cầu thay đổi hướng đầu tư phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế

của từng nước. Krugman (1991), International Economics – Theory and Policy

[66], hay các tác giả khác như Ogundipe, M. A. và Aworinde, O. B. (2011)

[77], Easterly (1993), Fiscal Policy and Economic Growth , Journal of

Monetary Economics [54] đã rút ra những kết luận mang tính đặc trưng về sự

lựa chọn cơ cấu đầu tư phù hợp với từng giai đoạn phát triển của các nước Đông

Nam Á từ thập niên 60 của thế kỷ 20 đến nay, đó là: sự chuyển đổi từ đầu tư chủ

24

yếu vào những ngành, lĩnh vực thâm dụng lao động (thập niên 60,70), đến đầu

tư vào những ngành có vốn và lao động ngang nhau (thập niên 80, 90) và hiện

nay là đầu tư vào lĩnh vực, sản phẩm thâm dụng vốn. Một nghiên cứu khác về

các nước Đông Nam Á của Stiglitz (2002) cho rằng, các nước Đông Á thành

công là do họ biết phân chia hợp lý vốn đầu tư cho các yếu tố tăng trưởng, nhất

là sự quan tâm của các nước này đối với đầu tư nhằm nâng cao TFP như đầu tư

công nghệ, đầu tư vào vốn con người v.v…

Trong nghiên cứu của mình, Barro [42] đã lượng hóa các biến mà ông coi

đó là đầu ra của quá trình tăng trưởng hay chất lượng tăng trưởng như tỷ lệ tội

phạm giết người, tham nhũng, yếu tố hồi giáo (phù hợp với hoàn cảnh của Hoa

Kỳ), ô nhiễm môi trường (không khí, nước),… Đơn giản hơn và dễ dàng đối

sánh hơn, John R Baldwin et al. [61] đã đưa ra một mô hình đo lường chất lượng

tăng trưởng, có thể thể hiện bằng một chỉ số. Cách thức này khá dễ dàng được

định lượng ở các quốc gia khác nhau dựa trên những biến số vĩ mô không quá

phức tạp. Trong đó, nền tảng tăng trưởng được dựa trên 4 yếu tố: độ mạnh, độ

biến thiên, thành phần ngành và thành phần cầu. Ở đây đô ̣ ma ̣nh vớ i đa ̣i diê ̣n là GDP bình quân đầu ngườ i; đô ̣ biến thiên thể hiê ̣n tính ổ n đi ̣nh củ a tố c đô ̣ tăng trưở ng; thành phần ngành thể hiê ̣n sự đa da ̣ng trong mă ̣t hàng xuất khẩu; và thành phần cầu thể hiê ̣n đô ̣ lớ n củ a cầu bên ngoài thuần so GDP. Đối với hệ quả xã hội được thể hiện dựa trên những chỉ số về y tế và giáo dục.

Điểm hạn chế của chỉ số này là nó thiếu yếu tố về môi trường. Ngoài ra,

cũng giống như nghiên cứu của Barro (2002)[42], nghiên cứu này mới chỉ đề

cập đến phần kết quả của quá trình tăng trưởng chưa đề cập đến các yếu tố đầu

vào hay hộp đen để giải thích kết quả đó.

Trong khi đó, Liên hợp quốc định nghĩa về chất lượng tăng trưởng không

hề đơn giản do không dễ gì định lượng được mọi mặt của tăng trưởng. Đôi khi

những đánh giá mang tính định tính lại rất có ý nghĩa. Chính vì lý do đó mà chất

lượng tăng trưởng kinh tế cần phải được phân tích theo nhiều cấp độ.

25

Chất lượng tăng trưở ng

Lan tỏa đến xã hội Các khía cạnh của tăng trưởng

Chăm sóc y tế Quy mô

Chất lượng GD Nhịp tăng

Cấu trúc ngành

Môi trường sinh thái

Mức sống Cơ cấu tổng cầu

Hình 3. Chỉ số chất lượng tăng trưởng

Nguồn: [61]

Chất lượng tăng trưởng càng cao thì độ bao trùm về xã hội và địa lý càng

rộng. Trong quá trình phát triển kinh tế, chất lượng tăng trưởng cao sẽ đảm bảo

rằng mức độ bao trùm đối với các vấn đề về con người càng lớn như giảm bớt sự

bất bình đẳng về thu nhập, cải thiện sức khoẻ và giáo dục của người dân. Ngoài

ra, tăng trưởng kinh tế được coi là đạt chất lượng cao khi đạt được bền vững về

môi trường. Sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và năng lực tái sinh

của môi trường có thể làm suy yếu sự thịnh vượng kinh tế của các thế hệ tương

lai. Từ quan điểm kinh tế, chất lượng tăng trưởng cao phải hướng đến sự bền

vững. Ngoài ra, một quốc gia đang phát triển mạnh sẽ không ngừng tăng cường

khả năng cạnh tranh toàn cầu của mình. Năng lực cạnh tranh của một quốc gia

cũng chính là thể hiện một phần chất lượng tăng trưởng kinh tế và phát triển con

người của quốc gia đó. Từ các ý kiến trên, các tác giả đề xuất 05 yếu tố cần thiết

để tăng trưởng kinh tế đạt chất lượng cao, bao gồm: (1) đảm bảo tái sản xuất các

26

nguồn lực và tri thức cần thiết đối với phát triển con người; (2) củng cố sự gắn

kết xã hội; (3) bền vững về môi trường; (4) bền vững về kinh tế và (5) gắn kết

với những thay đổi sâu sắc về mặt cấu trúc. Đồng thời, cần lưu ý rằng các chính

sách của chính phủ đóng vai trò quan trọng đối với cả chất lượng tăng trưởng và

hiệu chỉnh các lỗi sản xuất và phân phối vốn gắn liền với nền kinh tế thị trường.

Tổng quát lại, Thomas V. và các cộng sự [93] đã đưa ra một khung lý thuyết thể hiện mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô với chất lượng tăng trưởng. Khung lý thuyết này đã thể hiện một quá trình có tính tuần hoàn bao gồm cả nguyên nhân và kết quả của chất lượng tăng trưởng. Đây là điểm khác biệt đối với hầu hết các nghiên cứu khác khi tập trung nghiên cứu đầu ra hay kết quả của quá trình tăng trưởng rồi từ đó phân tích chất lượng tăng trưởng. Tuy nhiên, việc đo lường chất lượng tăng trưởng của mô hình này vẫn khá phức tạp với những biến số không dễ dàng để lượng hóa.

Chất lượng tăng trưởng

Tăng trưởng bền vững Tăng trưởng đổi mới Tăng trưởng cân đối Tăng trưởng bao trùm Tăng trưởng an toàn

Nền kinh tế tri thức: vượt qua bẫy thu nhập trung bình

Các đánh đổi; đồng vận; ưu tiên; cân đối kinh tế vĩ mô; cân bằng tài khóa

Tăng trưởng xanh

An ninh con người

Việc làm và PT bao trùm

Cải cách cơ cấu; Phát triển nhân lực và doanh nghiệp

27

Hình 4. Những khung nghị sự chất lượng tăng trưởng khác nhau

Nguồn: [45]

Có thể thấy rằng, tất cả các cách lý giải, mô hình đều có những mă ̣t ma ̣nh

và mặt ha ̣n chế củ a nó . Việc lựa chọn một cách thức đo lường, đánh giá chất

lượng tăng trưởng sẽ cần phải dựa trên một số các yếu tố khác, đặc biệt là dựa

trên bối cảnh và trình độ, đặc trưng phát triển của quốc gia.

(3) Về vai trò của nhà nước trong nâng cao chất lượng tăng trưởng

Lý thuyết kinh tế đề cao kết luận của Samuelson [84], Sliglitz (2002),

Rethinking the East Asia Miracle [88]; Ghosal, V. and Nair-Reichert, U. (2009),

Investments in modernization, innovation and gains in productivity: Evidence

from firms in the global paper industry [57] và một số nhà kinh tế như Perkins,

Lindauer, Steven trong những bài viết (Economics of Development, xuất bản lần

thứ 6, 2006) đã khẳng định vai trò của nhà nước đối với quá trình tăng trưởng

kinh tế, thông qua: giải quyết những vấn đề thị trường can thiệp không thành

công, thực hiện những hoạt động thị trường không can thiệp, tiến hành những

hoạt động nhà nước không muốn để thị trường can thiệp và cuối cùng là định

hướng và điều chỉnh sự phát triển kinh tế theo các mục tiêu nhà nước cần đạt

được.

H (vốn con người)

T

FP

Phúc lợi

Tác động

K (vốn vật chất)

Quản trị tốt và không tham nhũng; Giảm sự bóp méo đối với K; Sửa thất bại của thị trường làm suy giảm yếu tố H và R; Nâng cao hiệu lực pháp lý.

T

FP

R (vốn tự nhiên)

Hình 5. Khung chất lượng tăng trưởng

28

Nguồn: [93]

Trên thực tế, Trên thực tế, sự thành công của Trung Quốc trong tăng

trưởng (ít ra là đến thời điểm này) và của Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước

NIC…, nhất là sau thời kỳ khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra vào

tháng 10/2008 từ Hoa Kỳ, đã khẳng định sự thất bại của thuyết (chủ nghĩa) tân

tự do trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; nhiều

nhà khoa học cho rằng: cuộc khủng hoảng lần này cho thấy nhiều nước (trong đó

có nước Mỹ) cần thiết phải xem xét lại triết lý và mô hình tăng trưởng kinh tế

hiện tại đang áp dụng, trong đó đặc biệt cần phải xem xét quan điểm về vai trò

kinh tế của nhà nước. Như vậy, về nguyên lý, nội dung vai trò của Nhà nước

trong nền kinh tế thị trường là điều đã được khẳng định, sự khác nhau trong các

quan điểm và thực hành thực tế chủ yếu là mức độ can thiệp, cách thức can thiệp

và các công cụ sử dụng để can thiệp.

Để nhà nước có thể thực hiện sự can thiệp thành công vào nền kinh tế, cần

phải củng cố và sử dụng có hiệu quả các công cụ can thiệp, trong đó có việc sử

dụng lực lượng kinh tế nhà nước bao gồm chi tiêu công, đầu tư công và các

doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là thành tố quan trọng. Đó cũng là những nhận

định của các nghiên cứu về vai trò của nhà nước. Trong các chức năng can thiệp

vào nền kinh tế, nhà nước có vai trò quan trọng đối với quá trình đầu tư phát

triển. Nghiên cứu của Yingyi Qian [99], Chính phủ kiểm soát công tác quản trị

doanh nghiệp, đã nhấn mạnh đến: (1) nhà nước sử dụng các công cụ chính sách

tài chính để can thiệp vào thị trường đầu tư; (2) nhà nước sử dụng đầu tư công

với tư cách là công cụ thúc đẩy và hỗ trợ cho đầu tư tư nhân và thực hiện các

định hướng phát triển nhà nước cần đạt được; (3) Hỗ trợ đầu tư cho doanh

nghiệp và khuyến khích các DNNN đầu tư vốn để bảo đảm cung ứng các hàng

hóa mà khu vực tư nhân không đảm nhận. (4) Về vai trò của khoa học-công

nghệ đối với tăng cường chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp

29

Tầm quan trọng của khoa học - công nghệ và đổi mổi mới đầu tư khoa

học – công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế đã thu hút sự tham gia của nhiều

học giả và những kết quả nghiên cứu trên thế giới cả về lý luận và thực tiễn là

phong phú. Tiêu biểu có một số nghiên cứu như sau:

Ở cấp độ vĩ mô, gần đây, Raouf Boucekkine và đồng sự (2011) Tăng

trưởng dưới hạn mức ô nhiếm: Nghiên cứu tối ưu, chính sách thay thế và đầu tư

[82] nghiên cứu một mô hình tăng trưởng tối ưu của một nền kinh tế, có xét đến

vấn đề hạn ngạch ô nhiễm, đã chỉ ra rằng những nền kinh tế có ngành R&D hoạt

động kém hiệu quả sẽ cần phải tăng thêm hạn ngạch ô nhiễm nếu muốn đạt được

tăng trưởng cân bằng trong dài hạn. Trong khi đó những nền kinh tế có hoạt

động R&D hiệu quả có thể cung cấp một phần hạn ngạch ô nhiễm mà vẫn không

gây tác động xấu tới tăng trưởng bền vững của họ trong dài hạn. Về lý thuyết,

nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh vai trò của tri thức, khoa học - công nghệ như

nguồn lực quan trọng nhất và đổi mới công nghệ là động lực liên tục của tăng

trưởng kinh tế. Theo tổ chức OECD (2007) Review of China’s Innovation

System and Policy (Tổng quan về chính sách và hệ thống đổi mới của Trung

quốc) [75], đổi mới thông qua ứng dụng thành công khoa học - công nghệ vào

thị trường là yếu tố tiên quyết tới khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của

các quốc gia.

Ở cấp độ vi mô, Anderson, E., de Renzio, P. và Levy, S. , The Role of

Public Investment in Poverty Reduction: Theories, Evidence and Methods (Vai

trò của đầu tư công trong giảm nghèo: lý thuyết, kinh nghiệm và phương

pháp)[38] lập luận rằng đổi mới là yếu tố đảm bảo tăng trưởng bền vững trong

dài hạn cho các doanh nghiệp liên tục đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D)

các quy trình và sản phẩm mới. Sau đó, Nguyen Thi Nguyet (2012), Technology

– development investment and firm productivity in developing counries [72] lý

giải khi các doanh nghiệp đổi mới, họ tức thời trở thành nhà cung cấp độc quyền

các sản phẩm và dịch vụ mới ra thị trường, có thể tạo ra lợi nhuận và có thêm

30

những doanh nghiệp mới tham gia thị trường nhằm đưa cung cầu hàng hóa về

mức cân bằng. Do vậy, để luôn đạt được lợi nhuận kỳ vọng, doanh nghiệp cần

thiết phải liên tục đổi mới các quy trình công nghệ và/hoặc hạn chế khả năng đối

thủ cạnh tranh bắt chước công nghệ của mình.

Đầu tư khoa ho ̣c và công nghê ̣ nhằm phát triển năng lực công nghệ ở một

doanh nghiệp không những có thể tạo ra ngoại ứng cho nội tại doanh nghiệp đó,

trong ngành đó và có khi cho cả nền kinh tế thông qua các hoạt động như bắt

chước, chuyển giao kỹ năng lao động, và các hình thức lan truyền phi thị trường

khác. Những ngoại ứng này tạo điều kiện phát triển năng lực công nghệ cho các

hãng khác như nghiên cứu của Antje Schimke- Thomas Brenner (2011),

Temporal Structure of Firm Growth and the Impact of R&D [39] và

Anandarajan et al. (2007), The Effect of Innovative Activity on Firm

Performance: The Experience of Taiwan [37].

Dựa trên các lý thuyết, có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả đầu

tư khoa học – công nghệ được thực hiện trên nhiều phạm vi khác nhau, đáng chú

ý là những nghiên cứu sau:

OECD (2000), Science, Technology and Innovation in the New Economy,

Policy Brief Review [74] nghiên cứu tại 07 nước OECD trong giai đoạn 1975

đến 1996 với 16 ngành kinh tế cho thấy, trong ngắn hạn, đầu tư cho R&D hiệu

ứng tích cực đối với tăng trưởng GDP – thể hiện qua sự biến thiên trong nhu cầu

thị trường; hiệu ứng đối với tăng trưởng của các ngành sản xuất lại không được

ghi nhận một cách tích cực trong dài hạn. Khám phá mới được nghiên cứu rút ra

rằng hiệu ứng của đầu tư phát triển và ứng dụng khoa học-công nghệ đối với

từng ngành sản xuất cụ thể là rất khác nhau cả trong ngắn hạn và dài hạn, tuỳ

thuộc vào trình độ phát triển và cơ cấu nguồn lực đầu vào, cũng như ở quy mô

phát triển.

Nghiên cứu của Xibao Li (2008), External Technology Purchaseand

Indigenous Innovation Capability in ChineseHi-Tech Industries [98] tập trung

31

khảo cứu tác động của ba hình thức ứng dụng công nghệ đến đổi mới tại các

doanh nghiệp trong nhiều ngành công nghệ cao ở Trung Quốc phát hiện những

luận cứ đáng lưu ý: đầu tư thuần túy vào công nghệ nhập ngoại không giúp cải

thiện đổi mới trong các doanh nghiệp nhà nước, các công nghệ nhập nội có tác

động trực tiếp, tích cực tới quá trình đổi mới, và tiếp cận và ứng dụng công nghệ

ở các ngành khác nhau cần có chiến lược khác nhau để đạt được hiệu quả như

mong muốn.

Nghiên cứu của Phillip A. Griffifths (2013), Strenthening Science and

Technology in the Developing World [81] và của Raouf Boucekkine et al.

(2011), Sustainable growth under pollution quotas: optimal R&D, investment

and replacement policies [82] và OECD, DSIT/STP (2003) Review of China’s

Innovation System and Policy [75] về đánh giá hiệu quả đầu tư R&D và nhập

khẩu công nghệ đối với nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp tại

Thượng Hải, Trung Quốc. Đồng thời, Kuen-Hung Tsai et al. (2002), An

Examination of Taiwan’s Innovation Policies and R&D Performance [67] chỉ ra

tầm quan trọng trong tác động lan toả của công nghệ nhập khẩu với năng suất,

đồng thời tác động gián tiếp nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh

nghiệp trong nước, từ đó thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và triển khai ở nội tại các

doanh nghiệp trong nước.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Từ yêu cầu phải làm rõ những vấn đề lý thuyết và thực tiễn đối với vấn đề

tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp để vận dụng vào

việc nghiên cứu chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của Việt Nam, tác

giả đã thu thập 104 tài liệu tham khảo có liên quan (36 tài liệu tiếng Việt, 64 tài

liệu tiếng nước ngoài và 4 luận án tiến sĩ). Trên cơ sở tài liệu thu thập được, tác

giả đã tìm hiểu những quan điểm và cách tiếp cận nghiên cứu các vấn đề liên

quan đến đề tài. Trên cơ sở đó, trả lời các câu hỏi đâu là những luận điểm đã

được đề cập, đâu là những kết quả nghiên cứu tác giả có thể kế thừa trong đề tài

32

của luận án, đâu là khía cạnh luận án có thể tiếp tục đào sâu nghiên cứu làm rõ

cả về lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó, tác giả nhận thấy, lựa chọn bộ tiêu chí,

chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong

bối cảnh hội nhập, lựa chọn phương pháp nghiên cứu lan toả thông qua hệ số

ngành kéo, ngành đẩy trên cơ sở ứng dụng bảng cân đối liên ngành Leon tief là

khả dĩ về mặt lý luận và thực tiễn để đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành

công nghiệp Việt Nam, đây cũng là một điểm mới đáng lưu tâm của luận án.

33

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤ T LƯỢNG

TĂNG TRƯỞ NG CÔNG NGHIỆP

2.1. Cơ sở lý luận về chấ t lươ ̣ng tăng trưở ng ngành công nghiê ̣p

2.1.1. Khái niệm chất lượng tăng trưởng

2.1.1.1 Tăng trưởng kinh tế về mặt lượng

Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời

gian, quan niệm về phát triển cũng đã đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế theo

nghĩa chung nhất là quá trình tăng tiến toàn diện và ổn định về mọi mặt kinh tế,

văn hóa, xã hội của một quốc gia, trong đó bao gồm sự thay đổi về lượng và sự

nhảy vọt về chất của nền kinh tế. Sự thay đổi về lượng của phát triển kinh tế

được hiểu là quá trình tăng trưởng kinh tế, còn sự thay đổi về chất bao gồm quá

trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và sự tiến bộ xã hội.

Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời

gian quan niệm về phát triển cũng đã đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế theo

nghĩa chung nhất là quá trình tăng tiến toàn diện và ổn định về mọi mặt kinh tế,

văn hóa, xã hội của một quốc gia, trong đó bao gồm sự thay đổi về lượng và sự

nhảy vọt về chất của nền kinh tế. Sự thay đổi về lượng của phát triển kinh tế

được hiểu là quá trình tăng trưởng kinh tế, còn sự thay đổi về chất bao gồm quá

trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và sự tiến bộ xã hội.

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một

khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở

quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn

tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự

gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu

hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ

tiêu và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người.

34

Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền

kinh tế.

Trong quá trình phát triển kinh tế, sự tiến bộ và công bằng xã hội chính là

mục tiêu cuối cùng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh sự thay đổi về chất của

nền kinh tế còn tăng trưởng là điều kiện cần của sự phát triển, chúng ta không

thể thực hiện được mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nếu không

có một khả năng tích lũy vốn cao, và mục tiêu phấn đầu của xã hội không phải là

một sự công bằng trong đó ai cũng nghèo như ai. Một xã hội lành mạnh phải dựa

trên cơ sở của một nền kinh tế vững chắc về vật chất. Tăng trưởng kinh tế là

điều kiện vật chất cần thiết cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cho sự

thay đổi các mục tiêu xã hội.

Mặt số lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng

trưởng, nó thể hiện ở ngay trong khai niệm về tăng trưởng như đã nói ở trên và

được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng thu nhập.

Đứng trên góc độ toàn nền kinh tế, thu nhập bình quân đầu người. Các chỉ tiêu

giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ thống tài khoản quốc gia bao gồm: tổng giá

trị sản xuất (GO); tổng sản phẩm quốc nội (GDP); tổng thu nhập quốc dân

(GNI); thu nhập quốc dân (NI); thu nhập có khả năng sử dụng (NDI); trong đó,

chỉ tiêu GDP thường là chỉ tiêu quan trọng nhất, vì nó phản ánh toàn bộ giá trị

gia tăng hay giá trị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng tạo nên trong một

khoảng thời gian nhất định của một quốc gia. Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế

thể hiện ở quy mô (mức) và tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu nói trên. Nếu quy

mô và tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập và thu nhập

bình quân đầu người càng cao, có thể nói, đó là biểu hiện tích cực về mặt lượng

của tăng trưởng kinh tế.

Nghiên cứu cho thấy, có nhiều nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế.

Tuy vậy, các nhân tố tác động trực tiếp đến mặt lượng của tăng trưởng kinh tế

được hiểu khái quát bao gồm 2 nhóm:

35

+ Các nhân tố liên quan đến nguồn lực của tăng trưởng, bao gồm: Vốn,

lao động, tài nguyên đất đai, khoa học công nghệ, trong đó ba yếu tố đầu được

gọi là các yếu tố vật chất còn yếu tố thứ tư, bao gồm cả vốn nhân lực (khả năng,

trình độ đào tạo, sự khéo léo, uyên thâm của người lao động) là yếu tố phi vật

chất;

+ Các nhân tố liên quan đến đầu ra của tăng trưởng, bao gồm các yếu tố

cấu thành tổng chi tiêu của nền kinh tế như: chi cho tiêu dùng cá nhân, chi tiêu

của Chính phủ, chi cho các hoạt động đầu tư và chi qua quan hệ thương mại

quốc tế. Nhìn chung, sự thay đổi của một trong số các yếu tố liên quan trực tiếp

đến nguồn nhân lực hoặc cấu thành tổng chi tiêu đều có tác động đến mặt lượng

của tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, nếu xét mặt lượng của tăng trưởng theo khía

cạnh giá trị thu nhập bình quân đầu người thì tốc độ tăng trưởng dân số cũng là

yếu tố ảnh hưởng trực tiếp. Nếu tốc độ tăng trưởng tổng thu nhập lại thấp hơn

tốc độ tăng trưởng dân số thì điều đó có ý nghĩa là không có sự gia tăng về mặt

lượng của tăng trưởng đứng trên góc độ bình quân đầu người. Theo quan điểm

tăng trưởng hiện đại thì chỉ tiêu mức và tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân

đầu người thường được đánh giá và quan tâm nhiều hơn khi xét đến mặt lượng

của quá trình này.

Tóm lại, mặt lượng của tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng những

thước đo cụ thể và chúng ta có thể nhận diện được tăng trưởng về mặt lượng

thông qua phân tích các chỉ tiêu thống kê động thái biến động của nó.

2.1.1.2. Quan niệm về chất lượng tăng trưởng

Từ khi kinh tế học ra đời đến nay, nhiều lý thuyết và mô hình về tăng

trưởng kinh tế đã được hình thành và hoàn thiện. Tuy nhiên, các lý thuyết và mô

hình này chủ yếu tập trung phân tích và đánh giá sự tăng trưởng về số lượng.

Một vấn đề quan trọng của tăng trưởng kinh tế ngoài tốc độ tăng trưởng, đó là

chất lượng tăng trưởng, nhưng tăng trưởng về mặt chất lượng hầu như mới được

nhắc đến nhiều trong một vài thập kỷ trở lại đây.

36

Hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng tăng trưởng.

Có quan điểm cho rằng, chất lượng tăng trưởng kinh tế được đánh giá ở đầu ra,

thể hiện bằng các kết quả đạt được qua tăng trưởng kinh tế như chất lượng cuộc

sống được cải thiện, sự bình đẳng trong phân phối thu nhập, bình đẳng về giới

trong phát triển, bảo vệ môi trường sinh thái,… Quan điểm khác lại nhấn mạnh

đến khía cạnh đầu vào của quá trình sản xuất như việc sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực, nắm bắt và tạo cơ hội bình đẳng cho các đối tượng tham gia đầu tư,

quản lý hiệu quả các nguồn lực đầu tư. Nhìn từ một góc độ khác, theo cách hiểu

rộng, chất lượng tăng trưởng có thể tiến tới nội hàm của phát triển bền vững, chú

trọng tới cả ba thành tố kinh tế, xã hội và môi trường. Theo cách hiểu hẹp, chất

lượng tăng trưởng có thể được giới hạn ở một khía cạnh nào đó, ví dụ như chất

lượng đầu tư, chất lượng giáo dục, chất lượng dịch vụ công, v.v.

Như vậy, cho đến nay chưa có một khái niệm chính thức về chất lượng

tăng trưởng. Mặc dù vậy, đã có một số quan niệm về chất lượng tăng trưởng của

các tác giả trong nước và quốc tế tương đố i rõ nét, có thể liê ̣t kê dướ i đây:

Thứ nhất, theo Cù Chí Lợi (2009), Tăng trưởng và chất lượng tăng

trưởng ở Việt Nam [17], quan niệm cho rằng chất lượng tăng trưởng kinh tế là

cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả. Cơ cấu tăng

trưởng thể hiện ở chỉ tiêu điểm phần trăm đóng góp của các ngành vào tăng

trưởng và chỉ tiêu tỷ trọng đóng góp của mỗi bộ phận trong 100% mức tăng

trưởng. Cơ cấu tăng trưởng cũng có thể được xét theo khu vực thể chế, thành

phần kinh tế, vùng lãnh thổ, và theo yếu tố sản xuất (vốn, lao động, năng suất

nhân tố tổng hợp-TFP). Tính hợp lý của quan niệm này là coi chất lượng sự vật

là sự biến đổi cơ cấu bên trong của sự vật, không gắn chất lượng sự vật với mục

đích tồn tại, bối cảnh, môi trường, điều kiện mà sự vật tồn tại hoặc các sự vật có

mối liên hệ tác động mật thiết với nhau.

Thứ hai, Chất lượng tăng trưởng theo quan niệm hiệu quả. Nghiên cứu

của Diễn đàn Kinh tế-Tài chính Việt-Pháp (2004), Vì một sự tăng trưởng và một

37

xã hội công bằng [6] cho rằng, tăng trưởng được hình thành theo hai phương

thức: Tăng trưởng theo chiều rộng, tức là tăng trưởng có được nhờ sự tăng lên

của vốn, lao động và tăng cường khai thác tài nguyên; Tăng trưởng theo chiều

sâu, thể hiện ở tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất, tăng

cường chất lượng quản lý, nâng cao hiệu quả áp dụng khoa học công nghệ; hoàn

thiện môi trường kinh doanh và môi trường phát lý, v.v. Có thể thấy, tăng trưởng

theo chiều sâu hiện nay khá phổ biến ở các nước công nghiệp, nơi mà các yếu tố

chiều rộng đã được khai thác ở mức cao. Còn đối với các nước đang phát triển,

tăng trưởng theo chiều rộng vẫn là chủ đạo. Trong quá trình phát triển từ nền

kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, yếu tố chất lượng nguồn nhân lực

và khoa học công nghệ có vai trò vượt trội so với các yếu tố truyền thông (tài

nguyên thiên nhiên, vốn vật chất, lao động nhiều và rẻ,…). Chất lượng tăng

trưởng kinh tế được hiểu theo quan niệm hiệu quả (tăng trưởng theo chiều sâu)

rất cụ thể và tạo thuận lợi cho mục tiêu tìm kiếm giải pháp thúc đẩy tăng trưởng.

Thứ ba, Nguyễn Thị Tuệ Anh và Lê Xuân Bá (2005), Chất lượng tăng

trưởng kinh tế-Một số đánh giá ban đầu cho Việt Nam [2] cho rằng chất lượng

tăng trưởng kinh tế là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp

hoặc hàng hóa sản xuất trong nước. Tăng trưởng đi liền với việc nâng cao năng

lực cạnh tranh là tăng trưởng có chất lượng cao và ngược lại.

Thứ tư, các nhà kinh tế học của OXFAM trong nghiên cứu của Đại học

Kinh tế Quốc dân (2011), Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam [10] quan

niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là nâng cao phúc lợi của công dân và gắn

liền với tăng trưởng với công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế là nguồn gốc tạo

thêm của cải cho xã hội. Theo quan điểm này, thước đo của chất lượng tăng

trưởng kinh tế được thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế đáp ứng phúc lợi cho

nhân dân như thế nào. Phúc lợi không chỉ thể hiện ở thu nhập bình quân đầu

người mà còn là chất lượng cuộc sống, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên,

38

cơ hội học tập và chăm lo sức khỏe. Còn công bằng xã hội thể hiện ở khoảng

cách giàu nghèo được thu hẹp và tỷ lệ người nghèo trong xã hội giảm bớt.

Quan niệm chất lượng tăng trưởng theo phúc lợi và công bằng xã hội

được cho rằng nếu quá quan tâm đến tăng trưởng mà ít chú ý đến công bằng xã

hội sẽ dẫn tới bất ổn và tăng trưởng sẽ không bền vững. Ngược lại, nếu quá đề

cao công bằng xã hội thì không có động lực và tiềm lực vật chất để thúc đẩy

tăng trưởng. Sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ

tạo ra chất lượng của tăng trưởng kinh tế.

Thứ năm, Quan niệm về chất lượng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền

vững Đặc trưng của tăng trưởng kinh tế có chất lượng được biểu hiện qua việc

phát triển bền vững. Theo World Bank (Ngân hàng thế giới) (2016), Các chỉ tiêu

phát triển [22], thuật ngữ “phát triển bền vững” là phát triển theo nguyên tắc “sự

thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hôm nay không làm tổn hại tới sự thỏa mãn nhu

cầu của các thế hệ mai sau”. Phát triển bền vững phải bảo toàn và phát triển ba

nguồn vốn: tài nguyên môi trường (bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi

trường xã hội), vốn nhân lực (chất lượng của người lao động) và vốn vật chất

(cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế). Trong đó, tài nguyên môi trường thiên

nhiên hiện nay được quan tâm đặc biệt, vì công nghiệp hóa, hiện đại hóa của các

quốc gia thời gian qua thường dẫn tới hủy hoại về môi trường. Các nghiên cứu

của Ngân hàng thế giới cho thấy, mức độ ô nhiễm lúc đầu tăng cùng với tốc độ

tăng trưởng kinh tế cho tới khi thu nhập bình quân đầu người đạt tới 12000

USD/năm. Thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng thì chất lượng môi

trường giai đoạn tiếp theo được cải thiện rõ rệt.

Thứ sáu, Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là thể chế dân chủ

trong môi trường chính trị - xã hội của nền kinh tế; các công trình nghiên cứu

của Gerybadze et al. (2010), Innovation and International Corporate Growth

[55] cho rằng tác động của tăng trưởng kinh tế đối với quá trình đổi mới hệ

thống chính trị từ lâu đã được nhìn nhận là vừa có tính tích cực, lại vừa có tính

39

trực tiếp. cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa thu nhập đầu người và mức

độ dân chủ hóa của thể chế chính trị xã hội. Cụ thể hơn, tính minh bạch, ít tham

nhũng và sự tham gia của người dân vào quản lý kinh tế-xã hội sẽ tác động

mạnh tới tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Theo cách diễn giải của trường phái

này, dân chủ chính là biểu hiện mặt chất của tăng trưởng kinh tế.

Tóm lại, có thể cho rằng, chất lượng tăng trưởng là thuộc tính bên trong

của quá trình tăng trưởng kinh tế, thể hiện ở tính hiệu quả của việc sử dụng các

yếu tố đầu vào trong việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng, cấu trúc tăng trưởng phù

hợp với tiềm năng, thế mạnh và trình độ phát triển của nền kinh tế và những ảnh

hưởng lan toả của nó tới các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế-xã hội.

2.1.2. Chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp

2.1.2.1. Khái niệm

Chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp là khái niệm “phản ánh

nội dung bên trong của quá trình tăng trưởng, biểu hiện ở phương tiện, phương

thức, mục tiêu và hiệu ứng đối với môi trường chứa đựng tăng trưởng ấy”. Nó

thể hiện ở khả năng sử dụng các yếu tố đầu vào để đạt được sự tăng trưởng của

ngành công nghiệp, đóng góp của các bộ phận cấu thành của ngành cho tăng

trưởng chung của ngành và những tác động của việc đạt được chỉ tiêu tăng

trưởng của ngành tới các lĩnh vực khác của nền kinh tế.

Chất lượng tăng trưởng cao của ngành công nghiệp được hiểu là sự tăng

trưởng với nhịp độ cao, hiệu quả và bền vững của ngành thể hiện qua cơ cấu nội

bộ ngành phù hợp với trình độ công nghệ, tiềm năng, thế mạnh của ngành; năng

suất nhân tố tổng hợp, năng suất lao động, tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản

phẩm cao; có khả năng tiết kiệm năng lượng, sản xuất có tính cạnh tranh cao;

không ngừng nâng cao vị trí của các phân ngành công nghiệp trong chuỗi giá trị

toàn cầu và có khả năng bảo vệ môi trường.

Tổng quan từ các tài liệu, báo cáo cho thấy, hầu như không có nghiên cứu

nào có tiêu đề “chất lượng tăng trưởng công nghiệp”. Hầu như các nghiên cứu

40

hoặc báo cáo hướng tới nội dung “phát triển công nghiệp”. Trong chừng mực

nào đó, “tăng trưởng chất lượng cao” đôi lúc được hiểu với nội hàm tương tự

“phát triển”, “phát triển bền vững”. Trong số những nghiên cứu, báo cáo về phát

triển công nghiệp, có thể kể đến những ấn phẩm hàng năm và chuyên đề nghiên

cứu sâu của Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO). Gần

đây, UNIDO đã xác định tăng trưởng bền vững, có chất lượng phải được thể

hiện ở 3 đặc tính: (i) tốc độ tăng cao; (ii) thời gian duy trì tốc độ cao; (iii) sự ổn

định của tốc độ tăng. Để đảm bảo các đặc tính này, theo UNIDO nền móng của

nó phải là sự thay đổi căn bản về công nghệ, tạo ra việc làm và có sự phân phối

hợp lý về thu nhập. Đây cũng là quan điểm chung nhất mà nhiều nghiên cứu

khác đều hướng đến như của Stiglitz, J. [88]

Thay đổi công nghệ

Chuyển đổi cơ cấu

Việc làm Phân phối t.nhập

Điều kiện: Nguồn lực và kỹ năng sẵn có Năng lực hấp thụ Đặc tính công nghệ Bối cảnh quốc tế

Bao trùm, phổ quát toàn xã hội

Đánh đổi

Hình 6. Khung quan niệm: thay đổi công nghệ cho sự chuyển đổi cơ

cấu toàn diện

Nguồn: [88]

Hơn nữa, phần nhiều các quốc gia trên thế giới hiện nay đã và đang tiến

hành công nghiệp hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng và tốc độ đô thị hóa

41

được đẩy nhanh. Mặc dù khi bắt đầu tiến hành quá trình công nghiệp hóa, nhiều

nước đang phát triển đã thực hiện phương châm “tăng trưởng trước, làm sạch

sau” nhưng những vấn đề về môi sinh và xã hội là rất lớn và chúng nhanh chóng

được quan tâm bởi nếu tiếp tục phương châm đó, các nước sẽ phải trả một cái

giá rất đắt, thậm chí tụt lùi hơn, rơi vào bẫy thu nhập trung bình.

Cạnh tranh toàn cầu và sự

bền vững Nhà máy của tương lai

Sản phẩm bền vững Khả năng chuyển đổi linh hoạt

Môi trường Người LĐ

Hiệu suất cao Thông tin Hiệu quả kinh tế

Ranh giới hệ thống

Hiệu quả sinh thái Thông minh có tính kỹ thuật

Mạng lưới toàn cầu Nhà máy Phân khúc Hệ thống sản xuất thích ứng Kỹ thuật số Hiệu quả xã hội Máy móc

Sản xuất xanh

Nơi làm việc Chu trình hoạt động Công nghệ đổi mới

… đi theo cùng vòng đời

của sản phẩm

Hình 7. Mô hình sản xuất được hướng tới trong tương lai

Nguồn: [80]

Các nhà nghiên cứu cho thấy [96], mức độ ô nhiễm không khí của các

nước Đông Á đã vượt chuẩn của các nước OECD tới 5 lần và 2 lần so với bình

quân của toàn cầu. Bên cạnh đó, UNIDO [96] cũng đã chỉ ra rằng, từ năm 1960

cho đến năm 2012, chỉ có 13 trên 101 quốc gia đang phát triển thoát khỏi bẫy

thu nhập trung bình. Điều đó càng cho chúng ta nhận ra rằng, tăng trưởng công

42

nghiệp không thể đứng riêng rẽ mà xem xét đến những hệ lụy tăng trưởng do nó

đem lại. Chất lượng tăng trưởng công nghiệp không chỉ bản thân nội tại của

ngành công nghiệp mà phải đem lại phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường. Xét

về dài hạn đây là mối quan hệ qua lại, dù rằng chiều mũi tên từ phát triển công

nghiệp dường như lớn hơn.

Không chỉ xem xét phát triển công nghiệp với môi trường, Thomas, V. và

các cộng sự (2000) [93] cũng đã xem xét khá toàn diện tính bền vững trong phát

triển và tăng trưởng công nghiệp ở các nước Đông Á và đã tìm thấy một số phát

hiện thực chứng giữa tăng trưởng, phát triển công nghiệp với các yếu tố khác

như thể chế, nhân lực, công nghệ, xuất nhập khẩu… Năng lực của ngành công

nghiệp có tỷ lệ thuận chiều với sự phát triển của những yếu tố nêu trên. Điều này

cũng phản ánh rằng ngành công nghiệp có tăng trưởng bền vững thì cần phải có

những yếu tố khác “đi cùng” để đảm bảo.

Tóm lại, kế thừa từ các nghiên cứu được tham khảo, các tác giả cho rằng,

chất lượng tăng trưởng công nghiệp phải thể hiện sức mạnh của tăng trưởng

thể hiện tốc độ cao, ổn định, lâu dài, trong đó về mặt cấu trúc tăng trưởng, đóng

góp của ngành công nghiệp chế biến và của yếu tố năng suất tổng hợp có xu

hướng chiếm ưu thế; tăng trưởng phải đảm bảo ngày càng cải thiện các tiêu chí

hiệu quả, thể hiện qua xu hướng tăng lên của tỷ trọng giá trị gia tăng trong giá

trị sản xuất, xu hướng tăng lên của năng suất lao động, hiệu quả sử dụng các

yếu tố đầu vào, thúc đẩy xuất khẩu và có sức lan tỏa tích cực đến phát triển kinh

tế – xã hội – môi trường thông qua thúc đẩy tăng trưởng của các khối ngành

khác trong nền kinh tế, và có khả năng bảo vệ môi trường.

Đây chính là quan điểm mà các tác giả làm cơ sở để xây dựng khung

phân tích và bộ tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành công

nghiệp.

2.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng công nghiệp

a) Quan điểm đề xuất

(1) Khung phân tích và hệ thống tiêu chí phải được dựa trên các luận cứ

vững chắc về cả mặt lý thuyết và mặt thực tiễn; có tính kế thừa và tính thời đại

43

nhằm có thể áp dụng trong một thời gian dài.

(2) Hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu được đề xuất phải đo lường và đối sánh

được (cả trong nước và quốc tế).

(3) Khung phân tích và hệ thống tiêu chí phải phù hợp với điều kiện thực

tiễn của nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, phải gắn với sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

b) Khung phân tích

Từ cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế được trình bày ở trên, luận án

xây dựng khung phân tích chất lượng tăng trưởng cho ngành công nghiệp Việt

Nam được hình thành làm cơ sở nghiên cứu, phân tích và đề xuất các giải pháp

của luận án. Khung phân tích này có phần tương tự với kết quả nghiên cứu của

Thomas và các cộng sự (2000)[93], tuy nhiên trọng tâm của nó là ngành công

nghiệp và các kết quả đầu ra chính là chất lượng của tăng trưởng ngành công

nghiệp của một quốc gia đang phát triển có nền kinh tế chuyển đổi.

Để đo lường chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp, tác giả đưa ra

ba nhóm tiêu chí: (i) cấu trúc tăng trưởng của công nghiệp, thể hiện ở việc huy

động nguồn lực của nền kinh tế phục vụ cho tăng trưởng, đồng thời là vai trò của

các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng ngành công nghiệp của Việt Nam trong

bối cảnh nguồn lực khan hiếm. Cấu trúc của tăng trưởng công nghiệp cũng được

đánh giá trên cơ sở đóng góp của các ngành công nghiệp tới tăng trưởng chung

của ngành, nhằm đánh giá trình độ của sản xuất công nghiệp; (ii) Hiệu quả của

tăng trưởng công nghiệp; nhóm tiêu chí này thể hiện ở hiệu quả đầu ra của tăng

trưởng, thể hiện ở hiệu quả sử dụng vốn, năng suất lao động, xuất khẩu, hiệu quả

sử dụng năng lượng; và (iii) tác động lan toả từ tăng trưởng công nghiệp. Điều

này thể hiện vai trò và tính chất lan tỏa của ngành công nghiệp, tăng trưởng của

ngành công nghiệp thúc đẩy các lĩnh vực, các ngành khác cùng phát triển thông

qua lực kéo, lực đẩy của ngành đối với các ngành, lĩnh vực khác.

44

Quy mô Nhịp tăng

Tỷ lệ chi phí SX

Tốc độ, tính bền vững

Nền tảng tăng trưởng CN

Năng suất lao động

Cấu trúc của đầu vào

Đóng góp cho tăng trưởng

Các chỉ tiêu đo lường (kết quả) Quy mô và cơ cấu của các yếu tố đầu vào (chi phí tăng trưởng)

Đóng góp của CN

Tỷ trọng trong nền kinh tế

Tính liên kết, lan tỏa

K

SP CN XK

Xuất khẩu

TFP

Nền tảng

Môi trường

xã hội

L

Hình 8. Khung phân tích chất lượng tăng trưởng công nghiệp

Nguồn: Tác giả.

Cụ thể hóa ba nhóm tiêu chí này là một số các chỉ tiêu có thể định lượng

được, đối sánh được, nêu bật được vị thế của ngành công nghiệp trong tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước.

c) Bộ chỉ tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt

Nam của luận án

Bộ chỉ tiêu đánh giá, đo lường chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt

Nam được dựa trên ba nhóm tiêu chí được nêu ở trên.

(1) Nhóm tiêu chí thể hiện cấu trúc của tăng trưởng

Chỉ tiêu 1: Đóng góp của các phân ngành tới tăng trưởng của toàn khối

ngành công nghiệp, đặc biệt là cơ cấu và đóng góp của công nghiệp chế biến cho

trong tăng trưởng toàn ngành. Tăng trưởng công nghiệp là có chất lượng và có

xu hướng cải thiện chất lượng khi ngành công nghiệp chế biến thể hiện vai trò

45

chủ đạo, đóng góp phần lớn trong tăng trưởng của khối ngành công nghiệp. Về

phương pháp tính toán, tốc độ tăng trưởng của ngành và các phân ngành công

nghiệp được tính toán như mô tả ở chương 2; đóng góp của các phân ngành công

nghiệp vào tăng trưởng chung của khối ngành được tính toán như sau:

Đóng góp của phân ngành (%) = Tăng trưởng của phân ngành (x) tỷ trọng

của phân ngành trong toàn ngành công nghiệp.

Số liệu tính toán được thu thập từ các nguồn thống kê chính thống như

[106] và [12]. Chỉ tiêu thống kê được sử dụng là VA và cơ cấu VA của các phân

ngành.

Chỉ tiêu 2: Đóng góp của các yếu tố nguồn lực cho tăng trưởng của ngành

công nghiệp, đặc biệt là đóng góp của yếu tố nguồn nhân lực và TFP trong tăng

trưởng của toàn ngành. Tăng trưởng công nghiệp có chất lượng được dần nâng

lên khi đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) có xu hướng

tăng và ngày càng là chủ yếu trong các yếu tố nguồn lực vốn, lao động và TFP.

Phương pháp tính toán chỉ tiêu này được mô tả ở phụ lục 4 của luận án.

(2) Nhóm tiêu chí thể hiện hiệu quả của việc đạt được chỉ tiêu tăng

trưởng:

Đây là tiêu chí quan trọng của bất kỳ ngành công nghiệp nào, phản ánh

sức mạnh nội tại của bản thân ngành công nghiệp. Thông thường, nếu một quốc

gia có nền công nghiệp có mức tăng trưởng cao, lâu dài, ổn định, có trình độ

công nghệ hiện đại và có đầu ra ổn định sẽ đem lại đóng góp lớn cho phát triển

kinh tế cũng như có hệ quả xã hội và môi trường tốt. Nhóm tiêu chí này được đo

lường thông qua các chỉ tiêu sau đây:

Chỉ tiêu 3: Tốc độ tăng trưởng của các phân ngành công nghiệp, đặc biệt

là công nghiệp chế biến đạt nhanh, ổn định và lâu dài. Ngoài ra, tốc độ tăng công

nghiệp chế biến tăng nhanh hơn toàn ngành công nghiệp.

46

Tốc độ tăng trưởng được xác định là tỷ lệ phần trăm gia tăng của quy mô

của ngành công nghiệp (thường được tính trên giá trị gia tăng hoặc giá trị sản

xuất của ngành), thường được tính theo hàng năm hoặc giai đoạn.

Theo quy mô tuyệt đối, ΔQ = Q1 – Q0

Về tương đối, g (%) = ΔQ/ Q0 x 100

Trong đó, Q1 là quy mô ngành công nghiệp năm nghiên cứu; Q0 là quy mô

ngành công nghiệp năm so sánh; g là tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp năm

nghiên cứu.

Chỉ tiêu 4: Năng suất lao động công nghiệp.

Năng suất là tỷ số giữa đầu ra và những đầu vào được sử dụng để tạo ra

đầu ra đó (Cách tiếp cận mới về năng suất lao động.GS- PTS Nguuyễn Đình

Phan.Nxb Chính trị quốc gia, HN.Tr 8), về mặt toán học năng suất được phản

ánh bằng:

P = tổng đầu ra / tổng đầu vào

Đầu ra được phản ánh dưới nhiều tên gọi khác nhau như “tập hợp các kết

quả”; “thực hiện ở các mức độ cao nhất”; tổng đầu ra hữu hình”; “toàn bộ đầu ra

có thể được”. Cụ thể trong luận án này đầu ra được tính bằng tổng giá trị sản

xuất hay giá trị gia tăng của ngành công nghiệp.

Đầu vào được tính theo các yếu tố tham gia để sản xuất ra đầu ra. Đó là

lao động, nguyên liệu, vốn, thiết bị, năng lượng, kỹ thuật, kỹ năng quản lý. Việc

chọn đầu vào và đầu ra khác nhau sẽ tạo ra các mô hình đánh giá năng suất khác

nhau. Đặc điểm của quan niệm truyền thống là tập trung nhấn mạnh đến yếu tố

đầu vào như lao động, vốn (năng lượng, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, công

nghệ) trong đó yếu tố lao động là trung tâm, và luận án xác định năng suất lao

động công nghiệp trên yếu tố đầu vào là lao động công nghiệp.

47

Tăng trưởng công nghiệp là có chất lượng khi năng suất yếu tố đầu vào có

xu hướng cao và tăng nhanh hơn so với năng suất bình quân của nền kinh tế.

Chỉ tiêu 5: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của ngành công nghiệp.

Có nhiều tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của ngành. Trong

khuôn khổ luận án này, tác giả sử dụng hệ số ICOR-hệ số gia tăng sản lượng đầu

ra từ vốn. Đây là hệ số được đề cập ở mô hình tăng trưởng cổ điển Harrod-

Domar. Hệ số này phản ánh mối quan hệ đơn giản, dễ tính toán, tương đối phù

hợp với các nước đang phát, giữa sản lượng đầu ra và vốn đầu tư cần thiết để đạt

được sự gia tăng sản lượng đó. Theo công thức:

g = s/k => k = s/g

Trong đó:

k – hệ số ICOR

g – tốc độ tăng trưởng quy mô ngành/nền kinh tế

s – tỷ lệ tích luỹ/đầu tư của ngành/nền kinh tế.

Có thể thấy, với khả năng tiết kiệm, đầu tư nhất định, nếu hệ số ICOR

càng thấp thì khả năng đạt được tăng trưởng càng cao. Hệ số ICOR thấp phản

ánh số vốn đầu tư cần thiết để đạt được một đơn vị gia tăng sản lượng đầu ra

thấp, hay hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao, và ngược lại. Thực tế cho thấy, có

nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, như cơ chế chính

sách, điều hành, cơ cấu đầu tư, khoa học công nghệ, v.v., và tuy ICOR là một hệ

số tổng quát phản ánh tổng hợp tính hợp lý của các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu

quả đầu tư, việc phân tích hệ số ICOR kết hợp với phân tích các nhân tố ảnh

hưởng đến hệ số này trong các phần khác của luận án, sẽ vẫn mang lại ý nghĩa

nhất định trong phân tích nguồn gốc tăng trưởng và hiệu quả đạt được chỉ tiêu

tăng trưởng của ngành công nghiệp, cũng như của cả nền kinh tế.

Tăng trưởng công nghiệp là có chất lượng và chất lượng được cải thiện

khi nền công nghiệp cần ít vốn đầu tư hơn để đạt được một đồng gia tăng của

VA, hay ICOR thấp hơn so với bình quân chung của nền kinh tế.

48

Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất của ngành công

nghiệp, đặc biệt là của ngành công nghiệp chế biến. Tỷ lệ chi phí trung gian (IC)

trong sản xuất công nghiệp được tính bằng Chi phí trung gian so với GO của

ngành. Tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất của ngành công nghiệp, đặc

biệt là của ngành công nghiệp chế biến có xu hướng tăng lên và chiếm phần lớn

trong giá trị sản xuất, cho thấy khả năng đạt được tăng trưởng càng thấp và sản

xuất hiệu quả giảm sút. Vì vậy, tăng trưởng công nghiệp có chất lượng và có xu

hướng cải thiện chất lượng nếu tỷ lệ chi phí trung gian trong GO công nghiệp có

xu hướng giảm dần, qua đó nâng dần tỷ lệ giá trị gia tăng trong sản xuất của

ngành. Tỷ lệ chi phí trung gian thấp còn cho thấy trình độ sản xuất công nghiệp,

khả năng liên kết ngành và cụm ngành cao, có hiệu quả và vị trí của ngành công

nghiệp trong chuỗi giá trị sản xuất, ở khâu tạo ra nhiều giá trị gia tăng hay

không.

Chỉ tiêu 7: Tiêu hao năng lượng trong sản xuất công nghiệp. Chỉ tiêu này

thường được đo lường dựa trên điện năng tiêu thụ để tạo ra một đồng VA. Tiêu

hao năng lượng có xu hướng tăng hoặc giảm chậm, ở khía cạnh nào đó, cho thấy

cơ cấu sản xuất và trình độ công nghệ chậm cải tiến. Ngược lại, sản xuất công

nghiệp có chi phí năng lượng thấp hơn so với các nước so sánh trong một đồng

VA tạo ra và có xu hướng giảm được coi là tăng trưởng có chất lượng.

(3) Nhóm tiêu chí thể hiện sự tác động lan toả của tăng trưởng công

nghiệp tới các ngành và lĩnh vực khác của nền kinh tế

Chỉ tiêu 8: Đóng góp của tăng trưởng công nghiệp cho tăng trưởng chung

của nền kinh tế. Vai trò của ngành công nghiệp được thể hiện ở mức đóng góp

ngày càng tăng trong tăng trưởng của nền kinh tế khi nền kinh tế đó có mức thu

nhập trung bình, ở giai đoạn 3-4 của các giai đoạn phát triển, theo lý thuyết của

Rostow [8, 28]. Đóng góp ngày càng lớn của ngành công nghiệp tới nền kinh tế

thể hiện hiệu quả và khả năng lan toả tới tăng trưởng chung từ công nghiệp có

xu hướng cải thiện và vai trò đầu tàu trong tăng trưởng của ngành công nghiệp

49

ngày càng được khẳng định, qua đó thể hiện tăng trưởng công nghiệp là có chất

lượng. Phương pháp tính toán và số liệu tương tự chỉ tiêu số 2 ở trên.

Chỉ tiêu 9: Đóng góp vào xuất khẩu của sản phẩm công nghiệp. Luận án

xem xét cơ cấu hàng xuất khẩu và đóng góp của nhóm hàng công nghiệp tới xuất

khẩu của toàn nền kinh tế. Góp góp của xuất khẩu sản phẩm công nghiệp vào

tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước được tính bằng kim ngạch xuất khẩu sản

phẩm công nghiệp/tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước theo tỷ lệ %. Tăng

trưởng của công nghiệp được đánh giá là có hướng cải thiện chất lượng khi

nhóm hàng công nghiệp chiếm ưu thế trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nền

kinh tế và công nghiệp chế biến có đóng góp lớn hơn các phân ngành công

nghiệp khác trong cơ cấu xuất khẩu của ngành.

Chỉ tiêu 10: Tác động của ngành công nghiệp tới các ngành kinh tế khác

thông qua mức độ liên kết mạnh (xuôi, ngược) giữa công nghiệp với các ngành

khác trong nền kinh tế. Phương pháp đánh giá tác động của công nghiệp tới các

ngành kinh tế khác được mô tả trong phần phụ lục 4 của Luận án. Tăng trưởng

công nghiệp là có chất lượng khi các phân ngành công nghiệp có khả năng đẩy

và kéo trong nội bộ ngành và tới các khối ngành khác của nền kinh tế như nông

nghiệp và dịch vụ. Khả năng đẩy-kéo này thể hiện ở các hệ số liên kết ngược và

liên kết xuôi ở mức lớn hơn 1 trong giai đoạn nghiên cứu. Tăng trưởng công

nghiệp cũng được coi là có chất lượng khi các hệ số liên kết lớn hơn một còn thể

hiện tính liên kết chặt chẽ giữa các ngành, cụm ngành trong sản xuất công

nghiệp.

Chỉ tiêu 11: Sản xuất công nghiệp và môi trường. Luận án xem xét thiệt

hại của nền kinh tế từ ô nhiễm môi trường. Đồng thời, xem xét mức độ phát thải

của khối ngành công nghiệp trong nền kinh tế, so với mức bình quân chung của

thế giới và một số nước trong khu vực; xem xét mức phát thải bình quân trong

một đồng VA công nghiệp, so với bình quân của thế giới và các nước trong khu

vực có cùng trình độ phát triển. Chất lượng tăng trưởng công nghiệp được thể

50

hiện qua xu hướng gia tăng của các dấu hiệu kể trên. Nếu mức độ phát thải của

công nghiệp và chi phí phải trả của nền kinh tế Việt Nam thấp hơn so với bình

quân của thế giới và của khu vực, tăng trưởng công nghiệp được coi là có chất

lượng và ngược lại.

2.2. Kinh nghiê ̣m cá c nướ c trong phá t triển công nghiê ̣p và nâng cao chấ t

lươ ̣ng công nghiê ̣p

2.2.1. Thái Lan

Nền kinh tế Thái Lan đã có những bước đột phá trong vòng ba thập kỷ

qua, tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế này hàng năm [125] đạt được

7,7% trong suốt 35 năm (1961-1995), trong đó, giá trị gia tăng ngành công

nghiệp được đánh giá đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10,6%/năm. Giai đoạn

1996-2014 ghi nhận sự sụt giảm trong tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế Thái

Lan với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm chỉ đạt 3,3%, trong đó,

tốc độ tăng trưởng của giá trị gia tăng ngành công nghiệp chỉ đạt bình quân 3,1%

hàng năm. Sự thay đổi theo chiều hướng xấu này được các nhà kinh tế cho là

xuất phát từ những yếu kém trong chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.

Sự yếu kém xuất phát từ tăng trưởng kinh tế Thái Lan chủ yếu dựa vào

tăng trưởng của ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế tác, ngành một

thời dựa chủ yếu vào thị trường trong nước và không đủ năng lực cạnh tranh trên

thị trường quốc tế với một giá thành sản xuất cao khi thị trường trong nước đã

bão hòa. Cơ cấu công nghiệp chủ yếu dựa vào những ngành sử dụng nhiều lao

động đã không thể có khả năng cạnh tranh cao khi giá nhân công trong nước

tăng lên cùng với sự cải thiện về mức sống của đại đa số người lao động, mà kết

quả là từ tốc độ tăng trưởng cao trong suốt hơn ba thập kỷ.

Các nghiên cứu của Ngân hàng thế giới về đóng góp của yếu tố TFP cho

tăng trưởng của Thái Lan cho thấy, khả năng cải tiến công nghệ, nâng cao năng

suất lao động của Thái Lan là tương đối cao so với các nước Đông Nam Á khác,

song mới chỉ ở các công nghệ nhập khẩu, chưa phản ánh được khả năng nghiên

51

cứu công nghệ mới của nước này. Nguyên nhân được chú ý nhiều nhất của tình

trạng này là do mức đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu là thấp ở Thái Lan.

Bình quân từ 1996 đến 2013 mỗi năm Thái Lan chi 0,23% GDP cho R&D, 30 năm trướ c 1965-1995 cò n thấp hơn khoảng 0,17%, thấp hơn so với Hàn Quốc,

Singapore và Malaysia.

Các nghiên cứu cũng cho thấy, thời kỳ đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh

của Thái Lan song song với việc khai thác một cách triệt để nguồn tài nguyên

thiên nhiên phục vụ cho ngành công nghiệp chế tác thay thế nhập khẩu, là nhân

tố chủ yếu làm cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường ở nước này. Số liệu

thống kê của Ngân hàng thế giới cho thấy, tỷ lệ che phủ rừng của nước này có

xu hướng giảm trong thời kỳ từ 1985-2000, từ mức 35% năm 1985 xuống

33,3% vào năm 2000 và năm 2015 cò n 32%. Ô nhiễm không khí được đo bằng

chỉ số lượng (kg) khí thải CO2/1000 USD GDP ở mức 0,3 kg vào năm 1965,

tăng lên 0,4 kg vào năm 1970, 0,503 kg vào năm 1980, 0,6 kg vào năm 1990,

0,81 kg vào năm 2000 và 1,3 năm 2011 . Điều này cho thấy lượng phát thải CO2 của Thái Lan tăng lên nhanh chóng, làm suy giảm ngày càng trầm trọng hơn môi

trường của nước này, đồng thời cũng cho thấy những ảnh hưởng của sản xuất,

đặc biệt là sản xuất công nghiệp tới môi trường sinh thái.

Về khía cạnh này, có thể thấy, chất lượng tăng trưởng của kinh tế Thái

Lan, cũng như của công nghiệp nói riêng là chưa được chú trọng.

Xuất phát từ thực tế trên, hàng loạt các chính sách kinh tế vĩ mô được

Chính phủ Thái Lan ban hành nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng công

nghiệp của đất nước, các chính sách được nhắc đến nhiều nhất là cơ cấu lại nền

sản xuất công nghiệp theo hướng giảm tập trung, khuyến khích phát triển công

nghiệp vừa và nhỏ, bớt những ưu đãi cho các ngành công nghiệp chế tạo. Các

chính sách phát triển nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường cũng được ban hành.

Cụ thể, chi cho đầu tư phát triển công nghệ và giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào

52

tạo nghề được nâng lên; tăng cường các nguồn lực để khắc phục những hậu quả

về mặt môi trường, đầu tư mới bảo vệ môi trường cũng được chú trọng.

2.2.2. Trung Quốc

Cũng giống Việt Nam, Trung Quốc cũng thực hiện quá trình chuyển đổi

từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Trung Quốc là

một nước đạt được nhịp tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm. Việc nghiên

cứu chất lượng tăng trưởng của công nghiệp Trung Quốc tìm ra những bài học

cho Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng là rất có ý nghĩa.

Sau hơn 20 năm cải cách, kinh tế Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng

trưởng cao, đã tạo ra bước nhảy vọt, đứng thứ 4 trong bốn nền kinh tế lớn nhất

thế giới, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong lịch sử tăng trưởng kinh tế

thế giới. Tăng trưởng của Trung Quốc nổi bật bởi ba đặc điểm chủ yếu là: (1)

tăng trưởng cao có trọng điểm; (2) tăng trưởng diễn ra theo chu kỳ và (3) tăng

trưởng dựa vào năng suất. Tuy nhiên, mức tăng trưởng đột phá của Trung Quốc

trong thời gian qua của đi kèm với một số yếu kém về chất lượng là tiêu hao

nguyên vật liệu và năng lượng lớn và suy thoái môi trường.

Sự phát triển nhanh và liên tục của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua

mang trong mình những tiềm ẩn về hiểm họa môi trường sinh thái. Trước hết, sự

tàn phá rừng tự nhiên diễn ra nhanh chóng. Nạn chặt phá rừng đầu nguồn đã gây

nên nhiều tác động tiêu cực đến đời sống xã hội như: nhiều loại động vật thực

vật bị tuyệt chủng, đất đai bị sa mạc hóa, nguồn nước ngầm bị cạn kiệt, hiệu ứng

nhà kính, hạn hán và lũ lụt gia tăng, v.v.

Tình trạng ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc đã ở mức báo động. Bên

cạnh sự gia tăng khí thải ô tô, dioxit các bon từ sản xuất công nghiệp, sử dụng

than đá có hàm lượng lưu huỳnh cao là nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô

nhiễm môi trường không khí ở Trung Quốc. Nhiều thành phố của Trung Quốc

đã bị nêu tên vào danh sách các thành phố có mức độ ô nhiễm lớn nhất thế giới

53

như Bắc Kinh, Tây An, Thẩm Dương. Môi trường xuống cấp ảnh hưởng lớn đến

sản xuất và đời sống của con người.

Nhận thức được tình trạng chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế và của

ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng, chính phủ Trung Quốc đã có

những chính sách nhằm tăng cường chất lượng tăng trưởng của công nghiệp

trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Với nhận thức rằng, bảo vệ môi trường chính

là cách để có thể sử dụng và khai thác tài nguyên tốt hơn phục vụ phát triển kinh

tế. Sử dụng và khai thác tốt hơn tài nguyên phải được tiến hành dưới tiền đề bảo

vệ môi trường. Với định hướng chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát

triển theo chiều sâu, Trung Quốc đã đưa ra một số chương trình hành động nhằm

bảo vệ môi trường như việc tăng ngân sách hàng năm cho bảo vệ môi trường từ

0,7% GDP (tương đương 1,7 tỷ USD) năm 1995 lên 1,5% năm 2000 (tương

đương 40 tỷ USD) nhằm tăng cường kiểm soát tình trạng suy thoái môi trường

hiện nay. Tuy nhiên, để có thể bảo vệ môi trường một cách hiệu quả, ước tính

cần phải có khoảng 10% GDP hàng năm cho công tác bảo vệ môi trường, Trung

Quốc còn dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền nhằm buộc các xí

nghiệp phải tìm cách tránh lãng phí tài nguyên, phải hạn chế tác động xấu của

sản xuất đối với môi trường. Năm 2014 Trung Quốc chi khoảng 21,1 tỷ NDT về

bảo tồn năng lượng và bảo vệ môi trường, tăng 7,1 % so với năm 2013.

2.2.3 Kinh nghiệm quốc tế trong định hướng phát triển công nghiệp

Kinh nghiệm quốc tế trong việc định hướng chính sách công nghiệp gợi ý

chính sách công nghiệp tốt bao gồm năm đặc tính:

(i) chính sách công nghiệp được thiết kế dành cho một số ngành công

nghiệp được lựa chọn

(ii) chính sách công nghiệp không phải là một chính sách đơn lẻ mà bao

gồm nhiều loại chính sách khác nhau;

(iii) chính sách công nghiệp liên quan đến sự can thiệp của chính phủ;

54

(iv) chính sách công nghiệp hướng đến phân bổ nguồn lực (do sự thất bại

của thị trường); và

(v) chính sách công nghiệp nhằm tạo ra những lợi thế so sánh động cho

các ngành công nghiệp được hướng đến (những ngành công nghiệp ưu tiên).

Nhiều nhà nghiên cứu [85] đã tổng kết các đặc điểm cơ bản của các chính

sách công nghiệp mà hiện nay các nước mới nổi đang áp dụng.

Các đặc trưng cơ bản của chính sách công nghiệp

Quản trị

Ưu tiên

Từ trên xuống (vai trò của chính quyền địa phương/ vùng yếu); ví dụ: Chi-Lê Kết hợp (song hành vai trò của cả chính quyền trung ương và địa phương/ vùng); ví dụ: Brazil và Trung Quốc Từ dưới lên (vai trò của chính quyền địa phương/ vùng mạnh); ví dụ: Ấn Độ Truyền thống Mới nổi

Tăng trưởng Tạo việc làm Cạnh tranh quốc tế Cạnh tranh và toàn diện lãnh thổ Gắn kết xã hội Phát triển bền vững

Mục tiêu

Chính sách hỗn hợp

Nguồn: [85]

Đa dạng hóa (ví dụ: gia nhập vào những ngành/ các dạng chuyên môn hóa mới và nâng cấp vị trí (ví dụ: trong chuỗi giá trị quốc gia/ toàn cầu) Gia tăng mật độ của hệ thống sản xuất (ví dụ: nuôi dưỡng doanh nghiệp, tăng cường kết nối) Các công cụ chính sách công nghiệp (ví dụ: ưu đãi trực tiếp hoặc gián tiếp cho doanh nghiệp) Chính sách thương mại và FDI Hỗ trợ khoa học và công nghệ Phát triển kỹ năng Nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng Cung cấp tài chính (ví dụ: các ngân hàng phát triển) Chính sách kinh tế vĩ mô (ví dụ: quản lý tỷ giá và lãi suất) Chính sách cạnh tranh

55

Có rất nhiều nội dung hữu ích từ các bài học mang tính kinh nghiệm của

các nước có thể áp dụng cho Việt Nam, nhưng hai điểm như sau là có ý nghĩa

đáng lưu tâm:

(1) Lựa chọn ngành công nghiệp ưu tiên: Theo Noland và Pack (2003),

việc lựa chọn tập trung ngành công nghiệp đối với các nước châu Á sau những

thành công của Nhật Bản và NIEs là không hợp lý. Các nước châu Á nên tập

trung vào những chính sách tạo tăng trưởng hơn là ưu tiên một số ngành. Việc

lựa chọn ngành mũi nhọn đem đến cả thành công và thất bại. The Economist

(2010) đã chỉ ra rằng, có tới 6/9 quốc gia nghiên cứu (kể cả các nước phát triển

và đang phát triển) đã bị thất bại trong việc lựa chọn phát triển ngành công

nghiệp bán dẫn. Lập luận thường cho rằng, chính phủ tập trung nguồn lực đầu tư

cho một hoặc một số ngành công nghiệp nào đó là chưa đủ, mà quan trọng hơn

là các nguồn lực này phải được thực hiện song song với một cơ chế minh bạch

về tài chính, năng lực quản trị cao nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của các

ngành công nghiệp mũi nhọn, và để tránh sự ỷ lại vào nguồn lực và cơ chế ưu

đãi từ Chính phủ, dẫn tới nguy cơ tụt hậu trong phát triển so với các ngành khác

của nền kinh tế, và so với các nền kinh tế khác.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng như hiện nay, với việc xuất hiện các

chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs), việc lựa chọn ưu tiên ngành công nghiệp lại càng

phải cân nhắc kỹ lưỡng. GVCs đã và đang mở ra một con đường công nghiệp

hóa mới cho các quốc gia bằng cách tham gia một chuỗi cung ứng, chứ không

nhất thiết phải tạo ra toàn bộ chuỗi cung ứng. Đồng thời khái niệm về một quốc

gia – một chuỗi cung ứng đã hoàn toàn biến mất. Thách thức hay vấn đề đặt ra

hiện nay là mặc dù công nghiệp hóa có thể được thực hiện dễ dàng hơn, nhưng

lại có ý nghĩa ít hơn. Trước thế kỷ 21, một quốc gia muốn xuất khẩu thì họ phải

có cơ sở sản xuất công nghiệp chuyên sâu, ví dụ như muốn xuất khẩu ô tô phải

có cơ sở sản xuất động cơ ô tô. Tuy nhiên điều đó không còn hợp lý khi hiện nay

các quốc gia muốn xuất khẩu phải nằm trong một khâu cụ thể của một chuỗi giá

trị quốc tế. Công nghiệp hóa có ý nghĩa, tức là phải gặt hái được những lợi ích,

phải hội nhập được vào các GVC và nâng cấp vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị.

56

Thách thức kép này đã trở thành một yếu tố thiết yếu của công nghiệp hóa và

chính sách công nghiệp trong thế kỷ XXI. Chính vì vậy, ngay ở trong mô hình

của Mlachia và các cộng sự (2014) đã cho thấy, sự đa dạng hóa trong cầu là yếu

tố xác định tính bền vững của tăng trưởng. Tập trung ưu tiên các ngành mũi

nhọn sẽ có thể làm thiếu đi tính đa dạng này. Đồng thời những sự ưu tiên còn tạo

ra nhiều bất cập khác, đặc biệt khi xảy ra khủng hoảng. Những bài học của các

công ty, tập đoàn “lớn” không chỉ diễn ra ở các nước mà ngay cả ở Việt Nam đã

làm cảnh tỉnh những nhà hoạch định.

Biểu 2.1: Thành công và thất bại trong việc can thiệp của chính phủ

khi đầu tư trọng điểm cho ngành công nghiệp bán dẫn ở một số nước

Nước Thời gian (*) Hỗ trợ Năng lực cạnh

(tỉ đô la) (**) tranh bền vững?

Mỹ 1976-1980 12-36 √

Nhật Bản 1980-1982 19-54 X

Đài Loan 1990 15-43 √

Hàn Quốc 1990 9-26 √

Singapore 1995 5-16 X

Đức 1996 2-7 X

Trung Quốc 1999 6-17 X

Malaysia 2001 1-3 X

Ghi chú: (*) những ngành công nghiệp được chính phủ đầu tư lớn hơn 1 tỷ

đô la.

(**) Khuyến khích của chính phủ (gộp) tới năm 2008, ước lượng

Nguồn: McKinsey Global Institute được trích trong The Economist (2010)

khoảng 20-35% tổng vốn đầu tư.

Tuy nhiên, không phải vậy mà các nước lại dễ dàng từ bỏ chính sách công

nghiệp, theo kiểu lựa chọn ngành trọng điểm. Vấn đề vẫn nằm ở chỗ chọn ngành

nào và các thiết chế chính sách đi kèm nó như thế nào (trực tiếp hay gián tiếp;

mức độ can thiệp;…), nhất là khi nguồn lực của các nước đang phát triển rất hạn

57

chế và cần phải tạo dựng một nền tảng công nghiệp nhanh hơn nữa để có thể

đuổi kịp các nước phát triển. Các nghiên cứu gần đây [85, 97,100] cho thấy,

thậm chí các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU hay Nhật Bản đang có những

bước đi, can thiệp vào thị trường công nghiệp.

Như đã trình bày ở trên, việc xuất hiện GVCs đã làm thay đổi phương

thức sản xuất công nghiệp truyền thống. GVCs xuất hiện cùng với các cluster

(cụm) có tính quốc tế. Công nghiệp hóa giờ không phải là bao trọn một quy trình

mà là sự lựa chọn một khâu trong quy trình đó dựa trên sự chuyên môn hóa. Các

nước thành công công nghiệp hóa là những nước có giá trị cao trong chuỗi giá

trị hoặc trong khâu của quy trình sản xuất và dịch vụ. Nhiều công ty vừa là đối

thủ vừa là đối tác. Các nước thay vì lựa chọn ngành cụ thể như trước thì giờ họ

lựa chọn nhóm ngành với một ngành được coi là trục. Nếu như trước đây một

quốc gia muốn phát triển ngành ô tô thì quốc gia đó sẽ sản xuất trọn gói chiếc ô

tô đó từ bánh xe, động cơ, … cho đến thiết kế và bán hàng, thì giờ đây quốc gia

chỉ chọn sản xuất khâu động cơ vì đây là một khâu cho giá trị cao và khâu này

phù hợp với trình độ của nước đó. Hoặc lấy Singapore là một ví dụ. Quốc gia

này lựa chọn 6 ngành trọng điểm, được xem là xương sống cho toàn bộ nền công

nghiệp của nước này. Đó là vi điện tử (microelectronics); hóa chất (chemicals);

kỹ thuật chính xác (precision engineering); kỹ thuật giao thông (transport

engineering); y sinh học (biomedical); chế biến, chế tạo chung (general

manufacturing), trong đó ngành vi điện tử là ưu tiên quan trọng nhất. Đây là

ngành có tính lan tỏa cao, có tác dụng thúc đẩy sự đa dạng cho ngành công

nghiệp của nước này.

Do đó, trên thực tế các quốc gia đang lựa chọn ưu tiên những ngành công

nghiệp mà có khả năng tạo ra sự đa dạng trong phát triển nhiều hơn. Các nước

nghèo chỉ sản xuất một vài loại sản phẩm, trong khi các nước giàu hơn sản xuất

nhiều loại hàng hóa hơn. Khi các nước nghèo giàu lên, nền công nghiệp của họ

trở nên ít tập trung hơn và bắt đầu đa dạng hóa sang nhiều loại hàng. Quá trình

58

này tiếp diễn khá lâu cho đến khi các quốc gia đạt mức thu nhập bình quân đầu

người của Ireland (khoảng $9,637 một người vào năm 1992) thì các nước lại bắt

đầu tập trung chuyên môn hóa hơn. Hiện tượng này không phải chỉ đúng ở với

số liệu chéo kiểu như đường Kuznet, mà còn đúng theo thời gian. Nghiên cứu

này cho thấy phát triển công nghiệp không chỉ là sự chuyển đổi cơ cấu từ các

ngành nông nghiệp sang công nghiệp, mà còn là một quá trình đa dạng hóa giữa

các hoạt động khác nhau trong ngành công nghiệp. Có nghĩa là việc đầu tiên

phải làm không phải là chỉ tập trung vào làm một việc tốt, mà là phải học cách

làm nhiều việc khác nữa.

Máy tính Giao thông Viễn thông

Ngành vũ trụ Phần mềm Vi điện tử

Điện tử tiêu dùng

Vi xử lý bán dẫn

Robot chế tạo máy Thiết bị y tế

Hình 9. Vi điện tử và các ngành công nghiệp bao quanh của

Nguồn: [96]

Singapore

(2) Thiết lập các mục tiêu của chính sách công nghiệp

Trong lịch sử kinh tế, công nghiệp hóa thường được mô tả là một quá

trình thỏa mãn các điều kiện: (i) có tính ổn định: các ngành công nghiệp chế

biến, chế tạo tăng trưởng liên tục với tốc độ cao; (ii) đóng góp cho tăng trưởng

chung: các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có đóng góp lớn vào tăng

trưởng GDP; và (iii) thay đổi cơ cấu: các ngành công nghiệp chế biến chế tạo

nâng dâng trình độ sản xuất từ đơn giản tới phức tạp, sử dụng công nghệ cao.

Tuy nhiên, đây là các mô tả công nghiệp hóa một quốc gia, chứ chưa phải là

định nghĩa một quốc gia công nghiệp hóa.

59

Tổng kết các chiến lược của các nước, Ohno có đề xuất một số kiến nghị

trong phát triển công nghiệp ở Việt Nam. Theo đó một số tiêu chí mục tiêu có

thể được xem xét trong bối cảnh hội nhập sâu rộng (tới năm 2020 hoặc sau đó)

như sau:

- Mức thu nhập tương đối: Việt Nam gia nhập nhóm nước phát triển thành

công ở Đông Á với mức thu nhập tương đương với mức trung bình của khu vực

(Trung Quốc và ASEAN 14). Hiện Việt Nam đang thuộc nhóm nước có thu

nhập thấp nhất ở Đông Á.

- Cơ cấu xuất khẩu: các mặt hàng chế biến, chế tạo chiếm ít nhất 75% kim

ngạch xuất khẩu, chứ không phải chủ yếu là các hàng hóa cơ bản.

- Hình thành các ngành công nghiệp hỗ trợ: các ngành công nghiệp hỗ trợ

(chi tiết sản phẩm và vật liệu) là một trong những ngành đi đầu với tỷ lệ nội địa

hóa cao. Với một số ngành quan trọng như dệt may, điện tử, xe máy thì mục tiêu

nội địa hóa trong trung hạn cần tham khảo các nhà sản xuất trong nước và FDI,

và được điều chỉnh định kỳ nếu cần thiết. Lưu ý là trong thời đại toàn cầu hóa,

phân công lao động quốc tế không nên hướng tới mục tiêu nội địa hóa 100%.

Việt Nam cần thiết lập được mạng lưới sản xuất khu vực kết nối với Trung Quốc

và các nước ASEAN, gồm cả xuất khẩu và nhập khẩu các linh kiện, nguyên vật

liệu từ các nước này.

- Tiếp nhận các dịch vụ hỗ trợ: nâng cao năng lực của lao động trong

nước đáp ứng các ngành chế biến, chế tạo đòi hỏi công nghệ cao, tránh sự phụ

thuộc bên ngoài. Đảm bảo ít nhất 70% lao động có kỹ năng có sẵn ở trong nước

và chỉ nên thuê ngoài đối với những công việc đòi hòi kỹ năng chuyên môn hóa

rất cao. Các kỹ năng cơ bản cần có gồm hoạch định chính sách, quản lý sản xuất,

marketing toàn cầu, “marketing hạ tầng” (mời gọi đầu tư FDI và đầu tư vào các

khu công nghiệp), thiết kế sản phẩm, v.v.

Trong khu vực ASEAN, kinh nghiệm phát triển của Thái Lan có thể xem

là sự tham khảo tốt cho Việt Nam. Thái Lan đã nằm trong nhóm nước thành

60

công với mức thu nhập trung bình ở Đông Á, tỷ lệ hàng hóa chế biến, chế tạo

chiếm hơn 75% tổng kim ngạch xuất khẩu với các sản phẩm công nghiệp nổi

trội là điện tử và ô tô. Việt Nam tất nhiên không nên sao chép nguyên con đường

phát triển công nghiệp của Thái Lan, nhưng ít nhất có thể hướng tới các thành

tựu đã đạt được của nước này, đồng thời cố gắng thực hiện tốt hơn trong những

mặt khác có tiềm năng, chẳng hạn như tiếp thu tốt các hoạt động hỗ trợ, tận dụng

lực lượng lao động được đào tạo chuyên môn cao, đảm bảo bình đẳng trong thu

nhập và kiểm soát tốt tình trạng phát triển đô thị (ví dụ như tắc đường). Đó có

thể coi là những mục tiêu thực tế đối với Việt Nam và từ đó hướng tới các mục

tiêu cao hơn trong tương lai.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Các nghiên cứu trong ngoài nước liên quan đến chất lượng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng ngành đã cho phép hình thành cơ sở lý luận, tiêu chí đánh giá, định hướng và chính sách nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng các ngành kinh tế ở phạm vi cả nước nói chung.

Cho đến nay, hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ đề cập tới việc đánh giá chất lượng tăng trưởng của các ngành công nghiệp nhỏ lẻ, cấp 3 theo hệ thống phân ngành kinh tế, chưa có nghiên cứu đánh giá toàn bộ chất lượng toàn khối ngành công nghiệp, đặc biệt là nghiên cứu có tính cập nhật cao về những thay đổi chính sách phát triển công nghiệp, tác động tới chất lượng tăng trưởng toàn ngành.

Khối ngành công nghiệp là một khối ngành quan trọng, có vị trí chủ đạo trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Những đóng góp của khối ngành này, cơ cấu nội bộ ngành, hiệu quả sử dụng vốn, trình độ công nghệ, năng suất lao động của ngành, khả năng giải quyết việc làm cho nền kinh tế, đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu, thu ngân sách,… cho nền kinh tế trong tình hình mới cần có một nghiên cứu có tính hệ thống, toàn diện, nhằm nâng cao hơn nữa đóng góp của khối ngành cho nền kinh tế.

Hệ thống tiêu chí được đề xuất để đánh giá chất lượng tăng trưởng công nghiệp là khá phù hợp với cách tiếp cận của các học giả trong và ngoài nước về đề tài và khá cụ thể, hệ thống, toàn diện, phù hợp với điều kiện công nghiệp Việt Nam.

61

CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG CHẤ T LƯỢNG TĂNG TRƯỞ NG CÔNG NGHIỆP

VIỆT NAM THỜ I KỲ 2001-2015 VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU NÂNG CAO

CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

3.1. Vị trí của ngành công nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam

Nền kinh tế được chia thành 3 khu vực: nông nghiệp-lâm nghiệp-ngư

nghiệp, công nghiệp và xây dựng, và khu vực dịch vụ. Cùng với quá trình phát

triển, khu vực công nghiệp và dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng.

Ngành công nghiệp Việt Nam bắt đầu hình thành trong nhiền thập kỷ đến

nay, nhưng chủ yếu là từ thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Trong thời kỳ này, do yêu

cầu của cuộc kháng chiến, hầu hết các nhà máy, xí nghiệp được xây dựng với

qui mô nhỏ và phân bố dàn đều trên nhiều địa phương. Một số ít nhà máy lớn và

khu công nghiệp tập trung, với quy mô đầu tư vừa, cũng được xây dựng. Trong

thời gian đó, theo chính sách tự cấp, tự túc, nên các xí nghiệp nói chung được

đầu tư khép kín từ khâu nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra. Với mô hình

như vậy, mặc dù chỉ tạo ra được các sản phẩm đơn giản về mẫu mã, chất lượng

trung bình, nhưng đã phục vụ đắc lực cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và

phát triển kinh tế trong giai đoạn lịch sử đó (xin xem thêm ở phụ lục 11).

- Trong giai đoạn 1991-2000, khối ngành công nghiệp đạt được tốc độ

tăng trưởng cao, năm thấp nhất tăng 10,4% (1991/1990), năm cao nhất tăng

17,1% (1992/1991). Bình quân 10 năm tăng 13,6%, trong đó: giai đoạn 1991-

1995 tăng 13,7%; giai đoạn 1996-2000 tăng 13,5%.

- Giai đoạn 2001-2005 tiếp tục chứng kiến thành quả tăng trưởng cao của

khối ngành công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng GDP công nghiệp (giá ss 2010)

bình quân hàng năm đạt 16%, trong đó, công nghiệp khai thác mỏ tăng 15,8%,

công nghiệp chế biến tăng 16,1%, công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước

tăng bình quân 15,6%. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt tốc độ tăng bình quân

62

16%/năm; trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp khai thác tăng bình quân

6,0%/năm, công nghiệp chế biến đạt tốc độ tăng trưởng cao, 17,7% và công

nghiệp sản xuất và phân phối điện nước đạt tốc độ tăng trưởng 11,7%, thấp hơn

so với mức tăng bình quân của giá trị sản xuất toàn ngành (phụ lục 1, biểu

1.3.1).

Ngành công nghiệp ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của

cả nước. Tỷ trọng của khối ngành công nghiệp đã tăng lên nhanh chóng trong

GDP của cả nước (biểu 3.1).

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu

Biểu 3.1: Cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam giai đoạn 2000-2015

2000

2005

2010

100

1. Cơ cấu kinh tế:

100

100

100

100

Khu vực nông-lâm-thủy sản

24,5

20,7

17,0

18,4

17,7

Khu vực công nghiệp-xây dựng

36,7

41,0

33,3

32,1

33,2

Khu vực dịch vụ

38,8

38,3

49,7

49,5

49,1

2. Cơ cấu lao động

100

100

100

100

100

Trong đó:

Khu vực nông-lâm-thủy sản

68,2

57,0

49,5

46,3

46,1

Khu vực công nghiệp-xây dựng

12,1

18,0

21,0

21,3

21,6

Khu vực dịch vụ

19,7

25,0

29,5

32,4

32,3

Nguồn: Tính toán và xử lý của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê [106]

2015 2014

Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp đã có bước tiến đáng kể theo hướng

công nghiệp hoá, từng bước hiện đại hoá, phát huy lợi thế của từng ngành, từng

sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu sản xuất và

cơ cấu sản phẩm công nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng

công nghiệp chế biến trong giá trị tăng thêm. Ngành công nghiệp chế biến đã

bước đầu khai thác được các lợi thế về nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước

để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu.

63

Trong công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp gia công, lắp ráp đang là chủ

yếu; tốc độ đổi mới công nghệ trong hầu hết các ngành công nghiệp còn chậm

và đang ở mức trung bình là phổ biến. Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển.

Cùng với quá trình hình thành và phát triển của ngành công nghiệp trong

hơn 60 năm qua, đặc biệt trong hơn 30 năm đổi mới, cơ cấu công nghệ trong sản

xuất công nghiệp đã có nhiều thay đổi theo hướng tiếp cận trình độ công nghệ

tiên tiến, hiện đại. Đến nay đã hình thành một cơ cấu công nghệ đa dạng về xuất

xứ và trình độ, đan xen trong từng doanh nghiệp, từng lĩnh vực và từng chuyên

ngành sản xuất công nghiệp.

3.2. Thực tra ̣ng chấ t lươ ̣ng tăng trưởng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam

Sau một thời gian dài duy trì được một tốc độ tăng trưởng khá cao của

khối ngành công nghiệp, vấn đề đặt ra lúc này không chỉ là làm thế nào để có

được một tốc độ tăng trưởng nhanh, mà còn là tăng trưởng đạt được đó có hiệu

quả như thế nào, do những yếu tố nào mang lại, tăng trưởng đó có mang lại

những ảnh hưởng như thế nào tới nền kinh tế-xã hội. Việc trả lời các câu hỏi

này, sẽ đưa ra được những bằng chứng cho thấy chất lượng tăng trưởng của sản

xuất công nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2015.

3.2.1. Đánh giá cấu trúc của tăng trưởng

3.2.1.1. Cấu trúc tăng trưởng theo ngành công nghiệp

Giá trị sản xuất (GTSX) công nghiệp đạt nhịp tăng trưởng bình quân cao

trong giai đoạn 1996-2005, đạt 14,1%/năm giai đoạn 1996-2000 và 15,8%/năm

giai đoạn 2001-2005; năm năm 2006-2010 đa ̣t 12,7%/năm, riêng 4 năm gần đây

2011-2015, GTSX công nghiệp đạt nhịp tăng khá cao 18,7%/năm (xem thêm

biểu 2.4, hình 4 và số liệu chi tiết ở phụ lục 2). Trong đó, công nghiệp khai thác

đóng góp cho nhịp tăng trưởng cao trên 1,94 điểm phần trăm trong giai đoạn

2011-2015, chiếm tỷ trọng 10,4% trong tổng nhịp tăng trưởng của GTSX khối

ngành công nghiệp; các phân ngành công nghiê ̣p chế tác là 13,02% tương

64

đương 69,7% mứ c tăng trưở ng và công nghiê ̣p điê ̣n, nướ c, khí đố t đó ng 3,71% hay 19,9% mứ c tăng trưở ng. Số liệu tính toán cho thấy (biểu 3.3 và phụ lục 3),

vai trò của phân ngành công nghiệp khai thác mỏ đang có xu hướng giảm dần

trong tăng trưởng giá trị sản xuất ngành công nghiệp. Đây là một dấu hiệu phù

hợp với xu hướng phát triển của ngành công nghiệp khi tỷ trọng công nghiệp chế

biến phải có xu hướng ngày càng tăng trong giá trị sản xuất cũng như giá trị gia

tăng của ngành công nghiệp.

Nguồn: Tính toán theo số liệu của Tổng cục Thống kê, [106]

Hình 3.1: Chuyển di ̣ch cơ cấu VA công nghiệp

Ngành công nghiệp chế tác có đóng góp lớn cho tăng trưởng của GTSX

ngành công nghiệp trong suốt thời gian từ 1996-2005, ở mức 11,24/14,1% của

giai đoạn 1996-2000 và 13,11/15,8% tăng trưởng GTSX của ngành công nghiệp

giai đoạn 2001-2005, tương đương với tỷ trọng 79,6% và 83,0% trong tổng nhịp

tăng trưởng của GTSX ngành công nghiệp trong giai đoạn tương ứng. Trong 9

năm gần đây giá tri ̣ sản xuất công nghiê ̣p chế tác vẫn duy trì đươ ̣c mứ c tăng

trưở ng và đó ng gó p cho tăng trưở ng công nghiê ̣p ở mứ c cáo. Năm năm 2006-

2010 80,7% cho mứ c tăng trưở ng bình quân chú ng 12,71%/năm và 4 năm 2011-

65

2015 là 69,7% cho mứ c tăng trưở ng 18,7%/năm. Giá trị sản xuất của ngành

công nghiệp chế tác có đóng góp ngày càng tăng cho giá trị sản xuất của ngành

công nghiệp là phù hợp với xu hướng phát triển của ngành công nghiệp. Tuy

nhiên, xem xét cấu trúc tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp chế tác cho

thấy, trong vòng 10 năm (1996-2005), chuyển dịch cơ cấu sản xuất của ngành

này diễn ra chậm với đóng góp chủ yếu vẫn là ngành chế biến thực phẩm và đồ

uống. Các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển hoặc có xu hướng phát

triển kém hơn (ngành dệt). Các ngành sản xuất máy móc thiết bị, xe có động cơ,

cơ khí có vai trò quá nhỏ trong tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của Việt

Nam, trong đó, riêng ngành sản xuất máy móc thiết bị có tỷ trọng đóng góp giảm

dần cho tăng trưởng GTSX ngành công nghiệp trong giai đoạn 1996-2005. Chín năm 2006-2015 có bướ c chuyển biến tích cực hơn. Các ngành công nghiê ̣p như

hó a dầu, chế biến thuố c, hó a dươ ̣c, cơ khí, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi

tính và sản phẩm quang học.v.v.. ngày càng có vi ̣ thế hơn, tố c đô ̣ tăng trưở ng

bình quân luôn đứ ng ở hàng đầu.

Ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước đóng góp nhỏ trong

tăng trưởng của GTSX công nghiệp trong thời kỳ 1996-2005. Giai đoạn 1996-

2000, GTSX ngành này đóng góp 0,96 điểm phần trăm trong tổng số 14,1% tăng

trưởng của toàn ngành, giai đoạn 2001-2005, GTSX ngành này đóng góp 0,99

điểm phần trăm trong tổng số 15,8% tăng trưởng bình quân năm của toàn ngành,

tương ứng với tỷ trọng 6,3%, các năm 2006-2010 tương ứ ng là 2,25%/12,71%

tăng trưởng và 4 năm 2011-2014 là 3,7%/18,7%/năm. Tương ứ ng các giai đoa ̣n

đó ng gó p 17,7% và 19,9% cho tăng trưở ng chú ng củ a ngành công nghiệp.

Về đó ng gó p cho tăng trưở ng GDP hay giá tri ̣ gia tăng củ a ngành công

nghiê ̣p, khác với sự lấn lướt của ngành công nghiệp chế biến trong cấu trúc tăng

trưởng GTSX toàn ngành công nghiệp, xem xét cấu trúc tăng trưởng GDP công

nghiệp cho thấy một bức tranh khác. Ngành công nghiệp khai khoáng có mức

66

đóng góp cho tăng trưởng GDP toàn ngành công nghiệp là 2,8 điểm phần trăm

bình quân giai đoạn 1996-2000, tương ứng với tỷ trọng 24,1% trong tổng nhịp

tăng toàn ngành và 2,1% điểm phần trăm trong giai đoạn 2001-2005, tương

đương với tỷ trọng 20,4% trong tổng nhịp tăng của GDP toàn ngành. Những

năm gân đây có xu hướ ng giảm dần. Năm năm 2006-2010 đó ng gó p có 0,1% và

0,7% tăng trưở ng cho các năm 2011-2015, tương ứ ng 1,6% và và 10,5% cho

mứ c tăng trưở ng chung toàn ngành công nghiê ̣p.

Biểu 3.2: Đóng góp cho tăng trưởng của GTSX công nghiệp

Đơn vị: %

Ngành

1996-2000 2001-2005 2006-2010 2011-2015 18,66 1,94 13,01 12,71 0,20 10,26 14,1 1,96 11,24 15,8 1,69 13,11

Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK, [106]

0,92 0,99 Tổng số CN khai thác CN chế biến, chế tác SX và PP điện, khí và nước 2,25 3,71

Biểu 3.3: Tỷ lê ̣ đóng góp cho tăng trưởng GTSX công nghiệp từ các ngành

Đơn vị: %

1996-2000 2001-2005 2006-2010 2011-2015 Ngành

Tổng số 100 100 100 100

Công nghiệp khai thác 13,9 10,7 1,6 10,5

Công nghiệp chế biến 79,6 83,0 80,7 69,6

Nguồn: Tính toán theo số liệu của TCTK, [106]

Sản xuất và phân phối điện, 6,5 6,3 17,7 19,9 khí đốt và nước

Tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng cho tăng trưởng

GDP của toàn ngành cao hơn so với đóng góp của ngành cho tăng trưởng GTSX

của toàn ngành phần nào phù hợp với tính chất của ngành là có tỷ lệ chi phí

trung gian không cao.

67

Biểu 3.4: Tăng trưởng GDP công nghiệp và tỷ lê ̣ đó ng gó p củ a cá c

phân ngành

Đơn vị: %

1996- 2001- 2006- 2011- Ngành 2000 2005 2010 2015

Tốc độ tăng trưởng GDP công nghiệp 11,6 10,1 5,9 6,5

Công nghiệp khai thác mỏ 12,2 4,4 0,3 2,3

Công nghiệp chế biến 11,2 11,6 9,3 7,9

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và 13,3 12,1 9,5 10,1 nước

Đóng góp cho tăng trưởng GDP CN 11,6 10,1 5,9 6,5

Công nghiệp khai thác mỏ 2,8 2,1 0,1 0,7

Công nghiệp chế biến 7,9 7,1 4,8 4,6

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và 0,9 0,9 1,0 1,3 nước

Cấu trúc tăng trưởng GDP Công 100 100 100 100 nghiệp

Công nghiệp khai thác mỏ 24,1 20,4 1,6 10,4

Công nghiệp chế biến 67,8 70,7 80,7 69,7

Nguồn: Tính toán theo số liệu của TCTK, NGTK 2000-2015, NXB Thống kê, [106]

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và 8,1 8,9 17,7 19,9 nước

Công nghiệp chế biến vẫn có vai trò chủ đạo đóng góp cho tăng trưởng

GDP công nghiệp, 7,9 điểm phần trăm trong giai đoạn 1996-2000, 7,1 điểm

phần trăm trong giai đoạn 2001-2005, 4,8 điểm phần tram cho giai đoa ̣n 2006-

2010 và 4,6 điểm phần tram cho 4 năm gần đây 2011-2015. Tỷ lê ̣ đó ng góp trong các thờ i kỳ tương ứ ng cho tổng nhịp đô ̣ tăng trưở ng của GDP toàn ngành là 67,8%, 70,7%, 80,1% và 69,7%. Điều đáng chú ý ở đây là đóng góp của

68

ngành trong tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp cao hơn so với trong GDP,

cho thấy tỷ lệ chi phí trung gian của ngành có xu hướng tăng. Mặt khác, tỷ trọng

đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tác cho tăng trưởng GDP công nghiệp

mặc dù có tăng, nhưng không đáng kể trong giai đoạn 10 năm (1996-2005), mà

chủ yếu ở 10 năm cuố i 2006-2015: 74,8%.

Tóm lại, mặc dù khối ngành công nghiệp đạt được nhịp tăng bình quân

cao của giá trị sản xuất và giá trị gia tăng trong giai đoạn 10 năm (1996-2005),

nhưng cấu trúc tăng trưởng của khối ngành này còn cho thấy nhiều khiếm

khuyết. Cấu trúc tăng trưởng trên cho thấy một cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp

có phần chưa hợp lý với chi phí trung gian cao, giá trị gia tăng thấp, công nghiệp

phụ trợ chưa phát triển. Về mặt dài hạn, nhiều nhà kinh tế cho rằng, việc duy trì

một cơ cấu sản xuất công nghiệp với mức giá trị gia tăng thấp sẽ khó đạt được

một mức tăng trưởng cao và lâu dài cho khối ngành này. Những nhươ ̣c điểm này đã phần nào đươ ̣c khắc phu ̣c trong 10 năm gần đây.

3.2.1.2. Cấu trúc tăng trưởng theo mức đóng góp của các yếu tố nguồn

lực

Thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu về đóng góp của các yếu tố đầu vào

cho tăng trưởng của nền kinh tế cũng như của ngành công nghiệp được tiến

hành. Kết quả các nghiên cứu đều đưa đến một số kết luận khá thống nhất về vai

trò của các yếu tố nguồn lực (vốn, lao động và TFP) cho tăng trưởng của nền

kinh tế cũng như đối với công nghiệp.

Thứ nhất, Đối với toàn bộ nền kinh tế, kết quả các nghiên cứu cho thấy: -

Trên 90% thay đổi về năng suất của Việt Nam trong cả giai đoạn 1991-2015 là

chủ yếu do đóng góp của yếu tố vốn vật chất, lao động;

- Đóng góp của TFP (không bao gồm vốn con người) trong giai đoạn

1990-2001 đươ ̣c xác đi ̣nh là 6% thay đổi năng suất, thì giai đoạn 1990-2005 chỉ còn 3%. Bình quan trong 2005-2015 tỷ lê ̣ này đã tăng cao, khoảng 8%, và theo

69

nghi ̣ quyết Đa ̣i hô ̣i Đảng trong những năm tớ i có thể cò n cao hơn. Như vậy,

trong giai đoạn nghiên cứu, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được xác đi ̣nh nhờ

sự đóng góp nhiều hơn của nhân tố sản xuất chứ không phải TFP.

- Trong ba nguồn lực, lao động vẫn là nguồn lực chính tạo ra giá trị gia

tăng tuy đã có xu hướng giảm nhẹ trong giai đoạn 2002-2004. Trung bình cứ 1%

số lao động tăng lên sẽ dẫn đến tăng 0,55% giá trị gia tăng trong giai đoạn 1990-

2004. Nhưng năm 2005-2015 theo tính toán tỷ lê ̣ này giảm xuố ng bình quân 40%. Như vậy, giá trị gia tăng tạo ra trong giai đoạn này nhờ vào một phần

quan trọng từ đóng góp của lao động. Có thể thấy đóng góp của khu vực công

nghiệp ngày càng cao vào GDP, trong khi khu vực này chỉ tuyển dụng một tỷ lệ

lao động thấp. Trong khi đó, tỷ trọng đóng góp của khu vực nông nghiệp lại

giảm xuống, nhưng khu vực nông nghiệp vẫn là nơi sử dụng nhiều lao động nhất

cho nền kinh tế.

- Vốn vật chất là nguồn lực có đóng góp nhỏ vào giá trị gia tăng. Nếu các

đại lượng khác không đổi, cứ tăng thêm 1% đơn vị tài sản vốn sẽ chỉ làm tăng

thêm 0,1%-0,12% đơn vị giá trị gia tăng trong giai đoạn 1990-2004 trong khi

giai đoạn này ghi nhận mức đầu tư cao trong GDP của nền kinh tế. Đóng góp

thấp của vốn cho tăng trưởng kinh tế phần nào minh chứng hiệu quả sử dụng

vốn đầu tư thấp của nền kinh tế, cũng như mức độ phát huy các công trình đã

được đầu tư là thấp. Mườ i năm gần đây 2005-2015 hê ̣ số co dãn củ a GDP đố i vớ i vố n đã tăng lên, bình quân 60%1.

Nghiên cứu của Mankiw (1992) về đóng góp cho tăng trưởng của ba

nhóm nước OECD, nước xuất khẩu dầu lửa và nhóm các nước đang phát triển

1 Theo GS. Trần Văn Thọ (Tại hội thảo Kinh nghiệm phát triển Nhật Bản và Việt Nam

9/1/2012) giai đoạn 1950-1973 TFP Nhật bản đóng góp 3,6% vào tăng trưởng; tương tự giai

đoạn 1960-1994 TFP Hàn Quốc đóng góp cho tăng trưởng 1,5%, Trung Quốc 1,7%.

không sản xuất dầu lửa cho thấy, trong khi nhóm nước OECD vốn con người

70

đóng góp cao vào tăng trưởng và TFP cho thấy tới trên 70% tăng trưởng, thì ở

hai nhóm nước còn lại, lao động, vốn vật chất và vốn con người là nguồn lực

chính của tăng trưởng. Chỉ khoảng ¼ tăng trưởng ở hai nhóm nước đang phát

triển được giải thích bằng TFP. Đóng góp cao của nguồn lực con người cho tăng

trưởng GDP ở Trung Quốc trong giai đoạn 1976-1989 theo nghiên cứu của

Gundlach (1997) và của Việt Nam trong giai đoạn 1990-2004 theo nghiên cứu

của Lê Xuân Bá (2006) được giải thích thông qua chính sách đầu tư cho giáo

dục. Sự cứng nhắc trong sử dụng nguồn nhân lực và sự trói buộc của cơ chế kế

hoạch hóa tập trung đã hạn chế khả năng đóng góp của lực lượng lao động có

trình độ học vấn khá cao vào tăng trưởng của các nước đang chuyển đổi như

Việt Nam và Trung Quốc.

Thứ hai, đối với riêng ngành công nghiệp Việt Nam, về đóng góp của các

nguồn lực cho tăng trưởng của 80 ngành công nghiệp Việt Nam cho thấy kết quả

khá tương đồng với các kết quả nghiên cứu đối với toàn bộ nền kinh tế. Thực

vậy:

- Đóng góp cho tăng trưởng của các ngành công nghiệp chủ yếu của Việt

Nam như chế biến thực phẩm, sản xuất thuốc lá, ngành dệt, ngành may, ngành

giày da, sản xuất giấy, hóa chất, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất sắt thép,

sản xuất các sản phẩm từ sắt, sản xuất máy móc, động cơ, thiết bị, sản xuất đồ

điện, sản xuất đồ điện tử, sản xuất xe có động cơ, sản xuất đồ gỗ, v.v. đều chủ

yếu do tăng trưởng các yếu tố đầu vào, đóng góp của tiến bộ công nghệ vào tăng

trưởng của các ngành công nghiệp này là không đáng kể. Nghiên cứu cũng cho

thấy, có 46 ngành có tăng trưởng năng suất lao động trong giai đoạn 2000-2003

và hầu hết các ngành này có được sự tăng trưởng năng suất là nhờ vào sự cải

thiện trong tiến bộ công nghệ, cải tiến kỹ thuật, điều này nói lên tầm quan trọng

của tiến bộ công nghệ đối với việc tăng năng suất của ngành công nghiệp Việt

Nam.

71

- Sự gia tăng của lao động có tác động không đáng kể tới tăng trưởng của

các ngành công nghiệp nghiên cứu. Điều này có thể được giải thích là do các

ngành công nghiệp Việt Nam có giá trị gia tăng thấp, sự gia tăng của lao động

tay nghề thấp trong các ngành công nghiệp lắp ráp, gia công không là nhân tố

chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng của ngành. Việc tăng cường phát triển nguồn nhân

lực có trình độ cao, có khả năng đảm nhận các công đoạn sản xuất có giá trị gia

tăng cao như nghiên cứu mẫu mã mới, nghiên cứu triển khai sản phẩm sẽ góp

phần chủ yếu cho tăng trưởng của các ngành công nghiệp.

3.2.2. Hiệu quả của việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng

Có nhiều tiêu chí phản ánh hiệu quả tăng trưởng của ngành công nghiệp,

trong khuôn khổ luận án này, sẽ tập trung phân tích các tiêu chí liên quan đến

năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tỷ lệ chi phí trung gian trong

sản xuất như đã được nêu ở phần trên.

3.2.2.1. Năng suất lao động

Năng suất lao động của ngành công nghiệp đơn giản được tính bằng GDP

chia cho lao động đang làm việc trong ngành công nghiệp của Việt Nam ở năm

tương ứng và có thể tính theo giá hiện hành và giá so sánh. Trong khuôn khổ

luận án này, để tiện so sánh, tác giả tính năng suất lao động của ngành công

nghiệp theo giá năm 2010.

Kết quả tính toán từ số liệu thống kê cho thấy, năng suất lao động (NSLĐ)

của ngành công nghiệp Việt Nam năm 2005 đạt 109 triệu đồng (giá ss2010)/lao

động/năm; nhi ̣p đô ̣ tăng năng suất lao đô ̣ng bình quân năm tăng ma ̣nh, 4,6%/năm tro ̣ng các năm 2006-2015, chỉ cao hơn 0,5% so vớ i nhịp tăng chung

của cả nước, 3,9%/năm. So với NSLĐ ngành công nghiệp bình quân của nhóm

nước hoặc các nước, năng suất lao động của công nghiệp Việt Nam năm 2013

chỉ bằng 81% của nhóm các nước Đông Á và Thái Bình Dương, bằng 41% của

Thái Lan, bằng 6,4% của Hàn Quốc, bằng 58% của Trung Quốc [112, 119].

72

Năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động không cao

chứng tỏ công nghệ sản xuất ở trình độ thấp và hiệu quả sử dụng lao động không

cao của ngành công nghiệp Việt Nam. Đồng thời, nó cho thấy các ngành công

nghiệp của Việt Nam có khả năng tạo ra giá trị gia tăng thấp, hạn chế khả năng

tích lũy tái sản xuất mở rộng nền kinh tế và khả năng cải thiện nhanh mức sống

của người lao động. Ở một khía cạnh khác, năng suất lao động công nghiệp thấp

cũng phần nào cho thấy cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp là chưa hợp lý, những

ngành, lĩnh vực, công đoạn của quá trình sản xuất có khả năng tạo giá trị gia

tăng cao không được đảm nhận bởi các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.

Tức là, ngành công nghiệp Việt Nam chỉ mới phát triển ở các công đoạn có giá

trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu, các công đoạn như nghiên cứu sản

phẩm mới, thiết kế sản phẩm, phát triển sản phẩm mới, tăng cường khả năng

xâm nhập thị trường của sản phẩm và phân phối sản phẩm, các doanh nghiệp

công nghiệp Việt Nam vẫn chưa thể đảm nhận, lĩnh vực mà các nghiên cứu cho

thấy là có khả năng đem lại giá trị gia tăng cao nhất.

Mặc dù được coi là một nền kinh tế đang có nguồn nhân lực bước vào giai

đoạn “kỷ nguyên dân số vàng”- một nền kinh tế có Tổng tỷ suất phụ thuộc về

dân số dưới 50% được coi là nền kinh tế nằm trong kỷ nguyên dân số vàng.

Tổng tỷ suất phụ thuộc về dân số được tính bằng (số người trong độ tuổi 0-14 +

số người trên 65 tuổi)/ số người trong độ tuổi từ 15-64); Việt Nam bắt đầu bước

vào kỷ nguyên dân số vàng từ năm 2006 và kéo dài trong thời kỳ khoảng hơn 30

năm. Nghiên cứu cho thấy, các nước trong kỷ nguyên dân số vàng thường có

nguồn nhân lực dồi dào và nguồn nhân lực này có đóng góp lớn trong tăng

trưởng của nền kinh tế nhờ năng lực lao động và sự tăng lên nhanh chóng của

cầu hàng hóa và dịch vụ. Tuy vậy, với năng suất lao động không cao thì khả

năng đóng góp của nguồn nhân lực vào tăng trưởng của ngành công nghiệp,

cũng như của nền kinh tế sẽ bị hạn chế.

73

Biểu 3.5: GDP, lao động, năng suất lao động bình quân của cả nước

Cả nước

Công nghiệp

NSLĐ CN

so với

Năm

GDP

NSLĐ

GDP

NSLĐ

NSLĐ BQ

(nghìn

(nghìn

(tỷ Đồng)

(tr.Đ/Lđ)

(tỷ Đồng)

(tr.Đ/Lđ)

(lần)

ngườ i)

ngườ i)

2000

836046

36569

22,9

239241

3889,3

61,5

2,69

2005

1588646

42774

37,1

605515

5544,1

109,2

2,94

2010

2157828

49048

44,0

693350

7169

96,7

2,20

2011

2292483

50352

45,5

746069

7497,7

99,5

2,19

2012

2412778

51422

46,9

801217

7624,9

105,1

2,24

2013

2543596

52207

48,7

841953

7777,3

108,3

2,22

2014

2695796

52744

51,1

896042

7915,7

113,2

2,21

2015

2875856

52840

54,4

982411

8586,2

114,4

2,10

Nguồn: Tính toán theo số liệu của TCTK, NGTK cá c năm 2005 đến 2015, NXB Thống

kê, [106]

Ghi chú: Đơn vị tính: GDP- tỷ đồng, Giá 2010; Lao động: 1000 người, NSLĐ: triệu

đồng, giá 2010.

và của ngành công nghiệp

3.2.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư

Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong kinh tế, người ta thường

sử dụng hệ số ICOR. Số liệu thống kê giai đoạn 2000 đến năm 2015 (biểu 3.6)

cho thấy hệ số ICOR của ngành công nghiệp Việt Nam là khá cao, giảm nhe ̣

trong các năm 2001-2005 và có xu hướng tăng dần trở la ̣i từ năm 2006. Nếu như những năm đầu thế kỷ ICOR cao do tâ ̣p trung vào các ngành công nghiê ̣p có tính chất ha ̣ tầng, vố n lớ n, lâu thu hồ i vố n thì những năm 2013-2015 ICOR đa ̣t mứ c 4,6 chủ yếu do đầu tư vào công nghê ̣ và các ngành công nghiê ̣p mớ i. Mặc dù có

có bi ̣ tăng, giảm nhưng tính chung cho cả giai đoạn 2001-2015, hệ số ICOR của

sản xuất công nghiệp vẫn ở mức cao, ở mức 3,9. Điều đó có nghĩa là, để có được

1 đơn vị GDP công nghiệp, sẽ phải bỏ ra 3,9 đơn vị vốn đầu tư cho ngành trong

suốt cả giai đoạn 2001-2015. So với ICOR của công nghiệp, ICOR bình quân chung củ a cả nướ c có phần thấp hơn. Tuy nhiên giai đoa ̣n đầu xu thế ngươ ̣c la ̣i

74

do đầu tư hê ̣ thố ng kết cấu ha ̣ tầng lớ n, hoàn vố n lâu và châ ̣m. Tuy nhiên, về xu

hướng, trong khi hiệu quả vốn đầu tư của các ngành khác có xu hướng tăng

trong những năm gần đây, mà bằng chứng là hệ số ICOR của cả nước và củ a

công nghiê ̣p đều có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, tù y thuô ̣c vào cơ cấu các ngành mà ICOR công nghiê ̣p có thể tăng giảm. Trong khi, mô ̣t số ngành không

ngừng cải thiện hiê ̣u quả, hoă ̣c có điều kiê ̣n sử dụng vốn đầu tư hiê ̣u quả hơn thì có những ngành ít có điều kiê ̣n hơn như các ngành công nghiê ̣p nă ̣ng, hoă ̣c các ngành thườ ng quy mô lớ n, thiết bi ̣ hiê ̣n đa ̣i, phứ c ta ̣p hơn.

Vốn đầu tư

Vốn đầu tư

VĐT

ICOR

ICOR

ICOR cả

công

Năm

CN/cả

Công

CN/Cả

cả nước (tỷ

nước

nghiệp (Tỷ

Đ HH)

nước (%)

nghiệp

nước (lần)

Đ giá HH)

2000

151183

55743

36.9

3.73

5

0.74

2005

343135

132902

38.7

4.29

4.8

0.89

2010

830278

316419

38.1

3.3

2.4

1.40

2015

1438790

669500

48,9

4.8

3.7

1.29

Nguồn: Tính toán theo số liệu NGTK từ 2005 đên 2016; [106]

Biểu 3.6: Hệ số ICOR của nền kinh tế và của ngành công nghiệp

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tăng lên của hệ số ICOR ngành công

nghiệp trong những năm gần đây. Số liệu thống kê cho thấy phần vốn đầu tư

dành cho sản xuất công nghiệp có tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng vốn đầu tư

của cả nước. Nếu bình quân mườ i năm 1996-2005 tỷ tro ̣ng này là 33% thi ̣ 10 năm gần đây 2004-2015 đã tăng lên 38,3% (xin xem thêm ở phụ lục 1, biểu

1.37). Tuy nhiên, hiê ̣u quả sản xuất công nghiê ̣p thờ i gian qua không cao do đầu

tư tập trung vào các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu có giá trị gia tăng

thấp như công nghiệp ô tô, công nghiệp đóng tàu và đặc biệt là những điển hình

về lãng phí vốn đầu tư như ngành mía đường, ngành xi măng, v.v. đã góp phần

làm giảm hiệu quả vốn đầu tư của toàn ngành.

75

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp trong công nghiệp và xu hướng cải

thiện không thực sự rõ rệt cho thấy, để có được tăng trưởng giá trị gia tăng công

nghiệp, cần phải có nhiều vốn đầu tư hơn. Nói cách khác, tăng trưởng của ngành

công nghiệp vẫn còn thiên về tăng trưởng theo chiều rộng với hiệu quả sử dụng

vốn đầu tư thấp, điều đó cũng cho thấy chất lượng tăng trưởng của ngành công

nghiệp là cần được cải thiện.

3.2.2.3. Tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất

Tỷ lệ chi phí trung gian trong tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp

không ngừng gia tăng trong thời gian qua, từ mức 57,5% năm 1995 lên đến

70,4% năm 2005 và 81,8% năm 2015 (biểu 3.8). Xem xét các phân ngành sản

xuất công nghiệp cũng cho thấy một xu hướng tương tự, đặc biệt tỷ lệ này có xu

hướng tăng rõ rệt trong ngành công nghiệp chế biến, chế tác và khai thác mỏ. Xu

hướng chi phí trung gian tăng lên cũng được nhận thấy rõ khi so sánh tốc độ

tăng trưởng của giá trị sản xuất công nghiệp và giá trị gia tăng của ngành.

Nguồn: Thực hiê ̣n trên cơ sở số liệu Niên giá m thống kê 2000 đến 2015, [106]

Hình 3.2: Tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp

Chi phí trung gian trong ngành công nghiệp gia tăng do nhiều nguyên

nhân. Có nguyên nhân khách quan như cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng

tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến; và khách quan như giá nhập khẩu

tăng lên trong những năm qua. Số liệu năm 2001-2015 của ngành công nghiệp

cho thấy hầu hết các ngành có tỷ lệ chi phí trung gian cao đều là những ngành có

76

tốc độ tăng trưởng nhanh và có tỷ trọng tăng lên nhiều. Đặc biệt, ngành công

nghiệp chế biến có tỷ lệ chi phí trung gian chiếm 89-90% tổng giá trị sản xuất.

Những nhóm ngành có tỷ trọng lớn, vừa có tốc độ tăng chi phí trung gian cao

như sản xuất thức ăn gia súc, may mặc, chế biến đồ gỗ, sản xuất các sản phẩm từ

nhựa, sản xuất thép, sản xuất các sản phẩm bằng kim loại, sản xuất xe có động

cơ, v.v.

Phân tích tổng chi phí trung gian thì chi phí nguyên vật liệu chiếm trên

81%, tăng bình quân 25%/năm trong thời kỳ 2001-2015. Chi phí dịch vụ chiếm

trên 9%. Chi phí về nhiên liệu, năng lượng chiếm phần còn lại, khoảng 10%

tổng chi phí trung gian của ngành công nghiệp. Điều đó cho thấy cốt lõi của vấn

đề giảm chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp là tìm các biện pháp giảm

chi phí nguyên vật liệu đầu vào của sản xuất cũng như tiết kiệm các chi phí dịch

vụ như vận tải, tư vấn, v.v.

Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK, [106]

Hình 3.3: GO và VA của ngành công nghiệp (tỷ đồ ng)

Về khía cạnh vĩ mô, chi phí trung gian cao của sản xuất công nghiệp Việt Nam chủ yếu do những nguyên nhân sau đây: (1) cơ cấu công nghiệp nước ta chủ yếu thiên về các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, các ngành công nghiệp lắp ráp, gia công với tỷ lệ giá trị gia tăng thấp trong giá trị sản xuất. Trong chuỗi giá trị toàn cầu, các ngành lắp ráp, gia công, chế biến là những ngành có giá trị gia tăng thấp nhất do các nguyên vật liệu đầu vào của quá trình

77

sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào bên ngoài; (2) Các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển ở trong nước khiến sản xuất công nghiệp với phần lớn là những ngành lắp ráp, gia công sẽ phải phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên vật liệu được nhập khẩu từ bên ngoài, với mức giá trên thị trường nguyên vật liệu đầu vào thế giới có mặt bằng cao và luôn biến động làm tăng chi phí nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất trong nước; tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng từ 61,9% năm 2000 lên 83,4% năm 2015 và thay đổi theo các ngành (xem thêm ở phụ lục 1.3.8); công nghiệp phụ trợ trong nước chưa phát triển khiến các ngành công nghiệp trong nước bị phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ bên ngoài, mà nhiều khi bị rơi vào thế bất lợi trong cạnh tranh. Do vậy, về lâu dài thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ cho các ngành công nghiệp trong nước (ngành dệt cho công nghiệp dệt may; ngành da, thuộc da cho công nghiệp giày da; công nghiệp sản xuất linh kiện điện tử cho công nghiệp điện, điện tử; công nghiệp sản xuất các sản phẩm theo cụm công nghệ như cabin, khung, vỏ, cấu tạo, hộp số, hệ thống lái, động cơ, bộ truyền động, v.v. cho công nghiệp sản xuất ô tô, xe máy; công nghiệp chế tạo phôi lớn, nhiệt luyện, xử lý bề mặt kim loại v.v. phục vụ công nghiệp cơ khí; v.v.) là một giải pháp quan trọng.

3.2.2.4. Tiêu hao năng lượng của sản xuất công nghiệp

Có thể xem xét tiêu thụ điện năng của nền kinh tế để phần nào lột tả được

bức tranh tiêu thụ năng lượng của nền kinh tế nước ta trong thời gian qua.

Trong giai đoạn 1991-2005, tỷ lệ tăng trưởng sản lượng điện của Việt Nam so với tăng trưởng GDP là 1,72 lần, cao hơn nhiều so với tỷ lệ này ở các nước thu nhập trung bình và cả các nước thu nhập thấp trên thế giới (lần lượt là 1,06 và 1 trong giai đoạn 1994-2002). (Phụ lục 1: Biểu 1.3.9).

Xu thế các nước trên thế giới là tỷ lệ tăng trưởng sản lượng điện sản xuất ra so với tăng trưởng GDP giảm dần nhưng ở thực tế Việt Nam 15 năm qua lại cho thấy xu thế ngược lại: sản lượng điện ngày càng phải tăng với tốc độ cao hơn để có thêm 1% tăng trưởng GDP: từ mức 1,35 giai đoạn 1991-1995 lên 1,83 giai đoạn 1996-2000 và 1,97 giai đoạn 2001-2005 [106].

Khi xem xét chỉ tiêu suất điện năng – chỉ tiêu phản ánh lượng điện sử dụng để tạo ra một đơn vị sản phẩm – có thể thấy, Việt Nam đã tiêu thụ mức điện năng lớn hơn nhiều so với các nước trong khu vực để tạo ra 1 đơn vị USD

78

của GDP. Năm 2015, suất điện năng của Việt Nam là 0,68 KWh/1USD trong khi của Singapore là 0,16; Hồng Kông là 0,15; Hàn Quốc là 0,40; Malaysia là 0,41; Philippin là 0,25; Thái Lan là 0,40; Trung Quốc là 0,54 (Phụ lục 1.3.9). Trung Quố c đã cơ bướ c cải thiê ̣n đáng kể, nếu như năm 1990 chỉ tiêu này là 1,61, thì năm 2000 ho ̣ xuố ng 1,04 và năm 2010 ho ̣ xuố ng 0,65 và năm 2013 là 0,54. Như vậy, để tạo ra một 1 USD của GDP, Việt Nam đã phải tốn lượng điện năng bằng 4,3 lần Hồng Kông và Singgapo, gần 1,7 lần Hàn Quốc, Thái Lan và Malaysia, 2,7 lần Philippin, 1,27 lần Trung Quố c. Với chi phí năng lượng cao hơn nhiều như trên cho 1 USD sản phẩm sản xuất ra, sản phẩm của Việt Nam sẽ có giá thành cao hơn và sức cạnh tranh kém hơn so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực được so sánh. Không những vậy, suất điện năng của Việt Nam còn liên tục tăng nhanh theo thời gian trong 10 năm gần đây.

Cụ thể, các số liệu so sánh của Nhật Bản trong ngành thép cho thấy công nghệ sử dụng của Việt Nam hiện có thời gian nấu cao hơn 360% so với thế giới, các chỉ tiêu tiêu hao thép phế liệu, điện và điện cực đều quá cao, đặc biệt tiêu thụ điện năng bằng 257% so với các nước khác trong khi công đoạn cán tốc độ chỉ bằng 12,7% tốc độ cán của các nhà máy trên thế giới.

3.2.3. Đánh giá tác động lan tỏa của tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh

tế

3.2.3.1 Đóng góp của tăng trưởng công nghiệp trong tăng trưởng chung

của nền kinh tế

Giai đoạn 1991-2005 chứng kiến tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế

Việt Nam với tốc độ tăng bình quân đạt 7,54% hàng năm. Trong đó, nông

nghiệp tăng bình quân 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 9,14%; dịch vụ tăng

7,08%. Nền kinh tế đạt được nhịp tăng trưởng cao trong thời gian qua nhờ sự

đóng góp lớn của khối ngành công nghiệp. Số liệu ở biểu 3.15 cho thấy tỷ trọng

đóng góp của khối ngành này cho tăng trưởng kinh tế cả nước tăng nhanh trong

giai đoạn 1991-2001, từ 39,3% cho tăng trưởng của kinh tế cả nước, đến mức

cao nhất là 51,5% trong tổng 100% tăng trưởng của nền kinh tế vào năm 2001.

Có thể giải thích cho sự nổi trội của khối ngành công nghiệp trong giai đoạn này

79

là từ đóng góp tích cực của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hơn 12

năm thu hút và đi vào hoạt động, các nguồn vốn đầu tư phát triển công nghiệp

trong giai đoạn trước đó bắt đầu phát huy tác dụng làm tăng năng lực sản xuất

của khối ngành công nghiệp. Đồng thời, đóng góp của ngành dịch vụ trong năm

1999 giảm mạnh xuất phát từ những ảnh hưởng từ những hậu quả của cuộc

khủng hoảng tài chính khu vực và sau một thời gian dài tăng trưởng cao nhờ sự

phát triển của các ngành dịch vụ truyền thống chưa đến giai đoạn bão hòa như

khách sạn, nhà hàng, thương mại. Kết quả là, ngành công nghiệp trong giai đoạn

này đã khẳng định được vai trò nổi trội của mình trong tăng trưởng kinh tế của

cả nước.

Nguồn: Niên giám thống kê 2005-2015, tính toán của tác giả; và số liệu nguồn [106]

Hình 3.4: Đóng góp của các khu vực cho tăng trưởng của nền kinh tế

Tuy vậy, vai trò của khối ngành công nghiệp đối với tăng trưởng của nền

kinh tế đã bắt đầu có xu hướng giảm kể từ năm 1999 khi tỷ trọng đóng góp của

nó giảm từ 51,5% các năm 2001, 2003 đã giảm xuống còn 28% năm 2008 cho

tăng trưởng chung của nền kinh tế. Và đây cũng là khở i đầu cho gian đoa ̣n kinh

tế tăng trưở ng thấp trên dướ i 6%/năm. Sở dĩ có tình trạng này là do khối ngành

dịch vụ có nhịp tăng trưởng GDP bình quân cao hơn nhịp tăng của khối ngành

công nghiệp trong giai đoạn 2006-2015 (7,3%/năm so vớ i 6,2% củ a CNXD và

80

6,1% toàn nền kinh tế) và cũng mang la ̣i tỷ lê ̣ đó ng gó p cho tăng trưở ng chung

cao hơn.

Biểu 3.7: Đóng góp của các ngành vào tăng trưởng của nền kinh tế giai đoạn 2005-2015

Đóng góp cho tăng trưởng kinh tế

Tỷ trọng đóng góp cho tăng trưởng

từ các khu vực (%)

kinh tế từ các khu vực (%)

Năm

Tổng

Tổng

NN

CN+XD Dịch vụ

NN

CN+XD Dịch vụ

số

số

2005

8,3

100

3,4

10,9

48,0

41,1

0,9

4,0

2006

7,0

100

3,4

11,7

39,8

48,4

0,8

2,8

2007

7,1

100

3,5

11,6

39,5

48,9

0,8

2,8

2008

5,7

100

3,1

16,8

28,0

55,2

1,0

1,6

2009

5,4

100

2,8

7,1

41,8

51,1

0,4

2,3

2010

6,4

100

3,1

10,0

42,4

47,7

0,6

2,7

2011

6,2

100

2,9

12,2

40,9

46,9

0,8

2,6

2012

5,2

100

2,5

9,4

42,1

48,5

0,5

2,2

2013

5,4

100

2,9

8,8

38,6

52,6

0,5

2,1

2014

6,0

100

2,8

3,1

50,8

46,1

0,2

3,0

2015

6,7

100

3,1

5,7

48,9

45,4

0,4

3,3

Nguồn: Tính toán theo số liệu của TCTK, Niên giá m thống kê 2000 đến 2016; [106]

Đơn vị: %

Biểu 3.7 cho thấy đóng góp của các phân ngành công nghiệp cho tăng trưởng GDP chung của nền kinh tế giai đoạn 1996-2015. Riêng ngành công nghiệp (không kể xây dựng) có đóng góp khá lớn cho tăng trưởng chung của nền kinh tế, đóng góp 2,9 điểm phần trăm trong 6,7% tăng trưởng của nền kinh tế năm 2000 (tức chiếm tỷ trọng 32,5%), lên 3,6 điểm phần trăm trong 8,3% tăng trưởng năm 2010 và 3,3 điểm phần trăm trong 6,7% tăng trưởng của nền kinh tế năm 2015 (tương đương với tỷ trọng 38,9%). Trong đóng góp của toàn ngành công nghiệp cho tăng trưởng GDP cả nước, ngành công nghiệp chế biến có vai trò hết sức quan trọng, riêng ngành công nghiệp này có đóng góp cho tăng trưởng năm 2000 và 1,1/6,7% tăng trưởng của cả nước năm 2000 và năm 2015

81

là 2,9/6,7% tăng trưở ng hay 43,3% mứ c đó ng gó p cho tăng trưở ng. Điều quan trọng là, đóng góp của khối ngành công nghiệp chế biến, chế ta ̣o vào tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp cũng như với nền kinh tế là ngày càng lớn, với tỷ trọng 13,0% năm 1995 lên 40% năm 2010. Nhưng năm sau tuy có giảm song do tỷ lê ̣ tăng trưở ng chung củ a toàn nền kinh tế bi ̣ giảm và sự tăng lên củ a các phân ngành điê ̣n, nướ c (xin xem chi tiết trong biểu 3.8 dưới đây).

Biểu 3.8: Đóng góp của các ngành công nghiệp cho tăng trưởng của

nền kinh tế giai đoạn 1996-2015

Đơn vị: %

1995

2000

2005

2010

2012

2013

2014

2015

Mứ c độ đó ng gó p cho tăng trưở ng

9,3

6,7

8,3

6,4

5,2

5,4

6,0

6,7

Tăng trưở ng GDP giá 2010

1,4

1,2

0,9

0,6

0,5

0,1

0,6

0,4

Trong đó NLN

3,7

3,3

4,0

2,7

2,2

1,8

2,5

3,3

CNXD

3,0

2,9

3,4

3,6

2,0

1,5

2,1

2,9

Trong đó Công nghiê ̣p

1,4

1,5

1,5

0,4

0,4

0,0

0,2

0,3

Khai khoáng

Chế biến, chế tạo

1,2

1,1

1,6

2,6

1,1

1,2

1,4

1,8

0,5

0,3

0,3

0,7

0,5

0,3

0,5

0,8

Điê ̣n, nướ c

0,6

0,4

0,6

-0,9

0,2

0,3

0,4

0,5

Xây dựng

4,2

2,2

3,4

3,1

2,5

3,5

2,9

3,0

DI ̣CH VỤ

Tỷ lệ đó ng gó p cho tăng trưở ng

100

100

100

100

100

100

100

100

Tăng trưở ng GDP giá 2010

15,3

18,1

10,9

10,0

9,4

0,9

9,9

6,0

Trong đó N-L-N

39,3

48,8

48,0

42,4

42,1

34,0

41,5

49,3

CN-XD

32,5

43,3

40,7

56,6

38,0

27,9

34,9

43,3

Trong đó Công nghiê ̣p

14,6

22,2

18,6

5,9

8,6

-0,3

3,4

4,5

Khai khoáng

Chế biến, chế tạo

13,0

16,8

18,8

40,0

20,6

22,4

23,8

26,9

4,9

4,3

3,3

10,7

8,9

5,8

7,7

11,9

Điê ̣n, nướ c

6,8

5,5

7,3

-14,3

4,0

6,1

6,6

7,5

Xây dựng

45,4

33,1

41,1

47,7

48,5

65,0

48,6

44,8

DI ̣CH VỤ

Nguồn: Tính toán theo số liệu của TCTK, NGTK 2000 đên 2015, [106]

82

Vai trò của ngành công nghiệp chế biến đang thay thế dần vai trò của

ngành công nghiệp khai thác là một xu hướng tốt trong phát triển công nghiệp

Việt Nam trong thời gian qua.

3.2.3.2. Tăng trưởng công nghiệp và xuất khẩu

Sự phát triển của ngành công nghiệp liên tục ở tốc độ cao trong thời gian vừa qua đã góp phần tích cực trong việc thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 150,2 tỷ USD vào năm 2015, gấp 10,2 lần so với kim ngạch năm 2000, tăng bình quân 18,2%/năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhờ vào nhịp tăng trưởng cao của kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2009-2015, bình quân 21,3% hàng năm.

Nguồn: Tính toán và xử lý từ [106]

Hình 3.5: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng

Kim ngạch xuất khẩu tăng cao chủ yếu nhờ vào đóng góp của ngành công nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta (53,7% năm 1995 và 82,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào năm 2015) và nhịp tăng của kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp đạt cao trong thời gian qua. Nhịp tăng của xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp nặng và khai khoáng tăng bình quân hàng năm 31% giai đoạn 1996-2000 và 16,8% giai đoạn 2001-2005, 13,9%/năm giai đoa ̣n 2006-2010 và 31%/năm trong 5 năm gần đây 2011-2015; xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp nhẹ và TTCN tăng bình quân hàng năm 25,9% giai đoạn 1996-2000, 22,1% giai đoạn 2001-2005 và 20,2 và 14,8%/năm trong các giai đoa ̣n 2006-2010 và 2011-2015. Kim ngạch xuất khẩu các mặt

83

hàng công nghiệp tăng cao do các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công nghiệp đạt kim ngạch lớn như dầu thô, hàng dệt may, giầy dép, hàng điện tử và máy tính, sản phẩm gỗ, dây diện và cáp điện.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý trong xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp

của Việt Nam trong thời gian qua là:

- Các yếu tố tăng trưởng xuất khẩu chưa ổn định, chưa xuất hiện thêm

những nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn và có giá trị tăng thêm cao.

Một số nhóm hàng vượt trội về kim ngạch như hàng dệt may, giày dép, điện tử,

máy tính và linh kiện, v.v. tuy có đóng góp nhiều trong việc tạo việc làm cho

nền kinh tế, song giá trị gia tăng thấp do sản xuất chủ yếu ở khâu gia công cho

nước ngoài, chi phí nguyên vật liệu rất cao và phụ thuộc vào nước ngoài (phần

này được đề cập cụ thể hơn ở mục 3.3.3).

- Mẫu mã hàng xuất khẩu đơn điệu, khả năng quan hệ trực tiếp với khách

hàng nước ngoài của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu còn hạn chế, v.v. đang là

những trở ngại lớn cho việc mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả của hoạt

động xuất khẩu.

- Một phần tăng trưởng xuất khẩu trong những năm qua là do tăng giá trên

thị trường thế giới, nhất là các mặt hàng dầu thô, than đá nên sẽ không vững

chắc (xin xem thêm ở phụ lục 1.3.2).

3.2.3.3 Tác động lan toả của tăng trưởng công nghiệp tới các ngành

kinh tế

Có nhiều phương pháp phân tích tác động lan toả của tăng trưởng của một

ngành tới các ngành khác của nền kinh tế. Trong nội dung này của Luận án, như

đã trình bày ở chương 2, Luận án sử dụng phân tích hệ số đẩy và kéo của ngành

công nghiệp đối với các ngành khác dựa trên số liệu các bảng cân đối liên ngành

(I-O) của Việt Nam.

84

Từ năm 1989 đến nay, Việt nam đã xây dựng 5 Bảng I/O với quy mô 164

ngành. Đây cũng là giai đoạn, sau đổi mới nền kinh tế nước ta đã từng bước đi

vào phát triển theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường. Vì vậy, phân tích

những bảng I/O theo thời gian sẽ cho thấy xu thế chuyển dịch cơ cấu nền kinh

tế, mối quan hệ giữa các ngành sản xuất, đặc biệt là các ngành công nghiệp trở

nên rõ ràng và thực chất hơn về chất lượng tăng trưởng.

Kết quả phân tích bảng I/O năm 2012 [32] và các bảng I/O trước đó cho

thấy thời kỳ 2000 – 2012, nền kinh tế Việt nam đã phát triển theo hướng mở,

tăng chu chuyển ngoại thương. (i) Trong tổng cung, tỷ trọng hàng hóa và dịch vụ

nhập khẩu đã tăng từ 19,6% năm 2000 lên 20,1% năm 2012; trong tổng cầu tỷ

trọng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đã tăng từ 18,8% năm 2000 lên 22,4% năm

2012. Tuy nhiên, từ năm 2012 mới bắt đầu có xuất siêu; (ii) Tỷ trọng tích lũy tài

sản trong tổng cầu nhìn chung nhỏ. Song tốc độ tăng trưởng thường cao hơn

mức tăng trưởng kinh tế, trừ một số năm như năm 2012 chỉ ở mức 2,4%; (iii)

Trong tổng cầu, tỷ trong tiêu dùng cuối cùng (TDCC) giảm sút từ 27,1% năm

2000 xuống 21,5% năm 2007 và 19,1% năm 2012. Do vậy, mặc dù có tăng

nhưng tăng trưởng TDCC không ổn định và thấp, chỉ là 0,6% năm 2000, năm

2007 cao hơn ở mức 9,7% và đến năm 2012 chỉ có 5,1%). Nhìn chung, so với

tống cầu nội địa bao gồm tiêu dùng trung gian, tiêu dùng cuối cùng và tích lũy

tài sản giảm từ 81,2% năm 2000 xuống 79,2% năm 2007 và 77,6% năm 2012.

Để thấy rõ chất lượng tăng trưởng công nghiệp trên cơ sở phân tích băng

I/O ta hãy phân tích các bảng I/O của các năm 2007 và 2012 gộp theo 30 ngành

(xem phụ lục). Trong đó từ thứ 6 đến 24 là các ngành công nghiệp.

Những phân tích dựa trên cơ sở so sánh bảng I/O năm 2012 so với các

bảng I/O năm 2007 và năm 2000 cho thấy các ngành có mối liên quan chặt chẽ

với nhau. Trong giai đoạn này, một số ngành phụ thuộc nhiều, các ngành khác

phụ thuộc ít vào các ngành còn lại. Ở giai đoạn khác những quan hệ phụ thuộc

qua lại này có thể thay đổi. Sự thay đổi này phần nào phản ánh xu thế phát triển

85

các ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và

phân công lao động trong nước và quốc tế.

Từ phân tích Ma trận Leontief (I - Aij)-1 của bảng I/O 2007 ta thấy, các

ngành công nghiệp nước ta có quan hệ mật thiết và có vai trò ngày càng lớn đối

với toàn bộ nền kinh tế. Để đo mối quan hệ này, luận án dùng hệ số lan toả liên

kết ngược. Hệ số lan toả (Index of the power dispersion) nhằm để đo mức độ

quan trọng của một ngành với tư cách là bên sử dụng sản phẩm vật chất và dịch

vụ làm đầu vào từ toàn bộ nền kinh tế. Nếu năm 2007 hệ số lan tỏa của một số

ngành công nghiêp có mức trên 1, kể từ cao xuống thấp gồm có: gang, thép,

luyện kim và kim loại khác; xăng dầu và sản phẩm hóa dầu; công nghiệp chế

biến thực phẩm và thức ăn gia súc; may mặc và giày dép; phân bón, thuốc trừ

sâu và plastic; máy móc, ô tô, tàu thuyền, phương tiện vận tải; bia, rượu và thuốc

lá; khai thác than; các sản phẩm gỗ, giấy, in ấn; thuốc và hóa chất khác; điện và

điện tử.

Tuy nhiên nếu chỉ xét tầm quan trọng với tư cách là ngành sử dụng sản

phẩm trong nội bộ các ngành công nghiệp thì dẫn đầu vần là gang thép, luyện

kim và kim loại khác, tiếp đến ngành xăng dầu và sản phẩm hóa dầu. Ngành

Công nghiệp chế biến thực phẩm và thức ăn gia súc từ hạng 3 xuống thứ 9 vì nó

rất quan trọng đối với nền kinh tế song lại sử dụng đầu vào chủ yếu từ khu vực

nông, lâm nghiêp và thủy sản.

Ma trận Leontief (I - Aij)-1 của bảng I/O 2012 phản ánh đã có sự chuyển

dích đáng kể trong cơ cấu và tăng trưởng của các ngành công nghiệp. Những

ngành có hệ số lan tỏa lớn hơn 1 và từ cao xuống thấp: công nghiệp chế biến

thực phẩm và thức ăn gia súc; điện và điện tử; gang, thép, luyện kim và kim

loại khác; thuốc và hóa chất khác; xăng dầu và sản phẩm hóa dầu; các sản phẩm

gỗ, giấy, in ấn; máy móc, ô tô, tàu thuyền, phương tiện vận tải; hóa chất cơ bản

và cao su tự nhiên; khai thác than; giường tủ, bàn ghế, dụng cụ y tế; phân bón,

thuốc trừ sâu và plastic; may mặc và giày dép; xi măng, thủy tinh, gạch ngói.

86

Sự chuyển dịch các ngành công nghiệp từ bảng I/O 2007 sang bảng I/O

2012 phần nào phản ánh xu thế phát triển knh tế ở giai đoạn này. Đây là giai

đoạn các mặt hàng chế biến lương thực, thực phẩm như gạo, tôm cá nước ta

thâm nhập mạnh vào các thị trường thế giới, đặc biệt là các nước phát triển. Tuy

nhiên, xét trong nội bộ các ngành công nghiệp thì ngành này chỉ đứng thứ 9.

Điều này một lần nữa thể hiện nó phụ thuộc nhiều vào đầu vào từ khu vực nông

lâm ngư nghiệp. Tiếp đến là các ngành công nghiệp thâm dụng vốn và phản ánh

bước chuyển hóa giai đoạn phát triển từ lấy yếu tố đầu vào làm chủ đạo sang

giai đoạn lấy đầu tư, hiệu quả đầu tư làm chủ đạo của nền kinh tế như điện, điện

tử, sản phẩm thép, hóa chất, xăng dầu.

Nếu xem xét các liên kết xuôi hay là mức độ quan trọng với tư cách là

ngành cung cấp sản phẩm cho các ngành khác (theo hàng của ma trận) của nền

kinh tế - hệ số độ nhạy (liên kết xuôi). Nếu hệ số này lớn hơn 1 và càng cao thì

càng thể hiện sự cần thiết của ngành đó với những ngành còn lại.

Nếu như năm 2007 chỉ có 6 ngành công nghiệp (xăng dầu và sản phẩm

hóa dầu; gang, thép, luyện kim và kim loại khác; phân bón, thuốc trừ sâu và

plastic; hóa chất cơ bản và cao su tự nhiên; công nghiệp chế biến thực phẩm và

thức ăn gia súc; các sản phẩm gỗ, giấy, in ấn) có hệ số nhạy cảm trên 1 thì đến

năm 2012 đã có tới 9 ngành (gang, thép, luyện kim và kim loại khác; xăng dầu

và sản phẩm hóa dầu; khai thác dầu thô và khí đốt; hóa chất cơ bản và cao su tự

nhiên; phân bón, thuốc trừ sâu và plastic; điện và điện tử; điện và điện tử; máy

móc, ô tô, tàu thuyền, phương tiện vận tải; các sản phẩm gỗ, giấy, in ấn).

Năm 2012 đã xuất hiện nhiều ngành công nghiệp có vai trò quan trọng

với tư cách là sử dụng sản phẩm và dịch vụ của các ngành khác làm đầu vào

vừa là ngành cung cấp sản phẩm vật chất và dịch vụ cho các ngành còn lại của

nền kinh tế. Nói cách khác hệ số lan tỏa cũng như hệ số độ nhạy của nó đều ở

mức cao (như gang, thép, luyện kim và kim loại khác; xăng dầu và sản phẩm

hóa dầu; điện và điện tử) kể cả trong nội bộ các ngành công nghiệp.

87

Mặt khác, điểm đáng lưu ý khi phân tích so sánh nhân tử loại I (nhân tử

phản ánh tác động của một ngành-ngành công nghiệp tới sản xuất của các ngành

khác trong nền kinh tế), thấy ngành sản xuất thép, dệt may, sản xuất phương tiện

vận tải, dầu tinh chế và các loại nguyên liệu, sản xuất thực phẩm và đồ uống,

thủy hải, hóa chất, giấy, khai khoáng và các sản phẩm giấy là những ngành có

tác động thúc đẩy cao tới tăng trưởng của các ngành khác. Điều này có nghĩa

rằng, nếu một tác động nào đó từ phía thị trường hoặc từ các chính sách của nhà

nước tới các phân ngành vừa nêu sẽ có khả năng thúc đẩy vượt bậc, hoặc làm

suy giảm tới tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp và các ngành khác trong

nền kinh tế.

Tuy nhiên, nếu xem xét chỉ số lan toả loại II (nhân tử được tính toán khi

hộ gia đình được coi là một nhân tố quan trọng), các ngành lâm nghiệp, chế biến

các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi, chế biến thủy hải sản, sản xuất thực phẩm

và đồ uống, dầu thô, khí đốt và khoáng sản,… có khả năng lan toả cao tới nền

kinh tế, lan tỏa nhiều vòng trong toàn nền kinh tế (các chỉ số chi tiết, xin xem

thêm phụ lục 7 của luận án).

Xem xét chỉ tiêu lan tỏa đến giá trị gia tăng của ngành công nghiệp, có thể

thấy những ngành có khả năng kích thích làm tăng mạnh giá trị gia tăng trong

nền kinh tế là những ngành dầu thô, khí đốt tự nhiên và khoáng sản khai khoáng,

sản xuất các sản phẩm da và các sản phẩm da thuộc là những ngành công nghiệp

có khả năng thúc đẩy lớn nhất tới gia tăng VA của những ngành khác trong nền

kinh tế (mức độ tác động cụ thể của các ngành công nghiệp này tới các ngành

khác và tới nền kinh tế, xin xem thêm phần phụ lục 7).

3.2.3.4 Tác động của sản xuất công nghiệp đến môi trường

Sự phát triển của Việt Nam trong thời gian qua chứa đựng những hiểm

họa về môi trường sinh thái. Do quá chú trọng vào tăng trưởng kinh tế, chưa

quan tâm đúng mức tới việc bảo vệ môi trường, hiện tượng khai thác bừa bãi và

sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên suy thoái môi trường và làm

88

mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến. Quá trình đô thị hóa tăng

nhanh kéo theo sự khai thác quá mức nguồn nước ngầm, ô nhiễm nguồn nước

mặt, không khí và ứ đọng chất thải rắn. Tuy các hoạt động bảo vệ môi trường đã

có những tiến bộ đáng kể nhưng mức ô nhiễm, sự suy thoái và suy giảm chất

lượng môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và chất

lượng cuộc sống của con người.

Thứ nhất, chất thải và ô nhiễm môi trường sinh thái Biểu 3.9: Mức phát thải CO2 của ngành công nghiệp Việt Nam so với

một số quốc gia trong khu vực

Đơn vị: % so với tổng nhiên liệu sử dụng 2010 2014 2005 2000

32,62 33,45 31,72 Trung Quốc 28,94

Đông Á và TBD (trừ

nước thu nhập cao) 28,33 31,75 32,42 30,41

Đông Á và TBD 25,04 27,83 28,97 27,69

Indonesia 22,84 25,60 24,59 18,40

Ấn Độ 21,05 21,44 25,97 26,41

Hàn Quốc 22,19 16,18 14,24 13,66

Malaysia 22,46 22,53 16,04 12,97

Thái Lan 20,23 22,80 22,35 20,89

Việt Nam 32,63 30,41 32,96 33,75

Nguồn: [22], tác giả xử lý và tính toán.

Thế giới 17,37 18,27 19,97 19,96

Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, cập nhật tháng 6 năm 2017, các ngành công nghiệp Việt Nam có mức phát thải cao so với quy mô và cao hơn nhiều so với các nước so sánh (biểu 3.14). Theo đó, phát thải CO2 của công nghiệp Việt Nam cao hơn xấp xỉ hai lần so với mức bình quân chung của thế giới (33%/19% vào năm 2014. Xu hướng mức phát thải ngày càng lớn cũng được ghi nhận trong 15 năm xem xét, từ năm 2000 (32,6% tổng phát thải nhiên liệu sử dụng), cao nhất so với bình quân của khu vực Đông Á và Thái Bình

89

Dương, và các nước trong vùng như: Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan.

Xem xét chỉ tiêu mức phát thải trên một đồng VA công nghiệp cho thấy,

xu hướng cải thiện trong khả năng bảo vệ môi trường của Việt Nam chưa thực

sự được cải thiện, thể hiện ở mức phát thải CO2/1 USD VA công nghiệp ở mức

khá cao, trên 0,32 kg, cao hơn so với mức bình quân chung của thế giới, cao hơn

so với con số này 10 năm về trước của một số nước trong khu vực như Indonesia

và Thái Lan (hình 3.6).

Có thể thấy, cái giá phải trả về môi trường do tăng trưởng công nghiệp

gây ra của Việt Nam vẫn có xu hướng ngày càng nặng hơn so với một số nước

có trình độ phát triển và bình quân chung của thế giới.

Hình 3.6: Mức phát thải CO2/ một đồng VA công nghiệp của Việ t

Nguồn: [22], tác giả tính toán và xử.

Nam và các nước trên thế giới (kg/1 USD PPP VA công nghiệp)

Nhiều chuyên gia cho rằng, trình độ công nghệ trong sản xuất, hệ thống xử lý chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp vừa thiếu lại vừa kém chất lượng chưa ngăn chặn được tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Sự xuống cấp của môi trường chẳng những ảnh hưởng đến môi trường

90

sống mà còn đòi hỏi phải bỏ ra một khoản kinh phí lớn để phòng chống và khắc phục sự xuống cấp đó.

Trong giai đoạn 2000-2015, thiệt hại của nền kinh tế từ ô nhiễm của Việt Nam cao hơn nhiều so với bình quân của thế giới và các nước được so sánh trong khu vực, chỉ thấp hơn so với Indonesia và Trung Quốc. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, thiệt hại của nền kinh tế từ ô nhiễm (tính bằng % so với GNI) của Việt Nam, mặc dù có xu hướng giảm chậm trong giai đoạn 10 năm gần đây, nhưng vẫn ở mức 0,27% GNI, cao hơn mức bình quân của các nước Đông Á và Thái Bình Dương, và một số nước so sánh khác như Thái Lan, Malaysia (hình 3.7).

Hình 3.7: Thiệt hại của nền kinh tế từ ô nhiễm của Việt Nam so với

Nguồn: Số liệu của Ngân hàng thế giới [22], tác giả tính toán và xử lý.

các nước trong khu vực và thế giới.

Đây là một thực tế đáng quan tâm, nó cho thấy mục tiêu tăng trưởng kinh

tế là cần thiết, song mặt trái của các hoạt động sản xuất kinh doanh đang gây các

thiệt hại to lớn về môi trường, làm giảm mặt chất lượng của hoạt động tăng

trưởng.

Thứ hai, khai thác cạn kiệt và sử dụng lãng phí tài nguyên, môi trường

Do chú trọng vào tăng trưởng kinh tế, ít chú ý đến bảo vệ môi trường, nên

hiện tượng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên

91

suy thoái môi trường và làm mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến.

Những tiềm ẩn này đang bắt đầu bộc lộ mà bằng chứng là những trận lụt lớn

thường xẩy ra ở Miền Trung và Nam bộ. Hạn hán cũng đe dọa tới cuộc sống của

nhiều người dân ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Chỉ riêng trong ngành công nghiệp, công nghệ lạc hậu, yếu kém là một

nguyên nhân dẫn đến hao phí và thất thoát tài nguyên. Xét trên góc độ môi

trường, các ngành công nghiệp của Việt Nam hiện nay có chi phí tài nguyên rất

cao. Đơn cử với hai loại tài nguyên chính là nước và năng lượng, bức tranh về

hiện trạng sử dụng tài nguyên là đáng lo ngại của Việt Nam.

Mức sử dụng nước ở nhiều ngành công nghiệp là rất cao và lãng phí, đặc

biệt là khu vực tư nhân. Rõ ràng nhất là ngành bia. Trên thế giới để sản xuất 1 lít

bia trung bình sử dụng khoảng 4 lít nước, song ở Việt Nam hệ số sử dụng nước

trên đơn vị sản phẩm cao gấp 3 lần, đạt mức 13 lít nước trên 1 lít bia. Các ngành

dệt và ngành giấy cũng là hai ngành sử dụng nhiều nước, thực trạng lãng phí,

tiêu hao nước lớn cũng rất phổ biến.

Hiện trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên đến cạn kiệt không chỉ xuất

phát từ các yếu tố công nghệ lạc hậu, mà quan trọng hơn, ở Việt Nam, việc khai

thác tài nguyên thiên nhiên, sống dựa vào tài nguyên thiên nhiên vốn là một cứu

cánh cho bộ phận dân cư nghèo. Thật khó để có thể thuyết phục người dân thôi

tàn phá môi trường khi cuộc sống của họ thất bấp bênh. Nếu phần lớn các vấn đề

khai thác tài nguyên và hủy hoại môi trường đều đổ lỗi cho việc kém hiểu biết

thì điều này quả là không thuyết phục bởi lẽ với chỉ số giáo dục là 0,82 tương

đương với 90,3% người lớn biết đọc biết viết và 64% số người ghi danh đi học

các cấp, Việt Nam hoàn toàn có thể tự hào về trình độ dân trí. Có thể nói,

nguyên nhân cơ bản gây hủy hoại môi trường xuất phát từ áp lực kinh tế, do nhu

cầu mưu sinh.

92

Mức độ tiêu hao nước trên một đơn vị sản phẩm (m3)

Ngành

500 m3/1 tấn giấy

Giấy

3000 m3/ 1 tấn thép thỏi

Thép

70 m3/ 1 tấn gang tinh luyện, 50 m3/1 tấn Fero

23 m3/ 1 tấn than cốc luyện

4,5 m3/ 1 tấn thép cán

Hóa chất

200-230 m3/ 1 tấn Urea 46%

> 700 m3/ 1 tấn NH3

Rượu

30 lít nước/ 1 lít rượu công nghiệp

10 lít nước/1 lít rượu nấu

40 lít nước / 1 lít cồn

13 lít nước / 1 lít bia

Bia

Dệt nhuộm

50-300 m3 / 1 tấn sản phẩm

Nguồn: Bộ Công thương, 2015. Lấy ví dụ về tài nguyên rừng, rừng là nguồn tài nguyên đa dạng sinh học

Biểu 3.10: Sử dụng nước ở một số ngành công nghiệp Việt Nam

quý giá vào dạng bậc nhất ở Việt Nam, không những là cơ sở phát triển kinh tế

mà còn có nhiều chức năng sinh thái quan trọng. Sau những năm bị tàn phá bởi

chiến tranh, từ năm 1975-1990, diện tích rừng tự nhiên đã giảm 2,65 triệu ha

phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Thời gian gần đây, tỷ lệ che phủ rừng có xu

hướng gia tăng, từ 37,7% năm 2000 lên 47,6% năm 2015 nhưng vẫn thấp so với một số quốc gia trong khu vực [112].

3.3. Cá c nhân tố tá c đô ̣ng tớ i chấ t lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam

từ nay đến năm 2025 và tầm nhìn 2030

3.3.1. Quan điểm phát triển các ngành công nghiệp

Những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước thời

gian gần đây đều nhấn mạnh việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiện đại,

nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo điều kiện nền tảng, thúc đẩy tăng trưởng

công nghiệp. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, ngày 28/1/2016

93

đặt ra một trong những nhiệm vụ quan trọng của Việt Nam trong thời gian tới là:

“Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất

lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba

đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân

lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng

đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình

tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn

mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu

lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.” [12].

Nhiệm vụ này cũng đã được Chính phủ chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai

chuẩn bị tiền đề về chính sách, từ công tác lập chiến lược, quy hoạch và các nghị

định nhằm thúc đẩy các ngành và lĩnh vực. Cụ thể, “phát triển các ngành công

nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế. Phát

triển công nghiệp năng lượng, luyện kim, hoá dầu, hoá chất với công nghệ hiện

đại, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Khuyến

khích phát triển các doanh nghiệp cơ khí chế tạo mạnh và sản phẩm cơ khí trọng

điểm. Có chính sách phát triển công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ

thông tin, công nghiệp phần mềm. Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông

nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật tư và máy nông

nghiệp. Tập trung phát triển công nghiệp phụ trợ, tăng cường liên kết giữa các

tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp trong nước, hình thành khu công nghiệp

hỗ trợ theo cụm liên kết ngành. Hỗ trợ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo,

nhất là năng lượng gió, mặt trời.” [12].

Quan điểm và định hướng phát triển công nghiệp của Đảng như đề cập là

hoàn toàn phù hợp với bối cảnh phát triển và thực tiễn nền công nghiệp Việt

Nam hiện nay. Kết quả thực hiện những chủ trương này, tuy vậy, sẽ phụ thuộc

94

nhiều vào khả năng điều hành của Chính phủ trong các kỳ kế hoạch phát triển

trung hạn và hàng năm trong thời gian tới. Việc ban hành, sửa đổi, điều chỉnh

kịp thời các chính sách liên quan đến phát triển công nghiệp từ chiến lược, quy

hoạch ngành, cụm ngành sản phẩm công nghiệp đến các cơ chế chính sách hỗ

trợ phát triển, việc đảm bảo tính minh bạch, tính giải trình trong quá trình thực

thi các chính sách ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp cũng cần được đặc

biệt quan tâm. Ngược lại, những ngành công nghiệp ưu tiên phát triển được lựa

chọn hiện nay, như đã đề cập ở chương 3, sẽ khó đạt được mục tiêu phát triển đề

ra.

Mặt khác, công tác lập chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành công

nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua được khá được coi trọng, đã góp phần

định hướng tốt cho sự phát triển của các ngành, lĩnh vực sản xuất công nghiệp ở

nước ta, phát huy được những thế mạnh của Việt Nam trong phát triển, thúc đẩy

phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm, nâng cao kim ngạch xuất khẩu, nâng

cao đời sống của một bộ phận dân số, v.v. Bên cạnh đó, những hạn chế của công

tác lập chiến lược, quy hoạch trong thời kỳ mới-thời kỳ hội nhập đã phần nào

ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành công nghiệp Việt Nam trong thời

gian qua.

Với mục tiêu đưa ra các định hướng phát triển phù hợp với tình hình thực

tiễn của công nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới, Bộ Công thương đã

nghiên cứu, lập và trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển

của một số ngành công nghiệp chủ chốt đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm

2030 (đối với một vài ngành công nghiệp). Danh mục các ngành công nghiệp

chủ chốt đã được lập chiến lược phát triển đến năm 2025 như ở Phụ lục 1.

Trên cơ sở đó, quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp chủ

chốt cũng đã được Bộ Công thương trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Danh

mục quy hoạch các ngành công nghiệp chủ chốt đã được Chính phủ ban hành

(như Phụ lục 2).

95

Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp có những ảnh hưởng tích cực

tới việc nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt Nam:

- Đưa ra được những định hướng phát triển đối với các ngành công nghiệp

chủ chốt trên cơ sở khảo cứu hiện trạng phát triển, lợi thế so sánh từ các nguồn

lực nội sinh, phân tích thị trường và khả năng cạnh tranh, cách thức tổ chức sản

xuất, v.v. Từ đó, giúp các ngành công nghiệp tận dụng được những lợi thế sẵn

có về nguồn lực trong nước, về thị trường trong nước và xuất khẩu, nâng cao

hiệu quả sản xuất, hiệu quả của tăng trưởng, có ý thức bảo vệ môi trường của

sản xuất công nghiệp.

- Trên cơ sở chiến lược và quy hoạch, các điều kiện đảm bảo cho phát

triển công nghiệp một cách hiệu quả được thiết lập và từng bước hoàn thiện.

Nhu cầu vốn và các chính sách mở rộng nguồn vốn, yêu cầu về trình độ cơ sở hạ

tầng, trình độ và số lượng nguồn nhân lực, các chính sách thúc đẩy phát triển

nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, yêu cầu về mở rộng hợp tác quốc tế, v.v.

cho phát triển công nghiệp dần được chính phủ, các ngành và các doanh nghiệp

quan tâm. Điều này góp phần tạo các điều kiện tiền đề cần thiết cho việc nâng

cao hiệu quả sản xuất và chất lượng tăng trưởng của công nghiệp trong dài hạn.

- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp theo định hướng của

quy hoạch nhờ những chính sách khuyến khích của nhà nước đối với các ngành

công nghiệp được ưu tiên phát triển.

Tuy vậy, mặc dù Luật Quy hoạch (Luật số 21/2017) [105] đã được quốc

hội khoá 14 thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ 1/2019, theo đó, không còn danh

mục quy hoạch ngành quốc gia đối với một số ngành sản phẩm, ở một khía cạnh

khác, những bất cập của công tác quy hoạch nói chung và kế hoạch phát triển

các ngành đã làm giảm chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp trong thời

gian qua cũng như trong những năm trước mắt từ nay đến năm 2025, thậm chí

xa hơn:

96

(1) Quan niệm về quy hoạch chưa rõ lại chưa được thống nhất; việc phân

định giữa các loại quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát

triển ngành, quy hoạch xây dựng còn nhiều điểm lúng túng và chưa rõ.

Các Bộ quản lý ngành quan niệm về quy hoạch phát triển chưa có được sự

thống nhất và chưa xác định thật rõ mục đích, yêu cầu, nội dung của từng loại

quy hoạch.

(2) Chất lượng các dự án quy hoạch còn cần được cải thiện. Định hướng

dài hạn tuy đã được xác định nhưng các căn cứ của chúng đều thiếu và chưa

vững chắc, nhất là các vấn đề về dự báo (đặc biệt là dự báo tác động của các yếu

tố bên ngoài, dự báo thị trường). Tầm nhìn của nhiều dự án quy hoạch còn ngắn.

Nguyên nhân thì có nhiều nhưng phải kể đến công tác điều tra cơ bản chưa đủ,

thông tin phục vụ nghiên cứu quy hoạch thiếu. Điều này đôi khi dẫn đến những

khiếm khuyết trong các chủ trương phát triển, gây lãng phí các nguồn lực cho

phát triển các ngành công nghiệp mà ngành mía đường, xi măng là những ví dụ

điển hình cho những khiếm khuyết này.

(3) Nhiều ý kiến cho rằng tồn tại lớn nhất của công tác quy hoạch hiện

nay là sự yếu kém của công tác quản lý nhà nước về quy hoạch mà biểu hiện rõ

nhất là thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất trong phạm vi cả nước; thiếu

kiểm tra, giám sát quy hoạch, làm giảm hiệu quả của công tác quy hoạch.

3.3.2. Xu hướng công nghiệp thế giới

3.3.2.1. Hội nhập kinh tế thế giới của kinh tế Việt Nam

Bằng việc tích cực thực hiện những cam kết hợp tác kinh tế quốc tế song

phương và đa phương, Việt Nam đã và đang gia tăng quá trình hội nhập quốc tế

cùng lúc trên nhiều cấp độ. Thực hiện các cam kết hội nhập đồng thời cũng là

quá trình thực hiện các nỗ lực cải cách nền kinh tế tương thích với lộ trình hội

nhập đã được xác định. Thực tế là trong giai đoạn đổi mới chính sách kinh tế,

Việt Nam đã và đang chủ động thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư, tạo ra

môi trường kinh doanh hấp dẫn và thuận lợi, mở rộng cơ hội kinh doanh cho tất

97

cả các thành phần kinh tế. Các chính sách theo hướng tự do hóa và đẩy mạnh

xuất khẩu cùng việc phát huy các hiệu ứng tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế

đã tạo nên những thành tựu đáng ghi nhận trong việc phát triển các ngành công

nghiệp của Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên, vẫn còn những trở ngại

và các yếu tố từ hội nhập làm chậm tiến trình nâng cao chất lượng tăng trưởng

của công nghiệp Việt Nam.

Thứ nhất, những tác động tích cực:

- Hội nhập kinh tế quốc tế đã cho phép huy động và khơi thông các nguồn

lực cho sự phát triển của các ngành công nghiệp, đặc biệt là các nguồn vốn từ

bên ngoài. Thực tế đã cho thấy, các nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài thông

qua hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp đã nâng cao năng lực sản xuất của

một số ngành công nghiệp của Việt Nam như giày da, dệt may, công nghiệp chế

biến thực phẩm, công nghiệp hóa chất, công nghiệp sản xuất ô tô, xe máy, v.v.

- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp khai thác và phân bổ các nguồn lực tốt

hơn cho sản xuất công nghiệp. Tăng cường hội nhập quốc tế đã mở rộng thị

trường và đẩy mạnh các quan hệ thị trường trong nước, đã tạo ra những cơ hội

cho các nhà sản xuất trong và ngoài nước trên lãnh thổ Việt Nam khai thác tốt

hơn các nguồn lực, lợi thế sẵn có của mình. Việc tham gia của các nhà đầu tư

nước ngoài đã làm cho không gian thị trường đối với các sản phẩm xuất xứ Việt

Nam được mở rộng, với lợi thế giá thành sản xuất thường rẻ hơn so với hàng

hóa có phẩm cấp tương đương, các nhà đầu tư nước ngoài thông qua đó, gián

tiếp thúc đẩy quá trình tham gia của các ngành công nghiệp Việt Nam vào phân

công lao động quốc tế. Thông qua đó, các nguồn lực cả bên trong và bên ngoài

được sử dụng hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng của tăng trưởng công

nghiệp Việt Nam.

- Cơ cấu lại các ngành công nghiệp và tạo dựng khả năng cạnh tranh cho

các sản phẩm. Mở cửa và hội nhập đã làm thay đổi tư duy phát triển của các

ngành. Các ngành công nghiệp được phát triển gắn với thị trường hơn và gắn với

98

lợi thế so sánh hơn, do đó tạo ra hiệu quả và sức cạnh tranh tốt hơn, làm cho một

số ngành có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Như đã phân tích ở trên, các ngành công

nghiệp chế biến có cơ hội phát triển nhanh, chiếm phần lớn trong tỷ trọng giá trị

gia tăng của ngành công nghiệp với một số ngành công nghiệp nổi trội như chế

biến thực phẩm, sản xuất giày da, dệt may nhờ vào thị trường nước ngoài.

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm tăng khả năng cạnh tranh của một số

ngành kinh tế, biến các ngành này thành các ngành mũi nhọn cho phát triển kinh

tế. Khả năng cạnh tranh của các ngành này bắt nguồn từ các lợi thế so sánh hình

thành trong trao đổi hàng hóa và dịch vụ quốc tế. Khi nhận thấy có lợi thế so

sánh, các nguồn lực trong và ngoài nước bao gồm vốn, công nghệ, lao động

được tập trung để phát triển các ngành này. Kết quả là năng suất của các ngành

này tăng lên, chất lượng sản phẩm được nâng cao, khả năng cạnh tranh của sản

phẩm và của bản thân ngành đó được cải thiện. Dệt may, giày da, chế biến thủy

sản, chế biến nông sản là những ví dụ điển hình cho luận điểm này. Tuy nhiên,

áp lực cạnh tranh ngày càng lớn, đòi hỏi các ngành này phải không ngừng nâng

cao khả năng cạnh tranh.

Bối cảnh kinh tế quốc tế mới với xu thế phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri

thức đã và đang tạo ra nhiều cơ hội quý báu cho sự phát triển của các ngành

công nghiệp mới như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, viễn thông, v.v.

Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một kênh quan trọng để biến các cơ hội đó

thành hiện thực, tạo ra khả năng tiếp nhận, thích nghi để tiến tới phát triển các

ngành công nghệ mới ở nước ta. Kết hợp với nguồn nhân lực dồi dào, cần cù, và

sáng tạo, hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp Việt Nam có điều kiện và cơ sở để có

những bước rút ngắn và nhảy vọt, tiếp cận với kinh tế tri thức mà không phải trải

qua những giai đoạn tìm tòi, mò mẫm bước đầu.

Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho thế giới trở nên “phẳng” hơn, hoạt động

sản xuất được quốc tế hóa và khu vực hóa, qua đó đẩy mạnh chuyên môn hóa.

99

Nhờ vào hội nhập, công nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi

giá trị toàn cầu, tạo ra giá trị gia tăng cao hơn.

Thứ hai, những tác động tiêu cực:

- Đe dọa trực tiếp đến sự sống còn của một số ngành công nghiệp trong

nước dưới áp lực của cạnh tranh. Mở cửa và hội nhập làm giảm và xóa bỏ các

rào cản về thương mại, đầu tư, tăng cường chuyển giao công nghệ và do đó một

số hàng hóa từ bên ngoài sẽ đổ vào thị trường Việt Nam, gia tăng áp lực cạnh

tranh ngay trên thị trường trong nước đối với các sản phẩm công nghiệp. Về mặt

vĩ mô, điều này sẽ ảnh hưởng đến định hướng phát triển của công nghiệp trong

nước, nếu không có những phản ứng chính sách hợp lý.

- Gia tăng các hiểm họa về mặt môi trường do sự phát triển không cân đối,

tự phát, không kết hợp với bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp sản xuất công

nghiệp do muốn giảm chi phí sản xuất nên chỉ tập trung đầu tư phát triển sản

xuất, thu mua nguyên liệu rẻ, sử dụng năng lượng rẻ gây ô nhiễm, cắt bớt quy

trình sản xuất nên quan tâm kém hơn đến hoạt động xử lý rác thải, khí thải. Kết

quả là tình trạng ô nhiễm không khí, nguồn nước, rác thải ở các khu công nghiệp

và đô thị đến tình trạng báo động.

3.3.2.2. Xu thế phát triển công nghiệp của thế giới theo hướng bền vững

Nghiên cứu xu thế phát triển công nghiệp theo hướng bền vững trên thế

giới nhằm xác định được xu thế của thời đại để đảm bảo sự phát triển của ngành

công nghiệp của Việt Nam phải tương thích, phải phù hợp, cùng dòng chảy đi

lên của nhân loại. Ngoài ra, sự phát triển công nghiệp của Việt Nam phải gắn

chặt với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Theo văn kiện

của Đại hội Đảng lần thứ XII (2016)[12], mục tiêu phát triển của đất nước cho

giai đoạn 2016-2020 sẽ là “Tiếp tục xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ

bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Sau đây là một số đặc

điểm trong xu hướng phát triển công nghiệp và quá trình công nghiệp hóa trên

thế giới và của nước ta:

100

Thứ nhất, theo [85] hiện có 6 thách thức đối với quá trình công nghiệp

hóa nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng của các nước đang phát triển:

(1) làm thế nào để thực hiện công nghiệp hóa trong nền kinh tế thế giới toàn cầu

hóa với sự bất bình đẳng lớn giữa các quốc gia, bị chi phối bởi các công ty đa

quốc gia lớn và được định hình bởi các chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs) phân tán;

(2) sự co hẹp về không gian chính sách (chủ yếu do các cam kết toàn cầu hóa)

ảnh hưởng đến các nước công nghiệp hóa muộn trong trật tự kinh tế quốc tế hiện

nay; (3) sự nổi lên của các nền kinh tế châu Á đầu tàu (như Trung Quốc và Ấn

Độ) và những tác động của nó đối với triển vọng công nghiệp hóa của các nước

đi sau cũng như khả năng cạnh tranh công nghiệp của các nền kinh tế tiên tiến;

(4) làm thế nào để đối phó với tình trạng thất nghiệp gia tăng trong ngành công

nghiệp chế biến; (5) tạo ra hệ thống các trung gian tài chính đủ năng lực để đảm

bảo các nguồn vốn dài hạn cần thiết cho đầu tư công nghiệp trong thời gian sắp

tới; và (6) là các chính sách công nghiệp phải làm thế nào có thể phản ứng với

các mối đe dọa từ sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu.

Thứ hai, trong khi tìm kiếm một ngưỡng để xác định nhóm các nước đã

công nghiệp hóa, Thống kê của [91] đã dựa vào kết luận được rút ra từ các

nghiên cứu nội bộ, trong đó cho thấy rằng giá trị gia tăng ngành công nghiệp chế

biến bình quân đầu người (MVApc) là một tiêu chí thích hợp. MVApc cho biết

trình độ sản xuất công nghiệp của một quốc gia so với quy mô dân số của nó.

Nghiên cứu của UNIDO coi đây là chỉ tiêu quan trọng về mức độ công nghiệp

hóa của một quốc gia. Khái niệm này đã được sử dụng liên tục qua nhiều năm

trong ấn phẩm hàng đầu của UNIDO Báo cáo Phát triển công nghiệp [96]. Mặc

dù cách tiếp cận tiêu chuẩn đơn lẻ tự nó không thể được sử dụng cho phân nhóm

quốc gia của UNIDO, nhưng MVApc là cơ sở của ngưỡng tuyệt đối cho nhóm

các nền kinh tế công nghiệp hóa. Đồng thời, bất kỳ nền kinh tế có GDP bình

quân đầu người trên 20.000 USD quốc tế được xem là nằm trong nhóm các nền

kinh tế đã công nghiệp, không kể MVApc của quốc gia đó là bao nhiêu. MVApc

101

(đã điều chỉnh) ≥ 2.500 USD hoặc GDP đầu người (PPP) ≥ 20.000 USD (giá cố

định năm 2011). Theo cách thức phân nhóm này, Việt Nam có MVApc chỉ vào

khoảng trên 1.000 USD PPP và thuộc vào nhóm các nước công nghiệp mới nổi.

Thứ ba, mức độ cạnh tranh về phát triển công nghiệp trên toàn cầu ngày

càng khốc liệt trong một thế giới “phẳng mà không phẳng” với những rào cản rất

tinh vi cần phải vượt qua đối với các nước đang phát triển: toàn cầu hóa song

hành với hội nhập hóa, song phương xen lẫn với đa phương, bảo hộ đi cùng với

chống độc quyền, nhà nước và tư nhân. Những nước phát triển đi trước đã từng

là các nước thực hiện sự bảo hộ đối với ngành công nghiệp, tuy nhiên giờ đây,

trong các điều khoản của các hiệp định thương mại tự do giữa các nước, việc

bảo hộ thường bị kiện dưới hình thức “chống phá giá” hoặc sự sẵn sàng trả đũa

bằng nhiều hình thức khác nhau giữa các nước khi vi phạm điều khoản.

Thứ tư, xu hướng phi công nghiệp hóa quá sớm ở các nước đang phát

triển và đã công nghiệp hóa đã gây ra nhiều tác động đến nền kinh tế của các

nước, chủ yếu là tiêu cực. Các nhà kinh tế cho rằng, các nước đang phát triển

nếu có mức thu nhập bình quân đầu người dưới 10.000 USD sẽ gặp bất lợi lớn

nếu phi công nghiệp hóa. Trong khi đó [93] đưa ra các bằng chứng cho thấy

ngay cả các nước phát triển như Hoa Kỳ hay CHLB Đức đều gặp phải rất nhiều

khó khăn khi phi công nghiệp hóa bởi ngành công nghiệp chế biến có mối quan

hệ chặt chẽ với sự phát triển của ngành nông nghiệp và ngành dịch vụ. Quá trình

phi công nghiệp hóa sớm có những ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế, xã hội và

chính trị của mỗi quốc gia. Về kinh tế, quá trình phi công nghiệp hóa sớm cản

trở sự tăng trưởng và trì hoãn những nước đang phát triển theo kịp những nền

kinh tế tiên tiến. Những ngành công nghiệp chế tạo được gọi là “ngành công

nghiệp thang cuốn”: năng suất lao động của nhân công trong ngành chế tạo có

xu hướng gia tăng, ngay cả trong các nền kinh tế nơi chính sách, các thể chế, và

địa lý cùng nhau góp phần làm chậm sự tiến bộ của các ngành khác trong nền

kinh tế. Theo [91] tốc độ tăng trưởng xuất khẩu toàn cầu trung bình đạt 7,7%

102

trong giai đoạn 2005-2013. Trong năm 2013, thương mại toàn cầu đạt mốc mới

với giá trị hơn 18 nghìn tỷ USD, với 84% từ các sản phẩm chế biến, chế tạo. Do

vậy, các nước phương Tây đang thực hiện một cuộc công nghiệp hóa mới, phù

hợp hơn với trình độ phát triển và bối cảnh phát triển hiện nay. Tuy nhiên, các

nước đang phát triển không thể đi theo mô hình cũ mà cần phải có sự chủ động

để tiếp nhận công nghệ “sạch hơn” và việc lựa chọn đối tác (từ các nước phát

triển) trở nên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Thứ năm, cách mạng công nghiệp lần thứ 4 bắt đầu hình thành và so sánh

với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng công nghiệp lần

này sẽ phát triển với tốc độ ở cấp số nhân chứ không phải cấp số cộng như các

cuộc cách mạng trước đó về phạm vi và chiều sâu mang tính hệ thống. Đây là

cuộc cách mạng được xuất hiện cùng hàng loạt công nghệ giúp xóa nhòa ranh

giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, làm thay đổi căn bản giữa đời

sống thế giới thực, ảo và sinh vật của xã hội loài người với 03 đặc trưng nổi trội

như sau: (i) Những tiến bộ căn bản trong thế giới thực với sự phát triển của các

thiết bị tự động hóa, công nghệ in 3D, rô-bốt hiện đại và các dạng vật liệu mới;

(ii) Những bước tiến vượt bậc về thế giới số (digital world) hay thế giới ảo làm

tăng khả năng tương tác với thế giới thực nhờ phát triển của Internet of Things –

IoT (Mọi vật Kết nối) và sự ra đời của các cảm biến hiện đại; (iii) Những đột

phá về thế giới sinh vật với việc xây dựng biểu đồ gen tiết kiệm rất nhiều nguồn

lực tài chính và thời gian so với trước.

3.3.3. Công nghiệp phụ trợ

Phát triển công nghiệp phụ trợ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình

CNH-HĐH của mỗi quốc gia. Đặc biệt là ở những quốc gia đang phát triển như

Việt nam, yêu cầu đặt ra là phải hình thành và phát triển một số ngành công

nghiệp hiện đại, nhất là những ngành công nghiệp như sản xuất ôtô, xe máy, các

sản phẩm điện, điện tử, điện lạnh v.v. Để đạt được mục tiêu trên, cần phát triển

mạnh ngành công nghiệp hỗ trợ để các sản phẩm công nghiệp phụ trợ dần tiến

103

tới thay thế hoàn toàn các sản phẩm nhập khẩu nhằm giảm chi phí sản xuất công

nghiệp và cải thiện tỷ lệ giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp trong nước.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, sau hơn 15 năm thúc đẩy phát triển các ngành

công nghiệp phụ trợ với nhiều chính sách được ban hành, đặc biệt là nghị định

về phát triển công nghiệp phụ trợ (2015), doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực

công nghiệp hỗ trợ được chọn tham gia vào chuỗi cung ứng sản xuất của các

doanh nghiệp lớn, có quy mô toàn cầu không nhiều, ngay cả đối với chuỗi cung

ứng sản xuất của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Bởi hầu hết các doanh

nghiệp tại Việt Nam là nhỏ và vừa nên bộc lộ nhiều điểm yếu như: Công nghệ

thiết bị lạc hậu, thiếu nguồn lực tài chính, quy mô sản xuất nhỏ, chất lượng sản

phẩm không đồng đều; việc liên kết giữa nhà sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh với

nhà cung ứng công nghiệp hỗ trợ chưa cao, v.v. Chính vì vậy, cho đến nay,

ngành công nghiệp phụ trợ chỉ mới đáp ứng được khoảng 30% sản phẩm cho

ngành công nghiệp, trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp FDI là rất lớn2.

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, đến nay, trong lĩnh vực linh kiện phụ

tùng phục vụ các ngành công nghiệp chế tạo, sản xuất linh kiện phụ tùng kim

loại đã đáp ứng được từ 85-90% nhu cầu cho sản xuất xe máy; khoảng 15-25%

nhu cầu linh kiện cho sản xuất ô tô, khoảng 20% cho sản xuất thiết bị đồng bộ

và khoảng từ 40-60% cho sản xuất máy động lực; cung ứng linh kiện kim loại

cho các ngành công nghiệp phụ trợ công nghệ cao hiện đáp ứng khoảng 10%

nhu cầu. Trong lĩnh vực linh kiện, thiết bị phục vụ cho sản xuất thiết bị đồng bộ

(bao gồm sản xuất máy móc thiết bị tàu thủy, điện, than, xi măng…) chiếm

khoảng 20% trong tổng giá trị thiết bị.

Đối với lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, hiện đang đáp ứng 30-35%

nhu cầu linh kiện điện tử gia dụng. Việc cung ứng của lĩnh vực này cho các lĩnh

vực hạ nguồn khác khá thấp: Điện tử tin học, viễn thông chỉ đạt 15%, điện tử

2 Kỷ yếu hội thảo: “Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ Việt Nam”, 2016

chuyên dụng và các ngành công nghiệp công nghệ cao chỉ đạt 5%.

104

Trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ ngành Dệt may – Da giày, tỷ lệ giá trị

gia tăng trong sản phẩm dệt may đạt 51,1% vào năm 2015 (năm 2014 đạt 50,4%,

năm 2013 đạt 50%). Tương tự, khả năng tự cung ứng nguyên phụ liệu cho ngành

ngành da giày chỉ đạt khoảng 20-25%. Riêng đế giày, nguyên phụ liệu được các

doanh nghiệp Việt Nam chủ động tốt nhất, cũng chỉ đáp ứng được 40% -50%

nhu cầu sản xuất của ngành nói chung.

Trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ ngành ô tô, tỷ lệ nội địa hoá đối với

xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%, trong đó

Thaco đạt 15-18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Inova, thấp

hơn rất nhiều so với mục tiêu đề ra. Ngành công nghiệp phụ trợ công nghiệp ô tô

đã hình thành, nhưng còn yếu kém, chỉ sản xuất được một số ít chủng loại phụ

tùng đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp như gương, kính, ghế ngồi, bộ dây

điện, ắc quy, săm-lốp, sản phẩm nhựa... Chỉ một số ít doanh nghiệp đầu tư dây

chuyền dập thân, vỏ xe.

Theo Bộ Công thương, vốn và nguồn nhân lực là hai yếu tố hàng đầu còn

yếu và thiếu của các doanh nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực này. Máy móc thiết bị

lạc hậu dẫn đến năng suất và chất lượng sản phẩm thấp, không ổn định, giá

thành sản phẩm cao. Các doanh nghiệp trong nước với xuất phát điểm thấp,

thiếu vốn, thiếu nguồn lực, ý thức của đội ngũ công nhân và kĩ sư chưa cao.

Điển hình cho sự hạn chế về năng lực của doanh nghiệp trong việc phát triển

công nghiệp hỗ trợ phải kể đến lĩnh vực dệt may - da giày. Tương tự đối với

ngành dệt may, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để giải quyết tình trạng “nút cổ chai”

trong khâu dệt nhuộm nhưng các doanh nghiệp trong ngành vẫn đang nhập khẩu

từ 70% đến 100% các nguyên vật liệu, phụ liệu chủ yếu.

Bên cạnh những khó khăn xuất phát từ nội tại doanh nghiệp, việc phát

triển công nghiệp phụ trợ vẫn còn gặp phải rào cản từ chính sách. Mặc dù quy

hoạch phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ được phê duyệt và Nghị định

111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp phụ trợ cũng như những chính sách

105

hướng dẫn được ban hành, việc thiếu đồng bộ trong chính sách hỗ trợ ở nhiều

khía cạnh, đặc biệt là nguồn vốn, khiến những trở ngại trong phát triển công

nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn chưa được tháo gỡ triệt để.

Thực tế đã cho thấy việc các ngành công nghiệp phụ trợ chậm phát triển

ngày càng làm tăng chi phí trung gian trong sản xuất của ngành này, giảm khả

năng tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giảm khả năng cạnh tranh,

đồng thời khiến sản xuất công nghiệp phụ thuộc quá lớn vào biến động của giá

nguyên liệu đầu vào ở thị trường nước ngoài. Việc thúc đẩy phát triển các ngành

công nghiệp hỗ trợ trong nước đến lượt nó cũng sẽ góp phần thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp theo hướng hợp lý hơn trong thời gian tới.

Trên cơ sở lợi thế so sánh của Việt Nam trong việc phát triển công nghiệp,

đồng thời xuất phát từ hiện trạng và định hướng phát triển công nghiệp Việt

Nam trong thời gian tới, các ngành công nghiệp phụ trợ cần được tập trung phát

triển trong thời gian tới có tầm quan trọng nhất có thể là: dệt cho công nghiệp

dệt may; da, thuộc da cho công nghiệp giày da, thiết bị vật tư điện tử cho công

nghiệp điện tử - tin học, sản xuất phụ tùng và các chi tiết máy, thân, vỏ xe cho

công nghiệp sản xuất và lắp ráp ôtô, cơ khí chế tạo.

3.3.4. Hiệu quả sử dụng nguồn lực

Trong giai đoạn 2001-2015, như đã đề cập ở phần trước, nguồn vốn đầu

tư cho lĩnh vực công nghiệp luôn duy trì ở mức cao trong tổng vốn đầu tư của

nền kinh tế, với 36,9% tổng vốn đầu tư năm 2000, lên ở mức rất cao 48,9% vào

năm 2015. Mặc dù vậy, hiệu quả của việc huy động và sử dụng các nguồn lực,

đặc biệt là những nguồn lực tài chính, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng,

nguồn nhân lực và các yếu tố xã hội vào phát triển trong thời gian qua được

đánh giá là chưa cao. Việt Nam không dồi dào về những nguồn lực từ tài

nguyên, tài chính, cơ sở hạ tầng, con người; trong đó, một số nguồn lực về hạ

tầng cứng kinh tế-xã hội của nước ta còn ở mức độ thấp so với các nước phát

triển. Ví dụ như: về hạ tầng giao thông, trong số 364.000 km đường bộ, chúng ta

106

hiện mới có hơn 745 km đường cao tốc; để đẩy nhanh tốc độ phát triển đến năm

2020, chúng ta cần phải có khoảng 2000 km cao tốc; chất lượng nguồn nhân lực

của ta còn thấp; số lượng nhà khoa học của ta đã tăng lên, nhưng chưa có những

đóng góp đột phá; khoa học công nghệ chưa trở thành động lực cho phát triển...

[16]. Do vậy, việc huy động vốn đầu tư ngày càng lớn vào lĩnh vực công nghiệp

khi các yếu tố kinh tế và phi kinh tế khác chưa thực sự được huy động và phát

triển một cách đồng bộ, sẽ có thể làm giảm hiệu quả sử dụng của các nguồn lực

tài chính trong công nghiệp, giảm chất chất lượng tăng trưởng của khối ngành

này.

Mô hình tăng trưởng của chúng ta trong thời gian vừa qua chủ yếu dựa

vào 3 yếu tố: Tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ và đầu tư tài chính, đóng

góp của yếu tố TFP vào tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng như của ngành

công nghiệp còn ở mức khiêm tốn, dưới mức 35% [20]. Đó không phải là mô

hình tăng trưởng bền vững có chất lượng vì những lợi thế từ các yếu tố nguồn

lực này sẽ ngày càng suy yếu và tới hạn. Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Việt

Nam đã và đang thực hiện quyết liệt trong mấy năm gần đây là nhằm tạo ra một

mô hình phát triển kinh tế hiệu quả và bền vững hơn. Đó là mô hình cần nhiều

hơn sự đóng góp của nguồn nhân lực chất lượng cao với việc áp dụng khoa học

công nghệ cao trong kỷ nguyên công nghiệp thứ tư mà thế giới đang theo đuổi

mà nòng cốt là sự đóng góp của công nghệ thông tin, hạn chế xuất khẩu tài

nguyên ở dạng thô và việc mở rộng quy mô các yếu tố nguồn lực khác.

Các yếu tố phi kinh tế, được coi là những nguồn lực mềm, những tài sản

vô hình chưa được đánh giá đúng mức trong quá trình phát triển kinh tế đất nước

và thúc đẩy phát triển công nghiệp. Yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc,

quy mô dân số gần 100 triệu người, thị trường chung AEC rộng lớn với quy mô

dân số hơn 600 triệu dân, v.v. là một thị trường rộng lớn, là yếu tố quan trọng

trong khuyến khích và đẩy mạnh hơn nữa việc thu hút các doanh nghiệp trong và

107

ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt là hàng tiêu dùng phục vụ thị

trường rộng lớn này.

Mặc dù có những cải thiện đáng kể từ khi đề án tái cơ cấu nền kinh tế, đặc

biệt là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nước được thúc đẩy trong hơn 25 năm qua vẫn chưa thực sự hiệu quả. Từ

thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, Việt Nam có hơn 12.000 doanh nghiệp nhà

nước. Vấn đề nghiêm trọng của các doanh nghiệp nhà nước, theo đánh giá của

nhiều nhà nghiên cứu là thiếu động lực để hoạt động hiệu quả, nợ xấu chồng

chất làm tăng thêm gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước vốn không phải

là lớn của nước ta. Đến cuối thập niên 1980, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà

nước đã trở thành một việc làm tất yếu. Sau hơn 25 năm chặng đường cổ phần

hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) kể từ năm 1992, thành công quan trọng

của tiến trình này là đã chuyển được một phần quyền sở hữu của một số lượng

lớn các DNNN sang hình thức sở hữu vốn có hiệu quả hơn, nhưng vẫn mới chỉ

chiếm 8% lượng vốn của các DNNN, 92% lượng vốn còn lại vẫn nằm trong tay

các tổng công ty lớn. Tiến độ cổ phần hóa DNNN chậm và không minh bạch

được coi là hai hạn chế cơ bản của tiến trình này trong 15 năm qua và tiếp tục là

nguyên nhân làm giảm hiệu quả hoạt động của một bộ phận lớn các doanh

nghiệp trong loại hình này, góp phần làm xấu đi bức tranh chất lượng tăng

trưởng công nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua bằng các hạn chế chủ yếu

sau đây:

- Đối tượng cổ phần hoá còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi

mới, đẩy mạnh công tác cổ phần hoá theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9

khoá IX. Vẫn còn hiện tượng các tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước mà

theo tiêu chí phân loại không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn

chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, công ty TNHH

nhà nước một thành viên để tránh cổ phần hoá.

108

- Việc xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp CPH

chưa có hướng dẫn cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai

[105], đặc biệt là mức giá áp dụng, trình tự thủ tục... Thực tế cho thấy hầu như

các đơn vị cổ phần hoá đều lựa chọn hình thức thuế đất, không lựa chọn hình

thức giao đất vì: giá đất thuê do các địa phương ban hành còn chưa sát với giá

thị trường hoặc chưa được điều chỉnh kịp thời với sự biến động trên thị trường;

nếu thực hiện giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh

nghiệp, tăng quy mô vốn nhà nước tại đơn vị cổ phần hoá quá lớn làm ảnh

hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau cổ phần hoá và

không hấp dẫn đối với nhà đầu tư.

- Về đối tượng và quyền mua cổ phần: Chính sách về cổ đông chiến lược

còn có sự cách biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, chưa tạo điều

kiện để thu hút và gắn kết giữa hoạt động đầu tư của nhà đầu tư chiến lược với

sự phát triển của doanh nghiệp CPH. Có đơn vị xác định nhà đầu tư chiến lược

lại là các doanh nghiệp thành viên trong nội bộ của tổng công ty làm hạn chế

khả năng tham gia, tiếp cận của các nhà đầu tư bên ngoài.

- Cơ chế bán cổ phần còn chưa phù hợp với các doanh nghiệp cổ phần có

quy mô lớn như các nhà máy xi măng, các nhà máy điện... Chưa có quy định cho

phép các nhà đầu tư chiến lược được quyền mua lô lớn đối với số cổ phần bán ra

tại một công ty cổ phần để được tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp sau

khi cổ phần hoá.

- Về bán đấu giá cổ phần, hiện tượng các nhà đầu tư liên kết với nhau

trong việc bỏ giá khi tham gia đấu giá mua cổ phần, "thông thầu" đặt giá cao rồi

bỏ để các nhà đầu tư kế tiếp đương nhiên được mua với giá thấp hơn nhiều giá

trị thực gây thất thu cho Nhà nước.

- Theo quy định hiện nay, toàn bộ tiền thu về cổ phần hoá sau khi trừ các

khoản chi phí cổ phần hoá; chi cho người lao động thôi việc, mất việc, đào tạo

lại theo phương án cổ phần hoá được duyệt được chuyển về tổng công ty (cổ

109

phần hoá đơn vị thành viên tổng công ty), công ty mẹ (cổ phần hoá bộ phận

doanh nghiệp) hoặc về Quỹ sắp xếp cổ phần hoá Bộ Tài chính (cổ phần hoá các

đơn vị độc lập thuộc bộ, ngành, địa phương). Quy định này có hạn chế là trong

trường hợp doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá dưới hình thức phát hành thêm

cổ phiếu để thu hút vốn, toàn bộ khoản chênh lệch do bán đấu giá cổ phần đều

phải nộp cho Nhà nước hoặc cho tổng công ty, công ty mẹ mà không được để lại

cho doanh nghiệp thực hiện đầu tư, mở rộng sản xuất nên thực tế nhiều doanh

nghiệp CPH chỉ chú trọng hình thức bán bớt vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

- Chưa có cơ chế giám sát và tạo sự gắn kết giữa trách nhiệm và quyền lợi

của các tổ chức trung gian với kết quả bán đấu giá cổ phần. Một số tổ chức trung

gian định giá doanh nghiệp CPH chưa sát và phù hợp thực tế dẫn tới các Ban chỉ

đạo cổ phần hoá của doanh nghiệp phải yêu cầu giải trình, chỉnh sửa nhiều lần

làm kéo dài thời gian cổ phần hoá.

Thực hiện Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 và Quyết định

số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tái

cơ cấu DNNN, trọng tâm là Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước giai đoạn

2011 - 2015”, các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý DNNN, liên quan đến

CPH và tái cơ cấu DNNN đã được chính phủ ban hành. Một số khó khăn vướng

mắc trong quá trình thúc đẩy lộ trình tái cơ cấu DNNN đã dần được tháo gỡ. Cụ

thể là Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại

doanh nghiệp nhà nước và các nghị định hướng dẫn đã được ban hành. Đến nay,

các cơ chế chính sách để phục vụ việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng

như thoái vốn về cơ bản đã đầy đủ. Đến cuối năm 2015 cả nước cổ phần hoá đạt

93% kế hoạch. Trong giai đoạn 2011-2015, đã sắp xếp được 558 doanh nghiệp,

trong đó cổ phần hoá được 478 doanh nghiệp và sắp xếp theo các hình thức khác

80 doanh nghiệp. Như vậy, việc sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

giai đoạn 2011 - 2015 cơ bản hoàn thành kế hoạch đề ra. Theo bộ Tài chính, về

giá trị thoái vốn nhà nước tại DNNN, trong giai đoạn 2011 – 2015, Việt Nam đã

110

bán 26.547 tỷ đồng, tương đương 2,1% tổng vốn nhà nước tại các DNNN, thu về

31.213 tỷ đồng, chênh lệch tăng 4.665 tỷ đồng.

Tóm lại, sau hơn 25 năm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,

tốc độ cổ phần hóa chậm đã làm giảm hiệu quả của bộ phận lớn các doanh

nghiệp nhà nước ở nước ta, kéo dài tình trạng bất công bằng trong hoạt động của

các doanh nghiệp giữa các thành phần kinh tế, tiếp đến không có tác dụng

khuyến khích các doanh nghiệp ở các khu vực kinh tế khác phát triển, làm giảm

hiệu quả chung của sản xuất công nghiệp cũng như của toàn nền kinh tế. Việc

đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các DNNN kém hiệu quả được coi là sẽ góp phần

cải thiện chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong thời

gian tới.

3. 3.5. Chất lượng nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực của Việt Nam được đánh giá là dồi dào về số lượng với

tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động năm 2005 ở mức 62,1% và dự báo chỉ số này

sẽ tăng dần và tương đố i ổ n đi ̣nh ở 65% năm 2020. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam được đánh giá là chưa cao, là một trong những nguyên

nhân khiến năng suất lao động thấp, giảm hiệu quả của quá trình tăng trưởng ở

Việt Nam, đặc biệt trong các ngành sản xuất công nghiệp. Điều này thể hiện ở

chỗ:

- Trình độ học vấn của dân số trong độ tuổi lao động có tăng lên, nhưng

có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn và giữa các vùng. Tỷ lệ biết

chữ chung của cả nước là 96,2% năm 2005, năm 2020 dự báo đa ̣t 98,25% .

- Trình độ chuyên môn nghề nghiệp của lực lượng lao động còn thấp.

Theo điều tra lao động việc làm năm 2015 chỉ tiêu này vẫn ở mứ c cao, thâ ̣m chí cò n cao hơn là 79%, trong đó thành thi ̣ là 63%, nông thôn là 86%.

- Chất lượng của lực lượng lao động theo tính chất phức tạp của nghề

nghiệp (căn cứ vào hàm lượng xử lý thông tin trong quá trình làm việc) nhìn

chung còn thấp. Năm 2015 tỷ lê ̣ lao đô ̣ng có trình đô ̣ chuyên môn kỹ thuâ ̣t loại

111

này đã tăng lên đáng kế, tương ứ ng là 8,6% và 6,5%. Theo một cách phân loại

khác về trình độ lành nghề của lao động đang làm việc, thì tỷ trọng lao động

giản đơn của nước ta vẫn còn cao, ở mức trên 60% số lao động đang làm việc

cho nền kinh tế, trong khi đó, lao động làm các nghề thuộc chuyên môn kỹ thuật

cao chỉ có 3,2%, chuyên môn kỹ thuật bậc trung có gần 3% và các nghề thuộc

loại kỹ thuật trung bình khác (nhân viên, thợ thủ công, lao động có kỹ thuật và

thợ lắp ráp, vận hành máy) có gần 25% [11].

- Về thể chất, lao động nước ta được đánh giá là có chiều cao và trọng

lượng thấp so với những người cùng nhóm tuổi ở các nước [11], sức bền và sức

dẻo dai thấp.

- Tỷ lệ lao động được đào tạo trung học, cao đẳng, đại học tăng lên. Song,

tính theo chỉ số tổng hợp về chất lượng nguồn nhân lực thì Việt Nam chỉ đạt

3,2/10 điểm, thuộc vào nhóm kém nhất, xếp thứ 11 trong số 12 nước châu á

được so sánh, chỉ đứng trên Indonesia và kém xa so với Philippine, Thái Lan,

Malaysia và Singapore.

3.3.6. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp

Một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu quả của tăng

trưởng sản xuất công nghiệp trong thời gian qua xuất phát từ trình độ công nghệ

của doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập. Trong

những năm qua, số lượng lớn các doanh nghiệp đã có những đổi mới, nhiều máy

móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển giao từ các nước công nghiệp phát

triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều

và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Hiện vẫn còn tồn tại đan xen

trong nhiều doanh nghiệp các loại thiết bị công nghệ từ lạc hậu, trung bình đến

tiên tiến, do vậy đã làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ

tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu vào, đầu ra.

Theo đánh giá của Bộ KH&CN thì đổi mới công nghệ thuộc loại năng lực

yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam. Phần lớn các doanh nghiệp nước ta

112

đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ.

80% - 90% công nghệ nước ta đang sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76%

máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1950 - 1960, 75% số thiết bị

đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh

đang sử dụng máy móc, thiết bị do các doanh nghiệp nước ngoài đã thải bỏ. Tính

chung cho các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, trung bình

38% lạc hậu và rất lạc hậu 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức

lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 75%. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam đầu

tư đổi mới công nghệ ớ mức thấp, chi phí chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, so với mức 5% ở Ấ n Độ hay 10% ở Hàn Quốc.

Đối với hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là tại các

nước phát triển, chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng

khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật

mới nâng cao chất lượng và năng suất lao động hay tạo ra các sản phẩm mới,

độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm tăng

hiệu quả kinh doanh và tạo một vị trí vững chắc trên thị trường. Qua điều tra, có

69,1% doanh nghiệp đầu tư chi phí cho R & D. Khu vực có vốn đầu tư nước

ngoài có tỷ lệ cao nhất chiếm 84,6%, cuối cùng là khu vực doanh nghiệp ngoài

Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ dành 0,2% đến 0,3% doanh thu cho

nghiên cứu phát triển sản phẩm mới.

Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp và

không ổn định, năng suất lao động kém, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, v.v.

làm cho doanh nghiệp khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh, về lý

thuyết, sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá. Việc thúc đẩy đổi mới công

nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp trong thời gian tới sẽ là một giải pháp

quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của công nghiệp Việt Nam.

113

3.4. Đá nh giá chung về chấ t lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam

3.4.1. Những kết quả đạt được

Khảo cứu các tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành công

nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2001-2015 có thể đưa ra một số nhận xét như

sau:

Thứ nhất, tăng trưởng công nghiệp trong giai đoạn nghiên cứu đã góp

phần quan trọng vào nâng cao nhịp tăng trưởng chung, giải quyết việc làm cho

lực lượng lao động dồi dào của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đóng

góp của tăng trưởng công nghiệp cho nền kinh tế bắt đầu có xu hướng giảm dần

trong những năm gần đây, do hiệu quả tăng trưởng kém của công nghiệp. Nếu

những bất ổn trong tăng trưởng công nghiệp không được hạn chế trong thời gian

tới thì việc duy trì một nhịp tăng cao của nền kinh tế trong thời gian tới là khó

đạt được, đặc biệt khi khối ngành dịch vụ sẽ bắt đầu phải trải qua một thời kỳ

được coi là cạnh tranh khốc liệt khi Việt Nam phải thực hiện các cam kết trong

tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Mặt khác, tăng trưởng công nghiệp thời gian qua đã đóng góp lớn cho

việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Xuất khẩu tăng nhờ đóng góp

của các sản phẩm của công nghiệp như khai thác dầu thô, than, dệt may, giày da,

chế biến thủy sản, sản xuất đồ gỗ, v.v. Gia tăng xuất khẩu các sản phẩm công

nghiệp phần nào khẳng định các thương hiệu Việt Nam trên một số thị trường

chủ yếu, đảm bảo cán cân thanh toán, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô của đất

nước.

Tăng trưởng công nghiệp có thúc đẩy tốt tới các khối ngành, lĩnh vực

khác của nền kinh tế cùng phát triển. Điều này cho thấy tác động lan toả của

tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh tế trong giai đoạn nghiên cứu là đáng ghi

nhận.

114

3.4.2. Những hạn chế tồn tại trong tăng trưởng ngành công nghiệp Việt

Nam

Thứ nhất, Tăng trưởng cao nhưng hiệu quả đạt được chỉ tiêu tăng trưởng

thấp thể hiện thông qua năng suất lao động thấp so với năng suất lao động của

sản xuất công nghiệp của các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời thể

hiện ở việc nhịp tăng trưởng năng suất lao động thấp so với mức tăng bình quân

của toàn nền kinh tế. Năng suất lao động thấp và có nhịp tăng chậm thể hiện

hiệu quả sử vốn đầu tư, sử dụng lao động không cao của ngành công nghiệp Việt

Nam, trong khi Việt Nam đang được đánh giá là nền kinh tế có mức “dân số

vàng”, đồng thời cũng phần nào thể hiện trình độ công nghệ của sản xuất công

nghiệp Việt Nam là còn thấp.

Mặt khác, hiệu quả đạt được chỉ tiêu tăng trưởng thấp còn thể hiện ở mức

chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp ngày càng lớn, tức là, để có được

một đơn vị giá trị gia tăng, quy mô sản xuất phải ngày càng được mở rộng hơn

và việc đạt được 1 đơn vị giá trị gia tăng của sản xuất công nghiệp ngày càng

phải tiêu tốn nhiều hơn các yếu tố đầu vào. Nghiên cứu cho thấy, việc ngày càng

khó đạt được một đơn vị giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chủ yếu là do cơ

cấu sản xuất công nghiệp Việt Nam là chưa hợp lý, thể hiện ở chỗ các ngành

công nghiệp chủ chốt của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn gia công, lắp ráp

theo đặt hàng của bạn hàng với hầu hết nguyên vật liệu cho sản xuất được nhập

khẩu từ bên ngoài. Đây được coi là khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất trong

chuỗi giá trị. Hiệu quả đạt được của chỉ tiêu tăng trưởng của ngành công nghiệp

sẽ có thể được cải thiện nếu cơ cấu công nghiệp trở nên hợp lý hơn với việc phát

triển các ngành công nghiệp phụ trợ, với việc tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị

toàn cầu, v.v. Điều này, về dài hạn, nếu không có một sự điều chỉnh kịp thời sẽ

khó có thể duy trì được nhịp tăng trưởng công nghiệp ở mức cao và ổn định.

Cấu trúc tăng trưởng công nghiệp là chưa hợp lý. Xem xét cấu trúc tăng

trưởng công nghiệp cả về GTSX và Giá trị gia tăng, về bề nổi, dễ dàng nhận

115

thấy một xu hướng có vẻ hợp lý, rằng công nghiệp khai thác ngày càng bị lấn

lướt bởi công nghiệp chế biến, chế tác. Tuy nhiên, xem xét sâu hơn cấu trúc tăng

trưởng GTSX của ngành công nghiệp chế biến, cho thấy trong vòng 10 năm

(1996-2005), chuyển dịch cơ cấu sản xuất của ngành này diễn ra chậm với đóng

góp chủ yếu vẫn là ngành chế biến thực phẩm và đồ uống. Các ngành công

nghiệp phụ trợ chưa phát triển hoặc có xu hướng phát triển kém hơn (ngành dệt).

Trong hơn 15 năm gần đây 2001-2015 các ngành sản xuất máy móc thiết bị, xe

có động cơ, cơ khí đã có vai trò nhất đi ̣nh trong tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp và đa ̣t tố c đô ̣ tăng trưở ng bình quân khá cao. Sắt, thép dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng trưở ng bình quân 25%/năm; Thép cán và thép hình 13%/năm; Ti vi lắp ráp 34,7%/năm; ; máy in các loa ̣i 83,7%/năm.v.v..

Mặt khác, so sánh cấu trúc tăng trưởng GTSX công nghiệp và cấu trúc

tăng trưởng GDP công nghiệp cho thấy một bức tranh khác, rằng đóng góp của

công nghiệp khai khoáng cho tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp vẫn là lớn

(hơn 20%) và đóng góp của công nghiệp chế biến cho tăng trưởng giá trị gia

tăng công nghiệp mặc dù ngày càng tăng, nhưng có xu hướng chậm dần, khác

với xu hướng thể hiện nổi trội của đóng góp của ngành trong tăng trưởng GTSX

công nghiệp. Điều này là đồng nhất với nhận định ở trên khi chi phí trung gian

của công nghiệp ngày càng lớn và càng khẳng định một phản ứng chính sách cần

thiết là thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp nếu muốn duy trì nhịp

tăng trưởng cao và ổn định của công nghiệp, góp phần duy trì nhịp tăng cao,

tránh nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam.

Hơn nữa, cấu trúc tăng trưởng công nghiệp còn chưa hợp lý khi xem xét

cấu trúc tăng trưởng theo đóng góp của các yếu tố đầu vào của sản xuất công

nghiệp. Tăng trưởng của công nghiệp vẫn chủ yếu dựa trên việc tăng trưởng theo

chiều rộng, bằng việc ngày càng mở rộng các yếu tố đầu vào để đạt được tăng

trưởng. Đóng góp của yếu tố cải tiến kỹ thuật, yếu tố đổi mới công nghệ cho

tăng trưởng của công nghiệp thời gian qua là chưa đáng kể. Kết quả khảo cứu

116

cũng cho thấy, sự tăng trưởng năng suất đạt được của một số ngành công nghiệp

là nhờ vào sự cải thiện trong tiến bộ công nghệ, cải tiến kỹ thuật. Điều này nói

lên tầm quan trọng của tiến bộ công nghệ đối với việc tăng năng suất của ngành

công nghiệp Việt Nam. Việc nhận thức một cách thấu đáo vai trò của đổi mới

công nghệ, chủ động quan tâm đầu tư nghiên cứu công nghệ từ phía các doanh

nghiệp nhằm nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của mình, song

song với việc ban hành các chính sách từ phía nhà nước nhằm trực tiếp hoặc

gián tiếp khuyến khích đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp, đặc biệt là các

doanh nghiệp công nghiệp sẽ là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao khả

năng đóng góp của công nghệ cho tăng trưởng công nghiệp trong dài hạn, cải

thiện cấu trúc tăng trưởng của công nghiệp theo hướng tăng trưởng theo chiều

sâu.

Tăng trưởng công nghiệp đạt được dựa trên việc tiêu thụ năng lượng quá

mức và gây ô nhiễm môi trường sinh thái đang là một vấn đề bức xúc hiện nay,

đặc biệt là ở các trung tâm công nghiệp của cả nước như TP. Hồ Chí Minh, Hà

Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, v.v. Việc cải thiện hiệu quả

tiêu thụ năng lượng trong bối cảnh năng lượng ngày càng khan hiếm và đắt đỏ,

song song với việc bảo vệ môi trường của sản xuất công nghiệp là một việc làm

cấp bách ở Việt Nam hiện nay, nhằm đảm bảo tăng trưởng ổn định, bền vững

của nền kinh tế trong dài hạn.

Công nghệ lạc hậu, qui mô nhỏ, năng suất lao động thấp. Các doanh

nghiệp công nghiệp nhìn chung qui mô còn nhỏ, trình độ công nghệ thấp, lạc

hậu, chưa đa dạng. Tỷ trọng giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp.

Mức tiêu hao năng lượng trong một đơn vị sản phẩm còn cao (1,2-1,5 lần so với

các nước trong khu vực), sản phẩm đơn điệu, chất lượng kém, không ổn định,

giá thành cao, khả năng cạnh tranh kém, nhiều sản phẩm gần như mất thị trường

trong nước như xe đạp, quạt điện, động cơ diezel, tàu thuỷ...

117

Chính phủ đã thí điểm áp dụng các mô hình Tổng công ty 91, 90 nhằm

tăng cường năng lực sản xuất của một số ngành công nghiệp quan trọng. Tuy

nhiên, trên thực tế các Tổng công ty 91, 90 lại được thành lập ồ ạt ở hầu hết các

ngành kinh tế quan trọng. Mặt khác các mô hình xây dựng chưa đạt hiệu quả vì

thực chất chưa có sự ràng buộc hữu cơ về nguồn vốn, công nghệ, tổ chức, quản

lý..., các doanh nghiệp vẫn ở qui mô sản xuất nhỏ, không có điều kiện tập trung

vốn đầu tư đổi mới công nghệ một cách đồng bộ.

Năng suất lao động trong công nghiệp còn thấp, nếu so với Philippin là

nước có năng suất lao động công nghiệp thấp nhất trong số 6 nước ASEAN vẫn

còn cao hơn của Việt Nam. Năm 2015 năng suất lao động công nghiê ̣p củ a

Philippin tính theo GDP vào khoảng 13.500 USD/năm, Singapore là 136.500 USD/năm; Việt Nam chỉ tiêu này khoảng trên 5.800 USD [22].

Giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp đạt tỷ lệ so với giá trị sản

lượng. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp 15 năm 2001 - 2015 tăng bình quân

18,6%/năm, nhưng giá trị gia tăng chưa tương xứng (bình quân trong cù ng kỳ chỉ tăng 9,6%/năm). Ngành công nghiệp chế tác đóng góp vào tăng trưởng của

toàn ngành công nghiệp khoảng 50-60%, nhưng lại là ngành có chi phí nguyên

vật liệu tăng nhanh nên giá trị gia tăng thấp, đặc biệt là các ngành công nghiệp

gia công như: may mặc, da giày, chế biến gỗ xuất khẩu... có giá trị sản xuất cao,

nhưng phần lớn chi phí lại là vật tư nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Hàm

lượng quốc gia trong sản phẩm thấp.

Nguồn nguyên liệu bị phụ thuộc vào thị trường nước ngoài, các nguồn lực

trong nước không được khai thác hiệu quả. Hiện tại Việt Nam đang thiếu hụt về

thị trường nguyên liệu. Nhiều ngành công nghiệp đầu tư mới đòi hỏi các ngành

công nghiệp phụ trợ phát triển kèm theo. Tuy nhiên do thiếu vốn đầu tư, phần

lớn nguyên liệu, bán thành phẩm phải nhập khẩu. Vì vậy, trong giai đoạn tới,

cần chú ý phát triển các ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu, bán thành

phẩm hỗ trợ các ngành sản xuất khác phát triển. Điều này sẽ giúp giảm giá thành

118

sản xuất, tăng năng lực công nghiệp trong nước, giảm nhập khẩu, tạo thêm việc

làm cho người lao động.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Tác giả đã sử dụng bộ tiêu chí gồm 3 nhóm tiêu chí, 11 chỉ tiêu nêu ở

chương 2 để đánh giá chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam. Mỗi

chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh khác nhau của chất lượng tăng trưởng công

nghiệp, nhằm lột tả và phản ánh đầy đủ, khá toàn diện về chất lượng tăng trưởng

ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian nghiên cứu. Từ đó, các cơ quan

hoạch định chính sách có thể tham khảo để đánh giá chất lượng tăng trưởng của

ngành ở cấp trung ương và địa phương.

Luận án khẳng định chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của Việt

Nam là chưa cao và tiềm ẩn những trở ngại để duy trì nhịp độ tăng trưởng trong

dài hạn. Điều đó thể hiện qua đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng từ yếu tố đầu

vào chiều rộng, thay vì đóng góp của các yếu tố liên quan đến TFP; thể hiện qua

năng suất lao động thấp, tỷ lệ giá trị gia tăng thấp trong giá trị sản xuất; thể hiện

qua chi phí năng lượng cao; thể hiện qua năng lực của ngành công nghiệp chế

biến, qua khả năng xuất khẩu của ngành công nghiệp và qua tác động lan toả của

quá trình tăng trưởng của ngành công nghiệp tới các khối ngành khác trong nền

kinh tế và tới các lĩnh vực xã hội, môi trường.

Nguyên nhân của thực trạng chất lượng tăng trưởng công nghiệp chưa cao

ở Việt Nam cũng được chỉ ra, kết hợp với việc nghiên cứu xu hướng phát triển

công nghiệp thế giới, của một số quốc gia tương đồng về điều kiện phát triển.

Những vấn đề được phân tích, nhận định được đưa ra trong chương này là một

phần quan trọng, làm cơ sở cho những định hướng phát triển, những kiến nghị,

gợi ý giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp từ

nay đến 2025 và tầm nhìn 2030 trong chương 4 của luận án.

119

CHƯƠNG 4

CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG

TRƯỞNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM

4.1. Đi ̣nh hướ ng phá t triển cá c ngành công nghiê ̣p Viê ̣t Nam đến 2025 và tầm nhìn 2030

Phát triển công nghiệp luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu

của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay trong thời đại công nghệ 4.0 ngày

nay. Trên cơ sở những phân tích ở chương 3 của luận án, tác giả cho rằng, định

hướng phát triển công nghiệp được đề cập ở Văn kiện Đại hội lần thứ XII [12]

của Đảng và trong Chiến lược phát triển công nghiệp đến 2025 và tầm nhìn 2030

của Chính phù [105] là phù hợp trong thời gian qua. Trên cơ sở kết quả nghiên

cứu ở chương 3, tác giả cho rằng Chính phủ cần phải xây dựng Chiến lược công

nghiệp 4.0 trên cơ sở lồng ghép, lựa chọn những định hướng sẵn có, kết hợp với

một số định hướng lớn, mới, lựa chọn ngành chủ lực, giải pháp mới phù hợp với

bối cảnh công nghiệp 4.0.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã xác định định hướng phát triển

công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2015-2020 là:

“Đẩy nhanh phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học,

công nghệ, có tỉ trọng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng cao; có lợi thế cạnh

tranh, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Phấn đấu đạt tốc độ tăng

trưởng công nghiệp, xây dựng bình quân khoảng 8,0 - 8,5%/năm; đến năm 2020

tỉ trọng công nghiệp, xây dựng trong GDP khoảng 40%; tỉ trọng công nghiệp

chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 25%, trong đó công nghiệp chế tạo khoảng

15%.

Phát triển các ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản

xuất cơ bản của nền kinh tế. Phát triển công nghiệp năng lượng, luyện kim, hóa

dầu, hóa chất với công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm

120

có khả năng cạnh tranh. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp cơ khí chế tạo

mạnh và sản phẩm cơ khí trọng điểm.

Có chính sách phát triển công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ

thông tin, công nghiệp phần mềm. Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông

nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật tư và máy nông

nghiệp.

Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường liên kết giữa các tập

đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp trong nước, hình thành các khu công nghiệp

hỗ trợ theo cụm liên kết ngành.

Hỗ trợ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, nhất là năng lượng gió,

mặt trời.”

Văn kiện cũng nêu rõ: “Thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại doanh

nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động theo cơ chế thị trường, bảo đảm

thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn mà Nhà nước

không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần chi phối, kể cả những doanh nghiệp

đang kinh doanh có hiệu quả; Hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu

hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,...) trong cổ phần hóa theo

nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ

chính trị công ích.

Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể,

kinh tế hợp tác xã; Đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp

dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có

cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển

giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển

kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.

Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản

xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.

Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động

121

lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách

khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành

và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn

thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khỏi

nghiệp. Khuyến khích hình thành tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân

góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư

trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên

tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; Chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi

đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại,

có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong

nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với

doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp

quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Khuyến khích thành lập các trung tâm nghiên cứu - triển khai của doanh nghiệp

đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.

Quyết định 879/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2014 về Chiến

lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến 2025 và tầm nhìn đến 2030 cũng xác

định: “Huy động mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong nước và từ bên

ngoài để phát triển, tái cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng hiện đại; chú trọng

chuyển giao công nghệ đối với những ngành công nghiệp có khả năng cạnh

tranh và công nghệ hiện đại ở một số lĩnh vực chế biến nông sản, điện tử viễn

thông, năng lượng mới và tái tạo, cơ khí chế tạo và hoá dược”. Theo đó các định

hướng phát triển công nghiệp được xác định phù hợp với tinh thần của Nghị

quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Cụ thể, từ nay đến năm 2025 và tầm

nhìn 2030:

- Từng bước điều chỉnh mô hình tăng trưởng công nghiệp chủ yếu dựa

trên số lượng sang trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, đẩy mạnh thúc đẩy

122

phát triển công nghiệp giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn, gắn kết sản xuất

với phát triển dịch vụ công nghiệp.

- Tập trung hỗ trợ công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là nhóm sản phẩm cơ khí,

hoá chất, điện tử, viễn thông phục vụ sản xuất công nghiệp, đồng thời tham gia

mạng lưới sản xuất toàn cầu.

- Tăng cường phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn,

công nghiệp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; phát triển công nghiệp

vật liệu mới thân thiện hơn với môi trường, công nghiệp xanh, có công nghệ tiên

tiến, và tham gia dần theo xu hướng sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

4.2. Phướ ng hướ ng nâng cao chấ t lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam đến 2025 và tầm nhìn 2030

Nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp đang là một yêu cầu bức

bách của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhằm duy trì một tốc độ

tăng trưởng nhanh và bền vững, đẩy nhanh tiến trình tạo tiền đề cần thiết cho

công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tránh nguy cơ tụt hậu ngày

càng xa của nền kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Phương hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp là

tạo điều kiện để duy trì tăng trưởng với nhịp độ cao, hiệu quả và bền vững, thúc

đẩy các ngành khác và cả nền kinh tế phát triển, được thể hiện qua cơ cấu nội bộ

ngành phù hợp với trình độ công nghệ, tiềm năng, thế mạnh của ngành; năng

suất nhân tố tổng hợp, năng suất lao động, tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản

phẩm cao; có khả năng tiết kiệm năng lượng, sản xuất có tính cạnh tranh cao; cơ

cấu sản xuất công nghiệp hợp lý và tăng trưởng thân thiện với môi trường.

Cụ thể, phương hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công

nghiệp cần tập trung theo một số hướng chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả của tăng trưởng bằng việc sử dụng có hiệu

quả các nguồn lực của tăng trưởng như vốn, lao động nhằm cải thiện nhanh

chóng năng suất lao động.

123

Thứ hai, giảm chi phí trung gian trong quá trình sản xuất thông qua việc

nâng cao kỹ năng quản lý, sử dụng hiệu quả năng lượng, đẩy mạnh phát triển

công nghiệp hỗ trợ ở trong nước tạo nguyên liệu đầu vào với chi phí thấp hơn

cho các ngành công nghiệp có lợi thế phát triển của Việt Nam.

Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng của công nghiệp theo hướng tăng trưởng

theo chiều sâu, thể hiện ở đóng góp của yếu tố đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ

thuật cho tăng trưởng công nghiệp ngày càng lớn, nổi trội hơn đóng góp của các

yếu tố tăng trưởng khác. Tăng trưởng năng suất đạt được của một số ngành công

nghiệp chủ yếu nhờ vào sự cải thiện trong tiến bộ công nghệ, cải tiến kỹ thuật.

Việc nhận thức một cách thấu đáo vai trò của đổi mới công nghệ, chủ động quan

tâm đầu tư nghiên cứu công nghệ từ phía các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng

lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của mình, song song với việc ban hành các

chính sách từ phía nhà nước nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp khuyến khích đổi mới

công nghệ ở các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp sẽ là

rất quan trọng trong việc nâng cao khả năng đóng góp của công nghệ cho tăng

trưởng công nghiệp trong dài hạn, cải thiện cấu trúc tăng trưởng của công nghiệp

theo hướng tăng trưởng theo chiều sâu.

Thứ tư, cải thiện khả năng thu hút lao động song song với quá trình tăng

trưởng của ngành công nghiệp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lao động dồi

dào của Việt Nam, gia tăng đóng góp của lao động cho tăng trưởng của công

nghiệp, đồng thời cải thiện được ảnh hưởng lan tỏa của tăng trưởng công nghiệp

đối với nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Để đạt được như vậy,

việc cải thiện hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng tốt hơn yêu cầu

phát triển của công nghiệp trong thời gian tới trong bối cảnh Việt Nam ngày

càng tham gia sâu vào thực tế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay là

một giải pháp quan trọng.

Thứ năm, tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường đối với các lĩnh

vực sản xuất công nghiệp, mà trực tiếp từ phía các doanh nghiệp. Việc tuân thủ

124

Pháp luật bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, không chỉ riêng đối

với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất,

để cắt giảm chi phí, các doanh nghiệp thường lén lút xả các chất thải nguy hại

đến môi trường một cách trực tiếp mà chưa qua khâu xử lý, để lại những hậu quả

không nhỏ đối với môi trường sinh thái, môi trường sống và đến lượt nó, tác

động trở lại đối với sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp. Trong thời kỳ

hội nhập, đối với một số ngành công nghiệp, đảm bảo môi trường trong và ngoài

khu vực nhà máy cũng là một trong những tiêu chí quan trọng giúp nâng cao khả

năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, việc tăng cường công tác tuyên

truyền, khuyến khích các doanh nghiệp có ý thức bảo vệ môi trường, đồng thời

đẩy mạnh hơn nữa hoạt động giám sát của các cơ quan chức năng đối với các

hành vi có thể có gây ô nhiễm môi trường của các doanh nghiệp là một việc làm

quan trọng.

4.3. Cá c giả i phá p chủ yếu nâng cao chấ t lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p

Viê ̣t Nam đến 2025 và tầm nhìn 2030

4.3.1. Nâng cao chất lượng chiến lược và Xây dựng Chiến lược công nghiệp 4.0

Như đã đề cập ở chương 3, chất lượng công tác định hướng phát triển

không cao xuất phát từ phương pháp, cách thức lập chiến lược và giám sát quá

trình thực hiện chiến lược, đã phần nào tác động tiêu cực tới chất lượng tăng

trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam. Nâng cao chất lượng công tác định

hướng phát triển ngành có thể là một giải pháp quan trọng cải thiện chất lượng

tăng trưởng của ngành này.

Về nhận thức, chiến lược phát triển ngành phải được hiểu là những định

hướng, mục tiêu, giải pháp lớn; kết hợp với việc luận chứng, đưa ra phương

hướng và mục tiêu phát triển và phân bố ngành hợp lý trên phạm vi cả nước và

trên các vùng lãnh thổ; phù hợp với chiến lược phát triển chung của cả nước và

trên các vùng lãnh thổ; có căn cứ khoa học, tránh chủ quan duy ý chí và phải có

tầm nhìn dài hạn phù hợp với đặc điểm phát triển của ngành, đồng thời phải có

125

bước đi cụ thể từng giai đoạn. Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố thị trường là

hết sức quan trọng đối với sự phát triển của các ngành sản phẩm, do vậy, khi xây

dựng cần coi trọng công tác dự báo bối cảnh, xu hướng phát triển công nghiệp

trong thời đại công nghiệp 4.0, đặc biệt là những dự báo về thị trường đối với

sản phẩm, về những ảnh hưởng của bối cảnh bên ngoài, của thị trường thế giới,

của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và những tác động của nó

đối với sự phát triển của ngành trong giai đoạn của chiến lược.

Trong bối cảnh công nghiệp 4.0, Chính phủ cần nhanh chóng chỉ đạo xây

dựng Chiến lược công nghiệp 4.0, lấy nền sản xuất thông minh làm yếu tố cốt

lõi để tăng năng suất lao động công nghiệp, làm động lực cho nâng cao chất

lượng tăng trưởng theo hướng phát triển công nghiệp hiệu quả, giảm chi phí

trung gian, và theo hướng xanh. Chiến lược công nghiệp 4.0 sẽ là yếu tố đột phá

trong tăng trưởng công nghiệp nói chung và tăng trưởng kinh tế cả nước nói

riêng trong thập kỷ tới.

Chiến lược công nghiệp 4.0 cần xác định rõ mục tiêu phát triển của công

nghiệp Việt Nam trong thời kỳ mới; xác định lại các lĩnh vực ưu tiên, các sản

phẩm chủ lực, sản phẩm cạnh tranh chiến lược phù hợp với thế mạnh của Việt

Nam.

Từ kết quả nghiên cứu ở chương 3, tác giả cho rằng các ngành sản phẩm

chủ lực phải là những ngành có mối tác động lan toả mạnh tới các ngành sản

xuất khác như công nghiệp điện tử, sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin, công

nghiệp chế tạo máy móc thiết bị, công nghiệp phục vụ chế biến nông sản.

Chiến lược cũng cần đưa ra được lộ trình nhanh hoàn thiện hệ thống cơ

chế chính sách nhằm thúc đẩy chuyển giao, ứng dụng và nghiên cứu phát triển

các công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Lĩnh vực dệt may đã bắt

đầu có các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ tự động hóa, xử lý dữ liệu lớn, trí

tuệ nhân tạo. Lĩnh vực nông nghiệp, công nghệ tự động hóa, bán tự động kết hợp

với công nghệ thông tin đã được ứng dụng ngày càng rộng rãi. Lĩnh vực dịch vụ,

126

đặc biệt ngành ngân hàng dự kiến giảm mạng lưới hoạt động truyền thống tại

các thành phố lớn để thay thế bằng các loại hình cung cấp dịch vụ điện tử… Bên

cạnh đó, nhằm tiếp cận và tận dụng thời cơ có từ Cách mạng công nghiệp 4.0,

cần định hướng chính sách, nội dung và phương pháp dạy nghề để tạo ra nguồn

nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới.

4.3.2. Nâng cao hiệu quả đầu tư

Để ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao và có chất lượng, Việt

Nam không những cần phải tăng vốn đầu tư mà quan trọng hơn, phải sử dụng

vốn có hiệu quả. Vốn đầu tư nhà nước tăng thêm chắc chắn không thể được

nhiều như yêu cầu. Do đó, một mặt, cần hết sức phát huy khả năng đầu tư của

nhân dân và kinh tế tư nhân, thu hút mạnh hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mặt

khác cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước, ngăn chặn tình

trạng đầu tư không hiệu quả, vốn đầu tư của nhà nước, ngăn chặn tình trạng đầu

tư không hiệu quả, vốn đầu tư bị đục khoét,… Đây là điều kiện cực kỳ quan

trọng cho tăng trưởng kinh tế.

4.3.2.1. Đối với nguồn vốn đầu tư nhà nước

Từ trước đến nay, cứ nói đến đầu tư nhà nước là nhiều người nghĩ đến

chuyện thất thoát, lãng phí. Vấn đề lãng phí, thất thoát trong xây dựng, đầu tư đã

được đề cập đến nhiều trong các trang báo, trong các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo

của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội. Theo báo cáo, trong những năm

trước mắt, đầu tư Nhà nước sẽ tiếp tục tăng, chiếm gần một nửa tổng đầu tư toàn

xã hội. Do đó, việc chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước có ý

nghĩa tiên quyết đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Vấn đề cần được làm rõ là

nguồn vốn đầu tư của nhà nước đã được đầu tư đúng hướng? Phân định trách

nhiệm từ người quyết định đầu tư, người trực tiếp quản lý, sử dụng và khai thác,

chấm dứt tình trạng người đầu tư không có trách nhiệm gì, khoản chi phí tiêu

cực cho người quản lý công trình. Để nâng cao hiệu quả đầu tư vốn, chống thất

thoát nguồn vốn của Nhà nước, cần có những giải pháp sau:

127

Tăng cường và đổi mới công tác quản lý nhà nước về đầu tư, triệt để tuân

thủ các quy định của các bộ luật về đầu tư công, đấu thầu, xây dựng và luật

Ngân sách nhà nước 2015, đặc biệt trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, tách

chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh trong xây dựng ở từng bộ,

từng tỉnh, thành phố ở tất cả các khâu. Việc tăng cường công tác quản lý đầu tư

đối với các nguồn vốn nhà nước cần được quan tâm hơn nữa.

Xác định đầy đủ trách nhiệm và thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư,

vai trò của chủ đầu tư và chỉ đạo thực hiện nghiêm ngặt luật đầu tư và xây dựng,

đặc biệt là luật đầu tư công, luật đấu thầu, luật xây dựng, v.v.

Khắc phục tình trạng tiêu cực lãng phí, thất thoát trong đầu tư bao gồm

các khâu thông qua chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thẩm định và phê duyệt

quyết định đầu tư, tổ chức đấu thầu, triển khai thực hiện dự án, theo dõi và đánh

giá dự án. Người có thẩm quyền quyết định ở các khâu chịu trách nhiệm về các

quyết định của mình.

Củng cố và chấn chỉnh lại các cơ quan quản lý đầu tư, các ban quản lý dự

án; các chủ đầu tư thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thực hiện các công trình

đầu tư; rà soát, sắp xếp lại các tổ chức tư vấn đầu tư, v.v. những đơn vị nào

không đủ tiêu chuẩn thì kiên quyết giải thể; nâng cao chất lượng các báo cáo

nghiên cứu khả thi.

Tăng cường công tác giám sát đầu tư, kiểm tra, kiểm soát ở tất cả các

ngành, các cấp, phát hiện và xử ý những hành vi vi phạm các quy định về quản

lý đầu tư, nhằm kịp thời ngăn chặn tiêu cực, thất thoát trong đầu tư.

4.3.2.2. Đối với nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước

Đầu tư vốn cho khu vực doanh nghiệp nhà nước nhất thiết phải xác định

và tuân thủ triệt để nguyên tắc là doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động có hiệu

quả trong cơ chế thị trường; triển khai luật tiết kiệm chống lãng phí; hoàn thiện

quy chế trách nhiệm chủ đầu tư, xúc tiến nhanh việc tổ chức thiết kế thi công

của nhà nước thành công ty để dân cư có thể giám sát.

128

Từng bước thực hiện đầu tư thay cho phương thức đầu tư chủ quan,

chuyển mối quan hệ chủ hành chính sang quan hệ tài chính kinh tế; xóa bỏ bao

cấp, độc quyền, nâng cao tự chủ, chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước,

tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh bình đẳng; cần khẳng định

rằng chỉ ràng buộc doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh trên thị trường thì lúc đó

mới hi vọng đầu tư của các doanh nghiệp này có hiệu quả.

4.3.2.3. Đối với nguồn vốn ngoài khu vực nhà nước

Để thực sự nâng cao hiệu quả đầu tư, một biện pháp rất hữu hiệu là

khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài. Thực tế

cho thấy kinh tế nhiều thành phần, bình đẳng, các thành phần liên kết không

phân biệt đối xử, không đặc quyền đặc lợi cho quốc doanh là nền tảng vững chắc

nhất để phát triển kinh tế.

Bên cạnh đó, một khía cạnh rất quan trọng đối với các doanh nghiệp là

việc đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả đầu tư. Đây là mục tiêu rất quan trọng,

ảnh hưởng đến khả năng tái tạo vốn cho chính doanh nghiệp.

4.3.3. Khuyến khích ứng dụng khoa học-công nghệ

Thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của các

doanh nghiệp:

- Tiếp tục thực hiện những cải cách kinh tế vĩ mô, cải cách cơ cấu, hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng tạo môi trường pháp lý kinh doanh

cạnh tranh bình đẳng, nhằm tạo sức ép cạnh tranh trên thị trường, để doanh

nghiệp chú ý tới đổi mới công nghệ, để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả sản

xuất.

- Tiếp tục triển khai nhanh, kiên quyết và hiệu quả các định hướng sắp

xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết giảm bao cấp, giảm bảo hộ

độc quyền đối với doanh nghiệp nhà nước, tăng cường công tác quản lý nhà

nước đối với hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhà nước.

- Nâng cao đóng góp của đầu tư nước ngoài trong thúc đẩy đầu tư đổi mới

công nghệ và chuyển giao công nghệ theo hướng: Khuyến khích đầu tư nước

129

ngoài đổi mới công nghệ và thực hiện các hoạt động nghiên cứu triển khai ở

Việt Nam; khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên kết với các

tổ chức nghiên cứu khoa học, công nghệ trong nước đầu tư đổi mới công nghệ;

tạo điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được góp vốn cổ

phần vào các công ty đầu tư mạo hiểm, vào các doanh nghiệp khoa học công

nghệ, giống như các doanh nghiệp trong nước; thúc đẩy mối liên kết bạn hàng

giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước.

- Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia đầu tư đổi công nghệ

trong sản xuất, thông qua các hình thức như: hỗ trợ vốn để thực hiện các dự án

đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, hỗ trợ chuyên gia tư vấn thực hiện các

dịch vụ như dịch vụ công nghệ, dịch vụ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao

công nghệ, dịch vụ thông tin công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ,

… hỗ trợ các hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ tổ chức các hoạt động tuyên

truyền, thông tin về công nghệ, đổi mới công nghệ.

Hình thành thị trường các sản phẩm khoa học công nghệ và hỗ trợ thị

trường này phát triển:

Những cơ chế, chính sách và biện pháp nên tập trung theo hướng: xây

dựng đầy đủ các thể chế để thị trường vận hành thông suốt, cởi bỏ những yếu tố

hạn chế các chủ thể tiềm năng tham gia thực hiện các giao dịch chính thức trên

thị trường và hỗ trợ các chủ thể tham gia về vốn tài chính, vốn con người, về

thông tin. Tuy nhiên, trước mắt, vấn đề quan trọng cần được tập trung là cải

thiện công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ:

- Nâng cao ý thức tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ thông qua tuyên truyền

và nâng cao hiệu lực của pháp luật: tổ chức tốt việc tuyên truyền, phổ biến thông

tin bằng nhiều hình thức về hệ thống pháp luật liên quan tới sở hữu trí tuệ cho

các đối tượng có liên quan; tạo thói quen trong xã hội về thực hiện theo pháp

luật các giao dịch về công nghệ, chuyển giao công nghệ.

130

- Rà soát, sớm sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới những văn bản dưới

luật liên quan tới các vấn đề hiện đang bức xúc như: các giao dịch, hợp đồng

mua bán, chuyển giao công nghệ, cơ sở tính giá công nghệ; ban hành quy định

về cơ chế phân định quyền sở hữu và cơ chế phân bổ lợi ích đối với sản phẩm

công nghệ được hình thành từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, từ nguồn vốn do

nhiều bên đóng góp để tạo ra sản phẩm đó;

- Nâng cao hiểu biết và năng lực của cán bộ trong việc phát hiện các hành

vi vi phạm, cũng như liên quan đến hoạt động giải quyết tranh chấp về sở hữu trí

tuệ; vận hành có hiệu quả và hiệu lực thể chế xử lý các vi phạm quyền sở hữu trí

tuệ, thực hiện bảo vệ có hiệu quả trên thực tế quyền lợi của các cá nhân, tổ chức

đối với tài sản trí tuệ được pháp luật công nhận.

- Khuyến khích các tổ chức khoa học công nghệ tham gia thực hiện các

giao dịch chính thức trên thị trường khoa học công nghệ; đổi mới cơ chế hoạt

động của các tổ chức nghiên cứu và triển khai theo hướng xóa dần cơ chế bao

cấp, quản lý hành chính, chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường. Trong đó,

các tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ hoạt động như một doanh nghiệp

phi lợi nhuận.

4.3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Phát triển con người là yếu tố quan trọng bậc nhất để đảm bảo tăng trưởng

kinh tế và giảm nghèo. Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, của các doanh

nghiệp và điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong những

thập kỷ tới phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển con người ở mỗi nước.

Bởi vậy, cần có những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo như

sau:

Giải pháp then chốt là đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước

trong giáo dục đào tạo; cải cách giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống giáo

dục gắn kết với yêu cầu phát triển của các ngành; đẩy mạnh đổi mới nội dung,

chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với thực

131

tiễn Việt Nam cùng với đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; kiên quyết giảm hợp lý

nội dung chương trình học tập cho phù hợp với tâm sinh lý của học sinh cấp tiểu

học, trung học cơ sở, xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo.

Khẩn trương triển khai đề án phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ

giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; cơ cấu lại hệ thống đào tạo, hoàn thiện hệ

thống đào tạo thực hành định hướng nghề nghiệp. Khuyến khích cạnh trạnh lành

mạnh, tạo cơ chế và điều kiện để các trường đại học và các trường dạy nghề

chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Đổi mới

cơ chế, chính sách tạo kinh phí cho giáo dục và đào tạo; xác định công khai và

phù hợp phần đóng góp của người học, kiên quyết đấu tranh khắc phục các tiêu

cực trong dạy và học; đồng thời có chính sách đảm bảo cho con các đối tượng

nghèo cũng có điều kiện theo học tập.

Tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp bao gồm cả tái đào tạo nghề,

nhằm giúp cho người lao động trong độ tuổi lao động có thể dễ dàng thích ứng

với những đòi hỏi thường xuyên biến chuyển của thị trường lao động. Nhằm

mục đích thu hẹp dần khoảng cách giữa đầu ra của đạo tạo với nhu cầu hiện có

của thị trường lao động, các biện pháp cần sớm được thực hiện là: (i) xác định rõ

ràng các lĩnh vực ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu người lao động

có trình độ chuyên môn kỹ thuật để tăng cường đầu tư, hỗ trợ; (ii) tiêu chuẩn hóa

các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng, với những chỉ tiêu

chất lượng được quy định rõ ràng, (iii) phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bên

tham gia thị trường lao động (các doanh nghiệp có nhu cầu lao động, các cơ

quan đào tạo, bồi dưỡng tay nghề) trong quá trình hoạch định các chính sách về

đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực.

Tăng cường hợp tác với nước ngoài và thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh

vực đào tạo sau đại học, sau đại học và đào tạo nghề; khuyến khích, tạo điều

kiện cho học sinh, sinh viên ra nước ngoài học tập, đi đôi với tăng cường quản lý

công tác lưu học sinh.

132

Tăng cường đầu tư cho giáo dục bằng nhiều nguồn khác nhau, trong đó

đầu tư từ ngân sách nhà nước cần tăng lên; đồng thời huy động nhiều hơn, tốt

hơn sức dân thông qua đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập.

4.3.5. Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường

Nhiều năm qua, do quá quan tâm đến mục tiêu tăng trưởng mà chú ta

quan tâm chưa đúng mức vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. Tình trạng ô

nhiễm môi trường đô thị, hồ ao, sông biển đã đến mức báo động. Hậu quả của

nó đối với quá trình phát triển là nặng nề. Việt Nam cần tránh quan điểm tăng

trưởng trước, khắc phục hậu quả ô nhiễm sau mà một số nước đã gặp phải trong

thời gian qua.

Giáo sư Joshep E. Stiglitz trong chuyến thăm Việt Nam đã nhấn mạnh

“trong vòng 15 năm qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật về tăng

trưởng kinh tế, tuy nhiên hàng loạt thách thức đã và đang được đặt ra với Việt

Nam nhằm duy trì sự tăng trưởng như đảm bảo môi trường sinh thái, kinh tế xã

hội, Việt Nam sẽ bước vào một giai đoạn vô cùng khó khăn cần nhiều các yếu tố

môi trường. Nếu các tác động về môi trường không được tính toán đầy đủ trong

các chính sách thì ảnh hưởng có thể sẽ rất thảm khốc và tăng trưởng sẽ không

bền vững”.

Ngay từ bây giờ phải đặt vấn đề môi trường trong các chiến lược phát

triển, lựa chọn giải pháp thiết thực làm cho kinh tế, xã hội và môi trường phát

triển hài hòa, thực sự coi môi trường là một quốc sách cơ bản. Để đạt được mục

tiêu đó, yêu cầu trọng điểm là trong xây dựng, công nghiệp và đổi mới kỹ thuật,

khởi điểm kỹ thuật phải cao, phải phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa, phải lựa

chọn công nghệ kỹ thuật tiêu hao nguyên vật liệu thấp, gây ô nhiễm ít, hiệu quả

cao, thực hiện sản xuất sạch, kiên quyết loại bỏ các công nghệ tiêu hao năng

lượng và nhiều nguyên vật liệu, tăng cường sử dụng năng lượng sạch, xử lý

nước thải, tích cực thay đổi tình trạng thải bừa bãi gây ô nhiễm môi trường như

hiện nay. Trong đầu tư bảo vệ môi trường, phải không ngừng nâng cao đầu tư

133

cho môi trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, tỷ lệ đầu tư cho môi

trường chiếm 0,5% GDP là thấp mà phải là từ 1-1,5% GDP đầu tư cho môi

trường mới là hợp lý. Về mặt môi trường sinh thái, phải tiếp tục duy trì việc tiếp

tục đẩy mạnh mở rộng diện tích che phủ rừng, nhằm tăng cường bảo vệ môi

trường sinh thái, hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế.

4.3.6. Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam

Thực tế chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong

thời gian qua đã cho thấy việc các ngành công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển đã

ngày càng làm tăng chi phí trung gian trong sản xuất của ngành này, giảm khả

năng tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giảm khả năng cạnh tranh,

đồng thời khiến sản xuất công nghiệp phụ thuộc quá lớn vào biến động của giá

nguyên liệu đầu vào ở thị trường nước ngoài. Việc thúc đẩy phát triển các ngành

công nghiệp hỗ trợ trong nước đến lượt nó cũng sẽ góp phần thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp theo hướng hợp lý hơn trong thời gian tới.

Phát triển công nghiệp phụ trợ là khâu đột phá để phát triển nhanh và bền

vững các ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam trong quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030, gắn với

phân công hợp tác quốc tế và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở

chọn lọc, dựa trên tiềm năng, lợi thế so sánh của Việt Nam, với công nghệ tiên

tiến có tính cạnh tranh quốc tế cao, gắn liền với mục tiêu nâng cao giá trị gia

tăng trong nước đối với sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, và phấn đấu trở thành

một bộ phận trong dây chuyền sản xuất quốc tế.

Để phát triển được các ngành công nghiệp phụ trợ, các giải pháp sau đây

nên được thực thi:

Thứ nhất, các giải pháp tạo dựng môi trường đầu tư, khuyến khích phát

triển sản xuất kinh doanh

- Xây dựng các chương trình phát triển từng nhóm sản phẩm hỗ trợ để thu

hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước.

134

- Khuyến khích hình thành các khu, cụm công nghiệp sản xuất linh kiện,

phụ tùng, nguyên vật liệu phụ trợ cho các ngành công nghiệp. Phát triển doanh

nghiệp vừa và nhỏ tham gia sản xuất sản phẩm hỗ trợ, cung ứng nguyên phụ liệu

cho sản xuất hỗ trợ.

- Tiếp tục đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh

tiến trình cổ phần hoá để nâng cao tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp này và thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác.

- Tập trung phát triển các ngành, các sản phẩm công nghiệp ưu tiên, công

nghiệp mũi nhọn tạo nền tảng để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh

phát triển công nghiệp hỗ trợ.

- Tiếp tục quá trình cải cách hành chính, nâng cao tính minh bạch của môi

trường sản xuất kinh doanh để phát triển thêm nhiều doanh nghiệp mới theo mục

tiêu đã đề ra, cũng như thu hút ở mức độ cao đầu tư nước ngoài vào phát triển

công nghiệp, trong đó có công nghiệp hỗ trợ.

- Có chính sách khuyến khích đầu tư, khuyến khích chuyển giao công

nghệ, bảo hộ bản quyền sở hữu trí tuệ, hỗ trợ tìm kiếm, điều tiết thị trường, tạo

mặt bằng, nhà xưởng cho thuê để sản xuất kinh doanh đối với các công ty, tập

đoàn nước ngoài, cũng như các doanh nghiệp nội địa để phát triển công nghiệp

hỗ trợ.

- Tổ chức và hỗ trợ thành lập các trung tâm tiếp thị tìm kiếm thị trường

tiêu thụ và đối tượng cung cấp sản phẩm hỗ trợ trong và ngoài nước, làm cầu nối

giữa các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là

giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa.

- Thành lập và đưa vào hoạt động một số trang web chuyên ngành công

nghiệp hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

- Tăng cường công tác thống kê, xây dựng cơ sở dữ liệu về các doanh

nghiệp sản xuất hỗ trợ để làm cơ sở cho việc giới thiệu, tìm kiếm các mối liên

kết ngang.

135

Thứ hai, các giải pháp về khoa học - công nghệ

- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế

làm căn cứ cho việc định hướng phát triển. Hỗ trợ phát triển và nâng cấp các tổ

chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm hỗ trợ thuộc nhiều thành phần

kinh tế đạt trình độ quốc tế.

- Thực hiện các Chương trình đầu tư từ nguồn vốn ODA cho các khoa

chuyên ngành của trường đại học và cao đẳng để hoàn thiện công nghệ cơ bản...

gắn kết các cơ sở đào tạo với các hoạt động của doanh nghiệp, đổi mới trang

thiết bị, chương trình đào tạo.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển

giao công nghệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất

tại Việt Nam. Hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ

phát triển công nghiệp hỗ trợ.

- Khuyến khích các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may, da giày, cơ

khí, công nghệ… triển khai nghiên cứu, thực nghiệm các đề tài, dự án gắn với

nhu cầu phát triển sản xuất các chủng loại vật liệu, chi tiết, linh phụ kiện, phụ

tùng… phục vụ phát triển công nghiệp hỗ trợ.

- Giành đủ kinh phí cho các Bộ, ngành triển khai xây dựng các tiêu chuẩn

ngành và tiêu chuẩn cơ sở liên quan tới các sản phẩm hỗ trợ.

Thứ ba, các giải pháp về hạ tầng cơ sở để phát triển công nghiệp hỗ trợ

- Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các cơ sở giao thông, vận tải như các

bến cảng, sân bay, đường sắt, đường bộ, giao thông đô thị. Hình thành các kho

tàng, điểm tập trung hàng hoá ở các vùng kinh tế trọng điểm để gia tăng điều

kiện phát triển công nghiệp.

- Tập trung xây dựng một số khu, cụm công nghiệp hỗ trợ có trang thiết

bị, công nghệ tiên tiến gắn với các vùng có các ngành công nghiệp chính phát

triển.

Thứ tư, các giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực

136

- Tăng cường đào tạo cán bộ kỹ thuật các ngành thiết kế (bao gồm cả thiết

kế mẫu mốt, thời trang, kiểu dáng công nghiệp), chế tạo máy, luyện kim, điều

khiển tự động, điện tử tin học để làm chủ các công nghệ được chuyển giao,

nghiên cứu thiết kế tạo ra công nghệ nguồn và kiểu dáng sản phẩm riêng của

Việt Nam.

- Thu hút sự hỗ trợ của Chính phủ các nước phát triển như Nhật Bản,

EU... để đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hỗ trợ. Đặc biệt khuyến khích

các doanh nghiệp FDI tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực.

- Tạo điều kiện đầu tư trang thiết bị cho các cơ sở nghiên cứu, chủ động

đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên ngành, cũng như hợp tác nghiên cứu với các đối

tác nước ngoài trong một số chương trình đào tạo nguồn nhân lực để phát triển

công nghiệp hỗ trợ.

Thứ năm, các giải pháp về liên kết doanh nghiệp

- Kết nối các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa trong việc

phát triển sản xuất hỗ trợ thông qua các chương trình giới thiệu nhu cầu phát

triển và sử dụng sản phẩm hỗ trợ và hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp

FDI với các doanh nghiệp nội địa.

- Xây dựng các chương trình hợp tác dài hạn với các đối tác chiến lược-

các công ty, tập đoàn đa quốc gia về phát triển công nghiệp nói chung và công

nghiệp hỗ trợ nói riêng ở Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020 và tầm nhìn

đến 2030.

- Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của các Viện nghiên cứu chuyên

ngành để làm cầu nối giữa nghiên cứu - thiết kế - ứng dụng, gắn quá trình

nghiên cứu với chuyển giao đưa vào sản xuất.

- Xây dựng một số trung tâm hỗ trợ công nghiệp phụ trợ, các chương trình

phát triển công nghiệp phụ trợ dài hạn nhằm tập trung nỗ lực của Nhà nước cho

các hoạt động nghiên cứu phát triển, nghiên cứu ứng dụng, hỗ trợ đầu tư từ các

quỹ phát triển công nghiệp phụ trợ, hỗ trợ về lãi suất tín dụng đối với các nguồn

137

vốn từ các quỹ này để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ trong danh mục

hỗ trợ và thúc đẩy liên kết ngành sản xuất phụ trợ trong nước.

- Củng cố và nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành nghề, các tổ chức

Chính phủ và phi Chính phủ làm đầu mối liên kết doanh nghiệp. Đổi mới cơ chế

tổ chức và hoạt động của các Hiệp hội ngành nghề để có thể đóng vai trò đại

diện cho ngành tìm kiếm, tiếp nhận tài trợ của Chính phủ và của các tổ chức, cá

nhân trong và ngoài nước thực hiện các giải pháp phát triển ngành, đầu mối xúc

tiến đầu tư, phát triển thị trường, đề xuất các cơ chế chính sách phát triển công

nghiệp hỗ trợ.

- Thường xuyên tổ chức và nâng cao tính chuyên nghiệp của các hội chợ,

chợ công nghệ, triển lãm và các hội thảo chuyên đề phát triển công nghiệp hỗ trợ

cho từng lĩnh vực sản phẩm riêng biệt.

Thứ sáu, Các giải pháp về tài chính

- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng

tiếp cận được với nguồn vốn vay dài hạn cho đầu tư phát triển. Nghiên cứu kinh

nghiệm của Nhật Bản để thành lập hệ thống ngân hàng phục vụ các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, cơ chế bảo lãnh tín dụng khi thu hồi thông qua các tài khoản

phải thu và thế chấp các tài khoản phải thu khi vay vốn của các tổ chức tín dụng

Nhà nước.

- Tạo điều kiện về nguồn vốn cho các hoạt động khuyến công, hỗ trợ phát

triển khoa học - công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đầu tư

nghiên cứu và phát triển sản xuất hỗ trợ.

- Phát triển mạnh cách thức thuê mua tài chính trong mua sắm máy móc,

thiết bị, công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ để nâng cao khả năng

phát triển và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này. Sử dụng vốn ODA để hỗ

trợ đào tạo lao động, xây dựng thể chế pháp lý và các chương trình phát triển

công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp vừa và nhỏ, chương trình hợp tác với các công

ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.

138

4.3.7. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước

Như phân tích ở chương 3, tiến trình cổ phần hóa diễn ra chậm được coi là

một nhân tố làm giảm hiệu quả của tăng trưởng công nghiệp Việt Nam. Chương

trình cổ phần hóa của Việt Nam còn nhiều bất cập, những bất cập này chỉ có thể

được hoàn thiện bằng những biện pháp toàn diện và hệ thống. Các giải pháp để

đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa có thể là:

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách liên

quan đến cổ phần hóa để phù hợp với tình hình thực tế phát sinh. Bên cạnh đó,

tiếp tục hoàn chỉnh bổ sung chức năng nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương,

tập đoàn, tổng công ty theo hướng phải nghiên cứu rà soát lại Nghị định

99/2012/NĐ-CP. Phân công, phân cấp, phân quyền cho các bộ ngành địa

phương, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong vấn đề chủ sở hữu và đại

diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Tăng cường kiểm tra giám sát, cổ phần hóa và

thoái vốn, đảm bảo tiến độ và hiệu quả. Phải thực hiện đồng bộ vấn đề tái cơ cấu

lại thị trường tài chính để góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nói

chung và trong đó có tái cơ cấu DNNN, đặc biệt là cổ phần hóa các doanh

nghiệp này.

Thứ hai, minh bạch hóa cổ phần hóa. Cố gắng đảm bảo tính minh bạch

trong suốt quá trình cổ phần hóa. Mục đích của quá trình này là cung cấp thông

tin một cách trung thực, chính xác và kịp thời cho các nhà đầu tư tiềm năng bên

ngoài, nhờ đó giảm lợi thế thông tin bất cân xứng của ban giám đốc và những

nhân viên bên trong DNNN. Sự minh bạch này sẽ giảm thiểu nguy cơ cổ phần

hóa dưới giá và khép kín-những điều kiện thuận lợi dẫn đến tham nhũng và bất

bình đẳng trong quá trình cổ phần hóa DNNN.

Thứ ba, định giá doanh nghiệp một cách chính xác. Đây là một giải pháp

nhằm hạn chế khả năng và phạm vi của giao dịch dưới giá và nội bộ. Hơn nữa,

nó còn giúp bảo vệ tài sản công và giảm khoảng cách của bất bình đẳng kinh tế

gây ra bởi việc cổ phần hóa nội bộ. Các giải pháp thị trường như đấu giá công

139

khai thông qua thị trường chứng khoán và kiểm toán độc lập nên được sử dụng

khi định giá DNNN.

Thứ tư, cần đặt ra và thực thi chính sách cạnh tranh một cách đúng đắn.

Cải thiện hiệu quả kinh tế thông qua cổ phần hóa DNNN và thích nghi với cạnh

tranh là hai trong số các nhiệm vụ quan trọng của một nền kinh tế đang chuyển

đổi. Các DNNN hậu cổ phần hóa được kỳ vọng là sẽ hoạt động hiệu quả hơn,

bình đẳng hơn với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhằm đạt

được hiệu quả kinh tế cao nhất của phần vốn nhà nước cũng như của các cổ

đông khác, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho nền công nghiệp nước nhà.

140

KẾT LUẬN

Ngành công nghiệp có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế

Việt Nam xuất phát từ những lợi thế hơn hẳn về tốc độ tăng trưởng, trình độ mở

rộng quy mô. Sự phát triển của công nghiệp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhu cầu tư liệu sinh hoạt cho nhân dân, tăng kim

ngạch xuất khẩu, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa đất nước. Trong thời đại toàn

cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp càng có vị trí quyết định, tạo ra

tiền đề vật chất đảm bảo nâng cao nhịp độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi vậy, làm thế nào để nâng cao chất lượng

tăng trưởng của ngành công nghiệp là vấn đề thu hút được sự quan tâm của các

cấp, các ngành, cũng như các nhà nghiên cứu kinh tế.

Chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp là khái niệm phản ánh nội

dung bên trong của quá trình tăng trưởng, biểu hiện ở phương tiện, phương thức,

mục tiêu và hiệu ứng đối với môi trường chứa đựng tăng trưởng ấy. Chất lượng

tăng trưởng cao của ngành công nghiệp là sự tăng trưởng với nhịp độ cao, hiệu

quả và bền vững của ngành được thể hiện qua cơ cấu nội bộ ngành phù hợp với

trình độ công nghệ, tiềm năng, thế mạnh của ngành; năng suất nhân tố tổng hợp,

năng suất lao động, tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản phẩm cao; có khả năng

tiết kiệm năng lượng, sản xuất có tính cạnh tranh cao; không ngừng nâng cao vị

trí của các phân ngành công nghiệp trong chuỗi giá trị toàn cầu và có khả năng

bảo vệ môi trường. Các tiêu chí để đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành

công nghiệp có thể là phân thành ba nhóm: (1) Các tiêu chí đánh giá cấu trúc của

tăng trưởng; (2) Các tiêu chí đánh giá hiệu quả đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng

và (3) Các tiêu chí đánh giá tác động lan toả của tăng trưởng tới nền kinh tế.

Khảo cứu tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam thông qua một số

tiêu chí nêu trên trong giai đoạn 1996-2005 và 2006-2015 cho thấy một bức

tranh khá rõ về chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam. Thứ

nhất, tăng trưởng công nghiệp đạt tốc độ cao nhưng hiệu quả tăng trưởng thấp,

141

thể hiện ở năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư không cao, tỷ lệ

giá trị gia tăng trong giá trị tổng sản lượng thấp và ngày càng giảm do cơ cấu sản

xuất công nghiệp chưa hợp lý, chưa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam

trong sản xuất công nghiệp. Thứ hai, cấu trúc tăng trưởng công nghiệp là chưa

hợp lý cả về chiều rộng lẫn chiều sâu mà biểu hiện là các ngành công nghiệp sử

dụng nhiều lao động phát triển không đạt hiệu quả như mong đợi, không thu hút

được lực lượng lao động dồi dào của nền kinh tế, giá trị gia tăng không cao khi

chỉ tham gia vào những công đoạn sản xuất có tỷ lệ giá trị gia tăng thấp nhất; và

đóng góp của công nghệ, cải tiến kỹ thuật cho tăng trưởng còn kém. Cuối cùng,

mặc dù tăng trưởng công nghiệp đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng chung

của nền kinh tế, giải quyết việc làm và gia tăng xuất khẩu, nhưng đóng góp của

công nghiệp cho tăng trưởng chung của nền kinh tế có xu hướng giảm dần do

hiệu quả sản xuất thấp; đồng thời thành quả tăng trưởng cao của công nghiệp

không thân thiện với môi trường đã là một trong những nguyên nhân chủ yếu

gây nên tình trạng suy thoái môi trường tự nhiên ở Việt Nam.

Có nhiều nguyên nhân của tình trạng của tình trạng chất lượng tăng

trưởng chưa cao của ngành công nghiệp Việt Nam. Đáng kể nhất là chất lượng

quy hoạch công nghiệp thấp; các ngành công nghiệp chậm phát triển, nguồn

nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghiệp trong thời kỳ hội

nhập; trình độ công nghệ và nhận thức về vai trò của đổi mới công nghệ đối với

nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh, tăng hiệu qủa của sản

xuất công nghiệp là chưa đồng đều và chưa thấu đáo; và tiến trình cổ phần hóa

các doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm.

Do vậy, nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt Nam trở thành

yêu cầu bức bách nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao, gia tăng đóng góp của

ngành cho tăng trưởng chung của nền kinh tế, làm động lực cho sự phát triển của

các ngành kinh tế khác, thúc đẩy phát triển kinh tế và tránh nguy cơ tụt hậu xa

hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới của Việt Nam. Để

142

làm được điều đó, một số gợi ý giải pháp đưa ra có thể là: (1) Nâng cao chất

lượng quy hoạch phát triển ngành công nghiệp; (2) nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn đầu tư trong sản xuất công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế; (3) Khuyến

khích ứng dụng và đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp; (4) Đầu tư nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng tốt hơn yêu cầu về nhân lực trong phát

triển công nghiệp; (5) Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường; (6) Khuyến

khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ nhằm cải thiện tỷ lệ giá trị gia

tăng trong tổng sản lượng công nghiệp do phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu

đắt đỏ ở thị trường thế giới; và cuối cùng (7) Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa

các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận

doanh nghiệp này, góp phần tạo một sân chơi bình đẳng, có tác dụng khuyến

khích các doanh nghiệp công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế cùng phát triển.

Chất lượng chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp là một vấn đề

lớn, phức tạp. Ngành công nghiệp là một khối ngành rộng với nhiều phân ngành

có những đặc thù riêng. Việc nghiên cứu và nhận dạng chất lượng tăng trưởng

của khối ngành này một cách thấu đáo đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và sự

khảo cứu tỉ mỉ hơn nữa ở từng phân ngành công nghiệp. Chủ đề nghiên cứu thì

phức tạp, chắc chắn rằng, luận án sẽ còn có nhiều điểm khiếm khuyết. Việc

nghiên cứu sâu hơn, bao quát hơn về vấn đề này sẽ được tiến hành ở những công

trình nghiên cứu tiếp theo.

* * *

143

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1) Chất lượng tăng trưởng công nghiệp Hà Nội-Những rào cản và khuyến

nghị chính sách, sách tham khảo, NXB Dân trí, 7/2017.

2) Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam, Tạp chí

Kinh tế và Dự báo, số tháng 5/2017.

3) Chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt Nam-Một số đánh giá ban đầu,

Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam,

NXB Văn hoá Thông tin, 2013.

4) Chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt Nam, một số chỉ tiêu đánh giá

chủ yếu, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2/2010.

144

TÀI LIỆU THAM KHẢO

CÁC TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Vũ Thành Tự Anh (2005), Cổ phần hóa ở Việt Nam: Khúc dạo đầu của cuộc

trường chinh”, Báo Tia sáng số tháng 5.

2. Nguyễn Thị Tuệ Anh và Lê Xuân Bá (2005), Chất lượng tăng trưởng kinh

tế-Một số đánh giá ban đầu cho Việt Nam, NXB Thống kê, Hà nội.

3. Đinh Văn Ân (2008), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội tốc độ

nhanh, bền vững, chất lượng cao ở Việt Nam”, NXB Thống kê, Hà nội.

4. Bộ Công thương (2016), Các giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ, Kỷ

yếu hội thảo khoa học.

5. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (2005), Chính sách công nghiệp và

Tài chính ở Trung Quốc và Việt Nam: Mô hình mới hay chỉ là sự lặp lại kinh

nghiệm của Đông Á?, Bài đọc.

6. Diễn đàn Kinh tế-Tài chính Việt-Pháp (2004), Vì một sự tăng trưởng và một

xã hội công bằng, Báo cáo tổng kết, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.

7. Nguyễn Thị Kim Dung (2006), Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng

tăng trưởng kinh tế Việt Nam đến năm 2010, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp

bộ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.

8. Trần Thọ Đạt (2005), Các mô hình tăng trưởng kinh tế, NXB Thống kê, Hà

nội.

9. Trần Thọ Đạt (2007), Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam,

NXB Thống kê, Hà nội.

10. Đại học Kinh tế quốc dân (2011), Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam,

Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế.

11. Đại học Kinh tế quốc dân (2015), Phát triển cụm ngành công nghiệp trong

điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài thuộc chương trình

Khoa học – Công nghệ cấp Nhà nước.

145

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2016-

2020, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.

13. Thomas L. Friedman (2006), Thế giới phẳng. Tóm lược Lịch sử Thế giới Thế

kỷ 21, NXB Trẻ, TP. HCM.

14. Đào Văn Hùng (2014), Cải cách hệ thống tài chính thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế Việt Nam, Đề án nghiên cứu cấp Bộ, Học viện Chính sách và Phát

triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

15. Đào Văn Hùng, Lê Huy Đoàn & các cộng sự (2014), Đánh giá kế hoạch phát

triển 5 năm 2011-2015 và các hoạt động hợp tác quốc tế của Việt Nam và 63

tỉnh, thành, Báo cáo cuối, Dự án Quốc tế, Học viện Chính sách và Phát triển

kết hợp với KOICA Việt Nam.

16. Đào Văn Hùng (2012), Thách thức kinh tế vĩ mô đối với nền kinh tế và doanh

nghiệp, NXB Thống kê, Hà nội.

17. Cù Chí Lợi (chủ biên) (2009), Tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng ở Việt

Nam, Viện Khoa học xã hội nhân văn, Hà nội.

18. Nguyễn Khắc Minh (2005), Ảnh hưởng của tiến bộ công nghệ đến tăng

trưởng kinh tế, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội.

19. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2003), Một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại

hóa ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.

20. Đỗ Hoài Nam và Trần đình Thiên (chủ biên) (2009), Mô hình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Chính

trị quốc gia, Hà nội.

21. Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt (2006), Tốc độ và chất lượng tăng

trưởng kinh tế ở Việt Nam, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà nội.

22. Ngân hàng thế giới (2016), Các chỉ tiêu phát triển thế giới năm 2015, Cơ sở

dữ liệu.

146

23. Kazushi Ohkawa và Hirohisa Kohama (2004), Kinh nghiệm công nghiệp hóa

của Nhật Bản và sự thích dụng của nó đối với các nền kinh tế đang phát

triển, NXB Khoa học xã hội, Hà nội.

24. Kenichi Ohno, Nguyễn Văn Thường (2005), Hoàn thiện Chiến lược Phát

triển Công nghiệp Việt Nam, NXB Lý luận Chính trị, Hà nội.

25. Lê Du Phong và Nguyễn Thành Độ (1999), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong

điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.

26. Nguyễn Ngọc Sơn (2009), Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt

may, Tạp chí Kinh tế và Phát triển.

27. Hoàng Đức Thân và Đinh Quang Ty (2010), Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ

công bằng xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.

28. Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, NXB

Khoa học Xã hội, Hà nội.

29. Bùi Trinh và các cộng sự (2007), Phân tích cơ cấu kinh tế Việt Nam dựa vào

bảng cân đối liên ngành 1989-1996-2000, Hội nghị lần thứ 18, Hiệp hội châu

á Thái Bình Dương về nghiên cứu bảng I-O, Chukyo University.

30. Bùi Trinh và các cộng sự (2012), Cơ cấu kinh tế mới của Việt Nam hướng tới

một sự tăng trưởng bền vững đến năm 2020, Tạp chí toàn cầu về khoa học

Kinh tế xã hội và chính trị, số 10.

31. Bùi Trinh, Bùi Bá Cường, Dương Mạnh Hùng (2004), Phương pháp phân

tích kinh tế và môi trường thông qua mô hình I-O, NXB Thống kê, Hà nội.

32. Tổng cục Thống kê (2015), Bảng cân đối liên ngành (input-Output:I/O) của

Việt Nam 1989, 2007 và 2012, NXB Thống kê, Hà nội.

33. Viện Chiến lược phát triển (2004), Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội-Một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.

34. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2005), Báo cáo kết quả khảo

sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam,

Vietnam Economic Portal.

147

35. Ngô Doãn Vịnh (2005), Bàn về phát triển kinh tế (nghiên cứu con đường dẫn

tới giàu sang), NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.

36. Ngô Doãn Vịnh (2006), Hướng tới sự phát triển của đất nước-Một số vấn đề

lý thuyết và ứng dụng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.

TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU TIẾNG NƯỚC NGOÀI

37. Anandarajan et al. (2007), The Effect of Innovative Activity on Firm

Performance: The Experience of Taiwan.

38. Anderson, E., de Renzio, P. và Levy, S. (2006), The Role of Public

Investment in Poverty Reduction: Theories, Evidence and Methods,

Working Paper, http://www.odi.org.uk/resources/download/1166.pdf.

39. Antje Schimke & Thomas Brenner (2011), Temporal Structure of Firm

Growth and the Impact of R&D.

40. Archibald R, Pereria M. (2003), Effects of public and private R&D on

private-sector performance in the United States, Public Finance Review, 31

(4): 429–451.

41. Ballassa, B. (1988), Public Finance and Economic Development, PRE

working Paper 31, Washington D.C. Word Bank.

42. Barro, R. (1991), Economic Growth in a Cross-section of Countries,

Quarterly Journal of Economics 106 (2): 407–43.

43. Begg, D. (2008), Economics, McGraw-Hill Publisher.

44. Blejer, M.I. and M.S. Khan (1984), Government Policy and Private

Investment in Developing Countries, IMF Staff Papers, Vol. 31, June 379-

403.

45. Bogunjoko, O.J. (1998), Private Investment, Economic Growth and Policy

Reforms in Nigeria: An Empirical synthesis, Development Policy Centre,

Ibadan.

148

46. Bos, D. (1984), On the Optimality of Public Capital for Long Run Growth

Evidence from Panel Data, Journal of Applied Economics. 33: 1117-1129.

47. BSPS – CIEM (2008), The role of technology, investment and ownership

structure in the productivity performance of the manufacturing sector in

Vietnam.

48. Costa, J. da Silva, Ellson, R.W, and Martin, R.C. (1987), Public Capital,

Regional Output and Developments: Some Empirical Evidence, Journal of

Regional Science, 27 (3) : 419-437.

49. De Vylder, S. và Fforde, A. (1998), Viet Nam: A Transitioning Economy

50. Deno, K.T. (1988), The Effect of Public Capital on U.S Manufacturing

Activity: 1970 to 1978, Southern Economic Journal, 55 (1) : 400-411.

51. Devarajan, S., Swaroop, V. and Zou, H. (1996), The Composition of Public

Expenditure and Economic Growth, Journal of Monetary Economics,

37:313-344.

52. Dewan, S., Shi, C. and Gurbaxani, V. (2007), Investigating the Risk–Return

Relationship of Information Technology Investment: Firm-Level Empirical

Analysis, Management science, 53 (12), 1829–1842.

53. Di Vito et al. (2008), Corporate ownership structure and innovation in

Canda.

54. Easterly, W, and Rebelo, S. (1993), Fiscal Policy and Economic Growth,

Journal of Monetary Economics, 32;417-458.

55. Gerybadze et al. (2010), Innovation and International Corporate Growth,

DOI 10.1007/978-3-642-10823-5_2, Springer-Verlag Berlin Heidelberg.

56. Ghali, K.H. (1998), Public Investment and Private Capital Formation in a

Vector Error.

57. Ghosal, V. and Nair-Reichert, U. (2009), Investments in modernization,

innovation and gains in productivity: Evidence from firms in the global

paper industry, Research Policy, 38, 536–547.

149

58. Gillis, M. et al (2001), Economics of Development, W.W. Norton Publisher.

59. Gladys López -Acevedo (2002), Technology and firm performance in

Mexico.

60. John Dooley, Forfas (2009), Sustaining Investment in Research and

Development, Advisory Council for Science Technology and Innovation,

December.

61. John R. Baldwin et al. (2003), Impact of Advanced Technology Use on Firm

Performance in the Canadian Food Processing Sector, Micro -Economic

Analysis Division, 18-F, R.H. Coats Building, Ottawa, K1A 0T6, Statistics

Canada.

62. Kanchana Wanichkorn (2013), Investment, Innovation and Technology for

Development: Thailand’s Experiences, United Nations Conference on

Trade and Development (UNCTAD) Geneva, 1 May 2013.

63. Khan, M. and C. Renhart (1990), Private Investment and Economic Growth

in Developing Countries, World Development, Vol. 18, January: 17-27.

64. Killics, T. (1993), The Adaptive Economy: Adjustment Policies in Small,

Low-Income Countries, the World Bank Press.

65. KISTEP (2002), Korea Institute of Science and Technology Evaluation and

Planning), National Technology Roadmap (NTRM).

66. Krugman, P. và Obstfeld, M (1991), International Economics – Theory and

Policy, Harper Collins Publisher.

67. Kuen-Hung Tsai et al. (2002), An Examination of Taiwan’s Innovation

Policies and R&D Performance, Chung-Hua Institution for Economic

Research.

68. Lucas, O. (1993), Government Spending and Economic Growth.

69. Lindauer, D. (2002), The Third Generation of Economic Growth.

150

70. Nguyen Thi Nguyet (2012), Determinants of firm growth in Vietnamese

commercial-service sector, Journal of Economics and development , Vol.

14-No. 1.

71. Nguyen Thi Nguyet (2012), Firm survival: International evidence and

lessons for Vietnam, Economic Management Review Journal, Vol. 6. No.2,

2012.

72. Nguyen Thi Nguyet (2012), Technology – development investment and firm

productivity in developing counries, Journal of Economics and

development.

73. Odedokun, M.O. (1993), Factors Responsible for the Poor Performance of

Africa in the 1970s and 1980s: A Cross-Sectional Evidence from 42

countries, African Development Review, Vol. 5, (1) 23-61.

74. OECD (2000), Science, Technology and Innovation in the New Economy,

Policy Brief Review, September 2000.

75. OECD, DSIT/STP (2007), Review of China’s Innovation System and

Policy.

76. OECD (2007), Innovation and Growth: Rational for an Innovation

Strategy.

77. Ogundipe, M. A. và Aworinde, O. B. (2011), Sectoral Analysis of the

Impact of Public Investment on Economic Growth, European Journal of

Social Sciences – Volume 20, Number 2.

78. Ohlin–Hecksher (1977), Factors Endowment Theory of Trade.

79. Perkins, W. (2006), Economics of Development, 6th edition, Norton &

Company New York – London.

80. Peters et al. (2013), Firm R&D, Innovation, and Productivity in German

Industry.

81. Phillip A. Griffifths (2013), Strenthening Science and Technology in the

Developing World, Institute for Advanced Study, Science Initiative Group.

151

82. Raouf Boucekkine et al. (2011), Sustainable growth under pollution quotas:

optimal R&D, investment and replacement policies.

83. Rosen, H. (1995), Public Finance , Richard D. Irwin Publisher.

84. Samuelson, P. và Nordhaus W. (2001), Economics, McGraw-Hill Publisher.

85. Serven, L. and Solimano, A. (1993), Striving for Growth After Adjustment:

The Role of Capital Formation, Washington DC, World Bank Press.

86. Solow, R. M. (1956), A Contribution to the Theory of Economic Growth,

Quarterly Journal of Economics, 70: 65-94.

87. Stiglitz, J. (2005), Economics of Public Sector, Richard D. Irwin Publisher.

88. Stiglitz, J. và Yusuf, S. (2002), Rethinking the East Asia Miracle, the World

Bank and Oxford University Press.

89. Szirmai, A., Naudé, W., Alcorta, L., (2013), Pathways to Industrialization

in the Twenty-First Century, Oxford University Press.

90. Tanzi, V. (1984), Transitional Dynamics and Economic Growth in the Neo

Classical Model, The American Economic Review, 83 (4): 908-941.

91. Temple, J. (1999), New Growth Evidence .

92. Thomas L. Friedman (2006), The world is flat, NXB Trẻ.

93. Thomas, V. và các cộng sự (2000), The Quality of Growth, Oxford

University Press, New York.

94. Todaro, M. (1985), Economic Development in the Third World, Longman

Publisher.

95. Toen-Geon, M. W. and Jongeling, M. M. (1994), Investment in

Infrastructure and Economic Growth, Journal of Public Finance 15: 34-42.

96. UNIDO (2015), Industrial Development Report 2016: the role of

technology and innovation in inclusive and sustainable industrial

development, Vienna.

97. Westkämper, E., (2014), Towards the Re-Industrialization of Europe: a

concept for manufacturing for 2030, Springer–Verlag.

152

98. Xibao Li (2008), External Technology Purchaseand Indigenous

Innovation Capability in Chinese Hi-Tech Industries, Unido working

paper.

99. Yingyi Qian (2002), Governments and corporate management, Unido

working paper.

100. Ÿulek, M. (2015), Economic Planning and Industrial Policy in the

Globalizing Economy: concepts, experience and prospects, Springer

International Publishing Switzerland.

CÁC LUẬN ÁN TRONG NƯỚC

101. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu

ngành của nền kinh tế tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.

102. Hồ Hữu Nghĩa (2011), Chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp điện tử

Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

103. Phạm Đình Thuý (2014), Phát triển công nghiệp cơ khí theo hướng bền

vững.

104. Hồ Tuấn (2009), Giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp

Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (nghiên cứu điển hình

ngành dệt may).

CÁC TRANG WEB:

105. http://www.chinhphu.vn

106. http://www.gso.gov.vn

107. http://www.moi.gov.vn

108. http://www.mpi.gov.vn

109. http://www.tiasang.com.vn

110. http://ocw.fetp.edu.vn

111. http://www.vneconomy.com.vn

112. http://www.vnep.org.vn;

113. http://data.worldbank.org/indicator

153

PHẦN PHỤ LỤC