LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả công tác vận
động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Kon Tum là một tỉnh vùng cao biên giới nằm ở cực bắc Tây Nguyên. Đây không
chỉ là một vị trí quan trọng về kinh tế, quốc phòng và an ninh mà còn là một địa bàn
phức tạp về tôn giáo. ở Kon Tum, bên cạnh tín ngưỡng - tôn giáo bản địa cổ truyền, còn
có một số tôn giáo được ngoại nhập vào những thời điểm, hoàn cảnh lịch sử khác nhau.
Đạo Công giáo là một trong những tôn giáo như thế.
Sự thâm nhập đạo Công giáo vào địa bàn tỉnh Kon Tum bắt đầu từ những năm
giữa thế kỷ trước (1842), tồn tại và phát triển cho đến nay. Từ khi thành lập giáo phận
Kon Tum đến nay đã trải qua 152 năm (1848 - 2000), trước sau vẫn là một giáo phận
truyền giáo gắn bó chặt chẽ với Vatican, Tòa thánh Vatican cho rằng đây vẫn còn là một
miền truyền giáo và giao cho hội truyền giáo thừa sai Paris cai quản. Giáo hội Công
giáo vẫn tìm mọi cách để phát triển đạo lên vùng cao nguyên Kon Tum.
Ngày nay, trong quá trình thực hiện chiến lược "Diễn biến hoà bình", các thế lực
phản động đã triệt để sử dụng vấn đề tôn giáo như một phương thức, một ngòi nổ để
thúc đẩy sự sụp đổ về thể chế chính trị ở các nước XHCN. Chúng cấu kết với bọn cầm
đầu giáo hội ở Trung tâm Toà thánh Vatican, chỉ đạo, điều khiển các giáo sỹ cao cấp
trong các nước XHCN lôi kéo quần chúng tín đồ, biến họ thành lực lượng đối trọng
ngay trong lòng các nước đó, tạo nên mâu thuẫn xã hội bên trong và tách họ ra khỏi sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Địa bàn tỉnh Kon Tum nằm trong phạm vi mà các thế lực
phản động thực hiện chiến lược đó.
Đạo Công giáo ở Kon Tum là một tôn giáo lớn nhất trong tỉnh, có số giáo dân
chiếm hơn 70% tổng số đồng bào theo đạo trong tỉnh. Suốt hai cuộc kháng chiến, đông
đảo quần chúng tín đồ Công giáo yêu nước đã đi theo cách mạng, theo Đảng và đã góp
phần vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ xây dựng đất nước hiện nay,
quần chúng tín đồ Công giáo vẫn là lực lượng có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong địa bàn
dân cư. Đồng thời họ cũng đang là đối tượng mà các thế lực thù địch luôn triệt để tìm
cách lợi dụng, thực hiện chiến lược "Diễn biến hoà bình" để chống phá công cuộc xây
dựng CNXH ở nước ta. Do vậy công tác vận động quần chúng tín đồ theo đạo Công
giáo ở Kon Tum là một công tác vô cùng quan trọng, nó tác động sâu sắc đến quá trình
phát triển phong trào cách mạng của quần chúng tại địa phương.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị về "Tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới" và thực hiện Nghị định 69/HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo nói
chung, quần chúng tín đồ theo đạo Công giáo ở Kon Tum nói riêng, bước đầu đã có
những chuyển biến. Song vẫn còn nhiều thiếu sót, nhận thức về quan điểm, nguyên tắc
và chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên còn nhiều điều bất cập; đặc biệt là cách nhìn nhận và đánh giá chưa thật
khách quan, nặng về nhìn nhận quá khứ chính trị của đạo Công giáo, mà không thấy
được nỗi khổ cực của đại bộ phận quần chúng tín đồ theo đạo trong quá trình đấu tranh
với sự du nhập của đạo Công giáo, không đánh giá và nhìn nhận đúng mức những cống
hiến và hy sinh lớn lao của đại bộ phận giáo dân đối với sự nghiệp cách mạng qua suốt
hai cuộc kháng chiến. Chính từ đó đã nảy sinh những cách làm, những phương pháp xử
lý thiếu tế nhị (có thể nói là thô bạo), trong quá trình vận động quần chúng tín đồ, gây
nên tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng tín đồ, dẫn đến cách biệt, thậm chí có
những trường hợp gây thái độ đối lập trong quần chúng tín đồ; đồng thời ở một số nơi
còn tồn tại khuynh hướng hữu khuynh, thiếu cương quyết và nhạy bén trong việc đấu
tranh với kẻ thù lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng.
Do vậy, nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở
Kon Tum, phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của nó; xây dựng
niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, huy động được đông đảo quần chúng giáo dân vào sự
nghiệp "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", qua đó thể hiện
được ước nguyện sống "Tốt đời, đẹp đạo" của đông đảo quần chúng giáo dân ở Kon
Tum là vấn đề bức xúc hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đổi mới công tác đối với đạo Công giáo nói chung và đổi mới công tác vận động
quần chúng tín đồ Công giáo nói riêng đang là một trong những yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới, nhất là sau khi có Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị. Xung quanh vấn đề này đã
có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả như: Nguyễn Văn Long, luận án tiến
sỹ triết học "Vận dụng quan điểm khoa học về tôn giáo trong công tác đối với thiên
chúa giáo hiện nay ở Việt Nam"(1999); Lê Văn Phụ, luận văn thạc sỹ "Công tác tư
tưởng của tổ chức cơ sở Đảng đối với quần chúng theo đạo Thiên chúa" (1993).
ở khu vực Thủ Đức - Thành phố Hồ Chí Minh có tác giả Lê Tăng, luận văn thạc
sỹ "Giải quyết vấn đề Thiên chúa giáo ở huyện Thủ Đức - thành phố Hồ Chí Minh
trong công cuộc đổi mới" (1993).
ở khu vực Miền Bắc có tác giả Hoàng Mạnh Đoàn, luận văn thạc sỹ "Công tác
vận động quần chúng theo đạo Thiên chúa ở miền Bắc nước ta hiện nay" (1993).
ở Kon Tum có tác giả Võ Sáu, luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị "Đấu tranh
chống các thế lực thù địch lợi dụng đạo Công giáo ở tỉnh Kon Tum nhằm đảm bảo ổn
định chính trị, an ninh Quốc phòng ở địa phương" (1998).
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đó đã đề cập đến công tác đối với đạo
Công giáo trên nhiều góc độ, nhiều mặt; mang tính tổng quát trên phạm vi cả nước, hay
từng khu vực. Riêng "Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công
giáo ở Kon Tum hiện nay" vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến một
cách trực diện, có hệ thống.
Nghiên cứu công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum là vấn
đề hết sức phức tạp, khó khăn: Tư liệu quá ít ỏi, tản mạn, thời gian tiếp cận thực tế có
hạn. Hơn nữa trên thực tế chưa có một tài liệu nào của tỉnh bàn về lĩnh vực này một
cách có hệ thống. Nhưng với mong muốn có thể góp được chút ít những hiểu biết còn
hạn chế của mình vào công tác quan trọng này của địa phương, tôi đã chọn đề tài "Nâng
cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay"
để viết luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Mục đích:
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm rõ đặc điểm tình hình quần chúng tín đồ
Công giáo ở Kon Tum, đánh giá đúng thực trạng công tác vận động quần chúng tín đồ
Công giáo ở Kon Tum trong những năm đổi mới vừa qua, đề xuất những phương hướng
và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở
Kon Tum hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Một là, làm rõ đặc điểm tình hình quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện
nay.
Hai là, phân tích thực trạng công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở
Kon Tum từ khi đổi mới đến nay.
Ba là, đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả
công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum trong thời gian tới.
- Phạm vi nghiên cứu:
Công tác tôn giáo bao gồm nhiều mặt..., ở những địa bàn, thời điểm và với các
tôn giáo có sự khác nhau. Luận văn này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu công tác vận
động quần chúng tín đồ Công giáo ở địa bàn tỉnh Kon Tum; luận văn lấy mốc thời gian
từ khi nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay (từ khi thực hiện Nghị quyết 24 của
Bộ Chính trị về "Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới").
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo. Đồng thời có kế thừa những kết quả của
các công trình nghiên cứu liên quan để làm rõ những vấn đề mà mục đích và nhiệm vụ
của luận văn đặt ra.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn thực hiện theo các phương pháp kết hợp lôgic với lịch sử, kết hợp phân tích
với tổng hợp, phương pháp so sánh, trong đó coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn...
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn.
- Bước đầu phát hiện một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong công tác vận động
quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay.
- Nêu phương hướng và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi, góp phần đổi mới công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay có hiệu quả hơn.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học giúp cho việc thực hiện công tác
vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở tỉnh Kon Tum hiện nay có hiệu quả hơn.
- Ngoài ra luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy, học
tập ở trường chính trị tỉnh Kon Tum về những vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu của luân văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung chính
của luận văn được kết cấu thành 2 chương 4 tiết.
Chương 1
Tình hình quần chúng tín đồ Công giáo
và công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum
1.1. Đạo Công giáo và đặc điểm tình hình quần chúng tín đồ Công giáo ở
Kon Tum
1.1.1. Vài nét về đặc điểm tỉnh Kon Tum
Đặc điểm tự nhiên - chính trị - kinh tế - xã hội
Kon Tum là một tỉnh nằm ở cực bắc Tây Nguyên, với diện tích tự nhiên là 13.000 km2; phần lớn là rừng núi và cao nguyên, địa hình hiểm trở, vùng cao đất, dốc,
đồi núi bị chia cắt mạnh. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam; phía nam giáp tỉnh Gia Lai;
phía đông giáp tỉnh Quảng Ngãi; phía tây giáp tỉnh Ătêp, Sê Kông (Lào); phía đông bắc
giáp tỉnh Ratanakili (Cămpuchia). Tỉnh Kon Tum có khoảng 650 km đường ranh giới,
trong đó đường biên giới quốc gia chiếm 275 km. Nằm trên địa bàn chiến lược Tây
Nguyên, nơi có điểm tựa của ngã ba Đông Dương, gắn chặt với các đặc trưng về địa lý,
tự nhiên tạo cho tỉnh Kon Tum có tầm quan trọng chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc
phòng và an ninh.
Tỉnh Kon Tum có 6 huyện và một thị xã với 79 xã, phường, thị trấn; trong đó có
56 xã, phường có đạo. Số dân khoảng hơn 300.000 người. Người Kinh chiếm gần 46%
dân số, phân bố chủ yếu ở trung tâm các huyện, thị; các dân tộc thiểu số bản địa và mật
độ dân tộc khác di cư đến (Mường, Tày, Nùng...) chiếm 54%. Cộng đồng các dân tộc
thiểu số hầu hết ở vùng ven thị xã, các huyện vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Do điều kiện địa lý tự nhiên, địa bàn cư trú nên vùng dân tộc thiểu số mang
những nét riêng của miền núi và Tây Nguyên.
Hoạt động kinh tế của các tộc người tỉnh Kon Tum bao gồm những hoạt động
kinh tế sản xuất, kinh tế khai thác tự nhiên, nhưng nhìn trên tổng thể thì hầu hết các cư
dân ở đây đều lấy kinh tế nông nghiệp làm phương thức sinh sống chính. Do đó, khi nói
đến các đặc điểm của hoạt động kinh tế người ta thường bắt đầu từ hoạt động nông
nghiệp.
Canh tác nương rẫy: Các dân tộc ở Kon Tum đã tiến sâu vào giai đoạn nông
nghiệp trồng trọt. Trong nền kinh tế truyền thống, rẫy có vị trí quan trọng hàng đầu, là
nguồn sống chủ yếu của con người. Tại khoảnh rừng đã chọn, trên cơ sở xem xét độ
dốc, đất đai và đã tiến hành các nghi thức tôn giáo xin phép thần linh suôn sẻ, việc đầu
tiên là đốn cây, phát cỏ, khai quang mặt bằng. Khi sắp đến thời vụ gieo trồng, người ta
chỉ dọn rẫy, rồi có thể dùng cây vót nhọn chọc hốc để tra hạt giống. Sau đó, rẫy được
rào giậu, trông coi. Cuối cùng là đến kỳ thu hoạch với đặc điểm nổi bật là dùng đôi tay
trần tuốt lấy thóc. Ngoài ra, trên rẫy còn trồng nhiều thứ khác để đáp ứng nhu cầu của
cuộc sống nặng tính tự cung tự cấp, nhưng cây lúa giữ vị trí chủ đạo, năng suất lao động
thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn. Một bộ phận khá lớn của dân cư, gồm 9.241 hộ,
47.849 nhân khẩu còn du canh du cư, hay đã định cư chưa định canh.
Canh tác ruộng nước: Tuy không phổ biến nhưng nó có mặt trong nền kinh tế
của đồng bào khá lâu. Người dân thường làm ruộng theo kiểu "dao canh thủy nậu". Tại
các thửa ruộng ngân nước, cả tập thể người hoặc cả đàn trâu quần đất thay vì việc cuốc
hay cày bừa, rồi dùng cuốc hoặc bàn trang để san mặt ruộng. Người Xơ Đăng, Rơ Mâm
tuy còn dùng kỹ thuật canh tác khá sơ khai nhưng lại biết đắp đập, khơi mương, bắt
mảng lấy nước về làm ruộng. Sau mùa tuốt lúa hay xét trên bình diện chung của tỉnh,
ruộng nước chỉ là một bộ phận nhỏ trong nền kinh tế cổ truyền của đồng bào các dân tộc
tỉnh Kon Tum.
Kinh tế hái lượm: Có tầm quan trọng đáng kể để cung cấp, bổ sung thức ăn cho
người dân một cách thường xuyên. Thường ngày theo mùa, người dân có thể hái các
loại rau, măng, nấm... Vào lúc giáp hạt hoặc mùa màng thất thu thì rừng còn là một
nguòn lương thực cần kíp: các loại cây thân củ, rễ, quả... có thể giúp đồng bào chống
đói. Hái lượm có ý nghĩa kinh tế nổi bật trong các sinh hoạt kinh tế khai thác tự nhiên
nơi đây. Công việc này chủ yếu do phụ nữ và các em bé gái đảm trách. Trong khi đó,
việc săn bắn hầu như thuộc riêng về nam giới. Săn bắn vừa đem lại thực phẩm, lại có
tác dụng rèn luyện tinh thần thượng võ nhưng cũng vô cùng cần thiết vì lý do bảo vệ
mùa màng. Cùng với hái lượm, săn bắn, trong lĩnh vực kinh tế chiếm đoạt tự nhiên thì
đánh bắt cá cũng góp phần tăng thêm thực phẩm cho người dân.
Chăn nuôi: Cũng là một hoạt động có tầm quan trọng đáng chú ý. Trâu bò được
nuôi thả rong ngoài trời, sống ở rừng chiều tối kéo nhau về làng. Còn gà, lợn được đồng
bào nuôi theo lối nửa thả rong, chúng tự lang thang kiếm ăn, nhưng vẫn được chủ cho
ăn vào ban đêm. Có thể nói, về phương diện thực phẩm, việc chăn nuôi các con vật kể
trên có hai mục đích: để cúng và để ăn, nhưng chỉ ăn sau khi cúng, chứ người dân
không giết thịt chúng nhằm cải thiện bữa ăn. Đó là nếp truyền thống của người Tây
Nguyên.
Ngoài ra, ở Kon Tum còn có nghề đan lát, làm mộc, dệt vải, rèn, làm gốm...
nhưng đó chỉ là các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống của bản thân từng gia
đình và chưa xuất hiện - dù chỉ một làng, những người chuyên làm nghề thủ công để
kiếm sống, mặc dù có nơi sản phẩm của họ có phần trở thành hàng hóa. Chợ không phải
là địa điểm quan hệ giao lưu hàng hóa trong xã hội truyền thống, mà việc đó thường
diễn ra tại nhà. Với họ không có sự khác biệt giữa cái đem bán và cái mình dùng. Họ
không có tư duy của người sản xuất hàng hóa trong thương trường. Hơn nữa, những thứ
trở thành hàng hóa được họ làm ra không nhằm mục đích hàng hóa đơn thuần, mà ở đó
còn ẩn chứa cả lòng tự trọng, tình hữu hảo trong quan hệ với người mua và người sử
dụng.
ở Tây Nguyên nói chung, Kon Tum nói riêng, đến những năm 30 của thế kỷ 20,
xã hội truyền thống vẫn còn chế độ thị tộc, bộ lạc. Quan hệ xã hội bó hẹp trong phạm vi
buôn, làng. Đứng đầu buôn làng là các thủ lĩnh dân tộc, có năng lực giao tiếp xã hội, có
tri thức và có tiềm năng kinh tế. Hôn nhân và gia đình tùy theo dân tộc mà tổ chức gia
đình có khác nhau hoặc theo mẫu hệ (Gia Rai); hoặc theo song hệ (Xơ Đăng, Giẻ
Triêng); hoặc theo phụ hệ (Ba Na).
Do trình độ phát triển kinh tế, xã hội còn thấp nên vai trò của người có địa vị,
có uy tín trong xã hội truyền thống rất quan trọng, như thủ lĩnh dân tộc, vua lửa (hỏa
xá), vua nước (thủy xá), thầy cúng, trí thức dân tộc... Vua lửa, vua nước, thầy cúng
không có quyền lực trong bộ máy cai trị, nhưng họ nắm dân thông qua thần quyền, tục
quyền. Đây cũng là đặc điểm quan trọng mà các giáo Công giáo Pháp, Mỹ rất chú ý lợi
dụng, tranh thủ để nắm dân, để tuyên truyền, phát triển đạo.
Trong vùng dân tộc thiểu số còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán lạc hậu... Do
đời sống kinh tế khó khăn, phương tiện sản xuất thô sơ, sản xuất phụ thuộc hoàn toàn
vào thiên nhiên, do trình độ dân trí thấp, nên quần chúng rất tin vào Giàng (Thần). Họ
luôn luôn trông chờ vào sự giúp đỡ, che chở của Giàng hay những lực lượng siêu nhiên
khác. Cũng chính vì vậy, họ chỉ quan tâm những vấn đề thiết thực đối với cuộc sống
hàng ngày của họ, mang lại lợi ích cụ thể, trước mắt họ. Họ chỉ tin, nghe theo những gì
họ có thể nhìn thấy, sờ thấy. Mặt khác, do sống xen kẽ với người Kinh, một dân tộc có
đời sống và dân trí cao hơn, thì đồng bào dân tộc thiểu số lại luôn có tư tưởng mặc cảm,
tâm lý tự ti. Và nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số ở đây sống chân thật, chất phác
đơn giản và dễ hiểu. Đối với người dân tộc thiểu số, tệ ăn cắp, lấy vợ lấy chồng cùng
dòng họ sẽ bị già làng phạt nặng, như phạt trâu, bò, heo, gà, rượu, chiêng...
Trong dân tộc Xơ Đăng, Ba Na và Gia Rai mỗi làng đều xây dựng một nhà
rông, biểu hiện sự mạnh mẽ, vững chắc, dùng cho thanh niên sinh hoạt và nghỉ ngơi,
hay là nơi tụ tập để già làng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong làng.
Đặc điểm về dân tộc
Theo dấu tích di chỉ khảo cổ học, những yếu tố văn hóa cổ xưa còn lại trong
lòng đất và đời sống của cư dân, các nhà khoa học đều xác định rằng ở Tây Nguyên từ
ngàn xưa đã có người nguyên thủy sinh sống. Lớp cư dân bản địa đầu tiên giả định là
giống người tóc quăn, vóc dáng lùn, da đen thuộc chủng tộc Ôxtraoit, đến nay chỉ còn
lại những vết tích nhân chủng ở cộng đồng dân tộc thiểu số bản địa hiện đang sinh sống
trên địa bàn tỉnh Kon Tum, gồm: Xơ Đăng, Ba Na, Giẻ Triêng, Gia Rai, Brâu, Rơ
Mâm...
Dân tộc Xơ Đăng có các nhóm địa phương gồm: Xơ teng (H'đang), Tơdră, Rơ
Mâm, Hà lăng, Cà dong, Châu, Ta trẻ; dân số trên 67.369 người (chiếm 25,2% dân số
toàn tỉnh), có mặt hầu hết khắp các huyện, thị trong tỉnh.
Dân tộc Ba Na có các nhóm khác nhau như: Gơlar, Tôlô, Giơlãng, Rơngao,
Kram, Roh, Con kđê, Klacông, Kpăngcông, Bơnâm; dân số trên 30.863 người (chiếm
11,5% dân số trong tỉnh), sống tập trung chủ yếu ở thị xã Kon Tum và huyện Konplong.
Dân tộc Giẻ Triêng cũng có nhiều nhóm địa phương như: Đgích, Tareh, Giang
grẩy, Triêng, Tren, Tarieng, Ve, Lave, Catang cư trú chủ yếu ở huyện Đăkglei và phía
bắc huyện Ngọc Hồi (cũng có một bộ phận nhỏ sống ở Lào), dân số hiện nay có khoảng
22.713 người (chiếm 8,5% dân số trong tỉnh).
Dân tộc Gia Rai với nhiều nhóm địa phương như: Gơ rai, Tơ bua, Chơ rai, Hơ
ban, H'đrung, Chor, A rap... cư trú chủ yếu ở huyện Sa Thầy và thị xã Kon Tum; dân số
trên 13.895 người (chiếm 5,2% dân số toàn tỉnh).
Dân tộc Brâu, Rơ Mâm là hai dân tộc có dân số ít, Brâu: 240 người, Rơ Mâm:
277 người. Hiện nay người Rơ Mâm định cư ở làng Le xã Mô Rây huyện Sa Thầy;
người Brâu định cư ở làng Đăk Mề, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi. Đây là hai dân tộc đang
có nguy cơ tuyệt chủng, cần đến sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng xã hội.
Dân tộc Kinh là thành phần dân cư lên cư trú tại Kon Tum vào khoảng giữa thế
kỷ 19, lập nên các làng: Phương Nghĩa (1882), Phương Qúy (1887), Phương Hòa
(1892), Trung Lương (1914), Phụng Sơn (1924), Ngô Thạnh (1925), Ngô Trang (1925),
Phước Cần (1927), Lương Khế (1927)... Đến nay, theo thống kê, người Kinh chiếm gần
46% dân số so với các dân tộc khác trong tỉnh. Họ cư trú hầu hết ở thị xã, thị trấn, ven
các trục đường giao thông, các khu vực nông trường, kinh tế mới.
Nhìn chung các dân tộc ở Kon Tum có mối quan hệ đoàn kết gắn bó, có tinh
thần yêu nước và truyền thống cách mạng, có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng đất nước trước đây và cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Nhiều làng, xã là căn cứ cách mạng từ những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp và chốn Mỹ. Kon Tum cũng là nơi có nhiều cán bộ, trí thức,
anh hùng rất nổi tiếng là người dân tộc thiểu số.
Đặc điểm về tín ngưỡng - tôn giáo
Đối với người dân ở Kon Tum, tuy đời sống vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu,
nhưng đời sống tinh thần phong phú, đa dạng, luôn làm cho con người sống tràn ngập
trong bầu không khí lễ hội như để tiếp thêm sức mạnh, giúp họ tự tin, vững vàng hơn
trong cuộc sống.
Tất cả dân tộc đều thống nhất một điểm bao trùm và chi phối quan trọng trong
nhiều hoạt động của cá nhân cũng như cộng đồng, đó là tín ngưỡng vạn vật hữu linh.
Hiểu theo đó, thế giới có nhiều siêu nhiên ẩn tàng vô hình trong các khách thể vật chất ở
khắp nơi xung quanh con người và cả trong bản thân của mỗi người. Xuất phát từ những
tín niệm đó, các thần linh lại chi phối một cách sâu sắc, huyền bí đối với cuộc sống của
họ. Những lễ thức tôn giáo gắn liền với hầu hết các lĩnh vực hoạt động nhằm ngăn ngừa
tai họa, rủi ro, cầu xin sự tốt lành may mắn. Điểm chung nhất của người dân là trong
cúng bái bao giờ cũng có việc hiến sinh, dân đồ ăn thức uống tế thần và lời khấn cầu
mong sự tốt đẹp cho cuộc sống trần thế, nhờ trời phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, sinh
sôi.
Xã hội thần thánh của người Tây Nguyên rất phong phú, đa dạng. Theo tác giả Đỗ Hữu Nghiêm thì có hai loại: Thượng đẳng thần và Hạ đẳng thần (1). Trong linh giới,
ngoài các thần còn có ma quỷ, trong các loài ma quỷ thì người ta sợ nhất là Ma Lai. Mai
Lai được hình dung giống người quỷ sống chung lẫn với người, đêm đêm lần mò đi tìm
ăn xác chết, hút máu, hút ruột người. Xưa kia Ma Lai cũng là người nhưng ăn phải thịt
người nên trở thành ma. Người ta xa lánh những người bị tình nghi là Ma Lai. Khi phát
hiện ai là Ma Lai người ta sẽ giết luôn người đó hoặc cả gia đình họ để trừ tuyệt căn.
Người dân ở đây có nhiều kiêng cữ, họ tin rằng trong mối liên hệ bí ẩn với các
thần linh, một thành viên dân làng có thể ảnh hưởng tới cả cộng đồng. Theo cách quan
niệm của họ, ai đó vi phạm tập tục sẽ khiến thần linh nổi giận trừng phạt buôn làng.
Muốn khỏi những tai họa đó, người dân thường tổ chức các hình thức cầu đảo khi thấy
tình thế "có vấn đề". Họ rất coi trọng điềm báo thể hiện qua giấc mơ, tiếng thú, hướng
bay của chim hoặc một số hình thức nào đó.
ở người dân tộc, khái niệm Giàng được dùng phổ biến để chỉ đa số các siêu
nhiên mà trong tiếng Kinh thường gọi là Thần. Có loại thần thiện phù hộ, đem lại lợi ích
cho con người, có loại thần ác luôn gây tai họa. Người dân tộc đều tin có tinh linh trong
mỗi người đang sống, giống như "hồn", "vía" ở người Kinh. Khi chết đi, hồn biến hóa
khác nhau theo tín ngưỡng của từng dân tộc. Người Brâu cho rằng "hồn" ở đỉnh đầu,
sau khi người chết thì hóa ra may gây tai họa cho người sống. Người Giẻ Triêng gọi hồn
là phol, cho rằng phol ẩn náu trong lỗ tai, sau khi người chết đi thì phol biến thành chim
teh hay chim king cang bay về với tổ tiên ở vùng Giằng bên Quảng Nam. Người Ba Na
(1) Thượng đẳng thần gồm: Bok Kơi Doi: Nam tạo hóa, Vua của vạn vận; La Kon Keh: Nữ tạo hóa, vợ của Nam tạo hóa; Bok Glaik: Thần sấm sét; Lá Pom: Là một nữ thần con của Thần Tạo hóa; Yang Sơri: Thần Lúa; Yang Dak: Thần nước; Yang Kong: Thần núi. Hạ đẳng thần gồm: Kok Kla: Thần Cọp; Rơix: Thần Voi; Két Drơik: Thần Cóc bảo vệ mùa màng; Yang Xatok: Thần Ché; Yang Long: Thần Cây...
tin mỗi người có 3 hồn, hồn chính ở xoáy đầu, còn hai hồn phụ ở trán và thân thể; hồn
người chết hóa ra ma (atâu) và qua 8 lần biến hóa, bắt đầu từ thành hổ, thành mèo rừng,
thành chồn, cheo, chuột, chuột không đuôi, sương mù và tan vào thiên nhiên. Thế giới
người chết được người dân mường tượng mô phỏng cuộc sống của chính họ, nhưng có
sự trái ngược, đối lập nhất định giữa đàng người và đàng ma, nếu bên này là đêm thì
bên kia là ngày. Vì vậy, cả cộng đồng phải thực hiện những lễ thức tôn giáo và kiêng cữ
nhất định, với sự ảo vọng nhận được sự bình yên, tránh được rủi ro, hiểm họa. Đó là dịp
để cúng quải, hiến tế của tập thể, định kỳ và không định kỳ do buôn làng tổ chức. Trước
các thần, dù để tạ ơn hay tạ lỗi, dù hứa hẹn hay xin điều gì, khi ấy lời cầu khấn phát ra
với tư cách cộng đồng và cả cộng đồng đang trông chờ chung sự linh nghiệm ở những
gì sẽ đến trong cuộc sống của buôn làng mình.
Việc cúng bái theo truyền thống đến nay vẫn là gánh nặng đối với đồng bào dân
tộc thiểu số, vốn đời sống đã hết sức khó khăn, thiếu thốn; nhưng nó cũng không giải
quyết được vấn đề họ mong muốn. Cùng với những tác động của thời đại, khi giao lưu
được mở rộng, trình độ dân trí được nâng lên, các tín ngưỡng tôn giáo cổ truyền bắt đầu
lung lay, mất dần sự thuyết phục, và tất nhiên nó phải nhường chỗ cho những tín
ngưỡng tôn giáo hợp thời hơn.
Tín ngưỡng cổ truyền hình thành và duy trì trong cộng đồng các dân tộc thiểu
số một cách giải thích về thế giới bên ngoài, đồng thời là một chỗ dựa về tinh thần trong
cuộc sống có nhiều bất trắc và trở lực từ thiên nhiên và con người. Thông qua các lễ hội
tôn giáo cổ truyền mà liên kết cộng đồng, gắn bó cá nhân với gia đình và cộng đồng.
Bên cạnh đó, các lễ nghi như tục chia của cho người chết, lễ tạ thần linh giúp cho mùa
màng bội thu... xét về mặt đạo đức, nó giáo dục cho các thành viên trong cộng đồng ý
thức về quan hệ tương thân tương ái, ăn quả nhớ người trồng cây...
Giữa thế kỷ 19, Công giáo được truyền lên Tây Nguyên, trong đó có Kon Tum.
Tuy nhiên, Công giáo đã gặp những trở lực và xung đột từ phía tín ngưỡng cổ truyền, vì
nó cấm việc thờ cúng Giàng, cúng ma; bắt phải bỏ thờ đa thần, chỉ được thờ một mình
Chúa Giêsu. Tuy nhiên trải qua năm tháng, Công giáo đã đứng vững, ăn sâu, bám rễ
chắc chắn ở Tây Nguyên và Kon Tum. Một bộ phận khá đông đồng bào dân tộc thiểu số
đã từ bỏ thờ cúng đa thần chuyển sang Công giáo, thờ cúng một thần.
Cho đến nay, Kon Tum có 94.075 tín đồ Công giáo, trong đó 73.566 tín đồ
Công giáo là đồng bào dân tộc thiểu số, 2 Giám mục, 19 Linh mục, 88 nữ tu, 519 giáo
phu, câu biện.
Đạo Tin Lành truyền lên Kon Tum năm 1960. Đến nay có 9.430 tín đồ, chủ yếu
là đồng bào dân tộc, chức sắc tự phong có 72 người, 24 hội thánh, 25 ban chấp sự.
Đạo Phật đến Kon Tum vào những năm 1930 cùng với sự có mặt của đạo Công
giáo, hiện nay có 19.301 tín đồ, gồm 20 Đại đức, 11 Sadi, 17 chùa.
Ngoài ra, còn có đạo Cao Đài, với số tín đồ ít (557 tín đồ), trình độ chức sắc có
hạn, phần lớn tín đồ là nông dân nghèo, nên hoạt động có mức độ. Cơ sở thờ tự 1, ban
cai quản họ đạo 1 ban 4 người, ban đại diện 1 ban 2 người.
Có thể thấy rằng, tín ngưỡng tôn giáo ở Kon Tum khá phức tạp, có sự xen lẫn
tín ngưỡng cổ truyền với tôn giáo ngoại nhập, có tôn giáo được hoạt động công khai, có
đủ tư cách pháp nhân; có tôn giáo bị cấm hoạt động, chưa được công nhận tư cách pháp
nhân... Nhưng điểm chung của các tôn giáo này là đang tìm mọi cách để phục hồi, phát
triển, thu hút tín đồ, đào tạo chức sắc, xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự... Thực tế cho thấy
những tôn giáo phát triển được ở Kon Tum đều phải tự hạn chế tính chất cực đoan của
nó và phải hòa đồng, phải chấp nhận chung sống (ở một mức độ nào đó) với tín ngưỡng
cổ truyền của cư dân bản địa.
1.1.2. Quá trình đạo Công giáo thâm nhập, phát triển trên địa bàn tỉnh
Kon Tum
- Trước ngày 30/4/1975
Vào giữa thế kỷ XIX đời vua Thiệu Trị, triều đình nhà Nguyễn đã ra những sắc
chỉ gắt gao cấm đạo Thiên Chúa hoạt động và tổ chức đàn áp, bắt bớ dữ dội ở những
vùng duyên hải Trung Bộ, nhưng những nhà truyền Giáo hội Thừa sai Paris đã nhìn
thấy "ở địa phận đàng trong có một miền truyền giáo mới, nơi các dân tộc thượng lưu
trú, vùng rừng núi ở giữa sông Mê Kông và biển Đông". Sự nghiệp truyền giáo lên vùng
cao nguyên Trường Sơn được bắt đầu và Kon Tum trở thành miền đất thánh đầu tiên
trên cao nguyên.
Có thể khái quát lịch sử quá trình xâm nhập, phát triển của đạo Công giáo ở
Kon Tum qua các mốc lịch sử và thời kỳ sau:
Thời kỳ truyền giáo và gây cơ sở đầu tiên (1842 - 1870):
Năm 1842, Giám mục Stephan Cuénot, đại diện tổng tòa, quản nhiệm địa phận
Đàng Trong ở Quy Nhơn - tỉnh Bình Định, đã cử hai linh mục người Pháp tìm đường
lên vùng thượng Tây Nguyên truyền giáo nhưng việc chưa thành thì đã bị nhóm lái
buôn người Việt bắt nộp cho triều đình Huế, sau đó vài ba chuyến xâm nhập khác lên
Tây Nguyên cũng bất thành.
Sau nhiều lần thất bại, Cuénot đã nhận ra rằng trong giai đoạn mà nhà Nguyễn
đang truy bắt những người theo đạo Kitô, thì một Thừa sai người Âu tìm đường xâm
nhập lên vùng cao nguyên là liều lĩnh và khó thành công. Vì vậy cần phải có một người
Việt nào đó đi thám thính trước, xem xét các nơi thường có các thương gia qua lại và
thu thập các tin tức về các bộ lạc người thượng, ngoài tầm lui tới của các thương nhân
người Kinh, chính ở đó mới có thể thiết lập được cơ sở truyền giáo đầu tiên. Với những
ý đồ đó, năm 1848, Giám mục Cuénot đã tìm được một tu sĩ là Nguyễn Do người Hoài
Ân - tỉnh Bình Định (thường gọi là thấy Sáu Do) và giao nhiệm vụ lên Tây Nguyên tìm
đường truyền giáo. Nguyễn Do với một vài lái buôn người Kinh đã tìm được một con
đường độc đạo, bí mật lên vùng cao nguyên và nghiên cứu được phong tục tập quán,
ngôn ngữ của người thượng, ở Kon Tum đã đáp ứng được ý đồ của linh mục Pháp ở
Đàng Trong chỉ đạo.
Năm 1850 đã đánh dấu những bước chân đầu tiên của các nhà truyền giáo Pháp
trên đất Tây Nguyên. Đó là hai linh mục Combé và Fontaine. Với sự dẫn dắt của
Nguyễn Do, các cha cố dòng Thừa sai Paris đã trụ lại được gần một làng dân tộc người
Ba Na, nơi đây là một thung lũng rộng mênh mông có một con sống lớn chạy qua, với
nhiều hồ lớn nhỏ và được gọi theo tiếng dân tộc là Kon Tum.
Để thực hiện được ý đồ đen tối, mặc dù sống trong một môi trường hết sức khó
khăn, phức tạp, họ vừa đấu tranh với đói rét, bệnh tật, vừa tìm mọi cách để tạo thiện
cảm với dân chúng tại chỗ, các nhà truyền giáo Pháp đã bằng các thủ đoạn gian ngoan,
khôn khéo của mình, từng bước đẩy lùi tín ngưỡng cổ truyền đa thần, để xây dựng miền
Kitô giáo trong từng người, từng bộ phận dân tộc. Ngày 01/01/852 một đứa trẻ người
dân tộc thiểu số Kon Tum đầu tiên được làm phép rửa tội một cách vội vã, không chính
thức trong lúc hấp hối và ngày 16/10/1953 hai cậu bé Ngui và Pat (dân tộc Xơ Đăng) đã
lãnh nhận phép rửa tội do Linh mục thừa sai Dou Risboure (Cố Ân) thực hiện. Đây là
hai tín đồ Thiên Chúa giáo đầu tiên trên đất Tây Nguyên chính thức được rửa tội, đánh
dấu sự thành công bước đầu của các nhà truyền giáo thừa sai Pháp.
Tuy nhiên việc truyền giáo của các vị thừa sai gặp rất nhiều trở lực. Vì tôn giáo
mới đã xung đột với tín ngưỡng cổ truyền, như Công giáo cấm thờ cúng trời, cúng ma,
gỡ bỏ đầu trâu, máng nước, bỏ tín ngưỡng đa thần, mà chỉ tôn thờ đức Chúa Giêsu. Từ
những việc mâu thuẫn trên đã gây sự đối đầu giữa các cư dân bản địa và các vị truyền
giáo, dẫn đến việc giáo sĩ Combé bị giết tại làng Kon Kơ Xâm đông nam thị xã Kon
Tum khoảng 15 km và các cuộc tấn công bằng vũ lực của người Xơ Đăng chống lại các
nhà truyền giáo đã lan rộng. Cùng thời gian này trong vùng có dịch đậu mùa gây nhiều
cản trở nên công việc truyền giáo tạm chững lại. Trước tình hình đó buộc chính quyền
Pháp phải khẩn trương thay đổi phương pháp truyền giáo ở đây, và nó được thể hiện rõ:
Trong những năm 60 (thế kỷ XIX), sau khi Hiệp ước Nhâm Tuất (1882) được ký giữa
Pháp và triều đình nhà Nguyễn, về việc bãi bỏ các sắc chỉ cấm đạo Thiên Chúa ở Việt
Nam, các nhà truyền giáo thuộc Hội Thừa sai Paris được sự trợ giúp của "Chính quốc"
đã đẩy mạnh công cuộc truyền bá đức tin. Vượt qua những khoảng cách về ngôn ngữ,
về thói quen tâm lý và dân tộc, những cản trở từ các tộc người bản địa, các nhà truyền
giáo đã phát triển được khoảng 800 giáo dân là người dân tộc thiểu số, và Giáo hội Pháp
đã công nhận sự thành công bước đầu trong việc truyền giáo ở vùng dân tộc thiểu số
Kon Tum của Hội Thừa sai Paris.
Thời kỳ phát triển đạo và hình thành địa phận Kon Tum (1870 - 1932):
Sau khi Pháp xâm lược nước ta, với những tài liệu ban đầu về một miền đất cao
nguyên hoang sơ của các cha cố thừa sai. Thực dân Pháp đã đặc biệt chú ý đến vùng
chiến lược này, chúng tích cực bảo trợ và biến nó thành chỗ dựa cho hoạt động truyền
giáo, giao cho các linh mục nhiệm vụ quản lý hành chính để họ trở thành những "cha
đạo - thực dân" đầy quyền lực và giàu có trên Tây Nguyên. Đây là giai đoạn quan trọng
trong quá trình truyền đạo đến Kon Tum, không những đã ổn định được các cơ sở
truyền bá đức tin mà còn có cơ hội để các vị thừa sai đúc rút ra những kinh nghiệm, thủ
đoạn truyền giáo, đồng thời là giai đoạn khai phá, phát triển đồn điền tạo cơ sở vật chất
cho Giáo hội.
Đến năm 1929 vùng truyền giáo Kon Tum đã hình thành được hệ thống đạo ở
vùng đông dân, dọc các trục lộ giao thông, đồn bót địch đóng khắp ba tỉnh Kon Tum,
Pleiku, Đăklăk và có khoảng 17.700 tín đồ và một số lượng dự tòng, mà trung tâm điểm
là Kon Tum. Có 23 cơ sở, 146 họ đạo thượng, 23 linh mục và một trường nội trú đào
tạo giảng viên giáo lý cho người dân tộc, mang tên trường Giáo phu Cuénot (số liệu trên
của cả ba tỉnh). Có thể các nhà truyền giáo đã thành công trong công cuộc truyền đạo
bằng biện pháp "vết dầu loang", như trong báo cáo của đạo Công giáo Kon Tum gửi về
Hội Thừa sai Paris viết: "Tinh thần dân chúng thuận lợi, và một cuộc tiến lên với tài lực
và nhân lực đầy đủ, đã đem lại kết quả mỹ mãn. Hãy cầu xin chủ nhân mùa thu hoạch
gởi công nhân đến vườn nho cao nguyên của người".
Thời kỳ thành lập địa phận và phát triển đạo:
Trước sự phát triển nhanh chóng của cộng đồng Kitô giáo trong người dân tộc
miền cao nguyên, và công nhận sự thành công trong công cuộc truyền giáo, ngày
18/01/1932, Tòa thánh Vatican đã có sắc chỉ thành lập Giáo phận Kon Tum (tách khỏi
địa phận Quy Nhơn), bao gồm các miền: Kon Tum, Pleiku (Gia Lai), Đăklăk và Atapư
(Lào), do Giám mục Martial, người Pháp cai quản. Thời kỳ này nhiều trường đào tạo, tổ
chức tôn giáo được thành lập như: Trường Tiểu chủng viện, trường dòng, bệnh viện, cô
nhi viện, các dòng tu v.v...
Năm 1942, Tòa thánh tiến hành tách vùng Atapư (Lào) ra khỏi giáo phận Kon
Tum, do vùng này thuộc nước Lào và điều kiện truyền giáo gặp khó khăn.
Hiệp định Gieneve được ký kết (7/1954), sau đó Giáo phận Kon Tum tiếp nhận
một số lớn giáo dân di cư từ miền Bắc vào và có cả 20 linh mục cùng đi theo, và hàng
vạn tín đồ từ các tỉnh phía Bắc, duyên hải miền Trung lên "xây dựng" dinh điền ở các
vùng biên giới theo chủ trương di dân của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Năm 1960 địa phận Kon Tum được Tòa thánh Vatican nâng lên thành địa phận
chánh tòa, và trở thành giáo phận mẹ.
Năm 1967 Tòa thánh quyết định tách miền Đăklăk ra khỏi giáo phận Kon Tum
chỉ còn hai miền Kon Tum và Gia Lai. Cho đến đầu năm 1975, Giáo phận Kon Tum
vẫn được đánh giá là vùng truyền giáo đang phát triển và có nhiều hoạt động sầm uất.
Tại thời điểm này toàn tỉnh Kon Tum có: 68.443 tín đồ (trong đó 46.257 tín đồ là người
dân tộc thiểu số), 26 cơ sở, 195 làng đạo, 01 giám mục, 17 linh mục (trong đó có 09 linh
mục là người Pháp), 300 giáo phu, 10 trường học và 32 lớp học ở làng, 01 trường tiểu
chủng viện với 255 tiểu chủng sinh, 01 trường đào tạo giáo phu với gần 200 học viên,
04 trường phổ thông do Giáo hội quản lý, 07 cơ sở nuôi dạy trẻ, 01 trường dạy nghề, 06
dòng nữ tu...
- Từ năm 1975 cho đến nay
Ngày 17/03/1975 tỉnh Kon Tum được hoàn toàn giải phóng. Đây cũng chính là
cái mốc đánh dấu sự thay đổi lớn trong hệ thống Giáo hội Công giáo ở Kon Tum, chính
quyền quân quản địa phương đã có những quyết sách đúng đắn đối với các hoạt động
chống đối của đạo Công giáo và một số linh mục có hoạt động chống phá cách mạng,
như việc ta bắt linh mục Lê, linh mục Hoàng và trục xuất 13 giáo sĩ người nước ngoài
(ngày 12/8/1975), chấm dứt 135 năm có mặt của giáo sĩ người nước ngoài tại Kon Tum
và giải tán các hội đoàn, đóng cửa các trường đào tạo, đồng thời tiến hành cải tạo Giáo
hội, tiếp nhận nhiều cơ sở vật chất của Công giáo, phục vụ cho các yêu cầu công ích của
địa phương. Bị mất chỗ dựa về chính trị và cả về quyền lợi vật chất, trong khi đó giáo
dân lại bị xáo trộn lớn, không những phân tán và giảm về số lượng, mà còn suy sụp về
niềm tin Kitô giáo là một thất bại lớn của đạo Công giáo ở Kon Tum. Sau thời kỳ khủng
hoảng, hoạt động tôn giáo của giáo phận Kon Tum dần dần đi vào xu hướng chấp nhận
và thích nghi với sự quản lý của chính quyền cách mạng. Một thời gian rất dài trước thế
chiến thắng áp đảo của cách mạng và đối sách của ta đối với Công giáo trong thời gian
đó, trên địa bàn Kon Tum, Công giáo không phát triển, thậm chí nhiều vùng trước đây,
với số lượng đông giáo dân là đồng bào dân tộc thiểu số nay đã bỏ và "khô, nhạt" đạo,
như huyện Đăk Tô, Ngọc Hồi, Kon Plong...
Đất nước bước vào thời kỳ cách mạng mới, thực hiện công cuộc đổi mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Giáo hội Kon Tum đã có những chuyển biến đáng
khích lệ. Nhiều giáo sĩ, chức sắc Công giáo tham gia vào các hoạt động phong trào hành
động cách mạng của địa phương, tích cực vận động quần chúng giáo dân xây dựng cuộc
sống mới, xây dựng chính quyền cơ sở, thực hiện sống "tốt đời, đẹp đạo".
Bên cạnh đó, hoạt động của Giáo hội Kon Tum dưới sự lãnh đạo của Vatican đã
và đang có những nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động đáng quan tâm. Hướng
chiến lược của Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay do Vatican chỉ đạo là không nên
manh động, đối đầu với nhà nước mà phải tập trung vào các hoạt động để phát triển thế
lực của Giáo hội, làm cho Giáo hội có đủ lực lượng để làm đối trọng với Nhà nước ta.
Như vậy, ý đồ của Vatican là củng cố thế và lực cho Giáo hội Công giáo Việt Nam đủ
mạnh để có thể sử dụng Giáo hội như một công cụ, phương tiện chống phá ta lâu dài;
dùng Giáo hội Công giáo Việt Nam để làm xói mòn cơ sở quần chúng và các cơ sở của ta trong các vùng giáo, biến các địa phận Công giáo thành lãnh địa riêng (1).
Cùng với Vatican, các thế lực phản động quốc tế đứng đầu là Mỹ coi việc lợi
dụng Giáo hội Công giáo nước ta như một công cụ để thực hiện chiến lược "diễn biến
hòa bình" ở Việt Nam. Theo Giáo sư, tiến sĩ Chu Nguyên Chương, Việt kiều ở Mỹ:
"Giáo hoàng John Paul II sẵn sàng cho Mỹ mượn đạo quân thứ 5 hiện đang nằm vùng
ngay trong nước Việt Nam. Đạo quân gồm 5 triệu người Kitô giáo có tổ chức chặt chẽ, hết sức cuồng tín và sẵn sàng nhận lệnh của Vatican bất cứ lúc nào" (2).
Biểu hiện rõ nét ở Kon Tum, hoạt động của Giáo hội là tăng cường, củng cố cơ
sở vật chất thật vững, dùng nhiều biện pháp hấp dẫn, tâm lý phù hợp với lứa tuổi nhằm
phát triển tín đồ, gây thanh thế Giáo hội. ở tất cả các xứ, Giáo hội dùng giáo quyền đưa
tín đồ vào hội đoàn, củng cố hội đoàn cũ, hình thành các hội đoàn mới, tăng cường các
hình thức hoạt động nhằm hợp thức các tổ chức mà Chính quyền không cho phép. Các (1) Nguyễn Văn Luyện, tìm hiểu mặt chính trị của vấn đề Thiên Chúa giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chuyên ngành CNXHKH, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, tr. 61 (2) Chu Nguyên Chương, ý nghĩa của một bài học lịch sử (tài liệu tham khảo).
Linh mục trẻ có năng lực đến các vùng "khó khăn". Tăng cường đào tạo Linh mục.
Tăng cường "rao giảng lời Chúa". Tổ chức các lớp học kinh bổn cho mọi lứa tuổi, đặc
biệt chú trọng tới lớp trẻ, đưa nữ tu xuống dạy kinh bổn ở các giáo xứ. Sau khi học là tổ
chức các kỳ thi, sát hạch dưới nhiều hình thức khác nhau, có đánh giá và khen thưởng
từng đối tượng. Một số chức sắc, chức việc có tư tưởng cơ hội, vọng ngoại, vâng phục,
lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đó là việc một số Giám mục, Linh mục ở thị xã Kon Tum... có những việc làm cố ý
không thông qua chính quyền. Có nơi, chức sắc, chức việc ngăn cản tín đồ tham gia các
hoạt động xã hội, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cho
các tổ chức quần chúng ở địa phương gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt, tổ chức hoạt
động.
Gần đây, ở các xứ đạo tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, tu sửa, cơi nới Tòa
giám mục, tu viện và xây dựng lại nhà thờ ở những nơi đã bị hư hỏng, đòi lại đất nước
đã bàn giao cho Nhà nước và các tổ chức xã hội hiện nay đang sử dụng (phụ lục 1 về
đất đai, trang 85, 86, 87). Giáo hội tìm mọi cách khôi phục mở mang cơ sở tôn giáo ở
những nơi "khô", "nhạt đạo", vùng dân tộc ít người, khôi phục và tổ chức lại cấp hành
chính đạo (như tách họ đạo, tổ chức hoạt động ở địa phận giáo hạt). Tăng cường, củng
cố, trẻ hóa ban hành giáo cả số lượng và chất lượng, chủ yếu tín đồ hoạt động tôn giáo
tích cực; có nơi tranh thủ đảng viên gốc giáo để bầu vào ban hành giáo.
Các chức sắc Giáo hội tăng cường quan hệ với Chính quyền, lợi dụng sự lơi
lỏng trong quản lý để hoạt động vượt khỏi khuân khổ luật pháp trong một số việc, như:
Hoạt động tôn giáo trái phép che đậy bằng hình thức hoạt động từ thiện, giáo dục, văn
hóa,... Các sinh hoạt trong đời sống tôn giáo của tín đồ được Giáo hội quan tâm tổ chức
chặt chẽ, hành lễ trang trọng, có dịp là tổ chức ở quy mô lớn để biểu dương lực lượng;
quan tâm đầu tư cho tín đồ (như làm giếng nước, nhà vệ sinh, đường giao thông nông
thôn, cho vay vốn phát triển kinh tế).
Đáng chú ý là trong hoạt động của Giáo hội hiện nay là tìm cách lôi kéo cán bộ,
đảng viên là tín đồ Công giáo tham gia sinh hoạt tôn giáo, bầu vào các ban hành giáo;
cô lập những gia đình cán bộ, đảng viên tích cực là người Công giáo - nhất là cán bộ,
đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo của Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể
quần chúng ở địa phương. Đồng thời, Giáo hội tìm mọi biện pháp lôi kéo thanh - thiều
niên thông qua các hoạt động hội đoàn theo giới tính, sở thích rất linh hoạt và tổ chức
chặt chẽ.
Có thể nói, hoạt động của Giáo hội Kon Tum những năm gần đây thực sự đa
dạng, nhiều hình thức mới, cuốn hút đông đảo giáo dân (nhất là giáo dân người dân tộc
thiểu số) và lực lượng thanh niên. Điều đó đang tác động không ít tới tư tưởng, tâm lý
quấn chúng tín đồ, ảnh hưởng tới đời sống, sinh hoạt và sự phát triển chung của xã hội.
Hiện nay, ở Kon tum vừa qua đã xuất hiện những vấn đề chính trị phức tạp, do bọn
phản động kính động lôi kéo giáo dân biểu tính đòi thành lập nước Đề Ga tự trị, đòi lại
đất đai, giáo dân thuộc khu vực nhà thờ Konrbang ở xã Vinh Quang - thị xã Kon tum.
Mặc dù, số lượng tín đồ có 200 người, ít hơn ở Gia Lai, nhưng đây là vấn đề chính trị
phức tạp, đòi hỏi các ngành chức năng phải có sự phối hợp đồng bộ đặt dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của cấp ủy Đảng, thực hiện tốt công tác vận động, giải thích rõ cho quần chúng
hiểu về việc làm của ta, dùng lực lượng quần chúng đấu tranh với số cầm đầu. Nếu tình
thế không ổn, phải sử dụng đến lực lượng công an, cảnh sát cơ động (hạn chế việc sử
dụng lực lượng quân đội làm việc này)giải tán đám đông, phải chủ động thông báo cho
các địa bàn làm lân cận có tín đồ tôn giáo không để phụ họa, lây lan; nắm cho được lực
lượng phụ trách các Ban Chấp sự, những tín đồ có uy tín, dùng họ để giải thích, ngăn
chặn các hoạt động quá khích gây rối. Việc gọi hỏi bắt giữ số này cần hết sức thận
trọng, nhất là khi tình hình đang căng thẳng; chi làm khi chỉ rõ cho quần chúng thấy tận
nơi của những người bị xử lý, trong nội bộ quần chúng tín đồ có sự phân hóa, đồng tình
nhất định với ta. Để giải quyết vấn đề này cho tốt, chúng ta phải làm tất công tác nắm
tình hình, chú ý tâm tư nguyện vọng của quần chúng, phát hiện những việc làm sai trái
của ta gây bất bình trong tín đồ. Cần có kế hoạch phát động quấn chúng, xây dựng đội
ngũ cán bộ ở những nơi phong trào yếu kém, hay đang có vấn đề tranh chấp khiếu kiện.
1.1.3. Đặc điểm tình hình quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum
Qua tìm hiểu nghiên cứu tình hình đạo Công giáo ở Kon Tum, có thể khái quát
quần chúng tín đồ Công giáo ở đây có những nét đặc điểm chủ yếu sau:
Một là, quấn chúng tín đồ theo đạo Công giáo ở Kon Tum không chỉ có giáo
dân người kinh mà còn có và chủ yếu là giáo dân người dân tộc thiểu số. Đạo Công
giáo ở Kon Tum không những có vùng toàn tòng mà còn có vùng tập trung hoặc đan
xen trong các vùng dân cư, có các tôn giáo khác hoặc không có tôn giáo.
Hiện nay, Kon Tum có 7 huyện, thị xã có tín đồ theo đạo Công giáo sinh sống,
phân bố trên tất cả từ khu vực thị xã đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dần tộc,
vùng kinh tế mới, đặc biệt ở một số địa bàn chiến lược quan trọng như: Đăk glu (vùng
cao Ngọc Linh, Mường Hon); Măng Bút, Măng Đen (Kon plông); Ngọc Hồi (ngã ba
Đông Dương). Đặc biệt, có xã và điểm kinh tế mới toàn tòng (chiếm 75% đến 80% giáo
dân so với dân số trong xã) như ở Đăk tơ re - huyện Kon plông, xã Ya Chim - thị xã
Kon Tum, xã Diên Bình - huyện Đăk Tô nhiều làng dân tộc trước đây bị địch dồn dân
lập ấp chiến lược khi trở về 100% giáo dân theo đạo Công giáo. Trong các cơ quan nhà
nước như ngành giáo dục, y tế, các doanh nghiệp và lâm trường, trạm, trại số giáo dân
cũng chiếm tỉ lệ đáng kể (trên 2347 người, trong đó có 10% lợi dụng để dạy giáo lý cho
học sinh). Tổng số giáo dân là 94.075 tín đồ trong đó có 73.566 tín đồ là đồng bào dân
tộc ít người * (Báo cáo công toác tôn giáo của Ban tôn giáo ủy ban nhân dân tỉnh Kon
Tum, số 35/BC - TG ngày 15 tháng 1 năm 2000). Tập trung đông nhất là ở thị xã Kon
tum: 44.689 tín đồ; Đăk Hà: 18.436 tín đồ; Đăk Tô: 16.130 tín đồ; Ngọc Hồi: 5.024 tín
đồ; Đăk glu: 2.596 tín đồ; Sa Thầy: 3.140 tín đồ; Kon plông: 4.060 tín đồ. Toàn tỉnh có
2 Giám mục, 19 Linh mục trong đó có 3 Linh mục đang đi học ở Pháp, 88 nữ tu, 514
giáo phu, câu biện đặc biệt ở Kon Tum có dòng tu ảnh phép lạ dành riêng cho chị em
người dân tộc tại chỗ, Về tổ chức giáo hội có Tòa Giám mục chung của hai tỉnh Kon
Tum và Gia Lai, riêng ở Kon Tum có 27 xứ đạo 22 họ đạo... trong đó có 13 xứ đạo có
nhà thờ còn 14 xứ đạo chưa có nhà thờ hoặc đã dó nhưng đã bị hư hỏng do chiến tranh,
hoặc thời tiết, có 11 nhà thờ, toàn tỉnh có 45 nhà nguyện các loại, có 2 nhà trẻ mồ côi
với hơn 400 cháu của thị xã và các huyện đang được nuôi dạy, 19 lớp mẫu giáo tư thục
với hơn 500 cháu theo học, Tòa Giám mục đang quản lý 24,4 ha đất các loại (trước giải
phóng giáo hội Kon Tum quản lý, sử dụng 2091,5 ha và nhiều sở kinh tế, giáo dục, y tế,
từ thiện sau giải phóng 1975 họ đã hiến hoặc chuyển quyền sử dụng, cho chính quyền
mượn tổng số có 20 cơ sở chuyển thành sở hữu nhà nước.
Hai là, Giáo dân Công giáo ở Kon Tum phần đông là người lao động, chủ yếu
là nông dân, họ là những người cần cù lao động, gắn bó với quê hương, có tinh thần
đoàn kết cộng đồng. Giáo dân người dân tộc thiểu số ở đây sống chân thật, chất phác,
đơn giản và dễ hiểu, tông giáo còn mang đậm sắc thái "văn hóa bản địa".
Điều kiện tự nhiên của tỉnh Kon Tum có diện tích tương đối lớn, đất rộng,
người thưa. Giáo dân phân bố không đồng đều, trừ một số sống tập trung ở thị xã Kon
Tum là tiểu thương; làm ăn buôn bán nhở, còn chủ yếu là người nông dân lao động sống
ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế mới, vùng thường xuyên gặp nhiều khó khăn về
điều kiện sản xuất, đi lại, điện nước sinh hoạt, điều kiện học hành và nhu cầu văn hóa
khác.
Những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, đồng bào giáo dân đã
hưởng ứng tích cực, phát huy nguồn lực của cộng đồng, đầu tư sản xuất chuyển dịch cơ
cấu, đa dạng hóa ngành nghề, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội ở mỗi vùng dân cư
ngày càng phát triển. Nhiều giáo dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế mới đã hòa
nhập với phong trào chung, đầu tư chiều sâu, mở rộng ngành nghề truyền thống, ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản
xuất hàng hóa. Một bộ phận giáo dân làm kinh tế qua gia đình quản bằng thâm canh
tăng vụ, khoanh nuôi, cải tạo, tách hộ lập vườn, nhận đất khoán rừng, bảo vệ rừng; khai
thác kinh tế vùng đồi. Nhiều gia đình có vốn trồng cà phê, sắn, dứa, các loại cây ăn quả,
như ở các huyện Đăk glây, Đắc Hà, Đắc Tô, thị xã Kon Tum. Đời sống của giáo dân
đang có nhiều đổi mới, khởi sắc theo đà phát triển chung của xã hội.
Đánh giá về sự chuyển đổi trong đời sống kinh tế của đồng bào giáo dân Kon
Tum, Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 24 - NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, của Tỉnh ủy Kon Tum ngày 01/7/1997 ghi
rõ: "Số hộ có kinh tế khá tăng từ 5 - 10%, số hộ nghèo đói giảm từ 40% năm 1991
xuống còn 25% năm 1996, có nơi chỉ có 15 - 20%, nhiều nhà dân đời sống khá, có điện
để sinh hoạt, nhiều gia đình mua sắm được xe máy, đài, ti vi, các phương tiện khác phục
vụ sản xuất và nâng cao đời sống tinh thần, các hoạt động "uống nước nhớ nguồn", "đền
ơn đáp nghĩa" ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, thiên tai, cùng nhau giúp vốn xây dựng cuộc
sống mới, xóa đói giảm nghèo, nuôi con khỏe dạy con ngoan... được giáo dân hưởng
ứng tốt. Tinh thần chung của giáo dân là cởi mở, giải tỏa bớt mặc cảm, coi sự nghiệp
đổi mới của Đảng phù hợp với lợi ích của bản thân và gia đình họ, do đó họ đã hưởng
ứng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và thực hiện pháp luật của nhà nước.
Hình dung như một bức tranh thu nhỏ của đất nước, hiện nay ở Kon Tum song
song tồn tại hai thành phần dân cư - dân tộc chủ yếu. Đó là khối dân cư người kinh và
khối dân cư người dân tộc ít người. Với quấn chúng tín đồ Công giáo là cư dân dân tộc
ít người, bên cạnh tôn thờ tôn giáo độc thân (Công giáo) vẫn cùng lúc tôn thờ tín
ngưỡng đa thần, mang đậm mầu sắc phong tục tập quán trong ma chay, cưới xin, cúng
Giàng. Sau mùa thu hoạch xong tổ chức đâm trâu, cúng thần mưa, thần gió... kéo dài
vài ngày. Riêng đối với tín đồ Công giáo người Kinh là những cư dân có nguồn gốc từ
đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ, vẫn giữ nguyên những phong tục tập quán của nguồn
cội, quê hương, dân tộc, thờ Thần Hoàng tổ chức cúng hàng năm, thờ cúng Đức Thánh
Trần, cúng sao... hành hương về các chùa tổ. Điều đó thể hiện tính đan xen, hòa quyện
giữa đức tin và sắc thái văn hóa trong đời sống tinh thần của quần chúng tín đồ theo đạo
Công giáo ở Kon Tum.
Ba là, giáo dân Công giáo tỉnh Kon Tum về đời sống vật chất và tinh thần,
những năm gầy đây, tuy đã được cải thiện song so với yêu cầu chung thì còn nhiều thấp
kém; giác ngộ chính trị thấp, nhiều người thiếu hiểu biết pháp luật, ý thức vươn lên làm
chủ chưa cao, nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng có xu hướng tăng:
Với sự da dạng, phức tạp có tỷ lệ dân theo Công giáo vào loại cáo nhất so với
các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên (chiếm gần 28% dân số toàn tỉnh) và vấn đề tôn
giáo lại quyện chặt với vấn đề dân tộc. Đa số tín đồ Công giáo là nông dân lao động, có
một số tín đồ người Kinh buôn bán làm dịch vụ. Giáo dân người Kinh cuộc sống của họ
có khá hơn giáo dân người dân tộc, bởi lẽ cuộc sống của họ thường ở những nơi có khu
vực thuận lợi, trù phú, đặc biệt ở thị trấn, thị xã, ven trục đường lớn, thuận lợi về giao
thông và giao lưu xã hội; trong có chế thị trường, một phầ trong số họ biết cách kinh
doanh, làm ăn đã giầu lên, có người trở thành chủ doanh nghiệp nhỏ. Nhưng nhìn chung
đời sống của giáo dân người Kinh ở đây do làm lao động thủ công và dịch vụ tự do nên
cũng chỉ đủ ăn, một số đông người vẫn còn túng thiếu. Họ là những người có tín
ngưỡng Công giáo, cuộc sống còn nhiều khó khăn, trình độ văn hóa thấp, nên họ theo
đạo khá sâu sắc và có một bộ phận cuồng tín. Số người biết làm ăn kinh tế, đời sống khá
giả chỉ chiếm khoảng 5 - 8%. Một bộ phận từ 20 - 25% đời sống còn khó khăn; trình độ
dân trí thấp, thấp hơn những cư dân không theo đạo. Trên 80% giáo dân có trình độ hết
phổ thông cơ sở, số người có trình độ phổ thông trung học và cao hơn chỉ chiếm trên
10%. Số người mù chữ và tái mù chữ còn khá lớn. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường,
giáo dục vùng giáo vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Học sinh gốc giáo bỏ học
nhiều hơn, nhất là học sinh ở các lớp cuối phổ thông cơ sở. Qua thăm dò ý kiến ở các xã
có đông giáo dân như xã Đăk Kong (huyện Ngọc Hồi) và ngay cả thị xã Kon Tum cho
thấy: 40% muồn con em học hết cấp II; 18% cho học hết phổ hông trung học và chỉ có
gần 2% cho con em theo học đại học, cao đẳng. Nhìn chung trình độ giác ngộ, nhận
thức xã hội còn thấp, người giáo dân lại rất chăm chỉ việc đạo, siêng đi rước lễ, xưng
tội. Đó là vấn đề đáng lo ngại và có ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt trong đó có công tác
vận động quần chúng tín đồ Công giáo.
Do tín ngưỡng Công giáo bén rễ ăn sâu vào tư tưởng, tỉnh cảm của mỗi con
người, qua nhiều thế hệ, chi phối nếp nghĩ, lối sống và ứng xử của cả một cộng đồng
lớn, nhở khác nhau. Con người tìm đến với đạo như tìm niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần,
tuy nhiên không phải chỉ "sự sợ hãi tạo ra thần linh" mà cả những tình cảm tích cực
như: niềm vui sướng, sự thỏa mãn, lòng kính trọng, tự hào... con người cũng muốn san
sẻ trong tôn giáo.
Quần chúng giáo dân người KInh có niếm tin "tuyệt đối" vào chúa, tin có thiên
đàng, địa ngục. Quan hệ giữa chúa và giáo dân là quan hệ giữa cha và con: "Kính mến
Chúa là trên hết mọi sự". Còn quan hệ giữa người có đạo và giám mục, linh mục là mối
quan hệ giữa người "Chăn chiên" với bề tôi.
Dưới chế dộ cũ, đạo Công giáo đã từng phát triển với quy mô nhiều mặt, in dấu
ấn sâu vào từng xóm, thôn. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa với chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta đối với đạo Công giáo, hoạt động của đạo công giáo được pháp
luật bảo hộ - diễn ra bình thường. Do vậy các tín đồ phấn khởi, tin tưởng vào đường lối
đổi mới của Đảng và chính sánh của Nhà nước ta. Trong công cuộc đổi mới hiện nay,
quấn chúng tín đồ Công giáo người Kinh có nguyện vọng thiết tha là được tự do hành
đạo, tuân thủ hiến pháp và pháp luật, xây dựng đất nước giầu mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, mọi người được sống trong hạnh phúc.
Đối với quần chúng tín đồ Công giáo người dân tộc thiểu số mức sống còn thấp
hơn nhiều so với giáo dân người Kinh, họ chủ yếu phân bố ở các xã vùng sâu, vùng xa
nên tính bảo thủ các tập tục, tâm lý lạc hậu còn rất lớn. Sự phân bố như vậy ít tạo điều
kiện có các giáo dân người dân tộc ít người học tập, tiếp thu những cái hay, cái tốt ở
cộng đồng khác, nhất là cộng đồng người Kinh.
Với nền kinh tế cổ truyền dựa vào thiên nhiên và mang tính chất tự nhiên, tự
cấp tự túc. Đó là nền kinh tế mà chăn nuôi chưa tách ra khỏi trồng trọt, ngành nghề thủ
công còn ở trình độ thấp kém, hoạt động trao đổi hàng hóa chưa phát triển để cho phép
hình thành một lớp thương nhân chuyên nghiệp bản địa cũng như để hình thành một sự
phân công chuyên hóa trong lao động. Sản phẩm truyền thống và một vài vật dụng cần
thiết cho cuộc sống. Phương thức canh tác phổ biến của giáo dân người dân tộc là phát -
đất - chọc - tỉa. Họ gieo trồng lúa, khoai, sắn, bắp... trên các nương rẫy mới được khai
hoang để rời vài ba năm sau lại bỏ hóa và tiếp tục cuộc sống du canh, du cư. Công cụ
lao động của họ còn hết sức đơn giản, như sử dụng bàn tay để tuốt lúa, gậy để chọc lôc,
hoặc tiến bộ hơn mới dùng cuốc, niếc. Trong kỹ thuật canh tác đã sử dụng phương pháp
xen canh giới vụ. Gần đây với sự vận động và đầu tư của nhà nước, một số vùng đã biết
kỹ thuật canh tác lúa nước, kỹ thuật trồng các loại cây công nghiệp như: cà phê, cao
su... cũng như kỹ thuật bảo vệ rừng.
Cao nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển chăn nuôi, nhưng từ xưa
đến nay, giáo dân người dân tộc vẫn có thói quen chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm
như: Trâu, bò, heo, gà, dê... Theo phương thức thả rong gần nơi cư trú hay trong rừng.
Người giáo dân ở đây có một tính cảm đặc biệt với mọi vật nuôi, và có lé vật nuôi có
giá trị để làm lễ vật, cúng tế, phạt vạ nhiều hơn là giá trị dùng để trao đổi hoặc là nguồn
sức lao động hay thực phẩm. Khác với các dân tộc ở phía Nam Tây nguyên, săn bắt
không phải là một nghề chính, họ không có những phường hội săn bắt, vũ khí sử dụng
và phương thức săn bắt cũng hết sức thô sơ đơn giản. Hái lượm lâm thổ sản sẵn có trong
rừng vẫn được coi như một nghề trong cuộc sống.
Ngoài hoạt động nông nghiệp, đồng bào giáo dân còn có một số ngành thủ công
truyền thống như: Đan lát, dệt, mộc, rèn, làm đồ gốm... Hoạt động thương mại trong
cộng đồng giáo dân người dân tộc còn rất sơ khai, hàng hóa mới chỉ đóng vai trò làm
chức năng trao đổi chứ chưa đủ sức phát triển mạnh thành một thị trường kinh tế hàng
hóa.
Bản thân nền kinh tế cổ truyền của họ là dựa vào thiên nhiên, mang tính tự cấp,
tự túc, đơn vị kinh tế vẫn là từng gia đình, phương thức sản xuất lại lạc hậu theo tập
quán từ ngàn đời nên hiệu quả sản xuất rất thấp, sản phẩm làm ra không đủ nuôi sống
bản thân và gia đình. Bên cạnh đó, một đặc điểm đáng chú ý là việc thiếu kế hoạch,
thiếu tính toán lâu dài và lãng phí trong các lễ nghi, hội hè của giáo dân đã làm cho cuộc
sống của họ càng khó khăn, đói kém.
Từ khi chia tách tỉnh đến nay, đưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương. Tỉnh
ủy Kon Tum đã có nhiểu chủ trương quan tâm đầu tư xây dựng ở các vùng cao, vùng
biên giới, vùng đồng bào có đông giáo dân sinh sống ở trên tất cả các mặt: Tình hình
kinh tế chính trị, xã hội, an ninh - quốc phòng ở những nơi đó có bước chuyển biến
đáng kể; đời sống đồng bào dân tộc (cũng như giáo dân) đã từng bước được cải thiện.
Song tình trạng đói nghèo bệnh tật, dân trí thấp vẫn còn phổ biến; (hộ nghèo còn nhiều,
loại thu nhập 50.000đ/người/ tháng chiếm 57%; loại thu nhập 40.000đ/ người/ tháng
chiếm 28%; loại 20.000đ/ người/ tháng còn 20%. Chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các vùng giáo dân người Kinh và giáo dần người dân tộc ngày càng lớn). Tỉ lệ mù chữ
trong giáo dân người dân tộc khá cao, hơn 60% số người trong độ tuổi từ 15 - 35 tuổi.
Do điều kiện kinh tế và do trình độ nhận thức thấp, với lối tư duy cụ thể, trực
tiếp cảm tính nên họ không hiểu được bản chất của những hiện tượng: Sấm chớp, mưa
bão, lũ lụt, hạn hán và ngay cả những thành tựu kỳ diệu của con người trong thời đại
ngày nay. Đứng trước những hiện tượng đó, cảm thấy con người quá bé nhỏ, bị chúng
đe dọa, chi phối, chế ngự. Cho nên, họ tổ chức thờ cúng, bói toán, ma chay, cầu nguyện
vì thế họ dễ bị kẻ địch lợi dụng để chống phá cách mạng nước ta. Những mặt hạn chế
trên đây của giáo dân, vừa có yếu tố chủ quan từ bản thân nhận thức và hoạt động thực
tiễn của họ, vừa có yếu tố khách quan về điều kiện địa lý, xã hội và sự tác động mạnh
mẽ của tổ chức Giáo hội ở Kon Tum.
Bốn là, Về tâm lý, tư tưởng của quần cúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum.
Một điều kỳ lạ, nhưng có thực là người dân công giáo vẫn đinh ninh rằng: Cuộc
sống của họ đang tồn tại trên trần thế này lại là cuộc sống gửi gắm, tạm thời, "rèn
luyện" mà cuộc sống thực là ở thế giới "bên kia", khi đã về cùng với chúa.
Chính vì vậy một tâm ký thờ ơ, lảng tránh tất cả với mọi cuộc dấu tranh, mọi sự
"cọ sát" của xã hội để được "an phận" với "số mệnh" của một tín đồ. Họ cho rằng đấu
tranh thậm trí chỉ "mâu thuẫn với nhau" đều là các tội, mà đã là tội thì phải "xưng tội"
để chúa giải tội. Đấu tranh là ngược với "ý chúa" vì chúa đã từng dạy: "tha thứ cho kẻ
kinh rẻ mình, nhịn kẻ xúc phạm đến mình" v.v...
Trên đây là đặc điểm tâm lý xã hội có tính tiêu cực đã, và đang tồn tại và có
chiều hướng phát triển trong đồng bào theo đạo Công giáo ở Kon Tum. Với đặc điểm
tâm lý này, tôn giáo nói chung và đạo Công giáo nói riêng trở thành sức ỳ tâm lý xã hội
và là vật cản kìm hãm sự phát triển của xã hội. Đặc điểm này thể hiện tính phản xã hội
và thủ tiêu đấu tranh của tôn giáo nhất là khi xã hội còn phân chia giai cấp, còn có áp
bức bóc lột thì càng nguy hiểm. Nói cách khác đây là mặt trái, mặt hạn chế của tôn giáo.
Đảng và nhà nước ta, nhất là những người làm công tác vận động quần chúng tín đồ
Công giáo ở Kon Tum phải nắm bắt cụ thể, chính xác và phải theo sát từng biến chuyển
của giáo hội, giáo dân, từ đó có sự tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục sát thực, phù hợp
với "ý chúa", lòng dân và mục tiêu vận động quần chúng cụ thể ở từng xã, từng địa bàn
có giáo dân. Nếu đi sâu vào nghiên cứu hoạt động thực chất của giáo hội ta còn có thể
đề cập đến một số mặt tiêu cực của chức sắc tôn giáo như: quyền lợi, khác với tín đồ,
như sự áp bức trói buộc khống chế giáo dân, vì ký họ là "ý trời" thay "trời". Họ muốn
tôn giáo phát triển vô tận và cấu kết với khoa học để duy trì tôn giáo. Một bộ phận
không hiểu rõ tính chất phản động, do đó dễ bị địch lợi dụng để chia rẽ và phá hoại
những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và tiến bộ của nhân loại.
Đạo Công giáo có mặt tiêu cực, song cũng có mặt tích cực của nó rất đáng được
lưu ý. Tôn giáo nào cũng luôn hướng cho mọi người làm điều "thiện", tránh điều "ác",
có thể nói tính hướng thiện là nguồn gốc nguyên thủy của tôn giáo nói chung và đạo
Công giáo nói riêng.
Quần chúng giáo dân Kon Tum rất phấn khởi tin tưởng vào Chúa và Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tin Chúa vì đó là tín ngưỡng của họ. Lòng tin của họ xuất phát từ
sự hướng thiện trong giáo lý: "Làm điều lành, tránh điều ác" nếu không tin họ sẽ phạm
tới "tuyệt thống". Họ tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam, vì Đảng đem lại độc lập, tự do,
ấm no hạnh phúc cho họ, "ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Nghĩa là
Đảng lo phần xác cho họ vì thế câu nói cửa miệng của hầu hết giáo dân là "ơn Chúa, ơn
Đảng, ơn Cụ Hồ, chúng tôi mới có ngày nay".
Quần chúng phấn khởi tin tưởng trước những thắng lợi của sự nghiệp đổi mới
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng đưa đất nước ta từng bước thoát khỏi
những khủng hoảng kinh tế xã hội thực hiện chính sách mở cửa, phá thế bao vây kinh tế
của địch, giành được thắng lợi quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.
Đất nước ổn định, hòa bình, không có chiến tranh, giáo dân yên tâm chăm lo
việc đạo, việc đời. Chỉ dưới chủ nghĩa xã hội, gia đình mới thực sự có hạnh phúc, đạo
đức phẩm giá con người được tôn trọng, truyền thống văn hóa được phát huy. Nhà nước
có chính sách tự do tín ngưỡng, ai cũng được bảo đảm có quyền tự do tín ngưỡng và tự
do không tín ngưỡng. Ai vi phạm quyền đó sẽ bị pháp luật trừng trị. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đời sống vật chất tinh thần của bà con giáo dân ngày một
nâng cao. Đặc biệt từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về thay đổi cơ chế quản lý
trong nông nghiệp, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm khóa VII về
nông nghiệp, nông thôn, bộ mặt nông thôn đã, đang và sẽ thay đổi nhanh chóng.
Tuy nhiên quần chúng giáo dân hiện nay vẫn còn băn khoăn lo lắng.
Trong bối cảnh Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, Việt
Nam bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động phá hoại nhiều mặt... liệu chủ nghĩa
xã hội có đứng vững được ở Việt Nam hay không?
Tình trạng tham nhũng, hối lộ, cửa quyền trong Đảng và bộ máy nhà nước; hiện
tượng tiêu cực phát triển, đạo đức suy thoái, văn hóa xã hội xuống cấp... liệu có cứu vãn
được không?
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có chính sách tự do tín ngưỡng, song quần chúng
giáo dân vẫn lo sợ mất đạo, không chỉ đối với họ mà cả các thế hệ con cháu. Chính vì
thế họ ngại cho con đi học, đỗ đạt cao, tham gia các đoàn thể quần chúng.
Quần chúng giáo dân chưa thật sự yêu tâm về sự đối xử ở một số nơi, ở từng lúc
chưa được công bằng giữa lương và giáo trong việc tự do tín ngưỡng, tu sửa nhà thờ,
tuyển dụng con cái đi học, đi làm và đi bộ đội. Thậm chí đảng viên gốc giáo cũng còn bị
"mặc cảm" vì chưa được các cấp lãnh đạo tin tưởng hoàn toàn.
Tôn giáo bung ra nhiều hội đoàn, tốn kém tiền của, mất thời gian sản xuất, làm
nhiều gia đình khó khăn về kinh tế. Có việc không muốn song cũng vẫn phải làm, nếu
không sẽ bị giáo hội phạt vạ. Chính vì thế, bà còn muốn giữa giáo hội và chính quyền
địa phương có sự phối hợp, có tiếng noi chung trong một số việc làm như: Các hoạt
động tôn giáo lành mạnh, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước. Có như thế bà
còn mới làm tròn được bổn phận vừa là con chiên của Chúa, đồng thời là một công dân
tốt của xã hội, có điều kiện "làm tốt cho đời, làm đẹp cho đạo". Nhưng trên thực tế vẫn
còn nhiều vướng mắc, thành kiến tưởng như không tháo gỡ được.
Đối với cán bộ chủ chốt ở cơ sở, giáo dân biết ơn về sự quan tâm đời sống vật
chất, tinh thần của họ. Song họ lo ngại trước sự khắt khe giải quyết các vấn đề tín
ngưỡng, lo ngại về trình độ năng lực, nhất là sự am hiểu đường lối chính sách về tôn
giáo của Đảng. Nhiều công việc không được giải thích "thấu tình hợp lý" mà hay áp
dụng biện pháp hành chính khô cứng, có khi thô bạo... những điều đó làm cho giáo dân
càng thêm mặc cảm.
Đồng bào mong muốn Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương có chính sách
tích cực đối với vùng giáo về giáo dục, y tế, giao thông đối với vùng sâu, vùng xa, tìm
kiếm công ăn việc làm, xây dựng nông thôn mới...
Để nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon
Tum, một trong những vấn đề cơ bản là nắm được các đặc điểm trên. Chính những đặc
điểm đó đặt ra yêu cầu và cho chúng ta những cơ sở thực tiễn để xác định những
phương hướng, giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động quần
chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum trong tình hình cụ thể hiện nay.
1.2. Thực trạng công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon
Tum từ khi đổi mới đến nay
Nghị quyết số 4/TƯ ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về Tăng cường công tác
tôn giáo trong tình hình mới là sự thể hiện tinh thần đổi mới của Đảng ta về công tác tôn
giáo. Sau khi Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị ra đời, ngày 21/3/1991 Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) ra Nghị định 69/HĐBT quy định về các hoạt động tôn giáo
(thay thế cho Nghị quyết số 297/CP ngày 11/11/1977), đồng thời Ban Tôn giáo Chính
phủ ra Thông tư 01 và 02 hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 24 và Nghị định 69. Đặc
biệt, gần đây Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 37-CT/BCT ngày 2/7/1998 về công tác tôn
giáo trong tình hình mới. Đây là lần đầu tiên một Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo
được Đảng công khai; tiếp đến Chính phủ ban hành Nghị định 26/1999/CP ngày
19/4/1999 về các hoạt động tôn giáo.
Trên cơ sở các văn bản trên của Trung ương; căn cứ vào tình hình thực tiễn của
địa phương, Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã xác định công tác tôn giáo và
dân tộc đối với địa bàn Kon Tum và Tây Nguyên nói chung là rất quan trọng, cấp thiết.
Tỉnh ủy đã có Thông tri số 02/TT/TƯ ngày 20/7/1992 về Công tác tôn giáo trong tình
hình mới; ủy ban nhân dân tỉnh cũng đã có Chỉ thị số 14/CT-UB ngày 2/6/1995 cụ thể
hóa Nghị định 69 về công tác tôn giáo trên địa bàn tỉnh, đồng thời Tỉnh ủy, ủy ban nhân
dân tỉnh cũng đã có kế hoạch hướng dẫn các cấp, các ngành triển khai. ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh cũng đã soạn thảo bằng câu hỏi vấn đáp các chương, điều trong
Nghị định 69 để tuyên truyền học tập trong nhân dân các dân tộc trên địa bàn. Đây là
bước chuyển quan trọng đối với công tác tôn giáo nói chung và công tác vận động quần
chúng tín đồ theo đạo Công giáo nói riêng trên địa bàn tỉnh Kon Tum.
Bằng những nhận thức mới về đạo Công giáo và những phương pháp mới
được áp dụng trong công tác vận động quần chúng tín đồ theo đạo Công giáo. Trong
những năm qua công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum bước
đầu đã đạt được kết quả khả quan, đó là:
Trước hết, đội ngũ cán bộ của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và
các đoàn thể đã có được những tiến bộ mới trong nhận thức về tôn giáo và công tác
vận động quần chúng tín đồ Công giáo
Trong những năm gần đây, công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về tôn giáo và
công tác tôn giáo ở tỉnh cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở nói chung, cán bộ làm công
tác tôn giáo nói riêng đã được cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Kon Tum chú trọng quan
tâm:
- Ban Tổ chức Tỉnh ủy tỉnh đã cử 51 cán bộ đi học tại Gia Lai, Nha Trang, Huế
về công tác tôn giáo trong năm 1995 - 1996; và trong năm 1998 cử 3 cán bộ của Ban
Tôn giáo và Trường Chính trị tỉnh đi học lớp Cao học tôn giáo tại Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh tại Hà Nội.
- Gần đây Trường Chính trị tỉnh đã tổ chức lớp Cử nhân chính trị do Học viện
Chính trị Quốc gia vào giảng môn "Tôn giáo và Tín ngưỡng", góp phần quán triệt Nghị
quyết 24 của Bộ Chính trị và Nghị định 69 của Chính phủ cho 67 học viên, phần lớn là
cán bộ chủ chốt của tỉnh và huyện nhằm tăng thêm nhận thức cho cán bộ. Do đó, chất
lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở, ở địa phương có những chuyển biến tốt hơn trong nhận
thức về tôn giáo và công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo.
Hai là, từ nhận thức đó và thông qua hoạt động trực tiếp hàng ngày, các tổ
chức cơ sở ở địa phương đã nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, tâm lý xã hội, nhu
cầu của quần chúng và đã kịp thời giải quyết những yêu cầu bức thiết chính đáng đó
của quần chúng
ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hội Nông dân, Liên đoàn Lao động đã giáo dục, tổ chức các hội
viên không phân biệt lương giáo thành những đội thanh niên xung kích trong lao động
sản xuất, thanh niên lập nghiệp, thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự. Hội Nông dân
cũng đã có nhiều mô hình sản xuất giỏi như tách hộ lập vườn, trồng cây công nghiệp...
Hội Phụ nữ cũng đã vận động chị em phụ nữ cùng nhau giúp vốn tăng gia sản xuất, xóa
đói giảm nghèo, phong trào phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nuôi con khỏe,
dạy con ngoan... Liên đoàn Lao động tỉnh cũng đã có nhiều mô hình sáng tạo, xây dựng
đội ngũ công nhân trong các cơ quan, xí nghiệp... ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh cũng đã
có nhiều cuộc vận động: toàn dân đoàn kết tham gia xây dựng cuộc sống mới khu dân
cư, phong trào đền ơn đáp nghĩa, tổ chức thăm hỏi động viên các chức sắc trong ngày lễ
trọng... Nhìn chung, các phong trào của Mặt trận, các đoàn thể được tổ chức chặt chẽ.
Số anh chị em trong đạo Công giáo có lý lịch rõ ràng, được thử thách trong lao động,
học tập, rèn luyện đã được kết nạp vào Đoàn, Đảng và tổ chức vào các ngành, nghề ở
xã, thôn, doanh nghiệp nhà nước và thu nhận vào các cơ quan như ngành giáo dục, y tế
và các nghề khác.
Những việc làm trên đối với giáo dân tuy mới là kết quả bước đầu nhưng có ý
nghĩa chính trị sâu sắc, làm tiền đề để từng bước xóa bỏ mặc cảm, nâng cao giác ngộ
chính trị cho quần chúng giáo dân, đáp ứng những nguyện vọng chính đáng trong cuộc
sống, gắn bó đoàn kết thương yêu nhau giữa người lao động lương giáo ngày càng chặt
chẽ hơn. Chính vì vậy, có một số quần chúng tín đồ theo đạo Công giáo, nhất là số tân
tòng ở những nơi không có nhà thờ, Linh mục, vùng sâu, vùng xa trong những năm qua
dần dần nhạt đạo, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nguyện đi theo con
đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn, phấn đấu và tham gia vào mọi công tác ở địa
phương, cơ sở.
Đảng bộ tỉnh Kon Tum luôn nắm vững quan điểm, chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về tôn giáo, quan tâm chỉ đạo lĩnh vực công tác vận động quần
chúng tín đồ Công giáo và kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc đặt ra. Bởi vậy,
mặc dù đặc thù của một địa phương vừa có dân tộc, vừa có tôn giáo và biên giới...
nhưng luôn luôn giữ được khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết các tôn giáo, trong tỉnh giữ
vững được ổn định về chính trị và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Đời sống tinh
thần, vật chất của quần chúng - kể cả vùng theo đạo Công giáo không ngừng được phát
triển.
Đơn cử như: ủy ban nhân dân tỉnh đã có hai văn bản chỉ đạo cho các ngành
chức năng xử phạt vi phạm hành chính, như xây dựng nhà thờ trái với thiết kế được
duyệt (nhà thờ xã Hòa Bình), dựng tượng thánh giá tại hoa viên cây xanh Tân Hương.
ủy ban nhân dân các huyện, thị xã có những quyết định, chỉ thị xử lý hành chính và
cưỡng chế tháo dỡ 3 nhà nguyện ở Đăkglei; nhiều nhà nguyện xây dựng trái phép ở các
huyện, thị xã. DO phát hiện và xử lý những vi phạm trên được kịp thời nên đã góp phần
làm ổn định tình hình chính trị ở địa phương. Trong quá trình giải quyết các vụ việc trên
có lúc, có nơi, một số chức sắc tôn giáo cực đoan đã kích động tín đồ gây áp lực với
chính quyền cơ sở. Song qua phát động quần chúng, đấu tranh kiên quyết với các Giám
mục, Linh mục, quá trình xử lý hợp lòng dân, được quần chúng đồng tình ủng hộ,
không vi phạm chính sách tôn giáo; đồng thời cũng giúp cho giáo dân Công giáo hiểu
được chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nên việc chấp hành có nghiêm hơn.
Gần đây cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể đã quan tâm đến
công tác xây dựng đội ngũ cốt cán cơ sở, tổ chức hội đoàn trong hệ thống chính trị được
chặt chẽ hơn như ở thị xã Kon Tum, Đăk Tô, Ngọc Hồi; chú ý bồi dưỡng, kết nạp số
đảng viên gốc giáo, nâng tổng số đảng viên gốc giáo toàn tỉnh lên 151 đồng chí, trong
đó tại thị xã Kon Tum có 80 đồng chí. Tuy nhiên việc quản lý số đảng viên gốc giáo
chưa chặt chẽ; số đảng viên gốc giáo trong kháng chiến còn lại 44 đồng chí thì hầu hết
già yếu không hoạt động năng nổ như trước.
Công tác tranh thủ giáo sĩ, cải tạo giáo hội trong thời gian qua có quan tâm
đúng mức, đã thường xuyên tiếp xúc với các chức sắc, chức việc, tầng lớp trên và tín đồ
theo đạo Công giáo để hiểu tâm tư nguyện vọng chính đáng của họ, đồng thời biết ý đồ
xấu của họ để có kế hoạch đấu tranh ngăn chặn kịp thời. Đối với các hoạt động tôn giáo
vượt ra ngoài phạm vi quy định của luật pháp, ta đã chủ động gặp gỡ đối thoại với số
chức sắc, cốt cán để đấu tranh ngăn chặn kịp thời như việc dựng cây thánh giá nhằm lấn
chiếm đất công tại thôn 4 xã Chư HReng thị xã Kon Tum, vụ làm nhà thờ trái phép tại
làng Kon Bơ Băn xã Ngọc Réo, vụ làm nhà nguyện trái phép tại làng Đăk Tiêng Kơ Tu,
xã Đăk La, tại làng Kon Gu 1, Kon Gu 2 xã Ngọc Vang (huyện Đăk Hà). Ngăn chặn vụ
cấm phòng giáo chức toàn phận nhân dịp kỷ niệm 150 ngày truyền giáo lên Kon Tum
của tòa giám mục Kon Tum không đăng ký xin phép chính quyền (tháng 3/1998). Ngoài
ra, chúng ta đã tiến hành liên tục công tác tranh thủ phân hóa giáo sĩ và tiến hành răn đe
giáo dục, cô lập số linh mục cực đoan chống đối, vô hiệu hóa các hoạt động có phương
hại đến an ninh, trật tự của họ, hạ uy tín của số này trong giáo hội cũng như đối với
quần chúng giáo dân trong toàn địa phận.
Thứ ba, qua hoạt động thực tiễn - công tác vận động quần chúng tín đồ Công
giáo ở Kon Tum đã tạo nên sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức tư tưởng trong
quần chúng giáo dân; thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước
- Quá trình vận động quần chúng tín đồ Công giáo đã cơ bản xóa đi được mối
nghi ngờ của giáo dân đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn
giáo nói chung và đối với đạo Công giáo nói riêng. Quần chúng tín đồ theo đạo Công
giáo phấn khởi, yên tâm và tin tưởng hơn vào đường lối đổi mới của Đảng với mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Họ đã và đang có nhiều
đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng của địa
phương và đất nước.
Sự nghiệp đổi mới, chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quần chúng tín đồ Công giáo rất phấn
khởi và cho rằng đây là chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, nhằm ổn định tình hình
kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất, cải thiện và nâng cao dần đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Có nhiều hộ ở huyện Đăk Hà, xã Hòa Bình (thị xã Kon Tum) đã đầu
tư từ 200 triệu đến 500 triệu để phát triển ngành nghề, chăn nuôi, trồng cà phê... Việc
đồng bào tín đồ Công giáo phấn khởi làm ăn đã tạo ra những biến đổi to lớn trong đời
sống kinh tế - xã hội, mức sống được cải thiện. Đã có những gia đình làm ăn khá giả,
giàu lên làm được nhà kiên cố, làm thay đổi bộ mặt quê hương, đường nông thôn, khu
phố được tu bổ, sạch đẹp, cuộc sống cộng đồng khởi sắc.
Thực hiện chính sách văn hóa đối với tôn giáo, giáo dân Công giáo đã luôn
được sinh hoạt bình thường, đồng bào vui mừng phấn khởi, cơ sở thườ tự được sửa sang
lại (trong năm qua chúng ta đã cho xây mới 2 nhà thờ, 10 nhà nguyện và hầu hết các
nhà thờ xứ), các sinh hoạt tôn giáo sôid dộng hẳn lên. Đồng bào Công giáo ủng hộ sự
nghiệp đổi mới, tin vào sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà
nước, thừa nhận việc sống phúc âm giữa lòng dân tộc, thừa nhận hoạt động tôn giáo
phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Do vậy việc chấp hành pháp luật của giáo dân khá
tốt. Trong đợt bầu cửa Hội đồng nhân dân các cấp, tỷ lệ cử tri nhất là giáo dân đi bầu cử
đạt cao, nhiều xã Công giáo toàn tòng có số lượng cử tri đi bầu cử đạt 100%. Hàng năm,
thực hiện luật nghĩa vụ quân sự đối với thanh niên tín đồ theo đạo Công giáo thực hiện
đạt chỉ tiêu cao, tỷ lệ thanh niên làm đơn tình nguyện ngày càng nhiều, số đảo bỏ ngũ
cũng giảm đáng kể ở vùng giáo.
Các hoạt động xã hội, từ thiện, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao... đã thu hút
nhiều đồng bào có đạo tham gia. Những kết quả rõ nét bước đầu thu được là việc đoàn
kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo; cứu trợ bão lụt trị giá hàng trăm triệu đồng; các hoạt
động nhân đạo, từ thiện; phòng chống tệ nạn xã hội; giữ gìn trật tự an toàn ở khu dân
cư; thực hiện vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cũng như việc học hành
của con cái... Các hoạt động giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, chăm lo sức
khỏe, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc do Hội Phụ nữ phát
động đã được đông đảo phụ nữ có đạo nhận thấy bổ ích, thiết thực và tích cực tham gia.
Hội nông dân với phong trào sản xuất giỏi đã giúp cho đồng bào có đạo tính toán cách
làm ăn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tạo ra những sản phẩm hàng hóa, tăng
giá trị trên đất canh tác.
Hiện nay mức ăn bình quân chung của vùng Công giáo ở Kon Tum từ 20 - 25
kg thóc 1 người/tháng. Cá biệt có những vùng Công giáo mức bình quân lương thực khá
cao như: Thị xã Kon Tum, huyện Đăk Hà, bình quân tính theo đầu người là 400 kg một
năm (33 kg thóc 1 người/tháng).
Những kết quả đạt được trong công tác vận động quần chúng tín đồ Công
giáo ở Kon Tum thời gian qua là do những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Một là: Do tác động và hiệu quả thực tế của các chính sách, chủ trương về
vấn đề tôn giáo
Trong những năm qua nhiều chính sách, chủ trương của Nhà nước (cả Trung
ương và địa phương) về tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo được ban hành.
Việc tiếp tục quán triệt Nghị quyết 24-TW và Chỉ thị 37-CT của Bộ Chính trị,
việc triển khai thực hiện Nghị định 26/CP của Chính phủ đã đáp ứng nhu cầu tín
ngưỡng của quần chúng tín đồ Công giáo, đảm bảo sinh hoạt tôn giáo bình thường, phù
hợp với nguyện vọng của đại đa số nhân dân, làm cho đồng bào Công giáo xóa bỏ mặc
cảm, nâng cao nhận thức, nhận rõ trách nhiệm, hiểu rõ thêm các quy định của Nhà
nước, tránh được những sai phạm, có cơ sở để đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực,
trái luật pháp trong tôn giáo. Các văn bản trên có tác dụng tích cực to lớn, làm cho đồng
bào Công giáo yên tâm, phấn khởi, thêm tin tưởng vào Đảng và Nhà nước, ngày càng
hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng của dân tộc, phấn đấu cùng toàn dân xây dựng cuộc
sống mới, nhân rộng thêm các điển hình tiên tiến. Đồng bào Công giáo được Nhà nước
cho phép hoạt động hết sức phấn khởi, thực hiện nghiêm túc các sinh hoạt theo quy định
của pháp luật, khiến cho đạo, đời tốt đẹp, cô lập và làm mất ảnh hưởng của một số phần
tử cực đoan chống đối, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Đối với cán bộ làm công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo, các văn
bản trên là chỗ dựa pháp lý, tạo điều kiện cho công tác vận động quần chúng tín đồ
Công giáo đạt được những thành tựu.
Hai là: Có đội ngũ cán bộ vững chắc, nhất là những cán bộ được phân công
trực tiếp làm công tác dân vận. Như phần trên đã trình bày, cán bộ ở cơ sở là những
người hàng ngày trực tiếp với nhân dân, đem chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước vào cuộc sống và biến thành hành động cách mạng của quảng đại quần chúng, mọi
công việc thành công hay thất bại suy cho cùng là do cán bộ tốt hoặc kém. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Chân lý này trong tư tưởng Hồ
Chí Minh cũng được thực tế công tác của cán bộ cơ sở ở vùng có tín ngưỡng khẳng định
rõ rệt. Qua thực tế ở địa phương, các cơ sở có đồng bào theo đạo Công giáo ở Kon Tum
đã cho thấy: ở nơi nào có đội ngũ cán bộ tốt, cơ sở vững vàng thì ở đó phong trào phát
triển nhiều mặt, các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ được thực hiện tốt.
Cán bộ của các tổ chức cơ sở, chính quyền địa phương, các đoàn thể hoạt động đồng bộ,
thống nhất, các ban, các cán bộ trực tiếp làm công tác dân vận đã nắm được tâm tư, tình
cảm, tâm lý, nguyện vọng, phong tục tập quán của nhân dân, nhất là đồng bào giáo dân
người dân tộc thiểu số. Có thể nói các cơ sở, ở địa phương đang có sự "thi đua" không
chính thức với giáo hội trong việc lôi cuốn quần chúng giáo dân.
Ba là: Các tổ chức cơ sở đã làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị
tư tưởng cho quần chúng giáo dân
Các tổ chức cơ sở đã làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về các quan điểm,
chủ trương chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước ta, trong đó quan tâm tuyên truyền
các quan điểm, chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Bên cạnh những thành công trên đây, công tác vận động quần chúng tín đồ
Công giáo ở Kon Tum còn nhiều yếu kém.
Một là, nhận thức về quan điểm, nguyên tắc và chủ trương đổi mới của Đảng và
Nhà nước trong một số cán bộ làm công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo còn
yếu, chưa đủ khả năng để giải quyết các vấn đề có liên quan đến đạo Công giáo.
Đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon
Tum chủ yếu trưởng thành từ cơ sở, từ bộ đại hoàn thành nghĩa vụ trở về, đa số chưa
được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ; trình độ văn hóa, lý luận chính trị thấp.
Cán bộ chủ chốt cơ sở số đông chưa được đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn nghiệp vụ
công tác dân vận, công tác tôn giáo; chưa am hiểu về tôn giáo, nhất là sự hiểu biết về
giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đaọ Công giáo còn nhiều hạn chế; thậm chí nhận thức về
đạo Công giáo chưa đúng đắn, chỉ thấy mặt trái, mặt tiêu cực chứ chưa thấy mặt tích
cực của nó. Do vậy trong công tác thường hay có định kiến thiếu thiện chí, ngại tiếp xúc
nhất là đối với các chức sắc, để tranh thủ và phát huy những mặt tích cực của quần
chúng tín đồ Công giáo và các chức sắc trong Công giáo. Năng lực tuyên truyền vận
động còn nhiều hạn chế, thiếu tính thuyết phục; xử lý các mâu thuẫn trong nội bộ nhân
dân hoặc những hoạt động tôn giáo sai trái trong địa bàn còn nhiều lúng túng; kinh
nghiệm chỉ đạo thực tiễn công tác vận động quần chúng còn ít. Việc chỉ đạo, bồi dưỡng,
xác định nội dung, biện pháp công tác vận động còn mang tính chung chung, hình thức,
chưa sâu sát với từng đối tượng, chưa phù hợp với trình độ nhận thức, phong tục tập
quán của quần chúng giáo dân, chưa phân biệt được sự vận động giữa quần chúng tín đồ
người Kinh và quần chúng tín đồ người dân tộc thiểu số có sự khác nhau. Việc sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm chưa được các cấp ủy quan tâm nên việc lãnh đạo, chỉ đạo
chậm đổi mới còn mang nặng tính áp đặt chủ quan, hạn chế nhiều đến kết quả.
Về hình thức tổ chức, phân công cán bộ chuyên trách vùng giáo chưa rõ ràng và
rất thiếu. Đối với các huyện, thị xã cũng chỉ có 01 đồng chí Chủ tịch Hồ Chí Minh Phó
chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, thị xã phụ trách và 01 đến 02 chuyên viên theo dõi
công tác tôn giáo nằm trong văn phòng Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân huyện; còn
cán bộ chuyên trách ở thị xã Kon Tum thì chỉ có hai đồng chí (trong khi đó tổng số tín
đồ Công giáo ở đây thì lại đông nhất: 44.689 người), huyện DDăk ghi 02 đồng chí, các
huyện khác chỉ có 01 đồng chí. Đối với các cấp xã, phường, thị trấn cũng chưa có đồng
chí nào phụ trách và cũng chưa có cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo. Cơ cấu đội
ngũ cán bộ hiện nay còn bất hợp lý, tỷ lệ cán bộ nữ quá thấp. Có nhiều xã toàn tòng như
xã Đăk Tơ Re (huyện Kon Plông), xã Ya chim (thị xã Kon Tum), xã Piên Bình (huyện
Đăk Tơ) chiếm 75% đến 80% giáo dân (vừa tôn giáo vừa dân tộc) so với dân số trong
xã, nhiều làng dân tộc trước đây bị địch dồn dân lập ấp chiến lược khi trở về 100% giáo
dân theo đạo Công giáo cũng chưa có cán bộ chuyên trách để tham mưu cho cấp ủy và
ủy ban nhân dân xử lý những vấn đề nảy sinh. Vì vậy, có những vụ việc như truyền đạo
trái phép, đến khi Tỉnh và huyện biết được thì sự việc đã rồi. Vấn đề tập trung hiện nay
đối với các hoạt động trái phép của đạo Công giáo tập trung chủ yếu là ở cơ sở, chẳng
hạn như việc giáo hội tổ chức trồng cà phê đến khi thu hoạch thì chính quyền cơ sở mới
biết đó là của Giáo hội.
Hai là, Công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum thời gian
qua tuy có nhiều cố gắng, song sự chuyển biến đó chưa đủ sức thuyết phục, cuốn hút
quần chúng tín đồ tham gia các hoạt động phong trào hành động cách mạng của địa
phương.
Trong các hoạt động giáo dục lý tưởng, truyền thống cách mạng cũng như giáo
dục ý thức xây dựng bảo vệ Tổ quốc... cho quần chúng, các tổ chức ở địa phương mặc
dù đã có những hoạt động tích cực, nhưng không nề nếp thường xuyên, thường tổ chức
theo mùa vụ, hình thức còn sơ cứng, thiếu chiều sâu, chưa có tính hấp dẫn và sức cuốn
hút, thuyết phục giáo dân. Tình trạng chung là, các tổ chức ở những vùng Công giáo
chưa tạo ra được các hoạt động, sinh hoạt triển khai chủ trương, chính sách, nghị quyết
của Đảng và Nhà nước, của các đoàn thể đến với quần chúng tín đồ.
Các phong trào hành động cách mạng tuy có nhiều cố gắng đổi mới nội dung
hình thức, song nhiều nội dung không triển khai được ở các Cơ sở vùng giáo. Các hoạt
động gây vốn, hỗ trợ vốn cho quần chúng tham gia phát triển sản xuất làm chưa đáng
kể. Việc trang bị kiến thức nghề nghiệp, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, áp dụng tiến bộ
kỹ thuật mới vào sản xuất thông qua hoạt động của câu lạc bộ, nhà văn hóa, nhà rông
của quần chúng đã được khơi dậy ở một số nơi, chúng chưa đồng bộ, chưa nhận ra được
nhiều đơn vị, cơ sở. Những vấn đề cần quan tâm đối với quần chúng tín đồ Công giáo
như: định hướng lý tưởng, thái độ chính trị, việc làm thu nhập... Các tổ chức ở địa
phương chưa làm được bao nhiêu.
Ba là, công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo còn chưa thống nhất và
chưa phát huy đồng bộ của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở.
Về quan điểm: Các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể trong hệ
thống chính trị, nhất là ở cơ sở chưa nhận thức quán triệt sâu kỹ những nội dung cơ bản
của Nghị quyết 24 của Bộ chính trị, Nghị định 69 và Chỉ thị 379 của Chính phủ. Do đó,
còn thành kiến, hẹp hòi, thậm chí thô bạo làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân.
Tồn tại lớn nhất hiện nay là tư tưởng nôn nóng, muốn xóa nhanh, dẹp gọn tôn giáo bằng
mệnh lệnh hành chính hơn là công tác vận động quần chúng, không quan tâm giải quyết
nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ, vi phạm chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, trái
với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề
tôn giáo.
Chính quyền các cấp chưa quán triệt và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các
ngành trong khối nội chính về quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn còn
nhiều sơ hở và lỏng lẻo, để Giáo hội nắm quần chúng, khi đấu tranh xử lý vấn đề tôn
giáo chưa đồng bộ còn rời rạc, lúc hữu khuynh, lúc tả khuynh thiếu thận trọng trong xử
lý và quản lý Giáo hội. Quản lý việc mở trường lớp và hoạt động từ thiện của Công giáo
có lúc sơ hở nên còn tình trạng lợi dụng truyền đạo và giảng dạy giáo lý trái phép; lợi
dụng hoạt động từ thiện để quyên góp trái phép tiền bạc của tín đồ phục vụ cho những
mục đích không mang lại lợi ích kinh tế - xã hội, làm ảnh hưởng đến đời sống giáo dân,
nhất là các hộ nghèo. Đặc biệt là lĩnh vực giải quyết đất đai, quản lý việc tu bổ, sửa
chữa, xây mới cơ sở tôn giáo còn nhiều sơ hở, lỏng lẻo và có lúc chưa kiên quyết; chưa
phân cấp quản lý rõ ràng, chưa đảm bảo nguyên tắc phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các
ngành để dẫn đến vi phạm pháp luật, đặt Chính quyền trước chuyện đã rồi... Không ít
trường hợp cấp cơ sở giải quyết cho phép vượt thẩm quyền, hoặc trái chức năng. Ngành
xây dựng thiếu kiểm tra giám sắt thi công sau khi cấp giấy phép xây dựng.
Trong việc xây dựng, tu sửa nơi thờ tự của Công giáo có một hiện tượng khá
phổ biến là làm không đúng giấy phép đã cấp. Thực chất việc làm này là do ý thức chấp
hành pháp luật của giáo hội chưa tốt; cần được đấu tranh ngăn chặn. Song ở đây cũng
có trách nhiệm của ngành xây dựng và ngành địa chính. Sau khi duyệt bản vẽ thiết kế,
cấp giấy phép xây dựng đã thiếu sự kiểm tra, giám sát việc thi công công trình, bài học
về vụ xây dựng không đúng thiết kế được duyệt như nhà thờ xã Hòa Bình, tượng thánh
giá ở Hoa viên Cây xanh thuộc phường Thống Nhất, thị xã Kon Tum..., vụ lấn đất tại
Trường phổ thông Trung học Kon Tum. Tình trạng tranh chấp đất đai giữa tổ chức giáo
hội Công giáo với Chính quyền như: Nhà thờ Tân Hương phát động tín đồ đấu tranh với
Chính quyền đòi lại khu vực đất bên Trường Trung học Chuyên ban Kon Tum, việc
tranh chấp đất đai tại Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh. Một số trường hợp xây dựng lén
lút không xin phép (03 nhà nguyện xã Đăk Krong huyện Đăkglei, xã Đăk Pxy, ĐăK La
thuộc huyện Đăk Hà); biến nhà rông, nhà riêng để làm nơi thờ tự, cầu nguyện (các xã
thuộc huyện Đăk glei, Đăk Tô, Ngọc Hời, Đăk Hà, Konp tong), tập trung chủ yếu ở các
vùng kinh tế mới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tập trung ở các xã vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới. Hiện nay có nhiều "Hội" hoạt động bất hợp pháp, vượt lên trên quy định
của Nhà nước về việc cho phép thành lập "Đội" trong tôn giáo để phục vụ cho các nghi
thức trong buổi lễ. Do vậy, các tổ chức Hội đoàn Công giáo đó không công khai, nhưng
trên thực tế vẫn tồn tại hoạt động mà ta không thể quản lý được. Theo thống kê, điều
tra, hiện nay hầu hết các nhà thờ hoặc những nơi không có nhà thờ, mà nguyện ở vùng
ven cơ sở đều có tổ chức này. Đây là những lực lượng chủ lực đi sát cơ sở, hiểu và nắm
quần chúng rõ hơn các chức sắc cao cấp. Đối với địa bàn Kon Tum và Tây Nguyên nói
chung, giáo hội Công giáo luôn chủ trương tôn giáo hóa phát triển đội ngũ truyền đạo,
trao nhiệm vụ đó cho cơ sở, nhưng không bao giờ trao quyền hành, họ biết khai thác
hiệu quả công việc đến mức tối đa dựa trên cơ sở xã hội học. Họ biết, hiểu rất rõ những
phong tục tập quán của từng dân tộc, rất quần chúng khi tiếp xúc với đồng bào(1), thăm
hỏi một con người. Những việc làm của họ tuy nhỏ nhưng mang lại hiệu quả lớn, họ nói
được nhiều người nghe. Do đó, một khi nhà thờ nắm được lực lượng hội, đoàn, họ sẽ sử
dụng vào việc gây áp lực với chính quyền địa phương, kích động tín đồ giương lên ngọn
cờ tôn giáo, sắc tộc để làm lực lượng đối trọng với Nhà nước ta.
Thực tế, các vùng Công giáo ở các đồng bào dân tộc hiện nay, quần chúng nhân
dân gắn bó và chịu sự chi phối của Giáo hội nhiều hơn sự quản lý của hệ thống chính trị
cơ sở. Thực trạng này rất cần được lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các
ngành, các cấp quan tâm khắc phục, nếu không sẽ tạo ra những nguy cơ mất cơ sở xã
hội của Đảng, của chế độ trong vùng giáo, tái hiện một "vành đai trắng" đối với tỉnh trong
tình hình mới.
Các ngành cấp tỉnh, trong khi xem xét giải quyết, xử lý những vấn đề tôn giáo
chưa có sự phối kết hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, chưa tốt khi xử lý các vụ việc
liên quan đến tôn giáo còn bị động lúng túng, văn bản trả lời cho Giáo hội đôi lúc thiếu
chặt chẽ, không kiểm tra đến nơi đến chốn. Sự phối hợp với cơ sở không đồng bộ để
giáo hội làm những việc đã rời ta mới phát hiện, khi xử lý không kiên quyết, kém hiệu
quả. Khi xử lý có hiệu quả thì ta cho mình là có quan điểm, lập trường dứt khoát,
ngưỡng, do đó bị kẻ địch lợi dụng tôn giáo để kích động nắm quần chúng gây mặc cảm,
thiếu tin của quần chúng đối với Đảng, chính quyền cơ sở.
Các cấp ủy Đảng, lãnh đạo chưa có sự nhất quán trong hệ thống chính trị để xây
dựng đội ngũ cốt cán vùng giáo đủ mạnh làm chỗ dựa vững chắc cho chính quyền và
làm cầu nối liền giữa Đảng với quần chúng (hiện nay tổng số đảng viên gốc giáo toàn
tỉnh chỉ có 151 đ/c, trong đó tại thị xã Kon Tum có 80 đ/c (có 44đ/c đảng viên gốc giáo
trong kháng chiến thì hầu hết già yếu không hoạt động năng nổ như trước). Tư tưởng ỷ
lại, trông chờ, chưa nhận rõ trách nhiệm quần chúng lao động là của Đảng, mà mọi tổ
chức Đảng phải có trách nhiệm giải phóng cho quần chúng còn tín ngưỡng tôn giáo.
(1) Linh mục Nguyễn Thanh Liên thường hay lặn lội đến các xã vùng sâu vùng xa để thăm hỏi động viên và truyền đạo. Hành trang của họ khi đi không có gì giá trị hơn ngoài những đồ dùng rất thiết thực cho cuộc sống hàng ngày. Các nữ tu dòng Vinh Sơn, Bắc ái, Phan Lê cũng tăng cường bám sát cơ sở, theo dõi diễn biến tình hình.
Nhiều ngành còn chưa nhận thức rõ ràng về chức năng nhiệm vụ của các ban, ngành,
đoàn thể mình đối với công tác tôn giáo; còn cho công tác tôn giáo là công tác của ủy
ban Mặt trận, Ban Tôn giáo..., chưa thấy rõ đây là công tác của toán bộ hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng. Vì vậy mới quan hệ giữa quần chúng có đạo
với chính quyền địa phương ít nhiều còn hạn chế (nhất là đối với các chức sắc, chức
việc).
Bốn là, chất lượng ở các tổ chức cơ sở đoàn thể - nhất là cơ sở Đoàn còn yếu
kém, khó khăn.
Chưa chăm lo được lực lượng đoàn viên, hội viên tích cực cốt cán trong tổ
chức, chỉ tiến hành vận động chung. Việc chăm lo bồi dưỡng riêng cho cán bộ chi đoàn,
chi hội về các mặt để có đội ngũ công tác giỏi trong giáo dân còn hạn chế. Hiện tượng
hội, đoàn Công giáo hoạt động thầm lặng, hiệu quả, nề nếp, nắm chắc và huy động tín
đồ trong đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu tổng kết, rút kinh nghiệm từ thực tế để tiếp
tục đổi mới hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính, không sâu sát đến từng con
người cụ thể trong vùng có đông đồng bào theo đạo Công giáo.
Nhìn vào cơ sở cũng thấy rõ điều kiện khách quan đang hạn chế hiệu quả hoạt
động của công tác đối với Công giáo trong khi phần lớn cơ sở thờ tự của Công giáo
đang là những nơi khang trang, có đủ tiện nghi thì câu lạc bộ, nhà văn hóa ở cơ sở, một
số nơi hầu như không có, hoặc có thì nghèo nàn nhếch nhác, không có sức hấp dẫn.
Thậm chí hiện nay, có nơi không có địa điểm để đoàn viên, hội viên có thể tự họp, sinh
hoạt rộng trong tổ chức mình. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tuyên truyền cổ động
ở cơ sở còn rất thiếu thốn và nếu có thì cũng rất lạc hậu so với trang thiết bị của nhà thờ.
Nếu không được tính toán tổng thể theo quy hoạch, xây dựng nông thôn, bản làng mới
thì ở nông thôn, bản làng nói chung là vùng có đạo nói riêng, các cơ sở văn hóa tinh
thần không thể đáp ứng yêu cầu nhân dân trong thời kỳ mới, sẽ là chỗ trống để phần tử
xấu lợi dụng đạo Công giáo tăng cường hoạt động.
Quần chúng giáo dân là đối tượng rộng lớn, có đặc thù riêng nhất là ở một tỉnh
như Kon Tum những giáo dân là người dân tộc lại chiếm đa số, do đó cần có đội ngũ
cán bộ người dân tộc như Già làng, trưởng bản được bồi dưỡng chu đáo. So sánh số
lượng tín đồ và kết quả tập họp quần chúng các tổ chức, rõ ràng có sự chênh lệch đáng
kể mà trong thực tế đã xuất hiện sự thách thức về tập họp và tranh thủ, thu hút quần
chúng có đạo. Nếu không sớm nhận ra điều này để tổ chức có hiệu quả trong hoạt động
thì sẽ có cơ sở để nói rằng, chúng ta không nắm được quần chúng giáo dân ở một số
vùng giáo.
Nguyên nhân của tình trạng yếu kém trên là do:
Thứ nhất: Nhà nước chưa kịp thời bổ sung các văn bản hướng dẫn và quy định
cụ thể về các hoạt động tín ngưỡng Công giáo phù hợp với tình hình mới, nhất là giữa
hai bộ phận Kinh - Thiểu số; chưa đưa công tác tôn giáo vào kế hoạch thường xuyên lâu
dài của Nhà nước; chưa có chính sách kinh tế, văn hóa xã hội cụ thể ở vùng đông đồng
bào tôn giáo và vùng tôn giáo phát triển không bình thường, đặc biệt ở vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn về kinh tế; chưa có hành lang pháp lý nên việc đấu tranh xử lý các
hoạt động tôn giáo trái phép còn khó khăn, bị động lúng túng.
Thứ hai: Việc quán triệt Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị, Thông tư, hướng dẫn
số tướng Chính phủ, cũng như các luật có liên quan đến tôn giáo của các cấp ủy Đảng,
Chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể trong hệ thống chính trị chưa sâu, chưa kỹ và
chưa nắm được tinh thần và những nội dung cơ bản của các văn bản trên: Do đó, nhận
thức về tôn giáo và hoạt động tôn giáo cũng như chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với tôn giáo của các ngành, các cấp chưa theo kịp yêu cầu tình hình và
nhiệm vụ mới; chưa nhận thức về hoạt động tôn giáo là hoạt động chính trị (địch lợi
dụng tôn giáo để chống phá cách mạng và làm đối trọng với Chính quyền). Vấn đề tôn
giáo thực chất là vấn đề quần chúng (cần phân biệt rõ bọn phản động lợi dụng tôn giáo
và quần chúng giáo dân). Tôn giáo cũng là nơi gặp gỡ của những kẻ lừa bịp và những
người kém hiểu biết. Tôn giáo còn tồn tại lâu dài, tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân trong những điều kiện lịch sử nhất định. Vì vậy tín
đồ các tôn giáo cũng là một công dân có nghĩa vụ bình đẳng trước pháp luật. Nhận thức
và quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo còn nhiều bất cập,
lệch lạc. Do đó khi đánh giá về đạo Công giáo còn định kiến và hẹp hòi, cho đạo Công
giáo là địch nên chỉ đối phó chứ chưa vận dụng đúng phương châm của Đảng và Nhà
nước trong công tác đối với đạo Công giáo.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ các tổ chức cơ sở vùng Công giáo ở địa phương hiện
nay, còn nhiều hạn chế về trình độ và năng lực công tác. Hoạt động từ kinh nghiệm sẵn
có, liên tục có sự biến động, thay đổi. Trong khi đó, các cấp tổ chức cơ sở thiếu tính chủ
động trong việc bồi dưỡng, tạo nguồn quy hoạch. ở nhiều nơi hẫng hụt trong bộ máy
cán bộ. Cán bộ khi được bầu vào nhiệm vụ công tác chưa được chuẩn bị tốt về tư tưởng,
kỹ năng nghiệp vụ; sự hiểu biết trên các lĩnh vực, không tương xứng với yêu cầu nhiệm
vụ trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cán
bộ chủ chốt cơ sở còn nhiều bất cập, chưa quan tâm đúng mức, trong khi đó các chức
sắc Công giáo ở cơ sở đều được trang bị đầy đủ về phương tiện đi lại... để hoạt động.
Do đó khi các vấn đề nảy sinh trong đạo Công giáo ta không xử lý kịp thời và chính
xác. ở những cơ sở điều kiện kinh tế khó khăn, trong đó có những nơi có số giáo dân
chiếm tỷ lệ khá cao, hầu hết không có chế độ đãi ngộ riêng cho cán bộ cơ sở. Mặt khác,
đội ngũ cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều chức danh công việc, không có thời gian đầu tư
thỏa đáng cho công tác tôn giáo, không thực sự yên tâm công tác.
Thứ tư: Quần chúng tín đồ Công giáo còn bị ràng buộc bởi giáo lý, giáo luật
trong Công giáo, bởi sự quản lý và khuyến khích trong từng gia đình về sinh hoạt trong
đời sống tôn giáo, bởi sự hoạt động sôi động của các hội đoàn Công giáo hiện nay. Họ ít
có thời gian, cơ hội để tham gia phong trào hành động cách mạng ở địa phương. Trong
khi đó, các tổ chức cơ sở ở địa phương chưa có những giải pháp tháo gỡ khó khăn giữa
việc tham gia hoạt động hành động cách mạng với nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của quần
chúng giáo dân; giữa nhu cầu và lợi ích cũng như chăm lo bồi dưỡng giáo dục cho quần
chúng. Chưa tích cực vận động, tuyên truyền, thuyết phục gia đình và các chức sắc tôn
giáo tạo điều kiện cho quần chúng giáo dân tham gia hoạt động những phong trào cách
mạng. Tình hình kinh tế xã hội của tỉnh trong những năm qua có những bước phát triển
đáng mừng, nhưng đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc, nhất là vùng
sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn và thiếu thốn, và những vùng này thì thường bị ta bỏ
trống, trong khi đó các chức sắc, các tổ chức từ thiện của đạo Công giáo tích cực đối với
đồng bào để tuyên truyền mua chuộc và dụ dỗ đồng bào theo đạo bằng mọi thủ đoạn.
Các tổ chức cơ sở chậm đổi mới về phương thức hoạt động, tác phong hành
chính, buông lỏng kiểm tra, đôn đốc, không kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm mô hình
chỉ đạo cũng như tiến hành việc thi đua khen thưởng, do đó, không tạo được động lực
cho phong trào.
Đạo Công giáo ở Kon Tum là một tôn giáo lớn trên địa bàn, hình thành sớm và
có quá trình lịch sử khá phức tạp nhưng ở tỉnh chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống khoa học.
Chương 2
Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác vận động quần chúng
tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay
2.1. Phương hướng
2.1.1. Về nhận thức: Đổi mới nhận thức về tôn giáo, quán triệt chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác tôn giáo trong
tình hình hiện nay.
Để nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon
Tum, phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của nó; xây dựng niềm
tin vào sự nghiệp "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", qua đó
thể hiện được ước nguyện sống "tốt đời, đẹp đạo" của đông đảo quần chúng giáo dân ở
Kon Tum hiện nay; đều có ý nghĩa quan trọng và quyết định đầu tiên là phải đổi mới
nhận thức về tôn giáo, quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng ta về công tác tôn giáo trong mọi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ,
đảng viên trực tiếp làm công tác tôn giáo.
Đổi mới nhận thức về tôn giáo, phải trên cơ sở khoa học của lý luận và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin mà nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn về
bản chất của tôn giáo.
Tôn giáo là một hình thái ý thức - xã hội phản ánh một cách hoang tưởng, hư ảo
hiện thực khách quan. Ăngghen đã từng chỉ rõ "bất cứ tôn giáo nào cũng đều là sự phản
ánh vào đầu óc người ta những sức mạnh ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của
họ; chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức mạnh ở thế gian đã mang hình thức siêu thế gian"(1). Diễn tả bản chất của tôn giáo, Các Mác viết "sự nghèo nàn của tôn giáo,
một mặt là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực và mặt khác là sự phản kháng chống sự
nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim
(1) Ph.Ăngghen, chống Đuy ring, Nxb Sự thật, Hà Nội, ngày 4/4/1991, tr.544.
của thế giới không có trái tim cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân"(1).
Quan điểm trên dẫn đến thái độ nhất quán của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với
việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Khắc phục mặt tiêu cực trong các tôn giáo là yêu cầu
khách quan của sự nghiệp giải phóng con người, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhưng điều đó không có nghĩa là phủ nhận, loại bỏ hoàn toàn, không biết kế thừa
những giá trị nhân bản tốt đẹp của nó. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội do tồn tại
xã hội quyết định; vì vậy muốn thay đổi nó điều có ý nghĩa quyết định là phải thay đổi
tồn tại xã hội. C.Mác đã xác định: "Tôn giáo là hạnh phúc hư ảo của nhân dân. Việc xóa
bỏ nó là yêu cầu do hạnh phúc thực sự của nhân dân đề ra. Đòi hỏi nhân dân phải từ bỏ
những ảo tưởng đối với hoàn cảnh của họ tức là đòi hỏi phải từ bỏ một hoàn cảnh cần phải có ảo tưởng"(2). Theo ông: "Xóa bỏ tôn giáo, vốn tính cách là xóa bỏ hạnh phúc ảo
tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thật sự của nhân dân". Nhiều người
cho rằng C.Mác có ý định xóa bỏ tôn giáo. Nói như vậy là hoàn toàn không đúng với
tinh thần của Mác. Như trên đã nói, con người sáng tạo ra tôn giáo, con người ở đây là
quần chúng nhân dân, khi hoàn cảnh cần hạnh phúc hư ảo thì nhân dân sáng tạo ra hạnh
phúc hư ảo, sáng tạo ra tôn giáo là hạnh phúc hư ảo của mình. Việc sáng tạo ra nó là
việc của nhân dân thì việc xóa bỏ nó cũng là việc của nhân dân, việc này do "hạnh phúc
thật sự" của nhân dân đề ra. Như vậy khi nào nhân dân có "hạnh phúc thật sự", thì tất
yếu "hạnh phúc thật sự" ấy của nhân dân sẽ đòi hỏi xóa bỏ "hạnh phúc ảo tưởng". Việc
của nhân dân hãy để cho nhân dân. C.Mác cũng đã có lần nhắc lại câu của Kinh thánh: "Của Xê-da hãy trả lại cho Xê-da"(3). Việc ấy không thể do cá nhân bất kỳ ai muốn mà
được, mà do "hạnh phúc thật sự" của nhân dân đề ra. Khi chưa có "hạnh phúc thật sự"
thì chưa thể đòi hỏi" "xóa bỏ" "hạnh phúc ảo tưởng". Sẽ là giản đơn nếu hiểu ngược lại:
Xóa bỏ tôn giáo với tính cách là "hạnh phúc ảo tưởng" thì sẽ có hạnh phúc thật sự.
C.Mác không dừng lại ở đây, không dừng lại ở việc của nhân dân, mà còn nêu
việc của những người mác - xít, đó là "yêu cầu từ bỏ những ảo tưởng về tính cách của
(1) C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập - tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.14. (2) C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.13. (3) C.Mác - Ph.Ăngghen, toàn tập, tập I, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.163.
mình cũng là yêu cầu từ bỏ cái tình cảnh đang cần có ảo tưởng" (1), từ bỏ chế độ xã hội
áp bức, bóc lột.
Như vậy ta khẳng định một điều là chủ nghĩa Mác không đề ra việc thủ tiêu,
xóa bỏ tôn giáo, mà chỉ đề ra việc từ bỏ nguồn gốc xã hội của tôn giáo, tức "Nhà nước
ấy, xã hội ấy", chế độ xã hội áp bức bóc lột và sau đó, tiến hành xây dựng "hạnh phúc
thật sự" của nhân dân. "Hạnh phúc thật sự" ở đây chính là tồn tại xã hội đã được thay
đổi sẽ quyết định ý thức xã hội. Không nên duy ý chí, không nên làm ngược lại là xóa
bỏ tôn giáo (với tính cách là hình thái ý thức xã hội) để có được "hạnh phúc thật sự" của
nhân dân. Chúng ta khẳng định rằng khi có hạnh phúc thật sự rồi, nhân dân sẽ không
cần đến "hạnh phúc ảo tưởng" nữa.
Vì vậy, đấu tranh với tôn giáo là gián tiếp đấu tranh với cái thế giới mà niềm
vui tinh thần là tôn giáo chứ không phải trực tiếp "tấn công" vào thần thánh, "truy kích"
thượng đế. V.I.Lênin cũng đã từng phê phán hai khuynh hướng giải quyết vấn đề tôn
giáo: Khuynh hướng tuyên truyền thuần túy và khuynh hướng tả khuynh vô chính phủ
muốn đưa cuộc đấu tranh chống tôn giáo bên trên cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh
giai cấp, mà phải gắn liền với cuộc đấu tranh ấy với thực tiễn cụ thể của phong trào giai
cấp nhằm tiêu diệt nguồn gốc xã hội của tôn giáo. V.I.Lênin cho rằng "cần phải cực kỳ
thận trọng trong cuộc đấu tranh chống lại các thành kiến tôn giáo. Trong cuộc đấu tranh
này, ai làm tổn thưởng đến tình cảm tôn giáo thì người đó sẽ gây ra sự thiệt hại lớn lao.
Cần phải lấy tuyên truyền, giáo dục mà đấu tranh. Nếu hành động một cách thô bạo
chúng ta sẽ làm cho quần chúng tức giận, cách hành động như vậy càng gây thêm chia rẽ trong quần chúng về vấn đề tôn giáo mà sức mạnh của chúng ta là ở chỗ đoàn kết"(1).
ở Việt Nam có tới 6 triệu tín đồ Công giáo, riêng ở Kon Tum có 94.075 tín đồ,
trong đó có 73.566 tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số. Khi tôn giáo đã trở thành một
thứ yêu cầu, mạt thư nguyện vọng, nhất là từ khi quần chúng theo đạo đã trở thành
cuồng tín thì họ coi đó là chân lý, là lý tưởng và họ cố giữ lấy. Vì vậy khi tình cảm tín
ngưỡng bị xúc phạm và bị kích động mạnh thì nhất thời họ có thể từ bỏ tất cả, kể cả
quyền lợi của Tổ quốc, của dân tộc để trở thành "những người tử vì đạo". Điều đó cho
(1) C.Mác - Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.571. (1) V.I.Lênin, toàn tập, tập XII, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1979, tr.8.
thấy tính chất quần chúng của tôn giáo cộng với sự cuồng tín khi bị bọn phản động lợi
dụng thì trở thành vấn đề vô cùng phức tạp và nguy hiểm. Kinh nghiệm thực tế ở
Hungari (1956), ở Tiệp Khắc (1968), ở Ba Lan (1986) bọn phản động quốc tế đều đưa
vào lực lượng Thiên chúa giáo làm hậu thuẫn để tiến hành các cuộc bạo loạn phản cách
mạng. ở nước ta trong lịch sử và nhất là trong thời gian của hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ xâm lược cũng có nhiều sự kiện chứng minh cho điều đó. (Sự kiện
Bùi Chu của những năm trước Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp của
Huyện Xuân Thủy tỉnh Nam Hà).
ở Kon Tum một số linh mục tổ chức kích động giáo dân khiếu kiện, tranh chấp
đất đai, nhà cửa của giáo hội mà trước đây đã hiến cho chính quyền, hoặc chính quyền
trưng thu sử dụng vào công ích. Có những vụ họ huy động giáo dân ra những nơi tranh
chấp để cản trở các hoạt động của chính quyền và của cả nhân dân như vụ Cúc not, vụ
nhà số 17 và 1.700 Nguyễn Huệ - thị xã Kon Tum, vụ xây mới nhà Nguyện Đăk Tiêng
Kờ Tu - xã Đăk La - huyện Đăk Hà v.v...
Nếu chúng ta không thực hiện tốt công tác vận động quần chúng tín đồ giải
thích cho họ hiểu, có tình có lý (lịch sử từ cổ đến kim trên thế giới chưa có nước nào đi
phá nhà thờ), mà chúng ta dùng quân đại tháo gỡ sẽ gây ấn tượng không tốt, làm vậy sẽ
bị các thế lực thù địch thổi phồng lên rất bất lợi cho ta. Vậy nên khi xử lý, chúng ta phải
làm tốt công tác vận động quần chúng, giải thích cho họ hiểu rõ việc làm của các chức
sắc đó là sai trái với chính sách của Đảng, Nhà nước, khi đã thấu tình đạt lý mọi vấn đề
thì quần chúng sẽ ủng hộ ta, tránh trường hợp để người dân tụ tập đông phản đối, thậm
chí có một số tín đồ cuồng tín, ngoan đạo, sẵn sàng liều mình đấu tranh với ta.
Đối với Đảng của giai cấp công nhân và những người cộng sản, khi giải quyết
vấn đề tôn giáo cần phải phân biệt rõ hai mặt: chính trị và tư tưởng, mà thực chất là
phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn tồn tại trong bản thân tôn giáo để
có chính sách giải quyết đúng đắn. Mặt chính trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi
ích giữa những phần tử lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng với lợi ích của nhân
dân lao động. Còn mặt tư tưởng là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, không mang tính
chất đối kháng, giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau hoặc không có tín
ngưỡng tôn giáo. Đấu tranh xóa bỏ mặt chính trị phản động là nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng thắng lợi. Giải quyết vấn đề tư tưởng là nhiệm
vụ lâu dài, gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới - xã
hội chủ nghĩa; không ngừng cải thiện, nâng cao dần đời sống vật chất, văn hóa tinh thần
cho quần chúng nhân dân như lời V.I.Lênin đã từng nhắc nhở: "Đối với chúng ta, sự
thống nhất của cuộc đấu tranh thực sự cách mạng đó của giai cấp bị áp bức, bóc lột để
sáng tạo ra một cảnh cực lạc trên trái đất là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên Thiên Đàng"(1).
Hồ Chí Minh là người đã lĩnh hội đầy đủ, sâu sắc thực chất quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo các
quan điểm đó vào Việt Nam; đóng góp vào kho tàng lý luận Mác - Lênin nhiều nội
dung mới.
Vào đầu thế kỷ XX, tiếp thu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm bắt được tình hình của Việt Nam, hơn ai hết Nguyễn ái
Quốc là người biết rõ Công giáo ở Việt Nam đang bị chủ nghĩa thực dân lợi dụng làm
công cụ để áp bức tinh thần đối với nhân dân ta. Nguyễn ái Quốc viết "Chủ nghĩa giáo
hội" vạch trần âm mưu đó của thực dân Pháp. Thái độ của Nguyễn ái Quốc kiên quyết
phản đối việc áp đặt của văn minh phương Tây, áp đặt "Trung tâm châu Âu" đối với các châu lục khác. Người khẳng định: "châu Âu... chưa phải toàn thể nhân loại"(1).
"Về tôn giáo tín ngưỡng": Người dân An Nam không có linh mục, không có tôn
giáo theo cách nghĩ của châu Âu. Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã
hội. Chúng tôi không có những người tư tế nào, những người già trong gia đình thực
hiện những nghi lễ tưởng niệm. Chúng tôi không biết đến uy tín của những thầy cúng, của linh mục là gì"(2).
Với những quan điểm, ý kiến sắc nét trên, Nguyễn ái Quốc đã để lại cho chúng
ta những tư liệu quý báu có ý nghĩa phương pháp luận trong việc nhìn nhận quan hệ của
hai nền văn minh Đông - Tây, đó còn là những "giá trị về tôn giáo học". (1) V.I.Lênin, toàn tập, tập XII, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1979, tr.174. (1), (2) Đỗ Quang Hưng, Vấn đề tôn giáo tín ngưỡng trong tư tưởng Hồ Chí Minh (Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam) Viện Nghiên cứu tôn giáo, Nxb KHXH, Hà Nội, 1998, tr.127.
Sau năm 1945, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và học thuyết mác-
xít về tôn giáo nói riêng vào hoàn cảnh Việt Nam, Hồ Chí Minh đặt mục tiêu giải phóng
dân tộc lên trước hết, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt tôn
giáo hoặc không tôn giáo. Học tập Lênin, Hồ Chí Minh hiểu rõ lúc này mà chỉ giản đơn
là tuyên truyền về chủ nghĩa vô thần thì chỉ làm lợi cho giáo hội và chủ nghĩa thực dân(3).
Đồng thời với việc xác định đúng đắn chiến lược đoàn kết dân tộc, Hồ Chí
Minh còn đề ra một loạt các chủ trương, chính sách, biện pháp cụ thể để thực hiện được
sự đoàn kết một dân tộc gồm nhiều tôn giáo trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, từng
hoàn cảnh cụ thể. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã đập tan âm mưu lợi dụng tôn
giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam của mọi loại kẻ thù.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là vấn đề lớn. ở đây chỉ nêu những tư tưởng
của Người liên quan đến công tác vận động quần chúng Công giáo, nhất là về thái độ
của người cộng sản đối với tôn giáo.
Có lần nói chuyện với cán bộ Công an CuBa thăm nước ta, Bác Hồ nêu: "... ở
Việt Nam có vấn đề tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo, nơi nào cán bộ tốt, tổ chức
Hợp tác xã đã đem lại quyền lợi cho giáo dân thì giáo dân rất đồng tình...". Sau khi nêu
việc cải thiện đời sống của giáo dân, Bác nói tiếp: "... Nếu giáo dục tốt thì giáo dân có
thể đấu tranh: Cha chỉ nói phần hồn thôi, còn phần đời thì để cho Chính phủ. Một số địa
phương, giáo dân có câu: sống theo Đảng, chết theo Chúa. Đối với người cộng sản thì
nếu họ nói chết rồi theo Chúa thì không sao.
Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân
thì không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác..."(1).
Hồ Chí Minh tuyệt đối tin tưởng ở đại đa số quần chúng giáo dân là những công
dân yêu nước, nếu được giáo dục họ sẽ phân biệt rõ đúng sai không sợ đấu tranh. Cách
mạng phải biết chăm lo đời sống đem lại quyền lợi cho quần chúng giáo dân thì giáo
dân sẽ theo cách mạng.
(3) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 17, Nxb TB, Matxcơva, 1979, tr.524. (1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, tr.385.
Nếu C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nêu rõ đạo Thiên chúa nguyên thủy nêu rõ
đạo Thiên chúa nguyên thủy có nhiều mặt tích cực thì Hồ Chí Minh luôn tôn trọng và ca
ngợi Giêsu với tính cách nhà sáng lập Thiên chúa giáo vào thời nguyên thủy cùng với
việc khơi dậy tính tích cực của đồng bào giáo dân.
Ngày 25/12/1945 trong thư gửi cho Linh mục và đồng bào Công giáo Việt
Nam, Bác đã viết:
"Cách đây gần 2000 năm, trong một đêm đông lạnh lẽo, Đức Chúa đã giáng
sinh để cứu vớt nhân loại. Đức Thiên Chúa là một tấm gương hy sinh triệt để vì những
người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì hòa bình, vì công lý...
Từ giáng sinh đến nay, tinh thần bác ái của Người đã tỏa ra khắp nơi, thấm vào
càng sâu, ngày nay đồng bào cả nước, giáo và lương đều đoàn kết chặt chẽ, nhất trí như
con một nhà, kiên quyết giữ vững quyền tự do độc lập. Ngoài sa trường các chiến sĩ
lương và giáo xây nên bức tường thành kiên cố vĩ đại ngăn cản kẻ thù, chống thực dân Pháp... Tinh thần hy sinh ấy là noi theo tinh thần cao thượng của Đức Chúa Jesus(1).
Lời nói của Bác Hồ động viên đi sâu vào lòng người. Từ đó lôi kéo giáo dân, tín
đồ Công giáo đi theo con đường cách mạng.
Đến ngày 25/12/1946 Bác lại viết: "Cùng đồng bào toàn quốc.
Gần 20 thế kỷ trước một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời Người chỉ lo cứu nhân,
hy sinh cho tự do bình đẳng. Trong lúc này thực dân Pháp gây chiến tranh, chúng mong muốn cướp nước ta lần nữa. Chúng làm trái hẳn với lòng bác ái của Chúa Giêsu..."(2).
Trong những thư trên Bác luôn kính trọng người sáng lập tôn giáo, tôn trọng
tình cảm tôn giáo của giáo dân, vừa nêu bật chính nghĩa của cách mạng, vừa vạch rõ
mặt phi nghĩa của địch, vừa phát huy mặt tích cực của đồng bào.
Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, mỗi khi có dịp tiếp xúc với đồng bào
giáo dân, linh mục, giám mục Công giáo, Bác đều ca ngợi đức Giêsu.
- "Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là dòng nhân ái cao cả"(3)/
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, tr.67. (2) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, tr.215.
- ..."Gần 2000 năm về trước, Đức Chúa đã cho loài người quyền tự do và dạy
mọi người quyền tự do và dạy loài người lòng bác ái"(4).
- "Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái"...
- "Chúa Giêsu là người lao động... Giêsu đều muốn mọi người có cơm ăn, áo
mặc, bình đẳng, tự do, và thế giới đồng đại...".
Quan điểm của Bác về quan hệ Tổ quốc - tôn giáo hết sức rõ ràng: "Số đông
đồng bào Công giáo hiểu rằng nước có thật độc lập, dân mới thật tự do tín ngưỡng".
Đồng thời Bác nêu thêm tình hình cụ thể: "đạo Thiên chúa ở nước ta có rất nhiều giám
mục người Pháp và người Châu âu, mà rất ít giám mục người Việt Nam. Cách đối đãi
với linh mục và bà phước người Châu Âu hơn linh mục và bà phước người Việt Nam"...
"Trong mấy năm nay chúng đã phá hoại bao nhiêu nhà thờ, cướp bóc bao nhiêu làng
Công giáo...". "... Vì muốn cho mọi người được thật tự do tín ngưỡng, những người
Công giáo tiến bộ Pháp cũng phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam". Sau đó
Bác nêu gương phong trào Công giáo tự lập ở Trung Quốc cho Công giáo Việt Nam noi
theo, càng làm rõ nước không độc lập thì tôn giáo không có tự do.
Hồ Chí Minh hết sức tôn trọng Công giáo, nhưng có thái độ không khoan
nhượng với các tổ chức lợi dụng Công giáo vào mục đích trần tục, không tốt, làm công
cụ cho chủ nghĩa thực dân. Trong "Bản án chế độ thực dân Pháp" (1925) Nguyễn ái
Quốc dành hẳn một chương viết " Chủ nghĩa Giáo hội" nhằm tố cáo bọn lợi dụng Công
giáo ở Việt Nam. Người tố cáo các giáo sĩ và các cha cố Công giáo đã để cho chính
quyền thực dân Pháp lợi dụng trong việc đi xâm chiếm thuộc địa cũng như trong việc
cai trị của chúng. Mặt khác Người cũng tố cáo chính Giáo hội và nhà thờ đã dựa vào
chính quyền thực dân Pháp để chiếm đoạt đất đai của nông dân, bóc lột sức lao động
của họ. Không những thế những người đại diện cho Chúa còn lợi dụng việc đạo để làm
mật thám như lấy tin qua các buổi xưng tội của con chiên giúp cho chính quyền thực
dân đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân. Đối với đồng bào Công giáo, Bác có đánh
(3) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.52. (4) Lời Hồ Chủ tịch, Nxb Thông tin Việt Nam, tập 2, Hà Nội, 1949, tr.60.
giá từ nhiều phía: "... Một số đồng bào Công giáo tuy bản chất thì tốt, nhưng bị bọn cầm
đầu phản động lung lạc, nên họ hoài nghi chính sách của Đảng và Chính phủ".
Đó là vì, địch dùng chính sách chia rẽ, song một phần cũng vì ta chưa có
phương pháp thích hợp để vận động đồng bào tôn giáo. Đồng thời vì cán bộ ta kém, có
nơi đã có những hành động lố lăng, phạm đến tín ngưỡng và quyền lợi của đồng bào tôn giáo"(1).
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm nguyện vọng của đồng bào giáo dân và chỉ cho
đồng bào con đường thực hiện nguyện vọng ấy: "Nguyện vọng của đồng bào giáo dân là
"phần xác no ấm, phần hồn thong dong". Muốn được như thế thì phải ra sức củng cố
hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho xã viên. Đồng thời phải bảo đảm tín
ngưỡng tự do. Nhưng hoạt động tôn giáo không được cản trở sản xuất của nhân dân,
không được trái với chính sách pháp luật của Nhà nước".
Về phía lãnh đạo Đảng, Bác yêu cầu; "... Về vấn đề tôn giáo... Ta phải nghiên
cứu kỹ càng và có chính sách cho phù hợp" (bài phát biểu tại cuộc họp Bộ Chính trị 17/11/1954)(2).
Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, sau ngày độc lập, khi bàn về
6 vấn đề cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bác đã nêu lên vấn đề thứ
6 là: "Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào
lương để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và lương
giáo đoàn kết".
Do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thường tìm cách để chia rẽ tình cảm giữa
những người có đạo và không có đạo bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn nên Người cũng chỉ
rõ những âm mưu đó nhằm hướng dẫn dư luận, hướng dẫn giáo dân tránh được những
sự lợi dụng của kẻ thù. Đối với Giáo hội, Ngwif có một thái độ trân trọng và luôn tạo
điều kiện để các sinh hoạt tôn giáo được thuận lợi. Ngày 7/11/1945 trong buổi tiếp
Đoàn đại biểu Công giáo Cứu quốc Việt Nam, Người nói về chủ trương đoàn kết, chính
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.461. (2) Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Tập IV, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.558.
sách đối với tôn giáo của Chính phủ và nêu lên những đóng góp của các đoàn thể, tôn
giáo vào sự nghiệp chung của cách mạng.
Trong các dịp lễ Giáng sinh hoặc nhân những đóng góp đáng kể của nhân dân
Công giáo, Người thường viết thư thăm hỏi nhằm động viên giáo dân hăng hái tham gia
vào công cuộc chung của đất nước. Mục đích của Người là tạo nên một tinh thần đoàn
kết nhằm phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, phát huy tinh thần "kính Chúa
yêu nước" của các tín đồ, động viên đồng bào tham gia vào các sinh hoạt xã hội và tin
tưởng vào tiền đồ dân tộc Việt Nam.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết, đại hòa hợp là cái khung của hệ thống tư tưởng quan điểm tôn giáo của Hồ Chí Minh, đặc biệt là đối với Công giáo(1). Hồ Chí Minh
luôn đề ra gắn đạo với đời, tôn giáo với dân tộc, nên mọi người phải đoàn kết, "kính
Chúa yêu nước", "phụng sự Tổ quốc mới làm sáng danh Thiên Chúa". Hồ Chí Minh
xem xét vấn đề Công giáo với một thái độ thận trọng, tôn trọng niềm tin tôn giáo
nguyên sơ, bản năng và đã thành tập quán của quần chúng giáo dân, không làm tổn
thương, xúc phạm đến tình cảm tôn giáo. Mục tiêu của Hồ Chí Minh là giương cao
ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, thu hút, cố kết mọi người Việt Nam không phân biệt tôn
giáo, tín ngưỡng nhằm xây dựng hạnh phúc thật sự của nhân dân, đó là cách đấu tranh
với tôn giáo có hiệu quả nhất của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không phải là nhà khoa học chuyên nghiên cứu về tôn giáo,
nhưng Người để lại cho chúng ta những quan điểm của người mác xít đối với tôn giáo
trong tình hình cụ thể của một quốc gia có nhiều tôn giáo đang bị thế lực phản cách
mạng lợi dụng gây chia rẽ đoàn kết dân tộc.
Bằng trí tuệ của mình, với lòng yêu nước cao độ và những kinh nghiệm phong
phú được tích lũy từ những hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Hồ Chí Minh đã sớm nắm bắt được tinh thần biện
chứng cách mạng, khoa học và nhân đạo chứa đựng trong chủ nghĩa Mác - Lênin và
Người đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết ấy để giải quyết những vấn đề mà
thực tiễn Việt Nam đặt ra, trong đó có vấn đề về tôn giáo và Công giáo. Ngày nay, noi (1) Hồ Chí Minh, Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, Nxb KHXH, Hà Nội, 1996, tr.66.
gương Người, chúng ta phải thấm nhuần quan điểm khoa học về tôn giáo để việc vận
dụng vào công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo có hiệu quả góp phần phục vụ
tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng trong thời kỳ mới của cách mạng.
Vận dụng đúng đắn những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; xuất phát từ tình hình, đặc điểm tôn giáo nước ta hiện nay; Đảng
và Nhà nước ta đang thực hiện sự đổi mới về công tác tôn giáo. Nghị quyết 24 của Bộ
chính trị Trung ương Đảng ta về "Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới" và
nghị định 69 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về các hoạt động tôn giáo là
những văn bản ở cấp độ đường lối, quan điểm thể hiện sự đổi mới đó. Cần phải nắm
vững những nội dung cơ bản của nó:
- Công tác tôn giáo vừa phải quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của
quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để chống phá cách
mạng.
- Tôn giáo, tín ngưỡng là hiện tượng còn tồn tại lâu dài và là nhu cầu của một
bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có những điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới.
- Nội dung chính của công tác tôn giáo là công tác quần chúng, công tác đối với
con người. Đồng bào có đạo hay không có đạo đều là công dân Việt Nam. Sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, chăm lo giải quyết những lợi ích thiết thực trong đó có quyền tự do tín
ngưỡng, đồng thời giúp đỡ đồng bào nâng cao trình độ mọi mặt để đóng góp tích cực
vào sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo nói trên, công tác tôn giáo trong giai đoạn hiện
nay phải thực hiện những nhiệm vụ chính sau đây:
- Làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, các chức sắc và tín đồ tôn giáo quán
triệt đầy đủ các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo
nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; làm cho tôn giáo gắn bó với dân tộc, tuân
thủ pháp luật, giữ gìn độc lập, chủ quyền của đất nước.
- Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào
có đạo. Thực hiện tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng trên cơ sở pháp luật.
Tích cực vận động giáo dân tăng cường đoàn kết xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo;
giữ vững sự ổn định chính trị, an ninh quốc phòng; tích cực góp phần vào công cuộc đổi
mới kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
- Tăng cường quản lý bằng pháp luật đối với các hoạt động tôn giáo; hoàn chỉnh
các văn bản pháp luật về tôn giáo; đào tạo đội ngũ cán bộ tôn giáo am hiểu pháp luật.
- Hướng dẫn các chức sắc hoạt động tôn giáo phù hợp chính sách và pháp luật
hiện hành. ủng hộ các xu hướng tiến bộ trong các tôn giáo, làm cho các giáo hội ngày
càng gắn bó với dân tộc, thể hiện trách nhiệm của giáo hội trong một nước độc lập, có
chủ quyền, bình đẳng và hữu nghị với các nước khác trên thế giới.
- Nâng cao cảnh giác, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế
lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá tổ quốc, nhân dân, đi ngược lại lợi ích chính
đáng của giáo dân.
Những nhiệm vụ trên được hoạch định trên cơ sở các nguyên tắc sau đây:
- Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của
nhân dân, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo hoặc tín ngưỡng.
- Mọi công dân theo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật,
được hưởng mọi quyền công dân và thực hiện mọi nghĩa vụ công dân.
- Các tổ chức hoạt động tôn giáo phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Nhà
nước.
- Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ được
đảm bảo. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và nhân dân được khuyến
khích.
- Mọi hoạt động mê tín, dị đoan bị bài trừ. Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để phá
hoại nền độc lập dân tộc, chống lại Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, làm phương hại đến nền văn hóa lành mạnh của
dân tộc, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, đều bị xử lý theo pháp luật.
Nhà nước cũng đã có sự hướng dẫn tương đối cụ thể việc thực hiện chính sách
và nhiệm vụ với những đối tượng khác nhau:
- Đối với tín đồ các tôn giáo: đảm bảo cho họ sinh hoạt tôn giáo bình thường; có
nơi thờ tự, kinh sách, đồ dùng trong việc đạo và có chức sắc hướng dẫn việc đạo. Làm
cho họ hiểu rõ quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; biết phân biệt
quyền tự do tín ngưỡng với việc lợi dụng tự do tín ngưỡng để tự giác đấu tranh với âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Xóa bỏ những thành kiến đối với những người có đạo.
Phát triển kinh tế, xã hội; nâng cao đời sống và dân trí; tăng cường công tác
giáo dục, văn hóa, thông tin, y tế, xã hội, khoa học kỹ thuật ở các vùng có đạo.
- Đối với chức sắc các tôn giáo: được hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật
nhà nước tại nơi mình phụ trách. Các giáo hội được đào tạo, phong chức, bổ nhiệm,
thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành theo quy định của pháp luật và chịu sự quản lý của
Nhà nước. Các chức sắc và nhà tu hành gắn bó với dân tộc, tuân thủ luật pháp được tạo
điều kiện thuận lợi và nghĩa vụ. Các chức sắc và nhà tu hành vi phạm pháp luật đều bị
xử lý theo pháp luật.
- Đối với tổ chức các giáo hội: Những tổ chức tôn giáo có đường hướng hành
đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp với luật pháp nhà nước, có
tổ chức thích hợp, có nhân sự bảo đảm tốt hai mặt đạo và đời được nhà nước xem xét
từng trường hợp cụ thể để cho phép hoạt động.
Chức sắc phụ trách tôn giáo ở cơ sở (chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường...)
phải đăng ký với chính quyền cơ sở về tổ chức nhân sự và chương trình hoạt động tôn
giáo thường lệ. Những hoạt động tôn giáo bất thường ngoài đăng ký phải xin phép.
- Đối với các cơ sở hoạt động xã hội, văn hóa, từ thiện của tôn giáo: Các tổ
chức tôn giáo được hoạt động từ thiện, nhân đạo theo sự hướng dẫn, quản lý chung của
Nhà nước. Những hoạt động từ thiện đang có tác dụng tốt thì cần được hướng dẫn để
làm tốt hơn.
Giữ nguyên trạng các cơ sở vật chất của tôn giáo đã khiến cho sự nghiệp phúc
lợi công cộng, song phải sử dụng đúng theo mục đích đã thỏa thuận. Các quan hệ đối
ngoại và quốc tế của tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo phải theo chính sách, quy định chung về quan hệ đối ngoại và quốc tế của Nhà nước ta(1).
Nói tóm lại, các hoạt động tôn giáo hiện nay được Nhà nước ta tôn trọng và bảo
đảm; các giá trị đạo đức, tinh thần của tôn giáo được phát huy. Nhà nước không can
thiệp vào sinh hoạt tôn giáo nhưng nhà nước có trách nhiệm quản lý các hoạt động đó
về mặt xã hội bằng pháp luật, nhằm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào giáo
dân; đồng thời đấu tranh bài trừ mê tín dị đoan và đặc biệt kịp thời và kiên quyết đấu tranh
làm thất bại những âm mưu lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng, chống phá
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân.
2.1.2. Về hoạt động: Tập trung giải quyết tốt mấy nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, phân công và phối hợp thống nhất hành động giữa các ngành, các cấp
trong việc vận động quần chúng tín đồ Công giáo.
Cần đổi mới, chấn chỉnh lại công tác vận động quần chúng, cần có sự phân
công, phân cấp rõ ràng, tránh trường hợp chồng chéo như hiện nay. ở tỉnh khi có sự việc
gì xảy ra, để tham mưu cho tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh xử lý thì các ngành chức
năng: Ban Tôn giáo, Mặt trận, Công an, Ban Dân vận đều có ý kiến tham gia. Song ý
kiến của mỗi cơ quan khác nhau tùy theo cách hiểu của người lãnh đạo và chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan đó. Thông thường, có lúc cùng một sự việc đơn giản lại nhiều cơ
quan tham gia, nhưng có lúc lại bỏ trống địa bàn, đùn đẩy công việc cho nhau. Để làm
tốt việc vận động giáo dân tham gia những phong trào hành động cách mạng ở địa
phương. ủy ban nhân dân tỉnh cần có một quy chế phối hợp hành động rõ ràng giữa các
cơ quan liên quan với chính quyền cơ sở, phân công trách nhiệm đến từng người cụ thể
và tích cực vận động giáo dân tăng cường đoàn kết xây dựng cuộc sống tốt đời đẹp đạo,
giữ vững sự ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, tích cực góp phần vào công cuộc đổi
mới kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 24 của bộ Chính trị về "Tăng cường công tác tôn giáo trong tinh hình mới", ngày 16/10/1990, tr.8.
minh. Chỉ có cách làm này mới thực sự nâng cao chất lượng hiệu quả công tác đối với
con người ở địa phương.
Hai là, chú ý mối quan hệ giữa vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc. Tăng cường
đầu tư phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng.
Mối quan hệ giữa vấn đề tôn giáo và vấn đề dân tộc là quan hệ đa chiều, phức
tạp, nhạy cảm cần được các ngành các cấp nhận thức đúng giải quyết vấn đề tôn giáo
phải trên cơ sở, nền tảng của vấn đề dân tộc. Bởi đây là cái gốc rễ của mọi căn nguyên
sang đạt, còn tôn giáo chỉ là nguyên cớ. Xung đạt đó thể hiện ở việc tranh giành, lấn
chiếm đất đai; đồng thời cộng thêm vào đó là sự kích động của những đối tượng chống
chế độ bằng những tư tưởng ly khai, miệt thị dân tộc, quốc tế hóa vấn đề dân tộc chống
phá đất nước ta, Đảng, Nhà nước cần có những chính sách điều chỉnh thích hợp, quan
tâm hơn nữa đến cuộc sống của người dân, đảm bảo được khối đại đoàn kết, tránh xảy
ra mâu thuẫn nội bộ, nếu có nên kịp thời giải quyết không cho kẻ thù bên ngoài lợi
dụng.
Nhân tố quan trọng để quần chúng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ
chế độ không gì hơn ngoài việc chăm lo cho người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
được tạo điều kiện học tập có tri thức bước vào ngưỡng cửa của thời đại mới. Điều cần
kíp hiện nay là chính quyền các cấp thực hiện tốt chương trình định canh định cư kinh tế
mới, xóa đói giảm nghèo; thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe và giáo dục cho
đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Biến các chủ trương, quan điểm của
Đảng thành những đề án phát triển kinh tế thật cụ thể, có tính thực tiễn cao, phù hợp với
tâm lý dân tộc để họ chấp nhận, tránh tình trạng dàn trải chung chung như vừa qua.
Chính quyền cần tính toán kỹ khi quyết định đầu tư đến địa phương nào, đầu tư về lĩnh
vực gì có thể đem lại hiệu quả. Khi tổ chức thực hiện, tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh cần
có sự chỉ đạo xuyên suốt, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên, không để rơi rớt vốn vào tay
một số cán bộ biến chất, tránh trường hợp "đầu voi đuôi chuột" hoặc làm giữa chừng,
hậu quả này vừa gây thiệt hại về kinh tế vừa làm giảm lòng tin của quần chúng đối với
chính quyền.
Đối với đồng bào ở khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới có cuộc sống
khó khăn, chính quyền càng đặc biệt lưu tâm hơn, cần ưu tiên các dự án phát triển kinh
tế đầu tư vào khu vực này, nên tính đến việc trồng gò, làm gò có hiệu quả sớm nhất cho
người dân - cách này vừa xóa được đói vừa giúp đồng bào cách làm ăn hiệu quả để họ
tự vươn lên chính sức mình.
Ba là, đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động quần chúng tín đồ
Công giáo.
Công tác vận động quần chúng nói chung, vận động những người theo đạo
Công giáo nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng. Vận động quần chúng nghĩa là đúng
các biện pháp, các phương pháp các hình thức tổ chức để thu hút, tập hợp các giai tầng
xã hội, các tầng lớp nhân dân tham gia những phong trào cách mạng do Đảng tổ chức
lãnh đạo. Đó là một việc làm khó khăn, phức tạp đòi hỏi sự năng động và có tính nghệ
thuật cao trong sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng. Bởi vì đối tượng quần chúng hết sức đa
dạng phong phú mang những đặc điểm riêng về tâm lý tính cách, tâm linh tôn giáo và
nghề nghiệp. Do đó, công tác vận động quần chúng vừa phải đảm bảo quyền lợi của
cộng đồng dân tộc, vừa phải đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích của từng đối
tượng cụ thể. Nghĩa là bên cạnh việc đáp ứng được quyền lợi chung của cả dân tộc,
cũng phải coi trọng đến quyền lợi riêng của từng bộ phận. Đó là thực tế khách quan của
công tác vận động quần chúng.
Bộ phận quần chúng theo đạo Công giáo (hay giáo dân) là những đối tượng có
tính đặc thù, họ có đặc điểm riêng so với các tầng lớp nhân dân khác. Trước hết đây là
một lực lượng xã hội gắn bó hữu cơ không thể tách rời cộng đồng dân tộc. Họ có quyền
lợi và nghĩa vụ của người công dân với Tổ quốc. Song họ là những tín đồ của đạo Công
giáo, có bổn phận của một con chiên với Chúa, với Giáo hội Công giáo. Như vậy, với
bộ phận quần chúng này vừa có trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc lại vừa có trách
nhiệm của một tín đồ với đạo. Đó là tính đặc thù của bộ phận nhân dân theo đạo Công
giáo. ở đây, trong công tác vận động quần chúng theo đạo Công giáo, cần phải thấm
nhuần một tư tưởng sâu sắc của chủ nghĩa Mác: "Muốn tạo ra một phong trào mạnh như
vũ bão, cần phải đưa ra cho quần chúng mà tình cảm được nuôi dưỡng chỉ bằng tôn giáo, những lợi ích thiết thân của họ dưới bộ áo tôn giáo"(1).
Chúng ta đang bước vào thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế để đạt được mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Đảng ta đề ra. Chuyển
đổi nền kinh tế kéo theo chuyển đổi về nhiều mặt của xã hội, trong đó có vấn đề tôn
giáo. Như phần trên đã trình bày, từ năm 1990 đến nay Đảng ta đã có sự đổi mới cơ bản
nhận thức về tôn giáo. Trên cơ sở đổi mới của Đảng, nội dung, phương thức công tác
vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum cũng phải đổi mới để thực hiện tốt
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo.
Nhằm thực hiện tốt công tác vận động quần chúng có đạo, thực hiện công cuộc
đổi mới ở Kon Tum, trước hết công tác tôn giáo phải đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tôn
giáo của quần chúng có đạo. Đây là vấn đề cốt lõi nhất trong việc đổi mới nội dung,
phương thức.
Đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của quần chúng có đạo được thể hiện ở
những nội dung sau:
- Tạo điều kiện cho quần chúng có đạo tu bổ và khi cần có thể làm mới các cơ
sở thờ tự để quần chúng có đạo có nơi thực hiện nghi lễ của mình. Những cơ sở thờ tự
là di tích lịch sử - văn hóa thì chính quyền trong điều kiện có thể cấp kinh phí tu bổ.
những cơ sở nào bị lấn chiếm cần phải được giải tỏa để giữ gìn cảnh quan và tính tôn
nghiêm. Cần tránh việc xây dựng tràn lan, huy động sức người sức của quá lớn.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho quần chúng tín đồ tham dự nghi lễ tôn giáo. Quần
chúng có đạo đều có thể được đến cơ sở tôn giáo để tham dự nghi lễ. Chính quyền các
cấp phải giữ gìn an ninh trật tự nơi các cơ sở tôn giáo. Những hành vi đầu cơ trục lợi,
mượn nơi thờ tự làm kinh tế, "buôn thần, bán thánh" phải được phát hiện kịp thời và kiên
quyết đấu tranh, xóa bỏ.
Đáp ứng nhu cầu tôn giáo cho quần chúng giáo dân chính là để thỏa mãn nhu
cầu tâm linh cho họ. Nhu cầu này được đáp ứng, quần chúng có đạo sẽ được tiếp thêm
(1) Mác - Ăngghen: Tuyển tập, tập VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1984, tr.418.
sức mạnh để hăng say lao động sản xuất, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Khi nhu cầu được đáp ứng,
quần chúng có đạo tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Các thế
lực thù địch, bọn xấu sẽ không còn khe hở kích động quần chúng chống phá chúng ta.
Nội dung thứ hai của việc đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động
quần chúng tín đồ Công giáo là: hoàn chỉnh các bộ phận lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn
giáo.
Nội dung thứ ba của việc đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động
quần chúng tín đồ Công giáo là: bồi dưỡng giáo dục nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ,
bản lĩnh chính trị.
Từ những nội dung đổi mới trên đây yêu cầu đặt ra đối với công tác vận động
quần chúng tín đồ tôn giáo nói chung, quần chúng tín đồ Công giáo nói riêng ở Kon
Tum là:
Tôn trọng tự do tín ngưỡng của đồng bào theo đạo Công giáo, xem đó là việc
lựa chọn niềm tin của họ, chính quyền không can thiệp hoặc gây khó khăn.
- Đối với những vùng đã có tín đồ toàn tòng thì vận động nhân dân thực hiện
đoàn kết, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nhà nước quan tâm hơn nữa đến việc chăm lo
phát triển kinh tế xã hội cho đồng bào.
- Đối với những vùng người dân mới theo đạo thì cần tăng cường vận động
thuyết phục họ bỏ đạo, trở lại với tín ngưỡng truyền thống; đồng thời chỉ đạo các ngành
chức năng bằng nhiều biện pháp quản lý, không cho phát triển lây lan sang các nơi
khác.
- Đối với số cầm đầu có tư tưởng chống cộng thì cần kiên trì vận động thuyết
phục, nếu còn ngoan cố thì kiên quyết xử lý theo pháp luật. Vận động quần chúng tín đồ
không được tụ tập đọc kinh liên gia.
- Vận động quần chúng nâng cao cảnh giác cách mạng, không mắc mưu bọn
phản động đội lốt tôn giáo.
2.2. Những giải pháp chủ yếu
2.2.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng tín đồ công giáo
với các nội dung sau đây
Một là: Tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm tạo cho quần chúng tín đồ Công giáo
cơ sở khoa học của niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam.
Niềm tin là một trong những yếu tố cơ bản tạo thành biểu tượng xã hội. Niềm
tin chịu ảnh hưởng lớn của kinh nghiệm, đóng vai trò căn bản trong đời sống xã hội, nó
có thể quy định mục đích hành vi cá nhân và tập thể, định hướng sự tìm kiếm những
phương tiện để đạt mục đích đó. Đối với người mang niềm tin, ý nghĩa hành vi của họ
do niềm tin ấy mang lại quan trọng hơn ích lợi mà họ có thể có được. Các cá nhân khi
đã có niềm tin nào đó thường rất khó từ bỏ niềm tin, ngay cả khi đã nghi ngờ mạnh mẽ
về giá trị của nó. Bởi, niềm tin thường đóng vai trò hướng dẫn sự đánh giá và hành
động, nên đổi niềm tin là rất khó khăn và đau đớn.
Trong tôn giáo, niềm tin được gọi là đức tin. Đức tin của quần chúng tín đồ
Công giáo khá sâu sắc, hàng ngày, họ vẫn đi lễ và cầu nguyện. Họ tin rằng, cầu nguyện
là sự gặp gỡ huyền nhiệm với Chúa – Cầu nguyện như một tiếng gọi tương giao giữa
Thiên Chúa với họ. Họ tin tưởng rằng, lời cầu nguyện sẽ được Chúa Cha nhận lời, sẽ
được giải thoát cho họ trong đời sống thực. Bởi vậy, xây dựng niềm tin vào chủ nghĩa
xã hội trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
quần chúng tín đồ Công giáo là điều hết sức quan trọng. Đặc biệt, đứng trước sự thoái
trào của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, sự phân hoá giàu nghèo, những tệ nạn xã hội, sự
thoái hoá bin chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, sự tuyên truyền xuyên tạc của kẻ
thù… đã và đang làm cho một bộ phận quần chúng tín đồ Công giáo dao động về lý
tưởng xã hội chủ nghĩa. Họ không đủ cơ sở để cắt nghĩa được sự biến động ấy của xã
hội, cũng như những cảnh khó khăn, đói nghèo đang còn hiện nay.
Để xây dựng lòng tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong quần chúng tín đồ
Công giáo, nội dung cốt lõi là phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Nghĩa là
phải làm rõ bản chất Cách mạng và khoa học cảu những nội dung vừa nêu, tạo cơ sở
cho họ hiểu rõ những khó khăn hiện tại của đất nước, sự biến động trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa và con đường tất yếu mà đất nước ta phải trải qua để đạt tới “ Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Chỉ có trang bị Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với một phương pháp khoa học thì quần chúng tín đồ
Công giáo mới có cơ sở, niềm tin kiên định con đường Cách mạng xã hội chủ nghĩa mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Vấn đề đặt ra là lựa chọn nội dung, phương
thức tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp với đối tượng quần chúng tín đô Công giáo, mà
ở đây ở Kom Tum – có đặc thù là quần chúng tín đồ Công giáo đa số là người dân tộc.
Việc tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối chính sách của Đảng là rất cần thiết đối với quần chúng giáo dân. Song, trong
tình hình hiện nay với trình độ văn hóa và nói chung về mội mặt của chúng ta không thể
tuyên truyền giáo dục cho quần chúng giáo dân cũng với nội dung phương pháp như cán
bộ, Đảng viên. Với quần chúng giáo dân là những người lao động bình thường chúng ta
chủ yếu tập trung tuyên truyền giáo dục làm rõ quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, tín ngưỡng… Đặc biệt làm rõ
những điểm gặp nhau giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội; khai thác những nội dung có
tính tương đồng trong lý tưởng xã hội chủ nghĩa và lý tưởng chân chính của đạo Công
giáo. Lý tưởng (mục tiêu) xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một xã hội thế tục: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lý tưởng tôn giáo là khát vọng
của một thế giới tự do, hoà bình, bác ái, vì mục đích con người. Điểm tương đồng ấy là
mục tiêu độc lập, tự do và hạnh phúc của con người. Theo Linh mục Trần Tam Tình,
trong một buổi nói chuyện với các giáo hữu người Việt Nam đại Pháp, Hồ Chí Minh
quả quyết nói rằng, lý tưởng chân chính của người Công giáo không khác gì lý tưởng
của chủ nghĩa xã hội Hồ Chủ Tịch nói: “Mục đích Chính phủ ta theo đuổi là chiến đấu
vì nền độc lập và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Song để đạt tới hạnh phúc đó cho
con người, cầnd phải xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Nếu Đức Giê Su sinh ra vào thời đại
chúng ta và phải đặt mình trước những nỗi khổ đau của người đương thời, chắc Ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi tìm đường cứu khổ loài người”*.
Khai thác những nội dung tương đồng ấy, sẽ tạo cho quần chúng tín đồ Công
giáo niềm tin rằng, ở Kom Tum và Việt Nam nói chung, những người tín hữu có thể
đồng hành lâu dài với những người Cách mạng, những người cộng sản. Sự đồng hành
đó không chỉ diễn ra trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập mà chủ yếu sẽ tiếp tục diễn
ra trong các thời kỳ xây dựng hoà bình lâu dài sau đó… Quần chúng tín đồ Công giáo
vừa là một tín hữu của đạo Công giáo, vừa là một công dân Việt Nam. Họ có đầy đủ
quyền lợi và nghĩa vụ có một công dân Việt Nam, được học tập, rèn luyện lao động sản
xuất và công tác trong môi trường xã hội, trong tổ chức các đoàn thể xã hội. Họ được
kết nạp vào Đoàn, vào Đảng cộng sản Việt Nam nếu họ có nguyện vọng và phấn đấu
tốt.
Với quần chúng giáo dân là trí thức, là cán bộ, bộ đội, về hưu chúng ta có thể
nói sâu hơn, rộng hơn, dùng nhiều luận chứng khoa học để nâng cao tính thuyết phục.
Nhưng dù sao nội dung tuyên truyền giáo dục cũng không thể làm như trong nội bộ
Đảng được.
Về phương pháp và quy mô tiến hành, chúng ta không thể mở lớp học tập trung
nhiều ngày như Đảng viên mà chủ yếu thông qua các buổi học tập nghị quyết, nói
chuyện chuyên đề, thời sự chính chính… Nếu có điều kiện để tổ chức cho giáo dân trao
đổi để nâng cao nhận thức.
Việc lựa chọn phương pháp tuyên tuyền cho quần chúng cũng là một khó khăn
cho tổ chức cơ sở Đảng. Chúng ta không thể nói với quần chúng rằng không có Chúa,
không có Thánh Thần, giáo lý Công giáo là nhảm nhí… Làm như vậy là tuyên chiến với
tôn giáo, xúc phạm thô bạo tới tình cảm quần chúng, dễ bị bọn xấu lợi dụng kích động
quần chúng đấu tranh với chúng ta. Vì vậy tuyên truyền đưa các quan điểm khoa họcu
vào quần chúng giáo dân phải hết sức tế nhị, khôn khéo, dễ hiểu. Thông thường là phải
dùng hình thức gián tiếp, qua thực tiễn sản xuất và đời sống để quần chúng chấp nhận.
* (Linh mục Trần Tam Tĩnh (1988), Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, tr 79).
Điều quan trọng là làm cho giáo dân thấy được chế độ xã hội chủ nghĩa là mang lại lợi
ích cho họ chứ không phải cần đạo, xoá đạo.
Các tổ chức cơ sở Đảng cần phát huy thế mạnh của công tác tuyên truyền cổ
động miệng. Đây là hình thức đơn giản, nhẹ nhàng ít tốn kém nhưng mạng lại hiệu quả
cao. Cần phát huy thế mạnh của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên ở cơ sở. Hàng
tháng Huyện mở lớp bồi dưỡng báo cáo viên, phổ bin những chủ trương mới, thông tin,
thời sự chính sách… Đội ngũ này lan toả xuống cơ sở mang tiếng nói của Đảng đến với
quần chúng giáo dân.
Cùng với tuyên truyền miệng, ở cơ sở cần triệt để khai thác, các phương tiện
thông tin đại chúng hiện có, cần xây dựng hệ thống loa truyền thanh ở Huyện, xã, thị
trấn vì nó tác dụng trực tiếp đến sinh hoạt hàng ngày của quần chúng giáo dân như nghe
phổ bin thời vụ sản xuất, phòng trừ sâu bệnh, thông báo của Huyện, xã xuống từng gia
đình, cần có đài phát thanh bằng tiếng nói dân tộc bởi vì đa số giáo dân người dân tộc
còn chưa thạo tiếng kinh với lại giáo dân người dân tộc thiểu số với lối tư duy cụ thể,
trực tiếp, cảm tính. Do nền sản xuất nhỏ tự cung tự cấp gắn với giáo dân người dân tộc
thiểu số từ hàng ngàn năm nay, hầu như không thay đổi, họ tiếp xúc trực tiếp với mảnh
ruộng, núi rừng, bầy gia súc, gia cầm, các đàn thú trong rừng… tất cả như người bạn
thân tình của họ. Với điều kiện sản xuất như thế, họ ít được đi xa, họ không nhận biết
được những thay đổi và sự khác nhau giữa các bản, các làng của đất nước. Vì thế tầm
mắt và sự suy nghĩ của họ không được mở rộng, chỉ gắn trực tiếp với những sự vật, hiện
tượng cụ thể hàng ngày, do đó trở thành hời hợt, thiển cận, vụn vặt, tầm thường… Họ
quen suy nghĩ và nhận thức trên cơ sở các giác quan đã tiếp xúc trực tiếp nên ở họ dễ
xây dựng được niềm tin và cũng dễ gây mất niềm tin vào con người, vào Cách mạng,
sống theo cảm xúc, tình cảm. Họ thường xúc động và dễ tin vào những việc, những
người có hành động cụ thể, gần gũi, hoà hợp với cuộc sống của giáo dân. Mặc dù những
hành động đó có thể là bề ngoài, đôi khi giả dối. Họ cũng thường dễ mất niềm tin (và
mất niềm tin lần đầu thì khó xây lại niềm tin lần thứ hai). Họ thường đánh giá con người
thông qua những kết qủa trước mắt, chưa biết dùng lý trí để phân tích sự đúng sai của
các hiện tượng và sự đúng sai của những biểu hiện trong tình cảm, hành động của họ. Vì
thế, họ dễ bị kẻ thù lợi dụng để tuyên truyền, kích động phá hoại Cách mạng. Cho nên
đối với quần chúng giáo dân người dân tộc thiểu số cần phải dùng phương pháp tuyên
truyền giáo dục cá biệt, lấy quần chúng giáo dục quần chúng, bằng những việc làm,
hành động cụ thể. Ví dụ như: Trước đây, một số bà con giáo dân ốm đau không chạyu
chữa, lúa bị sâu không phun thuốc… họ chỉ cần Chúa ban cho thoát khỏi những tai hoạ
ở ấy.
đây chúng ta phải chỉ cho họ thấy sự khác nhau giữa hai người ốm, một người chữa
bằng thuốc, một người chỉ cầu kinh. Giữa hai cánh đồng bị sâu bệnh, một bên dùng
thuốc trừ sâu, một bên chỉ cầu chúc. Lúc đó bà con giáo dân mới nhận ra rằng: nếu ốm
đau mà không chạy chữa có ngày chết oan; lúa bị sâu mà không phun thuốc có ngày mất
trắng. Đây cũng chính là các hình thức giáo dục thực tiễn bằng phương pháp so sánh
đưa khoa học vào quần chúng giáo dân một cách gián tiếp, tế nhị, đầy thuyết phục mang
lại hiệu quả.
Chúng ta cần tuyên truyền các nhiệm vụ phát triển kinh tế – văn hoá - xã hội ở
địa phương để quần chúng tín đồ Công giáo hiểu rõ những thành tựu, những khó khăn
của quê hương, đất nước, địa phương. Từ đó, họ xác lập được niềm tin vào thắng lợi của
công cuộc đổi mới quê hương, đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; có lập trường kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; làm cho ý chí kiên định đó trở thành
niềm tin, trách nhiệm, lập trường chính trị kiên định đó trở thành niềm tin, trách nhiệm,
lập trường chính trị không thể lay chuyển. Kiên quyết đấu tranh với những quan điểm
sai trái, thù địch, bôi nhọ hoặc đi ngược lại mục tiêu, lý tưởng của Đảng; quyết tâm
phấn đấu vì sự phát triển và phồn thình của quê hương, đất nước. Quá trình tuyên truyền
giáo dục cho quần chúng giáo dân cần quan tâm chú ý từng thời kỳ, từng đối tượng
thích hợp nhưng làm sao bin lý tưởng ấy trở thành lý trí và tình cảm Cách mạng, thành
hành động thực tiễn của họ.
Hai là: Tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
truyền thống Cách mạng vẻ vang của Đảng, truyền thống đoàn kết toàn dân.
Truyền thống được hiểu là cơ chế giữ gìn, lưu truyền, tái sản xuất, phát huy và
phát triển những kinh nghiệm xã hội, những giá trị xã hội đã tích luỹ trong quá khứ.
Con người có thể tự giác để giữ gìn, phát huy một loại truyền thống nào đó và
lọc bỏ những truyền thống khác. Truyền thống có nhiều mức độ và cấp độ khác nhau.
Có truyền thống gia đình, truyền thống địa phương, truyền thống cách mạng, truyền
thống dân tộc, phù hợp với pháp luật, tập quán văn minh của các quốc gia trên thế giới.
Nguyên tắc chung của việc giữ gìn và phát huy truyền thống là phải đảm bảo sự kế thừa
biện chứng, có lọc bỏ, giữ lại, cải bin và sáng tạo ra những giá trị mới làm phong phú
thêm cho truyền thống.
Trong lịch sử dựng nước và giã nước của nhân dân ta, trong lịch sử cách mạng
của Đảng, truyền thống yêu nước và cách mạng luôn là tài sản quý báu. Truyền thống
ấy là nhân tố tạo nên sức mạnh tinh thần, là giá trị cao quý góp phần làm nên sức mạnh
to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống yêu
nước và cách mạng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thấm sâu vào máu thịt
của mỗi người Việt Nam, trở thành một đặt điểm cơ bản, bền vững trong đời sống tinh
thần của dân tộc, là cội nguồn của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trước mọi
thử thách hiểm nghèo.
Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong một bộ phận
quần chúng tín đồ Công giáo ở Kom Tum có sự giảm sút lòng yêu quê hương, đất nước;
không tha thiết gắn bó với quê hương. Vấn đề hiện nay là làm thế nào để giáo dục
truyền thống yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống cách
mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc cho họ. Từ đó bin nó thành giá trị cao đẹp, động
lực tinh thần cho quần chúng giáo dân.
Kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động của quần chúng ở KonTum cho thấy,
giáo dục truyền thống cho quần chúng phải được tiến hành đồng bộ, liên tục. Giáo dục
truyền thống không phải chỉ là sự “phản ánh” mà còn là sự bảo vệ, giữ gìn và phát huy.
Nội dung giáo dục truyền thống cho quần chúng tín đồ Công giáo, bên cạnh việc giáo
dục đường lối, chủ trương của Đảng, các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, cần hết sức coi trọng chăm lo bồi dưỡng truyền thống Nhân,
Trí, Dũng cao đẹp của dân tộc. Bảo vệ và phát huy nền tảng tư tưởng của Đảng, những
giá trị văn hóa tốt đẹp, bền vững của dân tộc; lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng
đồng sâu sắc, “uống nước nhớ nguồn”; ý chí vượt qua mọi cám giỗ, thách thức; tinh
thần cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, học tập; tinh thần cần kiệm xây dựng đất
nước, làng xóm, gia đình; tinh thần hiếu học, tự lập thân; đức tính thẳng thắn, trung
thực, dân chủ gắn với kỷ cương; lối sống thuỷ chung, nhân ái, không tự ty, tự mãn; bài
trừ hủ tục cũ và mới, mê tín…
Truyền thống yêu nước là mẫu số chung của mọi người Việt Nam thuộc các
tầng lớp xã hội, tộc người và tôn giáo khác nhau. Đó là cơ sở chung cần được phát huy
để đoàn kết, tập hợp mọi đối tượng quần chúng trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng, của Đoàn
thanh niên, lòng tự hào dân tộc và Đảng quang vinh, Bác Hồ kính yêu cho quần chúng
tín đồ Công giáo ở địa phương cần phải khơi dậy trong họ niềm tự hào mình là con
Rồng, cháu Lạc và là tín hữu Công giáo mà bản thân Đức chúa Giêsu của họ là người
“… hy sinh để cứu loài người khỏi ách nô lện và đưa loài người về hạnh phúc, bình
đẳng, bác ái, tự do.
… Chúa cơ đốc sinh ra làm gương mọi giống phúc đức như: hy sinh vì nước, vì dân, làm gương lao động, công bằng ruộng đất, tin thờ chúa bằng tinh thần” *. Trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam, bản thâqn người thân của họ cũng là những người yêu
nước, đã hăng hái tham gia kháng chiến và nhiều người đã oanh liệt hy sinh vì Tổ quốc. “ở nước ta, đồng bào Công giáo đều yêu nước và hăng hái tham gia kháng chiến *. Do
đó, giáo dục truyền thống yêu nước để quần chúng tín đồ Công giáo hiểu rằng đối với
tín hữu, đức tín tôn giáo và lòng yêu nước không có gì mâu thuẫn nhau. Một quần
chúng có thể đồng hành nghĩa vụ đối với Tổ quốc, quê hương và làm tròn bổn phận đối
với các Đấng tối cao mà mình tôn thờ.
Bồi dưỡng tình cảm cách mạng, truyền thống yêu nước và bản sắc dân tộc là
một vấn đề cơ bản để xác lập lý tưởng xã hội chủ nghĩa, niềm tin vững chắc cho quần
* (Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập &, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 197) * (Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 343
chúng, giúp cho họ động lực, suy nghĩ và hành động thực tiến đúng, phấn đấu cho sự
nghiệp phục hưng quê hương, đất nước, địa phương.
Ba là: Tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội, kiên quyết đấu tranh chống lại các hoạt động lợi dụng tôn giáo phá hoại chính sách
đoàn kết dân tộc, phá hoại sự nghiệp cách mạng nước ta.
Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. Trong các thời kỳ cách mạng Đảng và Nhà
nước ta luôn xác định bảo vệ Tổ quốc, giữ vững trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ quan
trọng thường xuyên góp phần bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, tạo môi trường an ninh, trật tự ổn định cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam đã tạo được vị thế mới trong
cộng đồng quốc tế, được nhiều nước quan tâm. Các nước đã có sự điều chỉnh chiến lược
và sách lược đối với Việt Nam phù hợp với xu thế chung và lợi ích quốc gia, dân tộc
của mỗi nước. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn không thay đổi mục tiêu xoá bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Một số phần tử cơ
hội chính trị đang đi ngược lại lợi ích dân tộc, chống Đảng và chống chế độ xã hội chủ
nghĩa. Một trong những nội dung chiến lược phá hoại của chúng là lợi dụng vấn đề tôn
giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân. Lợi dụng vấn đề tôn giáo là mặt hoạt động
nổi bật cảu các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam mà mục
tiêu của chúng là từng bước tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước, bin tôn giáo
thành lực lượng chính trị đối trọng với Đảng. Thực tế ở Kom Tum hiện nay, nhận thức
của quần chúng tín đồ Công giáo về âm mưu và hoạt động cảu các thế lực thù địch,
phản động chưa đầy đủ, ý thức cảnh giác cách mạng ở một bộ phận giáo dân chưa được
đề cao. Phong trào quần chúng Công giáo tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa sâu
rộng, hiệu quả còn thấp. Vì vậy, giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an toàn trật tự
xã hội, kiên quyết đấu tranh chống lại các hoạt động lợi dụng tôn giáo phá hoại chính
sách đoàn kết dân tộc, phá hoại sự nghiệp cách mạng nước ta cần được tiến hành thường
xuyên, sâu rộng trong quần chúng tín đồ Công giáo. Trong các bài nói, bài viết của
mình đối với đồng bào Công giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ ra rằn, chỉ khi nào
nước nhà độc lập, các tín đồ Công giáo mới được tự mình làm chủ tôn giáo của mình với những chức sắc, các Linh mục, Giám mục, Hồng y là người Việt Nam *
Nội dung giáo dục cần làm cho quần chúng giáo dân nhận thức được rằng muốn
bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta thì
trước hết phải bảo vệ vững chắc độc lập của Tổ quốc, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, bảo
vệ Chính quyền nhân dân, bảo vệ đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã dày công xây dựng. ở cơ sở, điều đó được thực hiện trực tiếp bằng
việc bảo vệ sự nghiệp đổi mới ở quê hương dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện dân
chủ trong đời sống xã hội, triệt để tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của quần
chúng… quần chúng phải là người thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội.
Trong đó, nội dung chủ yếu của dân chủ với tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay là: quần
chúng có đạo hay không có đạo, có quyền và nghĩa vụ bình đẳng như nhau trước pháp
luật. Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để kích động quần chúng, lôi kéo quần chúng nhằm
phá hoại độc lập Tổ quốc, gây mất ổn định chính trị và an ninh trật tự, an toàn xã hội ở
địa phương, đi ngược lại đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước… phải được phát
hiện kịp thời và kiên quyết đấu tranh, mà trước hết phải từ nội bộ lực lượng quần chúng.
Những biểu hiện gây chia rẽ đoàn kết giữa quần chúng Công giáo và quần chúng không
Công giáo phải được kịp thời ngăn chặn. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của quần
chúng chỉ được bảo hộ một cách đúng đắn bằng pháp luật, khi độc lập Tổ quốc giữ
vững, kịp thời ngăn chặn và đấu tranh với những hoạt động lợi dụng đức tin tôn giáo và
các sinh hoạt tôn giáo của quần chúng vào các mục đích ngoài tôn giáo. Tôn trọng và
thực hiện tốt tự do tín ngưỡng, tôn giáo chính là bảo vệ niềm tin thiêng liêng nhất của
tín đồ; đấu tranh với những kẻ lợi dụng tôn giáo vào mục đích ngoài tôn giáo chính là
để bảo vệ niềm tin thiêng liêng đó. Do đó, tổ chức cơ sở ở vùng Công giáo cần tăng
cường giáo dục cho quần chúng những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về
công tác tôn giáo, tạo mọi điều kiện để quần chúng Công giáo được tham gia vào các
hoạt động của các đoàn thể, các hoạt động chính đáng trong đời sống tôn giáo của họ,
* Ngô Phương Bá (1998), Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo, sách Hồ Chí Minh về vấn đề tín ngưỡng tôn giáo, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội , tr. 79.
tham gia vào giải quyết các công việc ở địa phương. Có như vậy, ý thức trách nhiệm
công dân của quần chúng mới được nâng cao. Mộtu khi nhu cầu chính đáng của quần
chúng Công giáo được mãn nguyện, phải chăng chính họ chứ không ai khác lại là người
bảo vệ tôn giáo họ được lành mạnh, là người cương quyết chống lại bọn lợi dụng đức
tin, một trong những điều thiêng liêng nhất của họ, vào những mưu đồ đen tối về chính
trị. Không ai muốn đức tin của mình bị vẩn đục, hoen ố.
Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá VI) đã khẳng định: “Bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của công dân…
Mọi hoạt động vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ được đảm bảo. Mọi
hoạt động mê tín dị đoan bị bài trừ. Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại nền độc
lập dân tộc, chống Nhà nước XHCN Việt Nam, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, ngăn cản tín đồ làm nhiệm vụ công dân đều bị xử lý theo pháp luật *
Ngày nay, cần trang bị cho quần chúng giáo dân kiến thức về giáo dục dân số
và kế hoạch hoá gia đình, về si đa, về môi sinh, về tôn giáo nói chung v.v… để mọi
người có khả năng giải đáp các vấn đề xã hội và cuộc sống, xử lý các mối quan hệ gia
đình, làng xã, giữa các tôn giáo với nhau.k
Như vậy, chúng ta đã xác định được nội dung tuyên truyền giáo dục cho quần
chúng giáo dân ở cơ sở. Thực hiện tốt những nội dung tuyên truyền, giáo dục đó là một
trong những nhân tố hàng đầu, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác vận động
quần chúng tín đồ Công giáo ở Kom Tum trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
2.2.2. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị tỉnh để làm công
tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo
- Phố hợp chặt chẽ hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ Đảng để làm công tác vận động quần chúng giáo dân.
Làm công tác vận động quần chúng giáo dân là trách nhiệm của cấp uỷ Đảng,
của các tổ chức, các đoàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng. Tuy nhiên
mỗi tổ chưc tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tổ chức mình mà có hình thức,
* (Bộ Chính trị BCHTW Đảng (16-10-1990), Nghị quyết của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới). Nghị quyết 24-NQ/TW tr. 5).
phương pháp tiến hành công tác vận động quần chúng giáo dân sao cho phù hợp với đặc
điểm tâm lý lứa tuổi và giới tình. “ Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã
hội” (Các Mác). Nghĩa là, mỗi con người chịu sự chi phối của nhiều mối quan hệ, phụ
thuộc váod một, hoặc nhiều tổ chức cơ quan quản lý. Do đó nếu không có sự phối hợp
giữa các tổ chức, các đoàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng ở địa phương
để tiến hành công tác vận động đối với giáo dân ở cơ sở, chắc chắn sẽ có tình trạng
trùng lặp chồng chéo, thậm chí cản trở nhau một cách không tự giác, để chất lượng hiệu
quả công tác vận động quần chúng giáo dân.
Đối với vùng giáo Kom Tum hiện nay, công tác vận động quần chúng giáo dân
của các cơ quan đoàn thể nhân dân chưa đủ mạnh, chưa thu hút tập hợp được nhiều
quần chúng giáo dân. ở đây có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là sự phối
hợp giữa các tổ chức làm công tác vận động quần chúng giáo dân chưa tắt. Để khắc
phục điều này, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, mỗi tổ chức cơ sở phải nắm chắc
chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cở sở phải làm gì và làm như thế nào, trên cơ sở nội
dung công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo đã được xác định. Ban tôn giáo
tỉnh cần chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch liên tịch phối hợp với Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể tạo sự trợ giúp, tạo tiếng nói đồng tình và cùng tổ chức thực hiện
các chương trình công tác đề ra. Qúa trình thực hiện sự phối hợp với Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể phải trên nguyên tắc cộng đồng trách nhiệm vì một mục tiêu chung;
thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm; tránh tình trạng sự phối
hợp chỉ là hình thức, triển khai nhưng không thực hiện. Sự phối hợp phải có cơ chế phối
hợp, có trách nhiệm trong sự phối hợp để tạo nên hiệu quả trong phối hợp. Trong qúa
trình hoạt động, các tổ chức cơ sở cần tranh thủ sự ủng hộ của gia đình, các bậc lão
thành cách mạng, những cán bộ cao tuổi có uy tín ở địa phương, những già làng, trưởng
bản có tâm huyết tham gia công tác vận động quần chúng.
Mỗi tổ chức cơ sở xây dựng chương trình cụ thể hoạt động của mình (hàng quý,
hàng năm) để cấp ủy xem xét. Cấp ủy Đảng là cơ quan điều tiết sự phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức đoàn thể để làm công tác vận động quần chúng giáo dân. Dưới sự chủ trì
của cấp uỷ Đảng, các cơ quan, tổ chức đoàn thể cần xem xét những việc nào cần kết hợp
vận động, những công việc nào cần tổ chức chịu trách nhiệm chủ yếu, “Xung kích”. Ví
dụ:
Ban Tôn giáo là cơ quan tham mưu cho cấp ủy về công tác vận động, có trách
nhiệm thường xuyên làm trung tâm hợp đồng tổ chức các cuộc hội nghị liên ngành bàn
biện pháp, giải đáp những vấn đề quần chúng đặt ra trong từng thời gian; giúp câp ủy có
cơ sở vận dụng cụ thể, có kế hoạch, đề án nghiên cứu tình hình Công giáo lâu dài, dự
báo tình hình hoạt động của đạo Công giáo sẽ diễn ra trên địa bàn làm cơ sở tham mưu
cho Uỷ ban Nhân dân tỉnh chủ động giải vấn đề.
Để tiến hành có hiệu quả, ngoài việc lập ra Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo tỉnh
như hiện nay,Tỉnh uỷ cần có kế hoạch chỉ đạo cho Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội
Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ từng
cơ quan, đơn vị gắn việc thực hiện nhiệm vụ chính trị với công tác vận động quần chúng
tín đồ Công giáo tại cơ sở; đồng thời thông qua hệ thống giáo dục tại các thôn làng, vận
động giáo viên tham gia vào làm công tác tôn giáo vận. Bởi lực lượng này hiện nay ở cơ
sở có đều khắp, họ là những người có uy tín, được quần chúng kính trọng để vận động
tín đồ thực hiện tốt chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Cụ thể hơn:
Đối với thanh niên: Thanh niên là tương lai của đất nước và cũng là tương lai
của Giáo hội. Khẩu hiệu của họ nêu ra là “Thà mất mấy ngôi thánh đường còn hơn mất
một tâm hồn trẻ thơ”. Đạo còn tồn tại lâu dài hay không là ở thanh thiếu niên; Giáo hội
còn mất là ở phụ nữ. Hiện nay, Giáo hội rất lưu tâm nắm lấy hai lực lượng này. Do đó
cấp uỷ Đảng phải hết sức chú ý các tổ chưc đó.
Thanh niên là người trực tiếp gánh vác nhiều công việc trong xã hội, cũng là
tâng lớp tham gia vào các hoạt động tôn giáo. Do vậy, họ thường bị nhồi nhét giáo lý và
bị ràng buộc trong đạo luật. Thanh thiếu niên chưa hiểu biết sâu về tôn giáo nên dễ bị
lừa bịp, kích động. Cán bộ Đoàn, Đại nếu không hiểu tâm tư nguyện vọng, mức độ tín
ngưỡng của quần chúng, cũng như không nắm vững chính sách đối tôn giáo thì công tác
dân vận, giáo dục thanh thiếu niên có tín ngưỡng tôn giáo sẽ bị hạn chế, không đạt kết
quả cao.
Muốn làm được điều đó, trước hết, nhà trường và xã hội phải coi trọng công tác
vận động, giáo dục thanh niên có đạo – kể cả đối với giáo viên có tín ngưỡng Công
giáo. Mỗi cán bộ Đoàn phải phân công cán bộ để làm tốt công tác tôn giáo vận, phối
hợp với các ngành có liên quan như: Văn hóa, thể dục thể thao, câu lạc bộ thanh niên tổ
chức các hoạt động phong phú, bổ ích; thông qua các phong trào hành động cách mạng
ở địa phương tạo điều kiện tiếp xúc, gần gũi giữa thanh thiếu niên, qua đó chọn lọc
những người tiến bộ để xây dựng lực lượng nòng cốt ở vùng giáo.
Đối với phụ nữ: Người phụ nữ dân tộc ở Kom Tum có vị trí lớn trong cộng
đồng và gia đình, họ là những người có tín ngưỡng tôn giáo rất cuồng tín (hơn nam
giới), họ luôn lo sợ mất đạo, sợ hoả ngục, nguyện vọng muốn khi chết được lệ Thiên
Đàng. Giáo hội thường sử dụng ông, bà già, lực lượng phụ nữ ra đấu tranh đòi yêu sách
với ta. Phụ nữ theo đạo Công giáo thường bị tác động, ám ảnh bởi vấn đề này, nên hay
giữ cho mọi người trong gia đình không được lơ là việc đạo. Vì vậy, công tác tôn giáo
vận, vận động phụ nữ phải đi sâu nghiên cứu, nắm chắc đặc điểm của họ là biết tôn
trọng tự do tín ngưỡng, bảo đảm cho họ được sinh hoạt tôn giáo bình thường, để ta có
thể hoà nhập với họ tốt. Quan tâm đến chị em có hoàn cảnh khó khăn, chậm tiến, số
người thân có giữ chức vụ trong đạo, có người ở nước ngoài, người bị cải tạo… gần gũi
thân tình, quan hệ đối xử tốt với họ. Muốn chinh phục chính trị, trước hết phải chinh
phục tình cảm, phải tạo được đội ngũ cốt cán trong phụ nữ, trong nữ giáo viên, y tế,
công nhân viên, thông qua các lực lượng đó để nắm bắt tình hình. Hội phụ nữ cần phối
hợp với Trường Chính trị tỉnh mở những lớp bồi dưỡng ngắn hạn thường xuyên hơn
nữa, cần bồi dưỡng cho hội viên không phân biệt lương giáo cùng nhau giúp vốn xây
dựng cuộc sống mới, xóa đói giảm nghèo, con khoẻ dạy con ngoan, hết sức chú ý giáo
dục “thực hiện kế hoạch hoá gia đình”. Phải làm cho chị em thấy rằng, đông con là
nguyên nhân của bao tai hoạ đến với gia đình, trước hết là phụ nữ, nghèo đói bệnh tật,
thất học cũng do sinh đẻ không có kế hoạch; giáo dục cho chị em thấy rằng Chúa cũng
chỉ muốn mỗi gia đình có 1 con. Hình ảnh gia đình Thanh gia là mẫu mực việc làm của
Chúa về sinh đẻ có kế hoạch đối với giáo dân. Đó là ông GiuSe (bố) bà Maria (mẹ) và
Giê Su là con. Đẻ chín mười con như hiện nay ở Kom Tum (nhất là phụ nữ giáo dân
người dân tộc thiểu số) là có tạo với Chúa. Chỉ có bọn phản động chống lại đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước mới khuyên giáo dân đẻ nhiều. Nếu chị em tích cực
sử dụng các biện pháp tránh thai ở mỗi gia đình, vợ chồng thống nhất đẻ 1 – 2 con chắc
chắn tỷ lệ dân số ở Kom Tum sẽ giảm, đời sống văn hóa sẽ tăng, chị em phụ nữ thực sự
được giải phóng. Vận động sinh đẻ có kế hoạch là vì lợi ích giáo dân. Cần tạo cho được
số phụ nữ gốc giáo tham gia sinh hoạt hội nhiều hơn nữa. ở Kom Tum đã số phụ nữ dân
tôi là theo đạo Công giáo, họ tham gia sinh hoạt hội rất thấp so với số người tham gia
các hội đoàn tôn giáo. Hiện nay có trên 70% phụ nữ gốc giáo ở Kom Tum tham gia các
hội đoàn tôn giáo. Đây là vấn đề cấp ủy Đảng cần quan tâm hơn nữa tới tổ chức cơ sở
này.
Mặt trận Tổ quốc tỉnh là tổ chức tập hợp quần chúng rộng rãi nhất, đoàn kết
mọi giai tầng trong xã hội vì mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề
đạo Công giáo, cần xử dụng triệt để vai trò của ủy ban đoàn kết Công giáo của tỉnh để
làm tốt việc này.
Ngoài những hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được cấp ủy phân công, các
tổ chức, các đoàn thể nhân dân có thể phối hợp một số hoạt động nhanh ở cơ sở như
phong trào vì an ninh Tổ quốc, giáo dục những đối tượng chậm tiến và bình chọn các cá
nhân, gia đình có nhiều thành tích trong các phong trào trên đề nghị các cấp khen
thưởng, động viên con em tới trường, các hoạt động từ thiện…
Chỉ trên cơ sở tăng cường chất lượng phối hợp công tác vận động quần chúng
giáo dân của các tổ chức, cơ quan đoàn thể nhân dân ở cơ sở dưới sự lãnh đạo của cấp
ủy Đảng mới làm tròn nhiệm vụ công tác vận động giáo dân, động viên phát huy tinh
thần tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho sự
nghiệp đổi mới, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, văn hoá … ở địa phương.
- Phối hợp các hoạt động tôn giáo lành mạnh với hoạt động của Nhà nước, các
đoàn thể nhân dân để làm công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo.
Quần chúng tín đồ Công giáo ở địa phương chịu sự ảnh hưởng rất lớn của hàng
ngũ chức sắc Công giáo – cụ thể là các Linh mục, các thành viên trong ban hành giáo.
Họ quản lý quần chúng giáo dân bằng những quy định của giáo lý, giáo luật và quy định
của các hội đoàn Công giáo, do đó quần chúng giáo dân ít có cơ hội tham gia các hoạt
động của các đoàn thể, tổ chức của Linh mục. Vì vậy các tổ chức cơ sở ở địa phương,
nhất là những người trực tiếp làm công tác tôn giáo vận cần chủ động tiếp xúc, tạo sự
hiểu biết và đồng tình ủng hộ của hàng ngũ chức sắc tôn giáo – nhất là các Linh mục
trẻ. Trong những nội dung và điều kiện cho phép, các tổ chức cơ sở cần tranh thủ sự
phối hợp với họ để tổ chức, phát động một số nội dung hoạt động có tính tương đồng có
lợi cho phong trào hành động cách mạng ở địa phương. Ví dụ như: Hoạt động từ thiện,
đó là hoạt động giúp đỡ người bị khó khăn, hoạn nạn, công việc này hoàn toàn phù hợp
với giáo lý đạo Công giáo: “Yêu người như mình”. Hầu như không có cơ sở tôn giáo,
dòng tu nào không chăm lo hoạt động từ thiện, thậm chí nó được coi như nhiệm vụ
“chuyên biệt”. Các hình thức từ thiện cũng hết sức phong phú, đa dạng như: nuôi trẻ mồ
côi, mở lớp dạy nghề, ôn văn hoá miễn phí, khám chữa bệnh miễn phí, xây dựng nhà
tình nghĩa, lập quỹ xoá đói giảm nghèo v.v… Những ngày lễ lớn, ngày chúa giáng sinh
25-12.v.v… có thể phối hợp chặt chẽ giữa giáo hội, chính quỳen, các đoàn thể nhân dân
để tổ chức, đảm bảo an ninh trật tự, tổ chức dịch vụ và các hình thức vui chơi giải trí
phù hợp, tổ chức sinh hoạt văn nghệ, giao hữu bóng chuyền, bóng đá, cờ tướng, cầu
lông v.v… Có như vậy mới đảm bảo cho quần chúng thực sự yên tâm lo việc tín
ngưỡng, lo việc sản xuất, cải thiện và nâng cao đời sống của mình và đóng góp cho xã
hội.
2.2.2. Phát triển kinh tế – xã hội – văn hoá , không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho quần chúng tín đồ Công giáo.
Phát triển kinh tế – xã hội – văn hoá không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho quần chúng giáo dân ở Kom Tum là một đòi hỏi khách quan; đồng thời
cũng là biện pháp nhằm từng bước xây dựng “Thiên đường” trên trần thế, làm cho giáo
dân thực sự tin tưởng vào Đảng, Nhà nước – người đã đem lại hạnh phúc, ấm no thật sự
cho họ.
Là địa bàn miền núi cao nguyên, chủ yếu sản xuất nông nghiệp, giáo dân lao
động họ là người cần cù chịu khó, “ mặt nắng hai sương”. Song, do điều kiện sản xuất
lạc hậu, chậm tiếp cận với khoa học kỹ thuật, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự
cấp tự túc. Sự phân công lao động còn hạn hẹp, năng xuất lao động thấp, đời sống vật
chất và văn hoá của họ còn rất nghèo và lạc hậu. Tình trạng đói nghèo triền miên và họ
cho rằng giàu nghèo là do trời đất, sướng hay khổ là do số phận. Mấy năm gần đây đời
sống của họ tuy có cải thiện nhưng chưa được bao nhiêu. Vì vậy, cùng với mê tín trên
giáo sẵn có kết hợp với đời sống vật chất và văn hoá còn nghèo nàn, làm cho họ
“hướng” vào Chúa và định mệnh. Cho nên, cùng với việc nâng cao trình độ dân trí tất
yếu phải khuyến khích quần chúng có đạo hăng hái sản xuất, nhằm nâng cao đời sống
vật chất và văn hoá cho họ. Từ nội dung Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI và
thực tiễn của giáo dân Kom Tum, cần tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau:
- Để đưa năng suất lao động trong nông nghiệp vùng Công giáo, ngoài chính
sách đầu tư vốn của Nhà nước cho hộ xã viên trong sản xuất cần hướng dẫn, đào tạo,
tạo điều kiện cho giáo dân tiếp cận, ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất.
Chú ý đưa những cây con mới có năng suất cao, chống được sâu bệnh, dịch bệnh.
Hướng dẫn cho nông dân xử dụng có hiệu quả các loại phân bón, thuốc trừ sâu, tạo năng
suất thâm canh lúa màu. Xử dụng máy móc phục vụ nông nghiệp nhằm giải phóng sức
lao động cơ bắp của người nông dân, đồng thời hạ giá thành trong chi phí sản xuất. Qua
ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật, một mặt tăng năng suất cây trồng, vật
nuôi, nâng cao đời sống vật chất, mức sống nông dan có đạo. Mặt khác, thông qua đó
nâng cao nhận thức mới và có niềm tin vào khoa học kỹ thuật, khắc phục dần những mê
tín, định kiến tôn giáo, xây dựng lòng tin ở chính mình.
- Phát huy thế mạnh khu vữc sản xuất hàng hoá làm cho nông thôn vùng Công
giáo sầm uất về kinh tế, khang trang về văn hoá; việc phát triển kinh tế hộ gia đình nông
dân với mô hình hợp tác xã kiểu mới có tác dụng xóa bỏ được nghèo nàn lạc hậu làm
thay đổi bộ mặt kinh tế, văn hoá từng gia đình. Đồng thời làm cho vùng lương và giáo
hoà nhập trong phát triển kinh tế, phá vỡ những “vành đai” và sự mặc cảm của giáo dân
và sự ràng buộc của Giáo hội đã xây dựng lên hàng thế kỷ qua. Với việc phát triển kinh
tế hộ gia đình và xây dựng gia đình văn hoá mới chúng ta sẽ từng bước phá vỡ được chủ
trương “Người người giữ đạo, nhà nhà giữ đạo” của Giáo hội Kon Tum. Với nhiều biện
pháp chủ động tích cực chúng ta đã làm theo đúng lời chỉ dẫn của V.I.Lê nin: “Từ hoạt
động thực tế dùng mọi cách để làm cho họ hứng thú, kéo họ ra khỏi sự mê muội tôn
giáo, thức tỉnh từ mọi phía và bằng đủ mọi phương pháp” (V.I. Lê nin toàn tập – tiến
bộ. M. tập 45 trang 31 – 32).
- Chú ý giáo dân người dân tộc thiểu số ở những xã vùng sâu vùng xa có trình
độ văn hoá rất thấp, họ không biết cách làm ăn kinh tế, không hiểu biết về khoa học kỹ
thuật và áp dụng nó vào sản xuất. Bởi vậy, trước mắt phải dạy cho họ biết làm ruộng,
thâm canh tăng năng suất cây trồng vì một số nơi đồng bào có tập quán không bón phân
chuồng cho cây trồng, trong khí đó phân để tràn trong làng bản gây ô nhiễm môi trường
và dạy cho đồng bào biết chăn nuôi hợp lý, hướng dẫn cho họ hợp tác với nhau trong
sản xuất, đồng thời phát triển các ngành nghề phụ như nghề dệt thổ cẩm để tăng thu
nhập và giữ gìn bản sắc dân tộc. Các hình thức đào tạo phải thật cụ thể, chi tiết, chỉ dẫn
tận tay và thông qua các mô hình làm ăn giỏi, thông qua các chương trình trình diễn để
đồng bào mắt thấy, tai nghe lúc đó họ mới thấy được hiệu quả kinh tế và khi có vốn họ
sẽ tự vươn lên xoá đói giảm nghèo. Thực tế ở Kon Tum, đồng bào giáo dân người dân
tộc thiểu số sản xuất chủ yếu dùng các loại giống cây, con là giống cũ chưa được cải tạo
(nhiều xã có đông giáo dân còn sản xuất giống lúa địa phương mà trong kháng chiến
thường gọi là gạo “bọc thép”) năng xuất cây trồng vật nuôi rất thấp và chất lượng sản
phẩm không cao. Để tăng năng suất cây trồng vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp, song
song với việc cho vay vốn và hướng dẫn kỹ thuật thì phải hỗ trợ đồng bào về vật tư,
giống cây trồng vật nuôi, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và thuốc thú y. Đồng thời
hướng dẫn họ quy trình sản xuất cây con cho năng suất cao.
- Vốn để phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng cho vùng đồng bào, các dân tộc
nói chung giáo dân người dân tộc thiêu số nói riêng là rất quan trọng, nhất là mạng lưới
giao thông. Tỉnh Kon Tum hiện tại chất lượng đường xá quá kém, nhiều xã còn chưa có
đường ô tô đi vào, hoặc có nhưng chỉ thông xe được mùa khô, mùa mưa hầu như tách
biệt với thị trấn. Do vậy sản phẩm nông nghiệp do đồng bào dân tộc làm ra không bán
được cho ai hoặc có bán được thì giá cả cũng rất thấp do chi phí bảo quản và lưu thông
sản phẩm và các loại vật tư phục vụ sản xuất quá cao, đầu vào cho sản xuất cao nhưng
đầu ra của sản phẩm lại thấp nên sản xuất nông nghiệp ở những vùng đồng bào dân tộc
thường lỗ vốn. Bên cạnh đó người mua nông sản là tư thương, số lượng người mua ít do
vậy họ thi nhau ép giá đối với đồng bào dân tộc, cá biệt một số tư thương còn dở các thủ
đoạn lừa bịp đồng bào. Nên sản phẩm nông nghiệp bán ra không được bao nhiêu. Như
vậy giao thông là vấn đề quan trọng thúc đẩy kinh tế ở nông thôn, bản làng muốn phát
triển kinh tế, giao thông phải đi trước một bước, Kon Tum phải thông xe hai mùa mưa
nắng đến tận làng bản. Đồng bào giáo dân ởKon Tum sản xuất nông nghiệp chủ yếu là
cây lúa rẫy, cây mì (sắn) và sản xuất mang tính chất tự cung tự cấp, thực hiưện khép kín
từ khâu sản xuất- đến tiêu thụ chỉ cho gia đình. Do vậy phải kích thích sản xuất hàng
hoá, xóa bỏ kiểu kinh tế tự cung tự cấp, chuyển đổi vật nuôi cây trồng; chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phá thế độc canh cây lúa rẫy, đưa kinh tế thị trường “xuyên qua luỹ tre làng
bản” để phát triển sản xuất hàng hóa, áp dụng giống mới có năng xuất cao, cải tạo các
giống cũ mà đồng bào thường dùng trong sản xuất, phát huy vai trò của Già làng,
Trưởng bản trong việc xoá đói giảm nghèo, trong những năm qua, qua các giai đoạn
cách mạng, các già làng, trưởng bản có vai trò hết sức quan trọng trong việc động viên
bà con trong bản tham gia kháng chiến. Già làng là những người có uy tín nhất, mọi
việc nếu được Già làng chấp thuận thì nhân dân nghe theo. Từng buôn làng, các cụ là
những tấm gương sáng cho mọi người noi theo, nếu các cụ tích cực thực hiện xoá đói
giảm nghèo, định canh định cư, tách hộ lập vườn, bài trừ các tập tục lạc hậu, ma chay
cúng bái, cưới hỏi lãng phí, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Già làng đóng vai trò
hết sức quan trọng nếu chúng ta tranh thủ, lôi kéo được Già làng thì sẽ rất thuận lợi cho
việc xoá bỏ kiểu làm ăn tự cung tự cấp, chuyển sang sản xuất hàng hoá.k
Thế mạnh của KonTum là rừng, chăn nuôi đại gia súc và cây công nghiệp như
cao su, cà phê, mía. Do vậy cần phải quy hoạch từng vùng cụ thể cho từng vùng một,
vùng nào phát triển cây, con gì cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng ở vùng
đó. Hình thành các trang trqị phát triển sản xuất hàng hoá, gắn việc giao đất khoán rừng,
định canh định cư với xoá đối giảm nghèo. Qua khảo sát, mô hình kinh tế trang trại rất
thích hợp với KonTum do có điều kiện về đất đai, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở KonTum, các
chủ trang trại thường sản xuất một số sản phẩm hoặc sản xuất kinh doanh tổng hợp loại
vừa. Kinh tế trang trại có ưu điểm là tận dụng được đất đai, xử dụng tốt các lao động
trong gia đình và lao động xã hội, các chủ trang trại biết phát huy ý thức tự lực tự cường
tạo vốn băng nhiều hình thức, họ hạn chế việc vay vốn từ bên ngoài, họ hết sức tiết
kiệm trong mua sắm các tiện nghi sinh hoạt để tập trùng vốn cho sản xuất kinh doanh.
Kinh tế trang trại là mô hình cần phát triển để cho đồng bào thoát khỏi nghèo đói. Kinh
tế trang trại rất thích hợp cho việc phát triển sản xuất hàng hoá nông sản ở KonTum.
Nhưng thực tế ở KonTum đồng bào chưa ý thức được về hiệu quả của kinh tế trang trại.
Do vậy phải hướng dẫn đồng bào kinh tế trang trại, đây là xu hướng tiến bộ và tất yếu
phân công lao động nông nghiệp trong nông nghiệp trong qúa trình công nghiệp hoá,
hiện đại hóa ở KonTum.
Để phát triển bền vững phải phát triển mạnh giáo dục, tăng trình độ văn hoá,
trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc nói chung, giáo dân dân tộc nói riêng. Đây là một
giải pháp vừa cấp bách vừa lâu dài, vì đồng bào dân tộc ở KonTum có trình độ văn hoá,
trình độ dân trí thấp. Do vậy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, sử dụng các giống mới rất khó khăn, các chủ trương chính
sách về giao khoán rừng, định canh định cư, dân số – kế hoạch hoá gia đình… đều rất
khó triển khai và thực hiện ở vùn đồng bào các dân tộc. Song song với các biện pháp
trên thì cần phải phát triển mạnh giáo dục, nâng cao trình độ dân trí. Đây chính là điều
kiện để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa vùng đồng bào dân tộc tỉnh KonTum.
Thực tế trong những năm qua có gia đình đã được vay vốn nhưng họ không biết cách
làm ăn, không biết sản xuất như thế nào, không biết sử dụng giống cây gì, con gì nên
không có hiệu quả kinh tế, do đó làm giảm lòng tin của họ. Họ sẽ không có chí hướng
vươn lên để thoát nghèo. Đồng thời cũng do trình độ dân trí thấp nên các tục lệ lạc hậu,
ma chay, mê tín dị đoan vẫn còn phổ biến ở vùng đồng bào, các hoạt động tôn giáo lại
phát triển mạnh ở các vùng sâu vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ của ta, họ đã đi
đến tôn giáo một cách khôn ý thức, các chi phí cho các hoạt động tôn giáo càng tốn kém
và làm họ ngày càng nghèo đi.
Trước mắt trong những năm tới phải xoá nạn mù chữ và chống tái mù chữ, phổ
cập tiểu học cho đồng bào dân tộc để dần dần nâng cao trình độ dân trí đáp ứng với qúa
trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở địa phương, phải có chính sách khuyến học cho
đồng bào dân tộc, phát triển mạnh hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú.
Thực hiện những điều kiện trên đây là góp phần quyết định xây dựng thành
công “Thiên Đàng” trong hiện thực, và do đó quần chúng sẽ không cần đến Thiên Đàng
trong hư ảo.
2.2.4. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng
tín đồ Công giáo và tăng cường công tác cán bộ ở vùng Công giáo, xây dựng lực
lượng chính trị trong quần chúng tín đồ.
Thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo còn thiếu và yếu, không đáp
ứng đòi hỏi của thực tiễn.
Thực tế có một số cơ sở ở địa phương, cán bộ làm công tác vận động quần
chúng giáo dân, lại nằm không chắc chủ trương, chính sách của Đảng về tôn giáo, nhất
là những chủ trương chính sách, quy định hướng dẫn mới ban hành. Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến việc làm sai, những hành vi vi phạm chính sách của Đảng,
Pháp luật của nhà nước đốivới tự do tín ngưỡng. Không thể có kết quả tốt trong cuộc
vận động quần chúng tín đồ Công giáo khi đội ngũ cán bộ không có khát vọng tự vươn
lên, không có năng lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến cán bộ nói chung,
trong đó có đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng. Người cho rằng: “Cán
bộ là cái gốc cảu mọi việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.* Chính vì lẽ đó, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần
chúng tín đồ Công giáo và tăng cường công tác cán bộ ở vùng đạo Công giáo là rất cần
thiết và cần phải làm ngay.
Cán bộ làm công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo hiện nay, phải là
người vững vàng về chính trị, tư tưởng, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và
Pháp luật của Nhà nước, phải là những cán bộ có bản lĩnh và tính thích ứng cao để hoạt
động có hiệu quả trong môi trường của quần chúng theo đạo. Họ là những người thấm
nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
trương chính sách của Đảng ta về tôn giáo. Trung thành với mục tiêu của Tổ quốc và
dân tộc nhưng lại có thể sống hoà hợp gắn bó trong môi trường Công giáo. Bởi vậy, họ
phải được bồi dưỡng, đào tạo công phu, đào tạo mang tính chất chuyên sâu cán bộ công * (Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 269 – 240).
tác tôn giáo vận, phải được lựa chọn và chăm sóc chu đáo, trong qúa trình lựa chọn cán
bộ cần gắn với qúa trình bồi dưỡng và đào tạo. Đội ngũ cán bộ làm công tác vận động
quần chúng giáo dân không chỉ được bồi dưỡng về kỹ năng vận động quần chúng mà
còn phải học tập để nâng cao trình độ mọi mặt – cần học văn hoá, chính trị, kỹ thuật,
học lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với lăn lộn trong
thực tiễn phong trào quần chúng. Nói cách khác, cán bộ làm công tác tôn giáo vận phải
chịu khó học tập và qua nhiều hình thức đào tạo – học trong thực tiễn, học trong sách
báo, học qua trường lớp của Đảng, của Đoàn …
Đi đôi với việc nâng cao trình độ, năng lực hoạt động thực tiễn, cán bộ làm
công tác tôn giáo vận vùng Công giáo cần phải có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo
đức, nhiệt tình xông xáo, gương mẫu về mọi mặt để thực sự là “thủ lĩnh” chính trị trong
phong trào quần chúng. Còn dặn đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác vận
động quần chúng nói riêng, Bác Hồ nói: “Cán bộ muốn cho xứng đáng, phải làm được
việc.
Muốn làm được việc, thì phải được dân tin, dân phục, dân yêu.
Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu cán bộ phải tự mình làm đúng đời sống mới, nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm trong sạch, chính đáng” * Hiện nay các cơ sở
vùng Công giáo ở KonTum vẫn còn tình trạng cán bộ xa rời với quần chúng, làm việc
theo phong cách hành chính,giấy tờ mệnh lệnh, như Bác Hồ nói: “Họ con “Các quan lắm!” *. Do đó, nâng cao năng lực công tác, nâng cao trình độ về mọi mặt và phẩm chất
cho đội ngũ các bộ chủ chốt ở các cơ sở vùng Công giáo ở địa phương là đòi hỏi cần
thiết hiện nay.
Một trong những vấn đề hết sức quan tâm đối với đội ngũ cán bộ ở các cơ sở
vùng Công giáo ở KonTum hiện nay là chính sách đãi ngộ, sử dụng. Hầu hết cán bộ ở
các cơ sở vùng Công giáo không có chế độ phụ cấp, việc bố trí công tác tôn giáo còn
nhiều bất cập. Đó cũng là nguyên nhân làm cho đội ngũ cán bộ ở các cơ sở thiếu phấn
khởi và không yên tâm công tác. Một số cán bộ phải kiêm nhiệm các chức danh, công * (Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 208). * (Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 208).
việc khác nên không có thời gian đầu tư thích đáng trong công tác quần chúng. Vấn đề
này các cấp ủy Đảng, Chính quyền cần quan tâm giải quyết. “Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên hệ thống chính trị trong công tác cán bộ” * Điều này, đòi hỏi các cơ sở
cần chủ động tham mưu đề xuất với cấp ủy Đảng, Chính quyền. Nên chăng cấp ủy
Đảng, Chính quyền các huyện có những giải pháp đồng bộ về chính sách đãi ngộ cho
đội ngũ cán bộ cơ sở. Nếu hiện nay chưa thể giải quyết đồng bộ trong phạm vi toàn tỉnh,
thì chí ít trong vùng Công giáo cần được giải quyết ngay. Không nên để tình trạng là nơi
có, nơi không; chế độ không đồng đều ngay trong phạm vi một huyện, tạo nên sự bất
bình đẳng trong đội ngũ cán bộ cơ sở.
Xây dựng nòng cốt chính trị trong quần chúng tín đồ, thông qua các phong trào
hành động cách mạng tại địa phương để xây dựng lực lượng cốt cán, cơ sở chính trị
trong quần chúng có đạo. ở những địa bàn trọng điểm, có đông giáo dân phải bồi dưỡng
cất nhắc những giáo dân tiêu biểu giữ các cương vị trong các đoàn thể để xua đi mặc
cảm tự ti, để giáo dân hoà với cộng đồng. Qua phong trào mà tuyển chọn những giáo
dân xuất sắc để phát triển Đảng. Chính họ là lực lượng cốt cán của vùng giáo. Họ sẽ là
người chủ yếu tham gia vận động, thuyết phục lôi kéo những người chậm tiến, lạc hậu.
Khi vùng giáo “có vấn đề” họ sẽ là chỗ dựa cho công tác đấu tranh. Người đồng đạo,
người trong cuộc bao giờ cũng dễ dàng nói chuyện với nhau hơn. Cần chú ý xây dựng
lực lượng cốt cán là các già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, giáo viên, học sinh…
theo đạo.
Vùng có đông giáo dân cần mạnh dạn đưa những đảng viên là giáo dân vào
trong cấp ủy Đảng để họ được phát huy khả năng lãnh đạo, để trong Đảng có tiếng nói
đại biểu cho tôn giáo vốn có lập trường chính trị phức tạp.
Là Đảng viên đồng thời họ còn là tín đồ, vì vậy cần phải tạo điều kiện cho Đảng
viên là giáo dân thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Nếu không những đảng viên này sẽ bị vợ
con, họ hàng xa lánh, họ trở nên cô lập giữa cộng đoàn và sẽ không còn tác dụng. Đây
là một vấn đề lớn có liên quan đến lý luận cũng như điều lệ của Đảng Cộng sản Việt
* (Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, trang 145).
Nam. Trong điều kiện đổi mới, từ Trung ương Đảng đến cấp ủy Đảng cơ sở cần phải có
cách nhìn mớivề vấn đề này. Bởi vì do cách thực hiện cứng nhắc mà thời gian qua cơ sở
Đảng kết nạp được rất ít Đảng viên là tín đồ Công giáo.
Đảng viên là tín đồ Công giáo cần được quan tâm bồi dưỡng về quan điểm, lập
trường, đặc biệt là về đường lối, chính sách tôn giáo để trước hết quán triệt cho họ, sau
đó họ sẽ là nòng cốt tuyên truyền, vận động và đấu tranh với nưnữg việc làm sai trái.
Đảng viên là tín đồ Công giáo còn phải được quan tâm về đời sống vật chất, giúp họ
làm kinh tế giỏi để từ đó họ là tấm gương sáng giữa những người đồng đạo.
Thực tế cho thấy những vùng có đông giáo dân, có tình hình phức tạp nếu ở đó
có được một lực lượng đảng viên là tín đồ Công giáo đủ mạnh thì phong trào phát triển
tốt. Ngược lại, nếu ở đó có lực lượng đảng viên là tín đồ Công giáo yếu kém thì ở đó
phong trào không phát triển, thậm chí bị kẻ địch lợi dụng, lôi kéo giáo dân và cả đảng
viên gốc giáo thực hiện mưu đè chính trị điển hình như: ở KonTum và các tỉnh lân cận
như Gia Lai, Đắc Lắc vừa qua, kẻ xấu lợi dụng kích độngu quần chúng tín đồ, lôi kéo cả
đảng viên gốc giáo là đại biểu Hội đồng nhân dân xã, là thôn trưởng, thôn phó tham gia
biểu tình chống lại chính quyền địa phương giáo hội cơ sở. Ban hành giáo hoặc Hội
đồng giáo xứ, họ đạo này là những giáo dân – công dân tiêu biểu trở thành nòng cốt
trong các phong trào nhằm vào mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt nhiều người
trong Ban hành giáo, họ đạo đã tham gia vào việc đấu tranh, ngăn chặn với những việc
làm sai trái của giáo hội, giữ vững an ninh chính trị vùng giáo.
Nhận thức được vai trò, vị trí của tổ chức giáo hội cơ sở, giáo hội Công giáo đã
kiên trì đưa người của họ vào nắm các cương vị chủ chốt, từ đó đưa họ ra yêu sách,
khiếu kiện, thậm chí đấu tranh với chính quyền. Vì vậy, việc xây dựng cơ sở chính trị
vùng giáo cần phải tập trung trí tuệ cũng như kinh phí cho việc cải tạo, xây dựng giáo
hội cơ sở. Cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở cần phải tuyển lựa, khéo léo đưa những giáo
dân tiêu biểu, có tinh thần trách nhiệm công dân vào Hội đồng giáo xứ (hoặc nắm các
chức vụ Chánh trưởng, Trùm trưởng xứ, họ đạo).
Trong hoạt động gắn đạo với đời ở một số nơi giáo dân vừa tham gia vào Hội
đồng giáo xứ vừa là những người giữ chức vụ tổ trưởng (hoặc phó) tổ dân phố, thôn
trưởng (phó) hoặc xóm trưởng (phó), tham gia vào ban lãnh đạo các tổ chức đoàn thể
như Hội Cựu Chiến binh, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ. Như vậy, chúng ta sẽ
tạo cho họ vừa có chỗ đứng, tiếng nói trong tôn giáo (đạo) lại có chỗ đứng, tiếng nói
trong tổ chức chính quyền (đời) để họ có cơ hội phát huy tác dụng.
Cải toạ giáo hội cơ sở còn phải cải tạo hội Đoàn Công giáo. Như phần trên đã
trình bày, hội đoàn Công giáo có lịch sử phát triển rất phức tạp. Hội đoàn Công giáo
luôn bị các thế lực xấu lợi dụng. Vì vậy, cải tạo hội đoàn Công giáo là một việc làm vừa
mang tính cấp thời vừa mang tính lâu dài. Trước mắt, không để các hội đoàn mới thành
lập, giữ nguyên hiện trạng các hội đoàn cũ. Cần đưa những nội dung chính trị – xã hội –
văn hoá vào trong các buổi sinh hoạt của hội đoàn như: Sinh đẻ có kế hoạch; Xóa đói
giảm nghèo; Giúp nhau làm kinh tế giỏi; Nuôi con Khoẻ, dạy con ngoan… Về lâu dài
chỉ giữ lại một số hình thức phục vụ cho nghi lễ tôn giáo như đàn, hát, trống, kèn, các
hội đoàn khác phải được giải tán. Cải tạo tiến tơí xoá bỏ hội đoàn Công giáo cần phải
được làm thận trọng, từng bước, biện pháp là khéo léo, mềm dẻo, cần hết sức tránh làm
thô bạo, gây phản ứng bất bình của tín đồ. Tranh thủ, thuyết phục hàng giáo phẩm nhất
là linh mục chính xứ: Linh mục chính xứ có vai trò, vị trí rất to lớn trong xứ, họ đạo.
Vận động, thuyết phục linh mục chính xứ để họ tham gia vào các hoạt động xã hội là
hết sức cần thiết. Công tác vận động, thuyết phục cần phải làm kiên trì, khéo léo, khơi
dậy lòng tự hào dân tộc, trách nhiệm công dân của linh mục. Những linh mục có hành vi
chống lại chính quyền một mặt chúng ta phải đấu tranh, vạch trần, mặt khác vẫn phải
kiên trì giáo dục, thuyết phục họ.
2.2.5. Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, tạo những
điều kiện thuận lợi để công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo có hiệu quả
ở các vùng dân tộc trong một địa phương đa dân tộc, đa tôn giáo như tỉnh
KonTum.
Duy trì phong trào yêu nước của đồng bào Công giáo và phát huy các nhân tố
tích cực trong phong trào yêu nước của đồng bào. Không ngừng tạodk cho đồng bào
tiến bộ về mọi mặt, ngay cả trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo. Tích cực tạo điều kiện
cho đồng bào phát triển kinh tế và văn hoá, nâng cao ý thức, trình độ và bản lĩnh làm
chủ, giúp đỡ đồng bào ngay trong thực hành sinh hoạt tôn giáo cũng ngày càng tiến bộ
hơn, xoá bỏ những hủ tục, mê tín ở vùng đồng bào các dân tộc ít người. Nhà nước phải
hỗ trợ cho hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, đặc biệtu về kinh phí để cán
bộ đi vào các vùng dân tộc đang bị bọn xấu lợi dụng, kích động lôi kéo tôn giáo để
tuyên truyền, giải thích cho họ thấy rõ bộ mặt thật của bọn phản động đội lốt Công giáo.
Giải quyết mâu thuẫn giữa các dân tộc, giữa người theo đạo và không theo
đạo: Đây là vấn đề không chỉ riêng ở KonTum mà cả nước, cả thế giới lo ngại. Có hai
loại phát sinh mâu thuẫn, một là do xích mích trong quan hệ hàng xóm, cộng đồng hay
ganh đua trong làm ăn kinh tế, hai là do kẻ thù bên ngoài kích động tâm lý tự ty dân tộc,
đòi ly khai tự trị. Xung đột dân tộc ở đây đồng nghĩa với sự bài người kinh để giành lại
đất đai, giành lại quyền lãnh đạo do Fu Lao khởi xướng và hậu thuẫn thực hiện âm mưu
“Diễn biến hoà bình” như đã làm ở Đông Âu trước đây. Đây là thủ đoạn tinh vi, nham
hiểm của kẻ thù chúng ta cần cảnh giác cao. Hậu quả từ sự xung đột này thực tế vừa qua
ở KonTum, Gia Lai, Đắc Lăc cho chúng ta nhiều bàihọc kinh nghiệm vô giá. Do vậy,
chính quyền địa phương cần có sự điều chỉnh về đất đai, quy định rõ việc mua bán,
chuyển nhượng và cần có sự hỗ trợ, trợ giá ưu tiên với đồng bào dân tộc bản địa, tạo
điều kiện cho họ sản xuất làm kinh tế, không thể áp dụng hết mọi chính sách, quy định
của pháp luật hay biện phá chế tài nào cho người dân tộc mà cần có sự cân nhắc, ưu
tiên. Uỷ ban nhân dân tỉnh có kế hoạch điều chỉnh lại chủ trương giãn dân tách hộ lập
vườn, phân bốlại khu vực cư trú của người dân cho hợp lý, vừa đảm bảo điều kiện sinh
sống, vừa gián tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tổ quốc. Như vậy, thực hiện tốt
chính sách dân tộc của Đảng Nhà nước và giải quyết tốt mâu thuẫn giữa các dân tộc
điều đó, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo nói
chung, quần chúng tín đồ Công giáo nói riêng, có hiệu quả hơn.
Kết luận
Nước ta hiện nay đang tiếp tục công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập với khu vực và
thế giới, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh". Điều đó tác động và làm chuyển biến mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời đòi
hỏi công tác vận động quần chúng nói chung, công tác vận động quần chúng tín đồ
Công giáo nói riêng cũng phải tiếp tục đổi mới toàn diện, từ quan điểm đánh giá nhận
thức đến việc đề ra những chính sách cụ thể, nội dung phương thức vận động, tổ chức
phong trào hành động cách mạng của quần chúng, xây dựng các tổ chức quần chúng...
nhằm phát huy đầy đủ tiềm năng to lớn của quần chúng, đồng thời giải quyết những vấn
đề xã hội, cấp bách của quần chúng do công cuộc đổi mới và phát triển đất nước đặt ra.
Điều đó cũng khẳng định rằng, công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo của các
tổ chức cơ sở ở Kon Tum đang đặt ra những yêu cầu mới, chất lượng mới, tầm cao mới.
Đạo Công giáo ở Kon Tum là một tôn giáo lớn nhất trong tỉnh, trong đó vấn đề
tôn giáo lại quyện chặt với vấn đề dân tộc. Suốt hai cuộc kháng chiến, đông đảo quần
chúng yêu nước đã đi theo cách mạng, theo Đảng và đã góp phần vào cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ xây dựng đất nước hiện nay, quần chúng tín đồ Công
giáo vẫn là lực lượng có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong địa bàn dân cư. Đồng thời, cùng với
vấn đề dân tộc họ cũng đang là đối tượng mà các thế lực thù địch luôn triệt để tìm cách
lợi dụng, thực hiện chiến lược "Diễn biến hòa bình" để chống phá công cuộc đổi mới,
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Giương lên ngọn cờ dân tộc và tôn giáo kích động
tâm lý dân tộc, đòi ly khai tự trị để chúng biến Việt Nam thành một Cô-Sô-Vô thứ hai ở
Đông Nam á trong kế hoạch của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Với chính
sách thêm bạn bớt thù, chúng ta chủ động mở cửa hòa nhập với thế giới, làm bạn với tất
cả các dân tộc, lợi dụng vấn đề này một số đối tượng truyền đạo kể cả trong và ngoài
nước len lỏi đến các vùng sâu, vùng xa, tuyên truyền lôi kéo quần chúng vào đạo, biến
họ thành lực lượng đối trọng ngay trong lòng đất nước, tạo nên mâu thuẫn xã hội bên
trong và tách họ ra khỏi Đảng cộng sản. Do vậy, công tác vận động quần chúng tín đồ
Công giáo ở Kon Tum là một công tác vô cùng quan trọng, nó tác động sâu sắc đến quá
trình phát triển phong trào cách mạng của quần chúng tại địa phương.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị về "Tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới" và thực hiện Nghị định 69/HĐBT của Hội
đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ), công tác vận động quần chúng tín đồ tôn Công giáo
nói riêng, bước đầu đã có nhiều chuyển biến.
Trước hết phải nói đến đội ngũ cán bộ của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt
trận và các Đoàn thể đã có được những tiến bộ mới trong nhân thức về tôn giáo và công
tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo, từ nhận thức đó qua hoạt động thực tiễn
công tác vận động quần chúng giáo dân đã tạo nên sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức
tư tưởng trong quần chúng giáo dân; thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; đã hạn chế được các mặt tiêu cực đồng thời phát huy những
mặt tích cực của họ thúc đẩy quần chúng giáo dân theo đạo Công giáo tham gia tích cực
vào các phong trào hành động cách mạng của địa phương.
Song, chất lượng của phong trào, hiệu quả của công tác vận động quần chúng
tín đồ Công giáo chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao và những vấn đề bức xúc đặt
ra cần được quan tâm giải quyết. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ ở các tổ chức cơ sở địa
phương còn nhiều yếu kém; trong nhận thức còn chưa am hiểu về tôn giáo; chưa nắm
được những quan điểm, chính sách và chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước về
vấn đề tôn giáo. Chính từ đó đã nảy sinh ra những cách làm, những phương pháp xử lý
trong quá trình vận động quần chúng giáo dân còn nhiều lúng túng, lúc tả, lúc hữu, nhất
là thiếu cương quyết và nhạy bén trong đấu tranh với kẻ thù lợi dụng tôn giáo để chống
phá cách mạng. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương còn chưa quan tâm tới việc
đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và tôn giáo vận, việc xây dựng
lực lượng cốt cán giáo còn chưa được quan tâm đầu tư và chỉ đạo chặt chẽ. Việc nắm
tình hình, tổ chức tập hợp và xây dựng phong trào quần chúng Công giáo chưa được
Mặt trận và các đoàn thể coi trọng. Tất cả những điều trên, gây nên hậu quả tiêu cực
trong xã hội và làm giảm sút niềm tin của quần chúng giáo dân vào Đảng, vào chế độ.
Để nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo trong
tình hình mới, đưa quần chúng giáo dân tham gia vào các hoạt động phong trào hành
động cách mạng ở địa phương. Tác giả luận văn đã đề xuất một số phương hướng và
giải pháp chủ yếu. Trước hết, về phương hướng: Đổi mới nhận thức về tôn giáo, quán
triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công
tác tôn giáo trong tình hình hiện nay; phân công và phối hợp thống nhất hành động giữa
các ngành, các cấp trong việc vận động quần chúng tín đồ Công giáo; Chú ý mối quan
hệ giữa vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc. Tăng cường đầu tư phát triển kinh tế vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; đổi mới nội dung, phương thức
công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo. Thứ hai, về giải pháp: Đẩy mạnh tuyên
truyền giáo dục cho quần chúng tín đồ Công giáo; phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ
thống chính trị tỉnh để làm công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo; phát triển
kinh tế - xã hội - văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
quần chúng tín đồ Công giáo; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác vận động
quần chúng tín đồ Công giáo và tăng cường công tác cán bộ ở vùng Công giáo, xây
dựng lực lượng chính trị trong quần chúng tín đồ; thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng, Nhà nước, tạo những điều kiện thuận lợi để công tác vận động quần chúng tín đồ
Công giáo có hiệu quả. Một hệ thống phương hướng và giải pháp góp phần củng cố và
phát huy hơn nữa sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; xây dựng niềm tin vào sự
nghiệp đổi mới, huy động được đông đảo quần chúng, giáo dân vào sự nghiệp "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh", qua đó thể hiện được ước
nguyện sống "tốt đời, đẹp đạo" của đông đảo quần chúng giáo dân ở Kon Tum.
Những kết quả đạt được trong luận văn chỉ là bước đầu. Do đó, tác giả còn phải
cố gắng để tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hơn nữa nhận thức của mình về các vấn đề có
liên quan đến đề tài này.