BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
LÊ HUY ĐOÀN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI-2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
LÊ HUY ĐOÀN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế phát triển
Mã số : 9310105
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn
HÀ NỘI-2018
i
LỜI CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và nội dung này chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Lê Huy Đoàn
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ tôi, đến gia đình của tôi đã
yêu thương và ủng hộ tôi vô điều kiện trong suốt những năm qua.
Đặc biệt cảm ơn PGS-TS. Nguyễn Ngọc Sơn đã tận tình hướng dẫn, góp
ý, hỗ trợ cả về mặt lý luận và thực tiễn trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thiện luận án.
Xin cảm ơn chân thành đối với Viện Chiến lược Phát triển, đặc biệt là
PGS. TS. Bùi Tất Thắng, TS. Đặng Quốc Tuấn và các nhà khoa học đã có những
gợi ý ban đầu đối với đề tài nghiên cứu này và những ý kiến đóng góp quý báu
để hoàn thiện luận án, đã tạo điều kiện về thời gian, tinh thần và những hỗ trợ
khác cho tác giả trong quá trình học tập và thực hiện luận án.
Xin chân thành cảm ơn Học viện Chính sách và Phát triển và các đồng
nghiệp, đặc biệt là PGS-TS. Đào Văn Hùng, ở những mức độ khác nhau, đã có
những hỗ trợ, ủng hộ quý giá và là một phần không thể thiếu trong luận án của
tôi.
Tác giả
Lê Huy Đoàn
iii
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của Đề tài ................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 4
2.1. Mục tiêu chung .............................................................................................. 4
a) Về mặt lý luận ................................................................................................... 4
b) Về mặt thực tiễn ................................................................................................ 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5
3.2 Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6
4.1. Phương pháp tiếp cận .................................................................................... 6
4.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6
5. Những đóng góp mới của luận án ..................................................................... 7
6. Kết cấu của luận án ........................................................................................... 7
CHƯƠNG 1 .......................................................................................................... 9 TỔ NG QUAN CÁ C CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨ U LIÊN QUAN TỚ I ĐỀ TÀI
............................................................................................................................... 9
1.1. Các công trình trong nướ c ............................................................................. 9 1.2.Các công trình nghiên cứu ngoài nước có liên quan .................................... 19
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ..................................................................................... 31
CHƯƠNG 2 ........................................................................................................ 33 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤ T LƯỢNG TĂNG
TRƯỞ NG CÔNG NGHIỆP ............................................................................... 33
2.1. Cơ sở lý luận về chất lươ ̣ng tăng trưở ng ngành công nghiê ̣p ...................... 33
2.1.1. Khái niệm chất lượng tăng trưởng ............................................................ 33
2.1.1.1 Tăng trưởng kinh tế về mặt lượng .......................................................... 33
2.1.1.2. Quan niệm về chất lượng tăng trưởng ................................................... 35
iv
2.1.2. Chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp ...................................... 39
2.1.2.1. Khái niệm ............................................................................................... 39
2.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng công nghiệp ................... 42
2.2. Kinh nghiê ̣m các nướ c trong phát triển công nghiê ̣p và nâng cao chất lươ ̣ng công nghiê ̣p ......................................................................................................... 50
2.2.1. Thái Lan .................................................................................................... 50
2.2.2. Trung Quốc ............................................................................................... 52
2.2.3 Kinh nghiệm quốc tế trong định hướng phát triển công nghiệp ............... 53
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ..................................................................................... 60
CHƯƠNG 3 ........................................................................................................ 61 THỰC TRẠNG CHẤ T LƯỢNG TĂNG TRƯỞ NG CÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM THỜ I KỲ 2001-2015 VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ...................... 61
3.1. Vị trí của ngành công nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam .......................... 61
3.2. Thực tra ̣ng chất lươ ̣ng tăng trưởng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam ........................ 63
3.2.1. Đánh giá cấu trúc của tăng trưởng ............................................................ 63
3.2.2. Hiệu quả của việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng ...................................... 71
3.2.3. Đánh giá tác động lan tỏa của tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh tế .. 78
3.3. Các nhân tố tác đô ̣ng tớ i chất lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam từ
nay đến năm 2025 và tầm nhìn 2030 .................................................................. 92
3.3.1. Quan điểm phát triển các ngành công nghiệp .......................................... 92
3.3.2. Xu hướng công nghiệp thế giới ................................................................ 96
3.3.2.1. Hội nhập kinh tế thế giới của kinh tế Việt Nam .................................... 96
3.3.2.2. Xu thế phát triển công nghiệp của thế giới theo hướng bền vững ........ 99
3.3.3. Công nghiệp phụ trợ ............................................................................... 102
3.3.4. Hiệu quả sử dụng nguồn lực ................................................................... 105
3. 3.5. Chất lượng nguồn nhân lực ................................................................... 110
3.3.6. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp ................................................... 111
v
3.4. Đánh giá chung về chất lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam ......... 113
3.4.1. Những kết quả đạt được .......................................................................... 113
3.4.2. Những hạn chế tồn tại trong tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam 114
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................... 118
CHƯƠNG 4 ...................................................................................................... 119
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
NGÀNH CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM .................................................. 119
4.1. Đi ̣nh hướ ng phát triển các ngành công nghiê ̣p Viê ̣t Nam đến 2025 và tầm nhìn 2030 .......................................................................................................... 119
4.2. Phướ ng hướ ng nâng cao chất lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam đến
2025 và tầm nhìn 2030 ..................................................................................... 122
4.3. Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t
Nam đến 2025 và tầm nhìn 2030 ...................................................................... 124
4.3.1. Nâng cao chất lượng chiến lược và Xây dựng Chiến lược công nghiệp 4.0
........................................................................................................................... 124
4.3.2. Nâng cao hiệu quả đầu tư ....................................................................... 126
4.3.2.1. Đối với nguồn vốn đầu tư nhà nước .................................................... 126
4.3.2.2. Đối với nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước ........................... 127
4.3.2.3. Đối với nguồn vốn ngoài khu vực nhà nước ....................................... 128
4.3.3. Khuyến khích ứng dụng khoa học-công nghệ ........................................ 128
Thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của các
doanh nghiệp: .................................................................................................... 128
Hình thành thị trường các sản phẩm khoa học công nghệ và hỗ trợ thị trường này
phát triển: .......................................................................................................... 129
4.3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ..................................................... 130
4.3.5. Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường ....................................... 132
4.3.6. Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam ... 133
4.3.7. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước .............. 138
vi
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 140
DANH MỤC BIỂU, HÌNH VẼ
Hình 1. Chuỗi giá trị ........................................................................................... 12
Hình 2. Nguồn gốc cơ bản của tăng trưởng kinh tế ............................................ 21
Nguồn: [69] ......................................................................................................... 21
Hình 3. Chỉ số chất lượng tăng trưởng ............................................................... 25
Hình 4. Những khung nghị sự chất lượng tăng trưởng khác nhau ..................... 27
Hình 5. Khung chất lượng tăng trưởng ............................................................... 27
Hình 6. Khung quan niệm: thay đổi công nghệ cho sự chuyển đổi cơ cấu toàn
diện ...................................................................................................................... 40
Hình 7. Mô hình sản xuất được hướng tới trong tương lai ................................. 41
Hình 8. Khung phân tích chất lượng tăng trưởng công nghiệp .......................... 44
Hình 9. Vi điện tử và các ngành công nghiệp bao quanh của Singapore ........... 58
Hình 3.1: Chuyển di ̣ch cơ cấu VA công nghiệp ................................................. 64
Hình 3.2: Tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp .......................... 75
Hình 3.3: GO và VA của ngành công nghiệp (tỷ đồ ng) ..................................... 76
Hình 3.4: Đóng góp của các khu vực cho tăng trưởng của nền kinh tế ............. 79
Hình 3.5: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng ................................... 82
Hình 3.6: Mức phát thải CO2/ một đồng VA công nghiệp của Việt Nam và các
nước trên thế giới (kg/1 USD PPP VA công nghiệp) ......................................... 89
Hình 3.7: Thiệt hại của nền kinh tế từ ô nhiễm của Việt Nam so với các nước
trong khu vực và thế giới. ................................................................................... 90
vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu
Trang
56
đầu tư trọng điểm cho ngành công nghiệp bán dẫn ở một số nước
62
Biểu 3.1: Cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam giai đoạn 2000-2015 Biểu 3.2: Đóng góp cho tăng trưởng của GTSX công nghiệp
66
66
Biểu 3.3: Tỷ lê ̣ đóng góp cho tăng trưởng GTSX công nghiệp từ các ngành Biểu 3.4: Tăng trưởng GDP công nghiệp và tỷ lê ̣ đó ng gó p củ a các phân
67
ngành
73
Biểu 3.5: GDP, lao động, năng suất lao động bình quân của cả nước và của ngành công nghiệp Biểu 3.6: Hệ số ICOR của nền kinh tế và của ngành công nghiệp
74
80
81
88
Biểu 3.7: Đóng góp của các ngành vào tăng trưởng của nền kinh tế giai đoạn 2005-2015 Biểu 3.8: Đóng góp của các ngành công nghiệp cho tăng trưởng của nền kinh tế giai đoạn 1996-2015 Biểu 3.9: Mức phát thải CO2 của ngành công nghiệp Việt Nam so với một số quốc gia trong khu vực Biểu 3.10: Sử dụng nước ở một số ngành công nghiệp Việt Nam
92
Biểu 2.1: Thành công và thất bại trong việc can thiệp của chính phủ khi
viii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MÔ TẢ Chữ viết tắt
ADB Ngân hàng phát triển Châu á
CN- XD Khối ngành Công nghiệp và Xây dựng
GNP Tổng sản phẩm quốc dân
GO Giá trị sản xuất
IC Chi phí trung gian
NI Thu nhập quốc dân
N-L-N Khối ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp
NSLĐ Năng suất lao động
UNDP Chương trình phát triển Liên hiệp quốc
VA Giá trị gia tăng
WB Ngân hàng thế giới
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Đối với hầu hết các nền kinh tế, trong một số giai đoạn nhất định, ngành
công nghiệp có vai trò hết sức to lớn. Khác với nông nghiệp, ngành công nghiệp
có lợi thế hơn hẳn về tốc độ tăng trưởng, trình độ mở rộng quy mô. Sự phát triển
của công nghiệp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo
nhu cầu tư liệu sinh hoạt cho nhân dân, tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy quá
trình hiện đại hóa đất nước. Trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc
tế, công nghiệp càng có vị trí quyết định, bởi suy cho cùng, cạnh tranh trên thị
trường quốc tế chủ yếu vẫn là cạnh tranh giữa các sản phẩm do ngành công
nghiệp chế tạo ra. Công nghiệp tăng trưởng cao, ổn định và có chất lượng sẽ tạo
ra tiền đề vật chất đảm bảo nâng cao nhịp độ phát triển đất nước, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, mở rộng thị trường cho các khu vực khác trong nền kinh tế. Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng cao của ngành công nghiệp phải gắn liền với việc cải
thiện chất lượng tăng trưởng mới đảm bảo hiệu quả kinh tế cao, duy trì tốc độ
tăng trưởng ổn định và phát triển công nghiệp một cách bền vững, làm động lực
thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển, mang đến tiến bộ chung cho
nền kinh tế và xã hội.
Góp phần cho thành quả tăng trưởng cao bình quân hàng năm của cả nước
trong nhiều thập kỷ qua, đặc biệt là trong giai đoạn hơn 30 năm kể từ khi Việt
Nam tiến hành công cuộc “đổi mới” cơ chế quản lý đối với nền kinh tế, khối
ngành công nghiệp luôn đạt được tốc độ tăng trưởng vượt bậc so với các khối
ngành khác của nền kinh tế; tốc độ tăng trưởng được duy trì ổn định ở mức cao,
liên tục trong nhiều năm. Giai đoạn gần đây (2001-2015) GDP khối ngành công
nghiệp đạt nhịp tăng trưởng bình quân hàng năm 9,6%, cao gấp 1,1 lần so với
tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế trong cùng thời kỳ. Công nghiệp tăng
trưởng cao và liên tục, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
2
công nghiệp hóa, thúc đẩy xuất nhập khẩu, gián tiếp thúc đẩy tăng trưởng dịch
vụ phục vụ sản xuất, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động,
thúc đẩy tiêu dùng, gián tiếp thúc đẩy tăng trưởng của khu vực dịch vụ phục vụ
đời sống, v.v. Bên cạnh đó, thực tế tăng trưởng cao của công nghiệp trong thời
gian dài của Việt Nam trong thời gian qua cũng bộc lộ những yếu kém nhất
định, gây ra những bất hợp lý trong cơ cấu kinh tế, khai thác tài nguyên kém
hiệu quả, năng lực cạnh tranh kém, và để lại những hậu quả về mặt môi trường.
Đánh giá một số khía cạnh liên quan đến tăng trưởng của ngành công nghiệp
Việt Nam trong thời gian gần đây, rõ ràng có thể nhận thấy tốc độ tăng trưởng
của khối ngành có xu hướng chậm lại từ 16,0%/năm trong giai đoạn 2001-2005,
giảm xuống còn 13,2%/năm trong giai đoạn 2006-2010 và chỉ còn duy trì ở mức
thấp hơn nhiều, 8,4%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Trong đó, đáng lưu ý, tốc
độ tăng trưởng bình quân của giá trị gia tăng (VA) của phân ngành công nghiệp
chế biến, phân ngành được cho là phản ánh trình độ phát triển của khối ngành
công nghiệp, trong cùng thời kỳ có xu hướng giảm sút một cách tương ứng đáng
lo ngại ở mức từ 17,7%/năm xuống 13,8%/năm và 8,9%/năm; VA công nghiệp
khai thác có tốc độ tăng được ghi nhận ở mức thấp hơn nhiều 6,0%/năm,
0,1%/năm và 2,6%/năm trong cùng giai đoạn nghiên cứu. Bên cạnh đó, tỷ lệ chi
phí trung gian của sản xuất công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2001-2015 có
xu hướng tăng liên tục, từ 60% giá trị sản xuất công nghiệp (GO) năm 2001 lên
mức 75% GO năm 2015 (bình quân mỗi năm, chi phí tăng lên 1% trong GO
trong suốt 15 năm nghiên cứu). Nói cách khác, VA của sản xuất công nghiệp
ngày càng có xu hướng giảm sút, từ 40% của GO năm 2001, xuống còn 25%
GO năm 2015; hay, việc đạt được thêm một đơn vị VA, ngành công nghiệp Việt
Nam ngày càng tốn nhiều chi phí nguồn lực về vốn, công nghệ, nhân lực và tài
nguyên hơn.
Việc tìm ra nguyên nhân của sự giảm sút cả về tốc độ tăng trưởng lẫn tính
hiệu quả của sản xuất công nghiệp đã và đang là câu hỏi nghiên cứu lớn đối với
3
các học giả, đặc biệt là về chất lượng của quá trình tăng trưởng của khối ngành
này. Một số nghiên cứu trong thời gian vừa qua cho rằng, nguyên nhân chính
của sự giảm sút nêu trên nằm ở cơ cấu nội tại của ngành công nghiệp, biểu hiện
ở việc ngành công nghiệp phụ thuộc vào những phân ngành lắp ráp, gia công có
chi phí cao và giá trị gia tăng thấp hơn là phát triển vững chắc dựa vào các
ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu đầu vào trung gian như cơ khí, luyện
kim, sợi, nhuộm, thuộc gia, hoá chất, linh kiện điện tử,… Ý kiến khác lại lập
luận, quy mô, trình độ và hiệu quả huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào như
vốn, lao động, công nghệ và tài nguyên vào sản xuất công nghiệp là chưa như
mong đợi của các nhà quản lý, khiến tăng trưởng giảm sút. Việc tăng trưởng của
khối ngành công nghiệp chủ yếu dựa vào khả năng mở rộng quy mô các yếu tố
đầu vào vật chất như vốn, lao động, tài nguyên mà thiếu những cải tiến hữu hiệu
trong công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý, trình độ người lao động khiến hiệu
suất vốn, năng suất lao động có xu hướng tới hạn, là nguyên nhân chính của tình
trạng sa sút nhịp tăng trưởng của khối ngành này.
Vấn đề đặt ra đối với ngành công nghiệp Việt Nam hiện nay là nếu không
được định hướng phù hợp, nếu những nguyên nhân dẫn tới sự sa sút trong nhịp
tăng trưởng không được khắc phục, nếu chất lượng và hiệu quả của quá trình
tăng trưởng của ngành không được cải thiện, việc duy trì một nhịp tăng trưởng
cao của ngành, của toàn nền kinh tế sẽ khó có thể đạt được. Mặc dù nhiều nghị
quyết và cơ chế chính sách liên tục được ban hành, hoàn thiện trong các kỳ đại
hội Đảng từ kỳ Đại hội khoá VI-XI, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội Đảng lần XII
nhấn mạnh: “Cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng; Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông
thôn mới.”; nghị quyết 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XII) nêu rõ: “Xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp
quốc gia, tạo khuôn khổ chính sách đồng bộ, trọng tâm, đột phá hướng vào tăng
4
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Trên tinh thần đó, Chính phủ
ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa
nhằm thúc đẩy khu vực công nghiệp phát triển nhanh, ổn định và bền vững, thúc
đẩy tăng trưởng của cả nền kinh tế trong bối cảnh thế giới đang tiến vào cách
mạng công nghiệp lần thứ 4. Tuy vậy, năm 2016 và đầu năm 2017 vẫn ghi nhận
nhịp độ tăng trưởng thấp hơn nữa của khối ngành công nghiệp (7,5% năm 2016
và 4,3% hai quý đầu năm 2017).
Trên cơ sở đó, đề tài “Nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành
công nghiệp Việt Nam” được chọn làm đề tài luận án tiến sỹ kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
a) Về mặt lý luận
Luận án được nghiên cứu với mục tiêu hệ thống hóa những vấn đề cơ sở
lý luận về chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp.
b) Về mặt thực tiễn
Vận dụng những vấn đề lý luận, hệ thống chỉ tiêu đề xuất, trên cơ sở phân
tích mối quan hệ giữa tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của ngành công
nghiệp và những tác nhân ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng của ngành
công nghiệp, tìm ra một số giải pháp chủ yếu mong muốn nâng cao chất lượng
tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm tới với mục tiêu
cuối cùng là duy trì tốc độ tăng trưởng cao, ổn định trong thời gian dài của nền
kinh tế Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
(1) Tổng quan các vấn đề lý luận liên quan đến chất lượng tăng trưởng;
(2) Phân tích, đánh giá thông qua một số chỉ tiêu phù hợp nhằm nêu bật
được chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian
qua;
5
(3) Gợi ý, giúp các nhà hoạch định chính sách có thêm cơ sở đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của công nghiệp Việt Nam
trong giai đoạn từ nay đến 2025 và tầm nhìn 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu như trên, luận án lấy ngành công nghiệp của
Việt Nam là đối tượng nghiên cứu là các vấn đề thuộc chất lượng tăng trưởng
của hệ thống công nghiệp như các tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá, các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Ngành công nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam;
+ Về thời gian: giai đoạn 2001-2015 là chủ yếu. Ngoài ra để thấy xu thế phát triển của hiện tươ ̣ng có thể sử du ̣ng các số liê ̣u củ a những năm trướ c từ 1990 trở la ̣i, đặc biê ̣t là từ 1995. Trên cơ sở những phân tích của luận án, đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng công
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn 2030.
Ngành công nghiệp Việt Nam là rộng, mỗi phân ngành có các đặc thù
riêng về sản phẩm, về quy trình công nghệ, v.v. Do đó, luận án sẽ tập trung phân
tích những dấu hiệu có tính phổ biến này nhằm nhận dạng chất lượng tăng
trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở đó, gợi ý một số giải pháp
chủ yếu nhằm cải thiện hơn nữa chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp
Việt Nam trong thời gian tới, góp phần duy trì một nhịp tăng trưởng cao, bền
vững của nền kinh tế Việt Nam.
+ Về mặt khoa học: nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn về tăng trưởng và
chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của một nước đang phát triển chuyển
đổi có thu nhập trung bình thấp như Việt Nam thông qua hệ thống chỉ tiêu đánh
giá chất lượng tăng trưởng ngành; từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp
6
chính sách nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt
Nam giai đoạn từ nay đến 2025 và tầm nhìn 2030.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp tiếp cận
Tác giả tiếp cận đối tượng nghiên cứu đi từ việc làm rõ các vấn đề lý
thuyết đến nhận dạng đối tượng nghiên cứu trên cơ sở các khung lý thuyết về
chất lượng tăng trưởng công nghiệp, thể hiện ở cấu trúc bên trong để đạt được
tăng trưởng ở hai khía cạnh đóng góp của các yếu tố đầu vào, đóng góp của các
phân ngành, hiệu quả của quá trình tăng trưởng và tác động lan toả của kết quả
tăng trưởng tới các khối ngành kinh tế và nền kinh tế. Xây dựng bộ tiêu chí đánh
giá chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp; đánh giá chất lượng tăng trưởng
của ngành công nghiệp Việt Nam. Từ đó, sử dụng lý thuyết hệ thống để tìm ra
các gợi ý chính sách thúc đẩy nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành trong
thời gian tới.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề ra, ngoài những phương pháp nghiên cứu truyền
thống, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu kinh tế chủ yếu
sau:
4.2.1. Phương pháp nghiên cứu tại bàn
Nhằm nghiên cứu, tìm ra các vấn đề có tính quy luật trong quá trình
phát triển của ngành công nghiệp, tăng trưởng ngành và chất lượng
của tăng trưởng ngành.
7
Đánh giá tình hình phát triển của nền kinh tế, của khối ngành công
nghiệp và cấu trúc bên trong của quá trình tăng trưởng ở cả khía cạnh
đầu vào và đầu ra của ngành công nghiệp.
So sánh, đánh giá các tiêu chí phản ánh chất lượng tăng trưởng của
khối ngành công nghiệp, đánh giá mặt được và mặt chưa được.
4.2.2. Phương pháp mô hình hoá
Sử dụng mô hình cân đối liên ngành vào – ra (I-O) để đánh giá tác động
lan toả của tăng trưởng ngành công nghiệp tới các khối ngành kinh tế
khác trong nền kinh tế.
5. Những đóng góp mới của luận án
+ Về măt lý luận: luận án hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan đến
chất lượng tăng trưởng ngành; đề xuất hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá chất
lượng tăng trưởng ngành nói chung và ngành công nghiệp nói riêng trong bối
cảnh nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội
nhập kinh tế quốc tế.
+ Về mặt thực tiễn: luận án kết luận chất lượng tăng trưởng của ngành
công nghiệp Việt Nam là chưa cao thông qua tỷ lệ giá trị gia tăng thấp, phụ
thuộc vào nguồn nguyên liệu bên ngoài, năng suất lao động thấp và khả năng
thúc đẩy lan toả các ngành khác trong nền kinh tế phát triển theo là chưa cao; chỉ
ra nguyên nhân của việc chất lượng tăng trưởng của ngành đang tồn tại nhiều
điểm hạn chế; đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành
công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới; đồng thời đưa ra những kiến nghị đối
với Nhà nước nhằm tạo nền tảng tốt cho thúc đẩy nâng cao tăng trưởng và chất
lượng tăng trưởng của ngành trong những năm tới.
6. Kết cấu của luận án
Với mục tiêu, phạm vi, phương pháp nghiên cứu như trên, ngoài phần mở
đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận án gồm bốn chương:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứ u liên quan tớ i đề tài.
8
Chương 2: Cơ sở lý luận về chất lượng tăng trưởng công nghiệp.
Chương 3: Thực trạng chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Việt
Nam thời kỳ 2001-2015
Chương 4: Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành
công nghiệp Việt Nam
Phần Kết luận và các hàm ý chính sách.
9
CHƯƠNG 1
TỔ NG QUAN CÁ C CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨ U LIÊN QUAN
TỚ I ĐỀ TÀI
1.1. Cá c công trình trong nướ c Nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp cũng như của toàn nền kinh
tế là mục tiêu của mỗi quốc gia, mỗi địa phương, đặc biệt khi Việt Nam đang
từng bước xây dựng nền tảng của một nước công nghiệp hóa. Trong nhiều năm
qua, nhịp tăng trưởng nhanh của công nghiệp Việt Nam luôn được duy trì,
nhưng vấn đề chất lượng tăng trưởng của ngành đang là được đánh giá là chưa
cao trong giai đoạn hiện nay.
Theo Ngô Doãn Vịnh (2006), Hướng tới sự phát triển của đất nước-Một
số vấn đề lý thuyết và ứng dụng [19], nâng cao chất lượng tăng trưởng được
quan niệm là nâng cao tính chất bền vững và hiệu quả kinh tế-xã hội, môi trường
của quá trình thực hiện các chỉ tiêu tăng trưởng. Quá trình nâng cao chất lượng
tăng trưởng gắn liền với việc cải thiện các tiêu chí phản ánh chất lượng tăng
trưởng. Biểu hiện cụ thể của quá trình nâng cao chất lượng tăng trưởng: Một là,
quá trình sử dụng ngày càng hợp lý các yếu tố nguồn lực để tạo sản phẩm hàng
hóa, đáp ứng ngày càng cao các nhu cầu đời sống kinh tế và xã hội. Tăng trưởng
sẽ trở nên có hiệu quả cao hơn khi tỷ trọng đóng góp vào quá trình này là những
yếu tố nguồn lực có lợi thế nhất của đất nước và việc sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực. Tính hiệu quả của tăng trưởng sẽ trở nên bền vững hơn khi có sự
chuyển đổi hợp lý, từ việc sử dụng chủ yếu các yếu tố nguồn lực vật chất, thể
hiện tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, quyết định bởi
cơ chế sử dụng các yếu tố phi vật chất là công nghệ và vốn nhân lực. Hai là,
Nguyễn Thành Độ (2005), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập
quốc tế và khu vực, [41] với khả năng nguồn lực giới hạn, các chỉ tiêu nằm trong
tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện. Trong số các
tiêu chí đưa ra ở trên, đặc biệt nhấn mạnh các tiêu chí phản ánh tác động lan tỏa
10
của tăng trưởng kinh tế đến các đối tượng chịu ảnh hưởng, kể cả kinh tế, xã hội
và môi trường. Đinh Văn Ân (2008), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế-
xã hội tốc độ nhanh, bền vững, chất lượng cao ở Việt Nam [2], việc nâng cao
dần các tiêu chí về kinh tế, xã hội vừa là kết quả của tăng trưởng kinh tế, nhưng
đồng thời nó chính là môi trường hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng nhanh hơn
trong dài hạn.
Nguyễn Thị Kim Dung và các cộng sự (2006), Các giải pháp chủ yếu
nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam [18], các tiêu chí để đánh giá
chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp có thể là phân thành ba nhóm:
(1) Các tiêu chí đánh giá hiệu quả đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng;
(2) Các tiêu chí đánh giá cấu trúc của tăng trưởng; và
(3) Các tiêu chí đánh giá tác động lan toả của tăng trưởng tới nền kinh tế.
Phù hợp với ba nội dung trên, có ba nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng
tăng trưởng kinh tế như sau:
Thứ nhất, các tiêu chí liên quan đến hiệu quả của việc đạt được chỉ tiêu
tăng trưởng;
Hiệu quả sản xuất của một nền kinh tế được thể hiện dưới góc độ: năng
suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tỷ lệ chi phí trung gian trong sản
xuất và hiệu quả sử dụng năng lượng trong quá trình sản xuất.
- Năng suất lao động: Để tính năng suất lao động cho toàn bộ nền kinh tế,
hoặc cho ngành, có thể lấy GDP theo giá có định chia cho số lao động đang làm
việc trong nền kinh tế, hoặc cho ngành trong năm. Nếu GDP tạo ra trên một lao
động càng cao, năng xuất lao động càng lớn.
Dưới góc độ ngành hay doanh nghiệp, GDP có thể được thay thế bằng các
chỉ số khác có sẵn như giá trị sản xuất hoặc chỉ số giá thành lao động trên một
đồng giá trị sản phẩm.
- Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư: Có nhiều cách xác định hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư. Ở giác độ vĩ mô, người ta thường nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn
11
đầu tư thông qua Hệ số gia tăng vốn-sản lượng (ICOR), cho biết để tăng thêm
một đơn vị GDP, cần phải tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư thực hiện. Vì
vậy, ở một khía cạnh nào đó, hệ số này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Với nội dung đó, hệ số ICOR được coi là một trong
những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế của cả nền
kinh tế hoặc của ngành.
Theo các nhà kinh tế này, ở những nền kinh tế phát triển theo chiều rộng
(tăng trưởng kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào sự đóng góp của các yếu tố đầu vào
như vốn và lao động, đóng góp của yếu tố TFP cho tăng trưởng còn thấp) hệ số
ICOR thấp, chứng tỏ đầu tư có hiệu quả cao. Tuy nhiên, theo quy luật lợi tức
biên giảm dần, khi nền kinh tế tăng trưởng thì hệ số ICOR sẽ tăng lên, tức là để
duy trì một tốc độ tăng trưởng, cần một tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP cao hơn.
ICOR được xác định qua hai phương pháp, (1) ICOR = I1/ Y1-Y0 trong đó
I1 và Y1 là vốn đầu tư và GDP của năm nghiên cứu, Yo là GDP của năm trước
đó (lưu ý rằng các chỉ tiêu này được tính cùng một loại giá); và (2) ICOR = I/Y
chia cho gY, trong đó I/Y là tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP, gY là tốc độ tăng GDP.
Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: để tăng thêm 1% GDP đòi hỏi
phải tăng thêm bao nhiêu phần trăm tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP.
- Vị trí của công nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu: “Chuỗi giá
trị là quá trình biến một sản phẩm, dịch vụ phát triển từ ý tưởng qua nghiên cứu
thử nghiệm đến sản xuất rồi đến tay người tiêu dùng và cuối cùng là dịch bán
hàng và sau bán hàng (Hình 1). Mỗi một công đoạn trên tùy từng tính chất của
mỗi hàng hóa và dịch vụ mà có một hệ thống các hoạt động bao gồm hàng loạt
các hãng khác nhau đảm trách, tạo thành một mạng lưới sản xuất, lắp ráp, dịch
vụ nằm rải rác trên khắp thế giới tạo ra chuỗi giá trị toàn cầu.
12
Hình 1. Chuỗi giá trị
Nguồn: [24]
Theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Sơn (2012), Việt Nam trong chuỗi giá
trị toàn cầu ngành dệt may [42], vị trí của công nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá
trị toàn cầu là nhân tố quan trọng về mặt cơ cấu, ảnh hưởng đến chất lượng tăng
trưởng của khối ngành. Chuỗi giá trị là quá trình biến một sản phẩm, dịch vụ
phát triển từ ý tưởng qua nghiên cứu thử nghiệm đến sản xuất rồi đến tay người
tiêu dùng và cuối cùng là dịch bán hàng và sau bán hàng. Mỗi một công đoạn
trên tùy từng tính chất của mỗi hàng hóa và dịch vụ mà có một hệ thống các hoạt
động bao gồm hàng loạt các hãng khác nhau đảm trách, tạo thành một mạng lưới
sản xuất, lắp ráp, dịch vụ nằm rải rác trên khắp thế giới tạo ra chuỗi giá trị toàn
cầu.
Chuỗi giá trị toàn cầu có hai dạng liên kết kinh tế quốc tế. Đó là hệ thống
chuỗi giá trị toàn cầu do nhà sản xuất chi phối (global value chain driven by
producer) và hệ thống chuỗi giá trị toàn cầu do thị trường hay người mua chi
phối (global value chain driven by marketer). Trong chuỗi giá trị toàn cầu do
nhà sản xuất chi phối, các doanh nghiệp sản xuất lớn đóng vai trò chủ đạo trong
hệ thống sản xuất (bao gồm cả các liên kết ngược chiều và xuôi chiều). Đây
chính là các ngành thâm dụng vốn và công nghệ cao như ô tô, máy bay, máy vi
tính, chất bán dẫn và chế tạo máy. Vai trò chủ đạo trong chuỗi giá trị này thuộc
về các công ty đa quốc gia và lợi nhuận sẽ phụ thuộc chủ yếu vào quy mô, số
lượng và sự vượt trội về công nghệ.
13
Chuỗi giá trị toàn cầu do thị trường hoặc người mua chi phối bao gồm các
nhà bán lẻ lớn, các nhà marketing, các nhà sản xuất có thương hiệu mạnh có vai
trò then chốt trong việc hình thành mạng lưới sản xuất tập trung ở các nước xuất
khẩu khác nhau trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Mô hình này là đặc trưng chung của các ngành thâm dụng lao động, sản xuất
hàng tiêu dùng như dệt may, da giầy, đồ chơi và điện dân dụng. Trong hệ thống
này các nhà thầu của thế giới thứ ba chịu trách nhiệm sản xuất sản phẩm cuối
cùng cho người tiêu dùng nước ngoài. Các nhà bán lẻ lớn hay các nhà bán buôn
đặt hàng cung cấp các sản phẩm với các đặc tính rõ ràng. Chuỗi giá trị toàn cầu
do người mua chi phối trái ngược với chuỗi giá trị toàn cầu do nhà sản xuất chi
phối là do chuỗi giá trị này được đặc trưng bởi cạnh tranh mạnh và hệ thống các
nhà máy sản xuất tập trung toàn cầu với rào cản nhập ngành thấp. Các công ty
có thương hiệu nổi tiếng kiểm soát hệ thống sản xuất trên phạm vi toàn cầu, hơn
nữa họ còn tác động đến lợi nhuận là bao nhiêu trong mỗi giai đoạn trong chuỗi
giá trị. Trong chuỗi giá trị toàn cầu do người mua chi phối lợi nhuận lại phụ
thuộc chủ yếu vào vào giá trị gia tăng cao trong R&D, thiết kế, marketing và
chiến lược kết nối các nhà sản xuất trên phạm vi toàn cầu và bán các sản phẩm ở
các thị trường tiêu dùng chính;
- Tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp: Giá trị gia tăng chỉ
bao gồm phần giá trị mới tăng thêm (mới sáng tạo ra) trong nền kinh tế. Chi phí
trung gian là toàn bộ chi phí vật chất và chi phí dịch vụ đã chi ra cho quá trình
sản xuất để tạo ra giá trị gia tăng đó. Chi phí trung gian không làm tăng thêm
của cải cho xã hội mà chỉ là tiêu dùng của cải vật chất và dịch vụ của quá trình
sản xuất. Mối quan hệ giữa giá trị sản xuất, giá trị gia tăng và chi phí trung gian
được thể hiện như sau:
GO = VA – IC hay VA = GO – IC
Khi nói đến tăng trưởng kinh tế, người ta thường chỉ quan tâm đến sự gia
tăng của phần giá trị mới sáng tạo ra VA theo giác độ ngành kinh tế. Theo công
14
thức trên, VA tỷ lệ thuận với GO và nghịch với IC. Do đó, tỷ lệ chi phí trung
gian là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất của xã hội và của
các ngành, tỷ lệ này càng thấp thể hiện sản xuất càng có hiệu quả cao. Nhưng
cũng lưu ý rằng sự đánh giá này phải dưới góc độ ngành cụ thể và xem xét sự
biến động theo thời gian, bởi không thể so sánh tỷ lệ chi phí trung gian giữa các
ngành.
- Tiêu hao năng lượng của sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt (2006), Tốc độ và chất
lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam [9] đề xuất các tiêu chí liên quan đến cấu
trúc của tăng trưởng liên quan đến cơ cấu của khối ngành. Cơ cấu nội bộ ngành
công nghiệp thể hiện cấu trúc bên trong của ngành, nó biểu hiện qua tỷ trọng của
các phần tử tạo nên cơ cấu và qua các quan hệ chặt chẽ hay lỏng lẻo giữa các
phần tử hợp thành. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp quyết định sự phát triển
hài hòa, nhịp nhàng, phù hợp với tiềm năng sẵn có của từng phân ngành và cuối
cùng đem lại kết quả tăng trưởng chung cho toàn bộ khối ngành. Có nhiều chỉ
tiêu nghiên cứu để phân tích cơ cấu ngành kinh tế, trong khuôn khổ đề tài này,
tác giả, trên cơ sở phân tích cơ cấu giá trị gia tăng của sản xuất công nghiệp
(VA) và cơ cấu giá trị sản xuất (GO) nội bộ ngành công nghiệp, cơ cấu lao động,
cơ cấu vốn đầu tư của ngành để đánh giá về cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nội bộ
ngành công nghiệp.
Mặt khác, cấu trúc tăng trưởng theo ngành công nghiệp: xem xét cấu trúc
tăng trưởng công nghiệp theo ngành nhằm nhận dạng vai trò của các phân ngành
công nghiệp đối với tăng trưởng của công nghiệp, kết hợp với trình độ phát triển
của các ngành, độ phù hợp của việc phát triển của các phân ngành với tiềm năng
và lợi thế so sánh vốn có của nó, qua đó có thể đánh giá trình độ phát triển của
ngành công nghiệp.
Cấu trúc tăng trưởng theo mức đóng góp của các yếu tố nguồn lực cho
tăng trưởng công nghiệp: đóng góp của vốn, lao động, TFP cho tăng trưởng
15
công nghiệp: Mặc dù hai chỉ tiêu năng suất lao động xã hội và hiệu quả sử dụng
vốn thường được sử dụng nhiều trong phân tích hiệu quả kinh tế, nhưng trên
thực tế, trong sản xuất có ba yếu tố chính làm tăng GDP: lao động, vốn sản xuất
có ba yếu tố chính làm tăng GDP: Lao động, vốn sản xuất và TFP. Nếu chỉ chia
GDP cho lao động hay lấy vốn đầu tư chia cho mức gia tăng GDP, thì những chỉ
số này không thể phản ánh đóng góp riêng của yếu tố năng suất. Năng suất chỉ là
phần tăng GDP sau khi trừ đi vai trò của việc tăng số lượng lao động và số
lượng tài sản cố định trong sản xuất. Phần thặng dư này phản ánh việc tăng chất
lượng tổ chức lao động, chất lượng máy móc, vai trò của quản lý và tổ chức sản
xuất, và được gọi chung là năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Nói một cách
khác, TFP là chỉ số phụ thuộc vào hai yếu tố: (1) tiến bộ công nghệ kỹ thuật và
(b) hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào.
TFP tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao trong đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế sẽ bảo đảm duy trì được tốc độ tăng trưởng dài hạn và tránh được những
biến động kinh tế từ bên ngoài. Có thể thấy, tốc độ tăng TFP và đóng góp TFP
vào tăng trưởng kinh tế là chỉ tiêu phản ánh đích thực và khái quát nhất hiệu quả
sử dụng nguồn lực sản xuất, làm căn cứ quan trọng để đánh giá tính chất phát
triển bền vững của kinh tế, là cơ sở để phân tích hiệu quả sản xuất xã hội, đánh
giá tiến bộ khoa học công nghệ, đánh giá trình độ tổ chức, quản lý sản xuất,…
của mỗi ngành, mỗi địa phương hay mỗi quốc gia.
Tốc độ tăng TFP được tính theo công thức GTFP = gY – (α.gK + βgL)
Trong đó, gY là tốc độ tăng GDP, gK là tốc độ tăng vốn hoặc tài sản cố
định, gL là tốc độ tăng lao động làm việc, α và β lần lượt là hệ số đóng góp của
vốn và lao động (α + β =1), thường được xác định bằng phương pháp hạch toán
tăng trưởng hoặc dựa trên hàm sản xuất Cobb-Douglas.
Thứ ba, Trần Thọ Đạt (2007), Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế
Việt Nam [9] cho rằng, đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành cũng cần
đánh giá mức độ tác động lan toả của tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh tế.
16
Trong đó, xem xét ảnh hưởng của tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh tế nhằm
tìm ra những đóng góp của tăng trưởng ngành công nghiệp tới nền kinh tế. Đóng
góp của tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh tế càng cao cho thấy chất lượng
tăng trưởng cao của ngành. Việc xem xét ảnh hưởng của tăng trưởng công
nghiệp tới nền kinh tế có thể được xem xét dưới các khía cạnh sau:
- Đóng góp của tăng trưởng công nghiệp trong tăng trưởng chung của nền
kinh tế;
- Tăng trưởng công nghiệp và giải quyết việc làm cho nền kinh tế;
- Tăng trưởng công nghiệp và tăng trưởng xuất khẩu: co giãn tăng trưởng
công nghiệp và tăng trưởng xuất khẩu hoặc tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm
công nghiệp;
- Ô nhiễm môi trường của sản xuất công nghiệp: Tăng trưởng kinh tế cùng
với việc tổ chức sản xuất của con người luôn gắn liền với việc khai thác các
nguồn tài nguyên và môi trường thiên nhiên để sản xuất. Tăng trưởng kinh tế và
sử dụng tài nguyên môi trường có mối quan hệ với nhau và được xem xét qua rất
nhiều chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chính sau đây: Nhịp tăng trưởng của GDP
và giá trị gia tăng của các ngành trong tương quan so sánh với mức độ cạn kiệt
tài nguyên và tình hình ô nhiễm môi trường.
Thêm vào đó, Hồ Tuấn (2009), Giải pháp nâng cao chất lượng tăng
trưởng công nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (nghiên
cứu điển hình ngành dệt may) [104] đã hệ thống hoá lý luận và thực tiễn tăng
trưởng và chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Dệt may và đề xuất các
giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành dệt may của Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập. Tác giả cũng đã đưa ra một số tiêu chí đặc thù đánh giá một
cách cá biệt chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp dệt may Việt Nam.
Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu
ngành của nền kinh tế tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam [101] cũng đã chỉ ra
cơ sở lý luận của chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam tác động tới khả năng
17
tăng trưởng của các ngành và cả nền kinh tế, từ đó đưa ra các giải pháp thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phát triển dài hạn của nền kinh tế. Tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tăng trưởng
của cả nền kinh tế mà không tập trung nghiên cứu bản chất bên trong của quá
trình tăng trưởng của từng ngành.
Hồ Hữu Nghĩa (2011), Chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp điện
tử Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế [102] nghiên cứu các quan
điểm, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành công
nghiệp điện tử trong điều kiện Việt Nam, đánh giá chất lượng tăng trưởng của
ngành này, phân tích các yếu tố tác động tới chất lượng tăng trưởng của ngành
công nghiệp đặc thù điện tử nhằm nâng cao khả năng đóng góp của ngành cho
tăng trưởng công nghiệp. Nghiên cứu không đánh giá chất lượng tăng trưởng
của toàn ngành công nghiệp và vai trò của nó trong tăng trưởng chung của toàn
nền kinh tế.
Phạm Đình Thuý (2014), Phát triển ngành cơ khí theo hướng bền vững
[103] làm rõ tư duy phát triển bền vững của các ngành công nghiệp, cụ thể là
ngành cơ khí và đưa ra hệ thống chỉ tiêu đánh giá phát triển ngành cơ khí bền
vững của Việt nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển các chuỗi giá trị
công nghiệp toàn cầu. Tác giả cho rằng, để phát triển ngành công nghiệp theo
hướng bền vững, cần xây dựng đề án phát triển trên cơ sở các căn cứ khoa học
và có tầm nhìn dài hạn, có xem xét phát triển công nghiệp trong bối cảnh toàn
cầu hóa và cạnh tranh quốc tế. Trong thời đại công nghiệp 4.0, khung khổ pháp
lý cho phát triển công nghiệp cần được hoàn thiện nhằm tạo điều kiện nền tảng
phù hợp cho phát triển ngành công nghiệp nói chung và công nghiệp cơ khí nói
riêng. Các chính sách ưu đãi về tài chính và các giải pháp theo dõi đánh giá chất
lượng phát triển của ngành công nghiệp cũng cần được chú trọng.
Cuối cùng, Tổng cục thống kê, Bùi Trinh và các cộng sự trong nhiều
18
nghiên cứu, đặc biệt là trong Bùi Trinh và các cộng sự (2007), Phân tích cơ cấu
kinh tế của Việt Nam: ứng dụng bảng cân đối liên ngành (I-O) 1989, 1996, 2000
[32] và Bùi Trinh và các cộng sự (2012), Cơ cấu kinh tế mới của Việt Nam
hướng tới tăng trưởng bền vững đến năm 2020 [30] đã xây dựng, hoàn thiện
phương pháp đánh giá phân tích cơ cấu kinh tế, phân tích mối liên kết và tác
động lan toả, độ nhạy giữa các ngành trong nền kinh tế thông qua sử dụng bảng
cân đối liên ngành vào – ra (bảng I-O). Phương pháp này có thể được sử dụng để
phân tích, đánh giá cơ cấu kinh tế, vai trò “động lực” của các phân ngành trong
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng chung của toàn ngành
và của nền kinh tế. Từ đó, có thể xây dựng cơ sở khoa học cho các nhà hoạch
định chính sách trong việc định hướng phát triển các phân ngành kinh tế, nhằm
nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Qua nghiên cứu các công trình nói trên tác giả rút ra những nhận xét sau:
+ Một số tác giả đã nêu cơ sở lý luận về lý luận tăng trưởng kinh tế.
Những lý luận này được một số nghiên cứu xem xét ở góc độ vĩ mô của nền
kinh tế.
+ Chất lượng tăng trưởng của các ngành cụ thể chủ yếu được đánh giá qua
một vài tiêu chí liên quan trực tiếp đến ngành cấp ba như tốc độ tăng trưởng, giải
quyết việc làm, năng suất lao động,…
Tuy nhiên, theo tác giả những công trình nghiên cứu trên vẫn có những hạn
chế như sau:
+ Không có hoặc rất ít tổng quan về các đề tài có liên quan để người đọc có
thể thấy khả năng mở rộng và nghiên cứu của người thực hiện đề tài.
+ Một số công trình có phần lý luận đề cập đến các tiêu chí đánh giá chất
lượng tăng trưởng ngành cấp ba nhưng trong đánh giá thực trạng các tiêu chí
đánh giá đối với sự lan toả khả năng tăng trưởng và kết quả tăng trưởng đối với
xã hội; mối liên kết giữa các ngành trong nền kinh tế không được làm rõ;
+ Có nhiều công trình nghiên cứu về tổng thể ngành công nghiệp, tuy vậy,
19
các công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng tăng trưởng của một khối
ngành thì còn khiêm tốn.
+ Thời gian nghiên cứu cách đây nhiều năm nên một số tiêu chí đánh giá
hiệu quả, chất lượng, giải pháp đã không còn phù hợp trong bối cảnh Việt Nam
hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới như hiện nay với việc tham
gia vào các hiệp định TPP và các hiệp định song phương khác nhau. Các chính
sách phát triển kinh tế, đặc biệt đối với lĩnh vực công nghiệp, đầu tư, vai trò của
nhà nước trong nền kinh tế của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi trong thời gian
gần đây khiến các giải pháp gợi ý của các nghiên cứu trở nên thiếu hợp lý.
1.2.Các công trình nghiên cứu ngoài nước có liên quan
(1) Về chất lượng tăng trưởng và vai trò của các yếu tố nguồn lực với
tăng trưởng
Về mặt lý thuyết mang tính kinh điển, các trường phái kinh tế (từ cổ điển
đến hiện đại) đều cho rằng mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt
quan điểm cơ bản về sự tăng trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối
quan hệ giữa chúng. Mỗi mô hình tăng trưởng đều nhấn mạnh đến yếu tố đầu
vào mang tính quyết định đến tăng trưởng khác nhau. Harrod-Domar [8] cho
rằng vốn đầu tư luôn đóng vai trò quyết định, trong khi đó Robert Solow [8, 86]
lại quả quyết rằng vốn đầu tư chỉ đóng vai trò quyết định đến tăng trưởng trong
ngắn hạn, còn trong dài hạn thì phải là công nghệ và mong muốn thúc đẩy công
nghệ của quốc gia. Các mô hình tăng trưởng hiện đại thì quy trở về nhân tố vốn
đóng vai trò quyết định những không phải là vốn vật chất, mà là vốn con người
và khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải tiến công nghệ, biểu thị ở yếu tố
năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).
Những nghiên cứu thực nghiệm cuối thế kỷ 20 như của Barro (1991),
Economic Growth in a Cross-section of Countries [42] hay Temple (1999), The
Third Generation of Economic Growth, Lindauer (2002) [69] đã nhấn mạnh cụ
20
thể hơn đến vai trò quan trọng của yếu tố trình độ học vấn, chất lượng nguồn
nhân lực hay cơ chế chính sách, hệ thống chính trị.
Việc xác định yếu tố đóng vai trò động lực cho tăng trưởng ngành và của
nền kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia, thể hiện ở
các xu hướng biến đổi của lợi thế nguồn lực nảy sinh trong từng giai đoạn phát
triển khác nhau. Kết luận này thể hiện qua nhiều nghiên cứu thực tiễn: Krugman,
P. và Obstfeld, M (1991), International Economics – Theory and Policy [66], và
Mô hình đàn nhạn bay của Akamashu (trích trong Lê Du Phong và Nguyễn
Thành Độ (1999) [25] đã đồng nhất quan điểm: các quốc gia càng phát triển hơn
thì lợi thế vốn và công nghệ càng thể hiện rõ nét hơn, trong khi các quốc gia
đang phát triển lại thể hiện lợi thế về lao động và tài nguyên. Điều đó cho thấy:
việc chuyển đối cơ cấu kinh tế, cơ cấu nội bộ từng ngành kinh tế nhằm thúc đẩy
tăng trưởng và duy trì tính bền vững của tăng trưởng là vấn đề cần thiết khách
quan.
Vai trò của chính sách nhà nước đối với việc thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu nội bộ ngành kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng và duy trì tính bền
vững của quá trình tăng trưởng cũng được thể hiện rõ ở các nghiên cứu của
Samuelson (2001), Economics [84], Begg (2008) [43]; Gillis và các cộng sự
(2001), Economics of Development [58]; Torado (1985), Economic
Development in the Third World [94]; Killick (1993), The Adaptive Economy:
Adjustment Policies in Small, Low-Income Countries [64].
Lindauer, D [69] đã tổng quan nguồn gốc cơ bản của tăng trưởng kinh tế
từ các lý thuyết khác nhau: nội sinh, bán ngoại sinh và ngoại sinh như hình dưới
đây.
Trong đó: Y, K, L, N lần lượt là quy mô, vốn, lao động và tài nguyên của
nền kinh tế; A là tổng năng suất các yếu tố (TFP); S là vốn xã hội và t là thời
gian. Nhiều học giả học giả kinh tế, đặc biệt là Krugman và Wells [66]; và
21
Serven, L. và Solmano, A. [85], đã sử dụng hàm sản xuất của nền kinh tế được
viết dưới dạng của hàm Cobb-Douglas biến đổi:
GDP = Yt
Y = f (K, L) hoặc Y = A f(K,L)
Yếu tố sản xuất = Kt + Nt + Lt
Năng suất = At
Hội nhập kinh tế quốc tế
Thể chế = St
Nội sinh
Biến ngoại sinh
Ngoại sinh
Nguồn lực tự nhiên + khí hậu + địa hình + sinh thái
Hình 2. Nguồn gốc cơ bản của tăng trưởng kinh tế
Nguồn: [69]
Theo Temple, J. [91], TFP thể hiện sự cải tiến về trình độ công nghệ sản
xuất tạo điều kiện cho vốn và lao động được sử dụng hiệu quả hơn. Còn theo
Solow, R. M. [86], TFP cho biết năng suất của vốn và lao động trong một nền
kinh tế như thế nào. Hay nói cách khác, nó cho chúng ta biết nền kinh tế có thể
tạo ra sản lượng là bao nhiêu từ một đơn vị vốn và một đơn vị lao động.
Từ hàm sản xuất như vậy, tăng trưởng kinh tế có thể được chia thành 2
dạng: (i) tăng trưởng theo chiều rộng (tức là dựa vào sự mở rộng của vốn và lao
động) và (ii) tăng trưởng theo chiều sâu (tức là dựa vào năng suất) [85]. Tăng
trưởng theo chiều sâu có nghĩa là sử dụng cùng một lượng vốn và lao động hiệu
quả hơn. Nếu tăng trưởng có được dựa trên sự tăng thêm của lao động thì nó khó
có thể làm tăng được mức thu nhập bình quân đầu người. Do đó, các quốc gia
đều mong muốn có được một sự tăng trưởng theo chiều sâu và lúc đó các quốc
gia sẽ hướng đến sự phát triển kinh tế.
22
Về xu hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp,
các nghiên cứu đều nêu bật tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tăng
trưởng ngành công nghiệp là ưu tiên hàng đầu trong thúc đẩy chất lượng tăng
trưởng chung của nền kinh tế, nhất là đối với những nền kinh tế đang phát triển.
Theo quan điểm của Lindauer, D. (2002), The Third Generation of Economic
Growth [69], chất lượng tăng tưởng thể hiện trên hai khía cạnh: tốc độ tăng
trưởng cao cần được duy trì trong thời gian dài hạn và tăng trưởng cần phải đóng
góp cải thiện một cách bền vững vào xoá đói giảm nghèo. Lucas (1993),
Government Spending and Economic Growth [68], Serven, L. and Solimano, A.
(1993), Striving for Growth After Adjustment: The Role of Capital Formation
[85], và Stinglitz (2000), Economics of Public Sector [88] lại cho rằng, chất
lượng tăng trưởng biểu hiện tập trung ở các tiêu chuẩn chính sau: (1) TFP cao,
đảm bảo việc duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn và tránh được những biến động
từ bên ngoài; (2) tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; (3) tăng trưởng đi kèm với phát triển
môi trường bền vững; (4) tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới,
đến lượt nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở tỷ lệ cao hơn; và (5) tăng trưởng phải
đạt mục tiêu cải thiện phúc lợi và xoá đói giảm nghèo. Đây cũng là những kết
luận có giá trị khi bàn đến việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt nam
thời gian tới.
(2) Về mối quan hệ giữa tăng trưởng, chất lượng tăng trưởng với nguồn
lực tài chính
Ngoài các nghiên cứu mang tính chất kinh điển như Smith (trong Của cải
các dân tộc (1776), Kenyes (1936), hay trong mô hình tăng trưởng Harrod –
Domar (1940) [8], những nghiên cứu thực nghiệm gần đây đã khẳng định vai trò
của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế.
Một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (1993) và nghiên cứu gần đây
hơn của Stiglitz, J. (2005), Economics of Public Sector [87] và Stiglitz, J. và
23
Yusuf, S. (2002), Rethinking the East Asia Miracle [88] và Kanchana
Wanichkorn (2013), Investment, Innovation and Technology for Development:
Thailand’s Experiences [62] về vai trò của tiết tiệm đầu tư với tăng trưởng kinh
tế cho thấy nguyên nhân tạo ra thần kỳ Đông Á là tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao.
Do duy trì được tỷ lệ đầu tư vốn cao (khoảng 30-50% GDP) để thực hiện công
nghiệp hóa, dẫn đến tăng trưởng kinh tế cao mà không rơi vào thâm hụt tài
khoản vãng lai lớn, giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mô.
Lucas, O. (1993), Government Spending and Economic Growth [68] cũng
đã khẳng định vai trò của đầu tư đối với quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam
thời gian qua, tăng tốc độ huy động vốn đã đóng góp tích cực vào việc đáp ứng
nhu cầu đầu vào cho tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, Perkins (2007), Economics of Development [79] cho rằng: sẽ
là sai lầm nếu coi tốc độ huy động vốn là yếu tố dẫn dắt tăng trưởng chung như
mô hình tăng trưởng kiểu “tỷ trọng vốn – sản lượng”, mô hình giả định tăng tốc
huy động vốn sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng; ở vào thời điểm quyết định thúc
đẩy tăng trưởng, các nhân tố thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn đóng vai trò quan
trọng với nâng cao chất lượng tăng trưởng hơn là quy mô huy động vốn. Các
nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện hiệu quả sử dụng các
nguồn lực cho tăng trưởng, đặc biệt là nguồn lực tài chính và khoa học công
nghệ tới tăng trưởng có chất lượng cao.
Về mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng, các nghiên cứu gần đây nhấn
mạnh đến yêu cầu thay đổi hướng đầu tư phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế
của từng nước. Krugman (1991), International Economics – Theory and Policy
[66], hay các tác giả khác như Ogundipe, M. A. và Aworinde, O. B. (2011)
[77], Easterly (1993), Fiscal Policy and Economic Growth , Journal of
Monetary Economics [54] đã rút ra những kết luận mang tính đặc trưng về sự
lựa chọn cơ cấu đầu tư phù hợp với từng giai đoạn phát triển của các nước Đông
Nam Á từ thập niên 60 của thế kỷ 20 đến nay, đó là: sự chuyển đổi từ đầu tư chủ
24
yếu vào những ngành, lĩnh vực thâm dụng lao động (thập niên 60,70), đến đầu
tư vào những ngành có vốn và lao động ngang nhau (thập niên 80, 90) và hiện
nay là đầu tư vào lĩnh vực, sản phẩm thâm dụng vốn. Một nghiên cứu khác về
các nước Đông Nam Á của Stiglitz (2002) cho rằng, các nước Đông Á thành
công là do họ biết phân chia hợp lý vốn đầu tư cho các yếu tố tăng trưởng, nhất
là sự quan tâm của các nước này đối với đầu tư nhằm nâng cao TFP như đầu tư
công nghệ, đầu tư vào vốn con người v.v…
Trong nghiên cứu của mình, Barro [42] đã lượng hóa các biến mà ông coi
đó là đầu ra của quá trình tăng trưởng hay chất lượng tăng trưởng như tỷ lệ tội
phạm giết người, tham nhũng, yếu tố hồi giáo (phù hợp với hoàn cảnh của Hoa
Kỳ), ô nhiễm môi trường (không khí, nước),… Đơn giản hơn và dễ dàng đối
sánh hơn, John R Baldwin et al. [61] đã đưa ra một mô hình đo lường chất lượng
tăng trưởng, có thể thể hiện bằng một chỉ số. Cách thức này khá dễ dàng được
định lượng ở các quốc gia khác nhau dựa trên những biến số vĩ mô không quá
phức tạp. Trong đó, nền tảng tăng trưởng được dựa trên 4 yếu tố: độ mạnh, độ
biến thiên, thành phần ngành và thành phần cầu. Ở đây đô ̣ ma ̣nh vớ i đa ̣i diê ̣n là GDP bình quân đầu ngườ i; đô ̣ biến thiên thể hiê ̣n tính ổ n đi ̣nh củ a tố c đô ̣ tăng trưở ng; thành phần ngành thể hiê ̣n sự đa da ̣ng trong mă ̣t hàng xuất khẩu; và thành phần cầu thể hiê ̣n đô ̣ lớ n củ a cầu bên ngoài thuần so GDP. Đối với hệ quả xã hội được thể hiện dựa trên những chỉ số về y tế và giáo dục.
Điểm hạn chế của chỉ số này là nó thiếu yếu tố về môi trường. Ngoài ra,
cũng giống như nghiên cứu của Barro (2002)[42], nghiên cứu này mới chỉ đề
cập đến phần kết quả của quá trình tăng trưởng chưa đề cập đến các yếu tố đầu
vào hay hộp đen để giải thích kết quả đó.
Trong khi đó, Liên hợp quốc định nghĩa về chất lượng tăng trưởng không
hề đơn giản do không dễ gì định lượng được mọi mặt của tăng trưởng. Đôi khi
những đánh giá mang tính định tính lại rất có ý nghĩa. Chính vì lý do đó mà chất
lượng tăng trưởng kinh tế cần phải được phân tích theo nhiều cấp độ.
25
Chất lượng tăng trưở ng
Lan tỏa đến xã hội Các khía cạnh của tăng trưởng
Chăm sóc y tế Quy mô
Chất lượng GD Nhịp tăng
Cấu trúc ngành
Môi trường sinh thái
Mức sống Cơ cấu tổng cầu
Hình 3. Chỉ số chất lượng tăng trưởng
Nguồn: [61]
Chất lượng tăng trưởng càng cao thì độ bao trùm về xã hội và địa lý càng
rộng. Trong quá trình phát triển kinh tế, chất lượng tăng trưởng cao sẽ đảm bảo
rằng mức độ bao trùm đối với các vấn đề về con người càng lớn như giảm bớt sự
bất bình đẳng về thu nhập, cải thiện sức khoẻ và giáo dục của người dân. Ngoài
ra, tăng trưởng kinh tế được coi là đạt chất lượng cao khi đạt được bền vững về
môi trường. Sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và năng lực tái sinh
của môi trường có thể làm suy yếu sự thịnh vượng kinh tế của các thế hệ tương
lai. Từ quan điểm kinh tế, chất lượng tăng trưởng cao phải hướng đến sự bền
vững. Ngoài ra, một quốc gia đang phát triển mạnh sẽ không ngừng tăng cường
khả năng cạnh tranh toàn cầu của mình. Năng lực cạnh tranh của một quốc gia
cũng chính là thể hiện một phần chất lượng tăng trưởng kinh tế và phát triển con
người của quốc gia đó. Từ các ý kiến trên, các tác giả đề xuất 05 yếu tố cần thiết
để tăng trưởng kinh tế đạt chất lượng cao, bao gồm: (1) đảm bảo tái sản xuất các
26
nguồn lực và tri thức cần thiết đối với phát triển con người; (2) củng cố sự gắn
kết xã hội; (3) bền vững về môi trường; (4) bền vững về kinh tế và (5) gắn kết
với những thay đổi sâu sắc về mặt cấu trúc. Đồng thời, cần lưu ý rằng các chính
sách của chính phủ đóng vai trò quan trọng đối với cả chất lượng tăng trưởng và
hiệu chỉnh các lỗi sản xuất và phân phối vốn gắn liền với nền kinh tế thị trường.
Tổng quát lại, Thomas V. và các cộng sự [93] đã đưa ra một khung lý thuyết thể hiện mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô với chất lượng tăng trưởng. Khung lý thuyết này đã thể hiện một quá trình có tính tuần hoàn bao gồm cả nguyên nhân và kết quả của chất lượng tăng trưởng. Đây là điểm khác biệt đối với hầu hết các nghiên cứu khác khi tập trung nghiên cứu đầu ra hay kết quả của quá trình tăng trưởng rồi từ đó phân tích chất lượng tăng trưởng. Tuy nhiên, việc đo lường chất lượng tăng trưởng của mô hình này vẫn khá phức tạp với những biến số không dễ dàng để lượng hóa.
Chất lượng tăng trưởng
Tăng trưởng bền vững Tăng trưởng đổi mới Tăng trưởng cân đối Tăng trưởng bao trùm Tăng trưởng an toàn
Nền kinh tế tri thức: vượt qua bẫy thu nhập trung bình
Các đánh đổi; đồng vận; ưu tiên; cân đối kinh tế vĩ mô; cân bằng tài khóa
Tăng trưởng xanh
An ninh con người
Việc làm và PT bao trùm
Cải cách cơ cấu; Phát triển nhân lực và doanh nghiệp
27
Hình 4. Những khung nghị sự chất lượng tăng trưởng khác nhau
Nguồn: [45]
Có thể thấy rằng, tất cả các cách lý giải, mô hình đều có những mă ̣t ma ̣nh
và mặt ha ̣n chế củ a nó . Việc lựa chọn một cách thức đo lường, đánh giá chất
lượng tăng trưởng sẽ cần phải dựa trên một số các yếu tố khác, đặc biệt là dựa
trên bối cảnh và trình độ, đặc trưng phát triển của quốc gia.
(3) Về vai trò của nhà nước trong nâng cao chất lượng tăng trưởng
Lý thuyết kinh tế đề cao kết luận của Samuelson [84], Sliglitz (2002),
Rethinking the East Asia Miracle [88]; Ghosal, V. and Nair-Reichert, U. (2009),
Investments in modernization, innovation and gains in productivity: Evidence
from firms in the global paper industry [57] và một số nhà kinh tế như Perkins,
Lindauer, Steven trong những bài viết (Economics of Development, xuất bản lần
thứ 6, 2006) đã khẳng định vai trò của nhà nước đối với quá trình tăng trưởng
kinh tế, thông qua: giải quyết những vấn đề thị trường can thiệp không thành
công, thực hiện những hoạt động thị trường không can thiệp, tiến hành những
hoạt động nhà nước không muốn để thị trường can thiệp và cuối cùng là định
hướng và điều chỉnh sự phát triển kinh tế theo các mục tiêu nhà nước cần đạt
được.
H (vốn con người)
T
FP
Phúc lợi
Tác động
K (vốn vật chất)
Quản trị tốt và không tham nhũng; Giảm sự bóp méo đối với K; Sửa thất bại của thị trường làm suy giảm yếu tố H và R; Nâng cao hiệu lực pháp lý.
T
FP
R (vốn tự nhiên)
Hình 5. Khung chất lượng tăng trưởng
28
Nguồn: [93]
Trên thực tế, Trên thực tế, sự thành công của Trung Quốc trong tăng
trưởng (ít ra là đến thời điểm này) và của Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước
NIC…, nhất là sau thời kỳ khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra vào
tháng 10/2008 từ Hoa Kỳ, đã khẳng định sự thất bại của thuyết (chủ nghĩa) tân
tự do trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; nhiều
nhà khoa học cho rằng: cuộc khủng hoảng lần này cho thấy nhiều nước (trong đó
có nước Mỹ) cần thiết phải xem xét lại triết lý và mô hình tăng trưởng kinh tế
hiện tại đang áp dụng, trong đó đặc biệt cần phải xem xét quan điểm về vai trò
kinh tế của nhà nước. Như vậy, về nguyên lý, nội dung vai trò của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường là điều đã được khẳng định, sự khác nhau trong các
quan điểm và thực hành thực tế chủ yếu là mức độ can thiệp, cách thức can thiệp
và các công cụ sử dụng để can thiệp.
Để nhà nước có thể thực hiện sự can thiệp thành công vào nền kinh tế, cần
phải củng cố và sử dụng có hiệu quả các công cụ can thiệp, trong đó có việc sử
dụng lực lượng kinh tế nhà nước bao gồm chi tiêu công, đầu tư công và các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là thành tố quan trọng. Đó cũng là những nhận
định của các nghiên cứu về vai trò của nhà nước. Trong các chức năng can thiệp
vào nền kinh tế, nhà nước có vai trò quan trọng đối với quá trình đầu tư phát
triển. Nghiên cứu của Yingyi Qian [99], Chính phủ kiểm soát công tác quản trị
doanh nghiệp, đã nhấn mạnh đến: (1) nhà nước sử dụng các công cụ chính sách
tài chính để can thiệp vào thị trường đầu tư; (2) nhà nước sử dụng đầu tư công
với tư cách là công cụ thúc đẩy và hỗ trợ cho đầu tư tư nhân và thực hiện các
định hướng phát triển nhà nước cần đạt được; (3) Hỗ trợ đầu tư cho doanh
nghiệp và khuyến khích các DNNN đầu tư vốn để bảo đảm cung ứng các hàng
hóa mà khu vực tư nhân không đảm nhận. (4) Về vai trò của khoa học-công
nghệ đối với tăng cường chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp
29
Tầm quan trọng của khoa học - công nghệ và đổi mổi mới đầu tư khoa
học – công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế đã thu hút sự tham gia của nhiều
học giả và những kết quả nghiên cứu trên thế giới cả về lý luận và thực tiễn là
phong phú. Tiêu biểu có một số nghiên cứu như sau:
Ở cấp độ vĩ mô, gần đây, Raouf Boucekkine và đồng sự (2011) Tăng
trưởng dưới hạn mức ô nhiếm: Nghiên cứu tối ưu, chính sách thay thế và đầu tư
[82] nghiên cứu một mô hình tăng trưởng tối ưu của một nền kinh tế, có xét đến
vấn đề hạn ngạch ô nhiễm, đã chỉ ra rằng những nền kinh tế có ngành R&D hoạt
động kém hiệu quả sẽ cần phải tăng thêm hạn ngạch ô nhiễm nếu muốn đạt được
tăng trưởng cân bằng trong dài hạn. Trong khi đó những nền kinh tế có hoạt
động R&D hiệu quả có thể cung cấp một phần hạn ngạch ô nhiễm mà vẫn không
gây tác động xấu tới tăng trưởng bền vững của họ trong dài hạn. Về lý thuyết,
nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh vai trò của tri thức, khoa học - công nghệ như
nguồn lực quan trọng nhất và đổi mới công nghệ là động lực liên tục của tăng
trưởng kinh tế. Theo tổ chức OECD (2007) Review of China’s Innovation
System and Policy (Tổng quan về chính sách và hệ thống đổi mới của Trung
quốc) [75], đổi mới thông qua ứng dụng thành công khoa học - công nghệ vào
thị trường là yếu tố tiên quyết tới khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của
các quốc gia.
Ở cấp độ vi mô, Anderson, E., de Renzio, P. và Levy, S. , The Role of
Public Investment in Poverty Reduction: Theories, Evidence and Methods (Vai
trò của đầu tư công trong giảm nghèo: lý thuyết, kinh nghiệm và phương
pháp)[38] lập luận rằng đổi mới là yếu tố đảm bảo tăng trưởng bền vững trong
dài hạn cho các doanh nghiệp liên tục đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D)
các quy trình và sản phẩm mới. Sau đó, Nguyen Thi Nguyet (2012), Technology
– development investment and firm productivity in developing counries [72] lý
giải khi các doanh nghiệp đổi mới, họ tức thời trở thành nhà cung cấp độc quyền
các sản phẩm và dịch vụ mới ra thị trường, có thể tạo ra lợi nhuận và có thêm
30
những doanh nghiệp mới tham gia thị trường nhằm đưa cung cầu hàng hóa về
mức cân bằng. Do vậy, để luôn đạt được lợi nhuận kỳ vọng, doanh nghiệp cần
thiết phải liên tục đổi mới các quy trình công nghệ và/hoặc hạn chế khả năng đối
thủ cạnh tranh bắt chước công nghệ của mình.
Đầu tư khoa ho ̣c và công nghê ̣ nhằm phát triển năng lực công nghệ ở một
doanh nghiệp không những có thể tạo ra ngoại ứng cho nội tại doanh nghiệp đó,
trong ngành đó và có khi cho cả nền kinh tế thông qua các hoạt động như bắt
chước, chuyển giao kỹ năng lao động, và các hình thức lan truyền phi thị trường
khác. Những ngoại ứng này tạo điều kiện phát triển năng lực công nghệ cho các
hãng khác như nghiên cứu của Antje Schimke- Thomas Brenner (2011),
Temporal Structure of Firm Growth and the Impact of R&D [39] và
Anandarajan et al. (2007), The Effect of Innovative Activity on Firm
Performance: The Experience of Taiwan [37].
Dựa trên các lý thuyết, có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả đầu
tư khoa học – công nghệ được thực hiện trên nhiều phạm vi khác nhau, đáng chú
ý là những nghiên cứu sau:
OECD (2000), Science, Technology and Innovation in the New Economy,
Policy Brief Review [74] nghiên cứu tại 07 nước OECD trong giai đoạn 1975
đến 1996 với 16 ngành kinh tế cho thấy, trong ngắn hạn, đầu tư cho R&D hiệu
ứng tích cực đối với tăng trưởng GDP – thể hiện qua sự biến thiên trong nhu cầu
thị trường; hiệu ứng đối với tăng trưởng của các ngành sản xuất lại không được
ghi nhận một cách tích cực trong dài hạn. Khám phá mới được nghiên cứu rút ra
rằng hiệu ứng của đầu tư phát triển và ứng dụng khoa học-công nghệ đối với
từng ngành sản xuất cụ thể là rất khác nhau cả trong ngắn hạn và dài hạn, tuỳ
thuộc vào trình độ phát triển và cơ cấu nguồn lực đầu vào, cũng như ở quy mô
phát triển.
Nghiên cứu của Xibao Li (2008), External Technology Purchaseand
Indigenous Innovation Capability in ChineseHi-Tech Industries [98] tập trung
31
khảo cứu tác động của ba hình thức ứng dụng công nghệ đến đổi mới tại các
doanh nghiệp trong nhiều ngành công nghệ cao ở Trung Quốc phát hiện những
luận cứ đáng lưu ý: đầu tư thuần túy vào công nghệ nhập ngoại không giúp cải
thiện đổi mới trong các doanh nghiệp nhà nước, các công nghệ nhập nội có tác
động trực tiếp, tích cực tới quá trình đổi mới, và tiếp cận và ứng dụng công nghệ
ở các ngành khác nhau cần có chiến lược khác nhau để đạt được hiệu quả như
mong muốn.
Nghiên cứu của Phillip A. Griffifths (2013), Strenthening Science and
Technology in the Developing World [81] và của Raouf Boucekkine et al.
(2011), Sustainable growth under pollution quotas: optimal R&D, investment
and replacement policies [82] và OECD, DSIT/STP (2003) Review of China’s
Innovation System and Policy [75] về đánh giá hiệu quả đầu tư R&D và nhập
khẩu công nghệ đối với nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp tại
Thượng Hải, Trung Quốc. Đồng thời, Kuen-Hung Tsai et al. (2002), An
Examination of Taiwan’s Innovation Policies and R&D Performance [67] chỉ ra
tầm quan trọng trong tác động lan toả của công nghệ nhập khẩu với năng suất,
đồng thời tác động gián tiếp nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh
nghiệp trong nước, từ đó thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và triển khai ở nội tại các
doanh nghiệp trong nước.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Từ yêu cầu phải làm rõ những vấn đề lý thuyết và thực tiễn đối với vấn đề
tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp để vận dụng vào
việc nghiên cứu chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của Việt Nam, tác
giả đã thu thập 104 tài liệu tham khảo có liên quan (36 tài liệu tiếng Việt, 64 tài
liệu tiếng nước ngoài và 4 luận án tiến sĩ). Trên cơ sở tài liệu thu thập được, tác
giả đã tìm hiểu những quan điểm và cách tiếp cận nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến đề tài. Trên cơ sở đó, trả lời các câu hỏi đâu là những luận điểm đã
được đề cập, đâu là những kết quả nghiên cứu tác giả có thể kế thừa trong đề tài
32
của luận án, đâu là khía cạnh luận án có thể tiếp tục đào sâu nghiên cứu làm rõ
cả về lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó, tác giả nhận thấy, lựa chọn bộ tiêu chí,
chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập, lựa chọn phương pháp nghiên cứu lan toả thông qua hệ số
ngành kéo, ngành đẩy trên cơ sở ứng dụng bảng cân đối liên ngành Leon tief là
khả dĩ về mặt lý luận và thực tiễn để đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành
công nghiệp Việt Nam, đây cũng là một điểm mới đáng lưu tâm của luận án.
33
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤ T LƯỢNG
TĂNG TRƯỞ NG CÔNG NGHIỆP
2.1. Cơ sở lý luận về chấ t lươ ̣ng tăng trưở ng ngành công nghiê ̣p
2.1.1. Khái niệm chất lượng tăng trưởng
2.1.1.1 Tăng trưởng kinh tế về mặt lượng
Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời
gian, quan niệm về phát triển cũng đã đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế theo
nghĩa chung nhất là quá trình tăng tiến toàn diện và ổn định về mọi mặt kinh tế,
văn hóa, xã hội của một quốc gia, trong đó bao gồm sự thay đổi về lượng và sự
nhảy vọt về chất của nền kinh tế. Sự thay đổi về lượng của phát triển kinh tế
được hiểu là quá trình tăng trưởng kinh tế, còn sự thay đổi về chất bao gồm quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và sự tiến bộ xã hội.
Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời
gian quan niệm về phát triển cũng đã đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế theo
nghĩa chung nhất là quá trình tăng tiến toàn diện và ổn định về mọi mặt kinh tế,
văn hóa, xã hội của một quốc gia, trong đó bao gồm sự thay đổi về lượng và sự
nhảy vọt về chất của nền kinh tế. Sự thay đổi về lượng của phát triển kinh tế
được hiểu là quá trình tăng trưởng kinh tế, còn sự thay đổi về chất bao gồm quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và sự tiến bộ xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở
quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn
tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự
gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu
hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ
tiêu và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người.
34
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền
kinh tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế, sự tiến bộ và công bằng xã hội chính là
mục tiêu cuối cùng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh sự thay đổi về chất của
nền kinh tế còn tăng trưởng là điều kiện cần của sự phát triển, chúng ta không
thể thực hiện được mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nếu không
có một khả năng tích lũy vốn cao, và mục tiêu phấn đầu của xã hội không phải là
một sự công bằng trong đó ai cũng nghèo như ai. Một xã hội lành mạnh phải dựa
trên cơ sở của một nền kinh tế vững chắc về vật chất. Tăng trưởng kinh tế là
điều kiện vật chất cần thiết cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cho sự
thay đổi các mục tiêu xã hội.
Mặt số lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng
trưởng, nó thể hiện ở ngay trong khai niệm về tăng trưởng như đã nói ở trên và
được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng thu nhập.
Đứng trên góc độ toàn nền kinh tế, thu nhập bình quân đầu người. Các chỉ tiêu
giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ thống tài khoản quốc gia bao gồm: tổng giá
trị sản xuất (GO); tổng sản phẩm quốc nội (GDP); tổng thu nhập quốc dân
(GNI); thu nhập quốc dân (NI); thu nhập có khả năng sử dụng (NDI); trong đó,
chỉ tiêu GDP thường là chỉ tiêu quan trọng nhất, vì nó phản ánh toàn bộ giá trị
gia tăng hay giá trị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng tạo nên trong một
khoảng thời gian nhất định của một quốc gia. Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế
thể hiện ở quy mô (mức) và tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu nói trên. Nếu quy
mô và tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập và thu nhập
bình quân đầu người càng cao, có thể nói, đó là biểu hiện tích cực về mặt lượng
của tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu cho thấy, có nhiều nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Tuy vậy, các nhân tố tác động trực tiếp đến mặt lượng của tăng trưởng kinh tế
được hiểu khái quát bao gồm 2 nhóm:
35
+ Các nhân tố liên quan đến nguồn lực của tăng trưởng, bao gồm: Vốn,
lao động, tài nguyên đất đai, khoa học công nghệ, trong đó ba yếu tố đầu được
gọi là các yếu tố vật chất còn yếu tố thứ tư, bao gồm cả vốn nhân lực (khả năng,
trình độ đào tạo, sự khéo léo, uyên thâm của người lao động) là yếu tố phi vật
chất;
+ Các nhân tố liên quan đến đầu ra của tăng trưởng, bao gồm các yếu tố
cấu thành tổng chi tiêu của nền kinh tế như: chi cho tiêu dùng cá nhân, chi tiêu
của Chính phủ, chi cho các hoạt động đầu tư và chi qua quan hệ thương mại
quốc tế. Nhìn chung, sự thay đổi của một trong số các yếu tố liên quan trực tiếp
đến nguồn nhân lực hoặc cấu thành tổng chi tiêu đều có tác động đến mặt lượng
của tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, nếu xét mặt lượng của tăng trưởng theo khía
cạnh giá trị thu nhập bình quân đầu người thì tốc độ tăng trưởng dân số cũng là
yếu tố ảnh hưởng trực tiếp. Nếu tốc độ tăng trưởng tổng thu nhập lại thấp hơn
tốc độ tăng trưởng dân số thì điều đó có ý nghĩa là không có sự gia tăng về mặt
lượng của tăng trưởng đứng trên góc độ bình quân đầu người. Theo quan điểm
tăng trưởng hiện đại thì chỉ tiêu mức và tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân
đầu người thường được đánh giá và quan tâm nhiều hơn khi xét đến mặt lượng
của quá trình này.
Tóm lại, mặt lượng của tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng những
thước đo cụ thể và chúng ta có thể nhận diện được tăng trưởng về mặt lượng
thông qua phân tích các chỉ tiêu thống kê động thái biến động của nó.
2.1.1.2. Quan niệm về chất lượng tăng trưởng
Từ khi kinh tế học ra đời đến nay, nhiều lý thuyết và mô hình về tăng
trưởng kinh tế đã được hình thành và hoàn thiện. Tuy nhiên, các lý thuyết và mô
hình này chủ yếu tập trung phân tích và đánh giá sự tăng trưởng về số lượng.
Một vấn đề quan trọng của tăng trưởng kinh tế ngoài tốc độ tăng trưởng, đó là
chất lượng tăng trưởng, nhưng tăng trưởng về mặt chất lượng hầu như mới được
nhắc đến nhiều trong một vài thập kỷ trở lại đây.
36
Hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng tăng trưởng.
Có quan điểm cho rằng, chất lượng tăng trưởng kinh tế được đánh giá ở đầu ra,
thể hiện bằng các kết quả đạt được qua tăng trưởng kinh tế như chất lượng cuộc
sống được cải thiện, sự bình đẳng trong phân phối thu nhập, bình đẳng về giới
trong phát triển, bảo vệ môi trường sinh thái,… Quan điểm khác lại nhấn mạnh
đến khía cạnh đầu vào của quá trình sản xuất như việc sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, nắm bắt và tạo cơ hội bình đẳng cho các đối tượng tham gia đầu tư,
quản lý hiệu quả các nguồn lực đầu tư. Nhìn từ một góc độ khác, theo cách hiểu
rộng, chất lượng tăng trưởng có thể tiến tới nội hàm của phát triển bền vững, chú
trọng tới cả ba thành tố kinh tế, xã hội và môi trường. Theo cách hiểu hẹp, chất
lượng tăng trưởng có thể được giới hạn ở một khía cạnh nào đó, ví dụ như chất
lượng đầu tư, chất lượng giáo dục, chất lượng dịch vụ công, v.v.
Như vậy, cho đến nay chưa có một khái niệm chính thức về chất lượng
tăng trưởng. Mặc dù vậy, đã có một số quan niệm về chất lượng tăng trưởng của
các tác giả trong nước và quốc tế tương đố i rõ nét, có thể liê ̣t kê dướ i đây:
Thứ nhất, theo Cù Chí Lợi (2009), Tăng trưởng và chất lượng tăng
trưởng ở Việt Nam [17], quan niệm cho rằng chất lượng tăng trưởng kinh tế là
cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả. Cơ cấu tăng
trưởng thể hiện ở chỉ tiêu điểm phần trăm đóng góp của các ngành vào tăng
trưởng và chỉ tiêu tỷ trọng đóng góp của mỗi bộ phận trong 100% mức tăng
trưởng. Cơ cấu tăng trưởng cũng có thể được xét theo khu vực thể chế, thành
phần kinh tế, vùng lãnh thổ, và theo yếu tố sản xuất (vốn, lao động, năng suất
nhân tố tổng hợp-TFP). Tính hợp lý của quan niệm này là coi chất lượng sự vật
là sự biến đổi cơ cấu bên trong của sự vật, không gắn chất lượng sự vật với mục
đích tồn tại, bối cảnh, môi trường, điều kiện mà sự vật tồn tại hoặc các sự vật có
mối liên hệ tác động mật thiết với nhau.
Thứ hai, Chất lượng tăng trưởng theo quan niệm hiệu quả. Nghiên cứu
của Diễn đàn Kinh tế-Tài chính Việt-Pháp (2004), Vì một sự tăng trưởng và một
37
xã hội công bằng [6] cho rằng, tăng trưởng được hình thành theo hai phương
thức: Tăng trưởng theo chiều rộng, tức là tăng trưởng có được nhờ sự tăng lên
của vốn, lao động và tăng cường khai thác tài nguyên; Tăng trưởng theo chiều
sâu, thể hiện ở tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất, tăng
cường chất lượng quản lý, nâng cao hiệu quả áp dụng khoa học công nghệ; hoàn
thiện môi trường kinh doanh và môi trường phát lý, v.v. Có thể thấy, tăng trưởng
theo chiều sâu hiện nay khá phổ biến ở các nước công nghiệp, nơi mà các yếu tố
chiều rộng đã được khai thác ở mức cao. Còn đối với các nước đang phát triển,
tăng trưởng theo chiều rộng vẫn là chủ đạo. Trong quá trình phát triển từ nền
kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, yếu tố chất lượng nguồn nhân lực
và khoa học công nghệ có vai trò vượt trội so với các yếu tố truyền thông (tài
nguyên thiên nhiên, vốn vật chất, lao động nhiều và rẻ,…). Chất lượng tăng
trưởng kinh tế được hiểu theo quan niệm hiệu quả (tăng trưởng theo chiều sâu)
rất cụ thể và tạo thuận lợi cho mục tiêu tìm kiếm giải pháp thúc đẩy tăng trưởng.
Thứ ba, Nguyễn Thị Tuệ Anh và Lê Xuân Bá (2005), Chất lượng tăng
trưởng kinh tế-Một số đánh giá ban đầu cho Việt Nam [2] cho rằng chất lượng
tăng trưởng kinh tế là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp
hoặc hàng hóa sản xuất trong nước. Tăng trưởng đi liền với việc nâng cao năng
lực cạnh tranh là tăng trưởng có chất lượng cao và ngược lại.
Thứ tư, các nhà kinh tế học của OXFAM trong nghiên cứu của Đại học
Kinh tế Quốc dân (2011), Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam [10] quan
niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là nâng cao phúc lợi của công dân và gắn
liền với tăng trưởng với công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế là nguồn gốc tạo
thêm của cải cho xã hội. Theo quan điểm này, thước đo của chất lượng tăng
trưởng kinh tế được thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế đáp ứng phúc lợi cho
nhân dân như thế nào. Phúc lợi không chỉ thể hiện ở thu nhập bình quân đầu
người mà còn là chất lượng cuộc sống, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên,
38
cơ hội học tập và chăm lo sức khỏe. Còn công bằng xã hội thể hiện ở khoảng
cách giàu nghèo được thu hẹp và tỷ lệ người nghèo trong xã hội giảm bớt.
Quan niệm chất lượng tăng trưởng theo phúc lợi và công bằng xã hội
được cho rằng nếu quá quan tâm đến tăng trưởng mà ít chú ý đến công bằng xã
hội sẽ dẫn tới bất ổn và tăng trưởng sẽ không bền vững. Ngược lại, nếu quá đề
cao công bằng xã hội thì không có động lực và tiềm lực vật chất để thúc đẩy
tăng trưởng. Sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ
tạo ra chất lượng của tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm, Quan niệm về chất lượng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững Đặc trưng của tăng trưởng kinh tế có chất lượng được biểu hiện qua việc
phát triển bền vững. Theo World Bank (Ngân hàng thế giới) (2016), Các chỉ tiêu
phát triển [22], thuật ngữ “phát triển bền vững” là phát triển theo nguyên tắc “sự
thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hôm nay không làm tổn hại tới sự thỏa mãn nhu
cầu của các thế hệ mai sau”. Phát triển bền vững phải bảo toàn và phát triển ba
nguồn vốn: tài nguyên môi trường (bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội), vốn nhân lực (chất lượng của người lao động) và vốn vật chất
(cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế). Trong đó, tài nguyên môi trường thiên
nhiên hiện nay được quan tâm đặc biệt, vì công nghiệp hóa, hiện đại hóa của các
quốc gia thời gian qua thường dẫn tới hủy hoại về môi trường. Các nghiên cứu
của Ngân hàng thế giới cho thấy, mức độ ô nhiễm lúc đầu tăng cùng với tốc độ
tăng trưởng kinh tế cho tới khi thu nhập bình quân đầu người đạt tới 12000
USD/năm. Thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng thì chất lượng môi
trường giai đoạn tiếp theo được cải thiện rõ rệt.
Thứ sáu, Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là thể chế dân chủ
trong môi trường chính trị - xã hội của nền kinh tế; các công trình nghiên cứu
của Gerybadze et al. (2010), Innovation and International Corporate Growth
[55] cho rằng tác động của tăng trưởng kinh tế đối với quá trình đổi mới hệ
thống chính trị từ lâu đã được nhìn nhận là vừa có tính tích cực, lại vừa có tính
39
trực tiếp. cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa thu nhập đầu người và mức
độ dân chủ hóa của thể chế chính trị xã hội. Cụ thể hơn, tính minh bạch, ít tham
nhũng và sự tham gia của người dân vào quản lý kinh tế-xã hội sẽ tác động
mạnh tới tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Theo cách diễn giải của trường phái
này, dân chủ chính là biểu hiện mặt chất của tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, có thể cho rằng, chất lượng tăng trưởng là thuộc tính bên trong
của quá trình tăng trưởng kinh tế, thể hiện ở tính hiệu quả của việc sử dụng các
yếu tố đầu vào trong việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng, cấu trúc tăng trưởng phù
hợp với tiềm năng, thế mạnh và trình độ phát triển của nền kinh tế và những ảnh
hưởng lan toả của nó tới các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế-xã hội.
2.1.2. Chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp
2.1.2.1. Khái niệm
Chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp là khái niệm “phản ánh
nội dung bên trong của quá trình tăng trưởng, biểu hiện ở phương tiện, phương
thức, mục tiêu và hiệu ứng đối với môi trường chứa đựng tăng trưởng ấy”. Nó
thể hiện ở khả năng sử dụng các yếu tố đầu vào để đạt được sự tăng trưởng của
ngành công nghiệp, đóng góp của các bộ phận cấu thành của ngành cho tăng
trưởng chung của ngành và những tác động của việc đạt được chỉ tiêu tăng
trưởng của ngành tới các lĩnh vực khác của nền kinh tế.
Chất lượng tăng trưởng cao của ngành công nghiệp được hiểu là sự tăng
trưởng với nhịp độ cao, hiệu quả và bền vững của ngành thể hiện qua cơ cấu nội
bộ ngành phù hợp với trình độ công nghệ, tiềm năng, thế mạnh của ngành; năng
suất nhân tố tổng hợp, năng suất lao động, tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản
phẩm cao; có khả năng tiết kiệm năng lượng, sản xuất có tính cạnh tranh cao;
không ngừng nâng cao vị trí của các phân ngành công nghiệp trong chuỗi giá trị
toàn cầu và có khả năng bảo vệ môi trường.
Tổng quan từ các tài liệu, báo cáo cho thấy, hầu như không có nghiên cứu
nào có tiêu đề “chất lượng tăng trưởng công nghiệp”. Hầu như các nghiên cứu
40
hoặc báo cáo hướng tới nội dung “phát triển công nghiệp”. Trong chừng mực
nào đó, “tăng trưởng chất lượng cao” đôi lúc được hiểu với nội hàm tương tự
“phát triển”, “phát triển bền vững”. Trong số những nghiên cứu, báo cáo về phát
triển công nghiệp, có thể kể đến những ấn phẩm hàng năm và chuyên đề nghiên
cứu sâu của Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO). Gần
đây, UNIDO đã xác định tăng trưởng bền vững, có chất lượng phải được thể
hiện ở 3 đặc tính: (i) tốc độ tăng cao; (ii) thời gian duy trì tốc độ cao; (iii) sự ổn
định của tốc độ tăng. Để đảm bảo các đặc tính này, theo UNIDO nền móng của
nó phải là sự thay đổi căn bản về công nghệ, tạo ra việc làm và có sự phân phối
hợp lý về thu nhập. Đây cũng là quan điểm chung nhất mà nhiều nghiên cứu
khác đều hướng đến như của Stiglitz, J. [88]
Thay đổi công nghệ
Chuyển đổi cơ cấu
Việc làm Phân phối t.nhập
Điều kiện: Nguồn lực và kỹ năng sẵn có Năng lực hấp thụ Đặc tính công nghệ Bối cảnh quốc tế
Bao trùm, phổ quát toàn xã hội
Đánh đổi
Hình 6. Khung quan niệm: thay đổi công nghệ cho sự chuyển đổi cơ
cấu toàn diện
Nguồn: [88]
Hơn nữa, phần nhiều các quốc gia trên thế giới hiện nay đã và đang tiến
hành công nghiệp hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng và tốc độ đô thị hóa
41
được đẩy nhanh. Mặc dù khi bắt đầu tiến hành quá trình công nghiệp hóa, nhiều
nước đang phát triển đã thực hiện phương châm “tăng trưởng trước, làm sạch
sau” nhưng những vấn đề về môi sinh và xã hội là rất lớn và chúng nhanh chóng
được quan tâm bởi nếu tiếp tục phương châm đó, các nước sẽ phải trả một cái
giá rất đắt, thậm chí tụt lùi hơn, rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Cạnh tranh toàn cầu và sự
bền vững Nhà máy của tương lai
Sản phẩm bền vững Khả năng chuyển đổi linh hoạt
Môi trường Người LĐ
Hiệu suất cao Thông tin Hiệu quả kinh tế
Ranh giới hệ thống
Hiệu quả sinh thái Thông minh có tính kỹ thuật
Mạng lưới toàn cầu Nhà máy Phân khúc Hệ thống sản xuất thích ứng Kỹ thuật số Hiệu quả xã hội Máy móc
Sản xuất xanh
Nơi làm việc Chu trình hoạt động Công nghệ đổi mới
… đi theo cùng vòng đời
của sản phẩm
Hình 7. Mô hình sản xuất được hướng tới trong tương lai
Nguồn: [80]
Các nhà nghiên cứu cho thấy [96], mức độ ô nhiễm không khí của các
nước Đông Á đã vượt chuẩn của các nước OECD tới 5 lần và 2 lần so với bình
quân của toàn cầu. Bên cạnh đó, UNIDO [96] cũng đã chỉ ra rằng, từ năm 1960
cho đến năm 2012, chỉ có 13 trên 101 quốc gia đang phát triển thoát khỏi bẫy
thu nhập trung bình. Điều đó càng cho chúng ta nhận ra rằng, tăng trưởng công
42
nghiệp không thể đứng riêng rẽ mà xem xét đến những hệ lụy tăng trưởng do nó
đem lại. Chất lượng tăng trưởng công nghiệp không chỉ bản thân nội tại của
ngành công nghiệp mà phải đem lại phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường. Xét
về dài hạn đây là mối quan hệ qua lại, dù rằng chiều mũi tên từ phát triển công
nghiệp dường như lớn hơn.
Không chỉ xem xét phát triển công nghiệp với môi trường, Thomas, V. và
các cộng sự (2000) [93] cũng đã xem xét khá toàn diện tính bền vững trong phát
triển và tăng trưởng công nghiệp ở các nước Đông Á và đã tìm thấy một số phát
hiện thực chứng giữa tăng trưởng, phát triển công nghiệp với các yếu tố khác
như thể chế, nhân lực, công nghệ, xuất nhập khẩu… Năng lực của ngành công
nghiệp có tỷ lệ thuận chiều với sự phát triển của những yếu tố nêu trên. Điều này
cũng phản ánh rằng ngành công nghiệp có tăng trưởng bền vững thì cần phải có
những yếu tố khác “đi cùng” để đảm bảo.
Tóm lại, kế thừa từ các nghiên cứu được tham khảo, các tác giả cho rằng,
chất lượng tăng trưởng công nghiệp phải thể hiện sức mạnh của tăng trưởng
thể hiện tốc độ cao, ổn định, lâu dài, trong đó về mặt cấu trúc tăng trưởng, đóng
góp của ngành công nghiệp chế biến và của yếu tố năng suất tổng hợp có xu
hướng chiếm ưu thế; tăng trưởng phải đảm bảo ngày càng cải thiện các tiêu chí
hiệu quả, thể hiện qua xu hướng tăng lên của tỷ trọng giá trị gia tăng trong giá
trị sản xuất, xu hướng tăng lên của năng suất lao động, hiệu quả sử dụng các
yếu tố đầu vào, thúc đẩy xuất khẩu và có sức lan tỏa tích cực đến phát triển kinh
tế – xã hội – môi trường thông qua thúc đẩy tăng trưởng của các khối ngành
khác trong nền kinh tế, và có khả năng bảo vệ môi trường.
Đây chính là quan điểm mà các tác giả làm cơ sở để xây dựng khung
phân tích và bộ tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành công
nghiệp.
2.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng công nghiệp
a) Quan điểm đề xuất
(1) Khung phân tích và hệ thống tiêu chí phải được dựa trên các luận cứ
vững chắc về cả mặt lý thuyết và mặt thực tiễn; có tính kế thừa và tính thời đại
43
nhằm có thể áp dụng trong một thời gian dài.
(2) Hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu được đề xuất phải đo lường và đối sánh
được (cả trong nước và quốc tế).
(3) Khung phân tích và hệ thống tiêu chí phải phù hợp với điều kiện thực
tiễn của nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, phải gắn với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
b) Khung phân tích
Từ cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế được trình bày ở trên, luận án
xây dựng khung phân tích chất lượng tăng trưởng cho ngành công nghiệp Việt
Nam được hình thành làm cơ sở nghiên cứu, phân tích và đề xuất các giải pháp
của luận án. Khung phân tích này có phần tương tự với kết quả nghiên cứu của
Thomas và các cộng sự (2000)[93], tuy nhiên trọng tâm của nó là ngành công
nghiệp và các kết quả đầu ra chính là chất lượng của tăng trưởng ngành công
nghiệp của một quốc gia đang phát triển có nền kinh tế chuyển đổi.
Để đo lường chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp, tác giả đưa ra
ba nhóm tiêu chí: (i) cấu trúc tăng trưởng của công nghiệp, thể hiện ở việc huy
động nguồn lực của nền kinh tế phục vụ cho tăng trưởng, đồng thời là vai trò của
các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng ngành công nghiệp của Việt Nam trong
bối cảnh nguồn lực khan hiếm. Cấu trúc của tăng trưởng công nghiệp cũng được
đánh giá trên cơ sở đóng góp của các ngành công nghiệp tới tăng trưởng chung
của ngành, nhằm đánh giá trình độ của sản xuất công nghiệp; (ii) Hiệu quả của
tăng trưởng công nghiệp; nhóm tiêu chí này thể hiện ở hiệu quả đầu ra của tăng
trưởng, thể hiện ở hiệu quả sử dụng vốn, năng suất lao động, xuất khẩu, hiệu quả
sử dụng năng lượng; và (iii) tác động lan toả từ tăng trưởng công nghiệp. Điều
này thể hiện vai trò và tính chất lan tỏa của ngành công nghiệp, tăng trưởng của
ngành công nghiệp thúc đẩy các lĩnh vực, các ngành khác cùng phát triển thông
qua lực kéo, lực đẩy của ngành đối với các ngành, lĩnh vực khác.
44
Quy mô Nhịp tăng
Tỷ lệ chi phí SX
Tốc độ, tính bền vững
Nền tảng tăng trưởng CN
Năng suất lao động
Cấu trúc của đầu vào
Đóng góp cho tăng trưởng
Các chỉ tiêu đo lường (kết quả) Quy mô và cơ cấu của các yếu tố đầu vào (chi phí tăng trưởng)
Đóng góp của CN
Tỷ trọng trong nền kinh tế
Tính liên kết, lan tỏa
K
SP CN XK
Xuất khẩu
TFP
Nền tảng
Môi trường
xã hội
L
Hình 8. Khung phân tích chất lượng tăng trưởng công nghiệp
Nguồn: Tác giả.
Cụ thể hóa ba nhóm tiêu chí này là một số các chỉ tiêu có thể định lượng
được, đối sánh được, nêu bật được vị thế của ngành công nghiệp trong tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước.
c) Bộ chỉ tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt
Nam của luận án
Bộ chỉ tiêu đánh giá, đo lường chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt
Nam được dựa trên ba nhóm tiêu chí được nêu ở trên.
(1) Nhóm tiêu chí thể hiện cấu trúc của tăng trưởng
Chỉ tiêu 1: Đóng góp của các phân ngành tới tăng trưởng của toàn khối
ngành công nghiệp, đặc biệt là cơ cấu và đóng góp của công nghiệp chế biến cho
trong tăng trưởng toàn ngành. Tăng trưởng công nghiệp là có chất lượng và có
xu hướng cải thiện chất lượng khi ngành công nghiệp chế biến thể hiện vai trò
45
chủ đạo, đóng góp phần lớn trong tăng trưởng của khối ngành công nghiệp. Về
phương pháp tính toán, tốc độ tăng trưởng của ngành và các phân ngành công
nghiệp được tính toán như mô tả ở chương 2; đóng góp của các phân ngành công
nghiệp vào tăng trưởng chung của khối ngành được tính toán như sau:
Đóng góp của phân ngành (%) = Tăng trưởng của phân ngành (x) tỷ trọng
của phân ngành trong toàn ngành công nghiệp.
Số liệu tính toán được thu thập từ các nguồn thống kê chính thống như
[106] và [12]. Chỉ tiêu thống kê được sử dụng là VA và cơ cấu VA của các phân
ngành.
Chỉ tiêu 2: Đóng góp của các yếu tố nguồn lực cho tăng trưởng của ngành
công nghiệp, đặc biệt là đóng góp của yếu tố nguồn nhân lực và TFP trong tăng
trưởng của toàn ngành. Tăng trưởng công nghiệp có chất lượng được dần nâng
lên khi đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) có xu hướng
tăng và ngày càng là chủ yếu trong các yếu tố nguồn lực vốn, lao động và TFP.
Phương pháp tính toán chỉ tiêu này được mô tả ở phụ lục 4 của luận án.
(2) Nhóm tiêu chí thể hiện hiệu quả của việc đạt được chỉ tiêu tăng
trưởng:
Đây là tiêu chí quan trọng của bất kỳ ngành công nghiệp nào, phản ánh
sức mạnh nội tại của bản thân ngành công nghiệp. Thông thường, nếu một quốc
gia có nền công nghiệp có mức tăng trưởng cao, lâu dài, ổn định, có trình độ
công nghệ hiện đại và có đầu ra ổn định sẽ đem lại đóng góp lớn cho phát triển
kinh tế cũng như có hệ quả xã hội và môi trường tốt. Nhóm tiêu chí này được đo
lường thông qua các chỉ tiêu sau đây:
Chỉ tiêu 3: Tốc độ tăng trưởng của các phân ngành công nghiệp, đặc biệt
là công nghiệp chế biến đạt nhanh, ổn định và lâu dài. Ngoài ra, tốc độ tăng công
nghiệp chế biến tăng nhanh hơn toàn ngành công nghiệp.
46
Tốc độ tăng trưởng được xác định là tỷ lệ phần trăm gia tăng của quy mô
của ngành công nghiệp (thường được tính trên giá trị gia tăng hoặc giá trị sản
xuất của ngành), thường được tính theo hàng năm hoặc giai đoạn.
Theo quy mô tuyệt đối, ΔQ = Q1 – Q0
Về tương đối, g (%) = ΔQ/ Q0 x 100
Trong đó, Q1 là quy mô ngành công nghiệp năm nghiên cứu; Q0 là quy mô
ngành công nghiệp năm so sánh; g là tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp năm
nghiên cứu.
Chỉ tiêu 4: Năng suất lao động công nghiệp.
Năng suất là tỷ số giữa đầu ra và những đầu vào được sử dụng để tạo ra
đầu ra đó (Cách tiếp cận mới về năng suất lao động.GS- PTS Nguuyễn Đình
Phan.Nxb Chính trị quốc gia, HN.Tr 8), về mặt toán học năng suất được phản
ánh bằng:
P = tổng đầu ra / tổng đầu vào
Đầu ra được phản ánh dưới nhiều tên gọi khác nhau như “tập hợp các kết
quả”; “thực hiện ở các mức độ cao nhất”; tổng đầu ra hữu hình”; “toàn bộ đầu ra
có thể được”. Cụ thể trong luận án này đầu ra được tính bằng tổng giá trị sản
xuất hay giá trị gia tăng của ngành công nghiệp.
Đầu vào được tính theo các yếu tố tham gia để sản xuất ra đầu ra. Đó là
lao động, nguyên liệu, vốn, thiết bị, năng lượng, kỹ thuật, kỹ năng quản lý. Việc
chọn đầu vào và đầu ra khác nhau sẽ tạo ra các mô hình đánh giá năng suất khác
nhau. Đặc điểm của quan niệm truyền thống là tập trung nhấn mạnh đến yếu tố
đầu vào như lao động, vốn (năng lượng, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, công
nghệ) trong đó yếu tố lao động là trung tâm, và luận án xác định năng suất lao
động công nghiệp trên yếu tố đầu vào là lao động công nghiệp.
47
Tăng trưởng công nghiệp là có chất lượng khi năng suất yếu tố đầu vào có
xu hướng cao và tăng nhanh hơn so với năng suất bình quân của nền kinh tế.
Chỉ tiêu 5: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của ngành công nghiệp.
Có nhiều tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của ngành. Trong
khuôn khổ luận án này, tác giả sử dụng hệ số ICOR-hệ số gia tăng sản lượng đầu
ra từ vốn. Đây là hệ số được đề cập ở mô hình tăng trưởng cổ điển Harrod-
Domar. Hệ số này phản ánh mối quan hệ đơn giản, dễ tính toán, tương đối phù
hợp với các nước đang phát, giữa sản lượng đầu ra và vốn đầu tư cần thiết để đạt
được sự gia tăng sản lượng đó. Theo công thức:
g = s/k => k = s/g
Trong đó:
k – hệ số ICOR
g – tốc độ tăng trưởng quy mô ngành/nền kinh tế
s – tỷ lệ tích luỹ/đầu tư của ngành/nền kinh tế.
Có thể thấy, với khả năng tiết kiệm, đầu tư nhất định, nếu hệ số ICOR
càng thấp thì khả năng đạt được tăng trưởng càng cao. Hệ số ICOR thấp phản
ánh số vốn đầu tư cần thiết để đạt được một đơn vị gia tăng sản lượng đầu ra
thấp, hay hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao, và ngược lại. Thực tế cho thấy, có
nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, như cơ chế chính
sách, điều hành, cơ cấu đầu tư, khoa học công nghệ, v.v., và tuy ICOR là một hệ
số tổng quát phản ánh tổng hợp tính hợp lý của các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu
quả đầu tư, việc phân tích hệ số ICOR kết hợp với phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến hệ số này trong các phần khác của luận án, sẽ vẫn mang lại ý nghĩa
nhất định trong phân tích nguồn gốc tăng trưởng và hiệu quả đạt được chỉ tiêu
tăng trưởng của ngành công nghiệp, cũng như của cả nền kinh tế.
Tăng trưởng công nghiệp là có chất lượng và chất lượng được cải thiện
khi nền công nghiệp cần ít vốn đầu tư hơn để đạt được một đồng gia tăng của
VA, hay ICOR thấp hơn so với bình quân chung của nền kinh tế.
48
Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất của ngành công
nghiệp, đặc biệt là của ngành công nghiệp chế biến. Tỷ lệ chi phí trung gian (IC)
trong sản xuất công nghiệp được tính bằng Chi phí trung gian so với GO của
ngành. Tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất của ngành công nghiệp, đặc
biệt là của ngành công nghiệp chế biến có xu hướng tăng lên và chiếm phần lớn
trong giá trị sản xuất, cho thấy khả năng đạt được tăng trưởng càng thấp và sản
xuất hiệu quả giảm sút. Vì vậy, tăng trưởng công nghiệp có chất lượng và có xu
hướng cải thiện chất lượng nếu tỷ lệ chi phí trung gian trong GO công nghiệp có
xu hướng giảm dần, qua đó nâng dần tỷ lệ giá trị gia tăng trong sản xuất của
ngành. Tỷ lệ chi phí trung gian thấp còn cho thấy trình độ sản xuất công nghiệp,
khả năng liên kết ngành và cụm ngành cao, có hiệu quả và vị trí của ngành công
nghiệp trong chuỗi giá trị sản xuất, ở khâu tạo ra nhiều giá trị gia tăng hay
không.
Chỉ tiêu 7: Tiêu hao năng lượng trong sản xuất công nghiệp. Chỉ tiêu này
thường được đo lường dựa trên điện năng tiêu thụ để tạo ra một đồng VA. Tiêu
hao năng lượng có xu hướng tăng hoặc giảm chậm, ở khía cạnh nào đó, cho thấy
cơ cấu sản xuất và trình độ công nghệ chậm cải tiến. Ngược lại, sản xuất công
nghiệp có chi phí năng lượng thấp hơn so với các nước so sánh trong một đồng
VA tạo ra và có xu hướng giảm được coi là tăng trưởng có chất lượng.
(3) Nhóm tiêu chí thể hiện sự tác động lan toả của tăng trưởng công
nghiệp tới các ngành và lĩnh vực khác của nền kinh tế
Chỉ tiêu 8: Đóng góp của tăng trưởng công nghiệp cho tăng trưởng chung
của nền kinh tế. Vai trò của ngành công nghiệp được thể hiện ở mức đóng góp
ngày càng tăng trong tăng trưởng của nền kinh tế khi nền kinh tế đó có mức thu
nhập trung bình, ở giai đoạn 3-4 của các giai đoạn phát triển, theo lý thuyết của
Rostow [8, 28]. Đóng góp ngày càng lớn của ngành công nghiệp tới nền kinh tế
thể hiện hiệu quả và khả năng lan toả tới tăng trưởng chung từ công nghiệp có
xu hướng cải thiện và vai trò đầu tàu trong tăng trưởng của ngành công nghiệp
49
ngày càng được khẳng định, qua đó thể hiện tăng trưởng công nghiệp là có chất
lượng. Phương pháp tính toán và số liệu tương tự chỉ tiêu số 2 ở trên.
Chỉ tiêu 9: Đóng góp vào xuất khẩu của sản phẩm công nghiệp. Luận án
xem xét cơ cấu hàng xuất khẩu và đóng góp của nhóm hàng công nghiệp tới xuất
khẩu của toàn nền kinh tế. Góp góp của xuất khẩu sản phẩm công nghiệp vào
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước được tính bằng kim ngạch xuất khẩu sản
phẩm công nghiệp/tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước theo tỷ lệ %. Tăng
trưởng của công nghiệp được đánh giá là có hướng cải thiện chất lượng khi
nhóm hàng công nghiệp chiếm ưu thế trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nền
kinh tế và công nghiệp chế biến có đóng góp lớn hơn các phân ngành công
nghiệp khác trong cơ cấu xuất khẩu của ngành.
Chỉ tiêu 10: Tác động của ngành công nghiệp tới các ngành kinh tế khác
thông qua mức độ liên kết mạnh (xuôi, ngược) giữa công nghiệp với các ngành
khác trong nền kinh tế. Phương pháp đánh giá tác động của công nghiệp tới các
ngành kinh tế khác được mô tả trong phần phụ lục 4 của Luận án. Tăng trưởng
công nghiệp là có chất lượng khi các phân ngành công nghiệp có khả năng đẩy
và kéo trong nội bộ ngành và tới các khối ngành khác của nền kinh tế như nông
nghiệp và dịch vụ. Khả năng đẩy-kéo này thể hiện ở các hệ số liên kết ngược và
liên kết xuôi ở mức lớn hơn 1 trong giai đoạn nghiên cứu. Tăng trưởng công
nghiệp cũng được coi là có chất lượng khi các hệ số liên kết lớn hơn một còn thể
hiện tính liên kết chặt chẽ giữa các ngành, cụm ngành trong sản xuất công
nghiệp.
Chỉ tiêu 11: Sản xuất công nghiệp và môi trường. Luận án xem xét thiệt
hại của nền kinh tế từ ô nhiễm môi trường. Đồng thời, xem xét mức độ phát thải
của khối ngành công nghiệp trong nền kinh tế, so với mức bình quân chung của
thế giới và một số nước trong khu vực; xem xét mức phát thải bình quân trong
một đồng VA công nghiệp, so với bình quân của thế giới và các nước trong khu
vực có cùng trình độ phát triển. Chất lượng tăng trưởng công nghiệp được thể
50
hiện qua xu hướng gia tăng của các dấu hiệu kể trên. Nếu mức độ phát thải của
công nghiệp và chi phí phải trả của nền kinh tế Việt Nam thấp hơn so với bình
quân của thế giới và của khu vực, tăng trưởng công nghiệp được coi là có chất
lượng và ngược lại.
2.2. Kinh nghiê ̣m cá c nướ c trong phá t triển công nghiê ̣p và nâng cao chấ t
lươ ̣ng công nghiê ̣p
2.2.1. Thái Lan
Nền kinh tế Thái Lan đã có những bước đột phá trong vòng ba thập kỷ
qua, tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế này hàng năm [125] đạt được
7,7% trong suốt 35 năm (1961-1995), trong đó, giá trị gia tăng ngành công
nghiệp được đánh giá đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10,6%/năm. Giai đoạn
1996-2014 ghi nhận sự sụt giảm trong tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế Thái
Lan với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm chỉ đạt 3,3%, trong đó,
tốc độ tăng trưởng của giá trị gia tăng ngành công nghiệp chỉ đạt bình quân 3,1%
hàng năm. Sự thay đổi theo chiều hướng xấu này được các nhà kinh tế cho là
xuất phát từ những yếu kém trong chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.
Sự yếu kém xuất phát từ tăng trưởng kinh tế Thái Lan chủ yếu dựa vào
tăng trưởng của ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế tác, ngành một
thời dựa chủ yếu vào thị trường trong nước và không đủ năng lực cạnh tranh trên
thị trường quốc tế với một giá thành sản xuất cao khi thị trường trong nước đã
bão hòa. Cơ cấu công nghiệp chủ yếu dựa vào những ngành sử dụng nhiều lao
động đã không thể có khả năng cạnh tranh cao khi giá nhân công trong nước
tăng lên cùng với sự cải thiện về mức sống của đại đa số người lao động, mà kết
quả là từ tốc độ tăng trưởng cao trong suốt hơn ba thập kỷ.
Các nghiên cứu của Ngân hàng thế giới về đóng góp của yếu tố TFP cho
tăng trưởng của Thái Lan cho thấy, khả năng cải tiến công nghệ, nâng cao năng
suất lao động của Thái Lan là tương đối cao so với các nước Đông Nam Á khác,
song mới chỉ ở các công nghệ nhập khẩu, chưa phản ánh được khả năng nghiên
51
cứu công nghệ mới của nước này. Nguyên nhân được chú ý nhiều nhất của tình
trạng này là do mức đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu là thấp ở Thái Lan.
Bình quân từ 1996 đến 2013 mỗi năm Thái Lan chi 0,23% GDP cho R&D, 30 năm trướ c 1965-1995 cò n thấp hơn khoảng 0,17%, thấp hơn so với Hàn Quốc,
Singapore và Malaysia.
Các nghiên cứu cũng cho thấy, thời kỳ đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh
của Thái Lan song song với việc khai thác một cách triệt để nguồn tài nguyên
thiên nhiên phục vụ cho ngành công nghiệp chế tác thay thế nhập khẩu, là nhân
tố chủ yếu làm cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường ở nước này. Số liệu
thống kê của Ngân hàng thế giới cho thấy, tỷ lệ che phủ rừng của nước này có
xu hướng giảm trong thời kỳ từ 1985-2000, từ mức 35% năm 1985 xuống
33,3% vào năm 2000 và năm 2015 cò n 32%. Ô nhiễm không khí được đo bằng
chỉ số lượng (kg) khí thải CO2/1000 USD GDP ở mức 0,3 kg vào năm 1965,
tăng lên 0,4 kg vào năm 1970, 0,503 kg vào năm 1980, 0,6 kg vào năm 1990,
0,81 kg vào năm 2000 và 1,3 năm 2011 . Điều này cho thấy lượng phát thải CO2 của Thái Lan tăng lên nhanh chóng, làm suy giảm ngày càng trầm trọng hơn môi
trường của nước này, đồng thời cũng cho thấy những ảnh hưởng của sản xuất,
đặc biệt là sản xuất công nghiệp tới môi trường sinh thái.
Về khía cạnh này, có thể thấy, chất lượng tăng trưởng của kinh tế Thái
Lan, cũng như của công nghiệp nói riêng là chưa được chú trọng.
Xuất phát từ thực tế trên, hàng loạt các chính sách kinh tế vĩ mô được
Chính phủ Thái Lan ban hành nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng công
nghiệp của đất nước, các chính sách được nhắc đến nhiều nhất là cơ cấu lại nền
sản xuất công nghiệp theo hướng giảm tập trung, khuyến khích phát triển công
nghiệp vừa và nhỏ, bớt những ưu đãi cho các ngành công nghiệp chế tạo. Các
chính sách phát triển nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường cũng được ban hành.
Cụ thể, chi cho đầu tư phát triển công nghệ và giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào
52
tạo nghề được nâng lên; tăng cường các nguồn lực để khắc phục những hậu quả
về mặt môi trường, đầu tư mới bảo vệ môi trường cũng được chú trọng.
2.2.2. Trung Quốc
Cũng giống Việt Nam, Trung Quốc cũng thực hiện quá trình chuyển đổi
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Trung Quốc là
một nước đạt được nhịp tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm. Việc nghiên
cứu chất lượng tăng trưởng của công nghiệp Trung Quốc tìm ra những bài học
cho Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng là rất có ý nghĩa.
Sau hơn 20 năm cải cách, kinh tế Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, đã tạo ra bước nhảy vọt, đứng thứ 4 trong bốn nền kinh tế lớn nhất
thế giới, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong lịch sử tăng trưởng kinh tế
thế giới. Tăng trưởng của Trung Quốc nổi bật bởi ba đặc điểm chủ yếu là: (1)
tăng trưởng cao có trọng điểm; (2) tăng trưởng diễn ra theo chu kỳ và (3) tăng
trưởng dựa vào năng suất. Tuy nhiên, mức tăng trưởng đột phá của Trung Quốc
trong thời gian qua của đi kèm với một số yếu kém về chất lượng là tiêu hao
nguyên vật liệu và năng lượng lớn và suy thoái môi trường.
Sự phát triển nhanh và liên tục của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua
mang trong mình những tiềm ẩn về hiểm họa môi trường sinh thái. Trước hết, sự
tàn phá rừng tự nhiên diễn ra nhanh chóng. Nạn chặt phá rừng đầu nguồn đã gây
nên nhiều tác động tiêu cực đến đời sống xã hội như: nhiều loại động vật thực
vật bị tuyệt chủng, đất đai bị sa mạc hóa, nguồn nước ngầm bị cạn kiệt, hiệu ứng
nhà kính, hạn hán và lũ lụt gia tăng, v.v.
Tình trạng ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc đã ở mức báo động. Bên
cạnh sự gia tăng khí thải ô tô, dioxit các bon từ sản xuất công nghiệp, sử dụng
than đá có hàm lượng lưu huỳnh cao là nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô
nhiễm môi trường không khí ở Trung Quốc. Nhiều thành phố của Trung Quốc
đã bị nêu tên vào danh sách các thành phố có mức độ ô nhiễm lớn nhất thế giới
53
như Bắc Kinh, Tây An, Thẩm Dương. Môi trường xuống cấp ảnh hưởng lớn đến
sản xuất và đời sống của con người.
Nhận thức được tình trạng chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế và của
ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng, chính phủ Trung Quốc đã có
những chính sách nhằm tăng cường chất lượng tăng trưởng của công nghiệp
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Với nhận thức rằng, bảo vệ môi trường chính
là cách để có thể sử dụng và khai thác tài nguyên tốt hơn phục vụ phát triển kinh
tế. Sử dụng và khai thác tốt hơn tài nguyên phải được tiến hành dưới tiền đề bảo
vệ môi trường. Với định hướng chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát
triển theo chiều sâu, Trung Quốc đã đưa ra một số chương trình hành động nhằm
bảo vệ môi trường như việc tăng ngân sách hàng năm cho bảo vệ môi trường từ
0,7% GDP (tương đương 1,7 tỷ USD) năm 1995 lên 1,5% năm 2000 (tương
đương 40 tỷ USD) nhằm tăng cường kiểm soát tình trạng suy thoái môi trường
hiện nay. Tuy nhiên, để có thể bảo vệ môi trường một cách hiệu quả, ước tính
cần phải có khoảng 10% GDP hàng năm cho công tác bảo vệ môi trường, Trung
Quốc còn dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền nhằm buộc các xí
nghiệp phải tìm cách tránh lãng phí tài nguyên, phải hạn chế tác động xấu của
sản xuất đối với môi trường. Năm 2014 Trung Quốc chi khoảng 21,1 tỷ NDT về
bảo tồn năng lượng và bảo vệ môi trường, tăng 7,1 % so với năm 2013.
2.2.3 Kinh nghiệm quốc tế trong định hướng phát triển công nghiệp
Kinh nghiệm quốc tế trong việc định hướng chính sách công nghiệp gợi ý
chính sách công nghiệp tốt bao gồm năm đặc tính:
(i) chính sách công nghiệp được thiết kế dành cho một số ngành công
nghiệp được lựa chọn
(ii) chính sách công nghiệp không phải là một chính sách đơn lẻ mà bao
gồm nhiều loại chính sách khác nhau;
(iii) chính sách công nghiệp liên quan đến sự can thiệp của chính phủ;
54
(iv) chính sách công nghiệp hướng đến phân bổ nguồn lực (do sự thất bại
của thị trường); và
(v) chính sách công nghiệp nhằm tạo ra những lợi thế so sánh động cho
các ngành công nghiệp được hướng đến (những ngành công nghiệp ưu tiên).
Nhiều nhà nghiên cứu [85] đã tổng kết các đặc điểm cơ bản của các chính
sách công nghiệp mà hiện nay các nước mới nổi đang áp dụng.
Các đặc trưng cơ bản của chính sách công nghiệp
Quản trị
Ưu tiên
Từ trên xuống (vai trò của chính quyền địa phương/ vùng yếu); ví dụ: Chi-Lê Kết hợp (song hành vai trò của cả chính quyền trung ương và địa phương/ vùng); ví dụ: Brazil và Trung Quốc Từ dưới lên (vai trò của chính quyền địa phương/ vùng mạnh); ví dụ: Ấn Độ Truyền thống Mới nổi
Tăng trưởng Tạo việc làm Cạnh tranh quốc tế Cạnh tranh và toàn diện lãnh thổ Gắn kết xã hội Phát triển bền vững
Mục tiêu
Chính sách hỗn hợp
Nguồn: [85]
Đa dạng hóa (ví dụ: gia nhập vào những ngành/ các dạng chuyên môn hóa mới và nâng cấp vị trí (ví dụ: trong chuỗi giá trị quốc gia/ toàn cầu) Gia tăng mật độ của hệ thống sản xuất (ví dụ: nuôi dưỡng doanh nghiệp, tăng cường kết nối) Các công cụ chính sách công nghiệp (ví dụ: ưu đãi trực tiếp hoặc gián tiếp cho doanh nghiệp) Chính sách thương mại và FDI Hỗ trợ khoa học và công nghệ Phát triển kỹ năng Nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng Cung cấp tài chính (ví dụ: các ngân hàng phát triển) Chính sách kinh tế vĩ mô (ví dụ: quản lý tỷ giá và lãi suất) Chính sách cạnh tranh
55
Có rất nhiều nội dung hữu ích từ các bài học mang tính kinh nghiệm của
các nước có thể áp dụng cho Việt Nam, nhưng hai điểm như sau là có ý nghĩa
đáng lưu tâm:
(1) Lựa chọn ngành công nghiệp ưu tiên: Theo Noland và Pack (2003),
việc lựa chọn tập trung ngành công nghiệp đối với các nước châu Á sau những
thành công của Nhật Bản và NIEs là không hợp lý. Các nước châu Á nên tập
trung vào những chính sách tạo tăng trưởng hơn là ưu tiên một số ngành. Việc
lựa chọn ngành mũi nhọn đem đến cả thành công và thất bại. The Economist
(2010) đã chỉ ra rằng, có tới 6/9 quốc gia nghiên cứu (kể cả các nước phát triển
và đang phát triển) đã bị thất bại trong việc lựa chọn phát triển ngành công
nghiệp bán dẫn. Lập luận thường cho rằng, chính phủ tập trung nguồn lực đầu tư
cho một hoặc một số ngành công nghiệp nào đó là chưa đủ, mà quan trọng hơn
là các nguồn lực này phải được thực hiện song song với một cơ chế minh bạch
về tài chính, năng lực quản trị cao nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của các
ngành công nghiệp mũi nhọn, và để tránh sự ỷ lại vào nguồn lực và cơ chế ưu
đãi từ Chính phủ, dẫn tới nguy cơ tụt hậu trong phát triển so với các ngành khác
của nền kinh tế, và so với các nền kinh tế khác.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng như hiện nay, với việc xuất hiện các
chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs), việc lựa chọn ưu tiên ngành công nghiệp lại càng
phải cân nhắc kỹ lưỡng. GVCs đã và đang mở ra một con đường công nghiệp
hóa mới cho các quốc gia bằng cách tham gia một chuỗi cung ứng, chứ không
nhất thiết phải tạo ra toàn bộ chuỗi cung ứng. Đồng thời khái niệm về một quốc
gia – một chuỗi cung ứng đã hoàn toàn biến mất. Thách thức hay vấn đề đặt ra
hiện nay là mặc dù công nghiệp hóa có thể được thực hiện dễ dàng hơn, nhưng
lại có ý nghĩa ít hơn. Trước thế kỷ 21, một quốc gia muốn xuất khẩu thì họ phải
có cơ sở sản xuất công nghiệp chuyên sâu, ví dụ như muốn xuất khẩu ô tô phải
có cơ sở sản xuất động cơ ô tô. Tuy nhiên điều đó không còn hợp lý khi hiện nay
các quốc gia muốn xuất khẩu phải nằm trong một khâu cụ thể của một chuỗi giá
trị quốc tế. Công nghiệp hóa có ý nghĩa, tức là phải gặt hái được những lợi ích,
phải hội nhập được vào các GVC và nâng cấp vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị.
56
Thách thức kép này đã trở thành một yếu tố thiết yếu của công nghiệp hóa và
chính sách công nghiệp trong thế kỷ XXI. Chính vì vậy, ngay ở trong mô hình
của Mlachia và các cộng sự (2014) đã cho thấy, sự đa dạng hóa trong cầu là yếu
tố xác định tính bền vững của tăng trưởng. Tập trung ưu tiên các ngành mũi
nhọn sẽ có thể làm thiếu đi tính đa dạng này. Đồng thời những sự ưu tiên còn tạo
ra nhiều bất cập khác, đặc biệt khi xảy ra khủng hoảng. Những bài học của các
công ty, tập đoàn “lớn” không chỉ diễn ra ở các nước mà ngay cả ở Việt Nam đã
làm cảnh tỉnh những nhà hoạch định.
Biểu 2.1: Thành công và thất bại trong việc can thiệp của chính phủ
khi đầu tư trọng điểm cho ngành công nghiệp bán dẫn ở một số nước
Nước Thời gian (*) Hỗ trợ Năng lực cạnh
(tỉ đô la) (**) tranh bền vững?
Mỹ 1976-1980 12-36 √
Nhật Bản 1980-1982 19-54 X
Đài Loan 1990 15-43 √
Hàn Quốc 1990 9-26 √
Singapore 1995 5-16 X
Đức 1996 2-7 X
Trung Quốc 1999 6-17 X
Malaysia 2001 1-3 X
Ghi chú: (*) những ngành công nghiệp được chính phủ đầu tư lớn hơn 1 tỷ
đô la.
(**) Khuyến khích của chính phủ (gộp) tới năm 2008, ước lượng
Nguồn: McKinsey Global Institute được trích trong The Economist (2010)
khoảng 20-35% tổng vốn đầu tư.
Tuy nhiên, không phải vậy mà các nước lại dễ dàng từ bỏ chính sách công
nghiệp, theo kiểu lựa chọn ngành trọng điểm. Vấn đề vẫn nằm ở chỗ chọn ngành
nào và các thiết chế chính sách đi kèm nó như thế nào (trực tiếp hay gián tiếp;
mức độ can thiệp;…), nhất là khi nguồn lực của các nước đang phát triển rất hạn
57
chế và cần phải tạo dựng một nền tảng công nghiệp nhanh hơn nữa để có thể
đuổi kịp các nước phát triển. Các nghiên cứu gần đây [85, 97,100] cho thấy,
thậm chí các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU hay Nhật Bản đang có những
bước đi, can thiệp vào thị trường công nghiệp.
Như đã trình bày ở trên, việc xuất hiện GVCs đã làm thay đổi phương
thức sản xuất công nghiệp truyền thống. GVCs xuất hiện cùng với các cluster
(cụm) có tính quốc tế. Công nghiệp hóa giờ không phải là bao trọn một quy trình
mà là sự lựa chọn một khâu trong quy trình đó dựa trên sự chuyên môn hóa. Các
nước thành công công nghiệp hóa là những nước có giá trị cao trong chuỗi giá
trị hoặc trong khâu của quy trình sản xuất và dịch vụ. Nhiều công ty vừa là đối
thủ vừa là đối tác. Các nước thay vì lựa chọn ngành cụ thể như trước thì giờ họ
lựa chọn nhóm ngành với một ngành được coi là trục. Nếu như trước đây một
quốc gia muốn phát triển ngành ô tô thì quốc gia đó sẽ sản xuất trọn gói chiếc ô
tô đó từ bánh xe, động cơ, … cho đến thiết kế và bán hàng, thì giờ đây quốc gia
chỉ chọn sản xuất khâu động cơ vì đây là một khâu cho giá trị cao và khâu này
phù hợp với trình độ của nước đó. Hoặc lấy Singapore là một ví dụ. Quốc gia
này lựa chọn 6 ngành trọng điểm, được xem là xương sống cho toàn bộ nền công
nghiệp của nước này. Đó là vi điện tử (microelectronics); hóa chất (chemicals);
kỹ thuật chính xác (precision engineering); kỹ thuật giao thông (transport
engineering); y sinh học (biomedical); chế biến, chế tạo chung (general
manufacturing), trong đó ngành vi điện tử là ưu tiên quan trọng nhất. Đây là
ngành có tính lan tỏa cao, có tác dụng thúc đẩy sự đa dạng cho ngành công
nghiệp của nước này.
Do đó, trên thực tế các quốc gia đang lựa chọn ưu tiên những ngành công
nghiệp mà có khả năng tạo ra sự đa dạng trong phát triển nhiều hơn. Các nước
nghèo chỉ sản xuất một vài loại sản phẩm, trong khi các nước giàu hơn sản xuất
nhiều loại hàng hóa hơn. Khi các nước nghèo giàu lên, nền công nghiệp của họ
trở nên ít tập trung hơn và bắt đầu đa dạng hóa sang nhiều loại hàng. Quá trình
58
này tiếp diễn khá lâu cho đến khi các quốc gia đạt mức thu nhập bình quân đầu
người của Ireland (khoảng $9,637 một người vào năm 1992) thì các nước lại bắt
đầu tập trung chuyên môn hóa hơn. Hiện tượng này không phải chỉ đúng ở với
số liệu chéo kiểu như đường Kuznet, mà còn đúng theo thời gian. Nghiên cứu
này cho thấy phát triển công nghiệp không chỉ là sự chuyển đổi cơ cấu từ các
ngành nông nghiệp sang công nghiệp, mà còn là một quá trình đa dạng hóa giữa
các hoạt động khác nhau trong ngành công nghiệp. Có nghĩa là việc đầu tiên
phải làm không phải là chỉ tập trung vào làm một việc tốt, mà là phải học cách
làm nhiều việc khác nữa.
Máy tính Giao thông Viễn thông
Ngành vũ trụ Phần mềm Vi điện tử
Điện tử tiêu dùng
Vi xử lý bán dẫn
Robot chế tạo máy Thiết bị y tế
Hình 9. Vi điện tử và các ngành công nghiệp bao quanh của
Nguồn: [96]
Singapore
(2) Thiết lập các mục tiêu của chính sách công nghiệp
Trong lịch sử kinh tế, công nghiệp hóa thường được mô tả là một quá
trình thỏa mãn các điều kiện: (i) có tính ổn định: các ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo tăng trưởng liên tục với tốc độ cao; (ii) đóng góp cho tăng trưởng
chung: các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có đóng góp lớn vào tăng
trưởng GDP; và (iii) thay đổi cơ cấu: các ngành công nghiệp chế biến chế tạo
nâng dâng trình độ sản xuất từ đơn giản tới phức tạp, sử dụng công nghệ cao.
Tuy nhiên, đây là các mô tả công nghiệp hóa một quốc gia, chứ chưa phải là
định nghĩa một quốc gia công nghiệp hóa.
59
Tổng kết các chiến lược của các nước, Ohno có đề xuất một số kiến nghị
trong phát triển công nghiệp ở Việt Nam. Theo đó một số tiêu chí mục tiêu có
thể được xem xét trong bối cảnh hội nhập sâu rộng (tới năm 2020 hoặc sau đó)
như sau:
- Mức thu nhập tương đối: Việt Nam gia nhập nhóm nước phát triển thành
công ở Đông Á với mức thu nhập tương đương với mức trung bình của khu vực
(Trung Quốc và ASEAN 14). Hiện Việt Nam đang thuộc nhóm nước có thu
nhập thấp nhất ở Đông Á.
- Cơ cấu xuất khẩu: các mặt hàng chế biến, chế tạo chiếm ít nhất 75% kim
ngạch xuất khẩu, chứ không phải chủ yếu là các hàng hóa cơ bản.
- Hình thành các ngành công nghiệp hỗ trợ: các ngành công nghiệp hỗ trợ
(chi tiết sản phẩm và vật liệu) là một trong những ngành đi đầu với tỷ lệ nội địa
hóa cao. Với một số ngành quan trọng như dệt may, điện tử, xe máy thì mục tiêu
nội địa hóa trong trung hạn cần tham khảo các nhà sản xuất trong nước và FDI,
và được điều chỉnh định kỳ nếu cần thiết. Lưu ý là trong thời đại toàn cầu hóa,
phân công lao động quốc tế không nên hướng tới mục tiêu nội địa hóa 100%.
Việt Nam cần thiết lập được mạng lưới sản xuất khu vực kết nối với Trung Quốc
và các nước ASEAN, gồm cả xuất khẩu và nhập khẩu các linh kiện, nguyên vật
liệu từ các nước này.
- Tiếp nhận các dịch vụ hỗ trợ: nâng cao năng lực của lao động trong
nước đáp ứng các ngành chế biến, chế tạo đòi hỏi công nghệ cao, tránh sự phụ
thuộc bên ngoài. Đảm bảo ít nhất 70% lao động có kỹ năng có sẵn ở trong nước
và chỉ nên thuê ngoài đối với những công việc đòi hòi kỹ năng chuyên môn hóa
rất cao. Các kỹ năng cơ bản cần có gồm hoạch định chính sách, quản lý sản xuất,
marketing toàn cầu, “marketing hạ tầng” (mời gọi đầu tư FDI và đầu tư vào các
khu công nghiệp), thiết kế sản phẩm, v.v.
Trong khu vực ASEAN, kinh nghiệm phát triển của Thái Lan có thể xem
là sự tham khảo tốt cho Việt Nam. Thái Lan đã nằm trong nhóm nước thành
60
công với mức thu nhập trung bình ở Đông Á, tỷ lệ hàng hóa chế biến, chế tạo
chiếm hơn 75% tổng kim ngạch xuất khẩu với các sản phẩm công nghiệp nổi
trội là điện tử và ô tô. Việt Nam tất nhiên không nên sao chép nguyên con đường
phát triển công nghiệp của Thái Lan, nhưng ít nhất có thể hướng tới các thành
tựu đã đạt được của nước này, đồng thời cố gắng thực hiện tốt hơn trong những
mặt khác có tiềm năng, chẳng hạn như tiếp thu tốt các hoạt động hỗ trợ, tận dụng
lực lượng lao động được đào tạo chuyên môn cao, đảm bảo bình đẳng trong thu
nhập và kiểm soát tốt tình trạng phát triển đô thị (ví dụ như tắc đường). Đó có
thể coi là những mục tiêu thực tế đối với Việt Nam và từ đó hướng tới các mục
tiêu cao hơn trong tương lai.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Các nghiên cứu trong ngoài nước liên quan đến chất lượng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng ngành đã cho phép hình thành cơ sở lý luận, tiêu chí đánh giá, định hướng và chính sách nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng các ngành kinh tế ở phạm vi cả nước nói chung.
Cho đến nay, hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ đề cập tới việc đánh giá chất lượng tăng trưởng của các ngành công nghiệp nhỏ lẻ, cấp 3 theo hệ thống phân ngành kinh tế, chưa có nghiên cứu đánh giá toàn bộ chất lượng toàn khối ngành công nghiệp, đặc biệt là nghiên cứu có tính cập nhật cao về những thay đổi chính sách phát triển công nghiệp, tác động tới chất lượng tăng trưởng toàn ngành.
Khối ngành công nghiệp là một khối ngành quan trọng, có vị trí chủ đạo trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Những đóng góp của khối ngành này, cơ cấu nội bộ ngành, hiệu quả sử dụng vốn, trình độ công nghệ, năng suất lao động của ngành, khả năng giải quyết việc làm cho nền kinh tế, đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu, thu ngân sách,… cho nền kinh tế trong tình hình mới cần có một nghiên cứu có tính hệ thống, toàn diện, nhằm nâng cao hơn nữa đóng góp của khối ngành cho nền kinh tế.
Hệ thống tiêu chí được đề xuất để đánh giá chất lượng tăng trưởng công nghiệp là khá phù hợp với cách tiếp cận của các học giả trong và ngoài nước về đề tài và khá cụ thể, hệ thống, toàn diện, phù hợp với điều kiện công nghiệp Việt Nam.
61
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG CHẤ T LƯỢNG TĂNG TRƯỞ NG CÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM THỜ I KỲ 2001-2015 VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
3.1. Vị trí của ngành công nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế được chia thành 3 khu vực: nông nghiệp-lâm nghiệp-ngư
nghiệp, công nghiệp và xây dựng, và khu vực dịch vụ. Cùng với quá trình phát
triển, khu vực công nghiệp và dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng.
Ngành công nghiệp Việt Nam bắt đầu hình thành trong nhiền thập kỷ đến
nay, nhưng chủ yếu là từ thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Trong thời kỳ này, do yêu
cầu của cuộc kháng chiến, hầu hết các nhà máy, xí nghiệp được xây dựng với
qui mô nhỏ và phân bố dàn đều trên nhiều địa phương. Một số ít nhà máy lớn và
khu công nghiệp tập trung, với quy mô đầu tư vừa, cũng được xây dựng. Trong
thời gian đó, theo chính sách tự cấp, tự túc, nên các xí nghiệp nói chung được
đầu tư khép kín từ khâu nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra. Với mô hình
như vậy, mặc dù chỉ tạo ra được các sản phẩm đơn giản về mẫu mã, chất lượng
trung bình, nhưng đã phục vụ đắc lực cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và
phát triển kinh tế trong giai đoạn lịch sử đó (xin xem thêm ở phụ lục 11).
- Trong giai đoạn 1991-2000, khối ngành công nghiệp đạt được tốc độ
tăng trưởng cao, năm thấp nhất tăng 10,4% (1991/1990), năm cao nhất tăng
17,1% (1992/1991). Bình quân 10 năm tăng 13,6%, trong đó: giai đoạn 1991-
1995 tăng 13,7%; giai đoạn 1996-2000 tăng 13,5%.
- Giai đoạn 2001-2005 tiếp tục chứng kiến thành quả tăng trưởng cao của
khối ngành công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng GDP công nghiệp (giá ss 2010)
bình quân hàng năm đạt 16%, trong đó, công nghiệp khai thác mỏ tăng 15,8%,
công nghiệp chế biến tăng 16,1%, công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước
tăng bình quân 15,6%. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt tốc độ tăng bình quân
62
16%/năm; trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp khai thác tăng bình quân
6,0%/năm, công nghiệp chế biến đạt tốc độ tăng trưởng cao, 17,7% và công
nghiệp sản xuất và phân phối điện nước đạt tốc độ tăng trưởng 11,7%, thấp hơn
so với mức tăng bình quân của giá trị sản xuất toàn ngành (phụ lục 1, biểu
1.3.1).
Ngành công nghiệp ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của
cả nước. Tỷ trọng của khối ngành công nghiệp đã tăng lên nhanh chóng trong
GDP của cả nước (biểu 3.1).
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu
Biểu 3.1: Cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam giai đoạn 2000-2015
2000
2005
2010
100
1. Cơ cấu kinh tế:
100
100
100
100
Khu vực nông-lâm-thủy sản
24,5
20,7
17,0
18,4
17,7
Khu vực công nghiệp-xây dựng
36,7
41,0
33,3
32,1
33,2
Khu vực dịch vụ
38,8
38,3
49,7
49,5
49,1
2. Cơ cấu lao động
100
100
100
100
100
Trong đó:
Khu vực nông-lâm-thủy sản
68,2
57,0
49,5
46,3
46,1
Khu vực công nghiệp-xây dựng
12,1
18,0
21,0
21,3
21,6
Khu vực dịch vụ
19,7
25,0
29,5
32,4
32,3
Nguồn: Tính toán và xử lý của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê [106]
2015 2014
Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp đã có bước tiến đáng kể theo hướng
công nghiệp hoá, từng bước hiện đại hoá, phát huy lợi thế của từng ngành, từng
sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu sản xuất và
cơ cấu sản phẩm công nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng
công nghiệp chế biến trong giá trị tăng thêm. Ngành công nghiệp chế biến đã
bước đầu khai thác được các lợi thế về nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước
để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu.
63
Trong công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp gia công, lắp ráp đang là chủ
yếu; tốc độ đổi mới công nghệ trong hầu hết các ngành công nghiệp còn chậm
và đang ở mức trung bình là phổ biến. Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển.
Cùng với quá trình hình thành và phát triển của ngành công nghiệp trong
hơn 60 năm qua, đặc biệt trong hơn 30 năm đổi mới, cơ cấu công nghệ trong sản
xuất công nghiệp đã có nhiều thay đổi theo hướng tiếp cận trình độ công nghệ
tiên tiến, hiện đại. Đến nay đã hình thành một cơ cấu công nghệ đa dạng về xuất
xứ và trình độ, đan xen trong từng doanh nghiệp, từng lĩnh vực và từng chuyên
ngành sản xuất công nghiệp.
3.2. Thực tra ̣ng chấ t lươ ̣ng tăng trưởng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam
Sau một thời gian dài duy trì được một tốc độ tăng trưởng khá cao của
khối ngành công nghiệp, vấn đề đặt ra lúc này không chỉ là làm thế nào để có
được một tốc độ tăng trưởng nhanh, mà còn là tăng trưởng đạt được đó có hiệu
quả như thế nào, do những yếu tố nào mang lại, tăng trưởng đó có mang lại
những ảnh hưởng như thế nào tới nền kinh tế-xã hội. Việc trả lời các câu hỏi
này, sẽ đưa ra được những bằng chứng cho thấy chất lượng tăng trưởng của sản
xuất công nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2015.
3.2.1. Đánh giá cấu trúc của tăng trưởng
3.2.1.1. Cấu trúc tăng trưởng theo ngành công nghiệp
Giá trị sản xuất (GTSX) công nghiệp đạt nhịp tăng trưởng bình quân cao
trong giai đoạn 1996-2005, đạt 14,1%/năm giai đoạn 1996-2000 và 15,8%/năm
giai đoạn 2001-2005; năm năm 2006-2010 đa ̣t 12,7%/năm, riêng 4 năm gần đây
2011-2015, GTSX công nghiệp đạt nhịp tăng khá cao 18,7%/năm (xem thêm
biểu 2.4, hình 4 và số liệu chi tiết ở phụ lục 2). Trong đó, công nghiệp khai thác
đóng góp cho nhịp tăng trưởng cao trên 1,94 điểm phần trăm trong giai đoạn
2011-2015, chiếm tỷ trọng 10,4% trong tổng nhịp tăng trưởng của GTSX khối
ngành công nghiệp; các phân ngành công nghiê ̣p chế tác là 13,02% tương
64
đương 69,7% mứ c tăng trưở ng và công nghiê ̣p điê ̣n, nướ c, khí đố t đó ng 3,71% hay 19,9% mứ c tăng trưở ng. Số liệu tính toán cho thấy (biểu 3.3 và phụ lục 3),
vai trò của phân ngành công nghiệp khai thác mỏ đang có xu hướng giảm dần
trong tăng trưởng giá trị sản xuất ngành công nghiệp. Đây là một dấu hiệu phù
hợp với xu hướng phát triển của ngành công nghiệp khi tỷ trọng công nghiệp chế
biến phải có xu hướng ngày càng tăng trong giá trị sản xuất cũng như giá trị gia
tăng của ngành công nghiệp.
Nguồn: Tính toán theo số liệu của Tổng cục Thống kê, [106]
Hình 3.1: Chuyển di ̣ch cơ cấu VA công nghiệp
Ngành công nghiệp chế tác có đóng góp lớn cho tăng trưởng của GTSX
ngành công nghiệp trong suốt thời gian từ 1996-2005, ở mức 11,24/14,1% của
giai đoạn 1996-2000 và 13,11/15,8% tăng trưởng GTSX của ngành công nghiệp
giai đoạn 2001-2005, tương đương với tỷ trọng 79,6% và 83,0% trong tổng nhịp
tăng trưởng của GTSX ngành công nghiệp trong giai đoạn tương ứng. Trong 9
năm gần đây giá tri ̣ sản xuất công nghiê ̣p chế tác vẫn duy trì đươ ̣c mứ c tăng
trưở ng và đó ng gó p cho tăng trưở ng công nghiê ̣p ở mứ c cáo. Năm năm 2006-
2010 80,7% cho mứ c tăng trưở ng bình quân chú ng 12,71%/năm và 4 năm 2011-
65
2015 là 69,7% cho mứ c tăng trưở ng 18,7%/năm. Giá trị sản xuất của ngành
công nghiệp chế tác có đóng góp ngày càng tăng cho giá trị sản xuất của ngành
công nghiệp là phù hợp với xu hướng phát triển của ngành công nghiệp. Tuy
nhiên, xem xét cấu trúc tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp chế tác cho
thấy, trong vòng 10 năm (1996-2005), chuyển dịch cơ cấu sản xuất của ngành
này diễn ra chậm với đóng góp chủ yếu vẫn là ngành chế biến thực phẩm và đồ
uống. Các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển hoặc có xu hướng phát
triển kém hơn (ngành dệt). Các ngành sản xuất máy móc thiết bị, xe có động cơ,
cơ khí có vai trò quá nhỏ trong tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của Việt
Nam, trong đó, riêng ngành sản xuất máy móc thiết bị có tỷ trọng đóng góp giảm
dần cho tăng trưởng GTSX ngành công nghiệp trong giai đoạn 1996-2005. Chín năm 2006-2015 có bướ c chuyển biến tích cực hơn. Các ngành công nghiê ̣p như
hó a dầu, chế biến thuố c, hó a dươ ̣c, cơ khí, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi
tính và sản phẩm quang học.v.v.. ngày càng có vi ̣ thế hơn, tố c đô ̣ tăng trưở ng
bình quân luôn đứ ng ở hàng đầu.
Ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước đóng góp nhỏ trong
tăng trưởng của GTSX công nghiệp trong thời kỳ 1996-2005. Giai đoạn 1996-
2000, GTSX ngành này đóng góp 0,96 điểm phần trăm trong tổng số 14,1% tăng
trưởng của toàn ngành, giai đoạn 2001-2005, GTSX ngành này đóng góp 0,99
điểm phần trăm trong tổng số 15,8% tăng trưởng bình quân năm của toàn ngành,
tương ứng với tỷ trọng 6,3%, các năm 2006-2010 tương ứ ng là 2,25%/12,71%
tăng trưởng và 4 năm 2011-2014 là 3,7%/18,7%/năm. Tương ứ ng các giai đoa ̣n
đó ng gó p 17,7% và 19,9% cho tăng trưở ng chú ng củ a ngành công nghiệp.
Về đó ng gó p cho tăng trưở ng GDP hay giá tri ̣ gia tăng củ a ngành công
nghiê ̣p, khác với sự lấn lướt của ngành công nghiệp chế biến trong cấu trúc tăng
trưởng GTSX toàn ngành công nghiệp, xem xét cấu trúc tăng trưởng GDP công
nghiệp cho thấy một bức tranh khác. Ngành công nghiệp khai khoáng có mức
66
đóng góp cho tăng trưởng GDP toàn ngành công nghiệp là 2,8 điểm phần trăm
bình quân giai đoạn 1996-2000, tương ứng với tỷ trọng 24,1% trong tổng nhịp
tăng toàn ngành và 2,1% điểm phần trăm trong giai đoạn 2001-2005, tương
đương với tỷ trọng 20,4% trong tổng nhịp tăng của GDP toàn ngành. Những
năm gân đây có xu hướ ng giảm dần. Năm năm 2006-2010 đó ng gó p có 0,1% và
0,7% tăng trưở ng cho các năm 2011-2015, tương ứ ng 1,6% và và 10,5% cho
mứ c tăng trưở ng chung toàn ngành công nghiê ̣p.
Biểu 3.2: Đóng góp cho tăng trưởng của GTSX công nghiệp
Đơn vị: %
Ngành
1996-2000 2001-2005 2006-2010 2011-2015 18,66 1,94 13,01 12,71 0,20 10,26 14,1 1,96 11,24 15,8 1,69 13,11
Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK, [106]
0,92 0,99 Tổng số CN khai thác CN chế biến, chế tác SX và PP điện, khí và nước 2,25 3,71
Biểu 3.3: Tỷ lê ̣ đóng góp cho tăng trưởng GTSX công nghiệp từ các ngành
Đơn vị: %
1996-2000 2001-2005 2006-2010 2011-2015 Ngành
Tổng số 100 100 100 100
Công nghiệp khai thác 13,9 10,7 1,6 10,5
Công nghiệp chế biến 79,6 83,0 80,7 69,6
Nguồn: Tính toán theo số liệu của TCTK, [106]
Sản xuất và phân phối điện, 6,5 6,3 17,7 19,9 khí đốt và nước
Tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng cho tăng trưởng
GDP của toàn ngành cao hơn so với đóng góp của ngành cho tăng trưởng GTSX
của toàn ngành phần nào phù hợp với tính chất của ngành là có tỷ lệ chi phí
trung gian không cao.
67
Biểu 3.4: Tăng trưởng GDP công nghiệp và tỷ lê ̣ đó ng gó p củ a cá c
phân ngành
Đơn vị: %
1996- 2001- 2006- 2011- Ngành 2000 2005 2010 2015
Tốc độ tăng trưởng GDP công nghiệp 11,6 10,1 5,9 6,5
Công nghiệp khai thác mỏ 12,2 4,4 0,3 2,3
Công nghiệp chế biến 11,2 11,6 9,3 7,9
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và 13,3 12,1 9,5 10,1 nước
Đóng góp cho tăng trưởng GDP CN 11,6 10,1 5,9 6,5
Công nghiệp khai thác mỏ 2,8 2,1 0,1 0,7
Công nghiệp chế biến 7,9 7,1 4,8 4,6
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và 0,9 0,9 1,0 1,3 nước
Cấu trúc tăng trưởng GDP Công 100 100 100 100 nghiệp
Công nghiệp khai thác mỏ 24,1 20,4 1,6 10,4
Công nghiệp chế biến 67,8 70,7 80,7 69,7
Nguồn: Tính toán theo số liệu của TCTK, NGTK 2000-2015, NXB Thống kê, [106]
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và 8,1 8,9 17,7 19,9 nước
Công nghiệp chế biến vẫn có vai trò chủ đạo đóng góp cho tăng trưởng
GDP công nghiệp, 7,9 điểm phần trăm trong giai đoạn 1996-2000, 7,1 điểm
phần trăm trong giai đoạn 2001-2005, 4,8 điểm phần tram cho giai đoa ̣n 2006-
2010 và 4,6 điểm phần tram cho 4 năm gần đây 2011-2015. Tỷ lê ̣ đó ng góp trong các thờ i kỳ tương ứ ng cho tổng nhịp đô ̣ tăng trưở ng của GDP toàn ngành là 67,8%, 70,7%, 80,1% và 69,7%. Điều đáng chú ý ở đây là đóng góp của
68
ngành trong tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp cao hơn so với trong GDP,
cho thấy tỷ lệ chi phí trung gian của ngành có xu hướng tăng. Mặt khác, tỷ trọng
đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tác cho tăng trưởng GDP công nghiệp
mặc dù có tăng, nhưng không đáng kể trong giai đoạn 10 năm (1996-2005), mà
chủ yếu ở 10 năm cuố i 2006-2015: 74,8%.
Tóm lại, mặc dù khối ngành công nghiệp đạt được nhịp tăng bình quân
cao của giá trị sản xuất và giá trị gia tăng trong giai đoạn 10 năm (1996-2005),
nhưng cấu trúc tăng trưởng của khối ngành này còn cho thấy nhiều khiếm
khuyết. Cấu trúc tăng trưởng trên cho thấy một cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp
có phần chưa hợp lý với chi phí trung gian cao, giá trị gia tăng thấp, công nghiệp
phụ trợ chưa phát triển. Về mặt dài hạn, nhiều nhà kinh tế cho rằng, việc duy trì
một cơ cấu sản xuất công nghiệp với mức giá trị gia tăng thấp sẽ khó đạt được
một mức tăng trưởng cao và lâu dài cho khối ngành này. Những nhươ ̣c điểm này đã phần nào đươ ̣c khắc phu ̣c trong 10 năm gần đây.
3.2.1.2. Cấu trúc tăng trưởng theo mức đóng góp của các yếu tố nguồn
lực
Thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu về đóng góp của các yếu tố đầu vào
cho tăng trưởng của nền kinh tế cũng như của ngành công nghiệp được tiến
hành. Kết quả các nghiên cứu đều đưa đến một số kết luận khá thống nhất về vai
trò của các yếu tố nguồn lực (vốn, lao động và TFP) cho tăng trưởng của nền
kinh tế cũng như đối với công nghiệp.
Thứ nhất, Đối với toàn bộ nền kinh tế, kết quả các nghiên cứu cho thấy: -
Trên 90% thay đổi về năng suất của Việt Nam trong cả giai đoạn 1991-2015 là
chủ yếu do đóng góp của yếu tố vốn vật chất, lao động;
- Đóng góp của TFP (không bao gồm vốn con người) trong giai đoạn
1990-2001 đươ ̣c xác đi ̣nh là 6% thay đổi năng suất, thì giai đoạn 1990-2005 chỉ còn 3%. Bình quan trong 2005-2015 tỷ lê ̣ này đã tăng cao, khoảng 8%, và theo
69
nghi ̣ quyết Đa ̣i hô ̣i Đảng trong những năm tớ i có thể cò n cao hơn. Như vậy,
trong giai đoạn nghiên cứu, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được xác đi ̣nh nhờ
sự đóng góp nhiều hơn của nhân tố sản xuất chứ không phải TFP.
- Trong ba nguồn lực, lao động vẫn là nguồn lực chính tạo ra giá trị gia
tăng tuy đã có xu hướng giảm nhẹ trong giai đoạn 2002-2004. Trung bình cứ 1%
số lao động tăng lên sẽ dẫn đến tăng 0,55% giá trị gia tăng trong giai đoạn 1990-
2004. Nhưng năm 2005-2015 theo tính toán tỷ lê ̣ này giảm xuố ng bình quân 40%. Như vậy, giá trị gia tăng tạo ra trong giai đoạn này nhờ vào một phần
quan trọng từ đóng góp của lao động. Có thể thấy đóng góp của khu vực công
nghiệp ngày càng cao vào GDP, trong khi khu vực này chỉ tuyển dụng một tỷ lệ
lao động thấp. Trong khi đó, tỷ trọng đóng góp của khu vực nông nghiệp lại
giảm xuống, nhưng khu vực nông nghiệp vẫn là nơi sử dụng nhiều lao động nhất
cho nền kinh tế.
- Vốn vật chất là nguồn lực có đóng góp nhỏ vào giá trị gia tăng. Nếu các
đại lượng khác không đổi, cứ tăng thêm 1% đơn vị tài sản vốn sẽ chỉ làm tăng
thêm 0,1%-0,12% đơn vị giá trị gia tăng trong giai đoạn 1990-2004 trong khi
giai đoạn này ghi nhận mức đầu tư cao trong GDP của nền kinh tế. Đóng góp
thấp của vốn cho tăng trưởng kinh tế phần nào minh chứng hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư thấp của nền kinh tế, cũng như mức độ phát huy các công trình đã
được đầu tư là thấp. Mườ i năm gần đây 2005-2015 hê ̣ số co dãn củ a GDP đố i vớ i vố n đã tăng lên, bình quân 60%1.
Nghiên cứu của Mankiw (1992) về đóng góp cho tăng trưởng của ba
nhóm nước OECD, nước xuất khẩu dầu lửa và nhóm các nước đang phát triển
1 Theo GS. Trần Văn Thọ (Tại hội thảo Kinh nghiệm phát triển Nhật Bản và Việt Nam
9/1/2012) giai đoạn 1950-1973 TFP Nhật bản đóng góp 3,6% vào tăng trưởng; tương tự giai
đoạn 1960-1994 TFP Hàn Quốc đóng góp cho tăng trưởng 1,5%, Trung Quốc 1,7%.
không sản xuất dầu lửa cho thấy, trong khi nhóm nước OECD vốn con người
70
đóng góp cao vào tăng trưởng và TFP cho thấy tới trên 70% tăng trưởng, thì ở
hai nhóm nước còn lại, lao động, vốn vật chất và vốn con người là nguồn lực
chính của tăng trưởng. Chỉ khoảng ¼ tăng trưởng ở hai nhóm nước đang phát
triển được giải thích bằng TFP. Đóng góp cao của nguồn lực con người cho tăng
trưởng GDP ở Trung Quốc trong giai đoạn 1976-1989 theo nghiên cứu của
Gundlach (1997) và của Việt Nam trong giai đoạn 1990-2004 theo nghiên cứu
của Lê Xuân Bá (2006) được giải thích thông qua chính sách đầu tư cho giáo
dục. Sự cứng nhắc trong sử dụng nguồn nhân lực và sự trói buộc của cơ chế kế
hoạch hóa tập trung đã hạn chế khả năng đóng góp của lực lượng lao động có
trình độ học vấn khá cao vào tăng trưởng của các nước đang chuyển đổi như
Việt Nam và Trung Quốc.
Thứ hai, đối với riêng ngành công nghiệp Việt Nam, về đóng góp của các
nguồn lực cho tăng trưởng của 80 ngành công nghiệp Việt Nam cho thấy kết quả
khá tương đồng với các kết quả nghiên cứu đối với toàn bộ nền kinh tế. Thực
vậy:
- Đóng góp cho tăng trưởng của các ngành công nghiệp chủ yếu của Việt
Nam như chế biến thực phẩm, sản xuất thuốc lá, ngành dệt, ngành may, ngành
giày da, sản xuất giấy, hóa chất, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất sắt thép,
sản xuất các sản phẩm từ sắt, sản xuất máy móc, động cơ, thiết bị, sản xuất đồ
điện, sản xuất đồ điện tử, sản xuất xe có động cơ, sản xuất đồ gỗ, v.v. đều chủ
yếu do tăng trưởng các yếu tố đầu vào, đóng góp của tiến bộ công nghệ vào tăng
trưởng của các ngành công nghiệp này là không đáng kể. Nghiên cứu cũng cho
thấy, có 46 ngành có tăng trưởng năng suất lao động trong giai đoạn 2000-2003
và hầu hết các ngành này có được sự tăng trưởng năng suất là nhờ vào sự cải
thiện trong tiến bộ công nghệ, cải tiến kỹ thuật, điều này nói lên tầm quan trọng
của tiến bộ công nghệ đối với việc tăng năng suất của ngành công nghiệp Việt
Nam.
71
- Sự gia tăng của lao động có tác động không đáng kể tới tăng trưởng của
các ngành công nghiệp nghiên cứu. Điều này có thể được giải thích là do các
ngành công nghiệp Việt Nam có giá trị gia tăng thấp, sự gia tăng của lao động
tay nghề thấp trong các ngành công nghiệp lắp ráp, gia công không là nhân tố
chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng của ngành. Việc tăng cường phát triển nguồn nhân
lực có trình độ cao, có khả năng đảm nhận các công đoạn sản xuất có giá trị gia
tăng cao như nghiên cứu mẫu mã mới, nghiên cứu triển khai sản phẩm sẽ góp
phần chủ yếu cho tăng trưởng của các ngành công nghiệp.
3.2.2. Hiệu quả của việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng
Có nhiều tiêu chí phản ánh hiệu quả tăng trưởng của ngành công nghiệp,
trong khuôn khổ luận án này, sẽ tập trung phân tích các tiêu chí liên quan đến
năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tỷ lệ chi phí trung gian trong
sản xuất như đã được nêu ở phần trên.
3.2.2.1. Năng suất lao động
Năng suất lao động của ngành công nghiệp đơn giản được tính bằng GDP
chia cho lao động đang làm việc trong ngành công nghiệp của Việt Nam ở năm
tương ứng và có thể tính theo giá hiện hành và giá so sánh. Trong khuôn khổ
luận án này, để tiện so sánh, tác giả tính năng suất lao động của ngành công
nghiệp theo giá năm 2010.
Kết quả tính toán từ số liệu thống kê cho thấy, năng suất lao động (NSLĐ)
của ngành công nghiệp Việt Nam năm 2005 đạt 109 triệu đồng (giá ss2010)/lao
động/năm; nhi ̣p đô ̣ tăng năng suất lao đô ̣ng bình quân năm tăng ma ̣nh, 4,6%/năm tro ̣ng các năm 2006-2015, chỉ cao hơn 0,5% so vớ i nhịp tăng chung
của cả nước, 3,9%/năm. So với NSLĐ ngành công nghiệp bình quân của nhóm
nước hoặc các nước, năng suất lao động của công nghiệp Việt Nam năm 2013
chỉ bằng 81% của nhóm các nước Đông Á và Thái Bình Dương, bằng 41% của
Thái Lan, bằng 6,4% của Hàn Quốc, bằng 58% của Trung Quốc [112, 119].
72
Năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động không cao
chứng tỏ công nghệ sản xuất ở trình độ thấp và hiệu quả sử dụng lao động không
cao của ngành công nghiệp Việt Nam. Đồng thời, nó cho thấy các ngành công
nghiệp của Việt Nam có khả năng tạo ra giá trị gia tăng thấp, hạn chế khả năng
tích lũy tái sản xuất mở rộng nền kinh tế và khả năng cải thiện nhanh mức sống
của người lao động. Ở một khía cạnh khác, năng suất lao động công nghiệp thấp
cũng phần nào cho thấy cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp là chưa hợp lý, những
ngành, lĩnh vực, công đoạn của quá trình sản xuất có khả năng tạo giá trị gia
tăng cao không được đảm nhận bởi các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
Tức là, ngành công nghiệp Việt Nam chỉ mới phát triển ở các công đoạn có giá
trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu, các công đoạn như nghiên cứu sản
phẩm mới, thiết kế sản phẩm, phát triển sản phẩm mới, tăng cường khả năng
xâm nhập thị trường của sản phẩm và phân phối sản phẩm, các doanh nghiệp
công nghiệp Việt Nam vẫn chưa thể đảm nhận, lĩnh vực mà các nghiên cứu cho
thấy là có khả năng đem lại giá trị gia tăng cao nhất.
Mặc dù được coi là một nền kinh tế đang có nguồn nhân lực bước vào giai
đoạn “kỷ nguyên dân số vàng”- một nền kinh tế có Tổng tỷ suất phụ thuộc về
dân số dưới 50% được coi là nền kinh tế nằm trong kỷ nguyên dân số vàng.
Tổng tỷ suất phụ thuộc về dân số được tính bằng (số người trong độ tuổi 0-14 +
số người trên 65 tuổi)/ số người trong độ tuổi từ 15-64); Việt Nam bắt đầu bước
vào kỷ nguyên dân số vàng từ năm 2006 và kéo dài trong thời kỳ khoảng hơn 30
năm. Nghiên cứu cho thấy, các nước trong kỷ nguyên dân số vàng thường có
nguồn nhân lực dồi dào và nguồn nhân lực này có đóng góp lớn trong tăng
trưởng của nền kinh tế nhờ năng lực lao động và sự tăng lên nhanh chóng của
cầu hàng hóa và dịch vụ. Tuy vậy, với năng suất lao động không cao thì khả
năng đóng góp của nguồn nhân lực vào tăng trưởng của ngành công nghiệp,
cũng như của nền kinh tế sẽ bị hạn chế.
73
Biểu 3.5: GDP, lao động, năng suất lao động bình quân của cả nước
Cả nước
Công nghiệp
NSLĐ CN
so với
LĐ
LĐ
Năm
GDP
NSLĐ
GDP
NSLĐ
NSLĐ BQ
(nghìn
(nghìn
(tỷ Đồng)
(tr.Đ/Lđ)
(tỷ Đồng)
(tr.Đ/Lđ)
(lần)
ngườ i)
ngườ i)
2000
836046
36569
22,9
239241
3889,3
61,5
2,69
2005
1588646
42774
37,1
605515
5544,1
109,2
2,94
2010
2157828
49048
44,0
693350
7169
96,7
2,20
2011
2292483
50352
45,5
746069
7497,7
99,5
2,19
2012
2412778
51422
46,9
801217
7624,9
105,1
2,24
2013
2543596
52207
48,7
841953
7777,3
108,3
2,22
2014
2695796
52744
51,1
896042
7915,7
113,2
2,21
2015
2875856
52840
54,4
982411
8586,2
114,4
2,10
Nguồn: Tính toán theo số liệu của TCTK, NGTK cá c năm 2005 đến 2015, NXB Thống
kê, [106]
Ghi chú: Đơn vị tính: GDP- tỷ đồng, Giá 2010; Lao động: 1000 người, NSLĐ: triệu
đồng, giá 2010.
và của ngành công nghiệp
3.2.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong kinh tế, người ta thường
sử dụng hệ số ICOR. Số liệu thống kê giai đoạn 2000 đến năm 2015 (biểu 3.6)
cho thấy hệ số ICOR của ngành công nghiệp Việt Nam là khá cao, giảm nhe ̣
trong các năm 2001-2005 và có xu hướng tăng dần trở la ̣i từ năm 2006. Nếu như những năm đầu thế kỷ ICOR cao do tâ ̣p trung vào các ngành công nghiê ̣p có tính chất ha ̣ tầng, vố n lớ n, lâu thu hồ i vố n thì những năm 2013-2015 ICOR đa ̣t mứ c 4,6 chủ yếu do đầu tư vào công nghê ̣ và các ngành công nghiê ̣p mớ i. Mặc dù có
có bi ̣ tăng, giảm nhưng tính chung cho cả giai đoạn 2001-2015, hệ số ICOR của
sản xuất công nghiệp vẫn ở mức cao, ở mức 3,9. Điều đó có nghĩa là, để có được
1 đơn vị GDP công nghiệp, sẽ phải bỏ ra 3,9 đơn vị vốn đầu tư cho ngành trong
suốt cả giai đoạn 2001-2015. So với ICOR của công nghiệp, ICOR bình quân chung củ a cả nướ c có phần thấp hơn. Tuy nhiên giai đoa ̣n đầu xu thế ngươ ̣c la ̣i
74
do đầu tư hê ̣ thố ng kết cấu ha ̣ tầng lớ n, hoàn vố n lâu và châ ̣m. Tuy nhiên, về xu
hướng, trong khi hiệu quả vốn đầu tư của các ngành khác có xu hướng tăng
trong những năm gần đây, mà bằng chứng là hệ số ICOR của cả nước và củ a
công nghiê ̣p đều có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, tù y thuô ̣c vào cơ cấu các ngành mà ICOR công nghiê ̣p có thể tăng giảm. Trong khi, mô ̣t số ngành không
ngừng cải thiện hiê ̣u quả, hoă ̣c có điều kiê ̣n sử dụng vốn đầu tư hiê ̣u quả hơn thì có những ngành ít có điều kiê ̣n hơn như các ngành công nghiê ̣p nă ̣ng, hoă ̣c các ngành thườ ng quy mô lớ n, thiết bi ̣ hiê ̣n đa ̣i, phứ c ta ̣p hơn.
Vốn đầu tư
Vốn đầu tư
VĐT
ICOR
ICOR
ICOR cả
công
Năm
CN/cả
Công
CN/Cả
cả nước (tỷ
nước
nghiệp (Tỷ
Đ HH)
nước (%)
nghiệp
nước (lần)
Đ giá HH)
2000
151183
55743
36.9
3.73
5
0.74
2005
343135
132902
38.7
4.29
4.8
0.89
2010
830278
316419
38.1
3.3
2.4
1.40
2015
1438790
669500
48,9
4.8
3.7
1.29
Nguồn: Tính toán theo số liệu NGTK từ 2005 đên 2016; [106]
Biểu 3.6: Hệ số ICOR của nền kinh tế và của ngành công nghiệp
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tăng lên của hệ số ICOR ngành công
nghiệp trong những năm gần đây. Số liệu thống kê cho thấy phần vốn đầu tư
dành cho sản xuất công nghiệp có tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng vốn đầu tư
của cả nước. Nếu bình quân mườ i năm 1996-2005 tỷ tro ̣ng này là 33% thi ̣ 10 năm gần đây 2004-2015 đã tăng lên 38,3% (xin xem thêm ở phụ lục 1, biểu
1.37). Tuy nhiên, hiê ̣u quả sản xuất công nghiê ̣p thờ i gian qua không cao do đầu
tư tập trung vào các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu có giá trị gia tăng
thấp như công nghiệp ô tô, công nghiệp đóng tàu và đặc biệt là những điển hình
về lãng phí vốn đầu tư như ngành mía đường, ngành xi măng, v.v. đã góp phần
làm giảm hiệu quả vốn đầu tư của toàn ngành.
75
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp trong công nghiệp và xu hướng cải
thiện không thực sự rõ rệt cho thấy, để có được tăng trưởng giá trị gia tăng công
nghiệp, cần phải có nhiều vốn đầu tư hơn. Nói cách khác, tăng trưởng của ngành
công nghiệp vẫn còn thiên về tăng trưởng theo chiều rộng với hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư thấp, điều đó cũng cho thấy chất lượng tăng trưởng của ngành công
nghiệp là cần được cải thiện.
3.2.2.3. Tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất
Tỷ lệ chi phí trung gian trong tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp
không ngừng gia tăng trong thời gian qua, từ mức 57,5% năm 1995 lên đến
70,4% năm 2005 và 81,8% năm 2015 (biểu 3.8). Xem xét các phân ngành sản
xuất công nghiệp cũng cho thấy một xu hướng tương tự, đặc biệt tỷ lệ này có xu
hướng tăng rõ rệt trong ngành công nghiệp chế biến, chế tác và khai thác mỏ. Xu
hướng chi phí trung gian tăng lên cũng được nhận thấy rõ khi so sánh tốc độ
tăng trưởng của giá trị sản xuất công nghiệp và giá trị gia tăng của ngành.
Nguồn: Thực hiê ̣n trên cơ sở số liệu Niên giá m thống kê 2000 đến 2015, [106]
Hình 3.2: Tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp
Chi phí trung gian trong ngành công nghiệp gia tăng do nhiều nguyên
nhân. Có nguyên nhân khách quan như cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến; và khách quan như giá nhập khẩu
tăng lên trong những năm qua. Số liệu năm 2001-2015 của ngành công nghiệp
cho thấy hầu hết các ngành có tỷ lệ chi phí trung gian cao đều là những ngành có
76
tốc độ tăng trưởng nhanh và có tỷ trọng tăng lên nhiều. Đặc biệt, ngành công
nghiệp chế biến có tỷ lệ chi phí trung gian chiếm 89-90% tổng giá trị sản xuất.
Những nhóm ngành có tỷ trọng lớn, vừa có tốc độ tăng chi phí trung gian cao
như sản xuất thức ăn gia súc, may mặc, chế biến đồ gỗ, sản xuất các sản phẩm từ
nhựa, sản xuất thép, sản xuất các sản phẩm bằng kim loại, sản xuất xe có động
cơ, v.v.
Phân tích tổng chi phí trung gian thì chi phí nguyên vật liệu chiếm trên
81%, tăng bình quân 25%/năm trong thời kỳ 2001-2015. Chi phí dịch vụ chiếm
trên 9%. Chi phí về nhiên liệu, năng lượng chiếm phần còn lại, khoảng 10%
tổng chi phí trung gian của ngành công nghiệp. Điều đó cho thấy cốt lõi của vấn
đề giảm chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp là tìm các biện pháp giảm
chi phí nguyên vật liệu đầu vào của sản xuất cũng như tiết kiệm các chi phí dịch
vụ như vận tải, tư vấn, v.v.
Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK, [106]
Hình 3.3: GO và VA của ngành công nghiệp (tỷ đồ ng)
Về khía cạnh vĩ mô, chi phí trung gian cao của sản xuất công nghiệp Việt Nam chủ yếu do những nguyên nhân sau đây: (1) cơ cấu công nghiệp nước ta chủ yếu thiên về các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, các ngành công nghiệp lắp ráp, gia công với tỷ lệ giá trị gia tăng thấp trong giá trị sản xuất. Trong chuỗi giá trị toàn cầu, các ngành lắp ráp, gia công, chế biến là những ngành có giá trị gia tăng thấp nhất do các nguyên vật liệu đầu vào của quá trình
77
sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào bên ngoài; (2) Các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển ở trong nước khiến sản xuất công nghiệp với phần lớn là những ngành lắp ráp, gia công sẽ phải phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên vật liệu được nhập khẩu từ bên ngoài, với mức giá trên thị trường nguyên vật liệu đầu vào thế giới có mặt bằng cao và luôn biến động làm tăng chi phí nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất trong nước; tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng từ 61,9% năm 2000 lên 83,4% năm 2015 và thay đổi theo các ngành (xem thêm ở phụ lục 1.3.8); công nghiệp phụ trợ trong nước chưa phát triển khiến các ngành công nghiệp trong nước bị phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ bên ngoài, mà nhiều khi bị rơi vào thế bất lợi trong cạnh tranh. Do vậy, về lâu dài thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ cho các ngành công nghiệp trong nước (ngành dệt cho công nghiệp dệt may; ngành da, thuộc da cho công nghiệp giày da; công nghiệp sản xuất linh kiện điện tử cho công nghiệp điện, điện tử; công nghiệp sản xuất các sản phẩm theo cụm công nghệ như cabin, khung, vỏ, cấu tạo, hộp số, hệ thống lái, động cơ, bộ truyền động, v.v. cho công nghiệp sản xuất ô tô, xe máy; công nghiệp chế tạo phôi lớn, nhiệt luyện, xử lý bề mặt kim loại v.v. phục vụ công nghiệp cơ khí; v.v.) là một giải pháp quan trọng.
3.2.2.4. Tiêu hao năng lượng của sản xuất công nghiệp
Có thể xem xét tiêu thụ điện năng của nền kinh tế để phần nào lột tả được
bức tranh tiêu thụ năng lượng của nền kinh tế nước ta trong thời gian qua.
Trong giai đoạn 1991-2005, tỷ lệ tăng trưởng sản lượng điện của Việt Nam so với tăng trưởng GDP là 1,72 lần, cao hơn nhiều so với tỷ lệ này ở các nước thu nhập trung bình và cả các nước thu nhập thấp trên thế giới (lần lượt là 1,06 và 1 trong giai đoạn 1994-2002). (Phụ lục 1: Biểu 1.3.9).
Xu thế các nước trên thế giới là tỷ lệ tăng trưởng sản lượng điện sản xuất ra so với tăng trưởng GDP giảm dần nhưng ở thực tế Việt Nam 15 năm qua lại cho thấy xu thế ngược lại: sản lượng điện ngày càng phải tăng với tốc độ cao hơn để có thêm 1% tăng trưởng GDP: từ mức 1,35 giai đoạn 1991-1995 lên 1,83 giai đoạn 1996-2000 và 1,97 giai đoạn 2001-2005 [106].
Khi xem xét chỉ tiêu suất điện năng – chỉ tiêu phản ánh lượng điện sử dụng để tạo ra một đơn vị sản phẩm – có thể thấy, Việt Nam đã tiêu thụ mức điện năng lớn hơn nhiều so với các nước trong khu vực để tạo ra 1 đơn vị USD
78
của GDP. Năm 2015, suất điện năng của Việt Nam là 0,68 KWh/1USD trong khi của Singapore là 0,16; Hồng Kông là 0,15; Hàn Quốc là 0,40; Malaysia là 0,41; Philippin là 0,25; Thái Lan là 0,40; Trung Quốc là 0,54 (Phụ lục 1.3.9). Trung Quố c đã cơ bướ c cải thiê ̣n đáng kể, nếu như năm 1990 chỉ tiêu này là 1,61, thì năm 2000 ho ̣ xuố ng 1,04 và năm 2010 ho ̣ xuố ng 0,65 và năm 2013 là 0,54. Như vậy, để tạo ra một 1 USD của GDP, Việt Nam đã phải tốn lượng điện năng bằng 4,3 lần Hồng Kông và Singgapo, gần 1,7 lần Hàn Quốc, Thái Lan và Malaysia, 2,7 lần Philippin, 1,27 lần Trung Quố c. Với chi phí năng lượng cao hơn nhiều như trên cho 1 USD sản phẩm sản xuất ra, sản phẩm của Việt Nam sẽ có giá thành cao hơn và sức cạnh tranh kém hơn so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực được so sánh. Không những vậy, suất điện năng của Việt Nam còn liên tục tăng nhanh theo thời gian trong 10 năm gần đây.
Cụ thể, các số liệu so sánh của Nhật Bản trong ngành thép cho thấy công nghệ sử dụng của Việt Nam hiện có thời gian nấu cao hơn 360% so với thế giới, các chỉ tiêu tiêu hao thép phế liệu, điện và điện cực đều quá cao, đặc biệt tiêu thụ điện năng bằng 257% so với các nước khác trong khi công đoạn cán tốc độ chỉ bằng 12,7% tốc độ cán của các nhà máy trên thế giới.
3.2.3. Đánh giá tác động lan tỏa của tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh
tế
3.2.3.1 Đóng góp của tăng trưởng công nghiệp trong tăng trưởng chung
của nền kinh tế
Giai đoạn 1991-2005 chứng kiến tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế
Việt Nam với tốc độ tăng bình quân đạt 7,54% hàng năm. Trong đó, nông
nghiệp tăng bình quân 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 9,14%; dịch vụ tăng
7,08%. Nền kinh tế đạt được nhịp tăng trưởng cao trong thời gian qua nhờ sự
đóng góp lớn của khối ngành công nghiệp. Số liệu ở biểu 3.15 cho thấy tỷ trọng
đóng góp của khối ngành này cho tăng trưởng kinh tế cả nước tăng nhanh trong
giai đoạn 1991-2001, từ 39,3% cho tăng trưởng của kinh tế cả nước, đến mức
cao nhất là 51,5% trong tổng 100% tăng trưởng của nền kinh tế vào năm 2001.
Có thể giải thích cho sự nổi trội của khối ngành công nghiệp trong giai đoạn này
79
là từ đóng góp tích cực của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hơn 12
năm thu hút và đi vào hoạt động, các nguồn vốn đầu tư phát triển công nghiệp
trong giai đoạn trước đó bắt đầu phát huy tác dụng làm tăng năng lực sản xuất
của khối ngành công nghiệp. Đồng thời, đóng góp của ngành dịch vụ trong năm
1999 giảm mạnh xuất phát từ những ảnh hưởng từ những hậu quả của cuộc
khủng hoảng tài chính khu vực và sau một thời gian dài tăng trưởng cao nhờ sự
phát triển của các ngành dịch vụ truyền thống chưa đến giai đoạn bão hòa như
khách sạn, nhà hàng, thương mại. Kết quả là, ngành công nghiệp trong giai đoạn
này đã khẳng định được vai trò nổi trội của mình trong tăng trưởng kinh tế của
cả nước.
Nguồn: Niên giám thống kê 2005-2015, tính toán của tác giả; và số liệu nguồn [106]
Hình 3.4: Đóng góp của các khu vực cho tăng trưởng của nền kinh tế
Tuy vậy, vai trò của khối ngành công nghiệp đối với tăng trưởng của nền
kinh tế đã bắt đầu có xu hướng giảm kể từ năm 1999 khi tỷ trọng đóng góp của
nó giảm từ 51,5% các năm 2001, 2003 đã giảm xuống còn 28% năm 2008 cho
tăng trưởng chung của nền kinh tế. Và đây cũng là khở i đầu cho gian đoa ̣n kinh
tế tăng trưở ng thấp trên dướ i 6%/năm. Sở dĩ có tình trạng này là do khối ngành
dịch vụ có nhịp tăng trưởng GDP bình quân cao hơn nhịp tăng của khối ngành
công nghiệp trong giai đoạn 2006-2015 (7,3%/năm so vớ i 6,2% củ a CNXD và
80
6,1% toàn nền kinh tế) và cũng mang la ̣i tỷ lê ̣ đó ng gó p cho tăng trưở ng chung
cao hơn.
Biểu 3.7: Đóng góp của các ngành vào tăng trưởng của nền kinh tế giai đoạn 2005-2015
Đóng góp cho tăng trưởng kinh tế
Tỷ trọng đóng góp cho tăng trưởng
từ các khu vực (%)
kinh tế từ các khu vực (%)
Năm
Tổng
Tổng
NN
CN+XD Dịch vụ
NN
CN+XD Dịch vụ
số
số
2005
8,3
100
3,4
10,9
48,0
41,1
0,9
4,0
2006
7,0
100
3,4
11,7
39,8
48,4
0,8
2,8
2007
7,1
100
3,5
11,6
39,5
48,9
0,8
2,8
2008
5,7
100
3,1
16,8
28,0
55,2
1,0
1,6
2009
5,4
100
2,8
7,1
41,8
51,1
0,4
2,3
2010
6,4
100
3,1
10,0
42,4
47,7
0,6
2,7
2011
6,2
100
2,9
12,2
40,9
46,9
0,8
2,6
2012
5,2
100
2,5
9,4
42,1
48,5
0,5
2,2
2013
5,4
100
2,9
8,8
38,6
52,6
0,5
2,1
2014
6,0
100
2,8
3,1
50,8
46,1
0,2
3,0
2015
6,7
100
3,1
5,7
48,9
45,4
0,4
3,3
Nguồn: Tính toán theo số liệu của TCTK, Niên giá m thống kê 2000 đến 2016; [106]
Đơn vị: %
Biểu 3.7 cho thấy đóng góp của các phân ngành công nghiệp cho tăng trưởng GDP chung của nền kinh tế giai đoạn 1996-2015. Riêng ngành công nghiệp (không kể xây dựng) có đóng góp khá lớn cho tăng trưởng chung của nền kinh tế, đóng góp 2,9 điểm phần trăm trong 6,7% tăng trưởng của nền kinh tế năm 2000 (tức chiếm tỷ trọng 32,5%), lên 3,6 điểm phần trăm trong 8,3% tăng trưởng năm 2010 và 3,3 điểm phần trăm trong 6,7% tăng trưởng của nền kinh tế năm 2015 (tương đương với tỷ trọng 38,9%). Trong đóng góp của toàn ngành công nghiệp cho tăng trưởng GDP cả nước, ngành công nghiệp chế biến có vai trò hết sức quan trọng, riêng ngành công nghiệp này có đóng góp cho tăng trưởng năm 2000 và 1,1/6,7% tăng trưởng của cả nước năm 2000 và năm 2015
81
là 2,9/6,7% tăng trưở ng hay 43,3% mứ c đó ng gó p cho tăng trưở ng. Điều quan trọng là, đóng góp của khối ngành công nghiệp chế biến, chế ta ̣o vào tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp cũng như với nền kinh tế là ngày càng lớn, với tỷ trọng 13,0% năm 1995 lên 40% năm 2010. Nhưng năm sau tuy có giảm song do tỷ lê ̣ tăng trưở ng chung củ a toàn nền kinh tế bi ̣ giảm và sự tăng lên củ a các phân ngành điê ̣n, nướ c (xin xem chi tiết trong biểu 3.8 dưới đây).
Biểu 3.8: Đóng góp của các ngành công nghiệp cho tăng trưởng của
nền kinh tế giai đoạn 1996-2015
Đơn vị: %
1995
2000
2005
2010
2012
2013
2014
2015
Mứ c độ đó ng gó p cho tăng trưở ng
9,3
6,7
8,3
6,4
5,2
5,4
6,0
6,7
Tăng trưở ng GDP giá 2010
1,4
1,2
0,9
0,6
0,5
0,1
0,6
0,4
Trong đó NLN
3,7
3,3
4,0
2,7
2,2
1,8
2,5
3,3
CNXD
3,0
2,9
3,4
3,6
2,0
1,5
2,1
2,9
Trong đó Công nghiê ̣p
1,4
1,5
1,5
0,4
0,4
0,0
0,2
0,3
Khai khoáng
Chế biến, chế tạo
1,2
1,1
1,6
2,6
1,1
1,2
1,4
1,8
0,5
0,3
0,3
0,7
0,5
0,3
0,5
0,8
Điê ̣n, nướ c
0,6
0,4
0,6
-0,9
0,2
0,3
0,4
0,5
Xây dựng
4,2
2,2
3,4
3,1
2,5
3,5
2,9
3,0
DI ̣CH VỤ
Tỷ lệ đó ng gó p cho tăng trưở ng
100
100
100
100
100
100
100
100
Tăng trưở ng GDP giá 2010
15,3
18,1
10,9
10,0
9,4
0,9
9,9
6,0
Trong đó N-L-N
39,3
48,8
48,0
42,4
42,1
34,0
41,5
49,3
CN-XD
32,5
43,3
40,7
56,6
38,0
27,9
34,9
43,3
Trong đó Công nghiê ̣p
14,6
22,2
18,6
5,9
8,6
-0,3
3,4
4,5
Khai khoáng
Chế biến, chế tạo
13,0
16,8
18,8
40,0
20,6
22,4
23,8
26,9
4,9
4,3
3,3
10,7
8,9
5,8
7,7
11,9
Điê ̣n, nướ c
6,8
5,5
7,3
-14,3
4,0
6,1
6,6
7,5
Xây dựng
45,4
33,1
41,1
47,7
48,5
65,0
48,6
44,8
DI ̣CH VỤ
Nguồn: Tính toán theo số liệu của TCTK, NGTK 2000 đên 2015, [106]
82
Vai trò của ngành công nghiệp chế biến đang thay thế dần vai trò của
ngành công nghiệp khai thác là một xu hướng tốt trong phát triển công nghiệp
Việt Nam trong thời gian qua.
3.2.3.2. Tăng trưởng công nghiệp và xuất khẩu
Sự phát triển của ngành công nghiệp liên tục ở tốc độ cao trong thời gian vừa qua đã góp phần tích cực trong việc thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 150,2 tỷ USD vào năm 2015, gấp 10,2 lần so với kim ngạch năm 2000, tăng bình quân 18,2%/năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhờ vào nhịp tăng trưởng cao của kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2009-2015, bình quân 21,3% hàng năm.
Nguồn: Tính toán và xử lý từ [106]
Hình 3.5: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng
Kim ngạch xuất khẩu tăng cao chủ yếu nhờ vào đóng góp của ngành công nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta (53,7% năm 1995 và 82,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào năm 2015) và nhịp tăng của kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp đạt cao trong thời gian qua. Nhịp tăng của xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp nặng và khai khoáng tăng bình quân hàng năm 31% giai đoạn 1996-2000 và 16,8% giai đoạn 2001-2005, 13,9%/năm giai đoa ̣n 2006-2010 và 31%/năm trong 5 năm gần đây 2011-2015; xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp nhẹ và TTCN tăng bình quân hàng năm 25,9% giai đoạn 1996-2000, 22,1% giai đoạn 2001-2005 và 20,2 và 14,8%/năm trong các giai đoa ̣n 2006-2010 và 2011-2015. Kim ngạch xuất khẩu các mặt
83
hàng công nghiệp tăng cao do các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công nghiệp đạt kim ngạch lớn như dầu thô, hàng dệt may, giầy dép, hàng điện tử và máy tính, sản phẩm gỗ, dây diện và cáp điện.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý trong xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp
của Việt Nam trong thời gian qua là:
- Các yếu tố tăng trưởng xuất khẩu chưa ổn định, chưa xuất hiện thêm
những nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn và có giá trị tăng thêm cao.
Một số nhóm hàng vượt trội về kim ngạch như hàng dệt may, giày dép, điện tử,
máy tính và linh kiện, v.v. tuy có đóng góp nhiều trong việc tạo việc làm cho
nền kinh tế, song giá trị gia tăng thấp do sản xuất chủ yếu ở khâu gia công cho
nước ngoài, chi phí nguyên vật liệu rất cao và phụ thuộc vào nước ngoài (phần
này được đề cập cụ thể hơn ở mục 3.3.3).
- Mẫu mã hàng xuất khẩu đơn điệu, khả năng quan hệ trực tiếp với khách
hàng nước ngoài của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu còn hạn chế, v.v. đang là
những trở ngại lớn cho việc mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả của hoạt
động xuất khẩu.
- Một phần tăng trưởng xuất khẩu trong những năm qua là do tăng giá trên
thị trường thế giới, nhất là các mặt hàng dầu thô, than đá nên sẽ không vững
chắc (xin xem thêm ở phụ lục 1.3.2).
3.2.3.3 Tác động lan toả của tăng trưởng công nghiệp tới các ngành
kinh tế
Có nhiều phương pháp phân tích tác động lan toả của tăng trưởng của một
ngành tới các ngành khác của nền kinh tế. Trong nội dung này của Luận án, như
đã trình bày ở chương 2, Luận án sử dụng phân tích hệ số đẩy và kéo của ngành
công nghiệp đối với các ngành khác dựa trên số liệu các bảng cân đối liên ngành
(I-O) của Việt Nam.
84
Từ năm 1989 đến nay, Việt nam đã xây dựng 5 Bảng I/O với quy mô 164
ngành. Đây cũng là giai đoạn, sau đổi mới nền kinh tế nước ta đã từng bước đi
vào phát triển theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường. Vì vậy, phân tích
những bảng I/O theo thời gian sẽ cho thấy xu thế chuyển dịch cơ cấu nền kinh
tế, mối quan hệ giữa các ngành sản xuất, đặc biệt là các ngành công nghiệp trở
nên rõ ràng và thực chất hơn về chất lượng tăng trưởng.
Kết quả phân tích bảng I/O năm 2012 [32] và các bảng I/O trước đó cho
thấy thời kỳ 2000 – 2012, nền kinh tế Việt nam đã phát triển theo hướng mở,
tăng chu chuyển ngoại thương. (i) Trong tổng cung, tỷ trọng hàng hóa và dịch vụ
nhập khẩu đã tăng từ 19,6% năm 2000 lên 20,1% năm 2012; trong tổng cầu tỷ
trọng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đã tăng từ 18,8% năm 2000 lên 22,4% năm
2012. Tuy nhiên, từ năm 2012 mới bắt đầu có xuất siêu; (ii) Tỷ trọng tích lũy tài
sản trong tổng cầu nhìn chung nhỏ. Song tốc độ tăng trưởng thường cao hơn
mức tăng trưởng kinh tế, trừ một số năm như năm 2012 chỉ ở mức 2,4%; (iii)
Trong tổng cầu, tỷ trong tiêu dùng cuối cùng (TDCC) giảm sút từ 27,1% năm
2000 xuống 21,5% năm 2007 và 19,1% năm 2012. Do vậy, mặc dù có tăng
nhưng tăng trưởng TDCC không ổn định và thấp, chỉ là 0,6% năm 2000, năm
2007 cao hơn ở mức 9,7% và đến năm 2012 chỉ có 5,1%). Nhìn chung, so với
tống cầu nội địa bao gồm tiêu dùng trung gian, tiêu dùng cuối cùng và tích lũy
tài sản giảm từ 81,2% năm 2000 xuống 79,2% năm 2007 và 77,6% năm 2012.
Để thấy rõ chất lượng tăng trưởng công nghiệp trên cơ sở phân tích băng
I/O ta hãy phân tích các bảng I/O của các năm 2007 và 2012 gộp theo 30 ngành
(xem phụ lục). Trong đó từ thứ 6 đến 24 là các ngành công nghiệp.
Những phân tích dựa trên cơ sở so sánh bảng I/O năm 2012 so với các
bảng I/O năm 2007 và năm 2000 cho thấy các ngành có mối liên quan chặt chẽ
với nhau. Trong giai đoạn này, một số ngành phụ thuộc nhiều, các ngành khác
phụ thuộc ít vào các ngành còn lại. Ở giai đoạn khác những quan hệ phụ thuộc
qua lại này có thể thay đổi. Sự thay đổi này phần nào phản ánh xu thế phát triển
85
các ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
phân công lao động trong nước và quốc tế.
Từ phân tích Ma trận Leontief (I - Aij)-1 của bảng I/O 2007 ta thấy, các
ngành công nghiệp nước ta có quan hệ mật thiết và có vai trò ngày càng lớn đối
với toàn bộ nền kinh tế. Để đo mối quan hệ này, luận án dùng hệ số lan toả liên
kết ngược. Hệ số lan toả (Index of the power dispersion) nhằm để đo mức độ
quan trọng của một ngành với tư cách là bên sử dụng sản phẩm vật chất và dịch
vụ làm đầu vào từ toàn bộ nền kinh tế. Nếu năm 2007 hệ số lan tỏa của một số
ngành công nghiêp có mức trên 1, kể từ cao xuống thấp gồm có: gang, thép,
luyện kim và kim loại khác; xăng dầu và sản phẩm hóa dầu; công nghiệp chế
biến thực phẩm và thức ăn gia súc; may mặc và giày dép; phân bón, thuốc trừ
sâu và plastic; máy móc, ô tô, tàu thuyền, phương tiện vận tải; bia, rượu và thuốc
lá; khai thác than; các sản phẩm gỗ, giấy, in ấn; thuốc và hóa chất khác; điện và
điện tử.
Tuy nhiên nếu chỉ xét tầm quan trọng với tư cách là ngành sử dụng sản
phẩm trong nội bộ các ngành công nghiệp thì dẫn đầu vần là gang thép, luyện
kim và kim loại khác, tiếp đến ngành xăng dầu và sản phẩm hóa dầu. Ngành
Công nghiệp chế biến thực phẩm và thức ăn gia súc từ hạng 3 xuống thứ 9 vì nó
rất quan trọng đối với nền kinh tế song lại sử dụng đầu vào chủ yếu từ khu vực
nông, lâm nghiêp và thủy sản.
Ma trận Leontief (I - Aij)-1 của bảng I/O 2012 phản ánh đã có sự chuyển
dích đáng kể trong cơ cấu và tăng trưởng của các ngành công nghiệp. Những
ngành có hệ số lan tỏa lớn hơn 1 và từ cao xuống thấp: công nghiệp chế biến
thực phẩm và thức ăn gia súc; điện và điện tử; gang, thép, luyện kim và kim
loại khác; thuốc và hóa chất khác; xăng dầu và sản phẩm hóa dầu; các sản phẩm
gỗ, giấy, in ấn; máy móc, ô tô, tàu thuyền, phương tiện vận tải; hóa chất cơ bản
và cao su tự nhiên; khai thác than; giường tủ, bàn ghế, dụng cụ y tế; phân bón,
thuốc trừ sâu và plastic; may mặc và giày dép; xi măng, thủy tinh, gạch ngói.
86
Sự chuyển dịch các ngành công nghiệp từ bảng I/O 2007 sang bảng I/O
2012 phần nào phản ánh xu thế phát triển knh tế ở giai đoạn này. Đây là giai
đoạn các mặt hàng chế biến lương thực, thực phẩm như gạo, tôm cá nước ta
thâm nhập mạnh vào các thị trường thế giới, đặc biệt là các nước phát triển. Tuy
nhiên, xét trong nội bộ các ngành công nghiệp thì ngành này chỉ đứng thứ 9.
Điều này một lần nữa thể hiện nó phụ thuộc nhiều vào đầu vào từ khu vực nông
lâm ngư nghiệp. Tiếp đến là các ngành công nghiệp thâm dụng vốn và phản ánh
bước chuyển hóa giai đoạn phát triển từ lấy yếu tố đầu vào làm chủ đạo sang
giai đoạn lấy đầu tư, hiệu quả đầu tư làm chủ đạo của nền kinh tế như điện, điện
tử, sản phẩm thép, hóa chất, xăng dầu.
Nếu xem xét các liên kết xuôi hay là mức độ quan trọng với tư cách là
ngành cung cấp sản phẩm cho các ngành khác (theo hàng của ma trận) của nền
kinh tế - hệ số độ nhạy (liên kết xuôi). Nếu hệ số này lớn hơn 1 và càng cao thì
càng thể hiện sự cần thiết của ngành đó với những ngành còn lại.
Nếu như năm 2007 chỉ có 6 ngành công nghiệp (xăng dầu và sản phẩm
hóa dầu; gang, thép, luyện kim và kim loại khác; phân bón, thuốc trừ sâu và
plastic; hóa chất cơ bản và cao su tự nhiên; công nghiệp chế biến thực phẩm và
thức ăn gia súc; các sản phẩm gỗ, giấy, in ấn) có hệ số nhạy cảm trên 1 thì đến
năm 2012 đã có tới 9 ngành (gang, thép, luyện kim và kim loại khác; xăng dầu
và sản phẩm hóa dầu; khai thác dầu thô và khí đốt; hóa chất cơ bản và cao su tự
nhiên; phân bón, thuốc trừ sâu và plastic; điện và điện tử; điện và điện tử; máy
móc, ô tô, tàu thuyền, phương tiện vận tải; các sản phẩm gỗ, giấy, in ấn).
Năm 2012 đã xuất hiện nhiều ngành công nghiệp có vai trò quan trọng
với tư cách là sử dụng sản phẩm và dịch vụ của các ngành khác làm đầu vào
vừa là ngành cung cấp sản phẩm vật chất và dịch vụ cho các ngành còn lại của
nền kinh tế. Nói cách khác hệ số lan tỏa cũng như hệ số độ nhạy của nó đều ở
mức cao (như gang, thép, luyện kim và kim loại khác; xăng dầu và sản phẩm
hóa dầu; điện và điện tử) kể cả trong nội bộ các ngành công nghiệp.
87
Mặt khác, điểm đáng lưu ý khi phân tích so sánh nhân tử loại I (nhân tử
phản ánh tác động của một ngành-ngành công nghiệp tới sản xuất của các ngành
khác trong nền kinh tế), thấy ngành sản xuất thép, dệt may, sản xuất phương tiện
vận tải, dầu tinh chế và các loại nguyên liệu, sản xuất thực phẩm và đồ uống,
thủy hải, hóa chất, giấy, khai khoáng và các sản phẩm giấy là những ngành có
tác động thúc đẩy cao tới tăng trưởng của các ngành khác. Điều này có nghĩa
rằng, nếu một tác động nào đó từ phía thị trường hoặc từ các chính sách của nhà
nước tới các phân ngành vừa nêu sẽ có khả năng thúc đẩy vượt bậc, hoặc làm
suy giảm tới tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp và các ngành khác trong
nền kinh tế.
Tuy nhiên, nếu xem xét chỉ số lan toả loại II (nhân tử được tính toán khi
hộ gia đình được coi là một nhân tố quan trọng), các ngành lâm nghiệp, chế biến
các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi, chế biến thủy hải sản, sản xuất thực phẩm
và đồ uống, dầu thô, khí đốt và khoáng sản,… có khả năng lan toả cao tới nền
kinh tế, lan tỏa nhiều vòng trong toàn nền kinh tế (các chỉ số chi tiết, xin xem
thêm phụ lục 7 của luận án).
Xem xét chỉ tiêu lan tỏa đến giá trị gia tăng của ngành công nghiệp, có thể
thấy những ngành có khả năng kích thích làm tăng mạnh giá trị gia tăng trong
nền kinh tế là những ngành dầu thô, khí đốt tự nhiên và khoáng sản khai khoáng,
sản xuất các sản phẩm da và các sản phẩm da thuộc là những ngành công nghiệp
có khả năng thúc đẩy lớn nhất tới gia tăng VA của những ngành khác trong nền
kinh tế (mức độ tác động cụ thể của các ngành công nghiệp này tới các ngành
khác và tới nền kinh tế, xin xem thêm phần phụ lục 7).
3.2.3.4 Tác động của sản xuất công nghiệp đến môi trường
Sự phát triển của Việt Nam trong thời gian qua chứa đựng những hiểm
họa về môi trường sinh thái. Do quá chú trọng vào tăng trưởng kinh tế, chưa
quan tâm đúng mức tới việc bảo vệ môi trường, hiện tượng khai thác bừa bãi và
sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên suy thoái môi trường và làm
88
mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến. Quá trình đô thị hóa tăng
nhanh kéo theo sự khai thác quá mức nguồn nước ngầm, ô nhiễm nguồn nước
mặt, không khí và ứ đọng chất thải rắn. Tuy các hoạt động bảo vệ môi trường đã
có những tiến bộ đáng kể nhưng mức ô nhiễm, sự suy thoái và suy giảm chất
lượng môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và chất
lượng cuộc sống của con người.
Thứ nhất, chất thải và ô nhiễm môi trường sinh thái Biểu 3.9: Mức phát thải CO2 của ngành công nghiệp Việt Nam so với
một số quốc gia trong khu vực
Đơn vị: % so với tổng nhiên liệu sử dụng 2010 2014 2005 2000
32,62 33,45 31,72 Trung Quốc 28,94
Đông Á và TBD (trừ
nước thu nhập cao) 28,33 31,75 32,42 30,41
Đông Á và TBD 25,04 27,83 28,97 27,69
Indonesia 22,84 25,60 24,59 18,40
Ấn Độ 21,05 21,44 25,97 26,41
Hàn Quốc 22,19 16,18 14,24 13,66
Malaysia 22,46 22,53 16,04 12,97
Thái Lan 20,23 22,80 22,35 20,89
Việt Nam 32,63 30,41 32,96 33,75
Nguồn: [22], tác giả xử lý và tính toán.
Thế giới 17,37 18,27 19,97 19,96
Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, cập nhật tháng 6 năm 2017, các ngành công nghiệp Việt Nam có mức phát thải cao so với quy mô và cao hơn nhiều so với các nước so sánh (biểu 3.14). Theo đó, phát thải CO2 của công nghiệp Việt Nam cao hơn xấp xỉ hai lần so với mức bình quân chung của thế giới (33%/19% vào năm 2014. Xu hướng mức phát thải ngày càng lớn cũng được ghi nhận trong 15 năm xem xét, từ năm 2000 (32,6% tổng phát thải nhiên liệu sử dụng), cao nhất so với bình quân của khu vực Đông Á và Thái Bình
89
Dương, và các nước trong vùng như: Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Xem xét chỉ tiêu mức phát thải trên một đồng VA công nghiệp cho thấy,
xu hướng cải thiện trong khả năng bảo vệ môi trường của Việt Nam chưa thực
sự được cải thiện, thể hiện ở mức phát thải CO2/1 USD VA công nghiệp ở mức
khá cao, trên 0,32 kg, cao hơn so với mức bình quân chung của thế giới, cao hơn
so với con số này 10 năm về trước của một số nước trong khu vực như Indonesia
và Thái Lan (hình 3.6).
Có thể thấy, cái giá phải trả về môi trường do tăng trưởng công nghiệp
gây ra của Việt Nam vẫn có xu hướng ngày càng nặng hơn so với một số nước
có trình độ phát triển và bình quân chung của thế giới.
Hình 3.6: Mức phát thải CO2/ một đồng VA công nghiệp của Việ t
Nguồn: [22], tác giả tính toán và xử.
Nam và các nước trên thế giới (kg/1 USD PPP VA công nghiệp)
Nhiều chuyên gia cho rằng, trình độ công nghệ trong sản xuất, hệ thống xử lý chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp vừa thiếu lại vừa kém chất lượng chưa ngăn chặn được tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Sự xuống cấp của môi trường chẳng những ảnh hưởng đến môi trường
90
sống mà còn đòi hỏi phải bỏ ra một khoản kinh phí lớn để phòng chống và khắc phục sự xuống cấp đó.
Trong giai đoạn 2000-2015, thiệt hại của nền kinh tế từ ô nhiễm của Việt Nam cao hơn nhiều so với bình quân của thế giới và các nước được so sánh trong khu vực, chỉ thấp hơn so với Indonesia và Trung Quốc. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, thiệt hại của nền kinh tế từ ô nhiễm (tính bằng % so với GNI) của Việt Nam, mặc dù có xu hướng giảm chậm trong giai đoạn 10 năm gần đây, nhưng vẫn ở mức 0,27% GNI, cao hơn mức bình quân của các nước Đông Á và Thái Bình Dương, và một số nước so sánh khác như Thái Lan, Malaysia (hình 3.7).
Hình 3.7: Thiệt hại của nền kinh tế từ ô nhiễm của Việt Nam so với
Nguồn: Số liệu của Ngân hàng thế giới [22], tác giả tính toán và xử lý.
các nước trong khu vực và thế giới.
Đây là một thực tế đáng quan tâm, nó cho thấy mục tiêu tăng trưởng kinh
tế là cần thiết, song mặt trái của các hoạt động sản xuất kinh doanh đang gây các
thiệt hại to lớn về môi trường, làm giảm mặt chất lượng của hoạt động tăng
trưởng.
Thứ hai, khai thác cạn kiệt và sử dụng lãng phí tài nguyên, môi trường
Do chú trọng vào tăng trưởng kinh tế, ít chú ý đến bảo vệ môi trường, nên
hiện tượng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên
91
suy thoái môi trường và làm mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến.
Những tiềm ẩn này đang bắt đầu bộc lộ mà bằng chứng là những trận lụt lớn
thường xẩy ra ở Miền Trung và Nam bộ. Hạn hán cũng đe dọa tới cuộc sống của
nhiều người dân ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Chỉ riêng trong ngành công nghiệp, công nghệ lạc hậu, yếu kém là một
nguyên nhân dẫn đến hao phí và thất thoát tài nguyên. Xét trên góc độ môi
trường, các ngành công nghiệp của Việt Nam hiện nay có chi phí tài nguyên rất
cao. Đơn cử với hai loại tài nguyên chính là nước và năng lượng, bức tranh về
hiện trạng sử dụng tài nguyên là đáng lo ngại của Việt Nam.
Mức sử dụng nước ở nhiều ngành công nghiệp là rất cao và lãng phí, đặc
biệt là khu vực tư nhân. Rõ ràng nhất là ngành bia. Trên thế giới để sản xuất 1 lít
bia trung bình sử dụng khoảng 4 lít nước, song ở Việt Nam hệ số sử dụng nước
trên đơn vị sản phẩm cao gấp 3 lần, đạt mức 13 lít nước trên 1 lít bia. Các ngành
dệt và ngành giấy cũng là hai ngành sử dụng nhiều nước, thực trạng lãng phí,
tiêu hao nước lớn cũng rất phổ biến.
Hiện trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên đến cạn kiệt không chỉ xuất
phát từ các yếu tố công nghệ lạc hậu, mà quan trọng hơn, ở Việt Nam, việc khai
thác tài nguyên thiên nhiên, sống dựa vào tài nguyên thiên nhiên vốn là một cứu
cánh cho bộ phận dân cư nghèo. Thật khó để có thể thuyết phục người dân thôi
tàn phá môi trường khi cuộc sống của họ thất bấp bênh. Nếu phần lớn các vấn đề
khai thác tài nguyên và hủy hoại môi trường đều đổ lỗi cho việc kém hiểu biết
thì điều này quả là không thuyết phục bởi lẽ với chỉ số giáo dục là 0,82 tương
đương với 90,3% người lớn biết đọc biết viết và 64% số người ghi danh đi học
các cấp, Việt Nam hoàn toàn có thể tự hào về trình độ dân trí. Có thể nói,
nguyên nhân cơ bản gây hủy hoại môi trường xuất phát từ áp lực kinh tế, do nhu
cầu mưu sinh.
92
Mức độ tiêu hao nước trên một đơn vị sản phẩm (m3)
Ngành
500 m3/1 tấn giấy
Giấy
3000 m3/ 1 tấn thép thỏi
Thép
70 m3/ 1 tấn gang tinh luyện, 50 m3/1 tấn Fero
23 m3/ 1 tấn than cốc luyện
4,5 m3/ 1 tấn thép cán
Hóa chất
200-230 m3/ 1 tấn Urea 46%
> 700 m3/ 1 tấn NH3
Rượu
30 lít nước/ 1 lít rượu công nghiệp
10 lít nước/1 lít rượu nấu
40 lít nước / 1 lít cồn
13 lít nước / 1 lít bia
Bia
Dệt nhuộm
50-300 m3 / 1 tấn sản phẩm
Nguồn: Bộ Công thương, 2015. Lấy ví dụ về tài nguyên rừng, rừng là nguồn tài nguyên đa dạng sinh học
Biểu 3.10: Sử dụng nước ở một số ngành công nghiệp Việt Nam
quý giá vào dạng bậc nhất ở Việt Nam, không những là cơ sở phát triển kinh tế
mà còn có nhiều chức năng sinh thái quan trọng. Sau những năm bị tàn phá bởi
chiến tranh, từ năm 1975-1990, diện tích rừng tự nhiên đã giảm 2,65 triệu ha
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Thời gian gần đây, tỷ lệ che phủ rừng có xu
hướng gia tăng, từ 37,7% năm 2000 lên 47,6% năm 2015 nhưng vẫn thấp so với một số quốc gia trong khu vực [112].
3.3. Cá c nhân tố tá c đô ̣ng tớ i chấ t lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam
từ nay đến năm 2025 và tầm nhìn 2030
3.3.1. Quan điểm phát triển các ngành công nghiệp
Những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước thời
gian gần đây đều nhấn mạnh việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiện đại,
nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo điều kiện nền tảng, thúc đẩy tăng trưởng
công nghiệp. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, ngày 28/1/2016
93
đặt ra một trong những nhiệm vụ quan trọng của Việt Nam trong thời gian tới là:
“Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba
đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn
mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu
lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.” [12].
Nhiệm vụ này cũng đã được Chính phủ chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai
chuẩn bị tiền đề về chính sách, từ công tác lập chiến lược, quy hoạch và các nghị
định nhằm thúc đẩy các ngành và lĩnh vực. Cụ thể, “phát triển các ngành công
nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế. Phát
triển công nghiệp năng lượng, luyện kim, hoá dầu, hoá chất với công nghệ hiện
đại, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Khuyến
khích phát triển các doanh nghiệp cơ khí chế tạo mạnh và sản phẩm cơ khí trọng
điểm. Có chính sách phát triển công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ
thông tin, công nghiệp phần mềm. Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông
nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật tư và máy nông
nghiệp. Tập trung phát triển công nghiệp phụ trợ, tăng cường liên kết giữa các
tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp trong nước, hình thành khu công nghiệp
hỗ trợ theo cụm liên kết ngành. Hỗ trợ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo,
nhất là năng lượng gió, mặt trời.” [12].
Quan điểm và định hướng phát triển công nghiệp của Đảng như đề cập là
hoàn toàn phù hợp với bối cảnh phát triển và thực tiễn nền công nghiệp Việt
Nam hiện nay. Kết quả thực hiện những chủ trương này, tuy vậy, sẽ phụ thuộc
94
nhiều vào khả năng điều hành của Chính phủ trong các kỳ kế hoạch phát triển
trung hạn và hàng năm trong thời gian tới. Việc ban hành, sửa đổi, điều chỉnh
kịp thời các chính sách liên quan đến phát triển công nghiệp từ chiến lược, quy
hoạch ngành, cụm ngành sản phẩm công nghiệp đến các cơ chế chính sách hỗ
trợ phát triển, việc đảm bảo tính minh bạch, tính giải trình trong quá trình thực
thi các chính sách ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp cũng cần được đặc
biệt quan tâm. Ngược lại, những ngành công nghiệp ưu tiên phát triển được lựa
chọn hiện nay, như đã đề cập ở chương 3, sẽ khó đạt được mục tiêu phát triển đề
ra.
Mặt khác, công tác lập chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành công
nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua được khá được coi trọng, đã góp phần
định hướng tốt cho sự phát triển của các ngành, lĩnh vực sản xuất công nghiệp ở
nước ta, phát huy được những thế mạnh của Việt Nam trong phát triển, thúc đẩy
phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm, nâng cao kim ngạch xuất khẩu, nâng
cao đời sống của một bộ phận dân số, v.v. Bên cạnh đó, những hạn chế của công
tác lập chiến lược, quy hoạch trong thời kỳ mới-thời kỳ hội nhập đã phần nào
ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành công nghiệp Việt Nam trong thời
gian qua.
Với mục tiêu đưa ra các định hướng phát triển phù hợp với tình hình thực
tiễn của công nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới, Bộ Công thương đã
nghiên cứu, lập và trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển
của một số ngành công nghiệp chủ chốt đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm
2030 (đối với một vài ngành công nghiệp). Danh mục các ngành công nghiệp
chủ chốt đã được lập chiến lược phát triển đến năm 2025 như ở Phụ lục 1.
Trên cơ sở đó, quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp chủ
chốt cũng đã được Bộ Công thương trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Danh
mục quy hoạch các ngành công nghiệp chủ chốt đã được Chính phủ ban hành
(như Phụ lục 2).
95
Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp có những ảnh hưởng tích cực
tới việc nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt Nam:
- Đưa ra được những định hướng phát triển đối với các ngành công nghiệp
chủ chốt trên cơ sở khảo cứu hiện trạng phát triển, lợi thế so sánh từ các nguồn
lực nội sinh, phân tích thị trường và khả năng cạnh tranh, cách thức tổ chức sản
xuất, v.v. Từ đó, giúp các ngành công nghiệp tận dụng được những lợi thế sẵn
có về nguồn lực trong nước, về thị trường trong nước và xuất khẩu, nâng cao
hiệu quả sản xuất, hiệu quả của tăng trưởng, có ý thức bảo vệ môi trường của
sản xuất công nghiệp.
- Trên cơ sở chiến lược và quy hoạch, các điều kiện đảm bảo cho phát
triển công nghiệp một cách hiệu quả được thiết lập và từng bước hoàn thiện.
Nhu cầu vốn và các chính sách mở rộng nguồn vốn, yêu cầu về trình độ cơ sở hạ
tầng, trình độ và số lượng nguồn nhân lực, các chính sách thúc đẩy phát triển
nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, yêu cầu về mở rộng hợp tác quốc tế, v.v.
cho phát triển công nghiệp dần được chính phủ, các ngành và các doanh nghiệp
quan tâm. Điều này góp phần tạo các điều kiện tiền đề cần thiết cho việc nâng
cao hiệu quả sản xuất và chất lượng tăng trưởng của công nghiệp trong dài hạn.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp theo định hướng của
quy hoạch nhờ những chính sách khuyến khích của nhà nước đối với các ngành
công nghiệp được ưu tiên phát triển.
Tuy vậy, mặc dù Luật Quy hoạch (Luật số 21/2017) [105] đã được quốc
hội khoá 14 thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ 1/2019, theo đó, không còn danh
mục quy hoạch ngành quốc gia đối với một số ngành sản phẩm, ở một khía cạnh
khác, những bất cập của công tác quy hoạch nói chung và kế hoạch phát triển
các ngành đã làm giảm chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp trong thời
gian qua cũng như trong những năm trước mắt từ nay đến năm 2025, thậm chí
xa hơn:
96
(1) Quan niệm về quy hoạch chưa rõ lại chưa được thống nhất; việc phân
định giữa các loại quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát
triển ngành, quy hoạch xây dựng còn nhiều điểm lúng túng và chưa rõ.
Các Bộ quản lý ngành quan niệm về quy hoạch phát triển chưa có được sự
thống nhất và chưa xác định thật rõ mục đích, yêu cầu, nội dung của từng loại
quy hoạch.
(2) Chất lượng các dự án quy hoạch còn cần được cải thiện. Định hướng
dài hạn tuy đã được xác định nhưng các căn cứ của chúng đều thiếu và chưa
vững chắc, nhất là các vấn đề về dự báo (đặc biệt là dự báo tác động của các yếu
tố bên ngoài, dự báo thị trường). Tầm nhìn của nhiều dự án quy hoạch còn ngắn.
Nguyên nhân thì có nhiều nhưng phải kể đến công tác điều tra cơ bản chưa đủ,
thông tin phục vụ nghiên cứu quy hoạch thiếu. Điều này đôi khi dẫn đến những
khiếm khuyết trong các chủ trương phát triển, gây lãng phí các nguồn lực cho
phát triển các ngành công nghiệp mà ngành mía đường, xi măng là những ví dụ
điển hình cho những khiếm khuyết này.
(3) Nhiều ý kiến cho rằng tồn tại lớn nhất của công tác quy hoạch hiện
nay là sự yếu kém của công tác quản lý nhà nước về quy hoạch mà biểu hiện rõ
nhất là thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất trong phạm vi cả nước; thiếu
kiểm tra, giám sát quy hoạch, làm giảm hiệu quả của công tác quy hoạch.
3.3.2. Xu hướng công nghiệp thế giới
3.3.2.1. Hội nhập kinh tế thế giới của kinh tế Việt Nam
Bằng việc tích cực thực hiện những cam kết hợp tác kinh tế quốc tế song
phương và đa phương, Việt Nam đã và đang gia tăng quá trình hội nhập quốc tế
cùng lúc trên nhiều cấp độ. Thực hiện các cam kết hội nhập đồng thời cũng là
quá trình thực hiện các nỗ lực cải cách nền kinh tế tương thích với lộ trình hội
nhập đã được xác định. Thực tế là trong giai đoạn đổi mới chính sách kinh tế,
Việt Nam đã và đang chủ động thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư, tạo ra
môi trường kinh doanh hấp dẫn và thuận lợi, mở rộng cơ hội kinh doanh cho tất
97
cả các thành phần kinh tế. Các chính sách theo hướng tự do hóa và đẩy mạnh
xuất khẩu cùng việc phát huy các hiệu ứng tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
đã tạo nên những thành tựu đáng ghi nhận trong việc phát triển các ngành công
nghiệp của Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên, vẫn còn những trở ngại
và các yếu tố từ hội nhập làm chậm tiến trình nâng cao chất lượng tăng trưởng
của công nghiệp Việt Nam.
Thứ nhất, những tác động tích cực:
- Hội nhập kinh tế quốc tế đã cho phép huy động và khơi thông các nguồn
lực cho sự phát triển của các ngành công nghiệp, đặc biệt là các nguồn vốn từ
bên ngoài. Thực tế đã cho thấy, các nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài thông
qua hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp đã nâng cao năng lực sản xuất của
một số ngành công nghiệp của Việt Nam như giày da, dệt may, công nghiệp chế
biến thực phẩm, công nghiệp hóa chất, công nghiệp sản xuất ô tô, xe máy, v.v.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp khai thác và phân bổ các nguồn lực tốt
hơn cho sản xuất công nghiệp. Tăng cường hội nhập quốc tế đã mở rộng thị
trường và đẩy mạnh các quan hệ thị trường trong nước, đã tạo ra những cơ hội
cho các nhà sản xuất trong và ngoài nước trên lãnh thổ Việt Nam khai thác tốt
hơn các nguồn lực, lợi thế sẵn có của mình. Việc tham gia của các nhà đầu tư
nước ngoài đã làm cho không gian thị trường đối với các sản phẩm xuất xứ Việt
Nam được mở rộng, với lợi thế giá thành sản xuất thường rẻ hơn so với hàng
hóa có phẩm cấp tương đương, các nhà đầu tư nước ngoài thông qua đó, gián
tiếp thúc đẩy quá trình tham gia của các ngành công nghiệp Việt Nam vào phân
công lao động quốc tế. Thông qua đó, các nguồn lực cả bên trong và bên ngoài
được sử dụng hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng của tăng trưởng công
nghiệp Việt Nam.
- Cơ cấu lại các ngành công nghiệp và tạo dựng khả năng cạnh tranh cho
các sản phẩm. Mở cửa và hội nhập đã làm thay đổi tư duy phát triển của các
ngành. Các ngành công nghiệp được phát triển gắn với thị trường hơn và gắn với
98
lợi thế so sánh hơn, do đó tạo ra hiệu quả và sức cạnh tranh tốt hơn, làm cho một
số ngành có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Như đã phân tích ở trên, các ngành công
nghiệp chế biến có cơ hội phát triển nhanh, chiếm phần lớn trong tỷ trọng giá trị
gia tăng của ngành công nghiệp với một số ngành công nghiệp nổi trội như chế
biến thực phẩm, sản xuất giày da, dệt may nhờ vào thị trường nước ngoài.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm tăng khả năng cạnh tranh của một số
ngành kinh tế, biến các ngành này thành các ngành mũi nhọn cho phát triển kinh
tế. Khả năng cạnh tranh của các ngành này bắt nguồn từ các lợi thế so sánh hình
thành trong trao đổi hàng hóa và dịch vụ quốc tế. Khi nhận thấy có lợi thế so
sánh, các nguồn lực trong và ngoài nước bao gồm vốn, công nghệ, lao động
được tập trung để phát triển các ngành này. Kết quả là năng suất của các ngành
này tăng lên, chất lượng sản phẩm được nâng cao, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm và của bản thân ngành đó được cải thiện. Dệt may, giày da, chế biến thủy
sản, chế biến nông sản là những ví dụ điển hình cho luận điểm này. Tuy nhiên,
áp lực cạnh tranh ngày càng lớn, đòi hỏi các ngành này phải không ngừng nâng
cao khả năng cạnh tranh.
Bối cảnh kinh tế quốc tế mới với xu thế phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri
thức đã và đang tạo ra nhiều cơ hội quý báu cho sự phát triển của các ngành
công nghiệp mới như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, viễn thông, v.v.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một kênh quan trọng để biến các cơ hội đó
thành hiện thực, tạo ra khả năng tiếp nhận, thích nghi để tiến tới phát triển các
ngành công nghệ mới ở nước ta. Kết hợp với nguồn nhân lực dồi dào, cần cù, và
sáng tạo, hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp Việt Nam có điều kiện và cơ sở để có
những bước rút ngắn và nhảy vọt, tiếp cận với kinh tế tri thức mà không phải trải
qua những giai đoạn tìm tòi, mò mẫm bước đầu.
Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho thế giới trở nên “phẳng” hơn, hoạt động
sản xuất được quốc tế hóa và khu vực hóa, qua đó đẩy mạnh chuyên môn hóa.
99
Nhờ vào hội nhập, công nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi
giá trị toàn cầu, tạo ra giá trị gia tăng cao hơn.
Thứ hai, những tác động tiêu cực:
- Đe dọa trực tiếp đến sự sống còn của một số ngành công nghiệp trong
nước dưới áp lực của cạnh tranh. Mở cửa và hội nhập làm giảm và xóa bỏ các
rào cản về thương mại, đầu tư, tăng cường chuyển giao công nghệ và do đó một
số hàng hóa từ bên ngoài sẽ đổ vào thị trường Việt Nam, gia tăng áp lực cạnh
tranh ngay trên thị trường trong nước đối với các sản phẩm công nghiệp. Về mặt
vĩ mô, điều này sẽ ảnh hưởng đến định hướng phát triển của công nghiệp trong
nước, nếu không có những phản ứng chính sách hợp lý.
- Gia tăng các hiểm họa về mặt môi trường do sự phát triển không cân đối,
tự phát, không kết hợp với bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp do muốn giảm chi phí sản xuất nên chỉ tập trung đầu tư phát triển sản
xuất, thu mua nguyên liệu rẻ, sử dụng năng lượng rẻ gây ô nhiễm, cắt bớt quy
trình sản xuất nên quan tâm kém hơn đến hoạt động xử lý rác thải, khí thải. Kết
quả là tình trạng ô nhiễm không khí, nguồn nước, rác thải ở các khu công nghiệp
và đô thị đến tình trạng báo động.
3.3.2.2. Xu thế phát triển công nghiệp của thế giới theo hướng bền vững
Nghiên cứu xu thế phát triển công nghiệp theo hướng bền vững trên thế
giới nhằm xác định được xu thế của thời đại để đảm bảo sự phát triển của ngành
công nghiệp của Việt Nam phải tương thích, phải phù hợp, cùng dòng chảy đi
lên của nhân loại. Ngoài ra, sự phát triển công nghiệp của Việt Nam phải gắn
chặt với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Theo văn kiện
của Đại hội Đảng lần thứ XII (2016)[12], mục tiêu phát triển của đất nước cho
giai đoạn 2016-2020 sẽ là “Tiếp tục xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Sau đây là một số đặc
điểm trong xu hướng phát triển công nghiệp và quá trình công nghiệp hóa trên
thế giới và của nước ta:
100
Thứ nhất, theo [85] hiện có 6 thách thức đối với quá trình công nghiệp
hóa nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng của các nước đang phát triển:
(1) làm thế nào để thực hiện công nghiệp hóa trong nền kinh tế thế giới toàn cầu
hóa với sự bất bình đẳng lớn giữa các quốc gia, bị chi phối bởi các công ty đa
quốc gia lớn và được định hình bởi các chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs) phân tán;
(2) sự co hẹp về không gian chính sách (chủ yếu do các cam kết toàn cầu hóa)
ảnh hưởng đến các nước công nghiệp hóa muộn trong trật tự kinh tế quốc tế hiện
nay; (3) sự nổi lên của các nền kinh tế châu Á đầu tàu (như Trung Quốc và Ấn
Độ) và những tác động của nó đối với triển vọng công nghiệp hóa của các nước
đi sau cũng như khả năng cạnh tranh công nghiệp của các nền kinh tế tiên tiến;
(4) làm thế nào để đối phó với tình trạng thất nghiệp gia tăng trong ngành công
nghiệp chế biến; (5) tạo ra hệ thống các trung gian tài chính đủ năng lực để đảm
bảo các nguồn vốn dài hạn cần thiết cho đầu tư công nghiệp trong thời gian sắp
tới; và (6) là các chính sách công nghiệp phải làm thế nào có thể phản ứng với
các mối đe dọa từ sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu.
Thứ hai, trong khi tìm kiếm một ngưỡng để xác định nhóm các nước đã
công nghiệp hóa, Thống kê của [91] đã dựa vào kết luận được rút ra từ các
nghiên cứu nội bộ, trong đó cho thấy rằng giá trị gia tăng ngành công nghiệp chế
biến bình quân đầu người (MVApc) là một tiêu chí thích hợp. MVApc cho biết
trình độ sản xuất công nghiệp của một quốc gia so với quy mô dân số của nó.
Nghiên cứu của UNIDO coi đây là chỉ tiêu quan trọng về mức độ công nghiệp
hóa của một quốc gia. Khái niệm này đã được sử dụng liên tục qua nhiều năm
trong ấn phẩm hàng đầu của UNIDO Báo cáo Phát triển công nghiệp [96]. Mặc
dù cách tiếp cận tiêu chuẩn đơn lẻ tự nó không thể được sử dụng cho phân nhóm
quốc gia của UNIDO, nhưng MVApc là cơ sở của ngưỡng tuyệt đối cho nhóm
các nền kinh tế công nghiệp hóa. Đồng thời, bất kỳ nền kinh tế có GDP bình
quân đầu người trên 20.000 USD quốc tế được xem là nằm trong nhóm các nền
kinh tế đã công nghiệp, không kể MVApc của quốc gia đó là bao nhiêu. MVApc
101
(đã điều chỉnh) ≥ 2.500 USD hoặc GDP đầu người (PPP) ≥ 20.000 USD (giá cố
định năm 2011). Theo cách thức phân nhóm này, Việt Nam có MVApc chỉ vào
khoảng trên 1.000 USD PPP và thuộc vào nhóm các nước công nghiệp mới nổi.
Thứ ba, mức độ cạnh tranh về phát triển công nghiệp trên toàn cầu ngày
càng khốc liệt trong một thế giới “phẳng mà không phẳng” với những rào cản rất
tinh vi cần phải vượt qua đối với các nước đang phát triển: toàn cầu hóa song
hành với hội nhập hóa, song phương xen lẫn với đa phương, bảo hộ đi cùng với
chống độc quyền, nhà nước và tư nhân. Những nước phát triển đi trước đã từng
là các nước thực hiện sự bảo hộ đối với ngành công nghiệp, tuy nhiên giờ đây,
trong các điều khoản của các hiệp định thương mại tự do giữa các nước, việc
bảo hộ thường bị kiện dưới hình thức “chống phá giá” hoặc sự sẵn sàng trả đũa
bằng nhiều hình thức khác nhau giữa các nước khi vi phạm điều khoản.
Thứ tư, xu hướng phi công nghiệp hóa quá sớm ở các nước đang phát
triển và đã công nghiệp hóa đã gây ra nhiều tác động đến nền kinh tế của các
nước, chủ yếu là tiêu cực. Các nhà kinh tế cho rằng, các nước đang phát triển
nếu có mức thu nhập bình quân đầu người dưới 10.000 USD sẽ gặp bất lợi lớn
nếu phi công nghiệp hóa. Trong khi đó [93] đưa ra các bằng chứng cho thấy
ngay cả các nước phát triển như Hoa Kỳ hay CHLB Đức đều gặp phải rất nhiều
khó khăn khi phi công nghiệp hóa bởi ngành công nghiệp chế biến có mối quan
hệ chặt chẽ với sự phát triển của ngành nông nghiệp và ngành dịch vụ. Quá trình
phi công nghiệp hóa sớm có những ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế, xã hội và
chính trị của mỗi quốc gia. Về kinh tế, quá trình phi công nghiệp hóa sớm cản
trở sự tăng trưởng và trì hoãn những nước đang phát triển theo kịp những nền
kinh tế tiên tiến. Những ngành công nghiệp chế tạo được gọi là “ngành công
nghiệp thang cuốn”: năng suất lao động của nhân công trong ngành chế tạo có
xu hướng gia tăng, ngay cả trong các nền kinh tế nơi chính sách, các thể chế, và
địa lý cùng nhau góp phần làm chậm sự tiến bộ của các ngành khác trong nền
kinh tế. Theo [91] tốc độ tăng trưởng xuất khẩu toàn cầu trung bình đạt 7,7%
102
trong giai đoạn 2005-2013. Trong năm 2013, thương mại toàn cầu đạt mốc mới
với giá trị hơn 18 nghìn tỷ USD, với 84% từ các sản phẩm chế biến, chế tạo. Do
vậy, các nước phương Tây đang thực hiện một cuộc công nghiệp hóa mới, phù
hợp hơn với trình độ phát triển và bối cảnh phát triển hiện nay. Tuy nhiên, các
nước đang phát triển không thể đi theo mô hình cũ mà cần phải có sự chủ động
để tiếp nhận công nghệ “sạch hơn” và việc lựa chọn đối tác (từ các nước phát
triển) trở nên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thứ năm, cách mạng công nghiệp lần thứ 4 bắt đầu hình thành và so sánh
với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng công nghiệp lần
này sẽ phát triển với tốc độ ở cấp số nhân chứ không phải cấp số cộng như các
cuộc cách mạng trước đó về phạm vi và chiều sâu mang tính hệ thống. Đây là
cuộc cách mạng được xuất hiện cùng hàng loạt công nghệ giúp xóa nhòa ranh
giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, làm thay đổi căn bản giữa đời
sống thế giới thực, ảo và sinh vật của xã hội loài người với 03 đặc trưng nổi trội
như sau: (i) Những tiến bộ căn bản trong thế giới thực với sự phát triển của các
thiết bị tự động hóa, công nghệ in 3D, rô-bốt hiện đại và các dạng vật liệu mới;
(ii) Những bước tiến vượt bậc về thế giới số (digital world) hay thế giới ảo làm
tăng khả năng tương tác với thế giới thực nhờ phát triển của Internet of Things –
IoT (Mọi vật Kết nối) và sự ra đời của các cảm biến hiện đại; (iii) Những đột
phá về thế giới sinh vật với việc xây dựng biểu đồ gen tiết kiệm rất nhiều nguồn
lực tài chính và thời gian so với trước.
3.3.3. Công nghiệp phụ trợ
Phát triển công nghiệp phụ trợ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
CNH-HĐH của mỗi quốc gia. Đặc biệt là ở những quốc gia đang phát triển như
Việt nam, yêu cầu đặt ra là phải hình thành và phát triển một số ngành công
nghiệp hiện đại, nhất là những ngành công nghiệp như sản xuất ôtô, xe máy, các
sản phẩm điện, điện tử, điện lạnh v.v. Để đạt được mục tiêu trên, cần phát triển
mạnh ngành công nghiệp hỗ trợ để các sản phẩm công nghiệp phụ trợ dần tiến
103
tới thay thế hoàn toàn các sản phẩm nhập khẩu nhằm giảm chi phí sản xuất công
nghiệp và cải thiện tỷ lệ giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, sau hơn 15 năm thúc đẩy phát triển các ngành
công nghiệp phụ trợ với nhiều chính sách được ban hành, đặc biệt là nghị định
về phát triển công nghiệp phụ trợ (2015), doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực
công nghiệp hỗ trợ được chọn tham gia vào chuỗi cung ứng sản xuất của các
doanh nghiệp lớn, có quy mô toàn cầu không nhiều, ngay cả đối với chuỗi cung
ứng sản xuất của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Bởi hầu hết các doanh
nghiệp tại Việt Nam là nhỏ và vừa nên bộc lộ nhiều điểm yếu như: Công nghệ
thiết bị lạc hậu, thiếu nguồn lực tài chính, quy mô sản xuất nhỏ, chất lượng sản
phẩm không đồng đều; việc liên kết giữa nhà sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh với
nhà cung ứng công nghiệp hỗ trợ chưa cao, v.v. Chính vì vậy, cho đến nay,
ngành công nghiệp phụ trợ chỉ mới đáp ứng được khoảng 30% sản phẩm cho
ngành công nghiệp, trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp FDI là rất lớn2.
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, đến nay, trong lĩnh vực linh kiện phụ
tùng phục vụ các ngành công nghiệp chế tạo, sản xuất linh kiện phụ tùng kim
loại đã đáp ứng được từ 85-90% nhu cầu cho sản xuất xe máy; khoảng 15-25%
nhu cầu linh kiện cho sản xuất ô tô, khoảng 20% cho sản xuất thiết bị đồng bộ
và khoảng từ 40-60% cho sản xuất máy động lực; cung ứng linh kiện kim loại
cho các ngành công nghiệp phụ trợ công nghệ cao hiện đáp ứng khoảng 10%
nhu cầu. Trong lĩnh vực linh kiện, thiết bị phục vụ cho sản xuất thiết bị đồng bộ
(bao gồm sản xuất máy móc thiết bị tàu thủy, điện, than, xi măng…) chiếm
khoảng 20% trong tổng giá trị thiết bị.
Đối với lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, hiện đang đáp ứng 30-35%
nhu cầu linh kiện điện tử gia dụng. Việc cung ứng của lĩnh vực này cho các lĩnh
vực hạ nguồn khác khá thấp: Điện tử tin học, viễn thông chỉ đạt 15%, điện tử
2 Kỷ yếu hội thảo: “Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ Việt Nam”, 2016
chuyên dụng và các ngành công nghiệp công nghệ cao chỉ đạt 5%.
104
Trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ ngành Dệt may – Da giày, tỷ lệ giá trị
gia tăng trong sản phẩm dệt may đạt 51,1% vào năm 2015 (năm 2014 đạt 50,4%,
năm 2013 đạt 50%). Tương tự, khả năng tự cung ứng nguyên phụ liệu cho ngành
ngành da giày chỉ đạt khoảng 20-25%. Riêng đế giày, nguyên phụ liệu được các
doanh nghiệp Việt Nam chủ động tốt nhất, cũng chỉ đáp ứng được 40% -50%
nhu cầu sản xuất của ngành nói chung.
Trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ ngành ô tô, tỷ lệ nội địa hoá đối với
xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%, trong đó
Thaco đạt 15-18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Inova, thấp
hơn rất nhiều so với mục tiêu đề ra. Ngành công nghiệp phụ trợ công nghiệp ô tô
đã hình thành, nhưng còn yếu kém, chỉ sản xuất được một số ít chủng loại phụ
tùng đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp như gương, kính, ghế ngồi, bộ dây
điện, ắc quy, săm-lốp, sản phẩm nhựa... Chỉ một số ít doanh nghiệp đầu tư dây
chuyền dập thân, vỏ xe.
Theo Bộ Công thương, vốn và nguồn nhân lực là hai yếu tố hàng đầu còn
yếu và thiếu của các doanh nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực này. Máy móc thiết bị
lạc hậu dẫn đến năng suất và chất lượng sản phẩm thấp, không ổn định, giá
thành sản phẩm cao. Các doanh nghiệp trong nước với xuất phát điểm thấp,
thiếu vốn, thiếu nguồn lực, ý thức của đội ngũ công nhân và kĩ sư chưa cao.
Điển hình cho sự hạn chế về năng lực của doanh nghiệp trong việc phát triển
công nghiệp hỗ trợ phải kể đến lĩnh vực dệt may - da giày. Tương tự đối với
ngành dệt may, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để giải quyết tình trạng “nút cổ chai”
trong khâu dệt nhuộm nhưng các doanh nghiệp trong ngành vẫn đang nhập khẩu
từ 70% đến 100% các nguyên vật liệu, phụ liệu chủ yếu.
Bên cạnh những khó khăn xuất phát từ nội tại doanh nghiệp, việc phát
triển công nghiệp phụ trợ vẫn còn gặp phải rào cản từ chính sách. Mặc dù quy
hoạch phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ được phê duyệt và Nghị định
111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp phụ trợ cũng như những chính sách
105
hướng dẫn được ban hành, việc thiếu đồng bộ trong chính sách hỗ trợ ở nhiều
khía cạnh, đặc biệt là nguồn vốn, khiến những trở ngại trong phát triển công
nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn chưa được tháo gỡ triệt để.
Thực tế đã cho thấy việc các ngành công nghiệp phụ trợ chậm phát triển
ngày càng làm tăng chi phí trung gian trong sản xuất của ngành này, giảm khả
năng tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giảm khả năng cạnh tranh,
đồng thời khiến sản xuất công nghiệp phụ thuộc quá lớn vào biến động của giá
nguyên liệu đầu vào ở thị trường nước ngoài. Việc thúc đẩy phát triển các ngành
công nghiệp hỗ trợ trong nước đến lượt nó cũng sẽ góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp theo hướng hợp lý hơn trong thời gian tới.
Trên cơ sở lợi thế so sánh của Việt Nam trong việc phát triển công nghiệp,
đồng thời xuất phát từ hiện trạng và định hướng phát triển công nghiệp Việt
Nam trong thời gian tới, các ngành công nghiệp phụ trợ cần được tập trung phát
triển trong thời gian tới có tầm quan trọng nhất có thể là: dệt cho công nghiệp
dệt may; da, thuộc da cho công nghiệp giày da, thiết bị vật tư điện tử cho công
nghiệp điện tử - tin học, sản xuất phụ tùng và các chi tiết máy, thân, vỏ xe cho
công nghiệp sản xuất và lắp ráp ôtô, cơ khí chế tạo.
3.3.4. Hiệu quả sử dụng nguồn lực
Trong giai đoạn 2001-2015, như đã đề cập ở phần trước, nguồn vốn đầu
tư cho lĩnh vực công nghiệp luôn duy trì ở mức cao trong tổng vốn đầu tư của
nền kinh tế, với 36,9% tổng vốn đầu tư năm 2000, lên ở mức rất cao 48,9% vào
năm 2015. Mặc dù vậy, hiệu quả của việc huy động và sử dụng các nguồn lực,
đặc biệt là những nguồn lực tài chính, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng,
nguồn nhân lực và các yếu tố xã hội vào phát triển trong thời gian qua được
đánh giá là chưa cao. Việt Nam không dồi dào về những nguồn lực từ tài
nguyên, tài chính, cơ sở hạ tầng, con người; trong đó, một số nguồn lực về hạ
tầng cứng kinh tế-xã hội của nước ta còn ở mức độ thấp so với các nước phát
triển. Ví dụ như: về hạ tầng giao thông, trong số 364.000 km đường bộ, chúng ta
106
hiện mới có hơn 745 km đường cao tốc; để đẩy nhanh tốc độ phát triển đến năm
2020, chúng ta cần phải có khoảng 2000 km cao tốc; chất lượng nguồn nhân lực
của ta còn thấp; số lượng nhà khoa học của ta đã tăng lên, nhưng chưa có những
đóng góp đột phá; khoa học công nghệ chưa trở thành động lực cho phát triển...
[16]. Do vậy, việc huy động vốn đầu tư ngày càng lớn vào lĩnh vực công nghiệp
khi các yếu tố kinh tế và phi kinh tế khác chưa thực sự được huy động và phát
triển một cách đồng bộ, sẽ có thể làm giảm hiệu quả sử dụng của các nguồn lực
tài chính trong công nghiệp, giảm chất chất lượng tăng trưởng của khối ngành
này.
Mô hình tăng trưởng của chúng ta trong thời gian vừa qua chủ yếu dựa
vào 3 yếu tố: Tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ và đầu tư tài chính, đóng
góp của yếu tố TFP vào tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng như của ngành
công nghiệp còn ở mức khiêm tốn, dưới mức 35% [20]. Đó không phải là mô
hình tăng trưởng bền vững có chất lượng vì những lợi thế từ các yếu tố nguồn
lực này sẽ ngày càng suy yếu và tới hạn. Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Việt
Nam đã và đang thực hiện quyết liệt trong mấy năm gần đây là nhằm tạo ra một
mô hình phát triển kinh tế hiệu quả và bền vững hơn. Đó là mô hình cần nhiều
hơn sự đóng góp của nguồn nhân lực chất lượng cao với việc áp dụng khoa học
công nghệ cao trong kỷ nguyên công nghiệp thứ tư mà thế giới đang theo đuổi
mà nòng cốt là sự đóng góp của công nghệ thông tin, hạn chế xuất khẩu tài
nguyên ở dạng thô và việc mở rộng quy mô các yếu tố nguồn lực khác.
Các yếu tố phi kinh tế, được coi là những nguồn lực mềm, những tài sản
vô hình chưa được đánh giá đúng mức trong quá trình phát triển kinh tế đất nước
và thúc đẩy phát triển công nghiệp. Yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc,
quy mô dân số gần 100 triệu người, thị trường chung AEC rộng lớn với quy mô
dân số hơn 600 triệu dân, v.v. là một thị trường rộng lớn, là yếu tố quan trọng
trong khuyến khích và đẩy mạnh hơn nữa việc thu hút các doanh nghiệp trong và
107
ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt là hàng tiêu dùng phục vụ thị
trường rộng lớn này.
Mặc dù có những cải thiện đáng kể từ khi đề án tái cơ cấu nền kinh tế, đặc
biệt là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước được thúc đẩy trong hơn 25 năm qua vẫn chưa thực sự hiệu quả. Từ
thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, Việt Nam có hơn 12.000 doanh nghiệp nhà
nước. Vấn đề nghiêm trọng của các doanh nghiệp nhà nước, theo đánh giá của
nhiều nhà nghiên cứu là thiếu động lực để hoạt động hiệu quả, nợ xấu chồng
chất làm tăng thêm gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước vốn không phải
là lớn của nước ta. Đến cuối thập niên 1980, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước đã trở thành một việc làm tất yếu. Sau hơn 25 năm chặng đường cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) kể từ năm 1992, thành công quan trọng
của tiến trình này là đã chuyển được một phần quyền sở hữu của một số lượng
lớn các DNNN sang hình thức sở hữu vốn có hiệu quả hơn, nhưng vẫn mới chỉ
chiếm 8% lượng vốn của các DNNN, 92% lượng vốn còn lại vẫn nằm trong tay
các tổng công ty lớn. Tiến độ cổ phần hóa DNNN chậm và không minh bạch
được coi là hai hạn chế cơ bản của tiến trình này trong 15 năm qua và tiếp tục là
nguyên nhân làm giảm hiệu quả hoạt động của một bộ phận lớn các doanh
nghiệp trong loại hình này, góp phần làm xấu đi bức tranh chất lượng tăng
trưởng công nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua bằng các hạn chế chủ yếu
sau đây:
- Đối tượng cổ phần hoá còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh công tác cổ phần hoá theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9
khoá IX. Vẫn còn hiện tượng các tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước mà
theo tiêu chí phân loại không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn
chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, công ty TNHH
nhà nước một thành viên để tránh cổ phần hoá.
108
- Việc xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp CPH
chưa có hướng dẫn cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai
[105], đặc biệt là mức giá áp dụng, trình tự thủ tục... Thực tế cho thấy hầu như
các đơn vị cổ phần hoá đều lựa chọn hình thức thuế đất, không lựa chọn hình
thức giao đất vì: giá đất thuê do các địa phương ban hành còn chưa sát với giá
thị trường hoặc chưa được điều chỉnh kịp thời với sự biến động trên thị trường;
nếu thực hiện giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh
nghiệp, tăng quy mô vốn nhà nước tại đơn vị cổ phần hoá quá lớn làm ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau cổ phần hoá và
không hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
- Về đối tượng và quyền mua cổ phần: Chính sách về cổ đông chiến lược
còn có sự cách biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, chưa tạo điều
kiện để thu hút và gắn kết giữa hoạt động đầu tư của nhà đầu tư chiến lược với
sự phát triển của doanh nghiệp CPH. Có đơn vị xác định nhà đầu tư chiến lược
lại là các doanh nghiệp thành viên trong nội bộ của tổng công ty làm hạn chế
khả năng tham gia, tiếp cận của các nhà đầu tư bên ngoài.
- Cơ chế bán cổ phần còn chưa phù hợp với các doanh nghiệp cổ phần có
quy mô lớn như các nhà máy xi măng, các nhà máy điện... Chưa có quy định cho
phép các nhà đầu tư chiến lược được quyền mua lô lớn đối với số cổ phần bán ra
tại một công ty cổ phần để được tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp sau
khi cổ phần hoá.
- Về bán đấu giá cổ phần, hiện tượng các nhà đầu tư liên kết với nhau
trong việc bỏ giá khi tham gia đấu giá mua cổ phần, "thông thầu" đặt giá cao rồi
bỏ để các nhà đầu tư kế tiếp đương nhiên được mua với giá thấp hơn nhiều giá
trị thực gây thất thu cho Nhà nước.
- Theo quy định hiện nay, toàn bộ tiền thu về cổ phần hoá sau khi trừ các
khoản chi phí cổ phần hoá; chi cho người lao động thôi việc, mất việc, đào tạo
lại theo phương án cổ phần hoá được duyệt được chuyển về tổng công ty (cổ
109
phần hoá đơn vị thành viên tổng công ty), công ty mẹ (cổ phần hoá bộ phận
doanh nghiệp) hoặc về Quỹ sắp xếp cổ phần hoá Bộ Tài chính (cổ phần hoá các
đơn vị độc lập thuộc bộ, ngành, địa phương). Quy định này có hạn chế là trong
trường hợp doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá dưới hình thức phát hành thêm
cổ phiếu để thu hút vốn, toàn bộ khoản chênh lệch do bán đấu giá cổ phần đều
phải nộp cho Nhà nước hoặc cho tổng công ty, công ty mẹ mà không được để lại
cho doanh nghiệp thực hiện đầu tư, mở rộng sản xuất nên thực tế nhiều doanh
nghiệp CPH chỉ chú trọng hình thức bán bớt vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
- Chưa có cơ chế giám sát và tạo sự gắn kết giữa trách nhiệm và quyền lợi
của các tổ chức trung gian với kết quả bán đấu giá cổ phần. Một số tổ chức trung
gian định giá doanh nghiệp CPH chưa sát và phù hợp thực tế dẫn tới các Ban chỉ
đạo cổ phần hoá của doanh nghiệp phải yêu cầu giải trình, chỉnh sửa nhiều lần
làm kéo dài thời gian cổ phần hoá.
Thực hiện Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 và Quyết định
số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tái
cơ cấu DNNN, trọng tâm là Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước giai đoạn
2011 - 2015”, các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý DNNN, liên quan đến
CPH và tái cơ cấu DNNN đã được chính phủ ban hành. Một số khó khăn vướng
mắc trong quá trình thúc đẩy lộ trình tái cơ cấu DNNN đã dần được tháo gỡ. Cụ
thể là Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại
doanh nghiệp nhà nước và các nghị định hướng dẫn đã được ban hành. Đến nay,
các cơ chế chính sách để phục vụ việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng
như thoái vốn về cơ bản đã đầy đủ. Đến cuối năm 2015 cả nước cổ phần hoá đạt
93% kế hoạch. Trong giai đoạn 2011-2015, đã sắp xếp được 558 doanh nghiệp,
trong đó cổ phần hoá được 478 doanh nghiệp và sắp xếp theo các hình thức khác
80 doanh nghiệp. Như vậy, việc sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
giai đoạn 2011 - 2015 cơ bản hoàn thành kế hoạch đề ra. Theo bộ Tài chính, về
giá trị thoái vốn nhà nước tại DNNN, trong giai đoạn 2011 – 2015, Việt Nam đã
110
bán 26.547 tỷ đồng, tương đương 2,1% tổng vốn nhà nước tại các DNNN, thu về
31.213 tỷ đồng, chênh lệch tăng 4.665 tỷ đồng.
Tóm lại, sau hơn 25 năm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,
tốc độ cổ phần hóa chậm đã làm giảm hiệu quả của bộ phận lớn các doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta, kéo dài tình trạng bất công bằng trong hoạt động của
các doanh nghiệp giữa các thành phần kinh tế, tiếp đến không có tác dụng
khuyến khích các doanh nghiệp ở các khu vực kinh tế khác phát triển, làm giảm
hiệu quả chung của sản xuất công nghiệp cũng như của toàn nền kinh tế. Việc
đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các DNNN kém hiệu quả được coi là sẽ góp phần
cải thiện chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong thời
gian tới.
3. 3.5. Chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của Việt Nam được đánh giá là dồi dào về số lượng với
tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động năm 2005 ở mức 62,1% và dự báo chỉ số này
sẽ tăng dần và tương đố i ổ n đi ̣nh ở 65% năm 2020. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam được đánh giá là chưa cao, là một trong những nguyên
nhân khiến năng suất lao động thấp, giảm hiệu quả của quá trình tăng trưởng ở
Việt Nam, đặc biệt trong các ngành sản xuất công nghiệp. Điều này thể hiện ở
chỗ:
- Trình độ học vấn của dân số trong độ tuổi lao động có tăng lên, nhưng
có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn và giữa các vùng. Tỷ lệ biết
chữ chung của cả nước là 96,2% năm 2005, năm 2020 dự báo đa ̣t 98,25% .
- Trình độ chuyên môn nghề nghiệp của lực lượng lao động còn thấp.
Theo điều tra lao động việc làm năm 2015 chỉ tiêu này vẫn ở mứ c cao, thâ ̣m chí cò n cao hơn là 79%, trong đó thành thi ̣ là 63%, nông thôn là 86%.
- Chất lượng của lực lượng lao động theo tính chất phức tạp của nghề
nghiệp (căn cứ vào hàm lượng xử lý thông tin trong quá trình làm việc) nhìn
chung còn thấp. Năm 2015 tỷ lê ̣ lao đô ̣ng có trình đô ̣ chuyên môn kỹ thuâ ̣t loại
111
này đã tăng lên đáng kế, tương ứ ng là 8,6% và 6,5%. Theo một cách phân loại
khác về trình độ lành nghề của lao động đang làm việc, thì tỷ trọng lao động
giản đơn của nước ta vẫn còn cao, ở mức trên 60% số lao động đang làm việc
cho nền kinh tế, trong khi đó, lao động làm các nghề thuộc chuyên môn kỹ thuật
cao chỉ có 3,2%, chuyên môn kỹ thuật bậc trung có gần 3% và các nghề thuộc
loại kỹ thuật trung bình khác (nhân viên, thợ thủ công, lao động có kỹ thuật và
thợ lắp ráp, vận hành máy) có gần 25% [11].
- Về thể chất, lao động nước ta được đánh giá là có chiều cao và trọng
lượng thấp so với những người cùng nhóm tuổi ở các nước [11], sức bền và sức
dẻo dai thấp.
- Tỷ lệ lao động được đào tạo trung học, cao đẳng, đại học tăng lên. Song,
tính theo chỉ số tổng hợp về chất lượng nguồn nhân lực thì Việt Nam chỉ đạt
3,2/10 điểm, thuộc vào nhóm kém nhất, xếp thứ 11 trong số 12 nước châu á
được so sánh, chỉ đứng trên Indonesia và kém xa so với Philippine, Thái Lan,
Malaysia và Singapore.
3.3.6. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp
Một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu quả của tăng
trưởng sản xuất công nghiệp trong thời gian qua xuất phát từ trình độ công nghệ
của doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập. Trong
những năm qua, số lượng lớn các doanh nghiệp đã có những đổi mới, nhiều máy
móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển giao từ các nước công nghiệp phát
triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều
và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Hiện vẫn còn tồn tại đan xen
trong nhiều doanh nghiệp các loại thiết bị công nghệ từ lạc hậu, trung bình đến
tiên tiến, do vậy đã làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ
tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu vào, đầu ra.
Theo đánh giá của Bộ KH&CN thì đổi mới công nghệ thuộc loại năng lực
yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam. Phần lớn các doanh nghiệp nước ta
112
đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ.
80% - 90% công nghệ nước ta đang sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76%
máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1950 - 1960, 75% số thiết bị
đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh
đang sử dụng máy móc, thiết bị do các doanh nghiệp nước ngoài đã thải bỏ. Tính
chung cho các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, trung bình
38% lạc hậu và rất lạc hậu 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức
lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 75%. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư đổi mới công nghệ ớ mức thấp, chi phí chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, so với mức 5% ở Ấ n Độ hay 10% ở Hàn Quốc.
Đối với hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là tại các
nước phát triển, chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng
khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật
mới nâng cao chất lượng và năng suất lao động hay tạo ra các sản phẩm mới,
độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm tăng
hiệu quả kinh doanh và tạo một vị trí vững chắc trên thị trường. Qua điều tra, có
69,1% doanh nghiệp đầu tư chi phí cho R & D. Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài có tỷ lệ cao nhất chiếm 84,6%, cuối cùng là khu vực doanh nghiệp ngoài
Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ dành 0,2% đến 0,3% doanh thu cho
nghiên cứu phát triển sản phẩm mới.
Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp và
không ổn định, năng suất lao động kém, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, v.v.
làm cho doanh nghiệp khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh, về lý
thuyết, sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá. Việc thúc đẩy đổi mới công
nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp trong thời gian tới sẽ là một giải pháp
quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của công nghiệp Việt Nam.
113
3.4. Đá nh giá chung về chấ t lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam
3.4.1. Những kết quả đạt được
Khảo cứu các tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành công
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2001-2015 có thể đưa ra một số nhận xét như
sau:
Thứ nhất, tăng trưởng công nghiệp trong giai đoạn nghiên cứu đã góp
phần quan trọng vào nâng cao nhịp tăng trưởng chung, giải quyết việc làm cho
lực lượng lao động dồi dào của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đóng
góp của tăng trưởng công nghiệp cho nền kinh tế bắt đầu có xu hướng giảm dần
trong những năm gần đây, do hiệu quả tăng trưởng kém của công nghiệp. Nếu
những bất ổn trong tăng trưởng công nghiệp không được hạn chế trong thời gian
tới thì việc duy trì một nhịp tăng cao của nền kinh tế trong thời gian tới là khó
đạt được, đặc biệt khi khối ngành dịch vụ sẽ bắt đầu phải trải qua một thời kỳ
được coi là cạnh tranh khốc liệt khi Việt Nam phải thực hiện các cam kết trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặt khác, tăng trưởng công nghiệp thời gian qua đã đóng góp lớn cho
việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Xuất khẩu tăng nhờ đóng góp
của các sản phẩm của công nghiệp như khai thác dầu thô, than, dệt may, giày da,
chế biến thủy sản, sản xuất đồ gỗ, v.v. Gia tăng xuất khẩu các sản phẩm công
nghiệp phần nào khẳng định các thương hiệu Việt Nam trên một số thị trường
chủ yếu, đảm bảo cán cân thanh toán, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô của đất
nước.
Tăng trưởng công nghiệp có thúc đẩy tốt tới các khối ngành, lĩnh vực
khác của nền kinh tế cùng phát triển. Điều này cho thấy tác động lan toả của
tăng trưởng công nghiệp tới nền kinh tế trong giai đoạn nghiên cứu là đáng ghi
nhận.
114
3.4.2. Những hạn chế tồn tại trong tăng trưởng ngành công nghiệp Việt
Nam
Thứ nhất, Tăng trưởng cao nhưng hiệu quả đạt được chỉ tiêu tăng trưởng
thấp thể hiện thông qua năng suất lao động thấp so với năng suất lao động của
sản xuất công nghiệp của các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời thể
hiện ở việc nhịp tăng trưởng năng suất lao động thấp so với mức tăng bình quân
của toàn nền kinh tế. Năng suất lao động thấp và có nhịp tăng chậm thể hiện
hiệu quả sử vốn đầu tư, sử dụng lao động không cao của ngành công nghiệp Việt
Nam, trong khi Việt Nam đang được đánh giá là nền kinh tế có mức “dân số
vàng”, đồng thời cũng phần nào thể hiện trình độ công nghệ của sản xuất công
nghiệp Việt Nam là còn thấp.
Mặt khác, hiệu quả đạt được chỉ tiêu tăng trưởng thấp còn thể hiện ở mức
chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp ngày càng lớn, tức là, để có được
một đơn vị giá trị gia tăng, quy mô sản xuất phải ngày càng được mở rộng hơn
và việc đạt được 1 đơn vị giá trị gia tăng của sản xuất công nghiệp ngày càng
phải tiêu tốn nhiều hơn các yếu tố đầu vào. Nghiên cứu cho thấy, việc ngày càng
khó đạt được một đơn vị giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chủ yếu là do cơ
cấu sản xuất công nghiệp Việt Nam là chưa hợp lý, thể hiện ở chỗ các ngành
công nghiệp chủ chốt của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn gia công, lắp ráp
theo đặt hàng của bạn hàng với hầu hết nguyên vật liệu cho sản xuất được nhập
khẩu từ bên ngoài. Đây được coi là khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất trong
chuỗi giá trị. Hiệu quả đạt được của chỉ tiêu tăng trưởng của ngành công nghiệp
sẽ có thể được cải thiện nếu cơ cấu công nghiệp trở nên hợp lý hơn với việc phát
triển các ngành công nghiệp phụ trợ, với việc tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị
toàn cầu, v.v. Điều này, về dài hạn, nếu không có một sự điều chỉnh kịp thời sẽ
khó có thể duy trì được nhịp tăng trưởng công nghiệp ở mức cao và ổn định.
Cấu trúc tăng trưởng công nghiệp là chưa hợp lý. Xem xét cấu trúc tăng
trưởng công nghiệp cả về GTSX và Giá trị gia tăng, về bề nổi, dễ dàng nhận
115
thấy một xu hướng có vẻ hợp lý, rằng công nghiệp khai thác ngày càng bị lấn
lướt bởi công nghiệp chế biến, chế tác. Tuy nhiên, xem xét sâu hơn cấu trúc tăng
trưởng GTSX của ngành công nghiệp chế biến, cho thấy trong vòng 10 năm
(1996-2005), chuyển dịch cơ cấu sản xuất của ngành này diễn ra chậm với đóng
góp chủ yếu vẫn là ngành chế biến thực phẩm và đồ uống. Các ngành công
nghiệp phụ trợ chưa phát triển hoặc có xu hướng phát triển kém hơn (ngành dệt).
Trong hơn 15 năm gần đây 2001-2015 các ngành sản xuất máy móc thiết bị, xe
có động cơ, cơ khí đã có vai trò nhất đi ̣nh trong tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp và đa ̣t tố c đô ̣ tăng trưở ng bình quân khá cao. Sắt, thép dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng trưở ng bình quân 25%/năm; Thép cán và thép hình 13%/năm; Ti vi lắp ráp 34,7%/năm; ; máy in các loa ̣i 83,7%/năm.v.v..
Mặt khác, so sánh cấu trúc tăng trưởng GTSX công nghiệp và cấu trúc
tăng trưởng GDP công nghiệp cho thấy một bức tranh khác, rằng đóng góp của
công nghiệp khai khoáng cho tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp vẫn là lớn
(hơn 20%) và đóng góp của công nghiệp chế biến cho tăng trưởng giá trị gia
tăng công nghiệp mặc dù ngày càng tăng, nhưng có xu hướng chậm dần, khác
với xu hướng thể hiện nổi trội của đóng góp của ngành trong tăng trưởng GTSX
công nghiệp. Điều này là đồng nhất với nhận định ở trên khi chi phí trung gian
của công nghiệp ngày càng lớn và càng khẳng định một phản ứng chính sách cần
thiết là thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp nếu muốn duy trì nhịp
tăng trưởng cao và ổn định của công nghiệp, góp phần duy trì nhịp tăng cao,
tránh nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam.
Hơn nữa, cấu trúc tăng trưởng công nghiệp còn chưa hợp lý khi xem xét
cấu trúc tăng trưởng theo đóng góp của các yếu tố đầu vào của sản xuất công
nghiệp. Tăng trưởng của công nghiệp vẫn chủ yếu dựa trên việc tăng trưởng theo
chiều rộng, bằng việc ngày càng mở rộng các yếu tố đầu vào để đạt được tăng
trưởng. Đóng góp của yếu tố cải tiến kỹ thuật, yếu tố đổi mới công nghệ cho
tăng trưởng của công nghiệp thời gian qua là chưa đáng kể. Kết quả khảo cứu
116
cũng cho thấy, sự tăng trưởng năng suất đạt được của một số ngành công nghiệp
là nhờ vào sự cải thiện trong tiến bộ công nghệ, cải tiến kỹ thuật. Điều này nói
lên tầm quan trọng của tiến bộ công nghệ đối với việc tăng năng suất của ngành
công nghiệp Việt Nam. Việc nhận thức một cách thấu đáo vai trò của đổi mới
công nghệ, chủ động quan tâm đầu tư nghiên cứu công nghệ từ phía các doanh
nghiệp nhằm nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của mình, song
song với việc ban hành các chính sách từ phía nhà nước nhằm trực tiếp hoặc
gián tiếp khuyến khích đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp công nghiệp sẽ là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao khả
năng đóng góp của công nghệ cho tăng trưởng công nghiệp trong dài hạn, cải
thiện cấu trúc tăng trưởng của công nghiệp theo hướng tăng trưởng theo chiều
sâu.
Tăng trưởng công nghiệp đạt được dựa trên việc tiêu thụ năng lượng quá
mức và gây ô nhiễm môi trường sinh thái đang là một vấn đề bức xúc hiện nay,
đặc biệt là ở các trung tâm công nghiệp của cả nước như TP. Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, v.v. Việc cải thiện hiệu quả
tiêu thụ năng lượng trong bối cảnh năng lượng ngày càng khan hiếm và đắt đỏ,
song song với việc bảo vệ môi trường của sản xuất công nghiệp là một việc làm
cấp bách ở Việt Nam hiện nay, nhằm đảm bảo tăng trưởng ổn định, bền vững
của nền kinh tế trong dài hạn.
Công nghệ lạc hậu, qui mô nhỏ, năng suất lao động thấp. Các doanh
nghiệp công nghiệp nhìn chung qui mô còn nhỏ, trình độ công nghệ thấp, lạc
hậu, chưa đa dạng. Tỷ trọng giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp.
Mức tiêu hao năng lượng trong một đơn vị sản phẩm còn cao (1,2-1,5 lần so với
các nước trong khu vực), sản phẩm đơn điệu, chất lượng kém, không ổn định,
giá thành cao, khả năng cạnh tranh kém, nhiều sản phẩm gần như mất thị trường
trong nước như xe đạp, quạt điện, động cơ diezel, tàu thuỷ...
117
Chính phủ đã thí điểm áp dụng các mô hình Tổng công ty 91, 90 nhằm
tăng cường năng lực sản xuất của một số ngành công nghiệp quan trọng. Tuy
nhiên, trên thực tế các Tổng công ty 91, 90 lại được thành lập ồ ạt ở hầu hết các
ngành kinh tế quan trọng. Mặt khác các mô hình xây dựng chưa đạt hiệu quả vì
thực chất chưa có sự ràng buộc hữu cơ về nguồn vốn, công nghệ, tổ chức, quản
lý..., các doanh nghiệp vẫn ở qui mô sản xuất nhỏ, không có điều kiện tập trung
vốn đầu tư đổi mới công nghệ một cách đồng bộ.
Năng suất lao động trong công nghiệp còn thấp, nếu so với Philippin là
nước có năng suất lao động công nghiệp thấp nhất trong số 6 nước ASEAN vẫn
còn cao hơn của Việt Nam. Năm 2015 năng suất lao động công nghiê ̣p củ a
Philippin tính theo GDP vào khoảng 13.500 USD/năm, Singapore là 136.500 USD/năm; Việt Nam chỉ tiêu này khoảng trên 5.800 USD [22].
Giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp đạt tỷ lệ so với giá trị sản
lượng. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp 15 năm 2001 - 2015 tăng bình quân
18,6%/năm, nhưng giá trị gia tăng chưa tương xứng (bình quân trong cù ng kỳ chỉ tăng 9,6%/năm). Ngành công nghiệp chế tác đóng góp vào tăng trưởng của
toàn ngành công nghiệp khoảng 50-60%, nhưng lại là ngành có chi phí nguyên
vật liệu tăng nhanh nên giá trị gia tăng thấp, đặc biệt là các ngành công nghiệp
gia công như: may mặc, da giày, chế biến gỗ xuất khẩu... có giá trị sản xuất cao,
nhưng phần lớn chi phí lại là vật tư nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Hàm
lượng quốc gia trong sản phẩm thấp.
Nguồn nguyên liệu bị phụ thuộc vào thị trường nước ngoài, các nguồn lực
trong nước không được khai thác hiệu quả. Hiện tại Việt Nam đang thiếu hụt về
thị trường nguyên liệu. Nhiều ngành công nghiệp đầu tư mới đòi hỏi các ngành
công nghiệp phụ trợ phát triển kèm theo. Tuy nhiên do thiếu vốn đầu tư, phần
lớn nguyên liệu, bán thành phẩm phải nhập khẩu. Vì vậy, trong giai đoạn tới,
cần chú ý phát triển các ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu, bán thành
phẩm hỗ trợ các ngành sản xuất khác phát triển. Điều này sẽ giúp giảm giá thành
118
sản xuất, tăng năng lực công nghiệp trong nước, giảm nhập khẩu, tạo thêm việc
làm cho người lao động.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Tác giả đã sử dụng bộ tiêu chí gồm 3 nhóm tiêu chí, 11 chỉ tiêu nêu ở
chương 2 để đánh giá chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam. Mỗi
chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh khác nhau của chất lượng tăng trưởng công
nghiệp, nhằm lột tả và phản ánh đầy đủ, khá toàn diện về chất lượng tăng trưởng
ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian nghiên cứu. Từ đó, các cơ quan
hoạch định chính sách có thể tham khảo để đánh giá chất lượng tăng trưởng của
ngành ở cấp trung ương và địa phương.
Luận án khẳng định chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp của Việt
Nam là chưa cao và tiềm ẩn những trở ngại để duy trì nhịp độ tăng trưởng trong
dài hạn. Điều đó thể hiện qua đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng từ yếu tố đầu
vào chiều rộng, thay vì đóng góp của các yếu tố liên quan đến TFP; thể hiện qua
năng suất lao động thấp, tỷ lệ giá trị gia tăng thấp trong giá trị sản xuất; thể hiện
qua chi phí năng lượng cao; thể hiện qua năng lực của ngành công nghiệp chế
biến, qua khả năng xuất khẩu của ngành công nghiệp và qua tác động lan toả của
quá trình tăng trưởng của ngành công nghiệp tới các khối ngành khác trong nền
kinh tế và tới các lĩnh vực xã hội, môi trường.
Nguyên nhân của thực trạng chất lượng tăng trưởng công nghiệp chưa cao
ở Việt Nam cũng được chỉ ra, kết hợp với việc nghiên cứu xu hướng phát triển
công nghiệp thế giới, của một số quốc gia tương đồng về điều kiện phát triển.
Những vấn đề được phân tích, nhận định được đưa ra trong chương này là một
phần quan trọng, làm cơ sở cho những định hướng phát triển, những kiến nghị,
gợi ý giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp từ
nay đến 2025 và tầm nhìn 2030 trong chương 4 của luận án.
119
CHƯƠNG 4
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM
4.1. Đi ̣nh hướ ng phá t triển cá c ngành công nghiê ̣p Viê ̣t Nam đến 2025 và tầm nhìn 2030
Phát triển công nghiệp luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu
của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay trong thời đại công nghệ 4.0 ngày
nay. Trên cơ sở những phân tích ở chương 3 của luận án, tác giả cho rằng, định
hướng phát triển công nghiệp được đề cập ở Văn kiện Đại hội lần thứ XII [12]
của Đảng và trong Chiến lược phát triển công nghiệp đến 2025 và tầm nhìn 2030
của Chính phù [105] là phù hợp trong thời gian qua. Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu ở chương 3, tác giả cho rằng Chính phủ cần phải xây dựng Chiến lược công
nghiệp 4.0 trên cơ sở lồng ghép, lựa chọn những định hướng sẵn có, kết hợp với
một số định hướng lớn, mới, lựa chọn ngành chủ lực, giải pháp mới phù hợp với
bối cảnh công nghiệp 4.0.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã xác định định hướng phát triển
công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2015-2020 là:
“Đẩy nhanh phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học,
công nghệ, có tỉ trọng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng cao; có lợi thế cạnh
tranh, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Phấn đấu đạt tốc độ tăng
trưởng công nghiệp, xây dựng bình quân khoảng 8,0 - 8,5%/năm; đến năm 2020
tỉ trọng công nghiệp, xây dựng trong GDP khoảng 40%; tỉ trọng công nghiệp
chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 25%, trong đó công nghiệp chế tạo khoảng
15%.
Phát triển các ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản
xuất cơ bản của nền kinh tế. Phát triển công nghiệp năng lượng, luyện kim, hóa
dầu, hóa chất với công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm
120
có khả năng cạnh tranh. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp cơ khí chế tạo
mạnh và sản phẩm cơ khí trọng điểm.
Có chính sách phát triển công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ
thông tin, công nghiệp phần mềm. Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông
nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật tư và máy nông
nghiệp.
Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường liên kết giữa các tập
đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp trong nước, hình thành các khu công nghiệp
hỗ trợ theo cụm liên kết ngành.
Hỗ trợ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, nhất là năng lượng gió,
mặt trời.”
Văn kiện cũng nêu rõ: “Thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động theo cơ chế thị trường, bảo đảm
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn mà Nhà nước
không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần chi phối, kể cả những doanh nghiệp
đang kinh doanh có hiệu quả; Hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu
hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,...) trong cổ phần hóa theo
nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ
chính trị công ích.
Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác xã; Đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp
dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có
cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển
giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển
kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.
Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động
121
lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách
khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành
và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn
thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khỏi
nghiệp. Khuyến khích hình thành tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân
góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư
trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên
tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; Chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi
đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại,
có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong
nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với
doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp
quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Khuyến khích thành lập các trung tâm nghiên cứu - triển khai của doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.
Quyết định 879/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2014 về Chiến
lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến 2025 và tầm nhìn đến 2030 cũng xác
định: “Huy động mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong nước và từ bên
ngoài để phát triển, tái cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng hiện đại; chú trọng
chuyển giao công nghệ đối với những ngành công nghiệp có khả năng cạnh
tranh và công nghệ hiện đại ở một số lĩnh vực chế biến nông sản, điện tử viễn
thông, năng lượng mới và tái tạo, cơ khí chế tạo và hoá dược”. Theo đó các định
hướng phát triển công nghiệp được xác định phù hợp với tinh thần của Nghị
quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Cụ thể, từ nay đến năm 2025 và tầm
nhìn 2030:
- Từng bước điều chỉnh mô hình tăng trưởng công nghiệp chủ yếu dựa
trên số lượng sang trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, đẩy mạnh thúc đẩy
122
phát triển công nghiệp giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn, gắn kết sản xuất
với phát triển dịch vụ công nghiệp.
- Tập trung hỗ trợ công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là nhóm sản phẩm cơ khí,
hoá chất, điện tử, viễn thông phục vụ sản xuất công nghiệp, đồng thời tham gia
mạng lưới sản xuất toàn cầu.
- Tăng cường phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn,
công nghiệp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; phát triển công nghiệp
vật liệu mới thân thiện hơn với môi trường, công nghiệp xanh, có công nghệ tiên
tiến, và tham gia dần theo xu hướng sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
4.2. Phướ ng hướ ng nâng cao chấ t lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p Viê ̣t Nam đến 2025 và tầm nhìn 2030
Nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp đang là một yêu cầu bức
bách của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhằm duy trì một tốc độ
tăng trưởng nhanh và bền vững, đẩy nhanh tiến trình tạo tiền đề cần thiết cho
công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tránh nguy cơ tụt hậu ngày
càng xa của nền kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Phương hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp là
tạo điều kiện để duy trì tăng trưởng với nhịp độ cao, hiệu quả và bền vững, thúc
đẩy các ngành khác và cả nền kinh tế phát triển, được thể hiện qua cơ cấu nội bộ
ngành phù hợp với trình độ công nghệ, tiềm năng, thế mạnh của ngành; năng
suất nhân tố tổng hợp, năng suất lao động, tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản
phẩm cao; có khả năng tiết kiệm năng lượng, sản xuất có tính cạnh tranh cao; cơ
cấu sản xuất công nghiệp hợp lý và tăng trưởng thân thiện với môi trường.
Cụ thể, phương hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công
nghiệp cần tập trung theo một số hướng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả của tăng trưởng bằng việc sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực của tăng trưởng như vốn, lao động nhằm cải thiện nhanh
chóng năng suất lao động.
123
Thứ hai, giảm chi phí trung gian trong quá trình sản xuất thông qua việc
nâng cao kỹ năng quản lý, sử dụng hiệu quả năng lượng, đẩy mạnh phát triển
công nghiệp hỗ trợ ở trong nước tạo nguyên liệu đầu vào với chi phí thấp hơn
cho các ngành công nghiệp có lợi thế phát triển của Việt Nam.
Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng của công nghiệp theo hướng tăng trưởng
theo chiều sâu, thể hiện ở đóng góp của yếu tố đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ
thuật cho tăng trưởng công nghiệp ngày càng lớn, nổi trội hơn đóng góp của các
yếu tố tăng trưởng khác. Tăng trưởng năng suất đạt được của một số ngành công
nghiệp chủ yếu nhờ vào sự cải thiện trong tiến bộ công nghệ, cải tiến kỹ thuật.
Việc nhận thức một cách thấu đáo vai trò của đổi mới công nghệ, chủ động quan
tâm đầu tư nghiên cứu công nghệ từ phía các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng
lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của mình, song song với việc ban hành các
chính sách từ phía nhà nước nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp khuyến khích đổi mới
công nghệ ở các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp sẽ là
rất quan trọng trong việc nâng cao khả năng đóng góp của công nghệ cho tăng
trưởng công nghiệp trong dài hạn, cải thiện cấu trúc tăng trưởng của công nghiệp
theo hướng tăng trưởng theo chiều sâu.
Thứ tư, cải thiện khả năng thu hút lao động song song với quá trình tăng
trưởng của ngành công nghiệp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lao động dồi
dào của Việt Nam, gia tăng đóng góp của lao động cho tăng trưởng của công
nghiệp, đồng thời cải thiện được ảnh hưởng lan tỏa của tăng trưởng công nghiệp
đối với nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Để đạt được như vậy,
việc cải thiện hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng tốt hơn yêu cầu
phát triển của công nghiệp trong thời gian tới trong bối cảnh Việt Nam ngày
càng tham gia sâu vào thực tế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay là
một giải pháp quan trọng.
Thứ năm, tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường đối với các lĩnh
vực sản xuất công nghiệp, mà trực tiếp từ phía các doanh nghiệp. Việc tuân thủ
124
Pháp luật bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, không chỉ riêng đối
với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất,
để cắt giảm chi phí, các doanh nghiệp thường lén lút xả các chất thải nguy hại
đến môi trường một cách trực tiếp mà chưa qua khâu xử lý, để lại những hậu quả
không nhỏ đối với môi trường sinh thái, môi trường sống và đến lượt nó, tác
động trở lại đối với sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp. Trong thời kỳ
hội nhập, đối với một số ngành công nghiệp, đảm bảo môi trường trong và ngoài
khu vực nhà máy cũng là một trong những tiêu chí quan trọng giúp nâng cao khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, việc tăng cường công tác tuyên
truyền, khuyến khích các doanh nghiệp có ý thức bảo vệ môi trường, đồng thời
đẩy mạnh hơn nữa hoạt động giám sát của các cơ quan chức năng đối với các
hành vi có thể có gây ô nhiễm môi trường của các doanh nghiệp là một việc làm
quan trọng.
4.3. Cá c giả i phá p chủ yếu nâng cao chấ t lươ ̣ng tăng trưở ng công nghiê ̣p
Viê ̣t Nam đến 2025 và tầm nhìn 2030
4.3.1. Nâng cao chất lượng chiến lược và Xây dựng Chiến lược công nghiệp 4.0
Như đã đề cập ở chương 3, chất lượng công tác định hướng phát triển
không cao xuất phát từ phương pháp, cách thức lập chiến lược và giám sát quá
trình thực hiện chiến lược, đã phần nào tác động tiêu cực tới chất lượng tăng
trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam. Nâng cao chất lượng công tác định
hướng phát triển ngành có thể là một giải pháp quan trọng cải thiện chất lượng
tăng trưởng của ngành này.
Về nhận thức, chiến lược phát triển ngành phải được hiểu là những định
hướng, mục tiêu, giải pháp lớn; kết hợp với việc luận chứng, đưa ra phương
hướng và mục tiêu phát triển và phân bố ngành hợp lý trên phạm vi cả nước và
trên các vùng lãnh thổ; phù hợp với chiến lược phát triển chung của cả nước và
trên các vùng lãnh thổ; có căn cứ khoa học, tránh chủ quan duy ý chí và phải có
tầm nhìn dài hạn phù hợp với đặc điểm phát triển của ngành, đồng thời phải có
125
bước đi cụ thể từng giai đoạn. Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố thị trường là
hết sức quan trọng đối với sự phát triển của các ngành sản phẩm, do vậy, khi xây
dựng cần coi trọng công tác dự báo bối cảnh, xu hướng phát triển công nghiệp
trong thời đại công nghiệp 4.0, đặc biệt là những dự báo về thị trường đối với
sản phẩm, về những ảnh hưởng của bối cảnh bên ngoài, của thị trường thế giới,
của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và những tác động của nó
đối với sự phát triển của ngành trong giai đoạn của chiến lược.
Trong bối cảnh công nghiệp 4.0, Chính phủ cần nhanh chóng chỉ đạo xây
dựng Chiến lược công nghiệp 4.0, lấy nền sản xuất thông minh làm yếu tố cốt
lõi để tăng năng suất lao động công nghiệp, làm động lực cho nâng cao chất
lượng tăng trưởng theo hướng phát triển công nghiệp hiệu quả, giảm chi phí
trung gian, và theo hướng xanh. Chiến lược công nghiệp 4.0 sẽ là yếu tố đột phá
trong tăng trưởng công nghiệp nói chung và tăng trưởng kinh tế cả nước nói
riêng trong thập kỷ tới.
Chiến lược công nghiệp 4.0 cần xác định rõ mục tiêu phát triển của công
nghiệp Việt Nam trong thời kỳ mới; xác định lại các lĩnh vực ưu tiên, các sản
phẩm chủ lực, sản phẩm cạnh tranh chiến lược phù hợp với thế mạnh của Việt
Nam.
Từ kết quả nghiên cứu ở chương 3, tác giả cho rằng các ngành sản phẩm
chủ lực phải là những ngành có mối tác động lan toả mạnh tới các ngành sản
xuất khác như công nghiệp điện tử, sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin, công
nghiệp chế tạo máy móc thiết bị, công nghiệp phục vụ chế biến nông sản.
Chiến lược cũng cần đưa ra được lộ trình nhanh hoàn thiện hệ thống cơ
chế chính sách nhằm thúc đẩy chuyển giao, ứng dụng và nghiên cứu phát triển
các công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Lĩnh vực dệt may đã bắt
đầu có các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ tự động hóa, xử lý dữ liệu lớn, trí
tuệ nhân tạo. Lĩnh vực nông nghiệp, công nghệ tự động hóa, bán tự động kết hợp
với công nghệ thông tin đã được ứng dụng ngày càng rộng rãi. Lĩnh vực dịch vụ,
126
đặc biệt ngành ngân hàng dự kiến giảm mạng lưới hoạt động truyền thống tại
các thành phố lớn để thay thế bằng các loại hình cung cấp dịch vụ điện tử… Bên
cạnh đó, nhằm tiếp cận và tận dụng thời cơ có từ Cách mạng công nghiệp 4.0,
cần định hướng chính sách, nội dung và phương pháp dạy nghề để tạo ra nguồn
nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới.
4.3.2. Nâng cao hiệu quả đầu tư
Để ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao và có chất lượng, Việt
Nam không những cần phải tăng vốn đầu tư mà quan trọng hơn, phải sử dụng
vốn có hiệu quả. Vốn đầu tư nhà nước tăng thêm chắc chắn không thể được
nhiều như yêu cầu. Do đó, một mặt, cần hết sức phát huy khả năng đầu tư của
nhân dân và kinh tế tư nhân, thu hút mạnh hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mặt
khác cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước, ngăn chặn tình
trạng đầu tư không hiệu quả, vốn đầu tư của nhà nước, ngăn chặn tình trạng đầu
tư không hiệu quả, vốn đầu tư bị đục khoét,… Đây là điều kiện cực kỳ quan
trọng cho tăng trưởng kinh tế.
4.3.2.1. Đối với nguồn vốn đầu tư nhà nước
Từ trước đến nay, cứ nói đến đầu tư nhà nước là nhiều người nghĩ đến
chuyện thất thoát, lãng phí. Vấn đề lãng phí, thất thoát trong xây dựng, đầu tư đã
được đề cập đến nhiều trong các trang báo, trong các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo
của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội. Theo báo cáo, trong những năm
trước mắt, đầu tư Nhà nước sẽ tiếp tục tăng, chiếm gần một nửa tổng đầu tư toàn
xã hội. Do đó, việc chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước có ý
nghĩa tiên quyết đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Vấn đề cần được làm rõ là
nguồn vốn đầu tư của nhà nước đã được đầu tư đúng hướng? Phân định trách
nhiệm từ người quyết định đầu tư, người trực tiếp quản lý, sử dụng và khai thác,
chấm dứt tình trạng người đầu tư không có trách nhiệm gì, khoản chi phí tiêu
cực cho người quản lý công trình. Để nâng cao hiệu quả đầu tư vốn, chống thất
thoát nguồn vốn của Nhà nước, cần có những giải pháp sau:
127
Tăng cường và đổi mới công tác quản lý nhà nước về đầu tư, triệt để tuân
thủ các quy định của các bộ luật về đầu tư công, đấu thầu, xây dựng và luật
Ngân sách nhà nước 2015, đặc biệt trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, tách
chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh trong xây dựng ở từng bộ,
từng tỉnh, thành phố ở tất cả các khâu. Việc tăng cường công tác quản lý đầu tư
đối với các nguồn vốn nhà nước cần được quan tâm hơn nữa.
Xác định đầy đủ trách nhiệm và thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư,
vai trò của chủ đầu tư và chỉ đạo thực hiện nghiêm ngặt luật đầu tư và xây dựng,
đặc biệt là luật đầu tư công, luật đấu thầu, luật xây dựng, v.v.
Khắc phục tình trạng tiêu cực lãng phí, thất thoát trong đầu tư bao gồm
các khâu thông qua chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thẩm định và phê duyệt
quyết định đầu tư, tổ chức đấu thầu, triển khai thực hiện dự án, theo dõi và đánh
giá dự án. Người có thẩm quyền quyết định ở các khâu chịu trách nhiệm về các
quyết định của mình.
Củng cố và chấn chỉnh lại các cơ quan quản lý đầu tư, các ban quản lý dự
án; các chủ đầu tư thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thực hiện các công trình
đầu tư; rà soát, sắp xếp lại các tổ chức tư vấn đầu tư, v.v. những đơn vị nào
không đủ tiêu chuẩn thì kiên quyết giải thể; nâng cao chất lượng các báo cáo
nghiên cứu khả thi.
Tăng cường công tác giám sát đầu tư, kiểm tra, kiểm soát ở tất cả các
ngành, các cấp, phát hiện và xử ý những hành vi vi phạm các quy định về quản
lý đầu tư, nhằm kịp thời ngăn chặn tiêu cực, thất thoát trong đầu tư.
4.3.2.2. Đối với nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước
Đầu tư vốn cho khu vực doanh nghiệp nhà nước nhất thiết phải xác định
và tuân thủ triệt để nguyên tắc là doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động có hiệu
quả trong cơ chế thị trường; triển khai luật tiết kiệm chống lãng phí; hoàn thiện
quy chế trách nhiệm chủ đầu tư, xúc tiến nhanh việc tổ chức thiết kế thi công
của nhà nước thành công ty để dân cư có thể giám sát.
128
Từng bước thực hiện đầu tư thay cho phương thức đầu tư chủ quan,
chuyển mối quan hệ chủ hành chính sang quan hệ tài chính kinh tế; xóa bỏ bao
cấp, độc quyền, nâng cao tự chủ, chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh bình đẳng; cần khẳng định
rằng chỉ ràng buộc doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh trên thị trường thì lúc đó
mới hi vọng đầu tư của các doanh nghiệp này có hiệu quả.
4.3.2.3. Đối với nguồn vốn ngoài khu vực nhà nước
Để thực sự nâng cao hiệu quả đầu tư, một biện pháp rất hữu hiệu là
khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài. Thực tế
cho thấy kinh tế nhiều thành phần, bình đẳng, các thành phần liên kết không
phân biệt đối xử, không đặc quyền đặc lợi cho quốc doanh là nền tảng vững chắc
nhất để phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, một khía cạnh rất quan trọng đối với các doanh nghiệp là
việc đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả đầu tư. Đây là mục tiêu rất quan trọng,
ảnh hưởng đến khả năng tái tạo vốn cho chính doanh nghiệp.
4.3.3. Khuyến khích ứng dụng khoa học-công nghệ
Thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của các
doanh nghiệp:
- Tiếp tục thực hiện những cải cách kinh tế vĩ mô, cải cách cơ cấu, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng tạo môi trường pháp lý kinh doanh
cạnh tranh bình đẳng, nhằm tạo sức ép cạnh tranh trên thị trường, để doanh
nghiệp chú ý tới đổi mới công nghệ, để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả sản
xuất.
- Tiếp tục triển khai nhanh, kiên quyết và hiệu quả các định hướng sắp
xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết giảm bao cấp, giảm bảo hộ
độc quyền đối với doanh nghiệp nhà nước, tăng cường công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhà nước.
- Nâng cao đóng góp của đầu tư nước ngoài trong thúc đẩy đầu tư đổi mới
công nghệ và chuyển giao công nghệ theo hướng: Khuyến khích đầu tư nước
129
ngoài đổi mới công nghệ và thực hiện các hoạt động nghiên cứu triển khai ở
Việt Nam; khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên kết với các
tổ chức nghiên cứu khoa học, công nghệ trong nước đầu tư đổi mới công nghệ;
tạo điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được góp vốn cổ
phần vào các công ty đầu tư mạo hiểm, vào các doanh nghiệp khoa học công
nghệ, giống như các doanh nghiệp trong nước; thúc đẩy mối liên kết bạn hàng
giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia đầu tư đổi công nghệ
trong sản xuất, thông qua các hình thức như: hỗ trợ vốn để thực hiện các dự án
đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, hỗ trợ chuyên gia tư vấn thực hiện các
dịch vụ như dịch vụ công nghệ, dịch vụ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao
công nghệ, dịch vụ thông tin công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ,
… hỗ trợ các hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ tổ chức các hoạt động tuyên
truyền, thông tin về công nghệ, đổi mới công nghệ.
Hình thành thị trường các sản phẩm khoa học công nghệ và hỗ trợ thị
trường này phát triển:
Những cơ chế, chính sách và biện pháp nên tập trung theo hướng: xây
dựng đầy đủ các thể chế để thị trường vận hành thông suốt, cởi bỏ những yếu tố
hạn chế các chủ thể tiềm năng tham gia thực hiện các giao dịch chính thức trên
thị trường và hỗ trợ các chủ thể tham gia về vốn tài chính, vốn con người, về
thông tin. Tuy nhiên, trước mắt, vấn đề quan trọng cần được tập trung là cải
thiện công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ:
- Nâng cao ý thức tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ thông qua tuyên truyền
và nâng cao hiệu lực của pháp luật: tổ chức tốt việc tuyên truyền, phổ biến thông
tin bằng nhiều hình thức về hệ thống pháp luật liên quan tới sở hữu trí tuệ cho
các đối tượng có liên quan; tạo thói quen trong xã hội về thực hiện theo pháp
luật các giao dịch về công nghệ, chuyển giao công nghệ.
130
- Rà soát, sớm sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới những văn bản dưới
luật liên quan tới các vấn đề hiện đang bức xúc như: các giao dịch, hợp đồng
mua bán, chuyển giao công nghệ, cơ sở tính giá công nghệ; ban hành quy định
về cơ chế phân định quyền sở hữu và cơ chế phân bổ lợi ích đối với sản phẩm
công nghệ được hình thành từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, từ nguồn vốn do
nhiều bên đóng góp để tạo ra sản phẩm đó;
- Nâng cao hiểu biết và năng lực của cán bộ trong việc phát hiện các hành
vi vi phạm, cũng như liên quan đến hoạt động giải quyết tranh chấp về sở hữu trí
tuệ; vận hành có hiệu quả và hiệu lực thể chế xử lý các vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ, thực hiện bảo vệ có hiệu quả trên thực tế quyền lợi của các cá nhân, tổ chức
đối với tài sản trí tuệ được pháp luật công nhận.
- Khuyến khích các tổ chức khoa học công nghệ tham gia thực hiện các
giao dịch chính thức trên thị trường khoa học công nghệ; đổi mới cơ chế hoạt
động của các tổ chức nghiên cứu và triển khai theo hướng xóa dần cơ chế bao
cấp, quản lý hành chính, chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường. Trong đó,
các tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ hoạt động như một doanh nghiệp
phi lợi nhuận.
4.3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Phát triển con người là yếu tố quan trọng bậc nhất để đảm bảo tăng trưởng
kinh tế và giảm nghèo. Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, của các doanh
nghiệp và điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong những
thập kỷ tới phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển con người ở mỗi nước.
Bởi vậy, cần có những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo như
sau:
Giải pháp then chốt là đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước
trong giáo dục đào tạo; cải cách giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống giáo
dục gắn kết với yêu cầu phát triển của các ngành; đẩy mạnh đổi mới nội dung,
chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với thực
131
tiễn Việt Nam cùng với đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; kiên quyết giảm hợp lý
nội dung chương trình học tập cho phù hợp với tâm sinh lý của học sinh cấp tiểu
học, trung học cơ sở, xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo.
Khẩn trương triển khai đề án phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; cơ cấu lại hệ thống đào tạo, hoàn thiện hệ
thống đào tạo thực hành định hướng nghề nghiệp. Khuyến khích cạnh trạnh lành
mạnh, tạo cơ chế và điều kiện để các trường đại học và các trường dạy nghề
chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Đổi mới
cơ chế, chính sách tạo kinh phí cho giáo dục và đào tạo; xác định công khai và
phù hợp phần đóng góp của người học, kiên quyết đấu tranh khắc phục các tiêu
cực trong dạy và học; đồng thời có chính sách đảm bảo cho con các đối tượng
nghèo cũng có điều kiện theo học tập.
Tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp bao gồm cả tái đào tạo nghề,
nhằm giúp cho người lao động trong độ tuổi lao động có thể dễ dàng thích ứng
với những đòi hỏi thường xuyên biến chuyển của thị trường lao động. Nhằm
mục đích thu hẹp dần khoảng cách giữa đầu ra của đạo tạo với nhu cầu hiện có
của thị trường lao động, các biện pháp cần sớm được thực hiện là: (i) xác định rõ
ràng các lĩnh vực ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu người lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật để tăng cường đầu tư, hỗ trợ; (ii) tiêu chuẩn hóa
các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng, với những chỉ tiêu
chất lượng được quy định rõ ràng, (iii) phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bên
tham gia thị trường lao động (các doanh nghiệp có nhu cầu lao động, các cơ
quan đào tạo, bồi dưỡng tay nghề) trong quá trình hoạch định các chính sách về
đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực.
Tăng cường hợp tác với nước ngoài và thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh
vực đào tạo sau đại học, sau đại học và đào tạo nghề; khuyến khích, tạo điều
kiện cho học sinh, sinh viên ra nước ngoài học tập, đi đôi với tăng cường quản lý
công tác lưu học sinh.
132
Tăng cường đầu tư cho giáo dục bằng nhiều nguồn khác nhau, trong đó
đầu tư từ ngân sách nhà nước cần tăng lên; đồng thời huy động nhiều hơn, tốt
hơn sức dân thông qua đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập.
4.3.5. Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường
Nhiều năm qua, do quá quan tâm đến mục tiêu tăng trưởng mà chú ta
quan tâm chưa đúng mức vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. Tình trạng ô
nhiễm môi trường đô thị, hồ ao, sông biển đã đến mức báo động. Hậu quả của
nó đối với quá trình phát triển là nặng nề. Việt Nam cần tránh quan điểm tăng
trưởng trước, khắc phục hậu quả ô nhiễm sau mà một số nước đã gặp phải trong
thời gian qua.
Giáo sư Joshep E. Stiglitz trong chuyến thăm Việt Nam đã nhấn mạnh
“trong vòng 15 năm qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật về tăng
trưởng kinh tế, tuy nhiên hàng loạt thách thức đã và đang được đặt ra với Việt
Nam nhằm duy trì sự tăng trưởng như đảm bảo môi trường sinh thái, kinh tế xã
hội, Việt Nam sẽ bước vào một giai đoạn vô cùng khó khăn cần nhiều các yếu tố
môi trường. Nếu các tác động về môi trường không được tính toán đầy đủ trong
các chính sách thì ảnh hưởng có thể sẽ rất thảm khốc và tăng trưởng sẽ không
bền vững”.
Ngay từ bây giờ phải đặt vấn đề môi trường trong các chiến lược phát
triển, lựa chọn giải pháp thiết thực làm cho kinh tế, xã hội và môi trường phát
triển hài hòa, thực sự coi môi trường là một quốc sách cơ bản. Để đạt được mục
tiêu đó, yêu cầu trọng điểm là trong xây dựng, công nghiệp và đổi mới kỹ thuật,
khởi điểm kỹ thuật phải cao, phải phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa, phải lựa
chọn công nghệ kỹ thuật tiêu hao nguyên vật liệu thấp, gây ô nhiễm ít, hiệu quả
cao, thực hiện sản xuất sạch, kiên quyết loại bỏ các công nghệ tiêu hao năng
lượng và nhiều nguyên vật liệu, tăng cường sử dụng năng lượng sạch, xử lý
nước thải, tích cực thay đổi tình trạng thải bừa bãi gây ô nhiễm môi trường như
hiện nay. Trong đầu tư bảo vệ môi trường, phải không ngừng nâng cao đầu tư
133
cho môi trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, tỷ lệ đầu tư cho môi
trường chiếm 0,5% GDP là thấp mà phải là từ 1-1,5% GDP đầu tư cho môi
trường mới là hợp lý. Về mặt môi trường sinh thái, phải tiếp tục duy trì việc tiếp
tục đẩy mạnh mở rộng diện tích che phủ rừng, nhằm tăng cường bảo vệ môi
trường sinh thái, hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế.
4.3.6. Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam
Thực tế chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong
thời gian qua đã cho thấy việc các ngành công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển đã
ngày càng làm tăng chi phí trung gian trong sản xuất của ngành này, giảm khả
năng tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giảm khả năng cạnh tranh,
đồng thời khiến sản xuất công nghiệp phụ thuộc quá lớn vào biến động của giá
nguyên liệu đầu vào ở thị trường nước ngoài. Việc thúc đẩy phát triển các ngành
công nghiệp hỗ trợ trong nước đến lượt nó cũng sẽ góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp theo hướng hợp lý hơn trong thời gian tới.
Phát triển công nghiệp phụ trợ là khâu đột phá để phát triển nhanh và bền
vững các ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030, gắn với
phân công hợp tác quốc tế và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở
chọn lọc, dựa trên tiềm năng, lợi thế so sánh của Việt Nam, với công nghệ tiên
tiến có tính cạnh tranh quốc tế cao, gắn liền với mục tiêu nâng cao giá trị gia
tăng trong nước đối với sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, và phấn đấu trở thành
một bộ phận trong dây chuyền sản xuất quốc tế.
Để phát triển được các ngành công nghiệp phụ trợ, các giải pháp sau đây
nên được thực thi:
Thứ nhất, các giải pháp tạo dựng môi trường đầu tư, khuyến khích phát
triển sản xuất kinh doanh
- Xây dựng các chương trình phát triển từng nhóm sản phẩm hỗ trợ để thu
hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
134
- Khuyến khích hình thành các khu, cụm công nghiệp sản xuất linh kiện,
phụ tùng, nguyên vật liệu phụ trợ cho các ngành công nghiệp. Phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ tham gia sản xuất sản phẩm hỗ trợ, cung ứng nguyên phụ liệu
cho sản xuất hỗ trợ.
- Tiếp tục đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh
tiến trình cổ phần hoá để nâng cao tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp này và thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác.
- Tập trung phát triển các ngành, các sản phẩm công nghiệp ưu tiên, công
nghiệp mũi nhọn tạo nền tảng để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh
phát triển công nghiệp hỗ trợ.
- Tiếp tục quá trình cải cách hành chính, nâng cao tính minh bạch của môi
trường sản xuất kinh doanh để phát triển thêm nhiều doanh nghiệp mới theo mục
tiêu đã đề ra, cũng như thu hút ở mức độ cao đầu tư nước ngoài vào phát triển
công nghiệp, trong đó có công nghiệp hỗ trợ.
- Có chính sách khuyến khích đầu tư, khuyến khích chuyển giao công
nghệ, bảo hộ bản quyền sở hữu trí tuệ, hỗ trợ tìm kiếm, điều tiết thị trường, tạo
mặt bằng, nhà xưởng cho thuê để sản xuất kinh doanh đối với các công ty, tập
đoàn nước ngoài, cũng như các doanh nghiệp nội địa để phát triển công nghiệp
hỗ trợ.
- Tổ chức và hỗ trợ thành lập các trung tâm tiếp thị tìm kiếm thị trường
tiêu thụ và đối tượng cung cấp sản phẩm hỗ trợ trong và ngoài nước, làm cầu nối
giữa các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là
giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa.
- Thành lập và đưa vào hoạt động một số trang web chuyên ngành công
nghiệp hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
- Tăng cường công tác thống kê, xây dựng cơ sở dữ liệu về các doanh
nghiệp sản xuất hỗ trợ để làm cơ sở cho việc giới thiệu, tìm kiếm các mối liên
kết ngang.
135
Thứ hai, các giải pháp về khoa học - công nghệ
- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế
làm căn cứ cho việc định hướng phát triển. Hỗ trợ phát triển và nâng cấp các tổ
chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm hỗ trợ thuộc nhiều thành phần
kinh tế đạt trình độ quốc tế.
- Thực hiện các Chương trình đầu tư từ nguồn vốn ODA cho các khoa
chuyên ngành của trường đại học và cao đẳng để hoàn thiện công nghệ cơ bản...
gắn kết các cơ sở đào tạo với các hoạt động của doanh nghiệp, đổi mới trang
thiết bị, chương trình đào tạo.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển
giao công nghệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất
tại Việt Nam. Hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
phát triển công nghiệp hỗ trợ.
- Khuyến khích các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may, da giày, cơ
khí, công nghệ… triển khai nghiên cứu, thực nghiệm các đề tài, dự án gắn với
nhu cầu phát triển sản xuất các chủng loại vật liệu, chi tiết, linh phụ kiện, phụ
tùng… phục vụ phát triển công nghiệp hỗ trợ.
- Giành đủ kinh phí cho các Bộ, ngành triển khai xây dựng các tiêu chuẩn
ngành và tiêu chuẩn cơ sở liên quan tới các sản phẩm hỗ trợ.
Thứ ba, các giải pháp về hạ tầng cơ sở để phát triển công nghiệp hỗ trợ
- Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các cơ sở giao thông, vận tải như các
bến cảng, sân bay, đường sắt, đường bộ, giao thông đô thị. Hình thành các kho
tàng, điểm tập trung hàng hoá ở các vùng kinh tế trọng điểm để gia tăng điều
kiện phát triển công nghiệp.
- Tập trung xây dựng một số khu, cụm công nghiệp hỗ trợ có trang thiết
bị, công nghệ tiên tiến gắn với các vùng có các ngành công nghiệp chính phát
triển.
Thứ tư, các giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực
136
- Tăng cường đào tạo cán bộ kỹ thuật các ngành thiết kế (bao gồm cả thiết
kế mẫu mốt, thời trang, kiểu dáng công nghiệp), chế tạo máy, luyện kim, điều
khiển tự động, điện tử tin học để làm chủ các công nghệ được chuyển giao,
nghiên cứu thiết kế tạo ra công nghệ nguồn và kiểu dáng sản phẩm riêng của
Việt Nam.
- Thu hút sự hỗ trợ của Chính phủ các nước phát triển như Nhật Bản,
EU... để đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hỗ trợ. Đặc biệt khuyến khích
các doanh nghiệp FDI tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực.
- Tạo điều kiện đầu tư trang thiết bị cho các cơ sở nghiên cứu, chủ động
đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên ngành, cũng như hợp tác nghiên cứu với các đối
tác nước ngoài trong một số chương trình đào tạo nguồn nhân lực để phát triển
công nghiệp hỗ trợ.
Thứ năm, các giải pháp về liên kết doanh nghiệp
- Kết nối các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa trong việc
phát triển sản xuất hỗ trợ thông qua các chương trình giới thiệu nhu cầu phát
triển và sử dụng sản phẩm hỗ trợ và hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp
FDI với các doanh nghiệp nội địa.
- Xây dựng các chương trình hợp tác dài hạn với các đối tác chiến lược-
các công ty, tập đoàn đa quốc gia về phát triển công nghiệp nói chung và công
nghiệp hỗ trợ nói riêng ở Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020 và tầm nhìn
đến 2030.
- Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của các Viện nghiên cứu chuyên
ngành để làm cầu nối giữa nghiên cứu - thiết kế - ứng dụng, gắn quá trình
nghiên cứu với chuyển giao đưa vào sản xuất.
- Xây dựng một số trung tâm hỗ trợ công nghiệp phụ trợ, các chương trình
phát triển công nghiệp phụ trợ dài hạn nhằm tập trung nỗ lực của Nhà nước cho
các hoạt động nghiên cứu phát triển, nghiên cứu ứng dụng, hỗ trợ đầu tư từ các
quỹ phát triển công nghiệp phụ trợ, hỗ trợ về lãi suất tín dụng đối với các nguồn
137
vốn từ các quỹ này để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ trong danh mục
hỗ trợ và thúc đẩy liên kết ngành sản xuất phụ trợ trong nước.
- Củng cố và nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành nghề, các tổ chức
Chính phủ và phi Chính phủ làm đầu mối liên kết doanh nghiệp. Đổi mới cơ chế
tổ chức và hoạt động của các Hiệp hội ngành nghề để có thể đóng vai trò đại
diện cho ngành tìm kiếm, tiếp nhận tài trợ của Chính phủ và của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước thực hiện các giải pháp phát triển ngành, đầu mối xúc
tiến đầu tư, phát triển thị trường, đề xuất các cơ chế chính sách phát triển công
nghiệp hỗ trợ.
- Thường xuyên tổ chức và nâng cao tính chuyên nghiệp của các hội chợ,
chợ công nghệ, triển lãm và các hội thảo chuyên đề phát triển công nghiệp hỗ trợ
cho từng lĩnh vực sản phẩm riêng biệt.
Thứ sáu, Các giải pháp về tài chính
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng
tiếp cận được với nguồn vốn vay dài hạn cho đầu tư phát triển. Nghiên cứu kinh
nghiệm của Nhật Bản để thành lập hệ thống ngân hàng phục vụ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, cơ chế bảo lãnh tín dụng khi thu hồi thông qua các tài khoản
phải thu và thế chấp các tài khoản phải thu khi vay vốn của các tổ chức tín dụng
Nhà nước.
- Tạo điều kiện về nguồn vốn cho các hoạt động khuyến công, hỗ trợ phát
triển khoa học - công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đầu tư
nghiên cứu và phát triển sản xuất hỗ trợ.
- Phát triển mạnh cách thức thuê mua tài chính trong mua sắm máy móc,
thiết bị, công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ để nâng cao khả năng
phát triển và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này. Sử dụng vốn ODA để hỗ
trợ đào tạo lao động, xây dựng thể chế pháp lý và các chương trình phát triển
công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp vừa và nhỏ, chương trình hợp tác với các công
ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
138
4.3.7. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
Như phân tích ở chương 3, tiến trình cổ phần hóa diễn ra chậm được coi là
một nhân tố làm giảm hiệu quả của tăng trưởng công nghiệp Việt Nam. Chương
trình cổ phần hóa của Việt Nam còn nhiều bất cập, những bất cập này chỉ có thể
được hoàn thiện bằng những biện pháp toàn diện và hệ thống. Các giải pháp để
đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa có thể là:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách liên
quan đến cổ phần hóa để phù hợp với tình hình thực tế phát sinh. Bên cạnh đó,
tiếp tục hoàn chỉnh bổ sung chức năng nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương,
tập đoàn, tổng công ty theo hướng phải nghiên cứu rà soát lại Nghị định
99/2012/NĐ-CP. Phân công, phân cấp, phân quyền cho các bộ ngành địa
phương, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong vấn đề chủ sở hữu và đại
diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Tăng cường kiểm tra giám sát, cổ phần hóa và
thoái vốn, đảm bảo tiến độ và hiệu quả. Phải thực hiện đồng bộ vấn đề tái cơ cấu
lại thị trường tài chính để góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nói
chung và trong đó có tái cơ cấu DNNN, đặc biệt là cổ phần hóa các doanh
nghiệp này.
Thứ hai, minh bạch hóa cổ phần hóa. Cố gắng đảm bảo tính minh bạch
trong suốt quá trình cổ phần hóa. Mục đích của quá trình này là cung cấp thông
tin một cách trung thực, chính xác và kịp thời cho các nhà đầu tư tiềm năng bên
ngoài, nhờ đó giảm lợi thế thông tin bất cân xứng của ban giám đốc và những
nhân viên bên trong DNNN. Sự minh bạch này sẽ giảm thiểu nguy cơ cổ phần
hóa dưới giá và khép kín-những điều kiện thuận lợi dẫn đến tham nhũng và bất
bình đẳng trong quá trình cổ phần hóa DNNN.
Thứ ba, định giá doanh nghiệp một cách chính xác. Đây là một giải pháp
nhằm hạn chế khả năng và phạm vi của giao dịch dưới giá và nội bộ. Hơn nữa,
nó còn giúp bảo vệ tài sản công và giảm khoảng cách của bất bình đẳng kinh tế
gây ra bởi việc cổ phần hóa nội bộ. Các giải pháp thị trường như đấu giá công
139
khai thông qua thị trường chứng khoán và kiểm toán độc lập nên được sử dụng
khi định giá DNNN.
Thứ tư, cần đặt ra và thực thi chính sách cạnh tranh một cách đúng đắn.
Cải thiện hiệu quả kinh tế thông qua cổ phần hóa DNNN và thích nghi với cạnh
tranh là hai trong số các nhiệm vụ quan trọng của một nền kinh tế đang chuyển
đổi. Các DNNN hậu cổ phần hóa được kỳ vọng là sẽ hoạt động hiệu quả hơn,
bình đẳng hơn với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhằm đạt
được hiệu quả kinh tế cao nhất của phần vốn nhà nước cũng như của các cổ
đông khác, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho nền công nghiệp nước nhà.
140
KẾT LUẬN
Ngành công nghiệp có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế
Việt Nam xuất phát từ những lợi thế hơn hẳn về tốc độ tăng trưởng, trình độ mở
rộng quy mô. Sự phát triển của công nghiệp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhu cầu tư liệu sinh hoạt cho nhân dân, tăng kim
ngạch xuất khẩu, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa đất nước. Trong thời đại toàn
cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp càng có vị trí quyết định, tạo ra
tiền đề vật chất đảm bảo nâng cao nhịp độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi vậy, làm thế nào để nâng cao chất lượng
tăng trưởng của ngành công nghiệp là vấn đề thu hút được sự quan tâm của các
cấp, các ngành, cũng như các nhà nghiên cứu kinh tế.
Chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp là khái niệm phản ánh nội
dung bên trong của quá trình tăng trưởng, biểu hiện ở phương tiện, phương thức,
mục tiêu và hiệu ứng đối với môi trường chứa đựng tăng trưởng ấy. Chất lượng
tăng trưởng cao của ngành công nghiệp là sự tăng trưởng với nhịp độ cao, hiệu
quả và bền vững của ngành được thể hiện qua cơ cấu nội bộ ngành phù hợp với
trình độ công nghệ, tiềm năng, thế mạnh của ngành; năng suất nhân tố tổng hợp,
năng suất lao động, tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản phẩm cao; có khả năng
tiết kiệm năng lượng, sản xuất có tính cạnh tranh cao; không ngừng nâng cao vị
trí của các phân ngành công nghiệp trong chuỗi giá trị toàn cầu và có khả năng
bảo vệ môi trường. Các tiêu chí để đánh giá chất lượng tăng trưởng của ngành
công nghiệp có thể là phân thành ba nhóm: (1) Các tiêu chí đánh giá cấu trúc của
tăng trưởng; (2) Các tiêu chí đánh giá hiệu quả đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng
và (3) Các tiêu chí đánh giá tác động lan toả của tăng trưởng tới nền kinh tế.
Khảo cứu tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam thông qua một số
tiêu chí nêu trên trong giai đoạn 1996-2005 và 2006-2015 cho thấy một bức
tranh khá rõ về chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam. Thứ
nhất, tăng trưởng công nghiệp đạt tốc độ cao nhưng hiệu quả tăng trưởng thấp,
141
thể hiện ở năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư không cao, tỷ lệ
giá trị gia tăng trong giá trị tổng sản lượng thấp và ngày càng giảm do cơ cấu sản
xuất công nghiệp chưa hợp lý, chưa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam
trong sản xuất công nghiệp. Thứ hai, cấu trúc tăng trưởng công nghiệp là chưa
hợp lý cả về chiều rộng lẫn chiều sâu mà biểu hiện là các ngành công nghiệp sử
dụng nhiều lao động phát triển không đạt hiệu quả như mong đợi, không thu hút
được lực lượng lao động dồi dào của nền kinh tế, giá trị gia tăng không cao khi
chỉ tham gia vào những công đoạn sản xuất có tỷ lệ giá trị gia tăng thấp nhất; và
đóng góp của công nghệ, cải tiến kỹ thuật cho tăng trưởng còn kém. Cuối cùng,
mặc dù tăng trưởng công nghiệp đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng chung
của nền kinh tế, giải quyết việc làm và gia tăng xuất khẩu, nhưng đóng góp của
công nghiệp cho tăng trưởng chung của nền kinh tế có xu hướng giảm dần do
hiệu quả sản xuất thấp; đồng thời thành quả tăng trưởng cao của công nghiệp
không thân thiện với môi trường đã là một trong những nguyên nhân chủ yếu
gây nên tình trạng suy thoái môi trường tự nhiên ở Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng của tình trạng chất lượng tăng
trưởng chưa cao của ngành công nghiệp Việt Nam. Đáng kể nhất là chất lượng
quy hoạch công nghiệp thấp; các ngành công nghiệp chậm phát triển, nguồn
nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghiệp trong thời kỳ hội
nhập; trình độ công nghệ và nhận thức về vai trò của đổi mới công nghệ đối với
nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh, tăng hiệu qủa của sản
xuất công nghiệp là chưa đồng đều và chưa thấu đáo; và tiến trình cổ phần hóa
các doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm.
Do vậy, nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt Nam trở thành
yêu cầu bức bách nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao, gia tăng đóng góp của
ngành cho tăng trưởng chung của nền kinh tế, làm động lực cho sự phát triển của
các ngành kinh tế khác, thúc đẩy phát triển kinh tế và tránh nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới của Việt Nam. Để
142
làm được điều đó, một số gợi ý giải pháp đưa ra có thể là: (1) Nâng cao chất
lượng quy hoạch phát triển ngành công nghiệp; (2) nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư trong sản xuất công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế; (3) Khuyến
khích ứng dụng và đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp; (4) Đầu tư nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng tốt hơn yêu cầu về nhân lực trong phát
triển công nghiệp; (5) Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường; (6) Khuyến
khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ nhằm cải thiện tỷ lệ giá trị gia
tăng trong tổng sản lượng công nghiệp do phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu
đắt đỏ ở thị trường thế giới; và cuối cùng (7) Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa
các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận
doanh nghiệp này, góp phần tạo một sân chơi bình đẳng, có tác dụng khuyến
khích các doanh nghiệp công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế cùng phát triển.
Chất lượng chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp là một vấn đề
lớn, phức tạp. Ngành công nghiệp là một khối ngành rộng với nhiều phân ngành
có những đặc thù riêng. Việc nghiên cứu và nhận dạng chất lượng tăng trưởng
của khối ngành này một cách thấu đáo đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và sự
khảo cứu tỉ mỉ hơn nữa ở từng phân ngành công nghiệp. Chủ đề nghiên cứu thì
phức tạp, chắc chắn rằng, luận án sẽ còn có nhiều điểm khiếm khuyết. Việc
nghiên cứu sâu hơn, bao quát hơn về vấn đề này sẽ được tiến hành ở những công
trình nghiên cứu tiếp theo.
* * *
143
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1) Chất lượng tăng trưởng công nghiệp Hà Nội-Những rào cản và khuyến
nghị chính sách, sách tham khảo, NXB Dân trí, 7/2017.
2) Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, số tháng 5/2017.
3) Chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt Nam-Một số đánh giá ban đầu,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
NXB Văn hoá Thông tin, 2013.
4) Chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt Nam, một số chỉ tiêu đánh giá
chủ yếu, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2/2010.
144
TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Vũ Thành Tự Anh (2005), Cổ phần hóa ở Việt Nam: Khúc dạo đầu của cuộc
trường chinh”, Báo Tia sáng số tháng 5.
2. Nguyễn Thị Tuệ Anh và Lê Xuân Bá (2005), Chất lượng tăng trưởng kinh
tế-Một số đánh giá ban đầu cho Việt Nam, NXB Thống kê, Hà nội.
3. Đinh Văn Ân (2008), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội tốc độ
nhanh, bền vững, chất lượng cao ở Việt Nam”, NXB Thống kê, Hà nội.
4. Bộ Công thương (2016), Các giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ, Kỷ
yếu hội thảo khoa học.
5. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (2005), Chính sách công nghiệp và
Tài chính ở Trung Quốc và Việt Nam: Mô hình mới hay chỉ là sự lặp lại kinh
nghiệm của Đông Á?, Bài đọc.
6. Diễn đàn Kinh tế-Tài chính Việt-Pháp (2004), Vì một sự tăng trưởng và một
xã hội công bằng, Báo cáo tổng kết, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.
7. Nguyễn Thị Kim Dung (2006), Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
tăng trưởng kinh tế Việt Nam đến năm 2010, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
8. Trần Thọ Đạt (2005), Các mô hình tăng trưởng kinh tế, NXB Thống kê, Hà
nội.
9. Trần Thọ Đạt (2007), Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
NXB Thống kê, Hà nội.
10. Đại học Kinh tế quốc dân (2011), Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế.
11. Đại học Kinh tế quốc dân (2015), Phát triển cụm ngành công nghiệp trong
điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài thuộc chương trình
Khoa học – Công nghệ cấp Nhà nước.
145
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2016-
2020, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
13. Thomas L. Friedman (2006), Thế giới phẳng. Tóm lược Lịch sử Thế giới Thế
kỷ 21, NXB Trẻ, TP. HCM.
14. Đào Văn Hùng (2014), Cải cách hệ thống tài chính thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, Đề án nghiên cứu cấp Bộ, Học viện Chính sách và Phát
triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
15. Đào Văn Hùng, Lê Huy Đoàn & các cộng sự (2014), Đánh giá kế hoạch phát
triển 5 năm 2011-2015 và các hoạt động hợp tác quốc tế của Việt Nam và 63
tỉnh, thành, Báo cáo cuối, Dự án Quốc tế, Học viện Chính sách và Phát triển
kết hợp với KOICA Việt Nam.
16. Đào Văn Hùng (2012), Thách thức kinh tế vĩ mô đối với nền kinh tế và doanh
nghiệp, NXB Thống kê, Hà nội.
17. Cù Chí Lợi (chủ biên) (2009), Tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng ở Việt
Nam, Viện Khoa học xã hội nhân văn, Hà nội.
18. Nguyễn Khắc Minh (2005), Ảnh hưởng của tiến bộ công nghệ đến tăng
trưởng kinh tế, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội.
19. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2003), Một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.
20. Đỗ Hoài Nam và Trần đình Thiên (chủ biên) (2009), Mô hình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Chính
trị quốc gia, Hà nội.
21. Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt (2006), Tốc độ và chất lượng tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà nội.
22. Ngân hàng thế giới (2016), Các chỉ tiêu phát triển thế giới năm 2015, Cơ sở
dữ liệu.
146
23. Kazushi Ohkawa và Hirohisa Kohama (2004), Kinh nghiệm công nghiệp hóa
của Nhật Bản và sự thích dụng của nó đối với các nền kinh tế đang phát
triển, NXB Khoa học xã hội, Hà nội.
24. Kenichi Ohno, Nguyễn Văn Thường (2005), Hoàn thiện Chiến lược Phát
triển Công nghiệp Việt Nam, NXB Lý luận Chính trị, Hà nội.
25. Lê Du Phong và Nguyễn Thành Độ (1999), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.
26. Nguyễn Ngọc Sơn (2009), Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt
may, Tạp chí Kinh tế và Phát triển.
27. Hoàng Đức Thân và Đinh Quang Ty (2010), Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ
công bằng xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.
28. Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, NXB
Khoa học Xã hội, Hà nội.
29. Bùi Trinh và các cộng sự (2007), Phân tích cơ cấu kinh tế Việt Nam dựa vào
bảng cân đối liên ngành 1989-1996-2000, Hội nghị lần thứ 18, Hiệp hội châu
á Thái Bình Dương về nghiên cứu bảng I-O, Chukyo University.
30. Bùi Trinh và các cộng sự (2012), Cơ cấu kinh tế mới của Việt Nam hướng tới
một sự tăng trưởng bền vững đến năm 2020, Tạp chí toàn cầu về khoa học
Kinh tế xã hội và chính trị, số 10.
31. Bùi Trinh, Bùi Bá Cường, Dương Mạnh Hùng (2004), Phương pháp phân
tích kinh tế và môi trường thông qua mô hình I-O, NXB Thống kê, Hà nội.
32. Tổng cục Thống kê (2015), Bảng cân đối liên ngành (input-Output:I/O) của
Việt Nam 1989, 2007 và 2012, NXB Thống kê, Hà nội.
33. Viện Chiến lược phát triển (2004), Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội-Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.
34. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2005), Báo cáo kết quả khảo
sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam,
Vietnam Economic Portal.
147
35. Ngô Doãn Vịnh (2005), Bàn về phát triển kinh tế (nghiên cứu con đường dẫn
tới giàu sang), NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.
36. Ngô Doãn Vịnh (2006), Hướng tới sự phát triển của đất nước-Một số vấn đề
lý thuyết và ứng dụng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
37. Anandarajan et al. (2007), The Effect of Innovative Activity on Firm
Performance: The Experience of Taiwan.
38. Anderson, E., de Renzio, P. và Levy, S. (2006), The Role of Public
Investment in Poverty Reduction: Theories, Evidence and Methods,
Working Paper, http://www.odi.org.uk/resources/download/1166.pdf.
39. Antje Schimke & Thomas Brenner (2011), Temporal Structure of Firm
Growth and the Impact of R&D.
40. Archibald R, Pereria M. (2003), Effects of public and private R&D on
private-sector performance in the United States, Public Finance Review, 31
(4): 429–451.
41. Ballassa, B. (1988), Public Finance and Economic Development, PRE
working Paper 31, Washington D.C. Word Bank.
42. Barro, R. (1991), Economic Growth in a Cross-section of Countries,
Quarterly Journal of Economics 106 (2): 407–43.
43. Begg, D. (2008), Economics, McGraw-Hill Publisher.
44. Blejer, M.I. and M.S. Khan (1984), Government Policy and Private
Investment in Developing Countries, IMF Staff Papers, Vol. 31, June 379-
403.
45. Bogunjoko, O.J. (1998), Private Investment, Economic Growth and Policy
Reforms in Nigeria: An Empirical synthesis, Development Policy Centre,
Ibadan.
148
46. Bos, D. (1984), On the Optimality of Public Capital for Long Run Growth
Evidence from Panel Data, Journal of Applied Economics. 33: 1117-1129.
47. BSPS – CIEM (2008), The role of technology, investment and ownership
structure in the productivity performance of the manufacturing sector in
Vietnam.
48. Costa, J. da Silva, Ellson, R.W, and Martin, R.C. (1987), Public Capital,
Regional Output and Developments: Some Empirical Evidence, Journal of
Regional Science, 27 (3) : 419-437.
49. De Vylder, S. và Fforde, A. (1998), Viet Nam: A Transitioning Economy
50. Deno, K.T. (1988), The Effect of Public Capital on U.S Manufacturing
Activity: 1970 to 1978, Southern Economic Journal, 55 (1) : 400-411.
51. Devarajan, S., Swaroop, V. and Zou, H. (1996), The Composition of Public
Expenditure and Economic Growth, Journal of Monetary Economics,
37:313-344.
52. Dewan, S., Shi, C. and Gurbaxani, V. (2007), Investigating the Risk–Return
Relationship of Information Technology Investment: Firm-Level Empirical
Analysis, Management science, 53 (12), 1829–1842.
53. Di Vito et al. (2008), Corporate ownership structure and innovation in
Canda.
54. Easterly, W, and Rebelo, S. (1993), Fiscal Policy and Economic Growth,
Journal of Monetary Economics, 32;417-458.
55. Gerybadze et al. (2010), Innovation and International Corporate Growth,
DOI 10.1007/978-3-642-10823-5_2, Springer-Verlag Berlin Heidelberg.
56. Ghali, K.H. (1998), Public Investment and Private Capital Formation in a
Vector Error.
57. Ghosal, V. and Nair-Reichert, U. (2009), Investments in modernization,
innovation and gains in productivity: Evidence from firms in the global
paper industry, Research Policy, 38, 536–547.
149
58. Gillis, M. et al (2001), Economics of Development, W.W. Norton Publisher.
59. Gladys López -Acevedo (2002), Technology and firm performance in
Mexico.
60. John Dooley, Forfas (2009), Sustaining Investment in Research and
Development, Advisory Council for Science Technology and Innovation,
December.
61. John R. Baldwin et al. (2003), Impact of Advanced Technology Use on Firm
Performance in the Canadian Food Processing Sector, Micro -Economic
Analysis Division, 18-F, R.H. Coats Building, Ottawa, K1A 0T6, Statistics
Canada.
62. Kanchana Wanichkorn (2013), Investment, Innovation and Technology for
Development: Thailand’s Experiences, United Nations Conference on
Trade and Development (UNCTAD) Geneva, 1 May 2013.
63. Khan, M. and C. Renhart (1990), Private Investment and Economic Growth
in Developing Countries, World Development, Vol. 18, January: 17-27.
64. Killics, T. (1993), The Adaptive Economy: Adjustment Policies in Small,
Low-Income Countries, the World Bank Press.
65. KISTEP (2002), Korea Institute of Science and Technology Evaluation and
Planning), National Technology Roadmap (NTRM).
66. Krugman, P. và Obstfeld, M (1991), International Economics – Theory and
Policy, Harper Collins Publisher.
67. Kuen-Hung Tsai et al. (2002), An Examination of Taiwan’s Innovation
Policies and R&D Performance, Chung-Hua Institution for Economic
Research.
68. Lucas, O. (1993), Government Spending and Economic Growth.
69. Lindauer, D. (2002), The Third Generation of Economic Growth.
150
70. Nguyen Thi Nguyet (2012), Determinants of firm growth in Vietnamese
commercial-service sector, Journal of Economics and development , Vol.
14-No. 1.
71. Nguyen Thi Nguyet (2012), Firm survival: International evidence and
lessons for Vietnam, Economic Management Review Journal, Vol. 6. No.2,
2012.
72. Nguyen Thi Nguyet (2012), Technology – development investment and firm
productivity in developing counries, Journal of Economics and
development.
73. Odedokun, M.O. (1993), Factors Responsible for the Poor Performance of
Africa in the 1970s and 1980s: A Cross-Sectional Evidence from 42
countries, African Development Review, Vol. 5, (1) 23-61.
74. OECD (2000), Science, Technology and Innovation in the New Economy,
Policy Brief Review, September 2000.
75. OECD, DSIT/STP (2007), Review of China’s Innovation System and
Policy.
76. OECD (2007), Innovation and Growth: Rational for an Innovation
Strategy.
77. Ogundipe, M. A. và Aworinde, O. B. (2011), Sectoral Analysis of the
Impact of Public Investment on Economic Growth, European Journal of
Social Sciences – Volume 20, Number 2.
78. Ohlin–Hecksher (1977), Factors Endowment Theory of Trade.
79. Perkins, W. (2006), Economics of Development, 6th edition, Norton &
Company New York – London.
80. Peters et al. (2013), Firm R&D, Innovation, and Productivity in German
Industry.
81. Phillip A. Griffifths (2013), Strenthening Science and Technology in the
Developing World, Institute for Advanced Study, Science Initiative Group.
151
82. Raouf Boucekkine et al. (2011), Sustainable growth under pollution quotas:
optimal R&D, investment and replacement policies.
83. Rosen, H. (1995), Public Finance , Richard D. Irwin Publisher.
84. Samuelson, P. và Nordhaus W. (2001), Economics, McGraw-Hill Publisher.
85. Serven, L. and Solimano, A. (1993), Striving for Growth After Adjustment:
The Role of Capital Formation, Washington DC, World Bank Press.
86. Solow, R. M. (1956), A Contribution to the Theory of Economic Growth,
Quarterly Journal of Economics, 70: 65-94.
87. Stiglitz, J. (2005), Economics of Public Sector, Richard D. Irwin Publisher.
88. Stiglitz, J. và Yusuf, S. (2002), Rethinking the East Asia Miracle, the World
Bank and Oxford University Press.
89. Szirmai, A., Naudé, W., Alcorta, L., (2013), Pathways to Industrialization
in the Twenty-First Century, Oxford University Press.
90. Tanzi, V. (1984), Transitional Dynamics and Economic Growth in the Neo
Classical Model, The American Economic Review, 83 (4): 908-941.
91. Temple, J. (1999), New Growth Evidence .
92. Thomas L. Friedman (2006), The world is flat, NXB Trẻ.
93. Thomas, V. và các cộng sự (2000), The Quality of Growth, Oxford
University Press, New York.
94. Todaro, M. (1985), Economic Development in the Third World, Longman
Publisher.
95. Toen-Geon, M. W. and Jongeling, M. M. (1994), Investment in
Infrastructure and Economic Growth, Journal of Public Finance 15: 34-42.
96. UNIDO (2015), Industrial Development Report 2016: the role of
technology and innovation in inclusive and sustainable industrial
development, Vienna.
97. Westkämper, E., (2014), Towards the Re-Industrialization of Europe: a
concept for manufacturing for 2030, Springer–Verlag.
152
98. Xibao Li (2008), External Technology Purchaseand Indigenous
Innovation Capability in Chinese Hi-Tech Industries, Unido working
paper.
99. Yingyi Qian (2002), Governments and corporate management, Unido
working paper.
100. Ÿulek, M. (2015), Economic Planning and Industrial Policy in the
Globalizing Economy: concepts, experience and prospects, Springer
International Publishing Switzerland.
CÁC LUẬN ÁN TRONG NƯỚC
101. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu
ngành của nền kinh tế tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
102. Hồ Hữu Nghĩa (2011), Chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp điện tử
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
103. Phạm Đình Thuý (2014), Phát triển công nghiệp cơ khí theo hướng bền
vững.
104. Hồ Tuấn (2009), Giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (nghiên cứu điển hình
ngành dệt may).
CÁC TRANG WEB:
105. http://www.chinhphu.vn
106. http://www.gso.gov.vn
107. http://www.moi.gov.vn
108. http://www.mpi.gov.vn
109. http://www.tiasang.com.vn
110. http://ocw.fetp.edu.vn
111. http://www.vneconomy.com.vn
112. http://www.vnep.org.vn;
113. http://data.worldbank.org/indicator
153